Toát Yếu
Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo
Bản dịch Việt Ngữ của Ủy Ban Giáo Lý Ðức Tin Hội
Ðồng Giám Mục Việt Nam 2006
Phần I: Tuyên Xưng Ðức Tin
(1-217)
Ðoạn Thứ Nhất: "Tôi Tin
- Chúng Tôi Tin" (1-32)
Chương Một: Con Người
"Có Khả Năng" Ðón Nhận Thiên Chúa (2-5)
Chương Hai: Thiên Chúa Ðến Gặp Con
Người (6-24)
Mạc khải của
Thiên Chúa
Lưu truyền Mạc
khải của Thiên Chúa
Thánh Kinh
Chương Ba: Lời Ðáp Trả Của Con Người
Với Thiên Chúa (25-32)
Tôi Tin
Chúng Tôi Tin
Ðoạn Thứ Hai: Tuyên Xưng Ðức Tin
Kitô Giáo (33-217)
Kinh Tin Kính
Chương Một: Tôi Tin Kính Ðức Chúa
Trời Là Cha (33-78)
Những bản tuyên
xưng đức tin
Trời và Ðất
Con người
Sự Sa Ngã
Chương Hai: Tôi Tin Kính Ðức Chúa
Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa (79-135)
"Tôi Tin
Kính Ðức Chúa Giêsu Kitô, Là Con Một Ðức Chúa Cha, Cùng Là Chúa Chúng Tôi"
"Bởi Phép Ðức
Chúa Thánh Thần Mà Người Xuống Thai Sinh Bởi Bà Maria Ðồng Trinh"
"Ðức Giêsu
Kitô Ðã Chịu Nạn Ðời Quan Phongxiô Philatô, Chịu Ðóng Ðinh Trên Cây Thánh Giá,
Chết Và Táng Xác"
"Ðức Giêsu
Kitô Xuống Ngục Tổ Tông, Ngày Thứ Ba Bởi Trong Kẻ Chết Mà Sống Lại"
"Chúa Giêsu
Lên Trời Ngự Bên Hữu Ðức Chúa Cha Phép Tắc Vô Cùng"
"Ngày Sau Bởi
Trời Lại Xuống Phán Xét Kẻ Sống Và Kẻ Chết"
Chương Ba: "Tôi Tin Kính
Ðức Chúa Thánh Thần" (136-217)
"Tôi Tin Có
Hội Thánh Công Giáo"
Hội thánh Duy nhất,
Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền
Tôi Tin Các
Thánh Thông Công
Ðức Maria: Mẹ Ðức Kitô, Mẹ Hội
thánh
"Tôi Tin
Phép Tha Tội"
"Tôi Tin
Xác Loài Người Ngày Sau Sống Lại"
"Tôi Tin Hằng
Sống Vậy"
"Amen"
Phần II: Cử Hành Mầu Nhiệm Kitô
Giáo (218-356)
Ðoạn Thứ Nhất: Nhiệm Cục Bí Tích
(218-249)
Chương Một: Mầu Nhiệm Vượt Qua
Trong Ðời Sống Của Hội Thánh (221-232)
Phụng Vụ Công
Trình Của Thiên Chúa Ba Ngôi
Mầu Nhiệm Vượt
Qua Trong Các Bí Tích Của Hội Thánh
Chương Hai: Cử Hành Mầu Nhiệm Vượt
Qua (233-249)
Cử Hành Phụng Vụ
Của Hội Thánh
Ai Cử Hành?
Cử Hành Thế Nào?
Phụng Vụ Ðược Cử
Hành Khi Nào?
Phụng Vụ Ðược Cử
Hành ở Ðâu?
Sự Ða Dạng Của
Phụng Vụ, Sự Duy Nhất Của Mầu Nhiệm
Ðoạn Thứ Hai: Bảy Bí Tích Của Hội
Thánh (250-356)
Chương Một: Các Bí Tích Khai Tâm
Kitô Giáo (251-294)
Bí Tích Rửa Tội
Bí Tích Thêm Sức
Bí Tích Thánh Thể
Chương Hai: Các Bí Tích Chữa Lành
(295-320)
Bí Tích Thống Hối
Hay Giao Hòa
Bí Tích Xức Dầu
Bệnh Nhân
Chương Ba: Các Bí Tích Phục Vụ Cho
Sự Hiệp Thông Và Cho Sứ Vụ (321-350)
Bí Tích Truyền
Chức Thánh
Bí Tích Hôn Phối
Chương Bốn: Những Cử Hành Phụng Vụ
Khác (351-356)
Các Á Bí Tích
Lễ Nghi An Táng
Theo Kitô Giáo
Phần III: Ðời Sống Trong Ðức Kitô
(357-533)
Ðoạn Thứ Nhất: Ơn Gọi Của Con Người:
Ðời Sống Trong Chúa Thánh Thần (357-433)
Chương Một: Phẩm Giá Con Người
(358-400)
Con người, hình ảnh
của Thiên Chúa
Ơn Gọi Ðược Hạnh
Phúc
Sự Tự Do Của Con
Người
Tính Luân Lý Của
Các Ðam Mê
Lương Tâm Luân
Lý
Các Nhân Ðức
Tội Lỗi
Chương Hai: Cộng Ðồng Nhân Loại
(401-414)
Cá Nhân Và Xã Hội
Tham Dự Vào Ðời
Sống Xã Hội
Công Bằng Xã Hội
Chương Ba: Ơn Cứu Ðộ Của Thiên
Chúa: Lề Luật Và Ân Sủng (415-433)
Luật Luân Lý
Ân Sủng Và Công
Chính Hóa
Giáo Hội, Mẹ Và
Thầy
Ðoạn Thứ Hai: Mười Ðiều Răn
(434-533)
Ðiều Răn Thứ Nhất:
Ta Là Ðức Chúa, Thiên Chúa Của Ngươi. Ngươi Không Ðược Có Thần Nào Khác.
Ðiều Răn Thứ
Hai: Ngươi Không Ðược Kêu Tên Thiên Chúa Cách Bất Xứng
Ðiều Răn Thứ Ba:
Ngươi Phải Thánh Hóa Ngày Của Ðức Chúa
Chương Hai: "Ngươi Phải
Yêu Thương Người Thân Cận Như Chính Mình" (455-533)
Ðiều Răn Thứ Tư:
Ngươi Hãy Thảo Kính Cha Mẹ
Ðiều Răn Thứ
Năm: Ngươi Không Ðược Giết Người
Ðiều Răn Thứ
Sáu: Ngươi Không Ðược Ngoại Tình
Ðiều Răn Thứ Bảy:
Ngươi Không Ðược Trộm Cắp
Ðiều Răn Thứ
Tám: Ngươi Không Ðược Làm Chứng Gian
Ðiều Răn Thứ
Chín: Ngươi Không Ðược Ham Muốn Vợ Người Ta
Ðiều Răn Thứ Mười:
Ngươi Không Ðược Ham Muốn Tài Sản Của Người Ta
Phần IV: Kinh Nguyện Kitô Giáo
(534-598)
Ðoạn Thứ Nhất: Kinh Nguyện Trong Ðời
Sống Kitô Hữu (534-577)
Chương Một: Mạc Khải Về Cầu Nguyện
(535-556)
Mạc Khải Về Cầu
Nguyện Trong Cựu Ước
Trong Chúa
Giêsu, Việc Cầu Nguyện Ðã Ðược Mạc Khải Và Thực Hiện Cách Trọn Vẹn
Kinh Nguyện
Trong Thời Hội Thánh
Chương Hai: Truyền Thống Cầu Nguyện
(557-566)
Những Nguồn Mạch
Của Kinh Nguyện
Con Ðường Cầu
Nguyện
Các Linh Ðạo Cầu
Nguyện
Chương Ba: Ðời Sống Cầu Nguyện
(567-577)
Những Hình Thức
Cầu Nguyện
Cuộc Chiến Ðấu Của
Cầu Nguyện
Ðoạn Thứ Hai: Lời Kinh Chúa Dạy:
Kinh Lạy Cha (578-598)
"Bản Tóm Lược
Toàn Bộ Tin Mừng" (579-581)
"Lạy Cha
Chúng Con Ở Trên Trời" (582-586)
Bảy Lời Cầu Xin
(587-598)
Tự Sắc Ðể Chấp Thuận Và Công Bố Bản "Toát Yếu
Giáo Lý" Của Hội Thánh Công Giáo
Kính gởi Chư Huynh đáng kính,
Quý Hồng Y, Thượng Phụ, Tổng Giám Mục, Giám
Mục
Linh Mục, Phó Tế Và Mọi Thành Phần Dân Chúa
Cách đây hai
mươi năm, sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo đã bắt đầu được soạn thảo, theo
yêu cầu Khoá họp bất thường của Thượng Hội đồng Giám mục nhân dịp kỷ niệm hai
mươi năm ngày bế mạc Công đồng Vaticanô II.
Tôi vô cùng cảm
tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã ban cho Hội thánh sách Giáo lý này; sách này đã được
công bố vào năm 1992 do vị tiền nhiệm kính yêu của Tôi, Ðức Giáo hoàng Gioan
Phaolô II.
Giá trị lớn lao
và vẻ đẹp của quà tặng này đã được hàng Giám mục xác nhận qua việc các ngài đón
nhận một cách tích cực và rộng rãi. Sách Giáo lý ấy nhắm trao vào tay các vị
Giám mục như bản qui chiếu chắc chắn và đích thực để giảng dạy giáo lý công
giáo và đặc biệt để soạn thảo các sách giáo lý địa phương. Sách Giáo lý cũng
được mọi thành phần Dân Chúa đón nhận cách thuận lợi đáng kinh ngạc. Sách này
cho đến nay đã được dịch ra hơn năm mươi thứ tiếng.
Giờ đây, với
niềm vui lớn lao, Tôi chấp thuận và công bố bản Toát yếu Giáo lý này.
Vào tháng 10
năm 2002, các tham dự viên của Hội nghị Quốc tế về Giáo lý đã nói lên một yêu
cầu phổ biến trong Hội thánh là ước mong có được bản Toát yếu sách giáo lý. Vị
Tiền nhiệm kính yêu của Tôi đã đón nhận ước muốn này và vào tháng 02 năm 2003
đã quyết định bắt đầu thực hiện. Ngài trao việc soạn thảo cho một Uỷ ban Hồng
y, do chính Tôi làm chủ tịch, với sự cộng tác của nhiều chuyên viên. Trong quá
trình làm việc, một dự thảo bản Toát yếu này được chuyển đến các Hồng y và
những vị Chủ tịch các Hội đồng Giám mục. Bản dự thảo này được một số rất đông
đón nhận và đánh giá cao.
Toát yếu mà hôm
nay Tôi giới thiệu cho Hội thánh phổ quát là một tổng hợp trung thành và chắc
chắn sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo. Bản toát yếu này chứa đựng cách ngắn
gọn mọi yếu tố căn bản và nền tảng của đức tin Hội thánh, tạo thành một thứ thủ
bản "cầm tay - Vademecum" như vị Tiền nhiệm của Tôi ước muốn, cho
phép mọi người, dù tin hay không, có thể có được một cái nhìn toàn diện về đức
tin công giáo.
Bản Toát yếu
này phản ánh cách trung thành sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo ngay trong
cấu trúc, nội dung lẫn ngôn ngữ; hy vọng nhờ sự hỗ trợ và động viên của bản
Toát yếu này, sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo được biết đến cách rộng rãi
hơn và được đào sâu nhiều hơn.
Với sự tin
tưởng, Tôi trao bản Toát yếu này trước tiên cho toàn Hội thánh và đặc biệt cho
từng người Kitô hữu, để vào thiên niên kỷ thứ ba này, mỗi người nhờ vào bản
Toát yếu, có được một sức bật mới trong cố gắng Phúc Âm hoá và giáo dục đức
tin. Ðây phải là đặc điểm của tất cả các cộng đoàn trong Hội thánh và của tất
cả những ai tin vào Ðức Kitô, bất luận tuổi tác hay thuộc quốc gia nào.
Nhờ tính chất
ngắn gọn, trong sáng và đầy đủ, bản Toát yếu này cũng nhắm đến mọi người, đang
sống trong một thế giới phân tán và có quá nhiều sứ điệp, khao khát biết được
con Ðường Sự sống, Chân lý, đã được Thiên Chúa trao phó cho Hội thánh của Con
mình.
Khi đọc bản
Toát yếu có thẩm quyền này, nhờ sự cầu bầu của Ðức Trinh Nữ Maria rất thánh, Mẹ
Ðức Kitô và là Mẹ Hội thánh, mỗi người có thể nhận ra và đón nhận ngày một hơn
vẻ đẹp, sự thống nhất và tính hiện thực bất tận của món quà vô giá mà Thiên
Chúa đã ban tặng cho nhân loại : đó là Con Duy Nhất của Ngài, Ðức Giêsu Kitô,
Ðấng là "Ðường, là Sự thật và là Sự sống" (Ga 14,6).
Ban hành tại Rôma, gần Ðền thờ thánh Phêrô,
ngày 28 tháng 06 năm 2005,
Áp Ðại lễ kính hai thánh Tông đồ Phêrô và
Phaolô,
Năm thứ nhất triều đại Giáo hoàng của Tôi
Benedictus PP
XVI
Dẫn
Nhập
1. Ngày 11 tháng 10 năm 1992, Ðức Giáo hoàng Gioan-Phaolô
II trao cho các tín hữu trên toàn thế giới sách Giáo lý của Hội thánh Công
giáo, như một "bản văn qui chiếu" [1] cho Giáo
lý được canh tân từ nguồn gốc sống động của đức tin. Ba mươi năm sau ngày khai
mạc Công đồng Vaticanô II (1962-1965) một ước mơ đã trở thành hiện thực, ước mơ
này đã được Thượng Hội đồng bất thường của các Giám mục vào năm 1985 đạo đạt
lên, đó là ước muốn có một sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo trình bày tất
cả đức tin cũng như luân lý.
Năm năm sau, ngày 15 tháng 08 năm 1997, khi công bố
Ấn bản mẫu của sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo, Ðức Giáo hoàng xác nhận
mục đích cơ bản của tác phẩm này: "Ðây là một trình bày đầy đủ và trọn vẹn
giáo lý công giáo, cho phép mỗi người nhận ra điều Hội thánh tuyên xưng, cử
hành, sống và cầu nguyện trong cuộc sống hằng ngày của mình" .
2. Ðể làm nổi bật giá trị giáo lý và để đáp lại một
yêu cầu do Ðại hội Quốc tế về Giáo lý đạo đạt vào năm 2002, Ðức Giáo hoàng
Gioan Phaolô II đã thành lập một Ủy ban đặc biệt vào năm 2003, đứng đầu là Ðức
Hồng y Joseph Ratzinger, Bộ trưởng Bộ Giáo lý Ðức tin, ủy thác cho ngài công
tác viết một bản Toát yếu sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo, trong đó các
nội dung đức tin được trình bày một cách tổng hợp hơn. Sau hai năm làm việc, Ủy
ban viết được bản Dự thảo bản toát yếu; bản này được trao cho các Hồng y và Chủ
tịch các Hội đồng Giám mục để xin ý kiến. Một số đông các phúc đáp đều đánh giá
cao bản dự thảo này. Vì thế Ủy ban bắt đầu cho duyệt lại bản dự thảo dựa theo
các đề nghị chỉnh sửa để chuẩn bị cho bản văn cuối cùng.
3. Bản Toát yếu này có ba đặc điểm chính như sau:
lệ thuộc chặt chẽ vào sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo; hình thức hỏi thưa;
và việc sử dụng các hình ảnh nghệ thuật vào trong Giáo lý.
Trước hết, bản Toát yếu này không phải là một tác
phẩm hoàn toàn độc lập và cũng không phải để thay thế cho sách Giáo lý của Hội
thánh Công giáo; ngược lại luôn qui hướng về sách Giáo lý, bằng cách ghi những
số liên hệ và theo sát cấu trúc, cách trình bày và nội dung của sách Giáo lý.
Ngoài ra bản Toát yếu muốn khơi dậy mối quan tâm và lòng nhiệt thành đối với
sách Giáo lý, sách vẫn luôn là bản văn nền tảng cho giáo lý của Hội thánh ngày
nay bởi cách trình bày khôn ngoan và chiều sâu thiêng liêng của nó.
Như sách Giáo lý, bản Toát yếu cũng chia ra làm bốn
phần tương ứng với những lề luật căn bản cho đời sống trong Ðức Kitô.
Phần đầu tiên - có tựa đề "Tuyên xưng đức
tin" - gồm một tổng hợp cơ bản về Lex credendi, có nghĩa là Luật
đức tin được Hội thánh Công giáo tuyên xưng, một tổng hợp rút ra từ Kinh Tin Kính
của các thánh Tông đồ, được bổ túc bằng bản Kinh Tin Kính của hai Công đồng
Nicea và Constantinopoli, mà việc công bố liên tục trong những buổi họp mặt
giúp người Kitô hữu luôn nhớ các chân lý nền tảng của đức tin.
Phần thứ hai - có tựa đề "Cử hành mầu nhiệm
Kitô giáo" - trình bày các yếu tố căn bản của Lex celebrandi.
Việc rao giảng Tin Mừng tìm được câu trả lời thích ứng trong đời sống Bí tích.
Trong đời sống này, các tín hữu có kinh nghiệm và làm chứng trong mỗi giây phút
cuộc đời mình hiệu năng cứu độ của mầu nhiệm Vượt qua, trong đó Ðức Kitô hoàn
tất công trình cứu độ chúng ta.
Phần thứ ba - có tựa đề "Ðời sống trong Ðức
Kitô" - nhắc nhớ lại Lex vivendi, có nghĩa là sự dấn thân mà các
tín hữu biểu lộ trong thái độ và sự chọn lựa đạo đức của mình, sự trung thành
với đức tin đã được tuyên xưng và được cử hành. Chúa Giêsu mời gọi các tín hữu
thực hiện những hành động phù hợp với phẩm giá là con của Chúa Cha trong tình
yêu của Chúa Thánh Thần.
Phần thứ tư - có tựa đề "Kinh nguyện Kitô
giáo" - trình bày một tổng hợp về Lex Orandi, có nghĩa là về đời
sống cầu nguyện. Theo gương Chúa Giêsu, mẫu mực tuyệt vời cho kẻ cầu nguyện,
người Kitô hữu được mời gọi đối thoại với Thiên Chúa trong kinh nguyện, mà một
trong những cách diễn tả ưu thế nhất là Kinh Lạy Cha, đó là kinh do chính Chúa
Giêsu dạy chúng ta.
4. Ðặc điểm thứ hai của bản toát yếu này là hình
thức đối thoại, lấy lại hình thức cổ xưa của sách giáo lý, gồm các câu hỏi và
câu thưa. Ðây là cách đối thoại giữa thầy và trò qua một loạt câu hỏi gây chú ý
cho người đọc, mời gọi họ khám phá những phương diện luôn luôn mới của chân lý
đức tin của mình. Hình thức hỏi thưa thu ngắn bản văn, đúc kết vào điểm chính
yếu, tiện cho việc học thuộc lòng nội dung.
5. Ðặc điểm thứ ba là có nhiều hình ảnh làm nổi bật
cách phân chia bản toát yếu. Các tranh ảnh này được rút từ gia sản phong phú
của nghệ thuật tranh ảnh thánh của Kitô giáo. Từ truyền thống cả nghìn năm của
các Công đồng, chúng ta học biết rằng tranh ảnh cũng là một cách rao giảng Tin
Mừng. Các nghệ nhân của mọi thời đại trình bày cho các tín hữu chiêm ngắm và
kinh ngạc trước những sự kiện nổi bật của mầu nhiệm cứu độ với sự huy hoàng của
màu sắc và vẻ đẹp tuyệt vời. Ðó là một dấu chỉ cho thấy tranh ảnh thánh, trong
văn hóa hình ảnh ngày nay, có thể diễn tả nhiều hơn là ngôn từ, vì trong sự
sinh động của nó, sứ điệp Tin Mừng sẽ có nhiều hiệu quả hơn khi được diễn tả
bằng ngôn từ và được tiếp tục truyền đạt.
6. Bốn mươi năm sau ngày kết thúc Công đồng
Vaticanô II và trong năm Thánh Thể, bản Toát yếu có thể xem như là một công cụ
mới để thỏa mãn khát vọng tìm kiếm chân lý của các tín hữu thuộc mọi lứa tuổi
và trong mọi hoàn cảnh, cũng như ước muốn của những ai, dù chưa phải là tín
hữu, đang khao khát chân lý và công bằng. Việc công bố bản Toát yếu này được
diễn ra trong ngày Ðại lễ hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, cột trụ của Hội
thánh toàn cầu và là những người rao giảng gương mẫu Tin Mừng cho thế giới
trong thời đại của các ngài. Các vị Tông đồ này biết rõ điều các ngài rao giảng
và chứng minh cho chân lý Ðức Kitô đến hy sinh mạng sống. Chúng ta hãy bắt
chước các ngài trong sự dấn thân truyền giáo và cầu xin Chúa cho Hội thánh luôn
dõi theo giáo huấn của các Tông đồ, nhờ các ngài mà Hội thánh đã lãnh nhận
trước tiên lời tuyên xưng vinh phúc của đức tin.
Lễ Lá, ngày 20 tháng 03 năm 2005
Hồng Y Joseph Ratzinger
Chủ tịch Ủy Ban đặc biệt
Phần I: Tuyên Xưng Ðức Tin (1-217)
Ðoạn Thứ Nhất: "Tôi Tin - Chúng Tôi Tin" (1-32)
1. Ý định của Thiên
Chúa dành cho con người là gì? 1-25
Thiên Chúa tự bản thể là Ðấng vô cùng hoàn hảo và
hạnh phúc. Theo ý định nhân hậu, Ngài đã tự ý tạo dựng con người, để cho họ
được thông phần sự sống hạnh phúc của Ngài. Khi thời gian đến hồi viên mãn,
Thiên Chúa Cha đã cử Con Ngài đến làm Ðấng Cứu Thế chuộc tội cho nhân loại đã
sa ngã trong tội lỗi, để kêu gọi họ vào trong Hội thánh Ngài, và nhờ tác động
của Chúa Thánh Thần, đón nhận họ làm dưỡng tử, và được thừa hưởng hạnh phúc
vĩnh cửu của Ngài.
Chương
Một: Con Người "Có Khả Năng" Ðón Nhận Thiên Chúa (2-5)
"Lạy Chúa, Chúa vĩ đại và đáng ca tụng... Chúa
đã dựng nên chúng con cho Chúa, và tâm hồn của chúng con luôn xao xuyến cho đến
khi được yên nghỉ trong Chúa" (Thánh Augustinô).
2. Tại sao con người
khát khao Thiên Chúa? 27-30, 44-45
Khi tạo dựng con người theo hình ảnh mình, chính
Thiên Chúa đã khắc ghi vào trong tâm hồn họ sự khát khao nhìn thấy Ngài. Cả khi
họ không nhận ra sự khát khao này, Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo họ đến
với mình, vì chỉ nơi Thiên Chúa, họ mới sống và tìm được chân lý và hạnh phúc
viên mãn mà họ luôn tìm kiếm. Vì vậy, tự bản chất và do ơn gọi của mình, con
người là một hữu thể tôn giáo, có khả năng bước vào sự hiệp thông với Thiên
Chúa. Dây liên hệ mật thiết và sống động này với Thiên Chúa đem lại cho con
người phẩm giá căn bản của mình.
3. Với ánh sáng tự nhiên của lý trí, con
người có thể nhận biết Thiên Chúa không? 31-36, 46-47
Khởi từ công trình tạo dựng, nghĩa là từ thế giới
vật chất và con người, con người có thể chỉ dùng lý trí cũng nhận biết cách
chắc chắn có Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của vũ trụ, là sự thiện hảo
tuyệt vời, là chân lý và vẻ đẹp vô cùng vô tận.
4. Chỉ với ánh sáng
tự nhiên của lý trí, con người có đủ khả năng để nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa
hay không? 37-38
Chỉ với ánh sáng của lý trí, con người sẽ gặp rất
nhiều khó khăn trong việc nhận biết Thiên Chúa. Hơn nữa, tự mình, con người
không thể nào bước vào mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa. Vì thế, con người cần
được Mạc khải của Thiên Chúa soi dẫn, không những về những gì vượt quá sự hiểu
biết nhân loại, mà cả về những chân lý tôn giáo và luân lý, tự chúng vốn không
vượt quá khả năng của lý trí, để mọi người trong tình trạng hiện thời của nhân
loại có thể biết được một cách dễ dàng, chắc chắn và không sai lầm.
5. Chúng ta có thể nói về Thiên Chúa thế nào? 39-43, 48-49
Chúng ta có thể nói về Thiên Chúa cho tất cả mọi
người, khởi đi từ những nét hoàn hảo của con người và của những thụ tạo khác,
đó là một phản ánh, dù rất hạn hẹp, về sự hoàn hảo vô tận của Thiên Chúa. Tuy
nhiên, chúng ta phải không ngừng thanh luyện ngôn ngữ của chúng ta vì nó bất
toàn và bị lệ thuộc vào hình ảnh, phải ý thức rằng chúng ta không bao giờ có
thể diễn tả đầy đủ mầu nhiệm vô tận của Thiên Chúa.
Chương
Hai: Thiên Chúa Ðến Gặp Con Người (6-24)
Mạc khải của
Thiên Chúa
6. Thiên Chúa mạc khải cho con người điều gì? 50-53, 68-69
Với lòng nhân hậu và sự khôn ngoan, Thiên Chúa tự
mạc khải chính mình cho con người. Qua các hành động và lời nói, Thiên Chúa tự
mạc khải chính Ngài cũng như ý định của lòng nhân hậu, mà Ngài đã hoạch định tự
muôn đời trong Ðức Kitô. Ý định này nhằm đón nhận tất cả mọi người trở thành
nghĩa tử trong Người Con duy nhất của Ngài nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần và
cho họ tham dự vào sự sống của Thiên Chúa.
7. Những giai đoạn đầu tiên của Mạc khải là
gì? 54-58, 70-71
Từ nguyên thủy, Thiên Chúa tỏ mình ra cho nguyên tổ
của chúng ta, là ông Ađam và bà Evà, và mời gọi họ bước vào sự hiệp thông mật
thiết với Ngài. Sau khi họ sa ngã, Ngài đã không chấm dứt việc Mạc khải, nhưng
đã hứa ban ơn cứu độ cho tất cả miêu duệ của họ. Sau cơn lụt đại hồng thủy,
Ngài đã ký kết với ông Noe một Giao ước giữa Ngài với tất cả các sinh linh.
8. Những giai đoạn tiếp theo của Mạc khải của
Thiên Chúa là gì? 59-64, 72
Thiên Chúa chọn ông Abraham, khi gọi ông rời bỏ quê
hương để làm cho ông trở thành "cha của vô số dân tộc" (St 17,5) và
hứa qua ông sẽ chúc lành cho "mọi gia tộc trên mặt đất" (St 12,3).
Con cháu của ông Abraham là những kẻ thừa hưởng các lời Thiên Chúa đã hứa với
tổ phụ họ. Thiên Chúa đã lập Israel làm dân Ngài tuyển chọn, cứu thoát họ khỏi
ách nô lệ Ai Cập, ký kết với họ Giao ước Sinai và, qua ông Môsê, Ngài ban cho
họ Lề luật của Ngài. Các tiên tri đã loan báo một ơn cứu chuộc toàn diện cho
dân Chúa cũng là ơn cứu độ dành cho tất cả mọi dân tộc, trong một Giao ước mới
và vĩnh cửu. Chúa Giêsu, Ðấng Mêsia, đã được sinh ra từ dân
9. Giai đoạn Mạc khải trọn vẹn và dứt khoát
của Thiên Chúa là gì? 65-66, 73
Giai đoạn Mạc khải trọn vẹn và dứt khoát của Thiên
Chúa được thực hiện nơi Ngôi Lời nhập thể, là Ðức Giêsu Kitô, Ðấng là trung
gian và là viên mãn của Mạc khải. Chúa Giêsu, Con duy nhất của Thiên Chúa, đã
làm người, là Lời hoàn hảo và dứt khoát của Chúa Cha. Mạc khải đã được hoàn tất
cách trọn vẹn qua việc Thiên Chúa Cha sai Con Ngài và ban tặng Thánh Thần, mặc
dù đức tin của Hội thánh phải dần dần trải qua bao thế kỷ mới nhận biết ý nghĩa
đầy đủ của Mạc khải.
"Từ khi Thiên Chúa ban cho chúng ta Con Ngài,
Ðấng là Lời duy nhất và dứt khoát của Ngài, Thiên Chúa đã nói với chúng ta một
lần duy nhất trong Lời này và Ngài không còn gì để nói thêm nữa" (Thánh
Gioan Thánh Giá).
10. Các mạc khải tư có gía trị gì? 67
Mặc dầu các mạc khải tư không thuộc về kho tàng đức
tin, nhưng chúng có thể giúp chúng ta sống đức tin, với điều kiện chúng có một
liên hệ chặt chẽ với Ðức Kitô. Huấn quyền Hội thánh, có thẩm quyền để phân định
các mạc khải tư đó, không thể chấp nhận những mạc khải tư nào vượt qua hay muốn
sửa đổi Mạc khải dứt khoát là chính Ðức Kitô.
Lưu truyền Mạc
khải của Thiên Chúa
11. Tại sao phải lưu
truyền Mạc khải của Thiên Chúa và lưu truyền bằng cách nào? 74
Thiên Chúa "muốn cho mọi người được cứu độ và
nhận biết chân lý" (1 Tm 2,4), nghĩa là nhận biết Ðức Giêsu Kitô. Vì thế,
phải rao giảng Ðức Kitô cho mọi người, như chính lời Người dạy: "Hãy đi và
làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28,19). Ðiều này đã được thực hiện
bởi Truyền thống các Tông đồ, gọi tắt là Truyền thống tông đồ.
12. Truyền thống tông đồ là gì? 75-79, 83, 96, 98
Truyền thống tông đồ là việc chuyển đạt sứ điệp của
Ðức Kitô, đã được thực hiện ngay từ lúc khởi đầu Kitô giáo, qua việc rao giảng,
làm chứng, các cơ chế, phụng tự, và các sách được linh ứng. Các Tông đồ đã
chuyển đạt mọi điều các ngài đã lãnh nhận từ Ðức Kitô và học hỏi từ Chúa Thánh
Thần cho những người kế nhiệm các ngài, là các giám mục, và qua họ, cho mọi thế
hệ đến tận thế.
13. Truyền thống tông đồ được thực hiện như
thế nào? 76
Tông truyền được thực hiện bằng hai cách: qua việc
chuyển đạt sống động Lời Chúa (được gọi cách đơn sơ là Thánh truyền) và qua
Thánh Kinh, trong đó cùng một lời rao giảng ơn cứu độ được ghi lại thành chữ
viết.
14. Tương quan giữa Thánh truyền và Thánh Kinh
như thế nào? 80-82, 97
Thánh truyền và Thánh Kinh liên kết và giao lưu mật
thiết với nhau. Thật vậy, cả hai làm cho mầu nhiệm Ðức Kitô được hiện diện và
sung mãn trong Hội thánh và cả hai cùng xuất phát từ một cội nguồn là Thiên
Chúa. Cả hai làm nên một kho tàng đức tin duy nhất, nơi Hội thánh nhận được sự
đảm bảo chắc chắn về tất cả những chân lý được mạc khải.
15. Kho tàng đức tin đã được ủy thác cho ai? 84, 91, 94, 99
Từ thời các thánh Tông đồ, kho tàng đức tin đã được
ủy thác cho toàn thể Hội thánh. Nhờ Chúa Thánh Thần hỗ trợ và nhờ Huấn quyền
hướng dẫn, với cảm thức siêu nhiên của đức tin, toàn thể dân Chúa đón nhận Mạc
khải của Thiên Chúa, hiểu biết mỗi ngày một sâu xa hơn, và cố gắng sống Mạc
khải đó.
16. Ai có thẩm quyền để giải nghĩa kho tàng
đức tin? 85-90, 100
Chỉ có Huấn quyền sinh động của Hội thánh, nghĩa là
vị kế nhiệm thánh Phêrô làm Giám mục Rôma và các Giám mục hiệp thông với ngài,
mới có đủ thẩm quyền giải thích kho tàng đức tin. Huấn quyền, trong việc phục
vụ Lời Chúa, được hưởng đặc sủng về chân lý, có trách nhiệm xác định các tín
điều, nghĩa là những công thức trình bày các chân lý chứa đựng trong Mạc khải
của Thiên Chúa; thẩm quyền này cũng áp dụng trên các chân lý có liên hệ thiết
yếu với Mạc khải.
17. Ðâu là mối tương quan giữa Thánh truyền,
Thánh Kinh và Huấn quyền? 95
Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn quyền liên hệ chặt
chẽ với nhau, đến độ thực thể này không hiện hữu nếu không có hai thực thể kia.
Dưới tác động của cùng một Chúa Thánh Thần, cả ba góp phần cách hữu hiệu vào ơn
cứu độ loài người, mỗi thực thể theo cách thức riêng của mình.
Thánh Kinh
18. Tại sao Thánh Kinh lại có thể dạy chân lý?
105-108, 135-136
Bởi vì chính Thiên Chúa là tác giả của Thánh Kinh.
Thánh Kinh là quyển sách được linh ứng và dạy dỗ cách không sai lạc những chân
lý cần thiết cho ơn cứu độ chúng ta. Thật vậy, Chúa Thánh Thần linh ứng cho các
tác giả phàm nhân để họ viết ra những điều Thiên Chúa muốn dạy dỗ chúng ta. Tuy
nhiên, đức tin Kitô giáo không phải là một "tôn giáo của sách vở",
nhưng là của Lời Thiên Chúa, "không là một ngôn từ được viết ra và câm
lặng, nhưng là Ngôi Lời nhập thể và sống động" (thánh Bênađô Clairvaux).
19. Chúng ta phải đọc Thánh Kinh như thế nào? 109-119, 137
Thánh Kinh phải được đọc và giải thích dưới sự trợ
giúp của Chúa Thánh Thần, và phải theo sự hướng dẫn của Huấn quyền Hội thánh,
theo ba tiêu chuẩn: (1) phải chú ý đến nội dung và sự duy nhất của toàn bộ
Thánh Kinh; (2) phải đọc Thánh Kinh trong Thánh truyền sống động của Hội thánh;
(3) phải chú ý đến tính tương hợp của đức tin, nghĩa là đến sự liên hệ hài hòa
giữa các chân lý đức tin với nhau.
20. Quy điển (Canon) của các Sách Thánh là gì?
120, 138
Quy điển các Sách Thánh là danh mục đầy đủ về các
Sách Thánh, mà Tông truyền đã phân định rõ ràng cho Hội thánh. Quy điển này gồm
có bốn mươi sáu tác phẩm Cựu Ước và hai mươi bảy tác phẩm Tân Ước.
21. Ðâu là tầm quan trọng của Cựu Ước đối với
các người Kitô hữu? 121-123
Người Kitô hữu tôn kính Cựu Ước như là Lời đích
thực của Thiên Chúa. Tất cả các tác phẩm của Cựu Ước được Thiên Chúa linh ứng
nên có một giá trị trường tồn. Cựu Ước là bằng chứng cho thấy nghệ thuật giáo
dục bằng tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Và nhất là, các tác phẩm Cựu Ước được
viết ra để chuẩn bị cho việc Ðức Kitô, Ðấng Cứu Ðộ muôn loài, ngự đến.
22. Ðâu là tầm quan trọng của Tân Ước đối với
các người Kitô hữu? 124-127, 139
Trung tâm của Tân Ước là Ðức Giêsu Kitô. Tân Ước
dạy chúng ta chân lý dứt khoát được Thiên Chúa mạc khải. Trong Tân Ước, bốn
quyển Phúc Âm - Matthêu, Marcô, Luca và Gioan - là những chứng từ chính yếu về
đời sống và về lời giảng dạy của Chúa Giêsu; bốn quyển sách này tạo thành trung
tâm của tất cả Sách Thánh và có một vị trí độc nhất trong Hội thánh.
23. Ðâu là sự thống nhất giữa Cựu Ước và Tân
Ước? 128-130, 140
Thánh Kinh chỉ là một, vì chỉ có một Lời Chúa duy
nhất, một chương trình cứu độ duy nhất của Thiên Chúa và một linh ứng duy nhất
của Thiên Chúa cho cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Cựu Ước chuẩn bị cho Tân Ước và Tân
Ước hoàn thành Cựu Ước: cả hai soi sáng cho nhau.
24. Thánh Kinh giữ vai trò nào trong đời sống
Hội thánh? 131-133, 141-142
Thánh Kinh đem lại sự hỗ trợ và sức mạnh cho đời
sống Hội thánh. Ðối với con cái Hội thánh, Thánh Kinh là sự củng cố đức tin, là
lương thực và nguồn mạch của đời sống tinh thần. Thánh Kinh là linh hồn của các
môn thần học và giảng thuyết mục vụ. Thánh Vịnh gọi Thánh Kinh là "đèn soi
cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi" (Tv 118 [119],105). Vì thế,
Hội thánh khuyến khích chúng ta thường xuyên đọc Thánh Kinh, vì "không
biết Thánh Kinh là không biết Ðức Kitô" (thánh Giêrônimô).
Chương
Ba: Lời Ðáp Trả Của Con Người Với Thiên Chúa (25-32)
Tôi Tin
25. Con người đáp trả như thế nào với Thiên
Chúa, Ðấng tự mạc khải? 142-143
Ðược ân sủng của Thiên Chúa nâng đỡ, con người đáp
lời Thiên Chúa bằng việc vâng phục đức tin, bao gồm việc tin tưởng trọn vẹn vào
Thiên Chúa và đón nhận chân lý của Ngài, chân lý được Thiên Chúa bảo đảm vì
chính Ngài là Chân Lý.
26. Trong Thánh Kinh,
ai là những nhân chứng chính yếu cho việc vâng phục đức tin? 144-149
Có rất nhiều chứng nhân, nhưng đặc biệt là hai vị:
- Ông Abraham, dù bị thử thách, "vẫn vững tin
vào Thiên Chúa" (Rm 4,3) và luôn vâng phục tiếng gọi của Ngài; vì thế ông
trở thành "tổ phụ của tất cả những người tin" (Rm 4,11.18);
- Ðức Trinh Nữ Maria, trong suốt cuộc đời đã thể
hiện một cách tuyệt vời sự vâng phục đức tin: "Fiat mihi secundum verbum
tuum - xin Chúa làm cho tôi như lời sứ thần nói" (Lc 1,38).
27. Tin vào Thiên Chúa có ý nghĩa cụ thể gì
cho con người? 150-152, 176-178
Tin vào Thiên Chúa có nghĩa là gắn bó với chính
Thiên Chúa, tin tưởng phó thác bản thân cho Ngài và chấp nhận tất cả những chân
lý do Ngài mạc khải vì Ngài chính là Chân lý. Ðiều này có nghĩa là tin vào
Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
28. Ðức tin có những đặc điểm gì? 153-165, 179-180, 183-184
Ðức tin là một hồng ân nhưng không của Thiên Chúa,
được trao ban cho tất cả những ai cầu xin với lòng khiêm hạ; đó là nhân đức
siêu nhiên cần thiết để được cứu độ. Hành vi đức tin là một hành vi nhân linh,
nghĩa là một hành động của lý trí con người, dưới tác động của Chúa Thánh Thần,
tự do gắn bó với chân lý của Thiên Chúa. Ngoài ra, đức tin còn có đặc tính chắc
chắn, vì được đặt nền tảng trên Lời Chúa; đức tin có đặc tính năng động
"nhờ Ðức ái" (Gl 5,6); đức tin luôn tăng triển, đặc biệt nhờ lắng
nghe Lời Chúa và cầu nguyện. Trong hiện tại, đức tin cho chúng ta nếm trước
niềm vui trên trời.
29. Tại sao không có mâu thuẫn giữa đức tin và
khoa học? 159
Dù đức tin vượt lên trên lý trí, nhưng không bao
giờ có mâu thuẫn giữa đức tin và khoa học, vì cả hai đều có cùng một cội nguồn
là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa ban ánh sáng lý trí và đức tin cho con người.
"Tôi tin để hiểu và tôi hiểu để tin"
(Thánh Augustinô).
Chúng Tôi Tin
30. Tại sao đức tin là
một hành vi cá nhân nhưng đồng thời cũng là hành vi mang tính giáo hội? 166-169, 181
Ðức tin là một hành vi cá nhân, vì đó là sự đáp trả
tự do của con người đối với Thiên Chúa, Ðấng tự mạc khải. Nhưng đồng thời đó
cũng là một hành vi mang tính giáo hội, tính chất này được bày tỏ trong lời
tuyên xưng đức tin: "Chúng tôi tin." Thật vậy, chính Hội thánh tin:
qua đó, nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, Hội thánh đi bước trước, sinh ra và
nuôi dưỡng đức tin của mỗi người. Vì thế, Hội thánh là Mẹ và là Thầy.
"Không ai có thể có Thiên Chúa là Cha, mà lại
không có Hội thánh là Mẹ." (Thánh Cyrianô)
31. Tại sao những công thức đức tin lại quan
trọng? 170-171
Những công thức đức tin là quan trọng vì chúng giúp
ta diễn tả, đồng hóa, cử hành và cùng chia sẻ với những người khác các chân lý
đức tin, khi sử dụng một ngôn ngữ chung.
32. Phải hiểu như thế nào về đức tin duy nhất
của Hội thánh? 172-175, 182
Dù được hình thành do nhiều người khác nhau về ngôn
ngữ, văn hóa và phong tục, Hội thánh đồng thanh tuyên xưng một đức tin duy
nhất, được lãnh nhận từ một Chúa duy nhất và được chuyển đạt qua một Truyền
thống tông đồ duy nhất. Hội thánh tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất - Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần - và dạy một con đường cứu độ duy nhất. Vì
thế, chúng ta, cùng một lòng một ý, tin những gì chứa đựng trong Lời Chúa, được
truyền đạt hay được viết ra và được Hội thánh xác định là do Thiên Chúa mạc
khải.
Ðoạn Thứ Hai: Tuyên Xưng Ðức Tin Kitô Giáo (33-217)
Kinh Tin Kính
Kinh Tin Kính các Thánh Tông đồ
Tôi tin kính Ðức Chúa Trời
là Cha phép tắc vô cùng
dựng nên trời đất.
Tôi tin kính Ðức Chúa Giêsu
Kitô
là Con Một Ðức Chúa Cha
cùng là Chúa chúng tôi.
Bởi phép Ðức Chúa Thánh
Thần
mà Người xuống thai,
sinh bởi bà Maria đồng
trinh,
chịu nạn đời quan Phongxiô
Philatô,
chịu đóng đinh trên cây
thánh giá,
chết và táng xác,
xuống ngục tổ tông,
ngày thứ ba bởi trong kẻ
chết mà sống lại,
lên trời ngự bên hữu Ðức
Chúa Cha phép tắc vô cùng,
ngày sau bởi trời lại xuống
phán xét kẻ sống và kẻ
chết.
Tôi tin kính Ðức Chúa Thánh
Thần.
Tôi tin có Hội thánh hằng
có ở khắp thế này,
các Thánh thông công.
Tôi tin phép tha tội.
Tôi tin xác loài người ngày
sau sống lại.
Tôi tin hằng sống vậy.
Amen.
Kinh Tin Kính Nicea-Constantinopoli
Tôi tin kính một Thiên Chúa
là Cha toàn năng,
Ðấng tạo thành trời đất,
muôn vật hữu hình và vô
hình.
Tôi tin kính một Chúa Giêsu
Kitô,
Con Một Thiên Chúa,
sinh bởi Ðức Chúa Cha từ
trước muôn đời.
Người là Thiên Chúa bởi
Thiên Chúa,
Ánh sáng bởi Ánh sáng,
Thiên Chúa thật bởi Thiên
Chúa thật,
được sinh ra mà không phải
được tạo thành,
đồng bản thể với Ðức Chúa
Cha:
nhờ Người mà muôn vật được
tạo thành.
Vì loài người chúng ta và
để cứu độ chúng ta,
Người đã từ trời xuống thế.
Bởi phép Ðức Chúa Thánh
Thần,
Người đã nhập thể trong
lòng Trinh Nữ Maria
và đã làm người.
Người chịu đóng đinh vào
thập giá vì chúng ta,
thời quan Phongxiô Philatô;
Người chịu khổ hình và mai
táng,
ngày thứ ba Người sống lại
như lời Thánh Kinh.
Người lên trời, ngự bên hữu
Ðức Chúa Cha,
và Người sẽ lại đến trong
vinh quang
để phán xét kẻ sống và kẻ
chết,
Nước Người sẽ không bao giờ
cùng.
Tôi tin kính Ðức Chúa Thánh
Thần
là Thiên Chúa và là Ðấng
ban sự sống,
Người bởi Ðức Chúa Cha
và Ðức Chúa Con mà ra.
Người được phụng thờ và tôn
vinh
cùng với Ðức Chúa Cha và
Ðức Chúa Con:
Người đã dùng các tiên tri
mà phán dạy.
Tôi tin Hội thánh duy nhất,
thánh thiện,
công giáo và tông truyền.
Tôi tuyên xưng có một Phép
Rửa để tha tội.
Tôi trông đợi kẻ chết sống
lại
và sự sống đời sau. Amen.
Chương
Một: Tôi Tin Kính Ðức Chúa Trời Là Cha (33-78)
Những bản
tuyên xưng đức tin
33. Những bản tuyên xưng đức tin là gì? 185-188, 192, 197
Ðó là những công thức ngắn gọn, còn được gọi là
"những bản tuyên xưng đức tin" hay "Kinh Tin Kính," qua đó
Hội thánh, ngay từ thuở ban đầu, đã diễn tả đức tin của mình một cách tổng hợp
và chuyển đạt đức tin ấy bằng một ngôn ngữ chuẩn hoá và chung cho mọi tín hữu.
34. Những bản tuyên xưng đức tin cổ nhất là
những bản nào? 189-191
Những bản tuyên xưng đức tin cổ xưa nhất là những
Kinh Tin Kính khi cử hành Bí tích Rửa tội. Vì Bí tích Rửa tội được ban
"nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần" (Mt 28,19), nên các chân lý đức
tin mà các người lãnh nhận Bí tích Rửa tội tuyên xưng, được phân chia theo ba
Ngôi vị của Thiên Chúa Ba Ngôi.
35. Những bản tuyên xưng đức tin quan trọng
nhất là những bản nào? 193-195
Những bản quan trọng nhất là:
- Kinh Tin Kính của các
Thánh Tông đồ, là bản tuyên xưng đức tin cổ xưa nhất dùng khi cử hành Bí tích
Rửa tội của Giáo hội Rôma;
- Kinh Tin Kính Công Ðồng
Nicea-Constantinopoli, là kết quả của hai Công Ðồng Chung đầu tiên, tại Nicea
(năm 325) và tại Constantinopoli (năm 381).
Hai bản này vẫn còn là hai bản chung cho tất cả các
Giáo hội lớn của Ðông phương và Tây phương.
"Tôi Tin Kính Ðức Chúa Trời
Là Cha Phép Tắc Vô Cùng,
Dựng Nên Trời Ðất"
36. Tại sao bản tuyên
xưng đức tin được khởi đầu bằng "Tôi tin kính Ðức Chúa Trời"? 198-199
Bởi vì xác quyết "Tôi tin kính Ðức
ChúaTrời" là điều quan trọng nhất. Xác quyết này là nguồn gốc của mọi chân
lý khác về con người, về vũ trụ và về toàn bộ đời sống của những ai tin Thiên
Chúa.
37. Tại sao chúng ta tuyên xưng một Thiên Chúa
duy nhất? 200-202, 228
Bởi vì Thiên Chúa đã mạc khải cho dân
38. Thiên Chúa tự mạc khải với danh thánh nào?
203-205, 230-231
Thiên Chúa đã mạc khải chính mình cho Môsê là Thiên
Chúa hằng sống, "Thiên Chúa của Ábraham, Thiên Chúa của Isaác, Thiên Chúa
của Giacóp" (Xh 3,6). Ngài cũng mạc khải Danh Thánh huyền nhiệm của Ngài
cho ông: "Ta là Ðấng Hằng Hữu" (YHWH). Ngay từ thời Cựu Ước, Danh
Thánh của Thiên Chúa không được phép đọc lên, nên phải thay thế bằng thuật ngữ
Ðức Chúa. Như vậy trong Tân Ước, Chúa Giêsu được người ta gọi là Ðức Chúa, tức
là được nhìn nhận là Thiên Chúa thật.
39. Có phải chỉ một mình Thiên Chúa "hiện
hữu" không? 212-213
Trong khi tất cả mọi thụ tạo đều lãnh nhận từ Thiên
Chúa tất cả những gì chúng có và hiện hữu, chỉ Thiên Chúa mới tự mình hiện hữu
một cách trọn vẹn và tuyệt hảo. Ngài là "Ðấng hằng hữu," không có
khởi đầu và cũng chẳng có cùng tận. Chúa Giêsu cũng mạc khải rằng Người mang
Danh Thánh : "Ta là Ðấng hằng hữu" (Ga 8,28).
40. Tại sao việc Mạc khải Danh Thánh Thiên
Chúa là điều quan trọng? 206-213
Qua việc Mạc khải Danh Thánh, Thiên Chúa cho thấy
sự phong phú chất chứa trong mầu nhiệm khôn lường của Ngài. Chỉ mình Ngài hiện
hữu từ muôn thuở và cho đến muôn đời. Ngài siêu việt trên vũ trụ và lịch sử.
Chính Ngài là Ðấng tạo thành trời đất. Ngài là Thiên Chúa trung tín, luôn gần
gũi với dân để cứu độ họ. Ngài là Ðấng Thánh tuyệt hảo, "giàu lòng nhân
hậu" (Ep 2,4), luôn sẵn sàng tha thứ. Ngài là Hữu Thể thiêng liêng, siêu
việt, toàn năng, vĩnh cửu, ngôi vị, trọn hảo. Ngài là chân lý và tình yêu.
"Thiên Chúa là Hữu Thể tuyệt hảo vô tận, là Ba
Ngôi cực thánh." (thánh Turibius thành
41. Phải hiểu "Thiên Chúa là chân
lý" như thế nào? 214-217, 231
Thiên Chúa là chính Chân lý; và do đó, Ngài không
tự dối gạt mình cũng không dối gạt ai. Ngài là "Ánh sáng, nơi Ngài không
có một chút bóng tối nào" (1 Ga 1,5). Con vĩnh cửu của Thiên Chúa, là sự
Khôn Ngoan nhập thể, đã được sai đi vào thế gian "để làm chứng cho sự
thật" (Ga 18,37).
42. Thiên Chúa mạc khải Ngài là Tình Yêu như
thế nào? 218-221
Thiên Chúa tự mạc khải cho dân
43. Niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất bao hàm
những gì? 222-227, 229
Niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất bao hàm việc nhận
biết sự vĩ đại và quyền năng của Ngài, sống trong sự cảm tạ, luôn tin tưởng vào
Ngài, cả khi gặp nghịch cảnh, nhận biết sự hợp nhất và phẩm giá đích thực của
mọi người, đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, và sử dụng cách đúng đắn
những gì Thiên Chúa đã dựng nên.
44. Mầu nhiệm trung tâm của đức tin và đời
sống Kitô giáo là gì? 232-237
Mầu nhiệm trung tâm của đức tin và đời sống Kitô
giáo là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh. Các người Kitô hữu được Rửa tội
nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
45. Chỉ dùng lý trí, con người có thể nhận
biết mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi hay không? 237
Thiên Chúa đã để lại những dấu vết về thực thể Ba
Ngôi của Ngài trong công trình tạo dựng và trong Cựu Ước, nhưng đời sống nội
tại của Ba Ngôi chí thánh vẫn là một mầu nhiệm mà lý trí thuần túy của con
người không thể nào đạt đến được, và ngay cả đức tin của Israel cũng không thể
biết mầu nhiệm đó, trước thời Con Thiên Chúa nhập thể và Chúa Thánh Thần được
gởi đến. Mầu nhiệm này đã được Ðức Giêsu Kitô mạc khải và là nguồn gốc của tất
cả các mầu nhiệm khác.
46. Chúa Giêsu đã mạc
khải cho chúng ta điều gì về mầu nhiệm Chúa Cha? 240-242
Ðức Giêsu Kitô mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là
"Cha", không những vì Ngài là Ðấng sáng tạo vũ trụ và con người,
nhưng trên hết, từ đời đời Ngài đã sinh ra Chúa Con tự lòng mình, Ðấng là Ngôi
Lời, là "phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên
Chúa" (Dt 1,3).
47. Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giêsu đã mạc khải
cho chúng ta, là ai? 243-248
Ngài là Ngôi thứ ba trong Ba Ngôi cực thánh. Ngài
là Thiên Chúa, hợp nhất và đồng hàng với Chúa Cha và Chúa Con. Ngài "xuất
phát từ Chúa Cha" (Ga 15,26), Ðấng là nguyên lý không có khởi đầu, là
nguồn gốc trọn vẹn cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần cũng xuất
phát từ Chúa Con (Filioque), vì Chúa Cha đã trao ban Ngài cho Chúa Con như Ân
ban vĩnh cửu. Ðược Chúa Cha và Chúa Con nhập thể sai phái, Chúa Thánh Thần
hướng dẫn Hội thánh đến sự nhận biết "Chân lý trọn vẹn" (Ga 16,13).
48. Hội thánh diễn tả
đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi như thế nào? 249-256, 266
Hội thánh diễn tả đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi
khi tuyên xưng một Thiên Chúa duy nhất mà Ngài có Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh
Thần. Ba Ngôi vị thần linh chỉ là một Thiên Chúa duy nhất, vì mỗi Ngôi vị đều
có trọn vẹn bản thể duy nhất và không thể phân chia của Thiên Chúa. Ba Ngôi
thực sự phân biệt giữa nhau qua các liên hệ tương quan với nhau. Chúa Cha sinh
Chúa Con; Chúa Con được Chúa Cha sinh ra; Chúa Thánh Thần xuất phát từ Chúa Cha
và Chúa Con.
49. Các Ngôi vị Thiên Chúa hoạt động như thế
nào? 257-260, 267
Ba Ngôi vị thần linh không thể tách rời nhau trong
cùng một bản thể duy nhất, thì cũng không thể tách rời trong các hoạt động của
mình. Ba Ngôi có cùng một hoạt động duy nhất. Tuy nhiên, trong hoạt động thần
linh duy nhất này, mỗi Ngôi vị hiện diện theo cách đặc thù của mình trong Ba
Ngôi.
"Lạy Thiên Chúa của con, Lạy Ba Ngôi con tôn
thờ... xin ban bình an cho linh hồn con, xin biến linh hồn con thành thiên đàng
của Chúa, nơi trú ngụ dễ mến và nơi yên nghỉ của Chúa. Không bao giờ con muốn
bỏ mặc Chúa một mình, nhưng con sẽ trọn vẹn ở đó, tỉnh thức trong đức tin, hoàn
toàn thờ lạy, và hoàn toàn phó thác vào hoạt động sáng tạo của Chúa."
(Chân phước Elisabeth Chúa Ba Ngôi)
50. Thiên Chúa toàn năng nghĩa là gì? 268-278
Thiên Chúa tự mạc khải chính Ngài là "Ðấng
mạnh mẽ, oai hùng" (Tv 23 [24],8), Ðấng "không có gì là không thể làm
được" (Lc 1,37). Sự toàn năng của Ngài là phổ quát, và mầu nhiệm. Sự toàn
năng này được biểu lộ trong việc sáng tạo vũ trụ từ hư vô và sáng tạo con người
vì tình yêu, nhưng nhất là trong mầu nhiệm Nhập thể và trong sự Phục sinh Con
của Ngài, trong hồng ân đón nhận chúng ta làm nghĩa tử và thứ tha tội lỗi. Vì
thế, Hội thánh dâng lời cầu nguyện lên "Thiên Chúa toàn năng và vĩnh
cửu" ("Omnipotens sempiterne Deus...").
51. Tại sao việc khẳng
định rằng: "Lúc khởi đầu, Thiên Chúa dựng nên trời và đất" (St 1,1)
lại rất quan trọng? 279-289, 315
Bởi vì việc tạo dựng là nền tảng cho tất cả dự định
cứu độ của Thiên Chúa. Tạo dựng là việc biểu lộ tình yêu toàn năng và khôn
ngoan của Thiên Chúa; đó là bước đầu tiên hướng đến Giao ước của Thiên Chúa duy
nhất với dân Ngài; đó là khởi điểm của lịch sử cứu độ, lịch sử này đạt tới chóp
đỉnh nơi Chúa Giêsu; đó là câu trả lời đầu tiên cho các vấn nạn căn bản của con
người về nguồn gốc và cùng đích của mình.
52. Ai đã tạo dựng vũ trụ? 290-292, 316
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là nguyên lý
duy nhất và không thể phân chia của việc tạo dựng, mặc dù công trình tạo dựng vũ
trụ được đặc biệt gán cho Chúa Cha.
53. Vũ trụ được dựng nên để làm gì? 293-294, 319
Vũ trụ được dựng nên để tôn vinh Thiên Chúa, Ðấng
đã muốn biểu lộ và thông ban lòng nhân hậu, chân lý và vẻ đẹp của Ngài. Mục
đích tối hậu của việc tạo dựng là để Thiên Chúa, trong Ðức Kitô, "có toàn
quyền trên muôn loài" (1 Cr 15,28), vì vinh quang của Ngài và hạnh phúc
của chúng ta.
"Vinh quang của Thiên Chúa là con người sống
và sự sống của con người là được nhìn thấy Thiên Chúa" (Thánh Irênê).
54. Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ như thế nào?
295-301, 317-320
Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ cách tự do, bằng sự
khôn ngoan và tình yêu. Vũ trụ không phải là sản phẩm của một luật tất yếu nào
đó, của một định mệnh mù quáng hoặc bởi ngẫu nhiên. Thiên Chúa đã sáng tạo
"từ hư vô" (ex nihilo; 2 Mcb 7,28), một thế giới được sắp xếp trật tự
và tốt lành, nhưng Ngài vô cùng cao cả siêu việt trên mọi loài. Ngài gìn giữ
vạn vật trong sự hiện hữu, nâng đỡ và ban cho nó khả năng hoạt động và hướng
dẫn nó đến sự trọn hảo nhờ Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
55. Sự Quan phòng của Thiên Chúa là gì? 302-306, 321
Sự Quan phòng của Thiên Chúa là những sắp xếp nhờ
đó Thiên Chúa hướng dẫn các thụ tạo của mình đến chỗ hoàn hảo mà Ngài đã định
cho chúng. Thiên Chúa là tác giả tối cao của kế hoạch Ngài; nhưng để thực hiện
kế hoạch đó, Ngài cũng sử dụng sự cộng tác của các thụ tạo. Ðồng thời, Ngài ban
cho chúng phẩm giá là tự hoạt động và trở thành nguyên nhân cho nhau.
56. Con người cộng tác
vào sự Quan phòng của Thiên Chúa như thế nào? 307-308, 323
Tuy tôn trọng tự do của con người, nhưng Thiên Chúa
ban cơ hội và đòi hỏi con người cộng tác với Ngài qua hành động, kinh nguyện và
cả sự đau khổ của họ, khi gợi lên trong họ "ước muốn cũng như hành động
theo lòng nhân hậu của Ngài" (Pl 2,13).
57. Nếu Thiên Chúa toàn
năng và quan phòng, tại sao lại có sự dữ? 309-310, 324, 400
Chỉ có toàn bộ đức tin Kitô giáo mới có thể trả lời
cho câu hỏi vừa bi thảm vừa mầu nhiệm này. Thiên Chúa không bao giờ là nguyên
nhân của sự dữ, dù trực tiếp hay gián tiếp. Ngài làm sáng tỏ mầu nhiệm sự dữ
nhờ Con Ngài là Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã chết và đã sống lại để chiến thắng sự
dữ luân lý to lớn là tội lỗi của con người, nguồn gốc của tất cả những sự dữ
khác.
58. Tại sao Thiên Chúa lại cho phép sự dữ xuất
hiện? 311-314, 324
Ðức tin giúp chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa đã
không cho phép sự dữ xuất hiện, nếu Ngài không làm phát sinh điều thiện hảo từ
chính sự dữ đó. Ðiều này Thiên Chúa đã thực hiện cách tuyệt vời trong cái chết
và sự sống lại của Ðức Kitô. Thật vậy, từ sự dữ luân lý lớn nhất, là cái chết
của Con Ngài, Ngài đã rút ra những điều thiện hảo vĩ đại nhất, đó là việc tôn
vinh Ðức Kitô và là ơn cứu độ chúng ta.
Trời và Ðất
59. Thiên Chúa đã tạo dựng những gì? 325-327
Thánh Kinh nói: "Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng
tạo trời đất" (St 1,1). Trong bản tuyên xưng đức tin, Hội thánh công bố
Thiên Chúa là Ðấng Sáng Tạo muôn vật hữu hình và vô hình, mọi loài thiêng liêng
và vật chất, nghĩa là các thiên thần và thế giới hữu hình, và đặc biệt nhất là
con người.
60. Các thiên thần là ai? 328-333, 350-351
Các thiên thần là những thụ tạo thiêng liêng, không
có thân xác, vô hình và bất tử; đó là những hữu thể có ngôi vị, có lý trí và ý
chí. Họ không ngừng chiêm ngắm Thiên Chúa diện đối diện và tôn vinh Thiên Chúa;
các ngài phục vụ Thiên Chúa và là những sứ giả của Ngài để thực hiện sứ vụ cứu
độ loài người.
61. Các thiên thần hiện diện trong đời sống
của Hội thánh như thế nào?
Hội thánh liên kết với các thiên thần để tôn thờ
Thiên Chúa; Hội thánh kêu cầu sự trợ giúp của các ngài và trong phụng vụ, Hội thánh
kính nhớ một số vị trong các ngài.
"Bên cạnh mỗi tín hữu đều có một thiên thần
như Ðấng bảo trợ và mục tử, hướng dẫn họ đến sự sống" (Thánh Basiliô cả).
62. Thánh Kinh dạy gì về việc tạo dựng thế
giới hữu hình? 337-344
Qua chuyện kể "sáu ngày" tạo dựng, Thánh
Kinh cho chúng ta biết giá trị của thế giới thụ tạo, và mục đích của nó là để
tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ con người. Mọi vật hiện hữu là nhờ Thiên Chúa,
tất cả đều lãnh nhận từ Thiên Chúa sự tốt lành và hoàn hảo, lề luật và vị trí
của mình trong vũ trụ.
63. Ðâu là vị trí của con người trong công
trình tạo dựng? 343-344, 353
Con người là chóp đỉnh của các thụ tạo hữu hình, vì
được dựng nên theo hình ảnh và giống Thiên Chúa.
64. Các thụ tạo liên hệ với nhau như thế nào? 342, 354
Giữa các thụ tạo có mối liên hệ với nhau và một
phẩm trật theo ý Thiên Chúa. Ðồng thời cũng có một sự hợp nhất và liên đới giữa
các thụ tạo, vì tất cả đều có cùng một Ðấng Sáng Tạo, tất cả đều được Ngài yêu
mến và được sắp xếp để tôn vinh Ngài. Vì thế, tôn trọng những lề luật đã được
khắc ghi trong công trình tạo dựng và những mối tương quan phát xuất từ bản
tính của mọi vật, là một nguyên tắc khôn ngoan và là một nền tảng của luân lý.
65. Ðâu là mối liên hệ giữa công trình sáng
tạo và công trình cứu chuộc? 345-349
Công trình sáng tạo đạt tới tột đỉnh trong một công
trình còn vĩ đại hơn nữa, là công trình cứu chuộc. Thật vậy, công trình cứu
chuộc là khởi điểm cho công trình sáng tạo mới, trong đó tất cả sẽ tìm được ý
nghĩa trọn vẹn và sự viên mãn của mình.
Con người
66. Phải hiểu
"Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa" theo nghĩa nào? 355-357
Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa
theo nghĩa họ có khả năng nhận biết và yêu mến một cách tự do Ðấng Sáng Tạo nên
mình. Trên mặt đất, chỉ có con người là thụ tạo đã được Thiên Chúa dựng nên cho
chính họ và mời gọi họ tham dự vào đời sống thần linh của Ngài nhờ nhận biết và
yêu thương. Vì được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, con người có phẩm giá
của một ngôi vị; họ không phải là một sự vật, nhưng là một con người có khả
năng nhận thức về bản thân mình, tự hiến mình cách tự do và đi vào sự hiệp
thông với Thiên Chúa và với tha nhân.
67. Thiên Chúa dựng nên con người với mục đích
gì? 358-359, 381
Thiên Chúa đã dựng nên tất cả cho con người, nhưng
con người được dựng nên để nhận biết, phục vụ và yêu mến Thiên Chúa; hầu ở trần
gian, họ dâng lên Thiên Chúa mọi thụ tạo mà tạ ơn Ngài, nhờ đó họ sẽ được nâng
lên trời sống với Thiên Chúa. Chỉ trong mầu nhiệm của Ngôi Lời Nhập thể mà mầu
nhiệm về con người mới thực sự được sáng tỏ. Con người được tiền định để phản
ánh hình ảnh của Con Thiên Chúa làm người, Ðấng là "hình ảnh trọn hảo của
Thiên Chúa vô hình" (Cl 1,15).
68. Tại sao loài người tạo thành một sự thống
nhất? 360-361
Tất cả mọi người tạo thành sự thống nhất của dòng
giống loài người, vì họ có cùng một nguồn gốc, được lãnh nhận từ nơi Thiên
Chúa. Hơn nữa, Thiên Chúa, "đã tạo thành toàn thể nhân loại từ một người
duy nhất" (Cv 17,26). Tất cả đều có một Ðấng Cứu Ðộ duy nhất. Tất cả đều
được mời gọi dự phần vào hạnh phúc vĩnh cửu của Thiên Chúa.
69. Trong con người,
linh hồn và thân xác tạo thành một sự thống nhất như thế nào? 362-365, 382
Con người là một hữu thể vừa thể xác, lại vừa tinh
thần. Trong con người, tinh thần và vật chất tạo thành một bản thể duy nhất. Sự
thống nhất này rất sâu xa đến độ, nhờ nguyên lý tinh thần là linh hồn mà thể
xác, vốn là vật chất, trở thành một thân xác con người sống động, và được dự
phần vào phẩm giá "là hình ảnh của Thiên Chúa."
70. Ai ban linh hồn cho con người? 366-368, 382
Linh hồn thiêng liêng và bất tử không đến từ cha
mẹ, nhưng được Thiên Chúa tạo dựng cách trực tiếp. Linh hồn lìa khỏi thân xác
lúc người ta chết, nhưng linh hồn không chết. Linh hồn sẽ tái hợp với thân xác
trong ngày sống lại sau hết.
71. Thiên Chúa đã
thiết lập mối liên hệ nào giữa người nam và người nữ? 369-373, 383
Người nam và người nữ được Thiên Chúa dựng nên với
một phẩm giá ngang nhau là những nhân vị, và đồng thời họ bổ túc cho nhau trong
tư cách là nam và nữ. Thiên Chúa đã muốn tạo dựng họ cho nhau, làm nên một sự
hiệp thông các bản vị. Cả hai cùng được mời gọi truyền lại sự sống con người
trong hôn nhân, khi cả hai trở nên "một xương một thịt" (St 2,24) và
làm chủ trái đất như những "người quản lý" của Thiên Chúa.
72. Tình trạng nguyên
thủy của con người theo kế hoạch của Thiên Chúa là gì? 374-379, 384
Khi sáng tạo người nam và người nữ, Thiên Chúa đã
cho họ tham dự cách đặc biệt vào đời sống thần linh của Ngài, trong sự thánh
thiện và công chính. Trong kế hoạch của Thiên Chúa, con người sẽ không phải đau
khổ, cũng không phải chết. Ngoài ra, có một sự hài hòa tuyệt hảo nơi chính con
người, giữa thụ tạo với Ðấng Sáng tạo, giữa người nam với người nữ, cũng như
giữa đôi vợ chồng đầu tiên với toàn thể thụ tạo.
Sự Sa Ngã
73. Làm thế nào để hiểu được thực tại của tội
lỗi? 385-389
Tội lỗi hiện diện trong lịch sử loài người. Một
thực tại như thế chỉ được hiểu biết cách đầy đủ dưới ánh sáng Mạc khải của
Thiên Chúa, và nhất là dưới ánh sáng của Ðức Kitô, Ðấng Cứu Ðộ mọi người, Ðấng
tuôn đổ ân sủng thật sung mãn bất cứ nơi nào tràn đầy tội lỗi.
74. Sự sa ngã của các thiên thần là gì? 391-395, 414
Với cách diễn tả này, người ta muốn nói rằng Satan
và các ma quỉ khác, được Thánh Kinh và Thánh truyền nói đến, vốn là các thiên
thần tốt lành do Thiên Chúa dựng nên, nhưng đã trở thành ác xấu, bởi vì, qua
việc chọn lựa tự do và dứt khoát, chúng từ chối Thiên Chúa và Vương quyền của
Ngài và như thế làm phát sinh ra hỏa ngục. Chúng cố gắng lôi kéo con người vào
cuộc nổi loạn chống lại Thiên Chúa; nhưng trong Ðức Kitô, Thiên Chúa xác nhận
chiến thắng chắc chắn của Ngài trên Ác thần.
75. Tội đầu tiên của con người cốt tại điều
gì? 396-403, 415-417
Con người, bị ma quỷ cám dỗ, đã dập tắt trong trái
tim mình sự tin tưởng vào những liên hệ với Ðấng Sáng Tạo của mình. Khi không
tuân phục Thiên Chúa, con người muốn trở nên "như Thiên Chúa," không
nhìn nhận Thiên Chúa và không còn căn cứ vào Thiên Chúa nữa (St 3,5). Như thế,
Ađam và Evà lập tức đánh mất ân sủng của sự thánh thiện và sự công chính nguyên
thủy cho bản thân và tất cả con cháu họ.
76. Tội tổ tông truyền là gì? 404, 419
Mọi người đều bị sinh ra trong nguyên tội. Nguyên
tội là tình trạng thiếu vắng ơn thánh sủng và sự công chính nguyên thủy. Ðó là
một tội mà chúng ta "vướng mắc" chứ không phải là một tội mà chúng ta
vấp phạm; đó là tình trạng lúc chào đời chứ không phải là một hành vi cá nhân.
Do sự thống nhất của toàn thể loài người, tội này được truyền lại cho con cháu
của Ađam trong bản tính loài người, "không phải do bắt chước, nhưng là qua
truyền sinh." Việc truyền đạt này là một mầu nhiệm mà chúng ta không thể
hiểu được cách trọn vẹn.
77. Những hậu quả khác do nguyên tội gây nên
là gì? 405-409, 418
Sau khi tổ tông đã phạm tội, bản tính con người
không hoàn toàn bị hủy hoại, nhưng bị thương tật trong các sức lực tự nhiên của
mình, chịu sự u mê, đau khổ và nằm dưới quyền lực sự chết; bản tính con người
bị nghiêng chiều về tội lỗi. Sự nghiêng chiều này được gọi là dục vọng
(concupiscentia).
78. Thiên Chúa đã làm gì sau tội đầu tiên của
con người? 410-412, 420
Sau tội đầu tiên, thế gian đã bị tràn ngập tội lỗi,
nhưng Thiên Chúa đã không bỏ rơi con người dưới quyền lực sự chết. Trái lại,
Ngài đã tiên báo cách mầu nhiệm - trong "Tiền Tin Mừng" (x. St 3,15)
- rằng sự dữ sẽ bị đánh bại và con người sẽ được nâng dậy khỏi sự sa ngã của họ.
Ðó là lời tiên báo đầu tiên về Ðấng Mêsia cứu chuộc. Vì thế, chúng ta đã gọi sự
sa ngã là "tội hồng phúc" (felix culpa), vì "nhờ có ngươi, ta
mới có được Ðấng Cứu Chuộc cao cả dường này" (Phụng Vụ đêm Vọng Phục
sinh).
Chương
Hai: Tôi Tin Kính Ðức Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa (79-135)
79. Tin Mừng cho con người là gì? 422-424
Tin Mừng là lời loan báo về Ðức Giêsu Kitô,
"Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16), Ðấng đã chết và đã sống lại.
Vào thời vua Hêrôđê và Hoàng Ðế Xêdarê Augustô, Thiên Chúa đã thực hiện những
lời Ngài đã hứa với Ábraham và dòng dõi qua việc Ngài đã sai "Con Mình
tới, sinh làm con một người nữ và sống dưới lề luật, để chuộc những ai sống
dưới lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử" (Ga 4,4-5).
80. Tin Mừng này được loan truyền như thế nào?
425-429
Ngay từ đầu, các môn đệ tiên khởi đã khao khát loan
báo Ðức Giêsu Kitô, nhằm làm cho mọi người tin vào Người. Ngày nay cũng thế, sự
hiểu biết say mê Ðức Kitô làm nẩy sinh nơi các tín hữu niềm khao khát rao giảng
Tin Mừng và dạy giáo lý, nghĩa là giúp mọi người nhận thấy tất cả kế hoạch của
Thiên Chúa trong con người Chúa Giêsu và dẫn đưa nhân loại đến hiệp thông với
Người.
"Tôi Tin
Kính Ðức Chúa Giêsu Kitô, Là Con Một Ðức Chúa Cha, Cùng Là Chúa Chúng Tôi"
81. Danh thánh "Giêsu" nghĩa là gì? 430-435, 452
Danh thánh Giêsu, được thiên thần gọi ngay từ lúc
Truyền tin, có nghĩa là "Thiên Chúa cứu độ". Danh thánh này nói lên
căn tính và sứ mạng của Chúa Giêsu, vì "chính Người sẽ cứu dân mình khỏi
tội" (Mt 1,21). Thánh Phêrô khẳng định rằng "dưới gầm trời này không
có danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ vào Danh đó mà được
cứu độ" (Cv 4,12).
82. Tại sao Chúa Giêsu lại được gọi là
"Ðấng Kitô"? 436-440, 453
"Kitô" là tiếng Hy Lạp, còn
"Mêsia" là tiếng Hypri, có nghĩa là "được xức dầu". Chúa
Giêsu là Ðấng Kitô vì Người được Thiên Chúa thánh hiến, được xức dầu bằng Chúa
Thánh Thần để đảm nhận sứ mạng cứu chuộc của Người. Người là Ðấng Mêsia mà dân
83. Chúa Giêsu là "Con Một Thiên
Chúa" theo ý nghĩa nào? 441-445, 454
Chúa Giêsu là "Con Một Thiên Chúa" theo
một ý nghĩa duy nhất và trọn hảo. Vào lúc Người chịu phép rửa và trong cuộc
Hiển Dung, tiếng của Chúa Cha cho thấy Chúa Giêsu là "Con yêu dấu"
của Ngài. Khi Chúa Giêsu tự giới thiệu mình là Con, chỉ mình Người "biết
Chúa Cha" (Mt 11,27), Người khẳng định mối tương quan duy nhất và vĩnh cửu
của mình với Thiên Chúa là Cha của Người. "Người là Con duy nhất của Thiên
Chúa" (1 Ga 4,9), là Ngôi Hai trong Ba Ngôi. Người là trung tâm của lời
rao giảng của các thánh Tông đồ: các Tông đồ đã thấy "vinh quang của
Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một" (Ga 1,14).
84. Tước hiệu "Ðức Chúa" có ý nghĩa
gì? 446-451, 455
Trong Thánh Kinh, thường tước hiệu này để chỉ Thiên
Chúa tối cao. Chúa Giêsu tự nhận cho mình tước hiệu này và mạc khải quyền tối
thượng thần linh của Người qua quyền năng của Người trên thiên nhiên, trên ma
quỉ, trên tội lỗi và trên cái chết, và nhất là qua cuộc phục sinh của Người.
Những tuyên xưng đầu tiên của các người Kitô hữu công bố quyền năng, danh dự và
vinh quang dành cho Thiên Chúa Cha cũng thuộc về Chúa Giêsu, Ðấng mà Thiên Chúa
"đã ban tặng danh hiệu trổi vượt trên mọi danh hiệu" (Pl 2,9). Người
là Ðức Chúa của trần gian và của lịch sử, là Ðấng duy nhất mà mọi người, với sự
tự do của mình, phải hoàn toàn tùng phục.
"Bởi
Phép Ðức Chúa Thánh Thần Mà Người Xuống Thai Sinh Bởi Bà Maria Ðồng Trinh"
85. Tại sao Con Thiên Chúa làm người? 456-460
Con Thiên Chúa đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ
Maria bởi phép Chúa Thánh Thần, vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta,
có nghĩa là để chúng ta, là những kẻ tội lỗi, được giao hòa với Thiên Chúa, để
cho chúng ta biết được tình thương vô bờ bến của Ngài, để trở nên mẫu gương cho
chúng ta về sự thánh thiện và để làm cho chúng ta trở thành những người
"được thông phần bản tính Thiên Chúa ( 2 Pr 1,4).
86. Hai tiếng "Nhập Thể" có nghĩa là
gì? 461-463, 483
Hội thánh dùng từ "Nhập Thể" để gọi mầu
nhiệm của sự kết hợp tuyệt vời của thần tính và nhân tính trong Ngôi vị thần
linh duy nhất của Ngôi Lời. Ðể thực hiện công cuộc cứu rỗi chúng ta, Con Thiên
Chúa đã hóa thành "xác thể" (Ga 1,14), trở thành con người thật. Ðức
tin vào mầu nhiệm Nhập thể là dấu chỉ phân biệt của niềm tin Kitô giáo.
87. Ðức Giêsu Kitô vừa
là Thiên Chúa thật, vừa là người thật như thế nào? 464-467, 469
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật,
không thể tách rời nhau trong sự duy nhất của Ngôi vị Thiên Chúa của Người.
Chính Người là Con Thiên Chúa, là Ðấng "được sinh ra mà không phải được
tạo thành, đồng bản thể với Ðức Chúa Cha", Người thật sự trở thành con
người, trở thành anh em của chúng ta, tuy không ngừng là Thiên Chúa, là Ðức
Chúa của chúng ta.
88. Công đồng Chalcedonia (năm 451) dạy gì về
vấn đề này? 467
Công đồng Chalcedonia dạy chúng ta phải tuyên xưng:
"một Chúa Con duy nhất, là Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Người hoàn hảo
trong thần tính, Người cũng hoàn hảo trong nhân tính, thật sự là Thiên Chúa và
thật sự là người, có một linh hồn có lý trí và một thân xác, đồng bản thể với
Chúa Cha theo thần tính mà cũng đồng bản thể với chúng ta theo nhân tính,
"giống chúng ta về mọi phương diện ngoại trừ tội lỗi" (Dt 4,15), sinh
bởi Ðức Chúa Cha theo thần tính từ trước muôn đời, và trong những ngày cuối
cùng này, vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người được sinh ra theo nhân tính
từ Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa."
89. Hội thánh diễn tả mầu nhiệm Nhập thể như
thế nào? 464-469, 479-481
Hội thánh diễn tả mầu nhiệm này khi xác quyết rằng
Ðức Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật, với hai bản tính là thần
tính và nhân tính, không lẫn lộn, nhưng kết hợp trong Ngôi Lời. Vì thế, trong
nhân tính của Chúa Giêsu, tất cả - các phép lạ, đau khổ và cái chết - đều được
qui về Ngôi vị thần linh của Người, Ðấng hoạt động qua nhân tính mà Ngôi vị này
đảm nhận.
"Ôi Con duy nhất và là Ngôi Lời của Thiên
Chúa, dù bất tử, nhưng để cứu rỗi chúng con, Chúa đã nhập thể nơi Ðức Maria, Mẹ
rất thánh của Thiên Chúa và mãi mãi đồng trinh... Chúa là Một trong Ba Ngôi chí
thánh, được tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, xin cứu độ chúng
con!" (Phụng vụ Byzantin của thánh Gioan Kim Khẩu).
90. Có phải Con Thiên
Chúa làm người có một linh hồn với tri thức nhân loại không? 470-474, 482
Con Thiên Chúa đã đón nhận một thân xác được một
linh hồn nhân loại có tri thức làm cho sinh động. Với tri thức nhân loại, Chúa
Giêsu đã học hỏi nhiều qua kinh nghiệm. Nhưng cũng với tư cách là con người,
Con Thiên Chúa có một sự hiểu biết thâm sâu và trực tiếp về Thiên Chúa, Cha của
Người. Người cũng nhìn thấu những tư tưởng thầm kín của con người và hiểu biết
đầy đủ các ý định muôn thuở mà Người đến để mạc khải.
91. Hai ý muốn nơi Ngôi Lời nhập thể hợp tác
với nhau như thế nào? 475, 482
Chúa Giêsu có một ý muốn của Thiên Chúa và một ý
muốn của con người. Trong cuộc sống nơi trần gian, Con Thiên Chúa đã muốn làm
theo con người điều mà Người đã quyết định theo thần tính với Chúa Cha và Chúa
Thánh Thần về ơn cứu độ chúng ta. Ý muốn nhân loại của Ðức Kitô luôn theo ý
muốn thần linh, không miễn cưỡng, không đối kháng, và hơn nữa, ý muốn nhân loại
của Người đã tùng phục ý muốn thần linh.
92. Ðức Kitô có một thân xác con người thật
không? 476-477
Ðức Kitô đã đón nhận một thân xác thật sự của con
người, qua đó Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình. Vì thế, Ðức Kitô có thể
được trình bày và tôn kính qua các ảnh tượng thánh.
93. Trái tim của Ðức Kitô nói lên điều gì? 478
Ðức Kitô biết và yêu thương chúng ta bằng một trái
tim của con người. Trái tim của Người bị đâm thâu để cứu độ chúng ta, là biểu
trưng cho tình yêu vô biên của Người đối với Chúa Cha và đối với tất cả mọi
người.
94. Câu "Bởi phép
Ðức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai" có ý nghĩa gì? 484-486
Câu này muốn nói lên rằng Ðức Trinh Nữ Maria đã thụ
thai trong lòng mình Người Con Vĩnh Cửu là bởi tác động của Chúa Thánh Thần chứ
không có sự cộng tác của một người nam: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên
Bà" (Lc 1,35), đó là lời thiên thần đã nói với Ðức Maria lúc Truyền tin.
95. "...sinh bởi Bà Maria Ðồng
Trinh": tại sao Ðức Maria thực sự là Mẹ Thiên Chúa? 495, 509
Ðức Maria thật sự là Mẹ Thiên Chúa bởi vì là Mẹ của
Chúa Giêsu (Ga 2,1; 19,25). Thật vậy, Ðấng mà Mẹ đã cưu mang bởi tác động của
Chúa Thánh Thần và đã thực sự là con của Mẹ, chính là Con hằng hữu của Thiên
Chúa Cha. Chính Người là Thiên Chúa.
96. "Vô Nhiễm Nguyên Tội" nghĩa là
gì? 487-492, 508
Từ muôn thuở và một cách hoàn toàn nhưng không,
Thiên Chúa đã chọn Ðức Maria làm Mẹ của Con mình. Ðể chu toàn sứ mạng này, Mẹ
đã được ơn vô nhiễm ngay từ lúc được thụ thai. Ðiều này có nghĩa là, nhờ ân
sủng của Thiên Chúa và đón nhận trước công nghiệp của Ðức Giêsu Kitô, Ðức Maria
đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ ngay từ lúc được thụ thai.
97. Ðức Maria đã cộng
tác vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa như thế nào? 493-494, 508-511
Nhờ ân sủng của Thiên Chúa, Ðức Maria, suốt đời vẫn
tinh tuyền không hề phạm một tội riêng nào. Mẹ là "Ðấng đầy ân phúc"
(Lc 1,28), "Ðấng rất thánh." Khi Thiên Thần báo tin rằng Mẹ sẽ sinh
"Con Ðấng Tối cao" (Lc 1,32), Mẹ đã tự do chấp nhận trong "sự
vâng phục của đức tin" (Rm 1,5). Ðức Maria tự hiến hoàn toàn cho con người
và công trình của Chúa Giêsu, Con của Mẹ, và với trọn tâm hồn Mẹ chấp nhận ý
định cứu độ của Thiên Chúa.
98. Việc mang thai Chúa Giêsu một cách đồng
trinh có ý nghĩa gì? 496-498, 503
Ðiều này có nghĩa là Chúa Giêsu được thụ thai trong
lòng Ðức Trinh Nữ chỉ do quyền năng của Chúa Thánh Thần mà thôi, không có sự
can thiệp của người đàn ông. Người là Con Thiên Chúa trên trời theo thần tính,
là Con của Ðức Maria theo nhân tính, nhưng thực sự là Con Thiên Chúa trong hai
bản tính, cùng hiện diện trong một Ngôi vị duy nhất, là ngôi vị thần linh.
99. Câu "Ðức Maria trọn đời đồng
trinh" có ý nghĩa gì? 499-507, 510-511
"Ðức Maria trọn đời đồng trinh" có nghĩa
là Mẹ "vẫn còn đồng trinh khi thụ thai Con mình, đồng trinh khi sinh Con,
đồng trinh khi bồng ẵm Người, đồng trinh khi cho Người bú mớm, là người mẹ đồng
trinh, vĩnh viễn đồng trinh" (thánh Augustinô). Khi các Phúc Âm nói về
"anh chị em của Chúa Giêsu," thì đó là những người bà con họ hàng gần
của Chúa Giêsu, theo như cách nói thông thường trong Thánh Kinh.
100. Bằng cách nào
tình mẫu tử thiêng liêng của Ðức Maria mang tính phổ quát? 501-507, 511
Ðức Maria chỉ có một người Con duy nhất, là Chúa
Giêsu, nhưng trong Người, tình mẫu tử thiêng liêng của Mẹ nới rộng cho hết mọi
người đã được Chúa Giêsu cứu độ. Vâng phục bên cạnh Ađam mới là Ðức Giêsu Kitô,
Ðức Trinh Nữ là bà Evà mới, bà mẹ đích thực của chúng sinh. Với tình yêu từ
mẫu, Mẹ cộng tác vào việc sinh hạ và nuôi dưỡng họ trong trật tự ân sủng. Vừa
là Trinh Nữ vừa là Mẹ, Ðức Maria là hình ảnh của Hội thánh, là sự thể hiện toàn
hảo nhất của Hội thánh.
101. "Cả cuộc đời Ðức Kitô là một Mầu
nhiệm" nghĩa là gì? 512-521, 561-562
Cả cuộc đời của Ðức Kitô là một sự kiện mạc khải.
Ðiều có thể thấy được trong cuộc đời trần thế của Người dẫn chúng ta đến Mầu
nhiệm vô hình , nhất là Mầu nhiệm Con Thiên Chúa của Người: "Ai thấy Tôi
là thấy Chúa Cha" (Ga 14,9). Ðàng khác, mặc dù ơn cứu độ đã được hoàn
thành trọn vẹn qua thập giá và cuộc phục sinh, nhưng trọn cuộc đời của Ðức Kitô
là Mầu nhiệm cứu độ, vì tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm, đã nói và đã chịu
đau khổ đều có mục đích là để cứu độ loài người sa ngã và để tái lập ơn gọi làm
con Thiên Chúa của chúng ta.
102. Các mầu nhiệm của Chúa Giêsu đã được
chuẩn bị như thế nào? 522-524
Trước hết, đã có một thời gian hy vọng lâu dài hằng
bao thế kỷ, mà chúng ta cảm nhận lại khi cử hành Phụng vụ mùa Vọng. Ngoài sự
chờ đợi lờ mờ mà Thiên Chúa đã đặt để trong tâm hồn các người ngoại giáo, Thiên
Chúa đã chuẩn bị cho việc Con Ngài ngự đến qua Giao ước cũ, cho đến thời ông
Gioan Tẩy Giả, là người cuối cùng, nhưng lại vĩ đại nhất trong số các tiên tri.
103. Tin Mừng về mầu
nhiệm Giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Giêsu dạy chúng ta điều gì? 525-530, 563-564
Vào lúc Giáng sinh, vinh quang thiên quốc được tỏ
lộ trong sự yếu đuối của Hài Nhi. Việc cắt bì Chúa Giêsu đã lãnh nhận là dấu
chỉ Người thuộc về dân Do Thái và tượng trưng cho Bí tích Rửa tội của chúng ta.
Hiển Linh là việc Vua-Mêsia của
104. Quãng đời ẩn dật
của Chúa Giêsu tại
Suốt cuộc sống ẩn dật ở
105. Tại sao Chúa
Giêsu lãnh nhận phép rửa của ông Gioan để "sám hối hầu được ơn tha
tội" (Lc 3,3)? 535-537, 565
Ðể khởi đầu quãng đời công khai và để tham dự trước
vào Phép rửa là cái chết của mình, Chúa Giêsu, dù không có tội lỗi nào, và là
"Chiên Thiên Chúa, Ðấng xoá tội trần gian" (Ga 1,29), cũng chấp nhận
liệt mình vào hàng các tội nhân. Chúa Cha tuyên bố Người là "Con yêu
dấu" của mình (Mt 3,17) và Thánh Thần ngự xuống trên Người. Phép rửa của
Chúa Giêsu là hình ảnh báo trước Bí tích Rửa tội của chúng ta.
106. Những cơn cám dỗ
của Chúa Giêsu trong sa mạc nói lên điều gì? 538-540, 566
Những cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu trong sa mạc thu
tóm cơn cám dỗ của Ađam trong vườn địa đàng và những cơn cám dỗ của
107. Ai được mời gọi
tham dự vào Nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu loan báo và thực hiện? 541-546, 567
Chúa Giêsu mời gọi mọi người tham dự vào Nước Thiên
Chúa. Cả kẻ xấu xa nhất trong các tội nhân cũng được mời gọi sám hối và đón
nhận lòng thương xót vô biên của Chúa Cha. Ngay trên mặt đất này, Nước Thiên
Chúa đã thuộc về những ai đón nhận với tâm hồn khiêm tốn. Những mầu nhiệm của
Nước Thiên Chúa được mạc khải cho những người này.
108. Tại sao Chúa
Giêsu biểu lộ Nước Trời bằng các dấu chỉ và phép lạ? 547-550, 567
Chúa Giêsu làm các dấu chỉ và phép lạ kèm theo lời
của Người, để chứng tỏ rằng Nước Trời đang hiện diện nơi Người, là Ðấng Mêsia.
Mặc dù đã chữa lành một số bệnh nhân, Người không đến để loại trừ mọi cái xấu
ra khỏi trái đất, nhưng trước hết là để giải phóng con người khỏi ách nô lệ tội
lỗi. Cuộc chiến đấu chống lại ma quỉ báo trước rằng thập giá của Người sẽ chiến
thắng "thủ lãnh thế gian" (Ga 12,31).
109. Trong Nước Trời,
Chúa Giêsu đã trao quyền hành nào cho các Tông đồ của Người? 551-553, 567
Chúa Giêsu chọn Nhóm Mười Hai, những chứng nhân
tương lai cho cuộc phục sinh của Người. Người cho họ tham dự vào sứ vụ và quyền
hành của Người để dạy dỗ, tha thứ tội lỗi, xây dựng và điều khiển Hội thánh.
Trong Nhóm này, thánh Phêrô lãnh nhận "chìa khóa Nước Trời" (Mt
16,19) và chiếm địa vị thứ nhất, có sứ mạng gìn giữ đức tin được toàn vẹn và
củng cố các anh em mình.
110. Việc Hiển Dung có ý nghĩa gì? 554-556, 568
Trước hết, Thiên Chúa Ba Ngôi xuất hiện trong cuộc
Hiển Dung: "Chúa Cha trong lời nói, Chúa Con trong nhân tính của mình,
Chúa Thánh Thần trong đám mây sáng chói" (thánh Tôma Aquinô). Khi gợi lên
cho ông Môsê và ông Êlia về cuộc "ra đi của mình" (Lc 9,31), Chúa
Giêsu cho thấy rằng vinh quang của Người phải kinh qua thập giá; và Người sống
trước cuộc phục sinh và cuộc trở lại trong vinh quang của Người, lúc Người
"sẽ biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển
của Người" (Pl 3,21).
"Chúa đã hiển dung trên núi và các môn đệ
chiêm ngắm vinh quang Người tùy khả năng, để mai sau khi thấy Người chịu đóng
đinh thập giá, họ hiểu rằng Người đã tự nguyện chịu khổ hình. Rồi họ sẽ loan
báo cho muôn dân biết Người chính là vinh quang Chúa Cha chiếu tỏa" (Phụng
Vụ Byzantin).
111. Chúa Giêsu vào
thành Giêrusalem với tư cách là Ðấng Mêsia như thế nào? 557-560, 569-570
Vào thời gian đã định, Chúa Giêsu quyết lên
Giêrusalem để chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại từ cõi chết. Với tư cách là
Ðức Vua-Mêsia, Ðấng loan báo Vương quốc của Thiên Chúa đến, Người đi vào thành
của Người, cỡi trên một con lừa. Những kẻ bé mọn đón rước Người bằng lời tung
hô mà về sau được đưa vào kinh "Thánh! Thánh! Thánh!" trong Thánh Lễ:
"Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa" (Mt 21,9). Phụng vụ Hội thánh
khởi đầu Tuần Thánh bằng việc cử hành biến cố này.
"Ðức
Giêsu Kitô Ðã Chịu Nạn Ðời Quan Phongxiô Philatô, Chịu Ðóng Ðinh Trên Cây Thánh
Giá, Chết Và Táng Xác"
112. Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu có tầm
quan trọng nào? 571-573
Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu, bao gồm cuộc khổ
nạn, cái chết, sự phục sinh và tôn vinh của Người, là trung tâm của đức tin
Kitô giáo. Vì ý định cứu độ của Thiên Chúa được hoàn tất một lần thay cho tất
cả nhờ cái chết cứu độ của Con Thiên Chúa là Ðức Giêsu Kitô.
113. Chúa Giêsu bị kết án vì những lời buộc tội
nào? 574-576
Một số thủ lãnh Israel đã kết án Chúa Giêsu chống
lại Lề Luật, chống lại Ðền thờ Giêrusalem và đặc biệt chống lại niềm tin vào
Thiên Chúa duy nhất, bởi vì Người tự tuyên bố mình là Con của Thiên Chúa. Chính
vì thế họ đã nộp Người cho quan Philatô, để Người bị kết án tử hình.
114. Ðâu là thái độ của Chúa Giêsu đối với Lề
luật
Chúa Giêsu không hủy bỏ Lề luật do Thiên Chúa trao
ban cho ông Môsê trên núi Sinai, nhưng Người đã làm cho Lề luật nên trọn bằng
cách đem lại cho Lề luật lời giải thích tối hậu. Người là Ðấng ban hành Lề luật
của Thiên Chúa, Ðấng chu toàn Lề luật cách viên mãn. Ngoài ra, qua cái chết đền
tội trong vai trò Người Tôi Trung, Người hiến dâng hy tế duy nhất có khả năng
cứu chuộc tất cả "tội lỗi người ta đã phạm trong thời Giao ước đầu
tiên" (Dt 9,15).
115. Ðâu là thái độ của Chúa Giêsu đối với Ðền
thờ Giêrusalem? 583-586, 593
Chúa Giêsu bị kết án là có thái độ thù nghịch với
Ðền thờ. Thực ra, Người đã tôn trọng Ðền thờ như là "nhà của Cha
mình" (Ga 2,16). Chính tại đó Người đã giảng dạy một phần giáo huấn quan
trọng của Người. Nhưng Người cũng báo trước Ðền thờ sẽ bị tàn phá, trong liên
hệ với cái chết của Người. Người tự giới thiệu mình là nơi cư ngụ vĩnh viễn của
Thiên Chúa giữa loài người.
116. Chúa Giêsu có
chống lại niềm tin của
Chúa Giêsu không bao giờ chống lại niềm tin vào
Thiên Chúa duy nhất, cả khi Người hoàn tất công trình của Thiên Chúa cách trọn
hảo, chu toàn các lời hứa về Ðấng Mêsia và đồng thời mạc khải Người ngang hàng
với Thiên Chúa: đó là việc tha thứ các tội lỗi. Người mời gọi chúng ta phải tin
vào Người và phải sám hối, giúp chúng ta nhận ra sự hiểu lầm bi thảm của Công
nghị đã kết án Người đáng phải chết vì lý do phạm thượng.
117. Ai chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa
Giêsu? 595-598
Không thể qui trách nhiệm cuộc khổ nạn và cái chết
của Chúa Giêsu một cách không phân biệt cho mọi người Do Thái thời đó, cũng như
cho con cháu họ sau này. Mỗi tội nhân, nghĩa là mọi người, thực sự là nguyên
nhân và công cụ gây nên những đau khổ của Ðấng Cứu Chuộc. Chịu trách nhiệm nặng
nề hơn nữa là những người, đặc biệt nhất là các người Kitô hữu, thường xuyên sa
ngã phạm tội và vui thoả trong những điều xấu xa.
118. Tại sao cái chết
của Chúa Giêsu lại nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa? 599-605, 619
Ðể tất cả chúng ta, là những kẻ đáng chết, được
giao hòa trong Ðức Kitô, Thiên Chúa đã đưa ra một kế hoạch tràn đầy tình yêu là
sai Con mình đến phó mình chịu chết vì những kẻ tội lỗi. Cái chết của Ðức Kitô
đã được loan báo trong Cựu Ước, đặc biệt như hy tế của Người Tôi Tớ chịu đau
khổ, và đã xảy ra "theo như lời Thánh Kinh."
119. Ðức Kitô đã dâng hiến mình cho Chúa Cha
như thế nào? 606-609, 620
Ðức Kitô đã tự do dâng hiến mình cho Chúa Cha, để
chu toàn ý định cứu độ. Người đã trao ban sự sống "làm giá chuộc cho nhiều
người" (Mc 10,45). Nhờ đó, Người giao hòa toàn thể nhân loại với Thiên
Chúa. Sự đau khổ và cái chết của Người cho thấy nhân tính của Người là dụng cụ
tự do và hoàn hảo để Thiên Chúa, Ðấng muốn cứu độ mọi người, thể hiện tình yêu
của Ngài.
120. Việc dâng hiến
của Chúa Giêsu được diễn tả như thế nào trong Bữa Tiệc Ly? 610-611, 621
Trong Bữa Tiệc Ly với các Tông đồ vào buổi tối
trước cuộc Khổ nạn, Chúa Giêsu đã tham dự trước, nghĩa là Người ám chỉ và thực
hiện trước, việc tự nguyện dâng hiến chính mình: "Ðây là Mình Thầy bị nộp
vì anh em" (Lc 22,19); "Ðây là Máu Thầy, máu đổ ra..." (Mt
26,28). Như thế, Người vừa thiết lập Bí tích Thánh Thể như việc "tưởng nhớ"
(1 Cr 11,25) đến hy tế của Người, vừa thiết lập các Tông đồ của Người thành
những tư tế của Giao ước mới.
121. Ðiều gì đã xảy ra trong cơn hấp hối nơi
vườn Giếtsêmani? 612
Mặc dầu nhân tính rất thánh của Ðấng là "Tác
giả sự sống" (Cv 3,15) đã khiếp sợ sự chết, nhưng ý chí nhân loại của Con
Thiên Chúa vẫn tùng phục thánh ý Chúa Cha: để cứu độ chúng ta, Chúa Giêsu chấp
nhận gánh lấy tội lỗi chúng ta trong thân xác mình, Người "vâng lời cho
đến nỗi bằng lòng chịu chết" (Pl 2,8).
122. Hiệu quả hy tế của Ðức Kitô trên thập giá
là gì? 613-617, 622-623
Chúa Giêsu tự nguyện hiến dâng mạng sống mình làm
hy lễ đền tội, nghĩa là Người sửa lại tội lỗi chúng ta bằng sự vâng phục trọn
vẹn của Người vì tình yêu cho đến chết. Tình "Yêu thương đến cùng"
(Ga 13,1) của Con Thiên Chúa đã giao hòa toàn thể nhân loại với Thiên Chúa. Như
vậy, Hy lễ Vượt qua của Ðức Kitô cứu chuộc mọi người cách độc nhất vô nhị, hoàn
hảo và tối hậu, và mở lối cho họ vào sự hiệp thông với Thiên Chúa.
123. Tại sao Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ vác
lấy thập giá của họ? 618
Khi kêu gọi các môn đệ vác thập giá mình mà theo
Người, Chúa Giêsu muốn những người đầu tiên hưởng nhờ hy tế cứu độ của Người
được kết hợp vào hy tế ấy.
124. Thân xác của Chúa
Giêsu ở trong tình trạng nào khi Người nằm trong mồ? 624-630
Ðức Kitô đã chết thật sự và đã được mai táng thật
sự. Nhưng quyền năng Thiên Chúa đã gìn giữ thân xác Người khỏi bị hư nát.
"Ðức
Giêsu Kitô Xuống Ngục Tổ Tông, Ngày Thứ Ba Bởi Trong Kẻ Chết Mà Sống Lại"
125. "Ngục tổ tông" mà Chúa Giêsu đi
xuống là gì? 632-637
"Ngục tổ tông" - khác với hỏa ngục của án
phạt - là tình trạng của những người chết trước thời của Chúa Giêsu, dù họ lành
thánh hay xấu xa. Với linh hồn được kết hợp với Ngôi vị thần linh, Chúa Giêsu
xuống với những kẻ công chính trong ngục tổ tông, là những người đang mong chờ
Ðấng Cứu Chuộc họ, để cuối cùng họ có thể đạt được sự hưởng kiến Thiên Chúa.
Sau khi nhờ cái chết của Người, Chúa Giêsu đã chiến thắng cả sự chết lẫn ma quỉ
là "lãnh chúa của sự chết" (Dt 2,14), Người giải thoát những người
công chính đang mong chờ Ðấng Cứu Chuộc, và Người mở cửa trời cho họ.
126. Cuộc Phục sinh
của Chúa Giêsu có vị trí nào trong đức tin của chúng ta? 631, 638
Cuộc Phục sinh là chân lý cao cả nhất của đức tin
chúng ta vào Ðức Kitô. Với thập giá, cuộc Phục sinh là phần thiết yếu của mầu
nhiệm Vượt qua.
127. Những "dấu
chỉ" nào làm chứng cho cuộc Phục sinh của Chúa Giêsu? 639-644, 656-657
Ngoài dấu chỉ chính yếu là mồ trống, cuộc Phục sinh
của Chúa Giêsu được làm chứng bởi một số phụ nữ; họ là những người đầu tiên đã
gặp gỡ Người và đã báo tin cho các Tông đồ. Tiếp đó, Chúa Giêsu đã "hiện
ra với Kêpha" (tức là thánh Phêrô), rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người
đã hiện ra cùng một lúc với hơn năm trăm anh em (1 Cr 15,5-6) và còn nhiều
người khác nữa. Các Tông đồ đã không thể bày đặt ra chuyện Phục sinh, vì Phục
sinh đối với họ là chuyện không thể có được. Quả thật, Chúa Giêsu cũng đã trách
cứ sự cứng lòng tin của họ.
128. Tại sao Phục sinh cũng là một biến cố
siêu việt? 647, 656-657
Tuy là một sự kiện mang tính lịch sử, có thể xác
định và chứng thực qua các dấu chỉ và chứng cớ, nhưng vì là việc nhân tính của
Ðức Kitô bước vào vinh quang của Thiên Chúa, nên Phục sinh cũng siêu việt và
vượt quá lịch sử, thực sự là Mầu nhiệm đức tin. Chính vì thế, Ðức Kitô Phục
sinh không tỏ mình ra cho thế gian, nhưng chỉ cho các môn đệ Người, làm cho họ
trở thành những chứng nhân của Người trước mặt dân chúng.
129. Thân xác phục sinh của Chúa Giêsu ở trong
tình trạng nào? 645-646
Sự Phục sinh của Ðức Kitô không phải là một cuộc
trở lại đời sống trần thế. Thân xác phục sinh của Người, cũng chính là thân xác
đã chịu đóng đinh, và vẫn mang vết tích của cuộc khổ nạn, nhưng từ lúc Phục
sinh, thân xác này được tham dự vào đời sống thần linh với những đặc điểm của
một thân xác vinh hiển. Vì thế, Ðức Giêsu Kitô Phục sinh tuyệt đối tự do khi
hiện ra với các môn đệ Người, theo cách thức và nơi chốn như Người muốn, dưới
nhiều hình dạng khác nhau.
130. Sự Phục sinh là công trình của Ba Ngôi
Cực Thánh theo cách nào? 648-650
Sự Phục sinh của Ðức Kitô là một hành động siêu việt
của Thiên Chúa. Cả Ba Ngôi cùng hoạt động chung theo tính cách riêng biệt của
mỗi Ngôi: Chúa Cha bày tỏ quyền năng của mình; Chúa Con "lấy lại" sự
sống mà Người đã tự do dâng hiến (Ga 10,17) bằng cách kết hợp linh hồn và thân
xác mình, mà Chúa Thánh Thần làm cho sống động và tôn vinh.
131. Ðâu là ý nghĩa và ảnh hưởng của cuộc Phục
sinh đối với ơn cứu độ? 651-655, 658
Phục sinh là chóp đỉnh của mầu nhiệm Nhập Thể, xác
nhận thần tính của Ðức Kitô cũng như tất cả những gì Người đã làm và đã giảng
dạy. Cuộc Phục sinh thực hiện tất cả các lời hứa của Thiên Chúa vì lợi ích của
chúng ta. Hơn nữa, Ðấng Phục sinh, Ðấng chiến thắng tội lỗi và cái chết, là
nguyên lý cho việc công chính hóa và sự phục sinh của chúng ta. Ngay từ bây
giờ, Phục sinh mang lại cho chúng ta ơn được làm nghĩa tử Thiên Chúa, khiến
chúng ta được thực sự tham dự vào sự sống của Con duy nhất, Ðấng sẽ làm cho
thân xác chúng ta được sống lại vào ngày tận thế.
"Chúa
Giêsu Lên Trời Ngự Bên Hữu Ðức Chúa Cha Phép Tắc Vô Cùng"
132. Việc Ðức Kitô lên trời có ý nghĩa gì? 659-667
Trong vòng bốn mươi ngày, Ðức Kitô hiện ra với các
tông đồ dưới hình dạng con người bình thường, che giấu vinh quang của Ðấng Phục
sinh, sau đó Người lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Người là Chúa, từ
nay với nhân tính của Người, Người cai trị trong vinh quang vĩnh cửu của Con
Thiên Chúa và không ngừng chuyển cầu cho chúng ta nơi Thiên Chúa Cha. Người cử
Thánh Thần của Người đến với chúng ta và ban cho chúng ta niềm hy vọng một ngày
kia sẽ được theo Người, đến nơi Người đã dọn sẵn cho chúng ta.
"Ngày
Sau Bởi Trời Lại Xuống Phán Xét Kẻ Sống Và Kẻ Chết"
133. Hiện tại, Chúa Giêsu thống trị như thế
nào? 668-674, 680
Là Ðức Chúa của vũ trụ và lịch sử, là Thủ lãnh Hội
thánh của Người, Ðức Kitô vinh hiển vẫn hiện diện một cách mầu nhiệm trên trần
gian, nơi Vương quốc của Người đã hiện diện như hạt giống và đã khởi đầu trong
Hội thánh. Một ngày kia, Người sẽ trở lại trong vinh quang, nhưng chúng ta
không biết được ngày nào giờ nào. Vì thế, chúng ta sống tỉnh thức trong cầu
nguyện: "Lạy Chúa, xin hãy đến" (Kh 22,20).
134. Việc Chúa ngự đến trong vinh quang sẽ
diễn ra như thế nào? 675-677, 680
Sau cơn rung chuyển cuối cùng trong vũ trụ của thế
giới sẽ qua đi này, Ðức Kitô sẽ ngự đến vinh quang với chiến thắng tối hậu của
Thiên Chúa trong cuộc quang lâm và với cuộc phán xét cuối cùng. Như thế Nước
Thiên Chúa sẽ được hoàn thành.
135. Ðức Kitô sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết
như thế nào? 678-679, 681-682
Ðức Kitô sẽ phán xét với quyền năng mà Người đã thu
nhận được như Ðấng Cứu Chuộc trần gian, đã đến để cứu độ loài người. Những điều
kín nhiệm trong tâm hồn cũng như thái độ của mỗi người đối với Thiên Chúa và
tha nhân sẽ được tỏ ra. Mỗi người sẽ đón nhận sự sống hay bị kết án đời đời tùy
theo các công việc họ đã làm. Như thế "sự viên mãn của Ðức Kitô" (Ep
4,13) được thành tựu, trong đó "Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn
loài" (1 Cr 15,28).
Chương
Ba: "Tôi Tin Kính Ðức Chúa Thánh Thần" (136-217)
136. Hội thánh muốn
nói gì khi tuyên xưng "Tôi tin kính Ðức Chúa Thánh Thần"? 683-686
Tin vào Chúa Thánh Thần là tuyên xưng rằng Ngài là
Ngôi Thứ Ba của Ba Ngôi Cực Thánh; Ngài xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con, và
Ngài "được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con". Chúa
Thánh Thần được "sai đến... trong lòng chúng ta" (Gl 4,6) để chúng ta
có thể nhận lãnh sự sống mới như những người con của Thiên Chúa.
137. Tại sao sứ vụ của
Chúa Con và sứ vụ của Chúa Thánh Thần không thể tách rời nhau? 687-690, 742-743
Trong Ba Ngôi không thể phân chia, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần phân biệt với nhau, nhưng không tách rời nhau. Thực vậy, từ khởi đầu
cho đến cùng tận thời gian, khi Chúa Cha sai Con Ngài, thì cũng sai Thánh Thần
của mình, Ðấng kết hợp chúng ta với Ðức Kitô trong đức tin, để với tư cách là
dưỡng tử, chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là "Cha" (Rm 8,15). Chúa
Thánh Thần vô hình, nhưng chúng ta nhận ra Ngài qua tác động của Ngài, khi Ngài
mạc khải Ngôi Lời cho chúng ta và khi Ngài hoạt động trong Hội thánh.
138. Những tên gọi khác của Chúa Thánh Thần là
gì? 691-693
"Chúa Thánh Thần" là Danh xưng của Ngôi
Ba. Ðức Kitô cũng gọi Chúa Thánh Thần là Ðấng An Ủi (Parakletos - Trạng sư) và
Thần Chân Lý. Tân Ước còn gọi Ngài là Thánh Thần của Ðức Kitô, của Ðức Chúa,
của Thiên Chúa, Thánh Thần của Vinh quang, Thánh Thần của Lời hứa.
139. Những biểu tượng về Chúa Thánh Thần là
gì? 694-701
Có rất nhiều biểu tượng về Chúa Thánh Thần: nước
hằng sống tuôn trào từ trái tim bị đâm thâu của Ðức Kitô và giải cơn khát cho
những người đã được Rửa tội; việc xức dầu, đó là dấu chỉ của Bí tích Thêm sức;
lửa biến đổi tất cả những gì lửa bén tới; áng mây, mờ tối hay rạng ngời, trong
đó vinh quang Thiên Chúa được tỏ hiện; việc đặt tay thông ban Chúa Thánh Thần;
chim bồ câu đã ngự xuống và ở lại trên Ðức Kitô lúc Người chịu phép rửa.
140. "Chúa Thánh
Thần đã dùng các tiên tri mà phán dạy" nghĩa là gì? 687-688, 702-706
743
Từ "Các tiên tri" ở đây được dùng để chỉ
những người được Chúa Thánh Thần linh ứng để họ nói nhân danh Thiên Chúa. Chúa
Thánh Thần đã làm cho các lời tiên tri trong Cựu Ước được ứng nghiệm hoàn toàn
nơi Ðức Kitô; cũng chính Chúa Thánh Thần mạc khải mầu nhiệm Ðức Kitô trong Tân
Ước.
141. Hoạt động của
Chúa Thánh Thần nơi thánh Gioan Tẩy Giả như thế nào? 717-720
Chúa Thánh Thần đổ tràn trên thánh Gioan Tẩy Giả,
vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước. Dưới tác động của Thánh Thần, ông được sai
đi để "chuẩn bị một dân cho Chúa" (Lc 1,17) và để loan báo việc Ðức
Kitô, Con Thiên Chúa, ngự đến ; đó là Ðấng mà ông đã thấy Thánh Thần ngự xuống
và ở lại trên Người, Ðấng "sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần" (Ga 1,33).
142. Ðâu là công trình của Chúa Thánh Thần nơi
Ðức Maria? 721-726, 744
Mọi mong chờ việc Ðức Kitô đến và sự chuẩn bị cho
Người trong Cựu Ước được Chúa Thánh Thần hoàn thành tất cả nơi Ðức Maria. Một
cách độc nhất vô nhị, Chúa Thánh Thần đã đổ tràn ân sủng trên Ðức Maria và làm
cho đức trinh khiết của Mẹ nên phong phú, để Mẹ sinh hạ Người Con của Thiên
Chúa trong thân xác. Chúa Thánh Thần đã làm cho Ðức Maria trở thành Mẹ của
"Ðức Kitô toàn thể," nghĩa là của Ðức Kitô là Ðầu và của Hội thánh là
thân thể Người. Ðức Maria hiện diện giữa nhóm Mười Hai ngày lễ Hiện Xuống, khi
Thánh Thần khai mở "thời đại cuối cùng" với việc xuất hiện của Hội
thánh.
143. Trong sứ vụ trần
thế, Ðức Giêsu Kitô có liên hệ gì với Chúa Thánh Thần? 727-730, 745-746
Từ khi nhập thể, Con Thiên Chúa được thánh hiến trở
thành Ðức Kitô trong nhân tính của Người nhờ việc xức dầu bằng Chúa Thánh Thần.
Ðức Kitô mạc khải Chúa Thánh Thần trong giáo huấn của Người, hoàn thành lời hứa
đã được ban cho các tổ phụ. Người trao ban Thánh Thần cho Hội thánh vừa khai
sinh khi thổi hơi trên các Tông đồ sau khi Người Phục sinh.
144. Ðiều gì dã xảy ra trong ngày lễ Ngũ tuần?
731-732, 738
Năm mươi ngày sau cuộc Phục sinh, vào lễ Ngũ tuần,
Ðức Giêsu Kitô vinh hiển đã đổ tràn Thánh Thần và mạc khải Ngài là một Ngôi Vị
Thiên Chúa, qua đó Ba Ngôi cực thánh được mạc khải trọn vẹn. Sứ vụ của Ðức Kitô
và của Chúa Thánh Thần trở thành sứ vụ của Hội thánh, được sai đi công bố và
loan truyền mầu nhiệm hiệp thông của Chúa Ba Ngôi.
"Chúng con đã thấy ánh sáng thật, chúng con đã
lãnh nhận Thánh Thần Thiên Chúa, chúng con đã tìm được đức tin chân chính:
chúng con tôn thờ Ba Ngôi bất khả phân ly, vì chính Ba Ngôi đã cứu độ chúng
con" (Phụng vụ Byzantin, Ðiệp ca lễ Hiện Xuống).
145. Chúa Thánh Thần làm gì trong Hội thánh? 733-741, 747
Chúa Thánh Thần xây dựng, linh hoạt và thánh hóa
Hội thánh: Là Thánh Thần Tình Yêu, Ngài làm cho những người đã lãnh nhận Bí
tích Rửa tội nhận lại được ơn giống Thiên Chúa đã bị đánh mất vì tội lỗi; Ngài
giúp họ sống trong Ðức Kitô bằng chính Sự sống của Ba Ngôi cực thánh. Người sai
họ đi làm chứng cho Chân lý của Ðức Kitô và cắt đặt họ vào trong các phận vụ hỗ
tương, để mọi người đem lại "hoa trái của Thánh Thần" (Ga 5,22).
146. Ðức Kitô và Thánh Thần của Người hoạt
động như thế nào trong tâm hồn các tín hữu? 738-741
Nhờ các Bí tích, Ðức Kitô thông truyền Thánh Thần
của Người và ân sủng của Thiên Chúa cho các chi thể trong thân thể Người. Ân
sủng này mang lại hoa trái của đời sống mới theo Thánh Thần. Cuối cùng, Thánh
Thần là Thầy dạy cầu nguyện.
"Tôi Tin
Có Hội Thánh Công Giáo"
Hội thánh trong kế hoạch của Thiên Chúa
147. Hai tiếng Hội thánh có nghĩa là gì? 751-752, 777, 804
Hội thánh là dân được Thiên Chúa kêu gọi và qui tụ
từ khắp nơi trên thế giới, gồm những người, nhờ đức tin và Bí tích Rửa tội, trở
thành con cái Thiên Chúa, chi thể của Ðức Kitô và đền thờ của Chúa Thánh Thần.
148. Trong Thánh Kinh,
có những danh hiệu và hình ảnh nào khác để chỉ Hội thánh không? 753-757
Trong Thánh Kinh chúng ta tìm thấy nhiều hình ảnh
làm nổi bật những phương diện khác nhau của mầu nhiệm Hội thánh. Cựu Ước dành
ưu tiên cho những hình ảnh liên kết với dân Thiên Chúa; Tân Ước bằng những hình
ảnh gắn liền với Ðức Kitô như là đầu và dân là chi thể của Người; cũng có những
hình ảnh khác rút từ đời sống thôn quê (chuồng chiên, đàn chiên, con chiên),
đời sống đồng áng (ruộng vườn, cây Ôliu, vườn nho), từ nhà cửa (nhà ở, viên đá,
đền thờ) và từ cuộc sống gia đình (người vợ, người mẹ, gia đình).
149. Ðâu là khởi đầu và hoàn thành của Hội
thánh? 758-766, 778
Cả khởi đầu và sự hoàn thành của Hội thánh đều nằm
trong kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa. Hội thánh đã được chuẩn bị trong Giao
ước cũ qua việc tuyển chọn
150. Sứ mạng của Hội thánh là gì? 767-769
Sứ mạng của Hội thánh là rao truyền Nước Thiên Chúa
mà Ðức Giêsu Kitô đã khởi đầu và thiết lập Nước ấy giữa mọi dân tộc. Hội thánh
thiết lập trên trái đất mầm giống và khởi điểm của Vương quốc cứu độ này.
151. Hội thánh là mầu nhiệm theo nghĩa nào? 770-773, 779
Hội thánh là mầu nhiệm bởi vì, trong thực tại hữu
hình của mình, Hội thánh diễn tả và thực hiện một thực tại thiêng liêng, thần
linh, chỉ có thể nhận ra bằng con mắt đức tin.
152. "Hội thánh là bí tích phổ quát của
ơn cứu độ" có nghĩa là gì? 774-776, 780
Câu này muốn nói Hội thánh là dấu chỉ và khí cụ cho
việc giao hòa và hiệp thông toàn thể nhân loại với Thiên Chúa cũng như cho sự
hợp nhất nhân loại.
Hội Thánh: Dân Thiên Chúa, Thân thể Ðức Kitô,
Ðền thờ Chúa Thánh Thần
153. Tại sao Hội thánh là Dân Thiên Chúa? 781, 802-804
Hội thánh là Dân Thiên Chúa, bởi vì Ngài muốn thánh
hóa và cứu độ mọi người không phải cách riêng rẽ, nhưng thiết lập họ thành một
Dân duy nhất, được qui tụ trong sự hợp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần.
154. Ðâu là những đặc tính của Dân Thiên Chúa?
782
Dân Thiên Chúa mà chúng ta là thành phần nhờ đức
tin vào Ðức Kitô và nhờ Bí tích Rửa tội, có cội nguồn là Thiên Chúa Cha, có Thủ
lãnh là Ðức Giêsu Kitô, có địa vị là phẩm giá và sự tự do của con cái Thiên
Chúa, có Lề luật là giới răn mới của tình yêu, có sứ vụ là trở thành muối và
ánh sáng của thế giới, có cùng đích là Nước Thiên Chúa, đã được khởi đầu trên
trần thế.
155. Dân Thiên Chúa
thông dự như thế nào vào ba phận vụ của Ðức Kitô là Tư tế, là Tiên tri và là
Vương đế? 783-786
Dân Thiên Chúa được dự phần vào phận vụ Tư tế của
Ðức Kitô, vì các người Kitô hữu được Chúa Thánh Thần thánh hiến để dâng các hy
lễ thiêng liêng. Họ được tham dự vào phận vụ Tiên tri vì, nhờ cảm thức siêu
nhiên của đức tin, họ gắn bó cách dứt khoát với đức tin, đào sâu để hiểu biết
đức tin và trở thành chứng nhân cho đức tin. Họ được tham dự vào phận vụ là
Vương đế qua việc phục vụ, noi gương Ðức Kitô Giêsu, Vua vũ trụ, Ðấng tự trở
thành tôi tớ cho mọi người, nhất là cho những người nghèo túng và đau khổ.
156. Hội thánh là Thân thể của Ðức Kitô theo
cách nào? 787-791, 805-806
Nhờ Chúa Thánh Thần, Ðức Kitô, đã chết và đã phục
sinh, kết hợp các tín hữu với chính Người một cách mật thiết. Như thế những ai
tin vào Ðức Kitô, vì được kết hợp chặt chẽ với Người, nhất là trong Bí tích
Thánh Thể, thì cũng kết hợp với nhau nhờ đức ái, tạo thành một thân thể duy
nhất là Hội thánh, hợp nhất với nhau trong sự đa dạng của các chi thể và các
phận vụ.
157. Ai là đầu của thân thể này? 792-795, 807
Ðức Kitô là "Ðầu của thân thể, nghĩa là của
Hội thánh" (Cl 1,18). Hội thánh sống nhờ Người, trong Người và cho Người.
Ðức Kitô và Hội thánh tạo thành "Ðức Kitô toàn thể" (thánh
Augustinô). "Có thể nói được là, Ðầu và các chi thể làm nên cùng một con
người huyền nhiệm" (Thánh Tôma Aquinô).
158. Tại sao Hội thánh được gọi là Hôn thê của
Ðức Kitô? 796, 808
Hội thánh được gọi là Hôn thê của Ðức Kitô bởi vì
chính Chúa đã tự xưng là "Hôn phu" (Mc 2,19), Ðấng đã yêu thương Hội
thánh, đã kết ước với Hội thánh bằng một Giao ước vĩnh cửu. Người đã phó nộp
mình vì Hội thánh, để thanh tẩy Hội thánh bằng Máu của Người, để làm cho Hội
thánh "trở nên thánh thiện" (Ep 5,26) và làm cho Hội thánh thành mẹ
của tất cả các con cái của Thiên Chúa. Nếu hai chữ "Thân thể" cho
thấy sự hợp nhất giữa "Ðầu" và các chi thể, thì hai chữ "Hôn
thê" làm nổi bật sự phân biệt giữa đôi bên trong một quan hệ liên vị.
159. Tại sao Hội thánh được gọi là Ðền thờ
Chúa Thánh Thần? 797-798, 809-810
Bởi vì Chúa Thánh Thần ngự trong thân thể là Hội
thánh, trong "Ðầu" và trong "các chi thể" của Hội thánh;
hơn nữa, Ngài xây dựng Hội thánh trong đức mến, nhờ Lời Chúa, các Bí tích, các
nhân đức và các đặc sủng.
"Linh hồn tương quan với chi thể thế nào thì
Chúa Thánh Thần cũng như thế đối với các chi thể của Ðức Kitô và thân thể Người
là Hội thánh." (Thánh Augustinô).
160. Ðặc sủng là gì? 799-801
Ðặc sủng là những ân huệ đặc biệt của Chúa Thánh
Thần được ban tặng cho một số người vì lợi ích của con người, vì những nhu cầu
của thế giới và đặc biệt là để xây dựng Hội thánh. Chỉ có Huấn quyền của Hội
thánh mới có thẩm quyền nhận định các đặc sủng.
Hội thánh Duy
nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền
161. Tại sao Hội thánh có đặc tính duy nhất? 813-815, 866
Hội thánh có đặc tính là duy nhất, vì Hội thánh có
nguồn gốc và khuôn mẫu là sự duy nhất của một Thiên Chúa trong Ba Ngôi; có Ðấng
sáng lập và làm Ðầu là Ðức Giêsu Kitô, Ðấng qui tụ mọi dân tộc trong sự duy
nhất của một thân thể; có Chúa Thánh Thần như linh hồn, Ðấng hợp nhất tất cả
các tín hữu vào sự hiệp thông trong Ðức Kitô. Hội thánh có cùng một đức tin,
một đời sống Bí tích, một chuỗi kế nhiệm tông truyền duy nhất, cùng một niềm hy
vọng chung và cùng một đức mến.
162. Hội thánh duy nhất của Ðức Kitô tồn tại ở
đâu? 816, 870
Với tính cách là một cộng đoàn được thiết lập và tổ
chức ở trần gian, Hội thánh duy nhất của Ðức Kitô tồn tại (subsistit in) trong
Hội thánh Công giáo, được điều hành do vị kế nhiệm thánh Phêrô và do các Giám
mục hiệp thông với ngài. Chỉ nhờ Hội thánh này người ta mới có thể đạt được
cách đầy đủ các phương tiện cứu độ, vì Chúa đã trao phó tất cả những gì thiện
hảo của Giao ước Mới cho tập thể tông đồ duy nhất, có thánh Phêrô đứng đầu.
163. Phải nhìn các người Kitô hữu không thuộc
công giáo như thế nào? 817-819
Trong các Giáo hội và các Cộng đoàn giáo hội , đã
tách rời khỏi sự hiệp thông trọn vẹn với Hội thánh Công giáo, chúng ta cũng gặp
được nhiều yếu tố thánh hóa và chân lý. Tất cả các yếu tố này xuất phát từ Ðức
Kitô và đều hướng đến sự hợp nhất công giáo. Các thành viên của các Giáo hội và
các cộng đoàn này được hội nhập vào Ðức Kitô nhờ Bí tích Rửa tội; vì vậy chúng
ta nhìn nhận họ như anh em.
164. Làm thế nào để dấn thân cho sự hợp nhất? 820-822, 866
Lòng khao khát muốn tái lập sự hợp nhất giữa tất cả
các người Kitô hữu là một hồng ân của Ðức Kitô và là một lời kêu gọi của Chúa
Thánh Thần. Khao khát này liên quan đến toàn thể Hội thánh và được thực hiện
bằng việc sám hối tận đáy lòng, cầu nguyện, nhìn nhận lẫn nhau là anh em và đối
thoại thần học.
165. Hội thánh có đặc tính là thánh thiện theo
nghĩa nào? 823-829, 867
Hội thánh có đặc tính thánh thiện, vì Thiên Chúa
chí thánh là tác giả của Hội thánh. Ðức Kitô đã tự nộp mình vì Hội thánh, để
thánh hóa Hội thánh và làm cho Hội thánh có khả năng thánh hóa. Chúa Thánh Thần
ban sự sống cho Hội thánh bằng tình yêu. Trong Hội thánh có tất cả các phương
tiện cứu độ. Sự thánh thiện là ơn gọi của từng người trong Hội thánh và là mục
đích của mọi hoạt động của Hội thánh. Trong Hội thánh có Ðức Trinh Nữ Maria và
rất nhiều vị thánh là gương mẫu và là những đấng chuyển cầu cho Hội thánh. Sự
thánh thiện của Hội thánh là suối nguồn cho sự thánh hóa các con cái mình,
những người đang sống trên trần gian, tất cả đều tự nhận mình là kẻ tội lỗi và
luôn cần sám hối và thanh tẩy.
166. Tại sao Hội thánh được gọi là công giáo? 830-831, 868
Hội thánh có đặc tính là công giáo, nghĩa là phổ
quát, vì Ðức Kitô hiện diện trong Hội thánh. "Ở đâu có Ðức Kitô Giêsu, ở
đó có Hội thánh Công giáo" (Thánh Inhaxiô Antiôkia). Hội thánh loan báo sự
toàn diện và toàn vẹn của đức tin. Hội thánh gìn giữ và quản lý tất cả các
phương tiện cứu độ. Hội thánh được sai đến với mọi dân tộc ở mọi thời đại và
mọi nền văn hóa của họ.
167. Giáo hội địa phương có phải công giáo không?
832-835
Mỗi Giáo hội địa phương (nghĩa là một giáo phận
hoặc giáo khu) đều là công giáo, được hình thành bởi cộng đoàn các người Kitô
hữu, cùng hiệp thông trong đức tin và trong các Bí tích với Giám mục của họ, là
người được tấn phong trong chuổi kế nhiệm tông truyền, và với Giáo hội Rôma là
giáo hội "đứng đầu về mặt đức ái" (thánh Ignatio Antiôkia).
168. Ai thuộc về Hội thánh Công giáo? 836-838
Tất cả mọi người, dưới nhiều hình thức khác nhau,
đều thuộc về hay hướng đến sự hợp nhất công giáo của dân Thiên Chúa. Người hoàn
toàn thuộc về Hội thánh Công giáo là người, nhận được Thánh Thần của Ðức Kitô,
kết hợp với Hội thánh bằng các dây liên kết là việc tuyên xưng đức tin, các Bí
tích, sự hướng dẫn của giáo phẩm và sự hiệp thông. Những người đã được Rửa tội
nhưng không thực hiện đầy đủ sự hợp nhất công giáo thì cũng hiệp thông một cách
nào đó, tuy là hiệp thông không trọn vẹn, với Hội thánh Công giáo.
169. Hội thánh Công giáo liên hệ với dân Do
Thái như thế nào? 839-840
Hội Thánh Công giáo công nhận liên hệ của mình với
dân Do Thái vì Thiên Chúa đã tuyển chọn dân này, trước tất cả mọi dân khác, để
đón nhận Lời Ngài. Chính dân Do Thái "được Thiên Chúa nhận làm con, được
Ngài cho thấy vinh quang, ban tặng các Giao ước, lề luật, một nền phụng tự và
các lời hứa; họ là con cháu các tổ phụ, và chính Ðức Kitô, xét theo huyết
thống, cũng cùng một nòi giống với họ" (Rm 9,4-5). Khác với các tôn giáo
khác không thuộc Kitô giáo, đức tin Do Thái đã là lời đáp trả cho Mạc khải của
Thiên Chúa trong Giao Ứơc Cũ.
170. Liên hệ giữa Hội
thánh Công giáo với các tôn giáo ngoài Kitô giáo như thế nào? 841-845
Trước hết, đó là mối liên hệ về nguồn gốc và cứu
cánh chung của toàn thể nhân loại. Hội thánh Công giáo nhìn nhận những gì tốt
lành và chân thật trong các tôn giáo khác đều xuất phát từ Thiên Chúa. Ðó là
một tia phản chiếu chân lý của Ngài. Ðiều này có thể chuẩn bị cho việc đón nhận
Tin Mừng và thúc đẩy đến sự hợp nhất nhân loại trong Hội thánh của Ðức Kitô.
171. Câu khẳng định "Ngoài Hội thánh
không có ơn cứu độ" có nghĩa gì? 846-848
Câu này muốn nói rằng ơn cứu độ xuất phát từ Ðức
Kitô-là-Ðầu thông qua trung gian là Hội thánh, thân thể Người. Những ai biết
rằng Hội thánh được Ðức Kitô thiết lập và cần thiết cho ơn cứu độ mà không muốn
bước vào hay không muốn gắn bó với Hội thánh, thì sẽ không được cứu độ. Ngoài
ra, nhờ Ðức Kitô và Hội thánh Người, những người, không vì lỗi mình mà không
biết Tin Mừng của Ðức Kitô và Hội thánh Người, nhưng chân thành đi tìm Thiên
Chúa và dưới ảnh hưởng của ân sủng, cố gắng thực hiện ý Thiên Chúa qua sự hướng
dẫn của lương tâm, vẫn có thể đạt được ơn cứu độ muôn đời.
172. Tại sao Hội thánh phải loan truyền Tin
Mừng cho toàn thế giới? 849-851
Bởi vì Ðức Kitô đã truyền cho Hội thánh: "Anh
em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh
Thần" (Mt 28,19). Mệnh lệnh này của Chúa có cội nguồn là tình yêu vĩnh cửu
của Thiên Chúa, Ðấng đã sai phái Con và Thánh Thần Ngài, vì Ngài "muốn cho
mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý" (1 Tm 2,4).
173. Thế nào là Hội thánh truyền giáo? 852-856
Ðược Chúa Thánh Thần hướng dẫn, suốt dòng lịch sử,
Hội thánh tiếp tục sứ vụ của chính Ðức Kitô. Vì vậy, các người Kitô hữu phải
loan báo cho mọi người Tin Mừng đã được Ðức Kitô mang đến, khi bước theo cùng
một con đường như Người, tức là sẵn sàng hy sinh, thậm chí đến chỗ tử đạo.
174. Tại sao Hội thánh có đặc tính tông
truyền? 857, 869
Hội thánh có đặc tính tông truyền căn cứ vào nguồn
gốc của mình, vì Hội thánh được "xây dựng trên nền tảng các Tông đồ"
(Ep 2,20); căn cứ vào giáo lý là giáo huấn của các thánh Tông đồ; và căn cứ vào
cơ cấu của mình, vì Hội thánh được xây dựng, thánh hóa và hướng dẫn cho đến
ngày Chúa lại đến, bởi các thánh Tông đồ, nhờ những vị kế nhiệm các ngài là các
Giám mục hiệp thông với vị kế nhiệm thánh Phêrô.
175. Sứ vụ của các thánh Tông đồ hệ tại ở đâu?
858-861
Tông đồ có nghĩa là người được sai đi. Chúa Giêsu,
Ðấng được Chúa Cha sai đến, đã kêu gọi và tuyển chọn mười hai người trong số
các môn đệ và đặt họ làm Tông đồ của Người, khi làm cho họ thành những chứng
nhân cho cuộc Phục sinh của Người và làm nền tảng cho Hội thánh của Người.
Người truyền cho họ phải tiếp tục sứ vụ của Người, khi Người nói với họ:
"Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em" (Ga 20,21), và Người
hứa ở với họ cho đến ngày tận thế.
176. Kế nhiệm tông truyền là gì? 861-865
Kế nhiệm tông truyền là chuyển giao sứ vụ và quyền
hạn của các Tông đồ cho những người kế vị các ngài, là các Giám mục, qua Bí
tích Truyền chức thánh. Chính nhờ việc chuyển giao này mà Hội thánh vẫn duy trì
được sự hiệp thông trong đức tin và đời sống với nguồn gốc của mình, trải qua
bao thế kỷ, Hội thánh thực hành việc tông đồ của mình là làm lan toả Vương quốc
của Ðức Kitô trên trần gian.
Các người Kitô hữu: phẩm trật, giáo dân, đời
sống thánh hiến
177. Các tín hữu là ai? 871-872
Các tín hữu là những người được tháp nhập vào Ðức
Kitô nhờ Bí tích Rửa tội, được trở nên thành phần của dân Thiên Chúa. Trở thành
những người được dự phần vào các phận vụ Tư tế, Tiên tri và Vương đế của Ðức
Kitô, tùy theo điều kiện riêng của mình, họ được mời gọi thực thi sứ vụ được
Thiên Chúa trao phó cho Hội thánh. Giữa họ, có một sự bình đẳng thực sự do phẩm
giá của họ là con cái Thiên Chúa.
178. Dân Thiên Chúa được hình thành như thế
nào? 873, 934
Theo sự xếp đặt của Thiên Chúa, trong Hội thánh có
những thừa tác viên được hiến thánh, đã được lãnh nhận Bí tích Truyền chức
thánh và tạo thành phẩm trật của Hội thánh. Những người khác được gọi là giáo
dân. Trong cả hai thành phần này, có những tín hữu được thánh hiến một cách đặc
biệt cho Thiên Chúa qua việc khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm: khiết tịnh trong
đời sống độc thân, khó nghèo và vâng phục.
179. Tại sao Ðức Kitô lại thiết lập phẩm trật
trong Hội thánh? 874-876, 935
Ðức Kitô đã thiết lập phẩm trật trong Hội thánh để
chăn dắt dân Thiên Chúa nhân danh Người; và vì thế Người đã trao ban quyền hành
cho họ. Phẩm trật bao gồm các thừa tác viên đã được thánh hiến: các giám mục,
linh mục, phó tế. Nhờ Bí tích Truyền chức thánh, các Giám mục và linh mục, khi
thực thi thừa tác vụ của mình, hoạt động nhân danh và trong cương vị của Ðức
Kitô-là-Ðầu. Các Phó tế phục vụ dân Chúa trong việc phục vụ (diakonia) lời
Chúa, Phụng vụ và việc bác ái.
180. Chiều kích tập
thể của thừa tác vụ trong Hội thánh được thực hiện như thế nào? 877
Theo gương nhóm mười hai Tông đồ, được Ðức Kitô
tuyển chọn và sai đi chung với nhau, sự kết hợp của các thành phần phẩm trật
trong Hội thánh là để phục vụ sự hiệp thông của tất cả các tín hữu. Mỗi Giám
mục thực thi thừa tác vụ của mình như thành viên của Giám mục đoàn, trong sự
hiệp thông với Ðức Giáo hoàng, dự phần với ngài vào việc chăm lo cho Hội thánh
phổ quát. Các linh mục thực thi thừa tác vụ của mình trong linh mục đoàn của
Hội thánh địa phương trong sự hiệp thông với Giám mục và dưới sự hướng dẫn của
ngài.
181. Tại sao thừa tác vụ trong Hội thánh cũng
có đặc tính cá nhân? 878-879
Thừa tác vụ trong Hội thánh cũng có đặc tính cá
nhân, bởi vì, nhờ hiệu năng của Bí tích Truyền chức thánh, mỗi người đều chịu
trách nhiệm trước Ðức Kitô, Ðấng đã kêu gọi họ một cách cá nhân khi trao phó
cho họ một sứ vụ.
182. Sứ vụ của Ðức Giáo hoàng là gì? 881-882, 936-937
Ðức Giáo hoàng, vừa là Giám mục Rôma vừa là vị kế
nhiệm Thánh Phêrô, là nguyên lý và nền tảng trường tồn và hữu hình cho sự hợp
nhất của Hội thánh. Ngài là vị đại diện Ðức Kitô, đứng đầu Giám mục đoàn và là
mục tử của toàn thể Hội thánh. Vì do Chúa thiết lập, ngài có quyền trọn vẹn,
tối cao, trực tiếp và phổ quát trên Hội thánh.
183. Nhiệm vụ của Giám mục đoàn là gì? 883-885
Giám mục đoàn, hiệp thông với Ðức Giáo hoàng và
luôn phải có ngài, cũng thực thi trên Hội thánh một quyền tối cao và trọn vẹn.
184. Các Giám mục thực thi sứ vụ giảng dạy của
mình như thế nào? 888-890, 939
Trong sự hiệp thông với Ðức Giáo hoàng, các Giám
mục có bổn phận loan báo Tin Mừng cho mọi người cách trung thành và có thẩm
quyền. Với thẩm quyền của Ðức Kitô, các ngài là chứng nhân đích thực của đức
tin tông truyền. Nhờ cảm thức siêu nhiên của đức tin, Dân Thiên Chúa, được Huấn
quyền sống động của Hội thánh hướng dẫn, gắn bó cách kiên vững với đức tin.
185. Sự bất khả ngộ của Huấn quyền thể hiện
lúc nào? 891
Sự bất khả ngộ thể hiện khi Ðức Giáo hoàng, căn cứ
vào thẩm quyền là Mục tử tối cao của Hội thánh, hay Giám mục đoàn trong sự hiệp
thông với Ðức Giáo hoàng, nhất là khi các ngài họp Công đồng chung, công bố một
giáo lý có liên quan đến đức tin hay luân lý bằng một hành động dứt khoát, hoặc
khi Ðức Giáo hoàng và các Giám mục, trong Huấn quyền thông thường của các ngài,
đồng thanh tuyên bố một tín điều dứt khoát. Tất cả các tín hữu đều phải gắn bó
với giáo huấn này trong sự vâng phục đức tin.
186. Các Giám mục thực thi sứ vụ thánh hóa như
thế nào? 893
Các Giám mục thánh hóa Hội thánh khi trao ban ân
sủng của Ðức Kitô bằng việc rao giảng và cử hành các Bí tích, đặc biệt là Bí
tích Thánh Thể. Các ngài cũng thánh hóa Hội thánh bằng lời cầu nguyện, gương
mẫu và việc làm của mình.
187. Các Giám mục thực thi sứ vụ cai quản như
thế nào? 894-896
Mỗi Giám mục, với tư cách là thành viên của Giám
mục đoàn, phải quan tâm cách tập thể đối với mọi Giáo hội địa phương và Hội
thánh toàn cầu, trong sự hợp nhất với các Giám mục khác kết hợp với Ðức Giáo
hoàng. Giám mục, được ủy thác một Giáo hội địa phương, sẽ điều khiển Giáo hội
ấy với thẩm quyền do chức thánh, riêng biệt, thông thường và trực tiếp, nhân
danh Ðức Kitô, vị Mục tử Nhân lành, trong sự hiệp thông với toàn thể Hội thánh
và dưới sự dẫn dắt của Ðấng kế nhiệm thánh Phêrô.
188. Ơn gọi của người tín hữu giáo dân là gì? 897-900, 940
Người tín hữu giáo dân có ơn gọi riêng để tìm kiếm
Nước Thiên Chúa, bằng việc soi sáng và sắp xếp các thực tại trần gian theo ý
muốn của Thiên Chúa. Làm như vậy là họ thực hiện ơn gọi nên thánh và hoạt động
tông đồ, một ơn gọi được trao ban cho mọi người đã lãnh Bí tích Rửa tội.
189. Người tín hữu
giáo dân tham gia vào sứ vụ tư tế của Ðức Kitô như thế nào? 901-903
Họ tham gia vào sứ vụ tư tế này, khi dâng hiến -
như hy lễ thiêng liêng "dâng lên Thiên Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô" (1 Pr
2,5), nhất là trong Thánh lễ - cuộc sống riêng của họ, cùng với tất cả các hoạt
động, lời cầu nguyện và dấn thân truyền giáo, cuộc sống gia đình và lao động
hằng ngày, những khó khăn trong cuộc sống mà họ chịu đựng cách kiên nhẫn và
những lúc thư giãn thân xác và tinh thần. Bằng cách đó, người giáo dân, dấn
thân cho Ðức Kitô và được Chúa Thánh Thần thánh hiến, sẽ dâng lên Thiên Chúa cả
thế giới.
190. Họ tham dự vào sứ vụ tiên tri của Ðức
Kitô như thế nào? 904-907, 942
Họ tham dự vào sứ vụ tiên tri này của Ðức Kitô khi
luôn đón nhận trong đức tin Lời của Ðức Kitô và loan báo Lời đó cho thế giới
bằng chứng từ đời sống của họ, cũng như qua lời nói, hoạt động rao giảng Tin
Mừng và dạy giáo lý. Việc rao giảng Tin Mừng như vậy đạt được hiệu quả đặc biệt
vì việc này được thực hiện trong các hoàn cảnh thông thường nơi trần thế.
191. Họ tham dự vào sứ vụ Vương đế của Ðức
Kitô như thế nào? 908-913, 943
Người giáo dân tham dự vào sứ vụ Vương đế của Ðức
Kitô khi đón nhận từ nơi Người quyền năng chiến thắng tội lỗi, nơi chính họ và
trong thế giới, qua việc từ bỏ bản thân và sống đời sống thánh thiện. Họ thực
hành nhiều tác vụ khác nhau để phục vụ cộng đoàn và ghi dấu ấn trên các hoạt
động trần thế của con người và các cơ chế xã hội bằng giá trị luân lý.
192. Ðời sống thánh hiến là gì? 914-916, 944
Là một bậc sống được Hội thánh công nhận. Ðó là lời
tự nguyện đáp trả tiếng gọi đặc biệt của Ðức Kitô, qua đó những người được
thánh hiến hoàn toàn tự hiến cho Thiên Chúa và hướng tới sự hoàn hảo của đức ái
dưới tác động của Chúa Thánh Thần. Ðặc tính của sự thánh hiến là việc thực hành
các lời khuyên Phúc Âm.
193. Ðời sống thánh hiến đóng góp gì cho sứ vụ
của Hội thánh? 931-933, 945
Ðời sống thánh hiến dự phần vào sứ vụ của Hội
thánh, bằng việc tự hiến trọn vẹn cho Ðức Kitô và các anh em của Người, khi làm
chứng cho niềm hy vọng về Nước Trời.
Tôi Tin Các
Thánh Thông Công
194. "Các thánh thông công" có ý nghĩa
gì? 946-953, 960
Câu nói "các thánh thông công" trước hết
nói lên sự tham dự chung của tất cả các thành phần Hội thánh vào những thực tại
thánh (sancta): đức tin, các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, các đặc
sủng và những ân huệ thiêng liêng khác. Cội nguồn của sự hiệp thông là đức ái
"không tìm tư lợi" (1 Cr 13,5), nhưng thúc đẩy các tín hữu đặt
"mọi sự là của chung" (Cv 4,32), kể cả của cải vật chất của họ, nhằm
phục vụ những người nghèo khổ hơn.
195. Câu nói "các thánh thông công"
còn mang ý nghĩa nào khác nữa? 954-959, 961-962
Câu này còn nói lên sự hiệp thông giữa những người
thánh (sancti), nghĩa là những ai, nhờ ân sủng, được kết hợp với Ðức Kitô chịu
chết và sống lại. Một số còn lữ hành trên trần gian; một số khác, đã rời bỏ đời
này, hiện đang được thanh luyện, và cũng được trợ giúp bằng lời cầu nguyện của
chúng ta; sau hết, một số khác nữa, đã được hưởng vinh quang Thiên Chúa và đang
chuyển cầu cho chúng ta. Tất cả cùng nhau làm thành một gia đình duy nhất trong
Ðức Kitô, là Hội thánh, để ca ngợi và tôn vinh Chúa Ba Ngôi.
Ðức Maria: Mẹ
Ðức Kitô, Mẹ Hội thánh
196. Ðức Trinh Nữ Maria diễm phúc là Mẹ Hội
thánh theo nghĩa nào? 963-966, 973
Ðức Trinh Nữ Maria diễm phúc là Mẹ Hội thánh trong
trật tự ân sủng bởi vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, là Ðầu của
Thân Thể Người là Hội thánh. Khi sắp chết trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối
Ðức Maria làm mẹ của môn đệ Người bằng những lời này : "Ðây là mẹ của
anh" (Ga 19,27).
197. Ðức Maria trợ giúp Hội thánh như thế nào?
967-970
Sau khi Con mình về trời, Ðức Maria đã giúp đỡ Hội
thánh lúc khởi đầu bằng lời cầu nguyện, và cả sau khi đã được lên trời, Mẹ vẫn
tiếp tục chuyển cầu cho con cái mình, vẫn là mẫu gương cho mọi người về đức tin
và đức ái, tạo ảnh hưởng cứu độ trên họ, ảnh hưởng này xuất phát từ sự dư đầy
các công nghiệp của Ðức Kitô. Các tín hữu nhìn Mẹ như nguyên ảnh và sự tham dự
trước vào cuộc phục sinh đang chờ đón họ; họ kêu cầu Mẹ dưới các tước hiệu là
Trạng sư, Ðấng phù trợ, Ðấng bảo trợ và Ðấng trung gian.
198. Ðức Trinh Nữ rất thánh được tôn kính như
thế nào? 971
Mẹ được sùng kính cách đặc biệt, nhưng khác hẳn với
việc tôn thờ chỉ dành riêng cho Ba Ngôi cực thánh. Việc sùng kính đặc biệt này
được diễn tả một cách độc đáo trong các ngày lễ phụng vụ dành kính Mẹ Thiên
Chúa cũng như trong các kinh nguyện tôn kính Ðức Mẹ, như kinh Mân Côi, được xem
là bản tóm lược toàn bộ Tin Mừng.
199. Ðức Trinh nữ
Maria diễm phúc là hình ảnh cánh chung của Hội thánh như thế nào? 972, 974-975
Khi nhìn lên Ðức Maria, hoàn toàn thánh thiện và đã
được tôn vinh cả hồn lẫn xác, Hội thánh chiêm ngắm nơi Mẹ điều Hội thánh được
kêu gọi để sống trên trần gian và điều Hội thánh sẽ trở thành trên quê hương
thiên quốc.
"Tôi Tin
Phép Tha Tội"
200. Tội lỗi được tha thứ như thế nào? 976-980, 984-985
Bí tích đầu tiên và căn bản để tha tội là Bí tích
Rửa tội. Ðối với những tội phạm sau khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Ðức Kitô đã
thiết lập Bí tích Hòa giải hay Thống hối, nhờ đó người đã được Rửa tội được
giao hòa với Thiên Chúa và với Hội thánh.
201. Tại sao Hội thánh có quyền tha tội? 981-983, 986-987
Hội thánh có sứ vụ và quyền năng để tha các tội
lỗi, bởi vì chính Ðức Kitô đã trao ban cho Hội thánh quyền ấy: "Anh em hãy
nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm
giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,22-23).
"Tôi Tin
Xác Loài Người Ngày Sau Sống Lại"
202. Hai chữ "thân xác" có ý nghĩa
gì ? Ðâu là sự quan trọng của nó? 990, 1015
Hai chữ "thân xác" chỉ con người trong
tình trạng yếu đuối và phải chết. "Thân xác là then chốt của ơn cứu
độ" (Tertullien). Thật vậy, chúng ta tin Thiên Chúa, Ðấng tạo dựng nên
thân xác; chúng ta tin Ngôi Lời mặc lấy thân xác để cứu chuộc thân xác; chúng
ta tin vào sự sống lại của thân xác, đó là hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc
thân xác.
203. "Xác sống lại" có nghĩa là gì? 990
Ðiều này muốn nói đến tình trạng vĩnh viễn của con
người không phải chỉ là linh hồn thiêng liêng tách biệt khỏi thân xác, nhưng
thân xác phải chết của chúng ta cũng được gọi để một ngày kia sẽ sống lại.
204. Ðâu là mối liên
hệ giữa cuộc Phục sinh của Ðức Kitô với việc sống lại của chúng ta? 998, 1002-1003
Cũng như Ðức Kitô đã thực sự sống lại từ cõi chết
và sống mãi, cũng vậy, Người sẽ làm cho tất cả chúng ta sống lại trong ngày sau
hết, với một thân xác không còn hư nát, "Ai đã làm điều lành, thì sẽ sống
lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại để bị kết án" (Ga
5,29).
205. Khi chúng ta
chết, điều gì sẽ xảy ra cho linh hồn và thân xác chúng ta? 992-1004, 1016-1018
Khi chết, linh hồn và thân xác sẽ tách rời nhau,
thân xác sẽ bị huỷ hoại, trong khi linh hồn, vì là bất tử, sẽ chịu sự phán xét
của Thiên Chúa và chờ đợi ngày được kết hợp lại với thân xác khi thân xác được
biến đổi vào ngày Chúa trở lại. Việc tìm hiểu sự sống lại diễn ra như thế nào
vượt quá khả năng của trí tưởng tượng và sự hiểu biết của chúng ta.
206. "Chết trong Ðức Kitô Giêsu" có
nghĩa là gì? 1005-1014, 1019
Ðiều này có nghĩa là chết trong ân sủng của Chúa,
lúc không có tội trọng. Ai tin vào Ðức Kitô và theo gương Người, sẽ có thể biến
đổi cái chết của mình thành một hành vi vâng phục và yêu mến đối với Chúa Cha.
"Ðây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với
Người" (2 Tm 2,11).
"Tôi Tin
Hằng Sống Vậy"
207. Ðời sống vĩnh cửu là gì? 1020, 1051
Ðời sống vĩnh cửu là đời sống bắt đầu ngay sau khi
chết. Ðời sống này không có kết thúc. Mỗi người, khi bắt đầu bước vào đời sống
vĩnh cửu, sẽ phải nhận một cuộc phán xét riêng do chính Ðức Kitô, vị Thẩm Phán
của kẻ sống và kẻ chết; đời sống này sẽ được đóng ấn trong cuộc phán xét chung.
208. Phán xét riêng là gì? 1021-1022, 1051
Là cuộc phán xét thưởng phạt tức khắc mà mỗi người,
ngay sau khi chết, phải lãnh nhận từ Thiên Chúa trong linh hồn bất tử của mình,
liên quan đến đức tin và các việc làm của mình. Sự phân định thưởng phạt này
gồm có việc được vào hưởng hạnh phúc thiên đàng, tức khắc hoặc sau một cuộc
thanh luyện thích hợp, hay là phải chịu phạt muôn đời trong hỏa ngục.
209. "Thiên đàng" là gì? 1023-1026, 1053
"Thiên đàng" là tình trạng hạnh phúc tối
thượng và vĩnh viễn. Ai chết trong ân sủng của Thiên Chúa và ai không cần bất
cứ sự thanh luyện cuối cùng nào, sẽ được qui tụ quanh Chúa Giêsu và Ðức Maria,
các thiên thần và các thánh. Như vậy các ngài tạo thành Hội thánh thiên quốc,
nơi các ngài được chiêm ngắm Thiên Chúa "mặt giáp mặt" (1 Cr 13,12);
các ngài sống trong sự hiệp thông tình yêu với Chúa Ba Ngôi và chuyển cầu cho
chúng ta.
"Sự sống thật và theo bản chất cốt tại điều
này: Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần, đổ tràn hồng ân
thiên quốc trên tất cả không trừ ai. Nhờ lòng nhân hậu của Ngài, cả chúng ta
nữa, chúng ta đã lãnh nhận lời hứa không thể mai một là được sống đời đời"
(thánh Cyrillô thành Giêrusalem).
210. Luyện ngục là gì? 1030-1031, 1054
Luyện ngục là tình trạng của những người chết trong
tình thân với Thiên Chúa, nhưng, dù đã được đảm bảo ơn cứu độ vĩnh cửu, họ còn
cần thanh luyện trước khi được hưởng hạnh phúc thiên đàng.
211. Bằng cách nào
chúng ta có thể giúp đỡ các linh hồn đang được thanh luyện nơi luyện ngục? 1032
Nhờ sự "các thánh thông công" các tín hữu
còn lữ hành trên trần gian, có thể giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục, bằng
cách dâng lời cầu khẩn, đặc biệt là Thánh lễ, và cả những việc bố thí, ân xá và
những việc hãm mình để cầu cho họ.
212. Hoả ngục hệ tại điều gì? 1033-1035, 1056-1057
Hoả ngục hệ tại án phạt đời đời dành cho những ai,
do sự lựa chọn tự do của mình, chết trong tình trạng có tội trọng. Hình phạt
chính yếu của hỏa ngục là xa cách đời đời khỏi Thiên Chúa. Chỉ nơi Ngài con
người mới có sự sống và hạnh phúc; con người được tạo dựng là để hưởng những
điều ấy và họ luôn khao khát những điều ấy. Ðức Kitô diễn tả thực tại hoả ngục
bằng những lời này: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào
lửa đời đời" (Mt 25,41).
213. Thiên Chúa là
Ðấng nhân hậu vô biên, làm sao Ngài lại để có hỏa ngục? 1036-1037
Thiên Chúa muốn "cho mọi người ăn năn hối
cải" (2 Pr 3,9), nhưng vì Ngài đã tạo dựng con người có tự do và có trách
nhiệm, nên Ngài tôn trọng các quyết định của họ. Vì thế, nếu cho đến lúc chết,
con người vẫn còn nằm trong tội trọng, từ chối tình yêu nhân từ của Thiên Chúa,
thì chính họ, với sự tự lập hoàn toàn, tự ý loại mình ra khỏi sự hiệp thông với
Thiên Chúa.
214. Phán xét cuối cùng hệ tại điều gì? 1038-1041, 1058-1059
Sự phán xét cuối cùng (phán xét chung) hệ tại sự
phán quyết về cuộc sống hạnh phúc hay án phạt đời đời, mà Chúa Giêsu, khi Người
trở lại như vị Thẩm phán của kẻ sống và kẻ chết, sẽ tuyên bố cho "những
người công chính cũng như kẻ có tội" (Cv 24,15), qui tụ tất cả trước mặt
Người. Sau cuộc phát xét cuối cùng, thân xác sống lại sẽ tham dự vào sự thưởng
phạt mà linh hồn đã lãnh nhận trong cuộc phán xét riêng.
215. Khi nào cuộc phán xét này sẽ xảy ra? 1040
Cuộc phán xét này sẽ xảy ra vào ngày tận thế mà chỉ
mình Thiên Chúa mới biết được ngày nào giờ nào.
216. "Hy vọng trời mới đất mới"
nghĩa là gì? 1042-1050, 1060
Sau cuộc phán xét cuối cùng, chính vũ tru,... được
giải thoát khỏi nô lệ sự hư nát, sẽ được dự phần vào vinh quang của Ðức Kitô
với việc khai mạc "trời mới đất mới" (2 Pr 3,13). Như thế sự viên mãn
của Nước Thiên Chúa sẽ đạt đến đích điểm, nghĩa là ý định cứu độ của Thiên Chúa
được hoàn thành vĩnh viễn: "Qui tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một
thủ lãnh là Ðức Kitô" (Ep 1,10). Khi ấy Thiên Chúa sẽ "có toàn quyền
trên muôn loài" (1 Cr 15,28), trong cuộc sống đời đời.
"Amen"
217. Tiếng Amen, kết thúc Kinh Tin Kính, có
nghĩa là gì? 1061-1065
Tiếng Do Thái Amen - cũng được dùng để kết thúc
quyển sách cuối cùng của Thánh Kinh, cũng như một số lời cầu nguyện của Tân Ước
và các lời cầu nguyện phụng vụ của Hội thánh - diễn tả lời 'Thưa vâng" đầy
tin tưởng và trọn vẹn của chúng ta đối với những gì chúng ta đã tuyên xưng
trong Kinh Tin Kính, chúng ta hoàn toàn phó mình cho Ðấng là Amen tối hậu (Kh
3,14), tức là Ðức Kitô.
Phần II: Cử Hành Mầu Nhiệm Kitô Giáo (218-356)
Ðoạn Thứ Nhất: Nhiệm Cục Bí Tích (218-249)
218. Phụng vụ là gì? 1066-1070
Phụng vụ là việc cử hành mầu nhiệm Ðức Kitô, đặc
biệt là cử hành Mầu nhiệm Vượt qua của Người. Trong Phụng vụ, qua trung gian
việc thực thi phận vụ tư tế của Ðức Giêsu Kitô, sự thánh hóa con người được
biểu lộ và thực hiện qua các dấu chỉ. Thân thể nhiệm mầu của Ðức Kitô, nghĩa là
Ðầu và các chi thể, thực thi việc thờ phượng công khai dành cho Thiên Chúa.
219. Phụng vụ có vị trí nào trong đời sống Hội
thánh? 1071-1075
Là hành động tuyệt đối thánh thiêng, Phụng vụ là
chóp đỉnh mà mọi hoạt động của Hội thánh đều hướng tới, đồng thời là nguồn mạch
phát sinh mọi năng lực của đời sống Hội thánh. Qua Phụng vụ, Ðức Kitô tiếp tục
công trình cứu chuộc chúng ta trong Hội thánh, với Hội thánh và nhờ Hội thánh
của Người.
220. Nhiệm cục bí tích cốt tại điều gì? 1076
Nhiệm cục bí tích cốt tại việc thông chuyển các
hiệu quả ơn cứu chuộc của Ðức Kitô qua việc cử hành các Bí tích của Hội thánh,
đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, "cho tới khi Chúa lại đến" (1 Cr 11,
26).
Chương
Một: Mầu Nhiệm Vượt Qua Trong Ðời Sống Của Hội Thánh (221-232)
Phụng Vụ Công
Trình Của Thiên Chúa Ba Ngôi
221. Chúa Cha là nguồn
mạch và cùng đích của Phụng vụ theo nghĩa nào? 1077-1083, 1110
Trong Phụng vụ, Chúa Cha đổ tràn các phúc lành của
Ngài cho chúng ta trong Người Con nhập thể, đã chết và đã sống lại vì chúng ta,
và Ngài tuôn đổ Chúa Thánh Thần vào lòng chúng ta. Ðồng thời Hội thánh chúc
tụng Chúa Cha qua việc tôn thờ, ca tụng, tạ ơn, và cầu xin Ngài ban hồng ân là
Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
222. Công trình của Ðức Kitô trong Phụng vụ là
gì? 1084-1090
Trong Phụng vụ Hội thánh, Ðức Kitô biểu lộ và hoàn
thành mầu nhiệm Vượt qua của Người. Khi trao ban Thánh Thần cho các Tông đồ,
Người trao ban cho họ và những người kế nhiệm họ quyền thực hiện công trình cứu
độ qua hy tế Thánh Thể và qua các Bí tích, nơi chính Người hoạt động để trao
ban ân sủng của Người cho các tín hữu trong mọi thời và trên toàn thế giới.
223. Chúa Thánh Thần
hoạt động như thế nào trong Phụng vụ của Hội thánh? 1091-1109, 1112
Trong Phụng vụ, Chúa Thánh Thần hoạt động cách chặt
chẽ nhất với Hội thánh. Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho Hội thánh gặp gỡ Chúa của
mình. Ngài nhắc nhớ và làm tỏ hiện Ðức Kitô cho đức tin của cộng đoàn. Ngài làm
cho hiện diện và hiện tại hóa mầu nhiệm của Ðức Kitô; Ngài kết hợp Hội thánh
vào đời sống và sứ vụ của Ðức Kitô, làm cho hồng ân hiệp thông được sinh hoa
kết quả nơi Hội thánh.
Mầu Nhiệm Vượt
Qua Trong Các Bí Tích Của Hội Thánh
224. Các Bí tích là gì ? Ðó là những Bí tích
nào? 1113-1131
Các Bí tích là những dấu chỉ khả giác và hữu hiệu
của ân sủng, do Ðức Kitô thiết lập và ủy thác cho Hội thánh; qua các Bí tích,
sự sống thần linh được trao ban cho chúng ta. Có bảy Bí tích: Rửa tội, Thêm
sức, Thánh Thể, Thống hối, Xức dầu bệnh nhân, Truyền chức thánh và Hôn phối.
225. Ðâu là mối liên hệ giữa các Bí tích với
Ðức Kitô? 1114-1116
Các mầu nhiệm trong đời sống Ðức Kitô là nền tảng
cho những gì mà ngày hôm nay, qua các thừa tác viên của Hội thánh, Ðức Kitô
trao ban trong các Bí tích.
"Ðiều hữu hình nơi Ðấng cứu độ chúng ta được
chuyển vào trong các Bí tích " (thánh Lêo Cả).
226. Ðâu là sự liên kết giữa các Bí tích với
Hội thánh? 1117-1119
Ðức Kitô đã ủy thác các Bí tích cho Hội thánh của
Người. Các Bí tích này là "của Hội thánh" theo hai nghĩa: các Bí tích
là "do Hội thánh," vì các Bí tích là hoạt động của Hội thánh, (mà Hội
Thánh) là Bí tích của hoạt động Ðức Kitô; các Bí tích là "cho Hội
thánh," theo nghĩa là các Bí tích xây dựng Hội thánh.
227. Ấn tín Bí tích là gì? 1121
Là một dấu ấn thiêng liêng được thông ban trong các
Bí tích Rửa tội, Thêm sức và Truyền chức. Ấn tín này là lời hứa và bảo đảm cho
sự che chở của Thiên Chúa. Nhờ ấn tín, người Kitô hữu trở nên đồng hình đồng
dạng với Ðức Kitô; họ được tham dự vào chức tư tế của Người theo nhiều cách. Họ
là thành phần trong Hội thánh theo những bậc sống và phận vụ khác nhau; như
thế, ơn gọi của họ là phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ Hội thánh. Vì ấn tín
không thể xóa đi được, nên ba Bí tích trao ban ấn tín, chỉ được nhận một lần
trong đời.
228. Ðâu là mối liên hệ giữa các Bí tích với
đức tin? 1122-1126, 1133
Không những các Bí tích giả thiết phải có đức tin,
mà các Bí tích còn nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin, bằng lời đọc và
những nghi thức. Qua việc cử hành các Bí tích, Hội thánh tuyên xưng đức tin
tông truyền. Từ đó có câu thành ngữ cổ "lex orandi, lex credendi",
điều này muốn nói: Hội thánh tin như Hội thánh cầu nguyện.
229. Tại sao các Bí tích hữu hiệu? 1127-1128, 1131
Các Bí tích hữu hiệu "ex opere operato"
(do chính hành động được hoàn tất). Thực vậy, chính Ðức Kitô hoạt động trong
các Bí tích và thông ban ân sủng mà các Bí tích biểu lộ, không lệ thuộc vào sự
thánh thiện bản thân của thừa tác viên; tuy nhiên, các hoa trái của Bí tích
cũng tùy thuộc vào sự chuẩn bị nội tâm của người lãnh nhận.
230. Tại sao các Bí tích cần thiết cho ơn cứu
độ? 1129
Mặc dù không phải tất cả các Bí tích đều được ban
cho từng người Kitô hữu, các Bí tích đều cần thiết cho những ai tin vào Ðức
Kitô, bởi vì chúng trao ban các ân sủng Bí tích, ơn tha thứ tội lỗi, ơn được
làm nghĩa tử của Thiên Chúa, ơn nên đồng hình đồng dạng với Ðức Kitô và ơn được
thuộc về Hội thánh. Chúa Thánh Thần chữa lành và biến đổi những ai lãnh nhận
các Bí tích.
231. Ân sủng Bí tích là gì? 129; 1131, 1134; 2003
Ân sủng Bí tích là ân sủng của Chúa Thánh Thần,
được Ðức Kitô trao ban, mỗi Bí tích theo một cách. Ân sủng này giúp người tín
hữu trên bước đường nên thánh, và cũng giúp Hội thánh tăng trưởng trong đức ái
và trong chứng từ của mình.
232. Ðâu là mối liên hệ giữa các Bí tích với
đời sống vĩnh cửu? 1130
Trong các Bí tích, Hội thánh đã được tham dự trước
vào đời sống vĩnh cửu, đang khi "chờ đợi ngày hồng phúc, ngày Ðức Giêsu
Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Ðấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh
quang" (Tt 2, 13).
Chương
Hai: Cử Hành Mầu Nhiệm Vượt Qua (233-249)
Cử Hành Phụng
Vụ Của Hội Thánh
233. Ai hoạt động trong Phụng vụ? 1135-1137, 1187
Chính "Ðức Kitô toàn thể" (Christus
Totus), gồm Ðầu và Thân thể, hoạt động trong Phụng vụ. Với tư cách là vị Thượng
tế, Ðức Kitô cử hành cùng với Thân thể Người là Hội thánh trên trời và Hội
thánh ở trần gian.
234. Ai cử hành Phụng vụ trên trời? 1138-1139
Phụng vụ trên trời được cử hành do các thiên thần,
các thánh của Cựu Ước và Tân Ước, đặc biệt là Mẹ Thiên Chúa, các thánh Tông đồ,
các thánh tử đạo và "một đoàn người thật đông" không tài nào đếm nổi,
"thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ" (Kh 7,9). Khi
cử hành mầu nhiệm cứu độ trong các Bí tích, chúng ta được dự phần vào Phụng vụ
vĩnh cửu này.
235. Hội thánh ở trần gian cử hành Phụng vụ
như thế nào? 1140-1144, 1188
Hội thánh ở trần gian cử hành Phụng vụ với tư cách
là dân tư tế, trong đó mỗi người hoạt động tùy theo phận vụ riêng của mình,
trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần. Các người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội
hiến dâng chính mình trong hy lễ thiêng liêng, các thừa tác viên có chức thánh
cử hành theo thánh chức mà họ đã lãnh nhận để phục vụ tất cả các chi thể của
Hội thánh; các Giám mục và linh mục hoạt động trong cương vị Ðức Kitô, là Thủ
lãnh.
236. Phụng vụ được cử hành thế nào? 1145
Việc cử hành Phụng vụ được kết thành bằng các dấu
chỉ và biểu tượng. Ý nghĩa của những dấu chỉ và biểu tượng này được bắt nguồn
trong công trình tạo dựng và trong các nền văn hóa nhân loại, được xác định
trong các biến cố của Cựu Ước và được hoàn tất trọn vẹn trong Con Người của Ðức
Kitô và trong các hoạt động của Người.
237. Các dấu chỉ Bí tích bắt nguồn từ đâu? 1146-1152, 1189
Một số dấu chỉ bắt nguồn từ công trình tạo dựng
(ánh sáng, nước, lửa, bánh, rượu, dầu); một số khác từ đời sống xã hội (tẩy
rửa, xức dầu, bẻ bánh); một số khác từ lịch sử cứu độ thời Cựu Ước (các nghi
thức Vượt qua, các hy lễ, việc đặt tay, việc thánh hiến). Những dấu chỉ này, có
một số được qui định và bất biến, đã được Ðức Kitô sử dụng và trở thành những phương
tiện chuyển thông hoạt động cứu độ và thánh hóa của Người.
238. Ðâu là mối liên
hệ giữa cử chỉ và lời nói trong việc cử hành Bí tích? 1153-1155, 1190
Trong việc cử hành Bí tích, cử chỉ và lời nói liên
hệ với nhau chặt chẽ. Thật vậy, dù các cử chỉ tượng trưng tự chúng đã là một
thứ ngôn ngữ, nhưng vẫn cần có các lời thuộc nghi thức kèm theo và làm cho
chúng sinh động. Trong Phụng vụ, lời đọc và cử chỉ không thể tách rời nhau vì
chúng vừa là dấu chỉ vừa là giáo huấn; chúng cũng không thể tách rời nhau vì
chúng thực hiện điều chúng biểu thị.
239. Bài ca và âm nhạc
có vai trò trong việc cử hành Phụng vụ theo những tiêu chuẩn nào? 1156-1158, 1191
Bài ca và âm nhạc liên kết chặt chẽ với hành vi
Phụng vụ. Vì vậy, phải tôn trọng các tiêu chuẩn sau đây: các bản văn phải phù
hợp với giáo lý công giáo, ưu tiên rút từ Thánh Kinh và các nguồn Phụng vụ; vẻ
đẹp diễn cảm của lời cầu nguyện; phẩm chất âm nhạc; sự tham gia của cộng đoàn;
sự phong phú về văn hóa của dân Thiên Chúa; đặc điểm thánh thiêng và trang
trọng của việc cử hành. "Hát là cầu nguyện hai lần" (thánh
Augustinô).
240. Mục đích của các ảnh tượng thánh là gì? 1159-1161, 1192
Ảnh tượng Ðức Kitô là ảnh tượng phụng vụ cách tuyệt
hảo; các ảnh tượng thánh khác trình bày Ðức Trinh Nữ và các thánh, biểu lộ Ðức
Kitô được tôn vinh nơi các ngài. Các ảnh tượng này công bố chính sứ điệp Tin
Mừng mà Thánh Kinh chuyển đạt bằng lời. Các ảnh tượng thánh góp phần khơi dậy
và nuôi dưỡng đức tin của các tín hữu.
Phụng Vụ Ðược Cử Hành Khi Nào?
241. Trung tâm của thời gian Phụng vụ là gì? 1163-1167, 1193
Trung tâm của thời gian Phụng vụ là ngày Chúa Nhật,
nền tảng và cốt lõi của cả năm Phụng vụ. Năm Phụng vụ có chóp đỉnh là lễ Phục
sinh, ngày "lễ của các ngày lễ."
242. Ý nghĩa của năm Phụng vụ là gì? 1168-1173, 1194-1195
Trong năm Phụng vụ, Hội thánh cử hành toàn thể Mầu
nhiệm Ðức Kitô, từ lúc Người nhập thể cho đến ngày Người lại đến trong vinh
quang. Trong một số ngày, Hội thánh tôn kính Ðức Trinh Nữ Maria diễm phúc, Mẹ
Thiên Chúa, với một lòng trìu mến đặc biệt; Hội thánh cũng kính nhớ các thánh
là những người đã sống cho Ðức Kitô, đã chịu đau khổ với Người và hiện đang ở
với Người trong vinh quang.
243. Các Giờ kinh Phụng vụ là gì? 1174-1178, 1196
Các Giờ kinh Phụng vụ - Kinh nguyện công khai và
thường xuyên của Hội thánh - là lời cầu nguyện của Ðức Kitô cùng với Thân Thể
Người. Nhờ Các Giờ kinh Phụng vụ, Mầu nhiệm của Ðức Kitô, mà chúng ta cử hành
trong Thánh lễ, thánh hóa và làm thay hình đổi dạng thời gian của mỗi ngày. Các
Giờ kinh Phụng vụ được kết thành chủ yếu từ các Thánh Vịnh, các bản văn khác
của Thánh Kinh, cũng như những bài đọc của các Giáo phụ và các tôn sư linh đạo.
244. Hội thánh có cần những nơi chốn để cử
hành Phụng vụ không? 1197-1198
Việc thờ phượng "trong Thần Khí và sự
thật" (Ga 4,24) của Giao ước Mới không bị lệ thuộc vào bất cứ nơi nào đặc
biệt, vì Ðức Kitô là Ðền Thờ đích thực của Thiên Chúa; nhờ Người, các người
Kitô hữu và toàn thể Hội thánh, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, cũng trở
thành đền thờ của Thiên Chúa hằng sống. Tuy nhiên, Dân Thiên Chúa, trong hoàn
cảnh trần thế, cần đến những nơi chốn để cộng đoàn có thể qui tụ cử hành Phụng
vụ...
245. Các "thánh đường" là gì? 1198-1999
Ðó là những ngôi nhà của Thiên Chúa, biểu tượng của
Hội thánh đang sống tại đó cũng như biểu trưng nơi cư ngụ thiên quốc. Ðó là
những nơi cầu nguyện trong đó Hội thánh cử hành đặc biệt là Thánh lễ và tôn thờ
Ðức Kitô thực sự hiện diện trong nhà tạm.
246. Những nơi nào là ưu tiên bên trong các
thánh đường? 1182-1186
Những nơi ưu tiên là: bàn thờ, nhà tạm, nơi cất giữ
Dầu thánh (myron), ngai Giám mục (cathedra) hay linh mục, giảng đài, giếng rửa
tội, tòa giải tội.
Sự Ða Dạng Của Phụng Vụ, Sự Duy Nhất Của Mầu Nhiệm
247. Tại sao mầu nhiệm
duy nhất của Ðức Kitô lại được cử hành theo nhiều truyền thống Phụng vụ khác
nhau? 1200-1204, 1207-1209
Mầu nhiệm của Ðức Kitô phong phú khôn lường nên
không một truyền thống Phụng vụ nào diễn tả trọn vẹn được. Vì vậy, ngay từ ban
đầu, sự phong phú này đã được thể hiện nơi các dân tộc và các nền văn hóa khác
nhau, qua những cách diễn tả đa dạng và bổ túc cho nhau cách kỳ diệu.
248. Có tiêu chuẩn nào bảo đảm cho tính duy
nhất trong sự đa dạng này? 1209
Ðó là sự trung thành với Truyền thống Tông đồ,
nghĩa là sự hiệp thông trong đức tin và trong các Bí tích đã lãnh nhận từ các
Tông đồ; sự hiệp thông này được biểu lộ và bảo đảm bằng sự liên tục kế nhiệm
tông đồ. Hội thánh là công giáo: do đó, Hội thánh có thể hội nhập tất cả những
sự phong phú đích thực của các nền văn hóa khác nhau vào sự duy nhất của mình.
249. Trong Phụng vụ, có phải tất cả đều bất
biến không? 1205-1206
Trong Phụng vụ, nhất là trong Phụng vụ các Bí tích,
có những yếu tố bất biến vì là thể chế thiên định, được Hội thánh trung thành
gìn giữ. Ngoài ra, cũng có những yếu tố có thể thay đổi mà Hội thánh có quyền
và đôi khi có bổn phận thích nghi với các nền văn hóa của các dân tộc khác
nhau.
Ðoạn Thứ Hai: Bảy Bí Tích Của Hội Thánh (250-356)
Bảy Bí tích của Hội thánh là:
Rửa tội,
Thêm sức
Thánh Thể
Thống hối
Xức dầu bệnh nhân
Truyền chức
Hôn phối
250. Các Bí tích của Hội thánh được phân loại
thế nào? 1210-1211
Người ta phân loại: các Bí tích khai tâm Kitô giáo
(Rửa tội, Thêm sức và Thánh Thể), các Bí tích chữa lành (Thống hối và Xức dầu
bệnh nhân), các Bí tích phục vụ cho sự hiệp thông và sứ vụ (Truyền chức thánh
và Hôn phối). Bảy Bí tích liên quan đến những thời điểm quan trọng trong đời
sống Kitô hữu. Tất cả các Bí tích đều hướng về Bí tích Thánh Thể "như mục
đích đặc thù của mình" (thánh Tôma Aquinô).
Chương
Một: Các Bí Tích Khai Tâm Kitô Giáo (251-294)
251. Việc khai tâm Kitô giáo được thực hiện
thế nào? 1212, 1275
Việc khai tâm Kitô giáo được thực hiện qua ba Bí
tích đặt nền tảng cho đời sống Kitô hữu. Các tín hữu được tái sinh nhờ Bí tích
Rửa tội, được củng cố nhờ Bí tích Thêm sức, và được nuôi dưỡng nhờ Bí tích
Thánh Thể.
Bí Tích Rửa Tội
252. Các tên gọi của
Bí tích đầu tiên trong việc khai tâm Kitô giáo là gì? 1213-1216, 1276-1277
Ðầu tiên, người ta gọi Bí tích này là Rửa tội theo
nghi thức chính yếu của việc cử hành. Rửa tội muốn nói việc "dìm
xuống" nước. Người được Rửa tội được dìm vào trong sự chết của Ðức Kitô và
sống lại với Người như một "thụ tạo" mới (2 Cr 5,17). Người ta còn
gọi Bí tích này là "tắm tái sinh và đổi mới trong Chúa Thánh Thần"
(Tt 3,5), hay là "ơn soi sáng" vì người được Rửa tội trở thành
"con cái sự sáng" (Ep 5, 8).
253. Bí tích Rửa tội
được diễn tả bằng những hình ảnh tượng trưng nào trong Cựu Ước? 1217-1222
Trong Cựu Ước, người ta gặp nhiều hình ảnh tượng
trưng khác nhau về Bí tích Rửa tội: nước, được coi như nguồn gốc của sự sống và
sự chết; tàu Nôe cứu thoát con người nhờ nước; cuộc vượt qua Biển Ðỏ giải phóng
dân Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập; việc băng qua sông Giođan tiến vào đất hứa,
là hình ảnh của sự sống đời đời.
254. Ai đã kiện toàn những hình ảnh tượng
trựng đó? 1223-1224
Những hình ảnh tượng trưng trong Cựu Ước được hoàn
thành trong Ðức Giêsu Kitô, Ðấng ngay lúc khởi đầu đời sống công khai, đã để
cho Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho mình tại sông Giođan. Trên thập giá, từ cạnh
sườn của Người bị đâm thâu, máu và nước đã tuôn trào, là dấu chỉ của Bí tích
Rửa tội và Thánh thể. Sau khi Phục sinh, Người đã ủy thác cho các Tông đồ sứ vụ
sau đây: "Anh em hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh
Cha và Con và Thánh Thần" (Mt 28,19-20).
255. Hội thánh ban Bí tích Rửa tội cho những
ai và từ bao giờ? 1226-1228
Từ ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Hội thánh
ban Bí tích Rửa tội cho những ai tin vào Ðức Giêsu Kitô.
256. Nghi thức chính yếu của Bí tích Rửa tội
là gì? 1229-1245, 1278
Nghi thức chính yếu của Bí tích này gồm việc dìm
ứng viên xuống nước hay đổ nước trên đầu họ trong khi kêu cầu: nhân Danh Cha và
Con và Thánh Thần.
257. Ai có thể lãnh nhận Bí tích Rửa tội? 1246-1252
Mọi người chưa lãnh nhận đều có thể lãnh nhận Bí
tích Rửa tội.
258. Tạo sao Hội thánh Rửa tội cho các em bé? 1250
Bởi vì các em bé được sinh ra trong tội nguyên tổ,
nên cần được giải thoát khỏi quyền lực Ác thần và đưa dẫn vào Vương quốc của sự
tự do của con cái Thiên Chúa.
259. Hội thánh đòi hỏi gì nơi người sắp lãnh
Bí tích Rửa tội? 1253-1255
Hội thánh đòi hỏi người sắp nhận Bí tích Rửa tội
phải tuyên xưng đức tin; trong trường hợp là một người trưởng thành thì việc
tuyên xưng này phải do chính bản thân họ, nhưng nếu là một em bé, thì việc
tuyên xưng do cha mẹ và Hội thánh. Cha mẹ đỡ đầu và cả cộng đoàn giáo hội đều
có trách nhiệm phần nào trong việc chuẩn bị Bí tích Rửa tội (cho người dự tòng)
cũng như trong việc phát triển đức tin và ân sủng của Bí tích Rửa tội.
260. Ai có thể ban Bí tích Rửa tội? 1256, 1284
Thừa tác viên thông thường của Bí tích Rửa tội là
các Giám mục và linh mục; trong Giáo hội Latinh còn có cả các phó tế. Trong
trường hợp cần thiết, mọi người đều có thể ban Bí tích Rửa tội, miễn là họ có ý
làm điều Hội thánh làm. Người ban Bí tích Rửa tội đổ nước trên đầu ứng viên và
đọc công thức Ba Ngôi khi Rửa tội: "Tôi Rửa tội cho [...] nhân danh Cha và
Con và Thánh Thần."
261. Bí tích Rửa tội có cần thiết cho ơn cứu
độ không? 1257
Bí tích Rửa tội cần thiết cho ơn cứu độ đối với
những người đã được nghe rao giảng Tin Mừng và những người có khả năng xin lãnh
nhận Bí tích này.
262. Người không lãnh Bí tích Rửa tội có thể
được cứu rỗi không? 1258-1261, 1281-1283
Vì Ðức Kitô đã chết để cứu độ tất cả mọi người, nên
những người sau đây có thể được cứu độ dù không lãnh nhận Bí tích Rửa tội:
những ai chết vì đức tin (Rửa tội bằng máu), những người dự tòng và cả những
người, dưới tác động của ân sủng, dù không biết Ðức Kitô cũng như Hội thánh của
Người, nhưng đã thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và cố gắng chu toàn thánh ý Người
(Rửa tội bằng lòng ước ao). Về phần các trẻ em chết mà không được Rửa tội, Hội
thánh trong Phụng vụ phó thác các em cho lòng nhân từ của Thiên Chúa.
263. Bí tích Rửa tội mang lại những hiệu quả
nào? 1262-1274, 1279-1280
Bí tích Rửa tội tha thứ nguyên tội, mọi tội cá nhân
và các hình phạt do tội. Bí tích Rửa tội cho tham dự vào đời sống của Thiên
Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hóa, nhờ ơn công chính hóa giúp tháp nhập vào Ðức
Kitô và Hội thánh Người. Bí tích này cho tham dự vào chức tư tế của Ðức Kitô và
tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các người Kitô hữu. Bí tích này trao
ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận
Bí tích Rửa tội thuộc về Ðức Kitô luôn mãi: họ được đóng ấn không thể xóa được
của Ðức Kitô (ấn tín).
264. Ðâu là ý nghĩa của "tên thánh" khi
lãnh Bí tích Rửa tội? 2156-2159, 2167
Mọi tên gọi đều là quan trọng vì Thiên Chúa biết
tên gọi của từng người, nghĩa là biết tính cách độc đáo của mỗi người. Khi lãnh
nhận Bí tích Rửa tội, người Kitô hữu nhận một tên gọi đặc biệt trong Hội Thánh,
ưu tiên nên chọn tên của một vị thánh, vị này là gương mẫu thánh thiện cho
người nhận tên, và ngài sẽ chuyển cầu cho họ nơi Thiên Chúa.
Bí Tích Thêm
Sức
265. Bí tích Thêm sức có vị trí nào trong
Nhiệm cục Cứu độ? 1285-1288, 1315
Trong Giao ước cũ, các tiên tri đã loan báo việc
tuôn đổ Thánh Thần của Chúa trên Ðấng Mêsia đang được mong đợi, và trên toàn
dân của Ðấng Mêsia. Trọn đời sống và sứ vụ của Ðức Kitô diễn ra trong sự hiệp
thông trọn vẹn với Chúa Thánh Thần. Các Tông đồ nhận lãnh Chúa Thánh Thần trong
ngày lễ Ngũ tuần và loan báo "những kỳ công của Thiên Chúa" (Cv 2,
11). Qua việc đặt tay, các ngài trao ban cho các người mới lãnh nhận Bí tích
Rửa tội hồng ân của chính Chúa Thánh Thần. Qua bao thế kỷ, Hội thánh liên tục
sống nhờ Chúa Thánh Thần và thông ban Chúa Thánh Thần cho con cái mình.
266. Tại sao Bí tích này được gọi là Bí tích
Dầu thánh hay Thêm sức? 1289
Người ta gọi Bí tích này là Bí tích Dầu thánh
(trong các Giáo hội đông phương: Chrismation là việc xức bằng dầu myron, nghĩa
là Dầu thánh), bởi vì nghi thức chính yếu của Bí tích này là việc xức dầu.
Người ta gọi Bí tích này là Bí tích Thêm Sức, vì Bí tích này kiên cường và củng
cố ân sủng của Bí tích Rửa tội.
267. Nghi thức chính yếu của Bí tích Thêm sức
là gì? 1290-1301, 1318, 1320-1321
Nghi thức chính yếu của Bí tích Thêm sức là việc
xức Dầu thánh (dầu pha hương liệu đã được Giám mục thánh hiến), kèm theo việc
đặt tay của thừa tác viên, ngài sẽ đọc các lời thuộc Bí tích dành riêng cho
nghi thức. Ở Phương Tây việc xức dầu được ghi trên trán của những người đã được
Rửa tội, kèm theo lời này: "Hãy lãnh nhận ấn tín ơn Chúa Thánh Thần".
Trong các Giáo hội Ðông Phương theo nghi thức Byzantin, việc xức dầu còn ghi
trên nhiều phần thân thể, với công thức: "Tôi ghi dấu cho anh bằng hồng ân
của Chúa Thánh Thần."
268. Bí tích Thêm sức có những hiệu quả nào? 1302-1305, 1316-1317
Hiệu quả của Bí tích Thêm sức là việc đổ tràn Chúa
Thánh Thần cách đặc biệt, như trong ngày lễ Ngũ Tuần. Việc đổ tràn này ghi một
ấn tín không thể tẩy xoá trong linh hồn người lãnh nhận, và gia tăng ân sủng
của Bí tích Rửa tội. Việc tuôn tràn Thánh Thần giúp chúng ta tiến sâu hơn vào
ơn làm con cái Thiên Chúa, kết hợp chúng ta chặt chẽ hơn với Ðức Kitô và với
Hội thánh của Người. Bí tích này củng cố trong tâm hồn chúng ta các hồng ân của
Chúa Thánh Thần và trao ban cho chúng ta một sức mạnh đặc biệt để làm chứng cho
đức tin Kitô giáo.
269. Ai có thể lãnh nhận Bí tích Thêm sức? 1306-1311, 1319
Tất cả những ai đã nhận Bí tích Rửa tội đều có thể
và phải nhận Bí tích Thêm sức và chỉ một lần duy nhất. Ðể lãnh nhận cho có hiệu
quả, người đã được Rửa tội phải ở trong tình trạng ân sủng.
270. Ai là thừa tác viên của Bí tích Thêm sức?
1312-1314
Thừa tác viên nguyên thủy của Bí tích Thêm sức là
Giám mục. Ðây là cách làm nổi bật sự liên kết giữa người được Thêm sức với Hội
thánh trong cơ cấu tông truyền. Khi linh mục trao ban Bí tích này - điều này
thông thường ở Ðông Phương và trong những hoàn cảnh đặc biệt ở Tây Phương - mối
dây liên kết với Giám mục và với Hội thánh được biểu lộ qua linh mục, là cộng
sự viên của Giám mục, và qua Dầu thánh được chính Giám mục thánh hiến.
Bí Tích Thánh
Thể
271. Bí tích Thánh Thể là gì? 1322-1323, 1409
Bí tích Thánh Thể là chính hy tế Mình và Máu của
Chúa Giêsu, mà Người đã thiết lập để lưu tồn hy tế thập giá của Người qua bao
thế kỷ cho đến khi Người lại đến. Như thế, Người ủy thác cho Hội thánh việc
tưởng nhớ cái Chết và cuộc Phục sinh của Người. Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ
hợp nhất, dây bác ái, bữa tiệc vượt qua, nơi chúng ta lãnh nhận Ðức Kitô, linh
hồn được tràn đầy ân sủng và được bảo đảm cho đời sống vĩnh cửu.
272. Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Thánh thể
khi nào? 1323, 1337-1340
Người đã thiết lập Bí tích Thánh Thể vào ngày Thứ
Năm tuần thánh, "trong đêm bị trao nộp" (1 Cr 11, 23), khi Người ăn
bữa tiệc cuối cùng với các Tông đồ của Người.
273. Người đã thiết lập Bí tích Thánh Thể như
thế nào? 1337-1340, 1365, 1406
Sau khi qui tụ các Tông đồ trong nhà Tiệc ly, Chúa
Giêsu cầm lấy bánh trong tay, bẻ ra và trao cho các ông mà nói: "Anh em
hãy nhận lấy mà ăn: này là Mình Thầy bị nộp vì anh em". Rồi Người cầm
trong tay chén đầy ruợu và nói với họ: "Anh em hãy nhận lấy mà uống: này
là chén Máu Thầy, Máu Giao ước mới và vĩnh cửu, đổ ra cho anh em và nhiều người
được tha tội. Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy".
274. Bí tích Thánh Thể
có ý nghĩa gì trong đời sống của Hội thánh? 1324-1327, 1407
Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và tột đỉnh của
toàn bộ đời sống Kitô giáo. Thánh Thể là tột đỉnh hoạt động thánh hóa của Thiên
Chúa đối với chúng ta và là tột đỉnh của hoạt động phượng tự chúng ta dâng lên
Ngài. Bí tích Thánh Thể chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Hội thánh, đó
chính là Ðức Kitô, Ðấng là Chiên Vượt qua của chúng ta. Việc hiệp thông vào sự
sống của Thiên Chúa và sự hợp nhất của dân Thiên Chúa được diễn tả và thực hiện
nhờ Bí tích Thánh Thể. Qua việc cử hành Thánh lễ, chúng ta được kết hợp với
Phụng vụ trên trời và tham dự trước vào đời sống vĩnh cửu.
275. Bí tích này còn được gọi bằng những tên
gọi nào? 1328-1332
Nguồn phong phú vô tận của Bí tích này được diễn tả
qua nhiều tên gọi khác nhau, gợi lên những khía cạnh đặc biệt. Những tên gọi
thông dụng nhất là: Thánh Thể, Thánh lễ, Bữa tiệc của Chúa, lễ Bẻ Bánh, Cử hành
Thánh Thể, Tưởng nhớ cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa, Hy lễ
thánh, Phụng vụ thánh và Thần linh, Mầu nhiệm thánh, Bí tích thánh nơi bàn thờ,
Hiệp lễ.
276. Ðâu là vị trí của Bí tích Thánh Thể trong
Nhiệm cục cứu độ? 1333-1344
Trong Giao ước cũ, Bí tích Thánh Thể đặc biệt được
tượng trưng bằng bữa ăn Vượt qua, được Người Hi-pri cử hành hàng năm với bánh
không men, để ghi nhớ ngày ra đi vội vã và giải phóng khỏi đất Ai Cập. Chúa
Giêsu đã báo trước về Bí tích này trong giáo huấn của Người, và Người đã thiết
lập Bí tích này khi cử hành bữa tiệc ly với các Tông đồ, trong khung cảnh bữa
tiệc Vượt qua. Trung thành với lệnh truyền của Chúa: "Hãy làm việc này mà
nhớ đến Thầy" (1 Cr 11, 24), Hội thánh luôn cử hành Bí tích Thánh Thể,
nhất là vào ngày chúa nhật, ngày Phục sinh của Chúa Giêsu.
277. Bí tích Thánh Thể được cử hành thế nào? 1345-1355, 1408
Bí tích Thánh Thể được cử hành gồm hai phần chính,
hợp thành một hành vi phụng tự duy nhất: Phụng vụ Lời Chúa gồm việc công bố và
lắng nghe Lời Chúa, và Phụng vụ Thánh Thể gồm việc tiến dâng bánh rượu, kinh
nguyện thánh thể (hay anaphore) và hiệp lễ.
278. Ai là thừa tác viên của Bí tích Thánh
Thể? 1348, 1411
Thừa tác viên Bí tích Thánh Thể là vị tư tế (Giám
mục hay linh mục) đã được truyền chức thành sự; vị này cử hành trong cương vị
(in Persona) Ðức Kitô - Thủ lãnh và nhân danh Hội thánh.
279. Các chất liệu chính yếu và cần thiết của
Bí tích Thánh Thể là gì? 1412
Các chất liệu đó là bánh mì và rượu nho.
280. Tại sao nói Bí
tích Thánh Thể là việc tưởng niệm hy tế của Ðức Kitô? 1362-1367
Bí tích Thánh Thể là việc tưởng niệm theo nghĩa làm
cho hiện diện và hiện tại hoá hy tế thập giá mà Ðức Kitô đã dâng lên Chúa Cha,
một lần thay cho tất cả, vì nhân loại. Ðặc tính hy tế của Bí tích Thánh Thể
được biểu lộ trong chính những lời thiết lập: "Ðây là Mình Thầy, bị nộp vì
anh em" và "Chén này là Giao ước mới trong Máu Thầy, sẽ đổ ra vì anh
em" (Lc 22,19-20). Hy tế thập giá và hy tế Thánh Thể là một hy tế duy
nhất. Hiến vật và người dâng là một, chỉ khác biệt về cách tiến dâng: cách đổ
máu trên thập giá, cách không đổ máu trong Bí tích Thánh Thể.
281. Hội thánh tham dự vào hy tế Thánh Thể
theo cách nào? 1368-1372, 1414
Trong Bí tích Thánh Thể, hy tế của Ðức Kitô cũng
trở thành hy tế của các chi thể trong Thân Thể Người. Ðời sống của các tín hữu,
lời ca ngợi, hoạt động, cầu nguyện, lao động của họ được kết hợp với Ðức Kitô.
Vì là hy tế, Bí tích Thánh Thể cũng được dâng lên thay cho tất cả các tín hữu,
người còn sống cũng như kẻ đã qua đời, như của lễ đền tội cho tất cả mọi người,
để đón nhận được từ Thiên Chúa những ích lợi thiêng liêng và trần thế. Hơn nữa,
Hội thánh trên trời cũng hiện diện trong lễ dâng của Ðức Kitô.
282. Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh
Thể như thế nào? 1373-1375, 1413
Ðức Giêsu Kitô hiện diện trong Bí tích Thánh Thể
một cách độc nhất vô nhị và không thể so sánh được. Thật vậy, Người hiện diện
cách đích thực, thực sự và theo bản thể: với Mình và Máu Người, với linh hồn và
thần tính của Người. Trong Bí tích Thánh Thể, Ðức Kitô trọn vẹn, vừa là Thiên
Chúa vừa là con người, hiện diện theo cách Bí tích, nghĩa là dưới hình bánh và
hình rượu.
283. Biến đổi bản thể nghĩa là gì? 1376-1377, 1413
Biến đổi bản thể nghĩa là sự biến đổi trọn vẹn bản
thể bánh thành bản thể Mình Thánh Ðức Kitô, và biến đổi trọn vẹn bản thể rượu
thành bản thể Máu Thánh Người. Sự biến đổi này được thực hiện trong Kinh Nguyện
Thánh Thể, nhờ tính hữu hiệu của lời Ðức Kitô và tác động của Chúa Thánh Thần.
Tuy nhiên, những đặc tính khả giác bên ngoài của bánh và rượu, nghĩa là các
"hình bánh rượu," vẫn không thay đổi.
284. Việc bẻ bánh có phân chia Ðức Kitô không?
1377
Việc bẻ bánh không phân chia Ðức Kitô. Người hiện
diện trọn vẹn và toàn phần trong mỗi hình dạng Thánh Thể, và trong mỗi phần nhỏ
của cả hai hình dạng đó.
285. Sự hiện diện của Ðức Kitô trong Bí tích
Thánh Thể kéo dài bao lâu? 1377
Sự hiện diện của Ðức Kitô kéo dài bao lâu hình bánh
ruợu đã truyền phép còn tồn tại.
286. Phải tôn thờ Bí tích Thánh Thể cách nào? 1378-1381, 1418
Ðó là sự tôn thờ "latria", nghĩa là sự
tôn thờ chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa, dù trong Thánh lễ, dù ngoài
Thánh lễ. Hội thánh bảo quản bánh rượu đã truyền phép một cách cẩn thận tối đa;
Hội thánh mang Thánh Thể cho các bệnh nhân, cho những người không có khả năng
tham dự Thánh lễ. Hội thánh trưng Thánh Thể cho các tín hữu tôn thờ cách long
trọng; mang Thánh Thể đi rước kiệu và mời gọi mọi người thường xuyên kính viếng
và thờ lạy Bí tích cực thánh này, được gìn giữ trong Nhà tạm.
287. Tại sao Bí tích Thánh Thể là tiệc Vượt
qua? 1382-1384, 1391-1396
Bí tích Thánh Thể là tiệc Vượt qua vì khi làm cho
cuộc Vượt qua của Người hiện diện một cách Bí tích, Ðức Kitô ban cho chúng ta
Mình và Máu Người làm của ăn thức uống. Người kết hợp chúng ta với Người và với
nhau trong hy tế của Người.
288. Bàn thờ có ý nghĩa gì? 1383, 1410
Bàn thờ là biểu tượng của chính Ðức Kitô, Ðấng đang
hiện diện như của lễ hiến tế (bàn thờ - hy tế thập giá) và như lương thực thần
thiêng được ban tặng cho chúng ta (bàn thờ - bàn tiệc Thánh Thể).
289. Hội thánh đòi buộc chúng ta phải tham dự
Thánh lễ khi nào? 1389, 1417
Hội thánh đòi buộc các tín hữu phải tham dự Thánh
lễ vào các ngày Chúa nhật và các lễ buộc. Hội thánh cũng khuyên chúng ta tham
dự Thánh lễ vào các ngày khác nữa.
290. Khi nào chúng ta phải rước lễ? 1389
Hội thánh khuyên các tín hữu, nếu có đủ điều kiện
cần thiết, nên rước lễ mỗi khi tham dự Thánh lễ. Hội thánh buộc chúng ta rước
lễ một năm ít là một lần trong mùa Phục sinh.
291. Phải có những điều kiện nào để rước lễ? 1385-1389
Ðể rước lễ, chúng ta phải hoàn toàn thuộc về Hội
thánh Công giáo và sống trong tình trạng ân sủng, nghĩa là phải ý thức mình
không có tội trọng. Ai ý thức mình đã phạm một tội trọng, phải lãnh nhận Bí
tích Thống hối trước khi rước lễ. Cũng cần phải có sự tịnh tâm và cầu nguyện,
giữ sự chay tịnh do Hội thánh qui định và có những thái độ bên ngoài xứng đáng
(cử chỉ, cách ăn mặc) biểu lộ lòng tôn kính đối với Ðức Kitô.
292. Việc rước lễ đem lại những hiệu quả gì? 1391-1397, 1416
Việc rước lễ làm tăng triển sự hiệp thông của chúng
ta với Ðức Kitô và với Hội thánh Người, bảo toàn và canh tân đời sống ân sủng
đã nhận được khi lãnh Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức, giúp tăng triển tình
yêu đối với tha nhân. Việc rước lễ làm chúng ta nên mạnh mẽ trong đức ái, xoá
bỏ các tội nhẹ và gìn giữ chúng ta, trong tương lai, khỏi các tội trọng.
293. Khi nào có thể
trao ban Bí tích Thánh Thể cho các người Kitô hữu không công giáo? 1398-1401
Các thừa tác viên công giáo chỉ được phép trao ban
Bí tích Thánh Thể cho những người thuộc các Giáo hội Ðông Phương, dù không hiệp
thông trọn vẹn với Hội thánh Công giáo, nếu như chính họ tự ý xin và có đủ các
điều kiện cần thiết. Còn đối với những người thuộc các cộng đoàn giáo hội khác,
các thừa tác viên công giáo được phép trao ban Bí tích Thánh Thể cho họ, khi có
lý do quan trọng, và do chính họ tự ý xin và có đủ các điều kiện cần thiết, và
họ cũng phải biểu lộ đức tin công giáo đối với Bí tích Thánh Thể.
294. Tại sao Thánh Thể là "bảo chứng cho
vinh quang mai sau"? 1402-1405
Vì Bí tích Thánh Thể đổ tràn trong chúng ta tất cả
mọi ân sủng và sự chúc lành của trời cao, nên Bí tích này củng cố chúng ta nên
mạnh mẽ trên đường lữ hành trần gian, và làm cho chúng ta thêm lòng khao khát
đời sống vĩnh cửu, khi đã liên kết chúng ta với Ðức Kitô, Ðấng đang ngự bên hữu
Thiên Chúa Cha, với Hội thánh thiên quốc, với Ðức Trinh Nữ Maria diễm phúc và
với tất cả các thánh.
Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta bẻ cùng một tấm
bánh là phương dược trường sinh bất tử và của ăn đem lại sự sống muôn đời trong
Ðức Kitô" (Thánh Ignatio Antiokia).
Chương
Hai: Các Bí Tích Chữa Lành (295-320)
295. Tại sao Ðức Kitô
lập Bí tích Thống hối và Xức dầu bệnh nhân? 1420-1421, 1426
Ðức Kitô là thầy thuốc chữa lành linh hồn và thể
xác, Người đã lập các Bí tích này vì đời sống mới do Người ban cho chúng ta qua
các Bí tích khai tâm Kitô giáo, có thể bị suy yếu và thậm chí bị mất đi do tội
lỗi. Vì thế, Người muốn rằng Hội thánh tiếp tục công trình chữa lành và cứu độ
của Người qua hai Bí tích chữa lành.
Bí Tích Thống
Hối Hay Giao Hòa
296. Bí tích này được gọi như thế nào? 1422-1424
Bí tích này được gọi là Bí tích Thống hối, Giao
hòa, Tha thứ, Xưng tội và Sám hối.
297. Tại sao lại có một Bí tích Giao hòa sau
Rửa tội? 1425-1426, 1484
Vì đời sống mới trong ân sủng, được lãnh nhận khi
lãnh Bí tích Rửa tội, không tiêu hủy sự yếu đuối của bản tính con người, cũng
như sự hướng chiều theo tội lỗi (có nghĩa là dục vọng, concupiscentia), nên Ðức
Kitô đã thiết lập Bí tích Giao hoà để những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội
có thể ăn năn trở lại một khi họ xa lìa Người vì tội lỗi.
298. Ðức Kitô thiết lập Bí tích này khi nào? 1485
Ðức Kitô sống lại đã thiết lập Bí tích này khi
Người hiện ra với các Tông đồ vào chiều ngày Phục sinh và nói với họ: "Anh
em hãy nhận lấy Thánh Thần; anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh
em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,22-23).
299. Những người đã
lãnh nhận Bí tích Rửa tội có cần phải hoán cải hay không? 1427-1429
Lời kêu gọi hoán cải của Ðức Kitô luôn vang vọng
trong đời sống những người đã lãnh Bí tích Rửa tội. Việc hoán cải này là một
cuộc chiến đấu liên tục của toàn thể Hội thánh, tuy có đặc điểm là thánh thiện,
nhưng lại bao gồm các tội nhân.
300. Thống hối nội tâm là gì? 1430-1433, 1490
Là biểu hiện của "tâm hồn tan nát" (Tv 50
[51],19), được ân sủng thần linh thúc đẩy để đáp lại tình yêu thương xót của
Thiên Chúa. Lòng thống hối bao hàm sự đau khổ và quay lưng lại với tội lỗi đã
phạm, quyết tâm trong tương lai sẽ không phạm tội nữa và tin tưởng vào sự trợ
giúp của Thiên Chúa. Lòng thống hối được dưỡng nuôi bằng niềm hy vọng vào sự
thương xót của Thiên Chúa.
301. Việc thống hối
trong đời sống người Kitô hữu được diễn tả dưới những hình thức nào? 1434-1439
Việc thống hối được thể hiện qua nhiều hình thức
khác nhau, đặc biệt qua việc ăn chay, cầu nguyện, bố thí. Các hình thức thống
hối này, và nhiều hình thức khác, có thể được người Kitô hữu thực hành trong
đời sống hằng ngày của họ, đặc biệt trong Mùa Chay và ngày thứ Sáu là ngày sám
hối.
302. Các yếu tố chính yếu của Bí tích Giao hòa
là gì? 1440-1449
Có hai yếu tố chính: hành vi của người sám hối,
dưới tác động của Chúa Thánh Thần, và lời xá giải của linh mục, nhân danh Ðức
Kitô, trao ban ơn tha thứ và xác định cách đền tội.
303. Hối nhân phải có những hành vi nào? 1450-1460, 1487-1492
Những việc hối nhân phải làm là: xét mình cẩn thận;
ăn năn tội cách trọn khi phát xuất từ lòng yêu mến Chúa và cách không trọn khi
dựa vào những động lực khác, và quyết tâm không tái phạm nữa; xưng tội, tức là
xưng thú tội lỗi với linh mục; đền tội, tức làm một số việc thống hối mà cha
giải tội ấn định để đền bù những hậu quả do tội gây ra.
304. Phải xưng những tội nào? 1456
Chúng ta phải xưng tất cả các tội trọng nhớ được mà
chưa xưng sau khi đã xét mình cẩn thận. Việc xưng thú các tội trọng là phương
tiện thông thường duy nhất để được ơn tha tội.
305. Khi nào phải xưng thú các tội trọng? 1457
Mọi tín hữu khi đến tuổi khôn buộc phải xưng các
tội trọng của mình ít nhất một năm một lần và, trong mọi trường hợp, phải xưng
các tội trọng trước khi rước lễ.
306. Tại sao khi xưng tội cũng nên xưng thú
các tội nhẹ? 1458
Hội thánh tha thiết khuyên chúng ta xưng thú các
tội nhẹ, mặc dầu điều này không phải là cần thiết theo nghĩa hẹp, bởi vì việc
xưng thú như vậy giúp tạo nên lương tâm ngay thẳng và giúp chiến đấu chống lại
những hướng chiều về đàng xấu, để chúng ta được Ðức Kitô chữa lành và được tiến
triển trong đời sống theo Thánh Thần.
307. Ai là thừa tác viên Bí tích này? 1461-1466, 1495
Ðức Kitô đã ủy thác thừa tác vụ Giao hòa cho các
Tông đồ của Người, cho các Giám mục kế nhiệm các ngài, và cho các linh mục, là
những cộng tác viên của Giám mục. Như vậy, tất cả các vị ấy trở thành khí cụ
của lòng thương xót và sự công chính của Thiên Chúa. Các ngài thực thi quyền
tha thứ các tội lỗi nhân danh Cha, Con và Thánh Thần.
308. Việc tha thứ một số tội được dành riêng
cho ai? 1463
Việc xá giải một số tội đặc biệt nghiêm trọng (như
những người bị vạ tuyệt thông) được dành riêng cho Tòa thánh hay vị Giám mục sở
tại hay một số linh mục được các ngài ủy nhiệm. Trong trường hợp nguy tử, bất
kỳ linh mục nào cũng có thể xá giải bất cứ tội lỗi hay vạ tuyệt thông nào.
309. Cha giải tội có bị ràng buộc với bí mật
tòa giải tội hay không? 1467
Vì sự tế nhị và cao cả của thừa tác vụ này và vì
phải tôn trọng những người xưng tội, mọi cha giải tội buộc phải giữ "ấn
tín tòa giải tội," nghĩa là phải bí mật tuyệt đối về những tội lỗi người
ta đã xưng thú cho ngài trong tòa giải tội. Vấn đề giữ ấn tín tòa giải tội
không có luật trừ, ai vi phạm sẽ bị những hình phạt rất nặng.
310. Hiệu quả của Bí tích này là gì? 1468-1470, 1496
Hiệu quả của Bí tích Thống hối là: được giao hòa
với Thiên Chúa, và như vậy, được tha thứ tội lỗi; được giao hòa với Hội thánh;
được trở lại tình trạng ân sủng nếu như đã mất; được tha thứ hình phạt đời đời
đáng phải chịu vì các tội trọng đã phạm và, ít nhất một phần, những hình phạt
tạm là hậu quả của tội; được bình an thư thái trong lương tâm và được an ủi;
được gia tăng sức mạnh thiêng liêng để chiến đấu trong cuộc lữ hành.
311. Trong một số
trường hợp, có thể cử hành Bí tích này bằng việc xưng tội chung và xá giải tập
thể không? 1480-1484
Trong những trường hợp thật sự khẩn cấp (như có
nguy cơ sắp chết) người ta có thể cử hành chung Bí tích Giao hòa, gồm có việc
xưng tội chung và xá giải tập thể, nhưng vẫn phải tuân giữ các luật lệ của Hội
thánh và với quyết tâm sẽ xưng riêng các tội trọng vào thời gian sớm nhất.
312. Ân xá là gì? 1471-1479, 1498
Ân xá là việc tha thứ trước mặt Thiên Chúa khỏi
những hình phạt tạm đáng chịu vì những tội lỗi đã phạm, dù đã được tha thứ. Với
những điều kiện được Hội thánh quy định, người tín hữu có thể lãnh nhận ơn tha
thứ này cho chính mình hay cho những người đã qua đời, nhờ thừa tác vụ của Hội
thánh, như là người phân phát ơn cứu chuộc và chia sẻ kho tàng công phúc của Ðức
Kitô và các thánh.
Bí Tích Xức Dầu
Bệnh Nhân
313. Trong Cựu Ước, người ta quan niệm thế nào
về bệnh tật? 1499-1502
Trong Cựu Ước, con người, trong khi bị đau yếu, cảm
nghiệm được sự hữu hạn của mình, đồng thời cũng nhận ra bệnh tật có liên hệ
cách bí nhiệm với tội lỗi. Các tiên tri đã thoáng nhận ra rằng bệnh tật cũng có
thể có một giá trị cứu chuộc các tội lỗi cá nhân của mình và của người khác. Vì
thế người ta đón nhận bệnh tật trước tôn nhan Thiên Chúa và kêu cầu Ngài chữa
lành.
314. Lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu đối với các
bệnh nhân có ý nghĩa gì? 1503-1505
Lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu đối với các bệnh nhân
và nhiều việc chữa lành Người đã thực hiện là một dấu chỉ chứng tỏ, nơi Người,
Nước Thiên Chúa đã đến, và như vậy, đã đến lúc chiến thắng tội lỗi, đau khổ và
cái chết. Bằng cuộc khổ nạn và cái chết của Người, Chúa Giêsu đem lại cho đau
khổ một ý nghĩa mới, đó là, nếu được kết hợp với sự đau khổ của Người, thì đau
khổ có thể trở thành một phương tiện thanh luyện và cứu độ cho chúng ta và cho
những người khác.
315. Hội thánh đối xử thế nào đối với các bệnh
nhân? 1506-1513, 1526-1527
Khi nhận nơi Chúa mệnh lệnh chữa lành các bệnh
nhân, Hội thánh cố gắng chăm sóc và cầu nguyện cho các bệnh nhân. Ðặc biệt, Hội
thánh có một Bí tích đặc biệt dành cho các bệnh nhân, do chính Ðức Kitô thiết
lập và thánh Giacôbê chứng nhận: "Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy
mời các kỳ mục trong Hội thánh đến và họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi
xức dầu nhân danh Chúa," (Gc 5, 14-15).
316. Ai có thể lãnh nhận Bí tích Xức dầu bệnh
nhân? 1514-1515, 1528-1529
Mọi tín hữu đều có thể lãnh nhận Bí tích này, khi
họ bắt đầu lâm cơn nguy tử do bệnh tật hay già yếu. Chính người đó có thể lãnh
nhận Bí tích này nhiều lần nữa, khi bệnh trở nặng hay mắc phải một cơn bệnh
nặng khác. Nếu có thể được, nên cho bệnh nhân xưng tội riêng, trước khi cử hành
Bí tích này.
317. Ai ban Bí tích này? 1516, 1530
Chỉ có các tư tế (Giám mục hay linh mục) mới có thể
trao ban Bí tích này.
318. Bí tích này được cử hành thế nào? 1517-1519, 1531
Việc cử hành Bí tích này chính yếu là việc xức dầu,
nếu có thể được là dầu do Giám mục làm phép, trên trán và hai bàn tay của bệnh
nhân (trong nghi thức Rôma) và trên các phần thân thể khác (trong các nghi thức
khác). Việc xức dầu có kèm theo lời nguyện của vị tư tế cầu xin ân sủng đặc
biệt của Bí tích này.
319. Bí tích này mang lại những hiệu quả gì? 1520-1523, 1532
Bí tích này mang lại một ân sủng đặc biệt, giúp
bệnh nhân được kết hợp chặt chẽ hơn với cuộc khổ nạn của Ðức Kitô, để mưu ích
cho bản thân và cho toàn thể Hội thánh. Ân sủng này mang lại cho bệnh nhân sức
mạnh, bình an, can đảm và ơn tha thứ tội lỗi nếu bệnh nhân không thể xưng tội
được. Ðôi khi, nếu Thiên Chúa muốn, Bí tích này cũng đem lại sự chữa lành thân
xác. Dầu sao đi nữa, Bí tích Xức dầu bệnh nhân chuẩn bị cho một cuộc vượt qua
để tiến về Nhà Cha.
320. Của Ăn đàng là gì? 1524-1525
Của Ăn đàng là Bí tích Thánh Thể được trao ban cho
những người sắp rời bỏ cuộc sống trần gian và đang chuẩn bị cho cuộc vượt qua
tiến vào đời sống vĩnh cửu. Ðược lãnh nhận vào lúc sắp rời bỏ thế gian để về
với Chúa Cha, việc rước Mình và Máu Ðức Kitô tử nạn và phục sinh là mầm giống
cho đời sống vĩnh cửu và sức mạnh phục sinh.
Chương
Ba: Các Bí Tích Phục Vụ Cho Sự Hiệp Thông Và Cho Sứ Vụ (321-350)
321. Các Bí tích nào dành cho việc phục vụ sự
hiệp thông và sứ vụ? 1533-1535
Có hai Bí tích, Truyền chức thánh và Hôn phối, đem
lại một ân sủng riêng cho một sứ vụ đặc biệt trong Hội thánh, để phục vụ việc
xây dựng dân Thiên Chúa. Cả hai đóng góp một cách đặc biệt cho sự hiệp thông trong
Hội thánh và cho ơn cứu độ của những người khác.
Bí Tích Truyền
Chức Thánh
322. Bí tích Truyền chức thánh là gì? 1536
Là Bí tích qua đó, sứ vụ Ðức Kitô đã ủy thác cho
các Tông đồ của Người, được tiếp tục thực thi trong Hội thánh, cho đến ngày tận
thế.
323. Tại sao gọi là Bí tích Truyền chức thánh
(Ordo)? 1537-1538
Từ Ordo chỉ một phẩm trật của Hội thánh; người gia
nhập vào phẩm trật đó phải được thánh hiến đặc biệt (Ordinatio). Nhờ hồng ân
đặc biệt của Chúa Thánh Thần, việc thánh hiến này cho phép người thụ phong được
thực thi một quyền thánh chức nhân danh và với thẩm quyền của Ðức Kitô để phục
vụ Dân Thiên Chúa.
324. Bí tích Truyền
chức thánh có vị trí nào trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa? 1539-1546, 1590-1591
Trong Cựu Ước, có những hình ảnh tượng trưng về Bí
tích này: việc phục vụ của chi tộc Lêvi, cũng như chức tư tế của ông Aaron và
thể chế bảy mươi kỳ lão (x. Ds 11,25). Các hình ảnh này được kiện toàn nơi Ðức
Kitô Giêsu, nhờ hy tế thập giá, là "Ðấng Trung gian duy nhất giữa Thiên
Chúa và loài người" (1 Tm 2,5), là "vị thượng tế theo phẩm trật
Melkisedec" (Dt 5, 10). Chức tư tế duy nhất của Ðức Kitô được hiện diện
qua chức tư tế thừa tác.
"Ðức Kitô là vị Tư tế đích thực duy nhất,
người này kẻ khác chỉ là những thừa tác viên của Người" (Thánh Tôma
Aquinô).
325. Các cấp bậc khác
nhau của Bí tích Truyền chức thánh là những cấp bậc nào? 1554, 1593
Bí tích Truyền chức thánh gồm có ba cấp bậc, không
thể thay thế trong cơ cấu tổ chức của Hội thánh, đó là chức Giám mục, chức linh
mục và chức phó tế.
326. Việc truyền chức Giám mục có hiệu quả gì?
1557-1558, 1594
Việc truyền chức Giám mục trao ban sự viên mãn của
Bí tích Truyền chức. Bí tích này làm cho Giám mục trở thành người kế nhiệm hợp
pháp của các Tông đồ và hội nhập ngài vào Giám mục đoàn, chia sẻ với Ðức Giáo
hoàng và các Giám mục khác sự quan tâm chăm sóc cho toàn thể Hội thánh. Bí tích
này trao ban cho Giám mục trách vụ giảng dạy, thánh hóa và cai quản.
327. Ðâu là nhiệm vụ
của Giám mục trong Giáo hội địa phương được uỷ thác cho ngài? 1560-1561
Trong một Giáo hội địa phương được uỷ thác cho
ngài, Giám mục là nguyên lý hữu hình và là nền tảng cho sự hợp nhất của Giáo
hội đó; với tư cách là người đại diện Ðức Kitô, vị Giám mục chu toàn trách
nhiệm mục vụ đối với giáo hội này, với sự giúp đỡ của các linh mục và phó tế
của ngài.
328. Việc truyền chức linh mục có hiệu quả gì?
1562-1567, 1595
Việc xức dầu bằng Chúa Thánh Thần ghi nơi linh mục
một ấn tín thiêng liêng không thể tẩy xóa, khiến ngài nên đồng hình đồng dạng
với Ðức Kitô-Tư Tế, và trao cho ngài khả năng hoạt động nhân danh Ðức Kitô-Thủ
Lãnh. Là cộng sự viên của hàng Giám mục, linh mục được thánh hiến để loan báo
Tin Mừng, cử hành việc phụng thờ Thiên Chúa, nhất là Bí tích Thánh Thể; từ đó
ngài rút được sức mạnh cho thừa tác vụ của mình và cho nhiệm vụ là mục tử của
các tín hữu.
329. Linh mục thi hành thừa tác vụ của mình
thế nào? 1568
Dù được truyền chức cho một sứ vụ phổ quát, linh
mục thực thi sứ vụ này trong một Giáo hội địa phương, liên kết trong tình huynh
đệ với các linh mục khác, cùng nhau làm thành linh mục đoàn; các vị này, hiệp
thông với Giám mục và thuộc quyền ngài, chịu trách nhiệm về Giáo hội địa phương
đó.
330. Việc phong chức phó tế có hiệu quả gì? 1569-1571, 1596
Ðược đồng hình đồng dạng với Ðức Kitô-tôi tớ cho
mọi người, vị Phó tế được truyền chức để phục vụ Hội thánh. Dưới quyền Giám mục
mình, phó tế thực thi việc phục vụ trong thừa tác vụ Lời Chúa, việc phụng thờ
Thiên Chúa, trong trách nhiệm mục vụ và bác ái.
331. Bí tích Truyền chức thánh được cử hành
thế nào? 1572-1574, 1597
Cho cả ba cấp bậc, Bí tích Truyền chức thánh được
trao ban qua việc Giám mục đặt tay trên đầu tiến chức, rồi long trọng đọc lời
nguyện truyền chức. Qua lời nguyện này, Giám mục cầu xin Thiên Chúa đổ tràn
Chúa Thánh Thần với các hồng ân của Ngài một cách đặc biệt trên tiến chức, giúp
thực thi thừa tác vụ mà tiến chức phải đảm nhận.
332. Ai có thể cử hành Bí tích Truyền chức
thánh? 1575-1576, 1600
Chỉ có các Giám mục đã được tấn phong thành sự, với
tư cách là người kế nhiệm các Tông đồ, mới có quyền tấn phong ba cấp bậc của Bí
tích Truyền chức thánh.
333. Ai có thể lãnh nhận Bí tích Truyền chức
thánh? 1577-1580, 1598
Chỉ có những người nam đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội
mới có thể lãnh nhận thành sự Bí tích Truyền chức. Hội thánh biết mình bị ràng
buộc với sự chọn lựa của chính Chúa. Không ai có quyền đòi hỏi được lãnh nhận
Bí tích Truyền chức. Nhưng chỉ có thẩm quyền của Hội thánh mới đưa ra phán
quyết về khả năng của các ứng viên.
334. Người lãnh nhận
Bí tích Truyền chức thánh có buộc phải sống độc thân không? 1579-1580, 1599
Hàng Giám mục luôn bị buộc phải sống độc thân. Ðối
với hàng linh mục, trong Giáo hội La tinh, theo cách thông thường chỉ chọn các
tín hữu phái nam đang sống độc thân và muốn giữ luật độc thân "vì Nước
Trời" (Mt 19, 12). Trong các Giáo hội Ðông Phương, một người sau khi đã
được truyền chức linh mục thì không được phép kết hôn. Những người đã lập gia
đình có thể lãnh nhận chức phó tế vĩnh viễn.
335. Bí tích Truyền chức thánh có những hiệu
quả nào? 1581-1589
Bí tích Truyền chức thánh đem lại sự tràn đầy ân
sủng đặc biệt của Chúa Thánh Thần, Ðấng làm cho người được thánh hiến - thích
ứng với từng cấp bậc của Bí tích - nên đồng hình đồng dạng với Ðức Kitô trong
phận vụ của Người là Tư tế, Tiên tri và Vương đế. Bí tích Truyền chức thánh
trao ban một ấn tín thiêng liêng không thể tẩy xóa, vì vậy không thể tái ban,
cũng như không thể chỉ trao ban (để thi hành) trong một khoảng thời gian giới
hạn.
336. Chức tư tế thừa tác được thực thi với
thẩm quyền nào? 1547-1553, 1592
Trong việc thực thi thừa tác vụ thánh, các tư tế
được truyền chức nói và làm, không phải do thẩm quyền riêng tư, cũng không phải
do mệnh lệnh hoặc sự uỷ thác của cộng đoàn, nhưng trong cương vị của Ðức Kitô -
Thủ lãnh và nhân danh Hội thánh. Vì thế, chức tư tế thừa tác hoàn toàn khác biệt,
chứ không chỉ khác biệt theo mức độ, với chức tư tế chung của tất cả các tín
hữu; chính để phục vụ cho các tín hữu, Ðức Kitô đã thiết lập chức tư tế thừa
tác.
Bí Tích Hôn
Phối
337. Ý định của Thiên Chúa đối với người nam
và người nữ là gì? 1601-1605
Thiên Chúa là tình yêu, và đã tạo dựng con người từ
tình yêu. Ngài kêu gọi con người yêu thương. Khi tạo dựng họ có nam có nữ,
Người kêu gọi họ sống đời hôn nhân trong một hiệp thông thân mật của sự sống và
tình yêu với nhau, "vì lẽ đó, họ không còn là hai, nhưng là một thân
thể" (Mt 19, 6). Khi chúc lành cho họ, Thiên Chúa nói: "Hãy sinh sôi
nảy nở" (St 1,28).
338. Thiên Chúa đã thiết lập hôn nhân nhằm mục
đích gì? 1659-1660
Sự kết hợp hôn nhân giữa người nam và người nữ được
đặt nền tảng và được sắp xếp theo các luật lệ của Ðấng Sáng Tạo, tự bản chất
được hướng tới sự hiệp thông và thiện ích của các đôi vợ chồng, cũng như việc
sinh sản và giáo dục con cái. Theo ý định ngay từ ban đầu của Thiên Chúa, sự
kết hợp hôn nhân là bất khả phân ly, như Ðức Giêsu Kitô đã xác nhận: "Sự
gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly" (Mt 19,6).
339. Tội lỗi đe dọa hôn nhân như thế nào? 1606-1608
Vì nguyên tội đã gây đổ vỡ cho sự hiệp thông, được
Ðấng Sáng Tạo ban tặng, giữa người nam và người nữ, nên sự kết hợp hôn nhân
luôn bị đe dọa bởi bất hoà và sự không chung thuỷ. Tuy nhiên, với lòng nhân từ
vô bờ bến, Thiên Chúa ban cho người nam và người nữ ân sủng để họ thực hiện sự
kết hợp đời sống của họ theo đúng ý định nguyên thủy của Ngài.
340. Cựu Ước dạy gì về hôn nhân? 1609-1611
Ðặc biệt qua việc giáo dục của Lề luật và các tiên
tri, Thiên Chúa giúp đỡ dân Ngài dần dần trưởng thành trong ý thức về tính duy
nhất và sự bất khả phân ly của hôn nhân. Hôn ước giữa Thiên Chúa với Israel
chuẩn bị và tượng trưng cho Giao ước mới, được Con Thiên Chúa là Ðức Giêsu Kitô
hoàn thành với Hội thánh là Hiền thê của Người.
341. Ðức Kitô đem lại điều mới mẻ nào cho hôn
nhân? 1612-1617, 1661
Ðức Giêsu Kitô không những tái lập quy định từ ban
đầu do Thiên Chúa muốn, mà Người còn ban ân sủng để con người có thể sống hôn
nhân trong phẩm giá mới của Bí tích, là dấu chỉ về tình yêu phu thê của Người
đối với Hội thánh: "Người làm chồng hãy yêu thương vợ mình như Ðức Kitô đã
yêu thương Hội thánh" (Ep 5, 25).
342. Có buộc tất cả mọi người phải kết hôn hay
không? 1618-1620
Hôn nhân không phải là một sự bắt buộc cho hết mọi
người. Ðặc biệt, Thiên Chúa kêu gọi một số người nam và người nữ, để theo Chúa
Giêsu trong đời sống khiết tịnh và độc thân vì Nước Trời, giúp họ từ bỏ thiện
ích to lớn của hôn nhân để lo toan những công việc của Chúa và tìm cách làm đẹp
lòng Người. Như thế, họ trở thành dấu chỉ cho sự ưu tiên tuyệt đối của tình yêu
Ðức Kitô và sự sốt sắng mong chờ ngày Người đến trong vinh quang.
343. Bí tích Hôn phối được cử hành thế nào? 1621-1624, Vì hôn nhân làm cho các người phối ngẫu sống một
bậc sống công khai trong Hội thánh, nên việc cử hành Phụng vụ của Bí tích này
cũng công khai, dưới sự chứng kiến của vị tư tế (hay của người chứng hôn được
Hội thánh ủy thác) và các nhân chứng khác.
344. Sự ưng thuận kết hôn là gì? 1625-1632, 1662-1663
Sự ưng thuận kết hôn là ý muốn do người nam và
người nữ bộc lộ, để tự hiến cho nhau một cách dứt khoát, với mục đích sống một
giao ước tình yêu chung thủy và sung mãn. Vì chính sự ưng thuận làm thành Bí tích
Hôn phối, nên sự ưng thuận là điều không thể thiếu và cũng không thể thay thế
được. Ðể Bí tích Hôn phối thành sự, sự ưng thuận phải có đối tượng là hôn nhân
đích thực; và sự ưng thuận đó phải là một hành vi nhân linh ý thức và tự do,
không do bị ép buộc hay vì sợ hãi một quyền lực nào.
345. Phải làm gì khi
một trong hai người phối ngẫu không phải là công giáo? 1633-1637
Ðể hợp pháp, các hôn nhân hỗn hợp (giữa người công
giáo và người đã Rửa tội ngoài công giáo) cần có sự cho phép của thẩm quyền
Giáo hội. Các hôn nhân khác đạo (giữa người công giáo và người không Rửa tội),
để thành sự, cần phải có phép chuẩn. Trong mọi trường hợp, điều chính yếu là
đôi hôn phối phải ý thức chấp nhận những mục đích và đặc tính căn bản của hôn
nhân; và về phần người công giáo, phải chấp nhận những cam kết là giữ đức tin
và bảo đảm việc Rửa tội cũng như giáo dục công giáo cho con cái, cũng phải báo
cho người phối ngẫu biết những điều ấy.
346. Bí tích Hôn phối có những hiệu quả nào? 1638-1642
Bí tích Hôn phối tạo nên một mối dây liên kết vĩnh
viễn và độc nhất giữa hai người phối ngẫu. Chính Thiên Chúa đã xác nhận sự ưng
thuận của những người kết hôn. Như thế, hôn nhân thành sự và hoàn hợp giữa
những người đã được Rửa tội không bao giờ có thể tháo gỡ được. Mặt khác, Bí
tích cũng trao ban cho đôi vợ chồng ân sủng cần thiết để họ đạt tới sự thánh
thiện trong đời sống lứa đôi, cũng như trong việc sinh con có trách nhiệm và
giáo dục con cái.
347. Các tội nghịch
lại Bí tích Hôn phối một cách nghiêm trọng là các tội nào? 1645-1648
Ðó là các tội: ngoại tình và đa thê vì đi ngược lại
với phẩm giá bình đẳng của người nam và người nữ, ngược lại với tính duy nhất
độc hữu của tình yêu hôn nhân; từ chối sinh con, vì loại bỏ khỏi hôn nhân hồng
ân con cái; ly dị, vì đi ngược lại với tính bất khả phân ly của hôn nhân.
348. Khi nào Hội thánh chấp nhận việc vợ chồng
ly thân? 1629, 1649
Hội thánh chấp nhận việc vợ chồng ly thân khi việc
họ chung sống, vì những lý do nghiêm trọng, đã trở nên không thể được trong
thực tế, mặc dù Hội thánh vẫn mong muốn họ hòa giải với nhau. Nhưng bao lâu
người phối ngẫu còn sống, không ai trong đôi vợ chồng được tự do tái hôn; trừ
khi hôn phối của họ là không thành sự và được thẩm quyền Hội thánh tuyên bố
điều đó.
349. Hội thánh có thái độ nào đối với những
người đã ly dị lại tái hôn? 1650-1651, 1665
Trung thành với Chúa, Hội thánh không thể công nhận
hôn nhân của những người đã ly dị lại kết hôn theo luật dân sự. "Ai rẫy vợ
mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy
chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình" (Mc 10.11-12). Ðối với họ, Hội
thánh giữ một thái độ chăm sóc ân cần, mời gọi họ duy trì đời sống đức tin, cầu
nguyện, thực hành các việc bác ái và chăm lo việc giáo dục con cái theo Kitô
giáo. Nhưng bao lâu tình trạng như thế của họ kéo dài, vì rõ ràng trái với luật
Chúa, họ không được xưng tội, rước lễ, cũng như đảm nhiệm một số trách nhiệm
trong Hội thánh.
350. Tại sao gia đình Kitô hữu được gọi là Hội
thánh tại gia? 1655-1658, 1666
Gia đình Kitô hữu được gọi là Hội thánh tại gia vì
gia đình biểu lộ và sống bản chất "hiệp thông và gia đình" của Hội
thánh như gia đình của Thiên Chúa. Mọi thành viên trong gia đình, tùy theo vai
trò riêng của mình, thực thi chức tư tế được lãnh nhận từ Bí tích Rửa tội, góp
phần xây dựng gia đình thành một cộng đoàn ân sủng và cầu nguyện, một trường
dạy các đức tính nhân bản và Kitô giáo, là nơi đầu tiên đức tin được loan
truyền cho con cái.
Chương
Bốn: Những Cử Hành Phụng Vụ Khác (351-356)
Các Á Bí Tích
351. Các á Bí tích là gì? 1667-1672, 1677-1678
Ðó là những dấu chỉ thánh thiêng do Hội thánh thiết
lập để thánh hóa một số hoàn cảnh trong cuộc sống. Các á Bí tích gồm một lời
cầu nguyện, kèm theo là dấu thánh giá và những dấu chỉ khác. Trong số các á Bí
tích, quan trọng nhất là các phép lành. Các phép lành này là một lời ca ngợi
Thiên Chúa và một lời khẩn nguyện để kêu xin những hồng ân của Thiên Chúa; cũng
có những việc thánh hiến con người cũng như các đồ vật được dùng vào việc thờ
phượng Thiên Chúa.
352. Nghi thức Trừ tà là gì? 1673
Người ta gọi là nghi thức Trừ tà, khi Hội thánh,
với thẩm quyền của mình, nhân danh Chúa Giêsu, kêu xin để một người hay một vật
được Thiên Chúa bảo vệ khỏi ảnh hưởng của Ác thần và giải thoát khỏi ách thống
trị của nó. Trong cử hành Bí tích Rửa tội, có một nghi thức Trừ tà đơn giản.
Nghi thức Trừ tà trọng thể chỉ được thực hiện bởi một linh mục, với sự cho phép
của Giám mục.
353. Ðâu là những hình
thức đạo đức bình dân kèm theo đời sống Bí tích của Hội thánh? 1674-1676, 1679
Cảm thức tôn giáo của dân Kitô giáo trong mọi thời
đại đều có những cách diễn tả lòng đạo đức của mình qua nhiều hình thức khác
nhau luôn đi kèm theo đời sống Bí tích của Hội thánh, như việc tôn kính các di
tích thánh, kính viếng các đền thánh, những cuộc hành hương, những cuộc rước
kiệu, chặng đàng thánh giá, kinh Mân côi. Dưới ánh sáng đức tin, Hội thánh soi
sáng và cổ võ những hình thức chính đáng của lòng đạo đức bình dân.
Lễ Nghi An
Táng Theo Kitô Giáo
354. Có tương quan nào giữa các Bí tích và cái
chết của người Kitô hữu? 1680-1683
Người Kitô hữu, chết trong Ðức Kitô, khi kết thúc
cuộc đời trần thế của mình, đạt đến sự viên mãn của đời sống mới được bắt đầu
nơi Bí tích Rửa tội, được củng cố bằng Bí tích Thêm sức và được nuôi dưỡng bằng
Bí tích Thánh Thể, là tham dự trước vào bàn tiệc thiên quốc. Ý nghĩa cái chết
trong Kitô giáo được biểu lộ dưới ánh sáng sự Chết và sự Phục sinh của Ðức
Kitô, niềm hy vọng duy nhất của chúng ta. Người Kitô hữu chết trong Ðức Kitô,
là ra đi để "cư ngụ nơi Chúa" ( 2 Cr 5,8).
355. Lễ nghi an táng diễn tả ý nghĩa gì? 1684-1685
Dù được cử hành theo nhiều nghi thức khác nhau tùy
theo hoàn cảnh và truyền thống địa phương, lễ nghi an táng của Kitô giáo luôn
làm nổi bật đặc tính Vượt qua của cái chết theo Kitô giáo trong niềm hy vọng
sống lại, cũng như ý nghĩa của sự hiệp thông với người đã qua đời, đặc biệt là
trong lời cầu nguyện cho linh hồn họ được thanh luyện.
356. Những giai đoạn chính của lễ nghi an táng
là gì? 1686-1690
Lễ nghi an táng thường gồm bốn phần chính: cộng
đoàn đón tiếp quan tài với những lời an ủi và hy vọng, Phụng vụ Lời Chúa, Hy tế
Thánh Thể, và lễ nghi từ biệt, trong đó linh hồn người quá cố được phó dâng lên
Thiên Chúa, Ðấng là nguồn sống vĩnh cửu, trong khi thân xác được an táng trong
niềm hy vọng phục sinh.
Phần III: Ðời Sống Trong Ðức Kitô (357-533)
Ðoạn Thứ Nhất: Ơn Gọi Của Con Người: Ðời Sống Trong Chúa Thánh Thần
(357-433)
357. Ðời sống luân lý
của người Kitô hữu được nối kết với đức tin và các Bí tích như thế nào? 1691-1698
Ðiều mà Kinh Tin Kính tuyên xưng, các Bí tích tiếp
tục trao ban. Qua các Bí tích, các tín hữu đón nhận ân sủng của Ðức Kitô và
hồng ân của Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, họ có khả năng sống đời sống mới với tư
cách là con cái Thiên Chúa trong Ðức Kitô, Ðấng họ đã đón nhận trong đức tin.
"Hỡi người Kitô hữu, hãy ý thức phẩm giá của
bạn" (Thánh Lêô Cả).
Chương
Một: Phẩm Giá Con Người (358-400)
Con người,
hình ảnh của Thiên Chúa
358. Nền tảng phẩm giá con người là gì? 1699-1715
Phẩm giá của con người bắt nguồn trong việc con
người được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Ðược phú bẩm một linh
hồn thiêng liêng và bất tử, lý trí và ý chí tự do, con người được qui hướng về
Thiên Chúa và được mời gọi hưởng hạnh phúc vĩnh cửu cả hồn lẫn xác.
Ơn Gọi Ðược Hạnh
Phúc
359. Làm thế nào con người đạt tới hạnh phúc? 1716
Con người đạt được diễm phúc nhờ ân sủng của Ðức
Kitô, ân sủng này cho họ được tham dự vào đời sống của Thiên Chúa. Trong Phúc
Âm, Ðức Kitô chỉ cho các môn đệ của mình con đường dẫn tới hạnh phúc vĩnh cửu:
đó là các Mối phúc. Ân sủng của Ðức Kitô cũng hoạt động trong tất cả những ai,
dựa theo lương tâm ngay thẳng, tìm kiếm và yêu mến chân lý và điều thiện, và
tránh điều ác.
360. Tại sao các Mối phúc lại quan trọng đối
với chúng ta? 1716-1717, 1725-1726
Các Mối phúc nằm ở trung tâm lời rao giảng của Chúa
Giêsu. Chúng nhắc lại các lời hứa mà Thiên Chúa đã trao ban từ thời ông Ábraham
và hoàn thành các lời hứa. Các Mối phúc diễn tả chính diện mạo của Chúa Giêsu,
nêu lên những đặc tính đích thực của đời sống người Kitô hữu và mạc khải cho
con người cùng đích hoạt động của họ : đó là hạnh phúc đời đời.
361. Ðâu là mối liên
hệ giữa các Mối phúc và lòng khao khát hạnh phúc của con người? 1718-1719
Các mối phúc đáp lại lòng khao khát bẩm sinh về
hạnh phúc mà Thiên Chúa đã đặt để trong tâm hồn con người để lôi kéo họ về với
Ngài và chỉ mình Ngài mới có thể lấp đầy lòng khao khát ấy.
362. Hạnh phúc đời đời là gì? 1720-1724, 1727-1729
Ðó là việc chiêm ngưỡng Thiên Chúa trong đời sống
vĩnh cửu, ở đó chúng ta sẽ được trọn vẹn "thông phần bản tính Thiên
Chúa" (2 Pr 1,4), thông phần vinh quang của Ðức Kitô và niềm vui của đời
sống Ba Ngôi. Hạnh phúc đời đời vượt quá khả năng con người. Ðó là một hồng ân
siêu nhiên và nhưng không của Thiên Chúa, cũng như ân sủng dẫn đưa chúng ta đến
đó. Hạnh phúc được hứa ban đặt chúng ta trước những chọn lựa luân lý quan trọng
về của cải trần thế, thúc đẩy chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Sự Tự Do Của
Con Người
363. Tự do là gì? 1730-1733, 1743-1744
Tự do là khả năng Thiên Chúa ban cho con người để
hành động hay không hành động, để làm việc này hay việc khác, và như vậy, tự
mình đưa ra những quyết định một cách ý thức. Tự do là nét đặc trưng của các
hành vi nhân linh. Càng làm điều thiện, người ta càng tự do hơn. Tự do hướng
đến sự hoàn hảo khi quy hướng về Thiên Chúa, Ðấng là sự thiện tối thượng và là
hạnh phúc của chúng ta. Tự do cũng bao hàm khả năng lựa chọn giữa điều tốt và
điều xấu. Sự lựa chọn điều xấu là một lạm dụng tự do, đưa chúng ta vào vòng nô
lệ tội lỗi.
364. Ðâu là mối tương quan giữa tự do và trách
nhiệm? 1734-1737, 1745-1746
Vì có tự do, con người phải chịu trách nhiệm về các
hành vi của mình theo mức độ các hành vi này do chính họ muốn, cả khi việc qui
trách và trách nhiệm về một hành động có thể bị giảm thiểu hoặc đôi khi bị loại
bỏ, vì lý do thiếu hiểu biết, không chú ý, do áp lực, do sợ hãi, do xúc động
thái quá, hoặc do các thói quen.
365. Tại sao mọi người có quyền thực thi tự do
của mình? 1738, 1747
Mỗi người đều có quyền sử dụng tự do của mình, vì
tự do không thể tách rời khỏi phẩm giá con người. Vì thế quyền này phải luôn
được tôn trọng, đặc biệt trong lãnh vực luân lý và tôn giáo. Quyền tự do này
phải được luật dân sự công nhận và bảo vệ, trong các giới hạn của công ích và
trật tự công cộng chính đáng.
366. Sự tự do của con
người nằm ở vị trí nào trong nhiệm cục cứu độ? 1739-1742, 1748
Sự tự do của chúng ta bị suy yếu vì tội nguyên tổ.
Sự suy yếu này càng trầm trọng hơn vì các tội lỗi sau đó. Nhưng "chính để
chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta" (Gl 5,1). Nhờ ân
sủng của Người, Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta đến sự tự do thiêng liêng,
để làm cho chúng ta thành những cộng tác viên tự do của Người, trong Hội thánh
và trong thế giới.
367. Ðâu là nguồn gốc luân lý của hành vi nhân
linh? 1749-1754, 1757-1758
Tính chất luân lý của hành vi nhân linh dựa trên ba
nguồn:
- Ðối tượng được lựa chọn, nghĩa là một điều thiện
đích thực hay có vẻ như thế.
- Ý hướng của chủ thể hành động, nghĩa là mục đích
khiến cho chủ thể hành động.
- Các hoàn cảnh của hành động, bao gồm cả các hậu
quả của hành động.
368. Khi nào hành vi là tốt xét về phương diện
luân lý? 1755-1756, 1759-1760
Xét về phương diện luân lý, hành vi tốt phải có
cùng lúc đối tượng, ý hướng và các hoàn cảnh đều tốt. Ðối tượng được chọn tự nó
có thể làm cho hành vi trở thành xấu, dù có ý hướng tốt. Không được phép làm
một điều xấu để đạt được một điều tốt. Một mục đích xấu có thể hủy hoại hành
vi, cho dù đối tượng tự nó là tốt. Ngược lại, một mục đích tốt không thể làm
cho một hành động mà đối tượng của nó là xấu, trở thành tốt được, vì mục đích
không biện minh cho các phương tiện. Các hoàn cảnh có thể làm giảm thiểu hay
gia tăng trách nhiệm của tác giả hành vi, nhưng chúng không thể làm thay đổi
phẩm chất luân lý của chính các hành vi. Hoàn cảnh không bao giờ có thể làm cho
một hành vi tự nó là xấu trở thành tốt được.
369. Có phải có những
hành vi luôn luôn không được phép làm hay không? 1756, 1761
Có những hành vi, mà sự lựa chọn chúng luôn luôn là
không được phép, vì đối tượng của chúng (chẳng hạn lộng ngôn, sát nhân và ngoại
tình). Việc lựa chọn những hành vi này đã có một lệnh lạc của ý chí, nghĩa là
một điều xấu luân lý; điều xấu này không thể biện minh bằng việc xét đến những
điều tốt có thể rút ra từ những hành vi đó.
Tính Luân Lý
Của Các Ðam Mê
370. Các đam mê là gì? 1762-1766, 1771-1772
Ðam mê là những cảm xúc, những rung động hay những
chuyển biến của sự nhạy cảm - đó là những yếu tố tự nhiên của tâm lý con người
- chúng thúc đẩy con người hành động hay không hành động, theo điều được cảm
nhận là tốt hoặc xấu. Những đam mê căn bản là yêu và ghét, ước muốn và sợ hãi, vui
buồn và phẫn nộ. Ðam mê quan trọng nhất là tình yêu, được hấp dẫn bởi điều
thiện. Người ta chỉ yêu điều thiện hảo, hoặc là điều thiện hảo thực sự hoặc là
điều người ta tưởng là thiện hảo.
371. Xét về khía cạnh luân lý, đam mê tốt hay
xấu? 1767-1770, 1773-1775
Vì là những rung động của khả năng cảm thụ, đam mê
tự chúng không tốt và cũng chẳng xấu. Ðam mê tốt khi đưa đến những hành động
tốt, và là xấu trong trường hợp nghịch lại. Các đam mê có thể được thăng hoa
thành các nhân đức hay thoái hóa thành các nết xấu.
Lương Tâm
Luân Lý
372. Lương tâm luân lý là gì? 1776-1780, 1795-1797
Hiện diện trong sâu thẳm lòng người, lương tâm luân
lý là một phán đoán của lý trí, vào lúc cần thiết, thúc đẩy con người làm lành
lánh dữ. Nhờ lương tâm luân lý, con người nhận thức được phẩm chất luân lý của
một hành vi sẽ làm hay đã làm, và đảm nhận trách nhiệm về hành vi đó. Khi lắng
nghe tiếng nói của lương tâm luân lý, con người khôn ngoan có thể nghe được
tiếng Thiên Chúa nói với mình.
373. Phẩm giá con người đòi buộc điều gì đối
với lương tâm luân lý? 1780-1782, 1798
Phẩm giá con người đòi hỏi sự ngay thẳng của lương
tâm luân lý, có nghĩa là lương tâm phải phù hợp với điều công chính và tốt lành
dựa theo lý trí và Lề luật của Thiên Chúa. Căn cứ vào phẩm giá nhân vị như thế,
con người không thể bị ép buộc phải hành động nghịch lại với lương tâm mình,
cũng như không thể bị ngăn cản, trong các giới hạn của công ích, hành động theo
lương tâm mình, nhất là trong lãnh vực tôn giáo.
374. Làm sao đào tạo lương tâm ngay thẳng và
chân thật? 1783-1788, 1799-1800
Lương tâm luân lý ngay thẳng và chân thật được đào
tạo qua giáo dục, qua việc thấm nhuần Lời Chúa và các giáo huấn của Hội thánh.
Lương tâm luân lý được các hồng ân Chúa Thánh Thần nâng đỡ và được các lời
khuyên bảo của những người khôn ngoan trợ giúp. Ngoài ra, cầu nguyện và xét
mình cũng đóng góp rất nhiều vào việc đào tạo luân lý.
375. Ðâu là những quy tắc mà lương tâm luôn
phải theo? 1789
Có ba qui tắc căn bản: 1) Không bao giờ được làm
điều xấu để đạt tới điều tốt; 2) Luật vàng: "Tất cả những gì anh em muốn
người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta" (Mt
7,12); 3) Ðức ái Kitô giáo luôn đòi hỏi tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ,
mặc dù điều đó không có nghĩa là chấp nhận một điều xấu khách quan như là một
điều tốt.
376. Lương tâm có thể
đưa ra những phán đoán sai lầm không? 1790-1794, 1801-1802
Con người phải luôn tuân theo phán đoán chắc chắn
của lương tâm mình; nhưng lương tâm cũng có thể đưa ra những phán đoán sai lầm,
vì không phải lúc nào người ta cũng tránh được lầm lỗi của mình. Tuy nhiên,
người ta không thể qui trách nhiệm cho người thực hiện điều xấu vì sự thiếu
hiểu biết ngoài ý muốn, cả khi đó là một điều xấu khách quan. Chính vì thế, con
người phải vận dụng hết mọi khả năng để giúp lương tâm luân lý tránh khỏi những
sai lầm.
Các Nhân Ðức
377. Nhân đức là gì? 1803, 1833
Nhân đức là một xu hướng thường xuyên và kiên trì
để làm điều thiện. "Mục đích của một đời sống nhân đức là trở nên giống
Thiên Chúa" (thánh Grêgôriô thành Nyssa). Có những đức tính nhân bản và
những nhân đức đối thần.
378. Các đức tính nhân bản là gì? 1804, 1810-1811, 1834, 1839
Các đức tính nhân bản là xu hướng thường xuyên và
kiên trì của lý trí và ý chí nhằm điều chỉnh hành vi của chúng ta, điều tiết
các đam mê và hướng dẫn nếp sống chúng ta cho phù hợp với lý trí và đức tin.
Nhờ đạt được và củng cố thường xuyên bằng các hành vi luân lý tốt, các đức tính
nhân bản được ân sủng Thiên Chúa thanh luyện và nâng cao.
379. Các đức tính nhân bản chính là gì? 1805, 1834
Ðó là các đức tính được gọi là các đức tính
"căn bản." Tất cả các nhân đức khác đều qui tụ quanh các đức tính này
và tạo thành nền tảng cho đời sống đạo đức. Ðó là: khôn ngoan, công bằng, can
đảm và tiết độ.
380. Khôn ngoan là gì? 1806, 1835
Khôn ngoan là đức tính giúp lý trí sẵn sàng trong
mọi hoàn cảnh phân định điều thiện đích thực và chọn lựa những phương tiện
thích hợp để đạt tới điều thiện đó. Sự khôn ngoan hướng dẫn các đức tính khác,
bằng cách chỉ ra cho chúng luật lệ và mức độ của chúng.
381. Công bằng là gì? 1807, 1836
Công bằng là đức tính luân lý thể hiện qua quyết
tâm trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa và trả cho tha nhân những
gì thuộc về tha nhân. Công bằng đối với Thiên Chúa được gọi là "nhân đức
thờ phượng".
382. Can đảm là gì? 1808, 1837
Can đảm là đức tính luân lý giúp chúng ta kiên trì
và quyết tâm theo đuổi điều thiện giữa những khó khăn trong đời; can đảm có thể
đưa đến khả năng dám hy sinh chính mạng sống để bảo vệ một điều công chính.
383. Tiết độ là gì? 1809, 1838
Tiết độ là đức tính luân lý giúp ta điều tiết sức
lôi cuốn của những lạc thú, sử dụng chừng mực các của cải trần thế, giúp ý chí
làm chủ các bản năng và kiềm chế các ham muốn trong giới hạn chính đáng.
384. Các nhân đức đối thần là gì? 1812-1813, 1840-1841
Các nhân đức đối thần là những nhân đức có chính
Thiên Chúa là nguồn gốc, động lực và đối tượng trực tiếp. Các nhân đức này được
phú bẩm trong con người cùng với ân sủng thánh hóa, giúp con người có khả năng
sống tương quan với Thiên Chúa Ba Ngôi. Các nhân đức đối thần tạo nền móng và
động lực cho hành vi luân lý của người Kitô hữu, làm sinh động các đức tính
nhân bản. Chúng là bảo chứng cho sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần
trong các khả năng của con người.
385. Các nhân đức đối thần là những nhân đức
nào? 1813
Các nhân đức đối thần gồm có: đức tin, đức cậy và
đức mến.
386. Ðức tin là gì? 1814-1816, 1842
Ðức tin là nhân đức đối thần, nhờ đó chúng ta tin
vào Thiên Chúa và tất cả những gì Ngài đã mạc khải cho chúng ta và những gì Hội
thánh dạy chúng ta tin, bởi vì Thiên Chúa là chính Chân lý. Bằng đức tin, con
người phó thác bản thân mình một cách tự do cho Thiên Chúa. Vì thế người tin
tìm kiếm để nhận biết và thi hành ý muốn của Ngài, vì "đức tin hoạt động
nhờ đức ái" (Gl 5,6).
387. Ðức cậy là gì? 1817-1821, 1843
Ðức cậy là nhân đức đối thần giúp chúng ta khao
khát và mong chờ Thiên Chúa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu là hạnh phúc của
chúng ta, khi tin tưởng vào các lời hứa của Ðức Kitô và cậy dựa vào sự trợ giúp
của ơn Chúa Thánh Thần để xứng đáng hưởng đời sống vĩnh cửu và kiên trì cho đến
hết cuộc đời trần thế.
388. Ðức ái là gì? 1822-1829
1844
Ðức ái là nhân đức đối thần giúp chúng ta kính mến
Thiên Chúa trên hết mọi sự và bởi tình yêu đối với Thiên Chúa, chúng ta yêu
thương người khác như chính mình. Chúa Giêsu lấy đức ái làm giới răn mới, là sự
viên mãn của Lề luật. Ðức ái là "mối dây liên kết tuyệt hảo" (Cl
3,14), là nền tảng của các nhân đức khác mà nó làm cho sinh động, gợi hứng và
ra lệnh. Không có đức ái, "tôi sẽ chẳng là gì cả và... chẳng ích gì cho
tôi" (1 Cr 13,1-3).
389. Các ơn Chúa Thánh Thần là gì? 1830-1831, 1845
Các ơn Chúa Thánh Thần là những xu hướng thường
trực giúp cho con người ngoan ngoãn theo những linh ứng của Thiên Chúa. Có bảy
ơn Chúa Thánh Thần: khôn ngoan, thông minh, mưu lược, dũng cảm, hiểu biết, hiếu
thảo và kính sợ Thiên Chúa.
390. Những hoa trái của Chúa Thánh Thần là gì?
1832
Những hoa trái của Chúa Thánh Thần là những điều
thiện hảo được khắc ghi trong chúng ta như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh
cửu. Truyền thống Hội thánh đưa ra mười hai hoa trái của Chúa Thánh Thần:
"Bác ái, hoan lạc, an bình, kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ, từ tâm, khoan
dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết" (Gl 5,22-23).
Tội Lỗi
391. Ðể đón nhận lòng thương xót của Thiên
Chúa, chúng ta phải làm gì? 1846-1848, 1870
Ðể có thể đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa,
chúng ta phải nhìn nhận và thống hối các tội lỗi của mình. Chính Thiên Chúa,
qua Lời và Thánh Thần của Ngài, giúp chúng ta thấy rõ tội lỗi của mình, ban cho
chúng ta lương tâm ngay thẳng và niềm hy vọng vào ơn tha thứ.
392. Tội là gì? 1849-1851, 1871-1872
Tội là "một lời nói, hành vi hoặc ước muốn
trái nghịch với Luật vĩnh cửu" (thánh Augustinô). Tội là một sự xúc phạm
đến Thiên Chúa, không vâng phục tình yêu của Người. Tội gây thương tích cho bản
tính của con người và làm thương tổn đến tương quan giữa con người. Qua cuộc Tử
nạn, Ðức Kitô cho thấy rõ ràng tích chất trầm trọng của tội và đã chiến thắng
nó bằng lòng thương xót của Người.
393. Có nhiều loại tội hay không? 1852-1853, 1873
Có rất nhiều loại tội. Các tội có thể được phân
biệt theo đối tượng của chúng hoặc theo các nhân đức hay các giới răn, mà tội
đối nghịch. Người ta còn có thể phân biệt tội theo tương quan trực tiếp của
chúng với Thiên Chúa, với tha nhân hoặc với chính bản thân. Ngoài ra, người ta
cũng có thể phân biệt tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và việc bỏ sót
không làm.
394. Người ta phân
biệt tội theo tính chất trầm trọng của chúng như thế nào? 1854
Người ta phân biệt tội trọng và tội nhẹ.
395. Khi nào người ta phạm tội trọng? 1855-1861, 1874
Người ta phạm tội trọng khi cùng lúc có chất liệu
nặng, ý thức đầy đủ, và tự ý ưng thuận. Tội trọng phá huỷ đức mến trong chúng
ta, cướp đi ân sủng thánh hoá và dẫn chúng ta đến cái chết đời đời trong hỏa
ngục nếu không sám hối. Tội trọng được tha thứ cách thông thường nhờ Bí tích
Rửa tội và Bí tích Thống hối, còn gọi là Bí tích Hòa giải.
396. Khi nào người ta phạm tội nhẹ? 1862-1864, 1875
Khác biệt cách triệt để với tội trọng, người ta
phạm tội nhẹ khi chất liệu là nhẹ, hoặc thậm chí chất liệu là nặng, nhưng không
có đầy đủ ý thức hay không hoàn toàn ưng thuận. Tội nhẹ không cắt đứt tương
quan với Thiên Chúa, nhưng làm suy yếu đức mến. Tội nhẹ biểu lộ lòng quyến
luyến lệch lạc đối với của cải trần thế, ngăn cản sự tiến triển của linh hồn
trong việc thực hành nhân đức và trong việc thực thi điều thiện luân lý. Tội
nhẹ đáng chịu những hình phạt tạm thời để thanh luyện.
397. Tội sinh sôi nảy nở nơi chúng ta như thế
nào? 1865, 1876
Tội tạo nên xu hướng về tội, và do việc lặp đi lặp
lại cùng một hành vi, sẽ tạo nên thói xấu.
398. Các thói xấu là gì? 1866-1867
Ðối nghịch với các nhân đức, các thói xấu là những
thói quen lệch lạc làm mờ tối lương tâm và hướng chiều về điều xấu. Các thói
xấu có thể ghép lại thành bảy mối tội đầu: kiêu ngạo, hà tiện, ganh tị, nóng
giận, dâm dục, mê ăn uống, và lười biếng.
399. Chúng ta có trách nhiệm gì đối với tội
người khác không? 1868
Chúng ta có trách nhiệm đối với tội của người khác,
khi chúng ta cộng tác cách có lỗi vào tội đó.
400. Các cơ cấu của tội là gì? 1869
Các cơ cấu của tội là những hoàn cảnh xã hội hay
những tổ chức nghịch lại với Luật Thiên Chúa; chúng là những biểu lộ và là hậu
quả của các tội cá nhân.
Chương
Hai: Cộng Ðồng Nhân Loại (401-414)
Cá Nhân Và Xã
Hội
401. Chiều kích xã hội của con người hệ tại
điều gì? 1877-1880, 1890-1891
Con người không những được kêu gọi theo từng cá
nhân để hưởng hạnh phúc, nhưng còn có một chiều kích xã hội, tạo thành một yếu
tố căn bản của bản chất cũng như ơn gọi của mình. Thật vậy, tất cả mọi người
đều được kêu gọi đến cùng một mục đích là chính Thiên Chúa. Có một sự tương tự
nào đó giữa sự hiệp thông các Ngôi Vị Thiên Chúa với tình huynh đệ mà con người
phải thiết lập với nhau, trong chân lý và tình yêu. Tình yêu đối với tha nhân
không thể tách rời khỏi tình yêu đối với Thiên Chúa.
402. Ðâu là mối tương quan giữa cá nhân với xã
hội? 1881-1882, 1892-1893
Nguyên lý, chủ thể và mục đích của tất cả các định
chế xã hội là và phải là con người. Một số cộng đồng, chẳng hạn như gia đình và
tập thể dân sự, rất cần thiết cho con người. Các hiệp hội khác cũng hữu ích cho
con người, cả trên bình diện quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế, nhưng
phải tôn trọng nguyên tắc hỗ trợ...
403. Nguyên tắc hỗ trợ là gì? 1883-1885, 1894
Nguyên tắc này có nghĩa là một cộng đồng ở cấp độ
cao hơn không được thâu tóm các phận vụ thuộc cộng đồng ở cấp độ thấp hơn, đến
độ cướp mất thẩm quyền của cộng đồng cấp thấp này. Ðúng hơn, cộng đồng cấp cao
phải nâng đỡ cộng đồng cấp thấp trong trường hợp cần thiết.
404. Một cộng đồng
nhân loại đích thực còn đòi buộc điều gì khác nữa? 1886-1889, 1895-1896
Cộng đồng nhân loại đích thực đòi buộc phải tôn
trọng sự công bằng, một bậc thang giá trị đúng đắn, các chiều kích thể lý và
bản năng phải phụ thuộc các chiều kích nội tâm và tinh thần. Ðặc biệt, nơi nào
tội lỗi làm băng hoại môi trường xã hội, phải kêu gọi sám hối tâm hồn và kêu
cầu đến ân sủng của Thiên Chúa, để có thể thay đổi xã hội hầu thực sự phục vụ
cho tất cả mọi người và từng cá nhân. Ðức ái là giới răn cao cả nhất mang tính
xã hội, vì đòi buộc sự công bằng và giúp thực hiện sự công bằng.
Tham Dự Vào Ðời
Sống Xã Hội
405. Quyền bính trong xã hội được đặt trên nền
tảng nào? 1897-1902, 1918-1920
Mọi cộng đồng nhân loại đều cần có một quyền bính
hợp pháp để bảo đảm trật tự và góp phần vào việc phục vụ công ích. Quyền bính
này đặt nền tảng trên bản tính con người, vì phù hợp với trật tự được Thiên
Chúa thiết lập.
406. Khi nào quyền bính được thực thi hợp
pháp? 1901, 1903-1904, 1921-1922
Quyền bính được thực thi cách hợp pháp khi hoạt
động vì công ích và sử dụng các phương tiện hợp pháp về mặt luân lý để đạt được
công ích ấy. Vì thế, các thể chế chính trị phải được thiết lập do quyết định tự
do của các công dân và họ phải tuân giữ nguyên tắc "Nhà nước pháp
chế," trong đó luật pháp là tối thượng chứ không phải ý muốn độc đoán của
một số người. Các luật lệ bất công và các biện pháp trái nghịch với trật tự
luân lý không bó buộc lương tâm con người.
407. Công ích là gì? 1905-1906, 1924
Công ích được hiểu là toàn thể những điều kiện của
đời sống xã hội cho phép các nhóm và các cá nhân đạt tới sự hoàn hảo của mình.
408. Công ích bao gồm những điều gì? 1907-1909, 1925
Công ích bao gồm: sự tôn trọng và cổ võ các quyền
lợi căn bản của con người, việc phát triển các lợi ích tinh thần và vật chất
của con người cũng như của xã hội, hoà bình và an ninh cho tất cả mọi người.
409. Ở đâu công ích được thực hiện một cách
đầy đủ nhất? 1910-1912, 1927
Công ích được thực hiện cách đầy đủ nhất trong các
cộng đồng chính trị nào biết bảo vệ và cổ võ thiện ích cho các công dân và các
tổ chức trung gian, mà không quên thiện ích phổ quát của gia đình nhân loại.
410. Con người tham
gia vào việc thực hiện công ích như thế nào? 1913-1917, 1926
Tuỳ theo địa vị và vai trò đảm nhận, mỗi người phải
góp phần vào việc cổ võ công ích: bằng việc tôn trọng các luật công bằng, và
dấn thân vào những lãnh vực mà cá nhân họ có trách nhiệm, như chăm sóc gia đình
và dấn thân trong công việc của mình. Trong khả năng của mình, các công dân
cũng phải tích cực tham gia vào đời sống công cộng.
Công Bằng Xã
Hội
411. Làm thế nào xã hội bảo đảm được công bằng
xã hội? 1928-1933, 1943-1944
Xã hội bảo đảm công bằng xã hội khi tôn trọng phẩm
giá và những quyền lợi con người; đó chính là mục đích thực sự của xã hội.
Ngoài ra, xã hội tìm kiếm công bằng xã hội, là điều liên hệ đến công ích và
việc thực thi quyền hành, khi xã hội tạo điều kiện để các hiệp hội và các cá
nhân đạt được những gì thuộc về quyền lợi của họ.
412. Ðâu là nền tảng sự bình đẳng giữa người
với người? 1934-1935, 1945
Mọi người đều được hưởng sự bình đẳng về phẩm giá
và những quyền lợi căn bản, vì họ được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa duy
nhất và được ban cho một linh hồn có lý trí. Họ có chung một bản tính và một
nguồn gốc, và được mời gọi chung hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa trong Ðức Kitô
là Ðấng Cứu Ðộ duy nhất.
413. Chúng ta đánh giá
những bất bình đẳng giữa con người như thế nào? 1936-1938, 1946-1947
Có những sự bất bình đẳng về mặt kinh tế và xã hội
ảnh hưởng trên hàng triệu con người. Những bất bình đẳng này đi ngược lại cách
công khai với Phúc Âm và đối nghịch với công bằng, với phẩm giá con người và
với hòa bình. Nhưng cũng có những khác biệt giữa con người, do những nhân tố
khác nhau thuộc kế hoạch của Thiên Chúa. Thật vậy, Thiên Chúa muốn rằng người
này nhận ở người kia những gì họ cần thiết và những ai có những "nén
bạc" đặc biệt, nên chia sẻ với những người khác. Những sự khác biệt này
khuyến khích và thường bắt buộc con người phải sống hào hiệp, nhân từ và chia
sẻ. Chúng thúc đẩy các nền văn hóa làm phong phú lẫn nhau.
414. Tình liên đới nhân loại được biểu lộ như
thế nào? 1939-1942, 1948
Xuất phát từ tình huynh đệ nhân bản và Kitô giáo,
tình liên đới trước hết được biểu lộ trong việc phân phối hợp lý các của cải,
trong việc trả lương lao động một cách công bằng và trong việc dấn thân cho một
trật tự xã hội công bằng hơn. Nhân đức liên đới được thực hiện qua việc chia sẻ
các của cải tinh thần của đức tin, điều này còn quan trọng hơn là các của cải
vật chất.
Chương
Ba: Ơn Cứu Ðộ Của Thiên Chúa: Lề Luật Và Ân Sủng (415-433)
Luật Luân Lý
415. Luật luân lý là gì? 1950-1953, 1975-1978
Luật luân lý là công trình khôn ngoan của Thiên
Chúa, chỉ cho con người những con đường và qui luật sống, dẫn đến hạnh phúc
Thiên Chúa đã hứa, và ngăn cấm những nẻo đường đưa con người xa lìa Thiên Chúa.
416. Luật luân lý tự nhiên hệ tại điều gì? 1954-1960, 1978-1979
Ðược Ðấng Sáng Tạo khắc ghi trong tâm hồn mọi
người, luật tự nhiên hệ tại việc tham dự vào sự khôn ngoan và lòng nhân từ của
Thiên Chúa. Luật tự nhiên diễn tả cảm thức luân lý nguyên thủy, giúp con người
sử dụng lý trí để phân định điều tốt điều xấu. Luật tự nhiên mang tính phổ quát
và bất biến, đặt nền tảng cho các quyền lợi và nghĩa vụ căn bản của con người,
cũng như của cộng đồng nhân loại và của chính luật dân sự.
417. Mọi người có nhận thức được luật tự nhiên
không? 1960
Vì tội lỗi, mọi người không thể nhận thức luật tự
nhiên cách rõ ràng và trực tiếp như nhau.
Vì vậy, "Thiên Chúa đã viết trên các bảng
Luật, tất cả những gì mà con người không đọc nổi trong tâm hồn họ" (thánh
Augustinô).
418. Tương quan giữa
luật tự nhiên và Luật Cựu Ước như thế nào? 1961-1962, 1980
Luật Cựu Ước là cấp độ đầu tiên của Luật mạc khải,
trình bày nhiều chân lý mà lý trí tự nhiên có thể đạt tới; những chân lý này
được củng cố và chính thức hóa trong các Giao ước cứu độ. Các qui định luân lý
của chúng được tóm lại trong Mười điều răn, đặt nền tảng cho ơn gọi của con
người. Các qui định này ngăn cấm những gì nghịch lại tình yêu đối với Thiên
Chúa và đối với tha nhân, và ấn định những đòi hỏi căn bản của tình yêu ấy.
419. Luật Cựu Ước có vị trí nào trong kế hoạch
cứu độ? 1963-1964, 1982
Luật Cựu Ước giúp chúng ta nhận biết nhiều chân lý
mà lý trí có thể đạt được. Luật Cựu Ước chỉ cho thấy điều người ta phải làm hay
không được phép làm, và nhất là, như một nhà sư phạm khôn ngoan, chuẩn bị con
người sám hối để đón nhận Tin Mừng. Tuy nhiên, dù thánh thiện, thiêng liêng và
tốt lành, Luật Cựu Ước vẫn bất toàn, vì tự nó không ban sức mạnh và ân sủng của
Chúa Thánh Thần để giúp người ta tuân giữ nó.
420. Luật Mới hay Luật Tin Mừng là gì? 1965-1972, 1983-1985
Luật Mới hay Luật Tin Mừng được Ðức Kitô rao giảng
và thực hiện, là sự viên mãn và hoàn thành Luật Thiên Chúa, tự nhiên và mạc
khải. Luật Mới được tóm kết trong giới răn mến Chúa yêu người, "yêu thương
nhau như Ðức Kitô đã yêu thương chúng ta". Luật Mới cũng là một thực tại
trong thâm tâm con người, đó là ân sủng của Chúa Thánh Thần giúp chúng ta có
thể thực hiện một tình yêu như thế. Ðó là "luật tự do" (Gc 1,25),
hướng dẫn chúng ta mau mắn hành động dưới sự thúc đẩy của tình yêu.
"Trước tiên, Luật Mới là ân sủng của Chúa
Thánh Thần, được ban cho các tín hữu trong Ðức Kitô" (thánh Tôma Aquinô).
421. Chúng ta gặp được Luật Mới ở đâu? 1971-1974, 1986
Chúng ta gặp được Luật Mới trong suốt cuộc đời và
lời rao giảng của Ðức Kitô, cũng như trong huấn giáo luân lý của các Tông đồ.
Bài giảng trên núi là cách diễn tả chính yếu của luật này.
Ân Sủng Và
Công Chính Hóa
422. Công chính hoá là gì? 1987-1995, 2017-2020
Công chính hoá là công trình tuyệt hảo của tình yêu
Thiên Chúa. Ðó là hành động nhân từ và nhưng không của Thiên Chúa, Ðấng tha thứ
tội lỗi cho chúng ta và làm cho chúng ta nên công chính, thánh thiện trong con
người chúng ta. Ðiều đó được thực hiện bằng ân sủng của Chúa Thánh Thần, ân
sủng đó được dành sẵn cho chúng ta nhờ cuộc khổ nạn của Ðức Kitô, và được trao
ban cho chúng ta qua Bí tích Rửa tội. Việc công chính hóa mở đường cho lời đáp
trả tự do của con người, nghĩa là cho đức tin vào Ðức Kitô và cho sự cộng tác
với ân sủng của Chúa Thánh Thần.
423. Ân sủng công chính hóa chúng ta là gì? 1996-1998, 2005, 2021
Ân sủng là hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban giúp
chúng ta tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi và có khả năng hành động
vì tình yêu dành cho Ngài. Ân sủng được gọi là ơn thường sủng, ơn thánh hóa hay
ơn thần hóa, vì ân sủng thánh hóa và thần hóa chúng ta. Ân sủng siêu nhiên, vì
tùy thuộc hoàn toàn vào sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa và vượt quá mọi
khả năng của lý trí và sức lực con người. Vì vậy, ân sủng vượt khỏi kinh nghiệm
của chúng ta.
424. Các loại ân sủng khác là gì? 1999-2000, 2003-2004, 2023-2024
Ngoài ơn thường sủng, còn có ơn hiện sủng (ân sủng
tùy hoàn cảnh), các ơn Bí tích (ân sủng đặc biệt của mỗi Bí tích), các ân sủng
đặc biệt hay đặc sủng (có mục đích là sự thiện ích của Hội thánh), trong đó có
ơn chức phận, là ơn đi kèm theo việc thi hành các thừa tác vụ trong Hội thánh
và các trách nhiệm của đời sống.
425. Ðâu là tương quan giữa ân sủng với tự do
con người? 2001-2002
Ân sủng dọn đường, chuẩn bị và khơi dậy lời đáp trả
tự do của con người. Ân sủng thỏa mãn những khát vọng thâm sâu của sự tự do con
người, mời gọi tự do cộng tác, và hướng dẫn tự do đến sự toàn thiện.
426. Công phúc là gì? 2006-2010, 2025-2026
Công phúc là điều đem lại quyền được thưởng cho một
hành động tốt. Trong những liên hệ với Thiên Chúa, con người tự mình không có
gì được gọi là công phúc, vì họ lãnh nhận tất cả từ Thiên Chúa. Tuy nhiên,
Thiên Chúa cho con người khả năng lập công nhờ kết hợp vào đức ái của Ðức Kitô,
nguồn mạch các công phúc của chúng ta trước mặt Thiên Chúa. Vì vậy, công phúc
của những việc lành trước hết là do ân sủng của Thiên Chúa, thứ đến mới do ý
chí tự do của con người.
427. Chúng ta có thể
lập công để lãnh nhận những điều thiện hảo nào? 2010-2011, 2027
Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể
lập công để lãnh nhận, cho chính mình và cho người khác, những ân sủng hữu ích
cho việc thánh hoá bản thân và cho việc đạt tới đời sống vĩnh cửu, cũng như của
cải vật chất cần thiết cho chúng ta, theo kế hoạch của Thiên Chúa. Tuy nhiên,
không ai có thể lập công để lãnh nhận ân sủng đầu tiên, là ân ban lúc khởi đầu
để sám hối và được nên công chính.
428. Có phải mọi người
đều được mời gọi tiến đến sự thánh thiện Kitô giáo không? 2012-2016, 2028-2029
Mọi tín hữu đều được mời gọi tiến đến sự thánh
thiện Kitô giáo. Sự thánh thiện này là sự viên mãn của đời sống Kitô hữu, sự
toàn hảo của tình yêu, được thực hiện trong việc kết hợp mật thiết với Ðức Kitô
và, trong Người, với Thiên Chúa Ba Ngôi. Con đường nên thánh của người Kitô
hữu, sau khi kinh qua thập giá, sẽ được hoàn thành trong cuộc phục sinh chung
cuộc của những người công chính, trong đó "Thiên Chúa có toàn quyền trên
mọi loài."
Giáo Hội, Mẹ
Và Thầy
429. Hội thánh nuôi
dưỡng đời sống luân lý của người Kitô hữu như thế nào? 2030-2031, 2047
Hội thánh là cộng đoàn các người Kitô hữu. Trong
Hội thánh, họ đón nhận lời Chúa và những giáo huấn về "Luật của Ðức
Kitô" (Gl 6,2), lãnh nhận ân sủng các Bí tích, kết hợp bản thân vào hy lễ
Thánh Thể của Ðức Kitô, để đời sống luân lý của họ trở thành một phượng tự thiêng
liêng. Trong Hội thánh, họ học gương thánh thiện của Ðức Trinh Nữ Maria và của
các thánh.
430. Tại sao Huấn
quyền Hội thánh can thiệp vào lãnh vực luân lý? 2032-2040, 2049-2051
Trách nhiệm của Huấn quyền Hội thánh là rao giảng
đức tin để mọi người tin và áp dụng vào đời sống cụ thể. Trách nhiệm này cũng
bao gồm cả những giới luật đặc thù của luật tự nhiên, bởi vì tuân giữ những
giới luật đó rất cần thiết cho ơn cứu độ.
431. Các điều răn của Hội thánh có mục đích
gì? 2041, 2048
Năm điều răn của Hội thánh có mục đích bảo đảm cho
người tín hữu những điều tối thiểu thiết yếu về tinh thần cầu nguyện, đời sống
Bí tích, dấn thân luân lý và tăng trưởng tình yêu đối với Thiên Chúa và tha
nhân.
432. Năm điều răn của Hội thánh là gì? 2042-2043
Năm điều răn của Hội thánh là: (1) tham dự Thánh lễ
Chúa nhật cũng như các ngày lễ buộc, kiêng việc xác và những hoạt động có thể
cản trở việc thánh hoá những ngày đó; (2) xưng tội để lãnh nhận Bí tích Giao
hoà ít là mỗi năm một lần; (3) Rước lễ ít là trong mùa Phục sinh; 4) Kiêng thịt
và giữ chay trong những ngày Hội thánh quy định; (5) Mỗi người theo khả năng,
đóng góp cho các nhu cầu vật chất của Hội thánh.
433. Tại sao đời sống
luân lý của người Kitô hữu rất cần thiết để loan báo Tin Mừng? 2044-2046
Nhờ đời sống luân lý phù hợp với Chúa Giêsu, các
người Kitô hữu lôi kéo mọi người tin vào Thiên Chúa thật; họ xây dựng Hội
thánh; đem tinh thần Phúc Âm vào giữa lòng đời và chuẩn bị cho Nước Thiên Chúa
đến.
Ðoạn Thứ Hai: Mười Ðiều Răn (434-533)
Xuất hành 20, 2-17
"Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa
ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.
Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với
Ta.
Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở
trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà
thờ.
Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà
phụng thờ: vì Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương.
Ðối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha
ông. Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm
nhân nghĩa đến ngàn đời.
Ngươi không được dùng danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, một cách bất xứng, vì Ðức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Ngài một cách
bất xứng.
Ngươi hãy nhớ ngày sabát, mà coi đó là ngày thánh.
Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ
bảy là ngày sabát kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không
được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia
súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Ðức Chúa đã dựng
nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Ngài đã nghỉ ngày thứ
bảy. Bởi vậy, Ðức Chúa đã chúc phúc cho ngày sabát và coi đó là ngày thánh.
Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên
đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi.
Ngươi không được giết người.
Ngươi không được ngoại tình.
Ngươi không được trộm cắp.
Ngươi không được làm chứng gian hại người.
Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không
được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của
người ta."
Ðệ nhị luật 5, 6-21
"Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa
ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.
Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với
Ta.
Ngươi không được tạc tượng vẽ hình bất cứ vật gì ở
trên trời cao cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để
mà thờ. Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Ðức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Ðối với những kẻ ghét Ta,
Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai yêu
mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.
Ngươi không được dùng danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, một cách bất xứng, vì Thiên Chúa không dung tha kẻ dùng danh Ngài một
cách bất xứng.
Ngươi hãy giữ ngày sabát, mà coi đó là ngày thánh,
như Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi. Trong sáu ngày, ngươi
sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát
kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc
nào, cả ngươi, cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, bò lừa và mọi gia súc
của ngươi, và ngoại kiều ở trong thành của ngươi, để tôi tớ nam nữ của ngươi
được nghỉ như ngươi. Ngươi hãy nhớ ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai-cập, và Ðức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ngươi ra khỏi
đó. Bởi vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi cử hành ngày
sa-bát.
Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, như Ðức Chúa, Thiên Chúa
của ngươi, đã truyền cho ngươi, để được sống lâu, và để được hạnh phúc trên đất
mà Ðức Chúa, Thiên Chúa ngươi, ban cho ngươi.
Ngươi không được giết người.
Ngươi không được ngoại tình.
Ngươi không được trộm cắp.
Ngươi không được làm chứng dối hại người.
Ngươi không được ham muốn vợ người ta, ngươi không
được thèm muốn nhà của người ta, đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay
bất cứ vật gì của người ta."
Ðạo Ðức Chúa Trời có mười điều răn
Thứ nhứt, thờ phượng Ðức Chúa Trời và kính
mến Ngài trên hết mọi sự.
Thứ hai, chớ kêu tên Ðức Chúa Trời vô cớ.
Thứ ba, giữ ngày Chúa Nhật,
Thứ bốn, thảo kính cha mẹ,
Thứ năm, chớ giết người,
Thứ sáu, chớ làm sự dâm dục,
Thứ bảy, chớ lấy của người,
Thứ tám, chớ làm chứng dối,
Thứ chín, chớ muốn vợ chồng người,
Thứ mười, chớ tham của người.
434. "Thưa Thầy,
tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời?" (Mt 19,16) 2052-2054, 2075-2076
Khi người thanh niên hỏi câu này, Chúa Giêsu trả
lời: "Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn," rồi Người
thêm: "Hãy đến theo Tôi" (Mt 19, 16-21). Việc theo Chúa Giêsu bao gồm
cả việc tuân giữ các điều răn. Lề luật không bị phá bỏ, nhưng chúng ta được mời
gọi tìm lại Lề luật nơi Con người của Vị Tôn sư thần linh của mình, Ðấng thực
thi trọn vẹn Lề luật nơi chính mình, Ðấng mạc khải trọn vẹn ý nghĩa của Lề
luật, và chứng nhận tính trường tồn của Lề luật.
435. Chúa Giêsu giải thích Lề luật thế nào? 2055
Chúa Giêsu giải thích Lề luật dưới ánh sáng của
giới răn yêu thương duy nhất nhưng có hai vế, là sự viên mãn của Lề luật:
"Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn ngươi. Ðó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất.
Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận
như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách tiên tri đều tùy thuộc vào hai
điều răn ấy" (Mt 22,37-40).
436. "Mười điều răn" nghĩa là gì? 2056-2057
"Mười điều răn" có nghĩa là "mười
lời" (Xh 34, 28), tóm tắt Lề luật do Thiên Chúa ban cho dân Israel trong
bối cảnh của Giao ước qua trung gian Môsê. Khi trình bày các giới răn về tình
yêu đối với Thiên Chúa (ba giới răn đầu) và đối với tha nhân (bảy giới răn
sau), Mười điều răn vạch ra cho dân Chúa và từng người con đường dẫn đến cuộc
sống được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi.
437. Liên hệ giữa Mười điều răn với Giao ước
như thế nào? 2058-2063, 2077
Mười điều răn phải được hiểu dưới ánh sáng của Giao
ước; trong ánh sáng đó Thiên Chúa tự mạc khải và cho biết ý muốn của Ngài. Bằng
việc tuân giữ các giới răn, dân Chúa muốn nói lên sự lệ thuộc của mình vào
Thiên Chúa và đáp lại sáng kiến yêu thương của Ngài với lòng biết ơn.
438. Hội thánh dành cho Mười điều răn tầm quan
trọng nào? 2064-2068
Trung thành với Thánh Kinh và với gương của Chúa
Giêsu, Hội thánh nhìn nhận Mười điều răn có tầm quan trọng và ý nghĩa hàng đầu.
Các người Kitô hữu buộc phải tuân giữ Mười điều răn.
439. Tại sao Mười điều răn tạo thành một thể
thống nhất? 2069, 2079
Mười điều răn tạo thành một thể thống nhất và không
thể phân chia, vì mỗi giới răn đều liên kết với các giới răn khác và với toàn
thể Mười điều răn. Vì vậy, vi phạm một giới răn là vi phạm toàn bộ Lề luật.
440. Tại sao Mười điều răn đòi buộc một cách
nghiêm trọng? 2072-2073, 2081
Bởi vì Mười điều răn trình bày những trách nhiệm
căn bản của con người đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân.
441. Chúng ta có khả năng tuân giữ Mười điều
răn không? 2074, 2082
Thưa có, vì Ðức Kitô, Ðấng mà không có Người chúng
ta không thể làm được việc gì, ban cho chúng ta có khả năng tuân giữ Mười điều
răn, nhờ hồng ân Thánh Thần và ân sủng của Người.
Chương
Một: "Ngươi Phải Yêu Mến Ðức Chúa, Thiên Chúa Của Ngươi Hết Lòng, Hết Linh
Hồn Và Hết Trí Khôn Ngươi" (442-454)
Ðiều Răn Thứ
Nhất: Ta Là Ðức Chúa, Thiên Chúa Của Ngươi. Ngươi Không Ðược Có Thần Nào Khác.
442. Lời tuyên bố của
Thiên Chúa: "Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi" (Xh 20,2) bao hàm
điều gì? 2083-2094, 2133-2134
Ðối với người tín hữu, câu này buộc phải giữ và
thực hành ba nhân đức đối thần, tránh các tội nghịch lại những nhân đức ấy. -
Ðức tin giúp tin tưởng vào Thiên Chúa và loại trừ những gì trái ngược, chẳng
hạn như cố tình nghi ngờ, cứng tin, lạc giáo, bội giáo, ly giáo. - Ðức cậy giúp
tin tưởng chờ đợi sự hưởng kiến Thiên Chúa và ơn phù trợ của Ngài, tránh sự ngã
lòng và tự phụ. - Ðức mến giúp yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, và phải loại
trừ tội lãnh đạm, vô ơn, nguội lạnh, lười biếng hoặc uể oải tinh thần, và tội
oán ghét Thiên Chúa phát sinh từ kiêu ngạo.
443. Lời Chúa truyền "Ngươi phải thờ
phượng một mình Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình
Ngài mà thôi" gồm những điều gì? 2095-2105, 2135-2136
Câu này buộc phải thờ lạy Thiên Chúa là Chúa tể của
tất cả những gì hiện hữu; phải tôn thờ Ngài xứng đáng với tư cách cá nhân hay
tập thể; phải cầu nguyện bằng những lời ca ngợi, tạ ơn và cầu khẩn; phải dâng
lên Ngài những lễ tế, nhất là lễ tế thiêng liêng của cuộc đời chúng ta, kết hợp
với hy lễ tuyệt hảo của Ðức Kitô; phải giữ những lời hứa và lời khấn đã dâng
lên Thiên Chúa.
444. Bằng cách nào con
người thực hiện quyền lợi của mình, là được thờ phượng Thiên Chúa trong chân lý
và tự do? 2104-2109, 2137
Mỗi người đều có quyền và bổn phận luân lý phải tìm
kiếm chân lý, đặc biệt là những gì liên quan đến Thiên Chúa và Hội thánh của
Ngài. Và một khi đã nhận biết Ngài, mỗi người đều có quyền và bổn phận luân lý
phải đón nhận Ngài, trung thành với Ngài, bằng việc dâng lên Ngài một sự thờ
phượng đích thực. Ðồng thời, phẩm giá con người đòi hỏi về phương diện tôn giáo
không ai có thể bị ép buộc hành động trái với lương tâm, và cũng không ai được
ngăn cản họ hành động theo lương tâm, riêng tư cũng như công khai, một mình hay
chung với những người khác, trong ranh giới của trật tự công cộng.
445. Thiên Chúa cấm
đoán điều gì khi Ngài ra lệnh: "Ngươi không được có thần nào khác đối
nghịch với Ta" (Xh 20, 2)? 2110-2128, 2138-2140
Giới răn này cấm:
- tội đa thần và thờ ngẫu tượng là thần thánh hóa
một thụ tạo, quyền lực, tiền bạc hay cả ma quỉ.
- tội mê tín là một lệch lạc trái với việc tôn thờ
Thiên Chúa đích thực. Mê tín biểu lộ dưới những hình thức khác như: bói toán,
ma thuật, phù thủy và chiêu hồn;
- tội vô đạo biểu hiện bằng hành động thử thách
Thiên Chúa, trong lời nói hay trong hành động; bằng việc phạm thượng, nghĩa là
xúc phạm đến người hay đồ vật đã thánh hiến, nhất là Bí tích Thánh Thể; mại
thánh, nghĩa là muốn mua bán những thực tại linh thiêng;
- tội vô thần là loại trừ sự hiện hữu của Thiên
Chúa, thường phát xuất từ một quan niệm sai lạc về quyền tự lập của con người;
- chủ thuyết bất khả tri là cho rằng con người
không thể nào biết về Thiên Chúa, và bao gồm chủ trương lãnh đạm tôn giáo và vô
thần thực hành.
446. Giới răn của
Thiên Chúa: "Ngươi không đựơc tạc tượng, vẽ hình...", có phải là cấm
việc tôn thờ ảnh tượng không? 2129-2132, 2141
Trong Cựu Ước, giới răn này cấm trình bày Thiên Chúa,
Ðấng tuyệt đối siêu việt, bằng bất cứ hình thức nào. Nhưng khởi từ mầu nhiệm
Nhập thể của Con Thiên Chúa, việc tôn kính ảnh tượng thánh của người Kitô hữu
được xác nhận (qua Công đồng Nicea II, năm 787), vì việc tôn kính này được đặt
nền tảng trên mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người, qua đó Thiên Chúa siêu việt
trở nên hữu hình. Ðây không phải là việc thờ lạy ảnh tượng, nhưng là việc tôn
kính Ðấng được trình bày qua ảnh tượng: Ðức Kitô, Ðức Trinh Nữ, các thiên thần
và các thánh.
Ðiều Răn Thứ
Hai: Ngươi Không Ðược Kêu Tên Thiên Chúa Cách Bất Xứng
447. Chúng ta phải tôn
kính thánh Danh Thiên Chúa như thế nào? 2142-2149, 2160-2162
Chúng ta tôn kính thánh Danh Thiên Chúa bằng việc
kêu cầu, chúc tụng, ca ngợi và tôn vinh Ngài. Vì vậy, cấm không được kêu đến Danh
Ngài để làm chứng cho một tội ác, và không được sử dụng cách bất xứng Danh
thánh Ngài, như lộng ngôn, điều này tự bản chất là một tội trọng, cũng như chửi
thề và bất trung với những lời hứa nhân Danh Thiên Chúa.
448. Tại sao cấm thề gian? 2150-2151, 2163-2164
Vì người ta nại đến Thiên Chúa, Ðấng là chính Chân
lý, để làm chứng cho một lời nói dối.
"Ðừng thề nhân danh Ðấng Sáng Tạo, cũng đừng
thề nhân danh thụ tạo, trừ khi ta nói thành thật và cần thiết với lòng tôn
kính" (thánh Inhaxiô Loyola).
449. Bội thề là gì? 2152-2155
Bội thề khi đưa ra một lời hứa kèm theo một lời
thề, nhưng cố ý không tuân giữ hay sau đó sẽ phá bỏ. Ðó là một tội trọng phạm
đến Thiên Chúa vì Ngài là Ðấng luôn trung tín với những lời Ngài đã hứa.
Ðiều Răn Thứ
Ba: Ngươi Phải Thánh Hóa Ngày Của Ðức Chúa
450. Tại sao Thiên
Chúa "đã chúc phúc cho ngày sabát và coi đó là ngày thánh" (Xh 20,
11)? 2168-2172, 2189
Trong ngày sabát, dân Do Thái tưởng nhớ việc Thiên
Chúa nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy theo như trình thuật Tạo dựng, cũng như nhớ đến
việc giải thoát Israel khỏi ách nô lệ Ai Cập và nhớ đến Giao ước được Thiên
Chúa thiết lập với dân Ngài.
451. Chúa Giêsu xử sự thế nào đối với ngày
sa-bát? 2173
Chúa Giêsu công nhận sự thánh thiêng của ngày sabát
và Người dùng thẩm quyền thần linh để đưa ra giải thích đích thực về ngày này:
"Ngày sabát được lập ra vì loài người chứ không phải loài người vì ngày
sabát" (Mc 2, 27).
452. Lý do nào người
Kitô hữu thay thế ngày sabát bằng ngày Chúa nhật? 2174-2176, 2190-2191
Ngày Chúa nhật là ngày Phục sinh của Ðức Kitô. Là
"ngày thứ nhất trong tuần" (Mc 16,2), ngày Chúa nhật gợi lại cuộc
sáng tạo lần thứ nhất; là "ngày thứ tám" tiếp sau ngày sabát, ngày
Chúa nhật biểu trưng một cuộc sáng tạo mới được khởi đầu bằng cuộc Phục sinh
của Ðức Kitô. Như thế, đối với các người Kitô hữu, ngày Chúa nhật trở thành
ngày thứ nhất của mọi ngày và của tất cả mọi ngày lễ: ngày của Chúa; trong ngày
này, nhờ cuộc Vượt qua, Ðức Kitô hoàn tất ý nghĩa thiêng liêng ngày sabát của
người Do Thái và loan báo sự an nghỉ đời đời của con người trong Thiên Chúa.
453. Phải thánh hóa ngày Chúa nhật thế nào? 2177-2185, 2192-2193
Các người Kitô hữu thánh hóa ngày Chúa nhật và các
ngày lễ buộc khác bằng việc tham dự tiệc Thánh Thể của Chúa và tránh mọi hoạt
động làm ngăn trở việc thờ phượng Thiên Chúa, hay làm xáo trộn niềm vui đặc thù
trong ngày của Chúa, cũng như việc nghỉ ngơi cần thiết cho tinh thần và thân
xác. Tuy nhiên, trong ngày Chúa nhật, các người Kitô hữu có thể làm những việc
liên quan đến nhu cầu gia đình hay phục vụ cho những lợi ích quan trọng của xã
hội, với điều kiện những hoạt động này không tạo thành những thói quen có hại
cho việc thánh hóa ngày Chúa nhật, cho cuộc sống gia đình hay cho sức khỏe.
454. Tại sao phải đấu tranh để luật dân sự
công nhận ngày Chúa nhật là ngày lễ nghỉ? 2186-2188, 2194-2195
Ðể cho tất cả mọi người đều có thể nghỉ ngơi đầy đủ
và có được một thời gian rảnh rỗi để chăm lo việc tôn giáo, gia đình, văn hóa
và xã hội; tìm được thời gian thuận tiện để suy niệm, suy tư, yên tĩnh và học
tập; để làm những việc thiện ích, đặc biệt là việc phục vụ những người bệnh tật
và già yếu.
Chương
Hai: "Ngươi Phải Yêu Thương Người Thân Cận Như Chính Mình" (455-533)
Ðiều Răn Thứ
Tư: Ngươi Hãy Thảo Kính Cha Mẹ
455. Ðiều răn thứ tư dạy điều gì? 2196-2200, 2247-2248
Ðiều răn thứ tư dạy chúng ta phải tôn kính và chăm
sóc cha mẹ và những ai được Thiên Chúa trao ban quyền hành để mưu ích cho chúng
ta.
456. Bản chất của gia đình trong kế hoạch của
Thiên Chúa như thế nào? 2201-2205, 2249
Người nam và người nữ kết hợp với nhau qua hôn nhân,
cùng với con cái tạo thành một gia đình. Thiên Chúa đã thiết lập gia đình và
đặt nền tảng căn bản cho gia đình. Hôn nhân và gia đình được sắp xếp hướng về
thiện ích của đôi vợ chồng, về việc sinh sản và giáo dục con cái. Giữa các
thành viên trong gia đình có những mối liên hệ cá nhân và những trách nhiệm
hàng đầu. Trong Ðức Kitô, gia đình trở thành một Hội thánh tại gia, vì đó là
một cộng đoàn đức tin, đức cậy và đức mến.
457. Gia đình có vai trò gì trong xã hội? 2207-2208
Gia đình là tế bào nguyên thủy của xã hội loài
người, có trước bất kỳ sự công nhận nào của chính quyền. Các nguyên tắc và giá
trị của gia đình tạo thành nền tảng cho đời sống xã hội. Ðời sống gia đình là
khởi điểm của đời sống xã hội.
458. Xã hội có trách nhiệm gì đối với gia
đình? 2209-2213, 2250
Xã hội có trách nhiệm nâng đỡ và củng cố hôn nhân
và gia đình, nhưng vẫn tôn trọng nguyên tắc hỗ trợ. Các chính quyền phải tôn
trọng, bảo vệ và cổ võ bản chất đích thực của hôn nhân và gia đình, đạo đức
chung, các quyền của cha mẹ và sự thịnh vượng của các gia đình.
459. Con cái có những bổn phận nào đối với cha
mẹ? 2214-2220, 2251
Con cái phải hiếu thảo, biết ơn, ngoan ngoãn và
vâng phục cha mẹ. Nhờ những tương quan tốt đẹp với anh em, con cái góp phần làm
tăng thêm sự hòa thuận và thánh thiện của toàn bộ đời sống gia đình. Khi cha mẹ
nghèo túng, bệnh tật, cô đơn hay già yếu, con cái đã trưởng thành phải trợ giúp
các ngài về vật chất và tinh thần.
460. Cha mẹ có những trách nhiệm nào đối với
con cái? 2221-2231
Vì được tham dự vào tình phụ tử của Thiên Chúa, cha
mẹ là những người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con cái, và cũng là những
người đầu tiên giáo dục đức tin cho con cái. Họ có nhiệm vụ yêu thương và tôn
trọng con cái, là những nhân vị và con cái của Thiên Chúa; Họ có nhiệm vụ cung
cấp cho con cái, theo hết khả năng mình, những nhu cầu vật chất và tinh thần,
chọn cho chúng những trường học thích hợp, và với những lời khuyên khôn ngoan,
giúp chúng chọn lựa nghề nghiệp hay bậc sống. Ðặc biệt, cha mẹ có sứ vụ giáo
dục đức tin Kitô giáo cho con cái.
461. Làm thế nào cha mẹ giáo dục đức tin Kitô
giáo cho con cái? 2252-2253
Cha mẹ giáo dục đức tin Kitô giáo cho con cái chủ
yếu bằng gương sáng, kinh nguyện, dạy giáo lý trong gia đình và tham dự vào đời
sống giáo hội.
462. Các mối liên hệ trong gia đình có giá trị
tuyệt đối không? 2232-2233
Các mối liên hệ trong gia đình, dù rất quan trọng,
nhưng không phải tuyệt đối, bởi vì ơn gọi tiên quyết của người Kitô hữu là bước
theo Ðức Kitô bằng cách yêu mến Người: "Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không
đáng làm môn đệ Thầy. Ai yêu con trai con gái mình hơn Thầy thì không đáng làm
môn đệ Thầy" (Mt 10,37). Cha mẹ phải vui mừng giúp đỡ con cái bước theo
Chúa Giêsu trong tất cả các bậc sống, kể cả trong đời sống thánh hiến hay thừa
tác vụ linh mục.
463. Quyền bính phải
được thực thi thế nào trong những lãnh vực khác nhau của xã hội dân sự? 2234-2237, 2254
Quyền bính phải được thực thi như một sự phục vụ,
nhờ tôn trọng các quyền lợi căn bản của con người, một bậc thang giá trị đúng
đắn, các luật lệ, sự công bằng phân phối và nguyên lý hỗ trợ. Khi thực thi
quyền hành, mỗi người phải tìm lợi ích cho tập thể chứ không phải cho bản thân.
Các quyết định của họ phải dựa trên chân lý về Thiên Chúa, về con người và về
thế giới.
464. Người công dân có
những bổn phận nào đối với chính quyền dân sự? 2238-2241, 2255
Công dân phải coi cấp trên như những người đại diện
Thiên Chúa, góp phần cộng tác cách chính trực với họ để đời sống công cộng và
xã hội được hoạt động tốt đẹp. Ðiều này bao gồm cả tình yêu và việc phục vụ tổ
quốc, quyền lợi và bổn phận bầu cử, đóng thuế, bảo vệ tổ quốc và quyền phê phán
mang tính chất xây dựng.
465. Khi nào người
công dân không được vâng phục chính quyền dân sự? 2242-2243, 2256
Theo lương tâm, người công dân không được vâng phục
những mệnh lệnh của chính quyền dân sự, khi chúng đi ngược lại các đòi hỏi của
trật tự luân lý: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời loài người"
(Cv 5,29).
Ðiều Răn Thứ
Năm: Ngươi Không Ðược Giết Người
466. Tại sao phải tôn trọng sự sống con người?
2258-2262, 2318-2320
Vì sự sống con người là điều linh thánh. Ngay từ
đầu, sự sống cần đến một tác động sáng tạo của Thiên Chúa và sự sống mãi mãi
nằm trong một liên hệ đặc biệt với Ðấng Sáng Tạo, là cùng đích duy nhất của
mình. Không ai được phép trực tiếp huỷ hoại một con người vô tội, vì điều này
đối nghịch cách nghiêm trọng với phẩm giá con người và với sự thánh thiện của
Ðấng Sáng Tạo. "Ngươi không được giết người vô tội và người công
chính" (Xh 23,7).
467. Tại sao bảo vệ
con người và xã hội một cách hợp pháp không đối nghịch với luật tuyệt đối này? 2263-226,
Qua việc bảo vệ hợp pháp, người ta chọn sự tự vệ và
bảo vệ mạng sống cho bản thân hay cho người khác, chứ không phải chọn việc giết
người. Ðối với những người có trách nhiệm về mạng sống của người khác, việc bảo
vệ hợp pháp không những là một quyền mà còn là một nhiệm vụ quan trọng. Tuy
nhiên, không được sử dụng bạo lực vượt quá những gì cần thiết.
468. Hình phạt có mục đích gì? 2266
Hình phạt được chính quyền dân sự hợp pháp đề ra có
mục đích để sửa chữa những xáo trộn do lỗi lầm gây nên, để bảo vệ trật tự công
cộng và an ninh cho mọi người, và để góp phần cải hóa phạm nhân.
469. Người ta có thể đề ra những hình phạt
nào? 2267
Hình phạt được chính quyền dân sự đề ra phải tương
xứng với tính chất trầm trọng của hành vi tội ác. Ngày nay với những khả năng
Nhà Nước có thể sử dụng để dẹp được tội ác bằng cách vô hiệu hoá kẻ phạm tội,
những trường hợp tuyệt đối cần thiết phải sử dụng án tử hình "từ nay sẽ
hiếm đi, nếu như trong thực tế có thể nói là không còn tồn tại nữa"
(Evangeliun vitae). Nếu các phương tiện không gây đổ máu là đủ, thì chính quyền
phải sử dụng các phương tiện này, vì chúng tương ứng hơn với những điều kiện cụ
thể của công ích, chúng phù hợp hơn với phẩm giá con người và không xoá sổ cách
vĩnh viễn khả năng sửa sai của kẻ phạm tội.
470. Ðiều răn thứ năm cấm những gì? 2268-2283, 2321-2326
Ðiều răn thứ năm cấm những tội trái ngược cách
nghiêm trọng với luật luân lý:
- tội giết người cố ý và trực tiếp, cũng như việc
đồng lõa trong tội đó;
- tội phá thai trực tiếp, có ý coi đó là mục đích
hay phương tiện, cũng như việc cộng tác vào tội này. Hội thánh đã ra vạ tuyệt
thông cho người phạm tội này, bởi vì những con người, ngay từ lúc được thụ
thai, phải được bảo vệ và che chở một cách tuyệt đối trong sự toàn vẹn của nó;
- tội an tử trực tiếp, có mục đích chấm dứt sự sống
của những người tật nguyền, đau yếu hay hấp hối, bằng một hành động hay bỏ
không làm một hành động cần kíp;
- tội tự sát và chủ ý cộng tác vào việc tự sát, tội
này là một xúc phạm nghiêm trọng đến tình yêu chính đáng đối với Thiên Chúa,
đối với chính mình và đối với tha nhân. Về phần trách nhiệm, tội tự sát có thể
nghiêm trọng hơn khi gây gương xấu, nhưng cũng có thể giảm thiểu vì những rối
loạn tâm lý đặc biệt hoặc vì những sợ hãi trầm trọng.
471. Những chữa trị y
dược nào được phép khi cái chết như sắp gần kề? 2278-2279
Việc cắt ngang những chăm sóc thường xuyên cho bệnh
nhân không thể coi là hợp pháp được. Tuy nhiên, được phép sử dụng các thuốc
giảm đau nào không có mục đích làm cho chết, và được phép từ chối "việc
trị liệu khắc nghiệt," nghĩa là việc chữa trị quá tốn kém, nhưng không đem
lại chút hy vọng nào để đạt được kết quả tích cực.
472. Tại sao xã hội có trách nhiệm phải bảo vệ
mọi thai nhi? 2273-2274
Quyền sống của con người, ngay từ lúc được thụ thai,
là một yếu tố làm thành xã hội dân sự và luật pháp của xã hội. Khi Nhà Nước
không cố gắng phục vụ cho các quyền lợi của mọi người, và đặc biệt cho những
người yếu đuối nhất, trong số đó có các em bé đã được thụ thai mà chưa được
sinh ra, thì chính những nền tảng của Nhà Nước pháp quyền đã bị xói mòn.
473. Làm thế nào để tránh gương xấu? 2284-2287
Gương xấu hệ tại ở việc dẫn người khác đến chỗ phạm
tội. Người ta phải loại bỏ gương xấu vì tôn trọng linh hồn và thể xác con
người. Nếu ai cố ý dẫn dắt người khác phạm một điều xấu nặng nề, thì chính
người dẫn dắt đã phạm một tội nghiêm trọng.
474. Chúng ta có trách nhiệm nào đối với thân
xác? 2288-2291
Chúng ta phải chăm sóc sức khỏe thân xác của mình
và của tha nhân cách hợp lý, nhưng phải tránh xa việc tôn thờ thân xác và mọi
thứ thái quá. Ngoài ra còn phải tránh việc sử dụng ma túy, vì nó gây nên sự hủy
hoại trầm trọng cho sức khỏe và đời sống con người, cũng phải tránh sự lạm dụng
các thứ như thực phẩm, rượu, thuốc hút và các thứ thuốc men.
475. Khi nào các thí
nghiệm khoa học, y khoa hay tâm lý, trên con người hay nhóm người, là hợp pháp
về mặt luân lý? 2292-2295
Về mặt luân lý, các thí nghiệm ấy là hợp pháp nếu
chúng phục vụ cho lợi ích toàn vẹn của cá nhân và xã hội, mà không gây ra những
rủi ro không cân xứng cho sự sống và sự toàn vẹn thể lý hay tâm lý của các cá
nhân; những người nhận thí nghiệm phải được thông báo trước, và đã ưng thuận.
476. Trước và sau khi
chết, có được phép hiến tặng và ghép các bộ phận hay không? 2296
Về mặt luân lý, việc ghép các bộ phận cơ thể có thể
được chấp nhận với sự ưng thuận của người cho và không gây nguy hiểm quá đáng
cho người đó. Hiến tặng các bộ phận sau khi chết là một hành vi cao quý, nhưng
trước khi lấy các bộ phận đó, phải xác định người hiến tặng chắc chắn đã chết.
477. Những việc nào
đối nghịch với việc tôn trọng sự toàn vẹn thể lý của con người? 2297-2298
Những việc đó là: bắt cóc, bắt người làm con tin,
khủng bố, tra tấn, bạo lực, trực tiếp làm người ta vô sinh. Việc cắt bỏ một
phần thân thể của một người chỉ được chấp nhận về mặt luân lý nếu mục đích là
để chữa bệnh cho chính người đó.
478. Phải chăm sóc những người hấp hối như thế
nào? 2299
Những người hấp hối có quyền được sống xứng đáng
với phẩm giá vào những giây phút cuối cùng của đời sống trần thế, nhất là được
nâng đỡ bằng lời cầu nguyện và các Bí tích, giúp họ chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa
hằng sống.
479. Phải đối xử với thân xác kẻ chết như thế
nào? 2300-2301
Thi hài người quá cố phải được đối xử với lòng tôn
trọng và bác ái. Hội thánh cho phép hỏa táng, nếu việc này không gây rắc rối
cho đức tin về sự phục sinh thân xác.
480. Chúa đòi hỏi mỗi người điều gì về vấn đề
hòa bình? 2302-2303
Ðức Kitô, Ðấng đã tuyên bố "phúc cho ai xây
dựng hòa bình" (Mt 5, 9), đòi hỏi sự bình an của tâm hồn và kết án thái độ
giận dữ, là muốn báo thù vì điều xấu đã phải gánh chịu, và lòng thù ghét, là ao
ước điều xấu cho tha nhân. Những thái độ này, nếu cố ý và ưng theo trong những
vấn đề rất quan trọng, đều là những tội trọng nghịch lại với đức ái.
481. Hòa bình trên thế giới là gì? 2304-2305
Hòa bình trên thế giới cần thiết để đời sống con
người được tôn trọng và phát triển. Hòa bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh
hay là sự cân bằng các thế lực đối lập, nhưng là sự "ổn định trật tự"
(thánh Augustinô), "thành quả của công lý" (Is 32, 17) và hiệu quả
của đức ái. Hòa bình trần thế là hình ảnh và hoa trái bình an của Ðức Kitô.
482. Hòa bình trên thế giới đòi buộc điều gì? 2304; 2307-2308
Hòa bình trên thế giới đòi buộc sự phân phối cách
công bằng và bảo vệ tài sản của con người, sự tự do giao tiếp giữa con người,
sự tôn trọng phẩm giá con người và các dân tộc, sự kiên trì thực hiện công bằng
và tình huynh đệ.
483. Về mặt luân lý, khi nào được phép sử dụng
sức mạnh quân sự? 2307-2310
Việc sử dụng sức mạnh quân sự chỉ được biện minh về
mặt luân lý khi hội đủ những điều kiện sau đây: chắc chắn về sự thiệt hại phải
chịu là trầm trọng và kéo dài; tất cả các giải pháp hòa bình đều thất bại;
những điều kiện quan trọng để thành công; việc loại bỏ những thiệt hại lớn
nhất, sau khi đã cân nhắc về sức tàn phá của những phương tiện chiến tranh hiện
đại.
484. Trong trường hợp
có nguy cơ chiến tranh, ai có quyền phán đoán về những điều kiện đó? 2309
Quyền này tùy thuộc vào sự phán đoán khôn ngoan của
những vị cầm quyền, những vị này cũng có quyền đề ra cho công dân nghĩa vụ bảo
vệ tổ quốc. Những ai vì lý do lương tâm không thi hành nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc,
phải phục vụ xã hội bằng những hình thức khác.
485. Trong trường hợp chiến tranh, luật luân
lý đòi buộc điều gì? 2312-2314, 2328
Ngay cả trong trường hợp chiến tranh, luật luân lý
vẫn luôn có hiệu lực. Luật này đòi buộc phải xử sự cách nhân đạo với những
người không chiến đấu, các chiến binh bị thương và các tù binh. Các hành động
cố ý đi ngược với quyền lợi của các dân tộc và các mệnh lệnh buộc thi hành các
hành động đó, đều là những tội ác mà sự vâng phục tối mặt không đủ để chạy tội.
Phải kết án những sự huỷ diệt hàng loạt, cũng như việc tiêu diệt một dân tộc
hay một sắc tộc thiểu số. Ðó là những tội rất nặng nề. Về mặt luân lý, phải
chống lại các mệnh lệnh buộc thi hành các tội ác như thế.
486. Chúng ta phải làm gì để tránh chiến
tranh? 2315-2317, 2327-2330
Vì chiến tranh gây ra những sự dữ và bất công, nên
chúng ta phải làm tất cả những gì hợp lý để ngăn chận chiến tranh bằng bất cứ
giá nào. Ðặc biệt phải tránh việc tích trử và buôn bán vũ khí không do các
chính quyền hợp pháp qui định; phải tránh những bất công về mặt kinh tế và xã
hội; tránh việc kỳ thị chủng tộc và tôn giáo; phải tránh ganh ghét, thách thức,
kiêu căng và tinh thần báo thù. Tất cả những gì được thực hiện để khắc phục các
tệ hại này và những xáo trộn khác, đều giúp xây dựng hòa bình và đẩy xa chiến
tranh.
Ðiều Răn Thứ
Sáu: Ngươi Không Ðược Ngoại Tình
487. Con người có bổn phận gì đối với phái
tính của mình? 2331-2336, 2392-2393
Thiên Chúa đã dựng nên con người có nam có nữ, có
cùng một phẩm giá nhân bản. Ngài đã khắc ghi ơn gọi yêu thương và hiệp thông
nơi mỗi người. Mỗi người phải chấp nhận phái tính riêng của mình và nhận ra tầm
quan trọng của nó đối với toàn thể con người, tính đặc thù của mỗi phái tính và
việc hai phái tính bổ túc cho nhau.
488. Khiết tịnh là gì? 2337-2338
Khiết tịnh là sự hoà nhập phái tính trong con người
của mình cách thành công. Tính dục thực sự nhân bản khi được hoà nhập cách đúng
đắn trong liên hệ giữa người và người. Khiết tịnh là một nhân đức luân lý, một
ơn huệ của Thiên Chúa, một ân sủng, một hoa trái của Chúa Thánh Thần.
489. Nhân đức khiết tịnh đòi hỏi những gì? 2339-2341
Nhân đức khiết tịnh đòi hỏi sự rèn luyện để làm chủ
bản thân, như cách biểu lộ sự tự do nhân bản, hướng đến việc tự hiến bản thân.
Ðể đạt được mục đích này, cần phải có sự giáo dục đầy đủ và thường xuyên, được
thực hiện qua từng giai đoạn tăng trưởng.
490. Có những phuơng tiện nào giúp chúng ta
sống khiết tịnh? 2340-2347
Có nhiều phuơng tiện như ân sủng Thiên Chúa, sự trợ
giúp của các Bí tích, việc cầu nguyện, sự tự biết mình, việc thực hành khổ chế
tùy theo những hoàn cảnh khác nhau, việc thực hành các nhân đức luân lý, đặc
biệt là nhân đức tiết độ, nhằm để lý trí hướng dẫn các đam mê.
491. Tất cả những
người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội được mời gọi sống đức khiết tịnh theo cách
nào? 2348-2350, 2394
Các người Kitô hữu luôn nhìn Ðức Kitô là khuôn mẫu
đời sống khiết tịnh; họ được mời gọi sống khiết tịnh tuỳ theo bậc sống của
mình: những người sống bậc đồng trinh hay độc thân của đời thánh hiến, là cách
sống trổi vượt để sẵn sàng hiến mình cho Thiên Chúa với trọn tâm hồn; những
nguời lập gia đình được mời gọi sống khiết tịnh theo bậc vợ chồng; những người
không lập gia đình cũng được mời gọi sống khiết tịnh bằng cách tiết dục.
492. Những tội chính phạm đến đức khiết tịnh
là những tội nào? 2351-2359, 2396
Những tội nặng phạm đến đức khiết tịnh, tùy theo
bản chất của từng đối tượng, đó là ngoại tình, thủ dâm, tà dâm, khiêu dâm, mại
dâm, hiếp dâm, các hành vi đồng tính luyến ái. Các tội này là biểu hiện của đam
mê dâm đãng. Nếu phạm các tội này với các trẻ vị thành niên, thì sẽ xúc phạm
cách nặng nề hơn vào sự toàn vẹn thể lý và luân lý của các em.
493. Tại sao giới răn thứ sáu "Ngươi
không được ngoại tình" lại ngăn cấm tất cả các tội lỗi nghịch với đức
khiết tịnh? 2336
Dù trong bản văn Thánh Kinh về Mười điều răn, chúng
ta chỉ đọc "Ngươi chớ phạm tội ngoại tình" (Xh 20,14), nhưng Truyền
thống Hội thánh vẫn theo sát các giáo huấn luân lý của Cựu Ước và Tân Ước, luôn
xem giới răn thứ sáu như bao gồm tất cả các tội phạm đến đức khiết tịnh.
494. Ðâu là trách nhiệm của chính quyền dân sự
đối với đức khiết tịnh? 2354
Chính quyền có trách nhiệm cổ võ sự tôn trọng phẩm
giá con người, cũng có trách nhiệm góp phần tạo ra một môi truờng xã hội thuận
lợi cho đức khiết tịnh. Nhờ những luật lệ thích hợp, chính quyền phải ngăn chận
việc bành trướng các trọng tội nghịch đức khiết tịnh đã kể trên, đặc biệt để
bảo vệ các trẻ vị thành niên và những người yếu đuối.
495. Tình yêu hôn
nhân, gồm cả tính dục được Thiên Chúa định hướng vào hôn nhân, có được những
điều tốt lành nào? 2360-2361, 2397-2398
Ðối với những người đã được rửa tội, những điều tốt
lành của tình yêu hôn nhân, một tình yêu đã được thánh hoá bằng Bí tích Hôn
phối, đó là sự duy nhất, chung thủy, tính bất khả phân ly và sẵn sàng đối với
việc truyền sinh.
496. Hành vi vợ chồng có ý nghĩa gì? 2362-2367
Hành vi vợ chồng có hai ý nghĩa: sự kết hợp (là
hành vi hiến thân cho nhau của đôi vợ chồng), và việc truyền sinh (là hành vi
mở ngỏ cho việc sinh sản con cái). Không ai được phép phá vỡ sự liên kết bất
khả phân ly, do Thiên Chúa thiết lập, giữa hai ý nghĩa đó của hành vi vợ chồng,
bằng cách loại bỏ một trong hai ý nghĩa đó.
497. Khi nào việc điều hòa sinh sản là phù hợp
với luân lý? 2368-2369, 2399
Việc điều hòa sinh sản là một trong những phương
diện của trách nhiệm làm cha làm mẹ. Việc làm này phù hợp cách khách quan với
luật luân lý, khi được chính đôi vợ chồng thực hiện, mà không bị một áp lực bên
ngoài, cũng không do ích kỷ, nhưng vì những lý do chính đáng và bằng những
phương pháp phù hợp với những tiêu chuẩn khách quan của luân lý, nghĩa là nhờ
việc tiết dục định kỳ và sử dụng những thời kỳ không thể thụ thai.
498. Ðâu là những
phương pháp điều hòa sinh sản không phù hợp với luân lý? 2370-2372
Những hoạt động sau đây phải coi là không phù hợp
với luân lý, đó là trực tiếp triệt sản hoặc ngừa thai, được thực hiện trước
hoặc trong khi giao hợp, hoặc trong quá trình dẫn đến kết quả tự nhiên của việc
giao hợp, nhằm mục đích hay tạo phương thế để ngăn cản sự truyền sinh.
499. Tại sao thụ tinh và thụ thai nhân tạo
không hợp với luân lý? 2373-2377
Thụ tinh và thụ thai nhân tạo không thể chấp nhận
về mặt luân lý, vì tách rời việc sinh sản với sự giao hợp, trong hành động này
đôi vợ chồng trao hiến cho nhau, và như vậy, đặt kỹ thuật lên trên nguồn gốc và
vận mệnh của con người. Hơn nữa, việc thụ tinh và thụ thai do người khác, tức
là có một người thứ ba can thiệp vào hành vi vợ chồng nhờ qua kỹ thuật; hành
động này vi phạm quyền của đứa bé được sinh ra từ người cha và người mẹ của nó,
hai người được liên kết với nhau bằng hôn nhân và có độc quyền là chỉ nhờ nhau
mà cả hai mới được làm cha, làm mẹ.
500. Người ta phải nhìn em bé như thế nào? 2378
Em bé là một tặng phẩm của Thiên Chúa, tặng phẩm
tuyệt hảo nhất của hôn nhân. Không có một quyền nào để có những đứa con (theo
nghĩa là được quyền có con với bất cứ giá nào). Trái lại, đứa con có quyền là
hoa trái của hành vi hôn nhân của cha mẹ em, cũng như có quyền được tôn trọng
là một nhân vị ngay từ lúc em được thụ thai.
501. Ðôi vợ chồng có thể làm gì nếu họ không có
con? 2379
Nếu không được Thiên Chúa ban tặng con cái, sau khi
đã tận dụng mọi trợ giúp chính đáng của y khoa, đôi vợ chồng có thể sống quảng
đại qua việc bảo trợ hay nhận con nuôi, hay tham gia những công tác phục vụ tha
nhân. Như vậy họ thực hiện một sự sinh sản quý giá về mặt thiêng liêng.
502. Những tội nào phạm đến phẩm giá của hôn
nhân? 2380-2391, 2400
Những tội phạm đến phẩm giá của hôn nhân là: ngoại tình,
ly dị, đa thê, loạn luân, tự do sống chung (chung sống không hôn nhân, nhân
tình), hành vi tính dục trước hôn nhân hay ngoài hôn nhân.
Ðiều Răn Thứ
Bảy: Ngươi Không Ðược Trộm Cắp
503. Ðiều răn thứ bảy nói lên điều gì? 2401-2402
Ðiều răn này nói lên sự xác định và phân phối của
cải cách phổ quát, nói về quyền tư hữu, việc tôn trọng con người và tài sản của
họ, việc tôn trọng tính toàn vẹn của công trình tạo dựng. Hội thánh nhìn giới
răn này là nền tảng cho giáo huấn xã hội của mình, để xét đến hành động đúng
đắn trong lãnh vực kinh tế, trong đời sống xã hội và chính trị, trong quyền lợi
và trách nhiệm lao động của con người, trong công bằng và tình liên đới giữa
các quốc gia, trong tình thương đối với người nghèo.
504. Ðâu là những điều kiện của quyền tư hữu? 2403
Người ta có quyền tư hữu với điều kiện là tài sản
đó đạt được hay nhận được một cách chính đáng, và việc sử dụng của cải là nhằm
thỏa mãn những nhu cầu căn bản của mọi người.
505. Mục đích của quyền tư hữu là gì? 2404-2406
Tài sản riêng có mục đích bảo đảm sự tự do và phẩm
giá của các cá nhân, giúp họ thoả mãn những nhu cầu căn bản cho những người mà
họ có trách nhiệm, và cho cả những ai đang sống thiếu thốn.
506. Ðiều răn thứ bảy quy định những gì? 2407, 2450-2451
Ðiều răn thứ bảy buộc phải tôn trọng tài sản của
người khác, qua việc thực thi công bằng và bác ái, sống tiết độ và liên đới.
Ðặc biệt, điều răn này đòi buộc:
- tôn trọng các lời hứa và các hợp đồng đã cam kết;
- đền bù những điều bất công đã gây ra và hoàn trả
những gì đã trộm cắp;
- tôn trọng sự toàn vẹn của công trình sáng tạo,
bằng cách sử dụng khôn ngoan và chừng mực những tài nguyên khoáng chất, thực
vật và động vật trong vũ trụ, đặc biệt quan tâm đến những loài có nguy cơ bị
tuyệt chủng.
507. Con người phải có thái độ nào đối với các
động vật? 2416-2418, 2457
Con nguời phải đối xử tốt đẹp với các động vật vì
chúng là những thụ tạo của Thiên Chúa, tránh cách yêu thương thái quá hoặc sử
dụng mù quáng, nhất là với các thí nghiệm khoa học vượt quá giới hạn hợp lý và
gây đau đớn vô ích cho chúng.
508. Ðiều răn thứ bảy cấm những điều gì? 2408-2413, 2453-2455
Ðiều răn thứ bảy cấm:
- trộm cắp, đó là việc chiếm đoạt tài sản người
khác trái với ý muốn hợp lý của họ.
- trả lương không công bằng,
- lũng đoạn giá trị của cải để từ đó rút ra lợi
nhuận cho mình mà làm thiệt hại cho người khác,
- việc giả mạo các thương phiếu hay hóa đơn.
- trốn thuế hoặc buôn bán gian lận, cố ý phá hoại
tài sản cá nhân cũng như công cộng,
- đầu cơ, tham nhũng, lạm dụng tài sản công làm của
riêng, cố ý làm sai trái trong lao động, lãng phí.
509. Nội dung Học thuyết xã hội của Hội thánh
là gì? 2419-2423
Học thuyết xã hội của Hội thánh, là sự khai triển
có hệ thống các chân lý của Tin Mừng về phẩm giá con nguời và chiều kích xã hội
của con nguời, đề ra những nguyên tắc để suy tư, qui định những tiêu chuẩn để
phán đoán, và trình bày những qui luật và định huớng để hành động.
510. Khi nào Hội thánh can thiệp vào lãnh vực
xã hội? 2420, 2458
Hội thánh can thiệp khi các quyền căn bản của con
người, thiện ích chung hoặc phần rỗi các linh hồn bị vi phạm. Hội thánh can
thiệp bằng việc đưa ra một phán đoán luân lý trong lãnh vực kinh tế và xã hội.
511. Ðời sống kinh tế và xã hội phải được thực
hiện như thế nào? 2459
Ðời sống kinh tế và xã hội phải được thực hiện theo
những phương pháp riêng của mình, trong vòng trật tự luân lý, để phục vụ con
người trong sự toàn vẹn của họ và phục vụ cho toàn thể cộng đồng nhân loại,
trong sự tôn trọng công bằng xã hội. Ðời sống kinh tế và xã hội phải lấy con
nguời làm đối tượng, trung tâm và cùng đích của nó.
512. Ðiều gì đi nguợc với Học thuyết xã hội
của Hội thánh? 2424-2425
Ði ngược với Học thuyết xã hội của Hội thánh là các
hệ thống kinh tế và xã hội chủ trương hy sinh những quyền lợi căn bản của con
người, hay coi lợi nhuận là quy luật tuyệt đối và mục đích tối hậu của chúng.
Do đó, Hội thánh phi bác các ý thức hệ trong thời đại mới dưới hình thức
"chủ nghĩa cộng sản", hay dưới những hình thức vô thần và độc tài
khác của "chủ nghĩa xã hội". Ngoài ra, trong việc thực hành "chủ
nghĩa tư bản", Hội thánh phi bác chủ nghĩa cá nhân và quan niệm coi luật
thị trường có vị trí tuyệt đối trên lao động của con người.
513. Lao động có ý nghĩa gì đối với con người?
2426-2428, 2460-2461
Ðối với con người, lao động vừa là nghĩa vụ vừa là
quyền lợi, nhờ đó con người cộng tác với Thiên Chúa là Ðấng Sáng Tạo. Thật vậy,
bằng lao động cách cẩn trọng và tinh thông, con người phát huy những khả năng
đã được ghi khắc trong bản tính của mình, biểu lộ những hồng ân của Ðấng Sáng
Tạo và những tài năng mà họ đã lãnh nhận; thỏa mãn những nhu cầu của bản thân
và những người thân cận; cũng như phục vụ cộng đồng nhân loại. Ngoài ra, với ân
sủng của Thiên Chúa, lao động có thể là một phương tiện để thánh hóa và cộng
tác với Ðức Kitô để cứu độ những người khác.
514. Mọi người đều được quyền gì về vấn đề lao
động?
Mọi người đều được quyền có một việc làm ổn định và
lương thiện, không bị kỳ thị bất công, được quyền tự do chọn lựa về mặt kinh tế
và được quyền hưởng đồng lương công bằng.
515. Nhà Nước có trách nhiệm gì với lao động? 2431
Nhà Nước có trách nhiệm bảo đảm sự tự do cá nhân và
quyền tư hữu, cũng như giá trị tiền tệ ổn định và những việc phục vụ xã hội có
hiệu quả, phải trông coi và hướng dẫn việc thực thi các quyền con người trong
lãnh vực kinh tế. Thích ứng với hoàn cảnh, xã hội phải trợ giúp các công dân
tìm được việc làm.
516. Những người lãnh đạo xí nghiệp có trách
nhiệm gì? 2432
Những người lãnh đạo xí nghiệp phải chịu trách
nhiệm về hậu quả kinh tế và môi sinh do các công việc của họ. Họ phải chú tâm
đến thiện ích của con người chứ không chỉ nhắm làm gia tăng các lợi nhuận, mặc
dầu lợi nhuận cũng cần thiết để bảo đảm các cuộc đầu tư, tương lai của xí
nghiệp, việc làm, và sự phát triển tốt đẹp của đời sống kinh tế.
517. Các công nhân có trách nhiệm gì? 2435
Họ phải chu toàn các công việc của mình một cách có
lương tâm, thành thạo và nhiệt tình, tìm cách giải quyết các tranh chấp bằng
đối thoại. Việc sử dụng đình công bất bạo động là hợp pháp về mặt luân lý khi
đó là một phương cách cần thiết để đạt được quyền lợi chính đáng, nhưng phải
nhắm đến công ích.
518. Làm thế nào thực
hiện sự công bằng và tình liên đới giữa các quốc gia? 2437-2441
Trên bình diện quốc tế, tất cả các quốc gia và các
cơ chế phải hoạt động trong tình liên đới và nguyên tắc hỗ trợ, nhằm mục đích
loại bỏ hay ít là giảm thiểu sự khốn cùng, sự bất bình đẳng về tài nguyên và
các phương tiện kinh tế, các bất công kinh tế và xã hội, việc bóc lột con
người, sự gia tăng mức nợ của các nước nghèo, những chủ thuyết máy móc bất nhân
gây chướng ngại cho sự phát triển của các quốc gia chậm tiến.
519. Các người Kitô
hữu tham gia vào đời sống chính trị và xã hội như thế nào? 2442
Các người Kitô hữu giáo dân trực tiếp tham gia vào
đời sống chính trị và xã hội bằng cách làm cho tinh thần Kitô giáo thấm nhập
vào các thực tại trần thế, cộng tác với mọi người, như những chứng nhân đích
thực của Tin Mừng và là những người kiến tạo hòa bình và công lý.
520. Tình yêu đối với người nghèo dựa trên nền
tảng nào? 2443-2449, 2462-2463
Tình yêu đối với người nghèo dựa trên nền tảng Tin
Mừng của các Mối phúc và theo gương của Chúa Giêsu, Ðấng luôn quan tâm đến
người nghèo. Chúa Giêsu đã nói: "Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một
trong những anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta
vậy" (Mt 25,40). Tình yêu đối với kẻ nghèo thể hiện qua việc dấn thân
chống lại sự nghèo khổ về vật chất và rất nhiều hình thức nghèo đói về văn hoá,
luân lý và tôn giáo. Các việc bác ái, tinh thần hay vật chất, và nhiều tổ chức
từ thiện đã xuất hiện trải qua bao thế kỷ, là một chứng từ cụ thể về tình yêu
ưu tiên dành cho người nghèo, là nét đặc trưng của các môn đệ Chúa Giêsu.
Ðiều Răn Thứ
Tám: Ngươi Không Ðược Làm Chứng Gian
521. Con người có bổn phận nào đối với chân
lý? 2464-2470, 2504
Mọi người đều được kêu gọi phải thành thật và trung
thực trong hành động cũng như trong lời nói, buộc phải tìm kiếm và gắn bó với
chân lý, hướng cuộc đời mình theo các đòi hỏi của chân lý. Trong Ðức Giêsu
Kitô, chân lý về Thiên Chúa được tỏ hiện cách trọn vẹn. Người là Chân Lý. Ai
bước theo Người, phải sống trong Thánh Thần chân lý và tránh xa lối sống hai
mặt, dối trá và giả hình.
522. Người Kitô hữu làm chứng cho chân lý như
thế nào? 2471-2474, 2505-2506
Người Kitô hữu phải làm chứng cho chân lý Tin Mừng
trong mọi lãnh vực của hoạt động công khai và riêng tư, dù phải hy sinh mạng
sống mình, nếu cần thiết. Tử đạo là chứng từ cao cả nhất cho chân lý đức tin.
523. Ðiều răn thứ tám cấm những gì? 2475-2487, 2507-2509
Ðiều răn thứ tám cấm:
- làm chứng dối, thề thốt và dối trá; mức độ nặng
nhẹ căn cứ trên sự sai lệch của sự thật, trên những hoàn cảnh, trên những ý
hướng của kẻ nói dối và mức độ thiệt hại mà các nạn nhân phải gánh chịu;
- phán đoán hồ đồ, nói xấu, vu khống, bôi nhọ, là
những tội làm giảm hay phá hoại uy tín và danh dự mà mỗi người có quyền hưởng.
- nịnh hót, tâng bốc và xu nịnh, nhất là khi nhằm
mục đích phạm tội trọng hay thủ lợi bất chính.
Tất cả tội phạm nghịch với sự thật buộc phải đền bù
lại nếu gây tai hại cho kẻ khác.
524. Ðiều răn thứ tám đòi buộc những gì? 2488-2492, 2510-2511
Ðiều răn thứ tám đòi buộc chúng ta phải tôn trọng
sự thật, kèm theo sự tế nhị của đức ái: trong lãnh vực truyền thông và thông
tin, phải biết đánh giá lợi ích riêng và lợi ích chung, bảo vệ đời sống riêng
tư, tránh gây gương xấu. Phải luôn bảo vệ các bí mật nghề nghiệp, trừ những
trường hợp ngoại lệ, và vì những lý do nghiêm trọng và cân xứng. Cũng phải tôn
trọng những chuyện tâm sự mà chúng ta đã hứa giữ bí mật.
525. Phải sử dụng
những phương tiện truyền thông xã hội thế nào? 2493-2499, 2512
Thông tin bằng các phương tiện truyền thông phải
phục vụ ích lợi chung; về nội dung, thông tin phải luôn đúng sự thật và trong
giới hạn của công lý và bác ái, phải mang tính chất toàn vẹn. Mặt khác, thông
tin phải được diễn tả cách chân thật và thích hợp, cẩn thận tuân giữ các luật
luân lý, các quyền lợi chính đáng và phẩm giá con người.
526. Ðâu là tương quan giữa chân lý, vẻ đẹp và
mỹ thuật thánh? 2500-2503, 2513
Chân lý tự bản chất là đẹp. Chân lý bao gồm sự huy
hoàng của vẻ đẹp tinh thần. Ngoài lời nói, còn có nhiều cách diễn tả chân lý,
đặc biệt là các tác phẩm nghệ thuật. Chúng là hoa trái của một tài năng được
Thiên Chúa trao ban, và cố gắng của con người. Mỹ thuật thánh được xem là chân
thật và đẹp đẽ, phải gợi lên và tôn vinh mầu nhiệm Thiên Chúa được mạc khải
trong Ðức Kitô, phải dẫn đến tình yêu của Thiên Chúa và thờ lạy Ngài là Ðấng
Sáng Tạo và Cứu Ðộ, là Vẻ đẹp tối cao của Chân lý và Tình yêu.
Ðiều Răn Thứ
Chín: Ngươi Không Ðược Ham Muốn Vợ Người Ta
527. Ðiều răn thứ chín đòi buộc điều gì? 2514-2516, 2528-2530
Ðiều răn thứ chín đòi buộc phải chiến thắng đam mê
xác thịt trong tư tưởng cũng như trong ước muốn. Cuộc chiến đấu chống lại dục
vọng phải cần đến việc thanh luyện tâm hồn và thực hành đức tiết độ.
528. Ðiều răn thứ chín cấm điều gì? 2517-2519, 2531-2532
Ðiều răn thứ chín cấm nuôi dưỡng những ý tưởng và
ước muốn về những hành vi bị giới răn thứ sáu cấm đoán.
529. Làm thế nào để đạt tới sự thanh sạch của
tâm hồn? 2520
Với ơn Chúa, trong cuộc chiến đấu chống lại các ước
muốn sai trái, người tín hữu đạt được sự thanh sạch của tâm hồn nhờ nhân đức và
hồng ân khiết tịnh, nhờ sự trong sáng nơi ý hướng, nơi cái nhìn bên ngoài và
bên trong, nhờ chế ngự các giác quan và trí tưởng tượng, và nhờ cầu nguyện.
530. Sự thanh sạch còn
có những đòi buộc nào khác nữa không? 2521-2527, 2533
Sự thanh sạch đòi hỏi phải có nết na; gìn giữ những
gì thầm kín của con nguời, diễn tả sự tế nhị của đức khiết tịnh, kiểm soát cái
nhìn và cử chỉ cho phù hợp với phẩm giá của con người và những giao tế của họ.
Sự thanh sạch đòi buộc phải ngăn chặn thói khiêu dâm đang lan tràn và tránh xa
những gì đưa đến sự tò mò không lành mạnh. Ðiều này còn đòi buộc phải thanh tẩy
môi trường xã hội, bằng cuộc chiến đấu chống lại sự suy thoái phong hóa dựa
trên một quan niệm sai lạc về tự do của con người.
Ðiều Răn Thứ
Mười: Ngươi Không Ðược Ham Muốn Tài Sản Của Người Ta
531. Ðiều răn thứ mười đòi buộc điều gì và cấm
điều gì? 2534-2540, 2551-2554
Ðiều răn này bổ túc cho điều răn trước, buộc phải
có thái độ tôn trọng tài sản của kẻ khác. Ðiều răn này cấm: tham lam và ham
muốn bất chính tài sản của người khác; cấm ganh tị, nghĩa là cảm thấy buồn
phiền khi thấy người khác có tài sản, và ước ao vô độ muốn chiếm đoạt tài sản
đó.
532. Chúa Giêsu đòi buộc điều gì khi dạy tinh
thần nghèo khó? 2544-2547, 2556
Chúa Giêsu đòi buộc các môn đệ yêu mến Người trên
hết mọi sự và mọi người. Việc từ bỏ sự giàu sang trong tinh thần khó nghèo theo
Tin Mừng và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, Ðấng giải thoát chúng ta
khỏi những âu lo của ngày mai, sẽ chuẩn bị cho chúng ta hưởng mối phúc của
"những người nghèo khó trong tinh thần, vì Nước Trời đã thuộc về họ"
(Mt 5, 3).
533. Khao khát lớn nhất của con người là gì? 2548-2550, 2557
Khao khát lớn nhất của con người là được nhìn thấy
Thiên Chúa. Tiếng kêu khát vọng của con người là: "Tôi muốn nhìn thấy
Thiên Chúa." Thật vậy, con người chỉ có thể tìm được hạnh phúc đích thực
và trọn vẹn của mình trong sự hưởng kiến và hạnh phúc nơi Ðấng đã dựng nên họ
vì tình yêu và cũng là Ðấng lôi kéo họ về với Ngài trong tình yêu vô tận.
"Ai thấy Thiên Chúa thì đã đạt được mọi phúc
lộc mà nguời ta có thể nghĩ tưởng ra được" (thánh Grêgôriô thành Nysse).
Phần IV: Kinh Nguyện Kitô Giáo (534-598)
Ðoạn Thứ Nhất: Kinh Nguyện Trong Ðời Sống Kitô Hữu (534-577)
534. Cầu nguyện là gì? 2558-2565, 2590
Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa hay
là dâng lời cầu lên Thiên Chúa để xin những ơn lành phù hợp với thánh ý của
Ngài. Cầu nguyện luôn là một hồng ân của Thiên Chúa, Ðấng đến gặp gỡ con người.
Cầu nguyện theo Kitô giáo là một liên hệ cá nhân và sống động của con cái với
Cha là Thiên Chúa vô cùng nhân lành, với Con của Ngài là Ðức Giêsu Kitô và với
Chúa Thánh Thần, Ðấng ngự trong tâm hồn họ.
Chương
Một: Mạc Khải Về Cầu Nguyện (535-556)
535. Tại sao mọi người đều được mời gọi cầu nguyện?
2566-2567
Chỉ vì Thiên Chúa đã sáng tạo mọi sự từ hư không và
vì con người, sau khi phạm tội, vẫn còn khả năng nhận biết Ðấng Sáng Tạo của
mình, nên vẫn khao khát hướng về Ðấng đã tạo dưng nên mình. Mọi tôn giáo, và
đặc biệt trong toàn bộ lịch sử cứu độ, làm chứng cho sự khao khát Thiên Chúa
nơi con người. Nhưng chính Thiên Chúa đã đi bước trước, không ngừng lôi kéo mỗi
người đến gặp gỡ Ngài cách huyền nhiệm trong việc cầu nguyện.
Mạc Khải Về Cầu
Nguyện Trong Cựu Ước
536. Ông Ábraham là mẫu gương về cầu nguyện
như thế nào? 2570-2573, 2592
Ông Ábraham là mẫu gương về cầu nguyện bởi vì ông
bước đi trước nhan Thiên Chúa, Ðấng ông lắng nghe và vâng phục. Lời cầu nguyện
của ông là một cuộc chiến đấu của đức tin, vì ngay khi bị thử thách, ông vẫn
xác tín vào sự trung thành của Thiên Chúa. Ngoài ra, sau khi đón tiếp Chúa
trong lều của mình và được Ngài cho biết các kế hoạch, ông cả dám chuyển cầu
cho các kẻ tội lỗi với một lòng tin tưởng táo bạo.
537. Ông Môsê đã cầu nguyện thế nào? 2574-2577, 2593
Lời cầu nguyện của ông Môsê tiêu biểu cho lời cầu
nguyện chiêm niệm. Thiên Chúa, Ðấng đã gọi ông từ Bụi Gai bốc cháy, thường
xuyên tiếp xúc lâu giờ với ông, "mặt giáp mặt như hai người bạn với
nhau" (Xh 33,11). Trong tình thân mật với Thiên Chúa, ông Môsê rút được
sức mạnh để kiên trì chuyển cầu cho dân mình: như vậy, lời cầu nguyện của ông
tượng trưng cho lời chuyển cầu của Ðấng Trung Gian duy nhất là Ðức Giêsu Kitô.
538. Trong Cựu Ước,
nhà vua và đền thờ có liên quan gì đến cầu nguyện? 2578-2580, 2594
Kinh nguyện của Dân Thiên Chúa được phát triển dưới
bóng Nhà Chúa - bên Hòm bia Giao ước, rồi nơi Ðền thờ - nhờ sự hướng dẫn của
các vị Mục tử. Trong số đó, có Ðavít, là vị vua "được đẹp lòng Thiên
Chúa", là người mục tử cầu nguyện cho dân của mình. Lời cầu nguyện của ông
là mẫu mực cho kinh nguyện của dân, vì lời này luôn gắn bó với lời hứa của
Thiên Chúa, được dâng lên với lòng tin tưởng yêu kính đối với Ðấng là Vua và là
Chúa duy nhất.
539. Cầu nguyện có vai trò gì trong sứ vụ của
các tiên tri? 2581-2584
Nhờ cầu nguyện, các tiên tri tìm được ánh sáng và
sức mạnh để thúc đẩy dân chúng tin tưởng và hoán cải tâm hồn. Các ngài sống
trong sự thân mật sâu xa với Thiên Chúa và chuyển cầu cho anh em của mình, là
những người được các ngài loan báo điều họ đã thấy và đã nghe từ nơi Thiên
Chúa. Ông Êlia là tổ phụ các tiên tri, nghĩa là những người tìm kiếm Tôn nhan
Thiên Chúa. Trên đỉnh Carmel, ông đã giúp cho dân chúng quay về với đức tin,
nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa, Ðấng ông cầu khẩn: "Xin đáp lời con, lạy
Chúa, xin đáp lời con" (1 V 18,37).
540. Các Thánh Vịnh có
tầm quan trọng thế nào trong kinh nguyện? 2579, 2585-2589, 2596-2597
Các Thánh Vịnh là tột đỉnh của kinh nguyện Cựu Ước:
Lời Thiên Chúa đã trở thành lời cầu nguyện của con người. Vừa mang tính cá
nhân, vừa mang có tính cộng đoàn, các Thánh Vịnh được Thánh Thần linh ứng, ca
ngợi những kỳ công của Thiên Chúa trong công trình tạo dựng và trong lịch sử
cứu độ. Ðức Kitô đã cầu nguyện bằng các Thánh Vịnh và đã đưa chúng đến mức toàn
hảo. Vì thế, các Thánh Vịnh là một yếu tố chính yếu và thường xuyên trong kinh
nguyện của Hội thánh; chúng thích hợp cho con người trong mọi hoàn cảnh và qua
mọi thời gian.
Trong Chúa
Giêsu, Việc Cầu Nguyện Ðã Ðược Mạc Khải Và Thực Hiện Cách Trọn Vẹn
541. Chúa Giêsu đã học cầu nguyện với ai? 2599, 2620
Trong nhân loại, Chúa Giêsu đã học cầu nguyện từ Mẹ
Người và từ truyền thống Do Thái. Nhưng lời cầu nguyện của Người còn phát xuất
từ một nguồn mạch sâu thẳm hơn nữa, vì Người là Con vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Trong nhân tính thánh thiện, Chúa Giêsu dâng lên Cha của Người lời kinh tuyệt
vời trong tình con thảo.
542. Chúa Giêsu cầu nguyện khi nào? 2600-2604, 2620
Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu thường xuyên cầu
nguyện. Người thường lui vào nơi hoang vắng, kể cả lúc ban đêm. Người cầu
nguyện trước những thời điểm quyết định cho sứ vụ của mình hay của các tông đồ.
Thực ra, cả cuộc đời của Người là cầu nguyện, vì Người luôn sống trong sự hiệp
thông tình yêu với Cha của mình.
543. Chúa Giêsu cầu
nguyện như thế nào trong suốt cuộc khổ nạn? 2605-2606, 2620
Trong cơn hấp hối nơi vườn Ghếtsêmani, cũng như qua
các lời cuối cùng trên Thánh giá, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu mạc khải chiều
sâu thẳm của lời cầu nguyện trong tình con thảo của Người. Chúa Giêsu chu toàn
ý định yêu thương của Chúa Cha và mang lấy trên mình Người tất cả âu lo của
nhân loại, tất cả mọi lời van xin và chuyển cầu của lịch sử cứu độ. Người dâng
lên Chúa Cha, Ðấng đón nhận những lời cầu nguyện ấy và đáp lại một cách vượt
quá sự chờ mong, bằng cách làm cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại.
544. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện như
thế nào? 2608-2614, 2621
Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện không những với
lời kinh Lạy Cha, nhưng còn dạy chúng ta cầu nguyện ngay cả lúc Người cầu
nguyện. Với cách thức này, Người cho chúng ta thấy, bên cạnh nội dung của lời
cầu nguyện, còn có những thái độ cần thiết cho việc cầu nguyện đích thực: tâm
hồn thanh sạch đang tìm kiếm Nước Trời và sẵn sàng tha thứ cho kẻ thù của mình;
sự tin tưởng mạnh mẽ, đầy tình con thảo, vượt quá những gì chúng ta có thể cảm
nghiệm và thấu hiểu; sự tỉnh thức giúp người môn đệ tránh được cơn cám dỗ.
545. Tại sao lời cầu nguyện của chúng ta mang
lại hiệu quả? 2615-2616
Lời cầu nguyện của chúng ta mang lại hiệu quả, vì
được kết hợp với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong đức tin. Trong Người, lời
cầu nguyện Kitô giáo trở thành sự hiệp thông tình yêu với Chúa Cha. Lúc đó,
chúng ta có thể dâng những lời cầu xin lên Thiên Chúa và sẽ được nhậm lời:
"Anh em hãy xin, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn"
(Ga 16,24).
546. Ðức Trinh Nữ Maria đã cầu nguyện thế nào?
2617; 2618, 2622; 2674,
2679
Kinh nguyện của Ðức Maria phát xuất từ niềm tin và
việc quảng đại hiến dâng cuộc đời cho Thiên Chúa. Mẹ của Chúa Giêsu cũng là bà
Eva Mới, là "Mẹ của chúng sinh". Mẹ đã cầu xin Chúa Giêsu, Con của
Mẹ, cho những nhu cầu của loài người.
547. Trong Tin Mừng, có lời cầu nguyện nào của
Ðức Maria không? 2619
Ngoài lời chuyển cầu của Ðức Maria tại Cana miền
Galilê, Tin Mừng còn ghi lại kinh Magnificat (Lc 1,46-55), là lời ca tụng của
Mẹ Thiên Chúa và Mẹ Hội thánh, là lời tạ ơn trong hân hoan xuất phát từ tâm hồn
của những người nghèo khó, vì niềm hy vọng của họ sẽ trở thành hiện thực khi
Thiên Chúa thực hiện các lời hứa của Ngài.
Kinh Nguyện
Trong Thời Hội Thánh
548. Cộng đoàn Kitô
hữu tiên khởi tại Giêrusalem đã cầu nguyện như thế nào? 2623-2624
Khởi đầu sách Công Vụ Tông Ðồ có ghi lại, trong
cộng đoàn tiên khởi tại Giêrusalem được Thánh Thần dạy cho biết cầu nguyện,
"các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với
nhau, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng" (Cv 2, 42).
549. Chúa Thánh Thần
can thiệp như thế nào trong kinh nguyện của Hội thánh? 2623; 2625
Chúa Thánh Thần, bậc thầy nội tâm của kinh nguyện
Kitô giáo, dạy Hội thánh đời sống cầu nguyện; Ngài hướng dẫn Hội thánh luôn đi
sâu vào việc chiêm ngắm và kết hợp với mầu nhiệm khôn lường của Ðức Kitô. Các
hình thức cầu nguyện, như được trình bày trong các tác phẩm thời các Tông đồ và
Tân Ước, vẫn luôn là mẫu mực cho kinh nguyện Kitô giáo.
550. Các hình thức chính yếu của kinh nguyện Kitô
giáo là gì? 2643-2644
Ðó là chúc tụng và thờ lạy, xin ơn và chuyển cầu,
tạ ơn và ca ngợi. Thánh lễ chứa đựng và diễn tả tất cả các hình thức cầu nguyện
này.
551. Lời kinh chúc tụng là gì? 2626-2627, 2645
Lời kinh chúc tụng là lời con người đáp lại các hồng
ân của Thiên Chúa. Chúng ta chúc tụng Ðấng Toàn Năng, Ðấng đã chúc lành cho
chúng ta trước và ban tràn đầy hồng ân của Ngài cho chúng ta.
552. Việc thờ lạy là gì? 2628
Việc thờ lạy là sự phủ phục của con người, tự nhận
mình là thụ tạo trước Ðấng Sáng Tạo muôn trùng chí thánh của mình.
553. Những hình thức khác nhau của lời kinh
xin ơn là gì? 2629-2633, 2646
Ðây có thể là một lời xin ơn tha thứ hay còn là một
lời khiêm tốn và tin tưởng xin ơn cho tất cả mọi nhu cầu tinh thần lẫn vật chất
của chúng ta. Nhưng điều trước hết phải nài xin, là cầu cho Nước Thiên Chúa mau
đến.
554. Lời kinh chuyển cầu là gì? 2634-2636, 2647
Kinh chuyển cầu là lời cầu nguyện xin ơn cho một
người khác. Lời kinh này giúp chúng ta nên giống Chúa Giêsu, kết hợp chúng ta
với kinh nguyện của Người, Ðấng chuyển cầu lên Thiên Chúa cho tất cả mọi người,
đặc biệt cho những người tội lỗi. Lời kinh chuyển cầu cần phải mở rộng đến cả
kẻ thù của chúng ta.
555. Khi nào chúng ta dâng lên Thiên Chúa lời
kinh tạ ơn? 2637-2638, 2648
Hội thánh không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, nhất là khi
cử hành Thánh lễ, trong đó Ðức Kitô cho Hội thánh tham dự vào hành động tạ ơn
của Người dâng lên Thiên Chúa Cha. Ðối với người Kitô hữu, mọi biến cố trong
đời sống đều trở thành chất liệu để tạ ơn.
556. Lời kinh ca ngợi là gì? 2639-2643, 2649
Lời kinh ca ngợi là kinh nguyện công nhận Thiên
Chúa là Chúa một cách trực tiếp. Lời kinh này hoàn toàn vô vị lợi: ca ngợi
Thiên Chúa vì chính Ngài, và tôn vinh Ngài vì Ngài hiện hữu.
Chương
Hai: Truyền Thống Cầu Nguyện (557-566)
557. Truyền thống có tầm quan trọng nào đối
với việc cầu nguyện? 2650-2651
Trong Hội thánh, qua Thánh truyền sống động, Chúa
Thánh Thần dạy cho con cái Thiên Chúa biết cầu nguyện. Thật vậy, kinh nguyện
không hạn hẹp vào một sự bộc phát nội tâm, nhưng bao gồm cả việc chiêm niệm,
học hỏi và tiến sâu vào những thực tại thiêng liêng mà con người có thể cảm
nghiệm được.
Những Nguồn Mạch
Của Kinh Nguyện
558. Kinh nguyện Kitô giáo có những nguồn mạch
nào? 2652-2662
Ðó là:
- Lời Chúa trao ban cho chúng ta "khoa học siêu
việt" về Ðức Kitô (Pl 3, 8);
- Phụng vụ của Hội thánh loan báo, hiện tại hoá và
thông truyền mầu nhiệm cứu độ;
- Các Nhân đức đối thần;
- Những hoàn cảnh thường ngày, trong đó chúng ta có
thể gặp gỡ Thiên Chúa.
"Lạy Chúa, con yêu mến Ngài, và ân sủng duy
nhất mà con cầu xin là cho con được yêu mến Ngài mãi mãi [...] Lạy Thiên Chúa
của con, nếu miệng lưỡi con không thể lúc nào cũng lập lại rằng con yêu mến
Ngài, con muốn rằng tim con luôn lặp lại lời đó với Chúa theo từng nhịp thở của
con" (thánh Gioan Maria Vianney).
Con Ðường Cầu
Nguyện
559. Hội thánh có nhiều con đường cầu nguyện
không? 2663
Hội thánh có nhiều con đường cầu nguyện khác nhau,
tùy theo môi trường lịch sử, xã hội và văn hóa. Chỉ Huấn quyền mới có quyền
nhận định những con đường này có trung thành với đức tin tông truyền hay không;
các vị mục tử và giáo lý viên có trách nhiệm giải thích ý nghĩa của các con
đường này; ý nghĩa đó phải luôn gắn bó với Ðức Giêsu Kitô.
560. Con đường cầu nguyện của chúng ta là con
đường nào? 2664, 2680-2681,
Con đường cầu nguyện của chúng ta là chính Ðức
Kitô. Lời cầu nguyện chúng ta dâng lên Thiên Chúa, Cha chúng ta, nhưng chỉ lên
tới Ngài khi chúng ta cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu, ít nhất là cách mặc
nhiên. Nhân tính của Chúa Giêsu là con đường duy nhất, qua đó Chúa Thánh Thần
dạy chúng ta cầu nguyện lên Cha của chúng ta. Vì thế các lời kinh Phụng vụ đều
kết thúc bằng công thức: "Nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng con".
561. Chúa Thánh Thần
có vai trò gì trong việc cầu nguyện của chúng ta? 2670-2672, 2680-2681
Chúa Thánh Thần là bậc Thầy nội tâm của kinh nguyện
Kitô giáo và "chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải" (Rm
8,26), nên Hội thánh khuyến khích chúng ta kêu cầu và van nài trong mọi hoàn
cảnh: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!"
562. Kinh nguyện Kitô
giáo dâng lên Ðức Maria nhằm ý hướng gì? 2673-2679, 2682
Vì sự cộng tác độc đáo của Ðức Maria vào hoạt động
của Chúa Thánh Thần, nên Hội thánh yêu thích kêu cầu Mẹ và cùng cầu nguyện với
Mẹ, vì Mẹ là người cầu nguyện tuyệt hảo, nhờ đó cùng với Mẹ chúng ta tôn vinh
và kêu cầu Chúa. Thật vậy, Ðức Maria chỉ "đường" cho chúng ta, con
đường ấy chính là Con của Mẹ, Ðấng Trung Gian duy nhất.
563. Hội thánh cầu nguyện với Ðức Maria như
thế nào? 2676-2678, 2682
Hội thánh cầu nguyện với Ðức Maria trước tiên là
bằng kinh Kính Mừng Maria, nhờ lời kinh đó Hội thánh van xin sự chuyển cầu của
Ðức Trinh Nữ. Còn nhiều kinh khác để dâng lên Ðức Maria, trong đó có chuỗi Mân
Côi, các kinh cầu Ðức Bà cũng như các thánh thi và thánh ca theo nhiều truyền
thống Kitô giáo khác nhau.
Các Linh Ðạo
Cầu Nguyện
564. Các thánh là những người dẫn đường cầu
nguyện như thế nào? 2683-2684, 2692-2693
Các thánh là những mẫu gương cho chúng ta về cầu
nguyện và chúng ta cũng van xin các ngài chuyển cầu cho chúng ta và cho toàn
thế giới nơi Thiên Chúa Ba Ngôi. Lời chuyển cầu của các ngài là việc các ngài
phục vụ một cách cao cả nhất cho kế hoạch của Thiên Chúa. Trong mầu nhiệm các
thánh thông công, đã có nhiều đường hướng linh đạo phát sinh suốt dòng lịch sử
Hội thánh, để dạy chúng ta cách sống và thực hành việc cầu nguyện.
565. Ai có thể dạy chúng ta cầu nguyện? 2685-2690, 2694-2695
Gia đình Kitô hữu là nơi đầu tiên để dạy cầu
nguyện. Hội thánh đặc biệt khuyến khích các gia đình nên cầu nguyện hằng ngày,
vì đó là chứng từ đầu tiên của đời sống cầu nguyện của Hội thánh. Việc huấn
giáo, những nhóm cầu nguyện, việc linh hướng tạo thành một trường học và một sự
nâng đỡ cho việc cầu nguyện.
566. Những nơi nào thuận tiện cho việc cầu
nguyện? 2691, 2696
Chúng ta có thể cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, nhưng việc
chọn một nơi thích hợp sẽ giúp ích hơn cho việc cầu nguyện. Nhà thờ là nơi dành
riêng cho kinh nguyện Phụng vụ và việc tôn thờ Thánh Thể. Những nơi khác cũng
có thể giúp chúng ta cầu nguyện, chẳng hạn "một góc cầu nguyện" trong
gia đình, một tu viện, một đền thánh.
Chương
Ba: Ðời Sống Cầu Nguyện (567-577)
567. Thời gian nào thích hợp nhất cho việc cầu
nguyện? 2697-2698, 2720
Mọi thời điểm đều thích hợp cho việc cầu nguyện.
Nhưng Hội thánh đề nghị cho các tín hữu những chu kỳ cố định để nuôi đưỡng việc
cầu nguyện liên tục: kinh sáng và kinh chiều, trước và sau khi dùng cơm, Các
Giờ kinh Phụng vụ, Thánh lễ ngày Chúa nhật, kinh Mân Côi, các lễ mừng trong năm
Phụng vụ.
"Chúng ta phải nhớ đến Chúa, thường hơn là
chúng ta hít thở" (thánh Grêgôriô thành Nazianze)
568. Có mấy hình thức diễn tả đời sống cầu
nguyện? 2697-2699
Truyền thống Kitô giáo đã lưu giữ ba hình thức
chính để diễn tả và sống việc cầu nguyện: khẩu nguyện, suy niệm và cầu nguyện
chiêm niệm. Ðặc điểm chung của cả ba hình thức này là tập trung tâm trí.
Những Hình Thức
Cầu Nguyện
569. Khẩu nguyện có đặc tính gì? 2700-2704, 2722
Khẩu nguyện liên kết thân xác chúng ta với lời cầu
nguyện nội tâm. Ngay cả lời cầu nguyện thầm kín nhất cũng phải cần đến khẩu
nguyện. Trong mọi trường hợp, khẩu nguyện phải luôn xuất phát từ đức tin của
bản thân người cầu nguyện. Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta một công thức tuyệt
hảo của khẩu nguyện, đó là kinh Lạy Cha.
570. Suy niệm là gì? 2705-2708, 2723
Suy niệm là suy tư trong cầu nguyện. Việc suy tư
này phải bắt đầu từ Lời Chúa trong Thánh Kinh. Suy niệm vận dụng lý trí, trí
tưởng tượng, tình cảm, ước muốn, để đào sâu đức tin, hoán cải tâm hồn và củng
cố ý chí muốn bước theo Ðức Kitô. Ðây là bước khởi đầu tiến đến việc kết hợp
với Chúa trong tình yêu.
571. Cầu nguyện chiêm niệm là gì? 2709-2719, 2724, 2739-2741
Chiêm niệm là đơn sơ chiêm ngắm Thiên Chúa, trong
thinh lặng và trong tình yêu. Ðó là một hồng ân của Thiên Chúa, một khoảnh khắc
của đức tin thuần túy trong đó người cầu nguyện tìm kiếm Ðức Kitô, phó thác
mình cho ý định yêu thương của Chúa Cha và đặt mình dưới tác động của Chúa
Thánh Thần. Thánh Têrêsa Avila định nghĩa chiêm niệm như "một cuộc trao
đổi thân tình giữa bạn hữu, một mình bên Ðấng mà chúng ta biết là Ngài yêu
thương ta."
Cuộc Chiến Ðấu
Của Cầu Nguyện
572. Tại sao cầu nguyện lại là một cuộc chiến
đấu? 2725
Cầu nguyện là một quà tặng của ân sủng, nhưng trước
đó phải có một lời đáp trả dứt khoát từ phía chúng ta. Ai cầu nguyện cũng
"phải chiến đấu" chống lại chính bản thân mình, chống lại những gì
chung quanh và nhất là chống lại tên cám dỗ, là kẻ làm tất cả để ngăn chận việc
cầu nguyện. Cuộc chiến đấu trong cầu nguyện phải gắn liền với sự tấn tới trong
đời sống thiêng liêng. Chúng ta cầu nguyện như chúng ta sống, bởi vì chúng ta
sống như chúng ta cầu nguyện.
573. Có những chướng ngại nào cản trở việc cầu
nguyện không? 2726-2728, 2752-2753
Có nhiều quan niệm sai lệch về cầu nguyện. Nhiều
người cho rằng họ không có thời giờ để cầu nguyện hay cầu nguyện là vô ích.
Người cầu nguyện có thể nản lòng trước những khó khăn và những điều xem ra thất
bại. Ðể thắng vượt những chướng ngại này, chúng ta cần sự khiêm nhường, tin
tưởng và kiên trì.
574. Ðâu là những khó khăn trong việc cầu
nguyện? 2729-2733, 2754-2755
Lo ra (chia trí) là khó khăn thường xuyên của việc
cầu nguyện. Lo ra tách sự chú ý của chúng ta ra khỏi Thiên Chúa, và cũng có thể
cho thấy chúng ta đang quyến luyến điều gì. Lúc đó tâm hồn chúng ta phải khiêm
tốn quay về với Chúa. Lời cầu nguyện còn thường bị sự khô khan tấn công. Ai
muốn chiến thắng sự khô khan, phải gắn bó với Thiên Chúa bằng đức tin, cho dù
không cảm thấy một sự an ủi nào. Sự nguội lạnh là một hình thức lười biếng về
mặt thiêng liêng do lơ là việc tỉnh thức và do sự chểnh mảng của tâm hồn.
575. Làm thế nào để
củng cố lòng tin tưởng hiếu thảo của chúng ta? 2734-2741, 2756
Lòng tin tưởng của người con hiếu thảo bị thử thách
khi nghĩ rằng chúng ta không được Thiên Chúa nhậm lời. Lúc đó, phải tự vấn xem,
đối với chúng ta, Thiên Chúa thực sự là một người Cha mà chúng ta đang cố gắng
thực thi ý Ngài, hay Ngài chỉ là phương tiện để chúng ta đạt được điều mong
muốn. Nếu kết hợp lời cầu nguyện của chúng ta với lời cầu nguyện của Chúa
Giêsu, chúng ta biết rằng Thiên Chúa ban cho chúng ta còn nhiều ơn hơn chúng ta
cầu xin: đó là chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Ðấng thay đổi tâm hồn
chúng ta.
576. Có thể cầu nguyện trong mọi lúc hay
không? 2742-2745, 2757
Chúng ta có thể cầu nguyện luôn luôn, vì thời gian
của người Kitô hữu là thời gian của Ðức Kitô phục sinh, Ðấng "ở với chúng
ta mọi ngày" (Mt 28,20). Cầu nguyện không thể tách rời khỏi đời sống của
người Kitô hữu.
"Bạn có thể cầu nguyện thường xuyên và sốt
sắng, khi ở ngoài chợ hay khi đi dạo một mình, khi đang ngồi ở cửa hàng hay khi
đang mua bán, và ngay cả khi làm bếp" (thánh Gioan Kim Khẩu).
577. Kinh nguyện của
Chúa Giêsu trong Giờ của Người là gì? 2604, 2746-2751, 2758
Người ta gọi kinh nguyện này là "lời nguyện tư
tế" của Chúa Giêsu trong bữa tiệc cuối cùng. Chúa Giêsu, vị Thượng tế của
Giao ước mới, dâng lời cầu nguyện này lên Cha của Người khi Giờ của "cuộc
vượt qua", Giờ Hy tế của Người, đã đến.
Ðoạn Thứ Hai: Lời Kinh Chúa Dạy: Kinh Lạy Cha (578-598)
Kinh Lạy Cha
Lạy Cha chúng con ở trên trời;
Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng;
Nước Cha trị đến,
Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời
Xin Cha cho chúng con,
hôm nay lương thực hằng ngày;
Và tha nợ chúng con,
như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ;
nhưng cứu chúng con cho khỏi sự Dữ.
Pater Noster
Pater noster qui es in caelis:
sanctificetur Nomen Tuum;
adveniat Regnum Tuum;
fiat voluntas Tua,
sicut in caelo, et in terra.
Panem nostrum quotidianum da nobis hodie;
et dimitte nobis debita nostra,
sicut et nos dimittimus debitoribus nostris;
et ne nos inducas in tentationem;
sed libera nos a Malo
578. Ðâu là nguồn gốc của kinh Lạy Cha? 2759-2760, 2773
Chúa Giêsu đã dạy chúng ta lời kinh không thể thay
thế được của Kitô giáo, đó là kinh Lạy Cha, khi một môn đệ thấy Người cầu
nguyện, đã xin Người "dạy chúng con cầu nguyện" (Lc 11, 1). Truyền
thống Phụng vụ Hội thánh luôn dùng bản văn của thánh Mátthêu (6, 9-13).
"Bản Tóm
Lược Toàn Bộ Tin Mừng" (579-581)
579. Kinh Lạy Cha có vị trí nào trong Sách
Thánh? 2761-2764, 2774
Kinh Lạy Cha là "bản tóm lược toàn bộ Tin
Mừng" (Tertullianô), là "lời cầu nguyện tuyệt hảo" (thánh Tôma
Aquinô). Kinh Lạy Cha nằm ở trung tâm Bài giảng trên núi (Mt 5-7), và lấy lại
nội dung chính yếu của Tin Mừng dưới hình thức một kinh nguyện.
580. Tại sao kinh này được gọi là "lời
kinh của Chúa"? 2765-2766, 2775
Kinh Lạy Cha được gọi là "lời kinh của
Chúa," vì do chính Chúa Giêsu đã dạy cho chúng ta.
581. Kinh Lạy Cha giữ
vị trí nào trong kinh nguyện của Hội thánh? 2767-2772, 2776
Kinh Lay Cha là lời kinh tuyệt hảo của Hội thánh.
Kinh này chỉ được "trao" cho những người con của Thiên Chúa vào lúc
lãnh nhận Bí tích Rửa tội để nhấn mạnh việc tái sinh vào đời sống thần linh. Bí
tích Thánh Thể mạc khải ý nghĩa tròn đầy của lời kinh này: những lời cầu xin
của kinh này, dựa trên mầu nhiệm cứu độ đã được thực hiện, sẽ được nhậm lời
cách trọn vẹn khi Chúa đến. Kinh Lạy Cha là thành phần chính yếu của Các giờ
kinh Phụng vụ.
"Lạy Cha
Chúng Con Ở Trên Trời" (582-586)
582. Tại sao chúng ta có thể "dám tin
tưởng đến gần" Chúa Cha? 2777-2778, 2797
Vì Chúa Giêsu, Ðấng Cứu độ, hướng dẫn chúng ta đến
trước Tôn Nhan Chúa Cha, và vì Thánh Thần của Người đã làm cho chúng ta trở
thành con cái Thiên Chúa. Như thế, chúng ta có thể cầu nguyện bằng kinh Lạy Cha
với sự tin tưởng đơn sơ và hiếu thảo, với sự vui mừng an tâm, sự can đảm khiêm
hạ và trong sự xác tín được Thiên Chúa yêu thương và nhậm lời.
583. Làm sao chúng ta
có thể gọi Thiên Chúa là "Cha"? 2779-2785, 2789, 2798-2800
Chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha, vì Con Thiên
Chúa làm người đã mạc khải cho chúng ta và Thánh Thần của Ngài đã giúp chúng ta
nhận biết điều đó. Việc kêu cầu Thiên Chúa Cha đưa chúng ta vào mầu nhiệm của
Ngài, với lòng thán phục luôn mới mẻ, và gợi lên trong chúng ta sự ước muốn
sống đời con thảo. Như vậy với kinh Lạy Cha, chúng ta phải ý thức rằng chính
chúng ta là con Thiên Chúa, trong Người Con chí ái của Ngài.
584. Tại sao chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha
"chúng con"? 2786-2790, 2801
Thuật ngữ "chúng con" diễn tả một tương
quan hoàn toàn mới mẻ với Thiên Chúa. Khi cầu nguyện với Chúa Cha, chúng ta thờ
lạy và tôn vinh Ngài cùng với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Trong Ðức Kitô,
chúng ta là Dân "của Ngài" và Ngài là Thiên Chúa "của chúng
ta", bây giờ và mãi mãi. Thật vậy, chúng ta gọi Ngài là Cha "chúng
con" vì Hội thánh của Ðức Kitô là sự hiệp thông gồm đông đảo anh em, tạo
nên "một trái tim và một linh hồn " (Cv 4,32).
585. Chúng ta cầu
nguyện Lạy Cha "chúng con" với tinh thần hiệp thông và truyền giáo
nào? 2791-2793, 2801
Kinh Lạy Cha "chúng con" là gia sản chung
của tất cả những người đã được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, nên họ phải cảm nhận lời
kêu gọi khẩn thiết cùng với Chúa Giêsu cầu nguyện cho sự hợp nhất của các môn
đệ Người. Cầu nguyện bằng kinh "Lạy Cha chúng con," tức là cầu nguyện
với và cho tất cả mọi người, để họ nhận biết một Thiên Chúa thật và phải hợp
nhất với nhau.
586. Thuật ngữ "ở trên trời" có
nghĩa là gì? 2794-2796, 2802
"Ở trên trời" là một cách diễn tả theo
Thánh Kinh, không muốn chỉ một vị trí, nhưng muốn nói lên một cách hiện hữu:
Thiên Chúa vượt quá và vượt trên tất cả. Thuật ngữ này diễn tả sự uy nghi, sự
thánh thiện của Thiên Chúa, cũng như sự hiện diện của Ngài trong tâm hồn những
người công chính. Trời, hay Nhà Cha, là quê hương đích thực mà lòng chúng ta
hằng hướng đến trong niềm hy vọng, ngay khi chúng ta còn đang sống trên mặt đất
này. Là những người "hiện đang tiềm tàng với Ðức Kitô nơi Thiên Chúa"
(Cl 3,3), chúng ta đã sống trên trời.
Bảy Lời Cầu
Xin (587-598)
587. Lời kinh của Chúa được cấu tạo như thế
nào? 2803-2806, 2857
Lời kinh của Chúa có bảy lời cầu xin dâng lên Thiên
Chúa là Cha. Ba lời đầu tiên, có tính đối thần, hướng chúng ta về Thiên Chúa,
vì vinh quang của Ngài: lời kinh này tự bản chất thuộc về tình yêu và trước
tiên nghĩ đến Ðấng chúng ta yêu. Ba lời đó cho thấy những điều mà chúng ta đặc
biệt cầu xin: sự thánh hóa Danh Thiên Chúa, việc Vương quốc sẽ đến và việc thi
hành Ý của Ngài. Bốn lời cầu xin cuối trình bày với Cha nhân từ những thống khổ
và những chờ đợi của chúng ta. Chúng ta van xin Người lương thực, sự tha thứ,
sự trợ giúp trong các cơn cám dỗ và sự giải thoát khỏi thần Dữ.
588. Lời cầu xin "Nguyện danh Cha cả
sáng" có ý nghĩa gì? 2807-2812, 2858
"Danh Cha cả sáng" trước hết là một lời
ca ngợi công nhận Thiên Chúa là Ðấng Thánh. Thật vậy, Thiên Chúa đã mạc khải
Danh Thánh của Ngài cho Môsê và Ngài muốn cho dân Ngài được thánh hiến dành
riêng cho Ngài, là một dân tộc thánh thiện mà Ngài yêu thích cư ngụ nơi họ.
589. Danh Thiên Chúa
được thánh hóa nơi chúng ta và trên thế giới như thế nào? 2813-2815
Thiên Chúa buộc chúng ta phải "nên thánh"
(1 Ts 4,7). Câu "Danh Thiên Chúa được thánh hoá" muốn nói lên đòi hỏi
việc hiến thánh của Bí tích Rửa tội phải làm sinh động cả cuộc đời chúng ta;
ngoài ra còn mang ý nghĩa, chúng ta phải chăm sóc cuộc đời và lời cầu nguyện
của chúng ta như thế nào để Danh Thiên Chúa được mọi người nhận biết và chúc
tụng.
590. Hội thánh xin gì khi cầu nguyện
"Nước Cha trị đến"? 2816-2821, 2859
Hội thánh xin cho Nước Thiên Chúa trị đến một cách
dứt khoát qua việc Ðức Kitô trở lại trong vinh quang. Nhưng Hội thánh cũng cầu
xin cho vương quyền của Thiên Chúa ngày càng lớn lên trong hiện tại qua việc
thánh hóa con người trong Chúa Thánh Thần, và nhờ sự cố gắng của họ trong việc
phục vụ công lý và hòa bình theo các Mối phúc. Lời cầu xin này là tiếng kêu của
Chúa Thánh Thần và của Hiền thê: "Lạy Chúa Giêsu! xin hãy đến" (Kh
22,20).
591. Tại sao chúng ta
cầu xin: "Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời"? 2822-2827, 2860
Ý muốn của Cha chúng ta là "tất cả mọi người
được cứu độ" (1 Tm 2,3). Vì thế, Chúa Giêsu đã đến để chu toàn cách trọn
hảo ý định cứu độ của Cha. Chúng ta cầu xin Thiên Chúa là Cha kết hợp ý muốn
của chúng ta vào ý muốn Con của Ngài, theo gương của Ðức Trinh Nữ rất Thánh và
của các thánh. Chúng ta cầu xin cho ý định của tình yêu nhân hậu của Ngài được
thực hiện trọn vẹn dưới đất như đã được thực hiện trọn vẹn trên trời. Chính nhờ
lời cầu nguyện này mà chúng ta có thể "nhận ra ý muốn của Thiên Chúa"
(Rm 12,2) và "kiên trì thi hành thánh ý" (Dt 10,36).
592. Lời cầu "xin
Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày" có nghĩa gì? 2828-2834, 2861
Với lòng phó thác tin tưởng của phận làm con, chúng
ta xin Thiên Chúa ban lương thực hằng ngày để mọi người được sống và chúng ta
công nhận Ngài là Cha chúng ta, Ðấng tốt lành vượt quá mọi sự tốt lành. Chúng
ta cũng xin Ngài cho biết phải hoạt động thế nào để công lý và tình liên đới
buộc những ai dư đầy biết giúp đỡ các nhu cầu của những kẻ thiếu thốn.
593. Lời cầu xin này có ý nghĩa đặc thù nào
cho người Kitô hữu? 2835-2837, 2861
Vì "người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh,
nhưng còn nhờ mọi Lời miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt 4,4), lời cầu xin này
cũng bao hàm cả cơn đói khát Lời Chúa và Mình Thánh Chúa trong Bí tích Thánh
Thể, cũng như đói khát Chúa Thánh Thần. Chúng ta cầu xin những điều này với
lòng tin tưởng tuyệt đối cho ngày hôm nay của Thiên Chúa. Những điều này được
ban cho chúng ta đặc biệt trong Bí tích Thánh Thể, một sự tham dự trước vào bàn
tiệc của Vương quốc sẽ đến.
594. Tại sao chúng ta
nói "xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con"?
2838-2839, 2862
Khi xin Thiên Chúa là Cha tha thứ cho chúng ta, chúng
ta nhận biết mình là kẻ tội lỗi trước mặt Ngài. Nhưng đồng thời chúng ta cũng
tuyên xưng lòng thương xót của Ngài, vì trong Chúa Con và qua các Bí tích,
"chúng ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi" (Cl 1, 14). Tuy
nhiên, lời cầu xin của chúng ta chỉ có thể được nhậm lời, với điều kiện là, về
phần chúng ta, chúng ta phải tha thứ trước.
595. Làm sao có thể tha thứ được? 2840-2845, 2862
Lòng thương xót chỉ có thể đi vào tâm hồn, nếu như
chính chúng ta biết tha thứ cho cả kẻ thù của mình. Dù đối với con người, điều
này xem ra không thể thực hiện được, nhưng một trái tim rộng mở cho Chúa Thánh
Thần sẽ có khả năng, như Chúa Giêsu, yêu thương cho đến cùng, biến đổi thương
đau thành lòng trắc ẩn, và sự xúc phạm thành lời chuyển cầu. Tha thứ chính là
tham dự vào lòng khoan dung của Thiên Chúa và là một trong những đỉnh cao của
kinh nguyện Kitô giáo.
596. "Xin chớ để chúng con sa chước cám
dỗ" nghĩa là gì? 2846-2849, 2863
Chúng ta xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, đừng để
chúng ta đơn độc dưới quyền lực của cơn cám dỗ. Chúng ta cầu xin Chúa Thánh
Thần để biết nhận định, một đàng, giữa thử thách giúp ta tăng trưởng trong sự
lành và sự cám dỗ dẫn đến tội lỗi và sự chết, và đàng khác, giữa bị cám dỗ và
thuận theo cơn cám dỗ. Lời cầu xin này kết hợp chúng ta với Chúa Giêsu, Ðấng đã
chiến thắng cám dỗ bằng lời cầu nguyện của Người. Lời cầu này cũng van xin ơn
tỉnh thức và bền đỗ đến cùng.
597. Tại sao chúng ta
lại kết thúc bằng lời cầu xin "nhưng cứu chúng con cho khỏi sự Dữ"? 2850-2854, 2864
Sự Dữ muốn ám chỉ một nhân vật là Satan, kẻ đối
nghịch với Thiên Chúa, "kẻ chuyên mê hoặc toàn thể nhân loại" (Kh
12,9). Ðức Kitô đã chiến thắng ma quỷ. Nhưng chúng ta cầu xin cho cả gia đình
nhân loại được giải thoát khỏi Satan và mọi việc làm của nó. Chúng ta cũng cầu
xin hồng ân quí giá là sự bình an và ân sủng để kiên trì chờ đợi Ðức Kitô lại
đến, Ðấng giải thoát chúng ta khỏi sự Dữ cách dứt khoát.
598. Chữ "Amen" cuối cùng có nghĩa
là gì? 2855-2856, 2865
"Sau khi đọc kinh xong, bạn đọc Amen, nhấn
mạnh lời Amen, nghĩa là 'xin Chúa cứ làm cho con như vậy', chúng ta quyết tâm
đón nhận tất cả những điều Chúa dạy trong lời kinh này" (thánh Xyrilô
thành Giêrusalem).