THÁNH LỄ TRỰC TUYẾN

BÀI VIẾT MỚI

THÁNH TÊRÊSA BÊNÊĐICTA THÁNH GIÁ, NỮ TU DÒNG KÍN OCD, TỬ ĐẠO



 

Ngày 9 tháng 8 - THÁNH TÊRÊSA BÊNÊĐICTA THÁNH GIÁ, NỮ TU DÒNG KÍN OCD, TỬ ĐẠO

I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ

Thánh Têrêxa Bênêđicta Thánh Giá sinh năm 1891 tại Breslau, Đức, với tên khai sinh là Édith Stein. Chị xuất thân trong một gia đình Do Thái giàu có. Dù là một triết gia tài năng và giáo sư Triết học, nhưng từ năm 14 tuổi, chị đã từ bỏ niềm tin truyền thống vào Thiên Chúa của Đạo Do Thái.

Khi học tại Đại học Göttingen, chị bị thu hút bởi hiện tượng học, một phương pháp tiếp cận triết học, và được Edmund Husserl, một triết gia hàng đầu về hiện tượng học, bảo trợ. Chị nhận bằng tiến sĩ Triết học vào năm 1916 và tiếp tục làm giáo sư cho đến năm 1922, sau đó chuyển sang dạy tại trường của các Cha Đa Minh ở Speyer. Cuối cùng, chị được bổ nhiệm làm giảng sư tại Viện Giáo dục Munich, nhưng bị buộc phải dừng giảng dạy do áp lực của Đức quốc xã đối với người Do Thái.

Chị bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những người bạn Kitô hữu và đặc biệt là sau khi đọc cuốn Tiểu Sử Tự Thuật của Thánh Nữ Têrêsa Avila. Sau đó, chị tái khám phá con đường tâm linh của mình và xin được rửa tội năm 1922 khi đã 30 tuổi. Năm 1934, chị quyết định đi theo con đường trọn lành của Thánh Têrêsa Avila, từ bỏ mọi thứ để vào Dòng Kín và lấy tên Dòng là Têrêxa Bênêđicta Thánh Giá.

Chị sống tại tu viện Cologne Carmel từ năm 1934 đến 1938, sau đó chuyển sang tu viện ở Echt, Hà Lan, do tình hình thời cuộc. Ngày 2 tháng 8 năm 1942, chị bị mật vụ Đức bắt và bị đưa đến trại tập trung Auschwitz-Birkenau, nơi chị qua đời vào ngày 9 tháng 8 trong phòng hơi ngạt.

Trong tác phẩm “Khoa Học Thập Giá,” chị viết: “Sự nhập thể thực sự của Chúa Kitô được thể hiện nơi người Kitô hữu, cùng với một cuộc phục sinh thực sự, từ cái chết trên thập giá…”

Cuộc đời của chị là minh chứng cho một người sống vì chân lý, tìm thấy chân lý nơi thập giá của Đức Kitô và ôm ấp thập giá ấy cho đến khi tử đạo vì danh Chúa.

Chị được phong chân phước bởi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào ngày 1 tháng 5 năm 1987 tại Cologne, Đức, và được phong hiển thánh vào ngày 11 tháng 10 năm 1998 tại đền thánh Vatican.

II. BÀI HỌC

Bài học quý giá nhất mà Thánh Têrêxa Bênêđicta Thánh Giá để lại là lòng say mê tìm kiếm Chân lý: “Tôi đi tìm Chúa Kitô và Ngài là Chân Lý của đời tôi” (Edith Stein).

Đây không phải là mục đích của một cuộc sống bình thường như nhiều người, mà là khát vọng của một triết gia.

Trong lễ phong hiển thánh cho chị tại Quảng trường Thánh Phêrô ngày 11/10/1998, ĐTC Gioan Phaolô II đã nói những lời cảm động:

“Một người nữ trẻ trung tìm kiếm chân lý đã trở thành một vị thánh và vị tử đạo nhờ những việc làm thầm lặng của ân sủng thần linh: đó là Têrêxa Bênêđicta Thánh Giá, vị từ trời nhắc lại cho chúng ta hôm nay tất cả những lời làm nên cuộc sống của chị: ‘Tôi không còn vinh dự gì ngoài Thập Giá của Chúa Giêsu Kitô’.”

“Tình yêu của Chúa Kitô là ngọn lửa thiêu đốt cuộc đời Thánh Têrêxa Bênêđicta Thánh Giá. Ngài dấn thân vào cuộc đời tự do, nhưng trí khôn và lòng khát khao tìm kiếm chân lý của chị đã đưa chị đến với Chúa Kitô. Chị khám phá ra rằng chân lý có một tên gọi: Giêsu Kitô. Từ đó, Lời Nhập Thể trở thành tất cả của chị. Khi nhìn lại, chị đã viết cho một nữ tu Dòng Bênêđicta: ‘Ai tìm kiếm chân lý là tìm kiếm Thiên Chúa, dù ý thức hay vô thức’.”

“Thánh Têrêxa Bênêđicta Thánh Giá hiểu rằng tình yêu của Chúa Kitô và tự do của con người đi đôi với nhau, vì tình yêu và sự thật có mối liên hệ tự bản chất… Chị là chứng nhân cho điều này và nói với chúng ta rằng: Đừng chấp nhận bất cứ điều gì như chân lý nếu nó thiếu yêu thương. Cũng đừng chấp nhận điều gì như yêu thương mà lại thiếu sự thật. Sự thiếu một trong hai điều này là một sự gian dối hủy hoại.”

Tại một trung tâm điều trị, hầu hết các bệnh nhân đều buồn chán vì cảm thấy bị bỏ rơi và xa lánh. Tuy nhiên, có một người đàn ông vẫn giữ được nụ cười và lòng biết ơn khi được giúp đỡ.

Nữ tu chăm sóc trung tâm tò mò muốn biết nguyên nhân và sau nhiều ngày theo dõi, chị phát hiện rằng mỗi ngày có một người phụ nữ đến bên bức tường của trung tâm, nhìn qua một lỗ nhỏ và mỉm cười rất trìu mến.

Người đàn ông giải thích: “Người phụ nữ ấy chính là vợ tôi. Trước khi tôi đến đây, nàng đã làm mọi cách để chăm sóc tôi, luôn tỏ ra vui tươi trìu mến. Khi không thể giữ tôi ở nhà lâu hơn, nàng đã đến đây mỗi ngày, nhìn qua lỗ hổng và mỉm cười với tôi. Nhờ nàng, tôi biết rằng mình còn sống và muốn tiếp tục sống.”

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM

BÀI VIẾT LIÊN QUAN

BÀI VIẾT NỔI BẬT