Tin Mừng
Mát-thêu
Chương 1
I. GIÁNG SINH VÀ THỜI THƠ ẤU CỦA
ĐỨC GIÊ-SU
Gia phả Đức Giê-su Ki-tô (Lc 3:23-38)
1
Đây
là gia phả Đức Giê-su Ki-tô, con cháu vua Đa-vít, con cháu tổ phụ Áp-ra-ham:
2
Ông
Áp-ra-ham sinh I-xa-ác; I-xa-ác sinh Gia-cóp; Gia-cóp sinh Giu-đa và các anh em
ông này; 3 Giu-đa ăn ở với Ta-ma sinh Pe-rét và De-rác; Pe-rét sinh
Khét-xơ-ron; Khét-xơ-ron sinh A-ram; 4 A-ram sinh Am-mi-na-đáp;
Am-mi-na-đáp sinh Nác-son; Nác-son sinh Xan-môn; 5 Xan-môn lấy
Ra-kháp sinh Bô-át; Bô-át lấy Rút sinh Ô-vết; Ô-vết sinh Gie-sê; 6 ông
Gie-sê sinh Đa-vít. 1 Vua Đa-vít lấy vợ ông U-ri-gia sinh Sa-lô-môn;
7 Sa-lô-môn sinh Rơ-kháp-am; Rơ-kháp-am sinh A-vi-gia; A-vi-gia sinh
A-xa; 8 A-xa sinh Giơ-hô-sa-phát; Giơ-hô-sa-phát sinh Giô-ram;
Giô-ram sinh Út-di-gia; 9 Út-di-gia sinh Gio-tham; Gio-tham sinh
A-khát; A-khát sinh Khít-ki-gia; 10 Khít-ki-gia sinh Mơ-na-se;
Mơ-na-se sinh A-môn; A-môn sinh Giô-si-gia; 11 Giô-si-gia sinh
Giơ-khon-gia và các anh em vua này; kế đó là thời lưu đày ở Ba-by-lon.
12
Sau
thời lưu đày ở Ba-by-lon, Giơ-khon-gia sinh San-ti-ên; San-ti-ên sinh
Dơ-rúp-ba-ven; 13 Dơ-rúp-ba-ven sinh A-vi-hút; A-vi-hút sinh
En-gia-kim; En-gia-kim sinh A-do; 14 A-do sinh Xa-đốc; Xa-đốc sinh
A-khin; A-khin sinh Ê-li-hút; 15 Ê-li-hút sinh E-la-da; E-la-da sinh
Mát-than; Mát-than sinh Gia-cóp; 16 Gia-cóp sinh Giu-se, chồng của
bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.
17
Như
thế, tính chung lại thì: từ tổ phụ Áp-ra-ham đến vua Đa-vít, là mười bốn đời;
từ vua Đa-vít đến thời lưu đày ở Ba-by-lon, là mười bốn đời; và từ thời lưu đày
ở Ba-by-lon đến Đức Ki-tô, cũng là mười bốn đời.
Truyền tin cho ông Giu-se (Lc 2:1-7)
18
Sau
đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông
Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng
Chúa Thánh Thần. 19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và
không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. 20 Ông
đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng:
”Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người
con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. 21 Bà sẽ sinh con
trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người
khỏi tội lỗi của họ.” 22 Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng
nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: 23 Này đây, Trinh Nữ
sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là
Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.” 24 Khi tỉnh
giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà. 25 Ông
không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai, và ông đặt tên cho con trẻ
là Giê-su.
Chương 2
Các nhà chiêm tinh đến bái lạy
Đức Giê-su Hài Nhi
1
Khi
Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà
chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, 2 và hỏi: ”Đức Vua dân
Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên
phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” 3 Nghe tin ấy, vua
Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. 4 Nhà vua
liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết
Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. 5 Họ trả lời: ”Tại Bê-lem, miền
Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: 6 “Phần ngươi, hỡi
Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi
là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.”
7
Bấy
giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi
sao đã xuất hiện. 8 Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng:
”Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại
cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” 9 Nghe nhà vua nói thế, họ
ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận
nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. 10 Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô
cùng. 11 Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền
sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà
dâng tiến. 12 Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê
nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Đức Giê-su trốn sang Ai-cập và
các anh hài bị giết
13
Khi
các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se
rằng: ”Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho
đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” 14 Ông
Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. 15
Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán
xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.
16
Bấy
giờ vua Hê-rô-đê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa, thì đùng đùng nổi
giận, nên sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận,
từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm
tinh. 17 Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a: 18 “Ở
Ra-ma, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Ra-khen khóc thương con mình
và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa.
Từ Ai-cập về đất Ít-ra-en
19
Sau
khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập, 20
báo mộng cho ông rằng: ”Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất
Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi.” 21 Ông liền
trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en. 22 Nhưng vì nghe
biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ
không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê, 23 và
đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng
các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.
Chương 3
II. CÔNG BỐ NƯỚC TRỜI
1. PHẦN KÝ THUẬT
Ông Gio-an Tẩy Giả rao giảng (Mc 1:1-8; Lc 3:1-18;
Gi 1:19-28)
1
Hồi
ấy, ông Gio-an Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: 2
“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” 3 Ông chính là người
đã được ngôn sứ I-sai-a nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn
con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.
4
Ông
Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng
làm thức ăn. 5 Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền
Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. 6 Họ thú
tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. 7 Thấy nhiều
người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ
rằng: ”Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa sắp giáng xuống vậy? 8 Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. 9
Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ”Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham.” Vì, tôi
nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con
cháu ông Áp-ra-ham. 10 Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào
không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. 11 Tôi, tôi làm
phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau
tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép
rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. 12 Tay Người cầm nia, Người
sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào
lửa không hề tắt mà đốt đi.”
Đức Giê-su chịu phép rửa (Mc 1:9-11; Lc 3:21-22)
13
Bấy
giờ, Đức Giê-su từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông Gio-an để xin ông
làm phép rửa cho mình. 14 Nhưng ông một mực can Người và nói: ”Chính
tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” 15 Nhưng
Đức Giê-su trả lời: ”Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn
đức công chính.” Bấy giờ ông Gio-an mới chiều theo ý Người.
16
Khi
Đức Giê-su chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì các tầng trời mở ra.
Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. 17
Và có tiếng từ trời phán: ”Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về
Người.”
Chương 4
Đức Giê-su chịu cám dỗ (Mc 1:12-13; Lc 4:1-13)
1
Bấy
giờ Đức Giê-su được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ. 2 Người
ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người thấy đói. 3 Bấy
giờ tên cám dỗ đến gần Người và nói: ”Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho
những hòn đá này hoá bánh đi!” 4 Nhưng Người đáp: ”Đã có lời chép
rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên
Chúa phán ra.”
5
Sau
đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên nóc đền thờ, 6 rồi
nói với Người: ”Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời
chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ
tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.”
7
Đức
Giê-su đáp: ”Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là
Thiên Chúa của ngươi.”
8
Quỷ
lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước
thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, 9 và bảo rằng: ”Tôi
sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” 10 Đức
Giê-su liền nói: ”Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái
lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà
thôi.”
11
Thế
rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các sứ thần tiến đến hầu hạ Người.
Đức Giê-su lánh qua miền Ga-li-lê (Mc 1:14-15; Lc 4:14-15)
12
Khi
Đức Giê-su nghe tin ông Gio-an đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê. 13
Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ
Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, 14 để ứng nghiệm lời
ngôn sứ I-sai-a nói: 15 Này đất Dơ-vu-lun, và đất Náp-ta-li, hỡi con
đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Gio-đan, hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân
ngoại! 16 Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng,
những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu
rọi.
17
Từ
lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng: ”Anh em hãy sám hối, vì Nước
Trời đã đến gần.”
Đức Giê-su kêu gọi bốn môn đệ đầu
tiên
(Mc 1:16-20; Lc 5:1-11)
18
Người
đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-môn, cũng
gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các
ông làm nghề đánh cá. 19 Người bảo các ông: ”Các anh hãy theo tôi,
tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” 20 Lập
tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
21
Đi
một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dê-bê-đê, là ông Gia-cô-bê và
người em là ông Gio-an. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dê-bê-đê vá lưới ở
trong thuyền. Người gọi các ông. 22 Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ
cha lại mà theo Người.
Đức Giê-su giảng dạy và chữa bệnh (Lc 6:17-19)
23
Thế
rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng
Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân. 24 Danh
tiếng Người đồn ra khắp xứ Xy-ri. Thiên hạ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau, mắc
đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền: những kẻ bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt; và Người
đã chữa họ. 25 Từ miền Ga-li-lê, vùng Thập Tỉnh, thành
Giê-ru-sa-lem, miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan, dân chúng lũ lượt kéo
đến đi theo Người.
Chương 5
2. BÀI GIẢNG TRÊN NÚI
Tám mối Phúc (Lc 6:20-23)
1
Thấy
đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. 2 Người
mở miệng dạy họ rằng:
3 “Phúc thay ai có tâm
hồn nghèo khó,
vì
Nước Trời là của họ.
4
Phúc
thay ai hiền lành,
vì
họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
5
Phúc
thay ai sầu khổ,
vì
họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
6
Phúc
thay ai khát khao nên người công chính,
vì
họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
7
Phúc
thay ai xót thương người,
vì
họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
8
Phúc
thay ai có tâm hồn trong sạch,
vì
họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
9
Phúc
thay ai xây dựng hoà bình,
vì
họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
10
Phúc
thay ai bị bách hại vì sống công chính,
vì
Nước Trời là của họ.
11
Phúc
thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại
và
vu khống đủ điều xấu xa.
12
Anh
em hãy vui mừng hớn hở,
vì
phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.
Quả
vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như
thế.
Muối
cho đời và ánh sáng cho trần gian (Mc 9:50; Lc 14:34-35)
13 “Chính anh em là muối
cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô
dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.
14 “Chính anh em là ánh
sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. 15
Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế,
và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. 16 Cũng vậy, ánh sáng của
anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp
anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.
Đức Giê-su kiện toàn Luật Mô-sê
17 “Anh em đừng tưởng
Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để
bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. 18 Vì, Thầy bảo thật anh em, trước
khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi,
cho đến khi mọi sự được hoàn thành. 19 Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một
trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là
kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được
gọi là lớn trong Nước Trời.
Đức công chính của người môn đệ
20 “Vậy, Thầy bảo cho
anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người
Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
Đừng giận ghét (Lc 12:57-59)
21 “Anh em đã nghe Luật
dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. 22
Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa
ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội
Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu
đốt. 23 Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ
có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, 24 thì hãy để của
lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ
vật của mình. 25 Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn
đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan
toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. 26 Thầy
bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối
cùng.
Chớ ngoại tình
27 “Anh em đã nghe Luật
dạy rằng: Chớ ngoại tình. 28 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai
nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. 29
Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà
mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. 30 Nếu
tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một
phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục.
Đừng ly dị (Mt 19:9; Mc 10:11-12;
Lc 16:18)
31 “Luật còn dạy rằng:
Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. 32 Còn Thầy, Thầy bảo
cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy
vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại
tình.
Đừng thề thốt
33 “Anh em còn nghe Luật
dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. 34 Còn
Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời
là ngai Thiên Chúa. 35 Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân
Người. Đừng chỉ Giê-ru-sa-lem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. 36
Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng
hay đen được. 37 Nhưng hễ”có” thì phải nói”có”,”không” thì phải
nói”không” . Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.
Chớ trả thù (Lc 62:9-30)
38 “Anh em đã nghe Luật
dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. 39 Còn Thầy, Thầy bảo anh em:
đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má
bên trái ra nữa. 40 Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh,
thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. 41 Nếu có người bắt anh đi một
dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. 42 Ai xin, thì hãy cho; ai
muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt
Phải yêu kẻ thù (Lc 6:27-28,32-36 )
43
"Anh
em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. 44 Còn
Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh
em. 45 Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng
ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như
người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. 46
Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi?
Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? 47 Nếu anh em chỉ chào
hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại
cũng chẳng làm như thế sao? 48 Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em
trên trời là Đấng hoàn thiện.
Chương 6
Bố thí cách kín đáo
1 “Khi làm việc lành
phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng
không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. 2
Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả
thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy
bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. 3 Còn anh, khi bố
thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, 4 để việc anh bố thí
được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho
anh.
Cầu nguyện nơi kín đáo
5 “Và khi cầu nguyện,
anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội
đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em:
chúng đã được phần thưởng rồi. 6 Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào
phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín
đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.
Kinh Lạy Cha” (Lc 11:2-4)
7 “Khi cầu nguyện, anh
em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. 8
Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh
em cầu xin.
9 “Vậy, anh em hãy cầu
nguyện như thế này:
“
Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời,
xin
làm cho danh thánh Cha vinh hiển,
10
triều
đại Cha mau đến,
ý
Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
11
Xin
Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày;
12
xin
tha tội cho chúng con
như
chúng con cũng tha
cho
những người có lỗi với chúng con;
13
xin
đừng để chúng con sa chước cám dỗ,
nhưng
cứu chúng con cho khỏi sự dữ.
14 “Thật vậy, nếu anh em
tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. 15
Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không
tha lỗi cho anh em.
Ăn chay cách kín đáo
16 “Còn khi ăn chay, anh
em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để
thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng
rồi. 17 Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho
thơm, 18 để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng
hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả
lại cho anh.
Của cải trên trời (Lc 12:33-34)
19 “Anh em đừng tích trữ
cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách
lấy đi. 20 Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi
mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. 21 Vì
kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó.
Đèn của thân thể (Lc 11:34-36)
22 “Đèn của thân thể là
con mắt. Vậy nếu mắt anh sáng, thì toàn thân anh sẽ sáng. 23 Còn nếu
mắt anh xấu, thì toàn thân anh sẽ tối. Vậy nếu ánh sáng nơi anh lại thành bóng
tối, thì tối biết chừng nào!
Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa
vừa làm tôi Tiền Của
(Lc 16, 13)
24 “Không ai có thể làm
tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này
mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền
Của được.
Tin tưởng vào Chúa quan phòng (Lc 12:22-31)
25 “Vì vậy Thầy bảo cho
anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể:
lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo
mặc sao? 26 Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào
kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn
chúng sao? 27 Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm
được dù chỉ một gang tay? 28 Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm
xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng,
không kéo sợi; 29 thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua
Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. 30
Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa
còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! 31 Vì
thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? 32 Tất
cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em
cần tất cả những thứ đó. 33 Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa
và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. 34
Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày
nào có cái khổ của ngày ấy.
Chương 7
Đừng xét đoán (Lc 6:37-38, 41-42)
1 “Anh em đừng xét
đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, 2 vì anh em xét đoán thế nào,
thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong đấu nào, thì
Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em. 3 Sao anh thấy cái rác
trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không
để ý tới? 4 Sao anh lại nói với người anh em: ”Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi
mắt bạn”, trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? 5 Hỡi kẻ đạo đức giả!
Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi
mắt người anh em.
Đừng quăng của thánh cho chó
6 “Của thánh, đừng
quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi
còn quay lại cắn xé anh em.
Cứ xin thì sẽ được (Lc 11:9-13)
7 “Anh em cứ xin thì sẽ
được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. 8 Vì hễ ai xin
thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho. 9 Có
người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá? 10
Hoặc nó xin con cá, mà lại cho nó con rắn? 11 Vậy nếu anh em vốn là những kẻ
xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em,
Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người
sao?
Khuôn vàng thước ngọc (Lc 6:31)
12 “Vậy tất cả những gì
anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta,
vì Luật Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó.
Hai con đường (Lc 13:24)
13 “Hãy qua cửa hẹp mà
vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại
đi qua đó. 14 Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng
ít người tìm được lối ấy.
Cây nào trái ấy (Lc 6:43-44)
15 “Anh em hãy coi chừng
các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói
dữ tham mồi. 16 Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi
gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? 17 Nên hễ cây tốt
thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. 18 Cây tốt không thể
sinh quả xấu, cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt. 19 Cây nào
không sinh quả tốt, thì bị chặt đi và quăng vào lửa. 20 Vậy, cứ xem
họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai.
Môn đệ chân chính (Lc 6:47-49; 13:25-27)
21 “Không phải bất cứ ai
thưa với Thầy: ”Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai
thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. 22
Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ”Lạy Chúa, lạy Chúa,
nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà
trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?” 23 Và bấy giờ
Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta,
hỡi bọn làm điều gian ác!
24 “Vậy ai nghe những
lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên
đá. 25 Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không
sụp đổ, vì đã xây trên nền đá. 26 Còn ai nghe những lời Thầy nói
đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát.
27 Gặp mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy sẽ sụp đổ, sụp
đổ tan tành.”
Cách giảng dạy của Đức Giê-su
28
Khi
Đức Giê-su giảng dạy những điều ấy xong, dân chúng sửng sốt về lời giảng dạy
của Người, 29 vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ
không như các kinh sư của họ.
Chương 8
III. RAO GIẢNG NƯỚC TRỜI
1. PHẦN KÝ THUẬT
Đức Giê-su chữa người bị phong
hủi
(Mc 1:40-45; Lc 5:12-14)
1
Khi
Đức Giê-su ở trên núi xuống, đám đông lũ lượt đi theo Người. 2 Bỗng
có một người phong hủi tiến lại, bái lạy Người và nói: ”Thưa Ngài, nếu Ngài
muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” 3 Người giơ tay đụng vào
anh và bảo: ”Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, anh được sạch bệnh phong hủi. 4
Rồi Đức Giê-su bảo anh: ”Coi chừng, đừng nói với ai cả, nhưng hãy đi
trình diện tư tế và dâng của lễ, như ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho
người ta biết.”
Đức Giê-su chữa đầy tớ của một
đại đội trưởng
(Lc 7:1-10)
5
Khi
Đức Giê-su vào thành Ca-phác-na-um, có một viên đại đội trưởng đến gặp Người và
nài xin: 6 “Thưa Ngài, tên đầy tớ của tôi bị tê bại nằm liệt ở nhà,
đau đớn lắm.” 7 Người nói: ”Chính tôi sẽ đến chữa nó.” Viên đại đội
trưởng đáp: 8 “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin
Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh. 9 Vì tôi đây, tuy
dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này:
”Đi!”, là nó đi, bảo người kia: ”Đến!”, là nó đến, và bảo người nô lệ của tôi:
”Làm cái này!”, là nó làm.” 10 Nghe vậy, Đức Giê-su ngạc nhiên và
nói với những kẻ theo Người rằng: ”Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một
người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế. 11 Tôi nói cho các ông hay:
Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ
Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. 12 Nhưng con cái Nước
Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc
nghiến răng.” 13 Rồi Đức Giê-su nói với viên đại đội trưởng rằng:
”Ông cứ về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy!” Và ngay giờ đó, người đầy tớ
được khỏi bệnh.
Đức Giê-su chữa bà mẹ vợ ông Phê-rô (Mc 1:29-31; Lc 4:38-39)
14
Đức
Giê-su đến nhà ông Phê-rô, thấy bà mẹ vợ ông đang nằm liệt và lên cơn sốt. 15
Người đụng vào tay bà, cơn sốt dứt ngay và bà chỗi dậy phục vụ Người.
Đức Giê-su chữa lành mọi kẻ ốm
đau
(Mc 1:32-34; Lc 4:40-41)
16
Chiều
đến, người ta đem nhiều kẻ bị quỷ ám tới gặp Đức Giê-su. Người nói một lời là
trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau, 17 để ứng
nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a: Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy
các bệnh hoạn của ta.
Người môn đệ phải bỏ mọi sự (Lc 9:57-62)
18
Thấy
xung quanh có đám đông, Đức Giê-su ra lệnh sang bờ bên kia. 19 Một
kinh sư tiến đến thưa Người rằng: ”Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi
theo.” 20 Đức Giê-su trả lời: ”Con chồn có hang, chim trời có tổ,
nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”
21
Một
môn đệ khác thưa với Người: ”Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con
trước đã.” 22 Đức Giê-su bảo: ”Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết
chôn kẻ chết của họ.”
Đức
Giê-su dẹp yên biển động (Mc 4:35-41; Lc 8:22-25)
23
Đức
Giê-su xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người. 24 Bỗng nhiên biển
động mạnh khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ. 25 Các ông
lại gần đánh thức Người và nói: ”Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết
mất!” 26 Đức Giê-su nói: ”Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng
tin!” Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ.
27
Người
ta ngạc nhiên và nói: ”Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân
lệnh?”
Hai người bị quỷ ám (Mc 5:1-20; Lc 8:26-39)
28
Khi
Đức Giê-su sang bờ bên kia, và đến miền Ga-đa-ra, thì có hai người bị quỷ ám từ
trong đám mồ mả ra đón Người; chúng rất dữ tợn, đến nỗi không ai dám qua lại
lối ấy. 29 Chúng la lên rằng: ”Hỡi Con Thiên Chúa, chuyện chúng tôi
can gì đến ông? Chưa tới lúc mà ông đã đến đây làm khổ chúng tôi sao?” 30 Khi
ấy, ở đàng xa, có một bầy heo rất đông đang ăn. 31 Bọn quỷ nài xin
Người rằng: ”Nếu ông đuổi chúng tôi, thì xin sai chúng tôi nhập vào bầy heo
kia.” 32 Người bảo: ”Đi đi!” Chúng liền ra khỏi hai người đó và nhập
vào bầy heo. Thế là tất cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống biển và chết đuối
hết. 33 Các người chăn heo chạy trốn vào thành, kể lại mọi sự, và
những gì đã xảy ra cho những người bị quỷ ám. 34 Bấy giờ, cả thành
ra đón Đức Giê-su, và khi gặp Người, họ xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
Chương 9
Đức Giê-su chữa người bại liệt (Mc 2:1-12; Lc 5:17-26)
1
Đức
Giê-su xuống thuyền, băng qua hồ, trở về thành của mình. 2 Người ta
liền khiêng đến cho Người một kẻ bại liệt nằm trên giường. Thấy họ có lòng tin
như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: ”Này con, cứ yên tâm, con đã được tha
tội rồi!” 3 Có mấy kinh sư nghĩ bụng rằng: ”Ông này nói phạm thượng.”
4 Nhưng Đức Giê-su biết ý nghĩ của họ, liền nói: ”Sao các ông lại
nghĩ xấu trong bụng như vậy? 5 Trong hai điều: một là bảo: ”Con đã được tha tội
rồi”, hai là bảo: ”Đứng dậy mà đi”, điều nào dễ hơn? 6 Vậy, để các ông biết: ở
dưới đất này, Con Người có quyền tha tội- bấy giờ Đức Giê-su bảo người bại
liệt: ”Đứng dậy, vác giường đi về nhà!” 7 Người bại liệt đứng dậy,
đi về nhà. 8 Thấy vậy, dân chúng sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa đã
ban cho loài người được quyền năng như thế.
Đức Giê-su kêu gọi ông Mát-thêu (Mc 2:13-14; Lc 5:27-28)
9
Bỏ
nơi ấy, Đức Giê-su đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là
Mát-thêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: ”Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi
theo Người.
Đức
Giê-su dùng bữa với những người tội lỗi (Mc 2:15-17; Lc 5:29-32)
10
Khi
Đức Giê-su đang dùng bữa tại nhà ông ấy, có nhiều người thu thuế và tội lỗi kéo
đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. 11 Thấy vậy, những người
Pha-ri-sêu nói với các môn đệ Người rằng: ”Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn
thu thuế, và quân tội lỗi như vậy?” 12 Nghe thấy thế, Đức Giê-su
nói: ”Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. 13 Hãy
về học cho biết ý nghĩa của câu này: ”Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì
tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”
Tranh luận về việc ăn chay (Mc 2:18-22; Lc 5:33-39)
14
Bấy
giờ, các môn đệ ông Gio-an tiến lại hỏi Đức Giê-su rằng: ”Tại sao chúng tôi và
các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” 15 Đức
Giê-su trả lời: ”Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể
còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay.
16 Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại,
khiến áo rách lại càng rách thêm. 17 Người ta cũng không đổ rượu mới
vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng
rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai.”
Đức Giê-su chữa người đàn bà bị
băng huyết và cho con gái một vị thủ lãnh sống lại (Mc 5:21-43; Lc 8:40-56)
18
Người
còn đang nói với họ như thế, thì bỗng một vị thủ lãnh đến gần bái lạy Người và
nói: ”Con gái tôi vừa mới chết. Nhưng xin Ngài đến đặt tay lên cháu, là nó sẽ
sống.” 19 Đức Giê-su đứng dậy đi theo ông ấy, và các môn đệ cũng đi
với Người.
20
Bỗng
một người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm tiến đến phía sau Người và sờ
vào tua áo của Người, 21 vì bà nghĩ bụng: ”Tôi chỉ cần sờ được vào
áo của Người thôi là sẽ được cứu!” 22 Đức Giê-su quay lại thấy bà
thì nói: ”Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con.” Và ngay từ
giờ ấy, bà được cứu chữa.
23
Đức
Giê-su đến nhà viên thủ lãnh; thấy phường kèn và đám đông xôn xao, Người nói: 24
“Lui ra! Con bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” Nhưng họ chế nhạo Người. 25 Khi
đám đông bị đuổi ra rồi, thì Người đi vào, cầm lấy tay con bé, nó liền trỗi dậy.
26 Và tin ấy đồn ra khắp cả vùng.
Đức Giê-su chữa hai người mù
27
Đang
khi Đức Giê-su ra khỏi nơi đó, thì có hai người mù đi theo kêu lên rằng: ”Lạy
Con Vua Đa-vít, xin thương xót chúng tôi!” 28 Khi Đức Giê-su về tới
nhà, thì hai người mù ấy tiến lại gần. Người nói với họ: ”Các anh có tin là tôi
làm được điều ấy không?” Họ đáp: ”Thưa Ngài, chúng tôi tin.” 29 Bấy
giờ Người sờ vào mắt họ và nói: ”Các anh tin thế nào thì được như vậy.” 30
Mắt họ liền mở ra. Người nghiêm giọng bảo họ: ”Coi chừng, đừng cho ai
biết!” 31 Nhưng vừa ra khỏi đó, họ đã nói về Người trong khắp cả
vùng.
Đức Giê-su chữa người câm bị quỷ
ám
32
Họ
vừa đi ra thì người ta đem đến cho Đức Giê-su một người câm bị quỷ ám. 33 Khi
quỷ bị trục xuất rồi, thì người câm nói được. Dân chúng kinh ngạc, nói rằng: ”Ở
Ít-ra-en, chưa hề thấy thế bao giờ!” 34 Nhưng người Pha-ri-sêu lại
bảo: ”Ông ấy dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ.”
Đức Giê-su thương dân chúng lầm
than
35
Đức
Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao
giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.
36
Đức
Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy
chiên không người chăn dắt. 37 Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng:
Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. 38 Vậy anh em hãy xin chủ mùa
gặt sai thợ ra gặt lúa về.”
Chương 10
2. BÀI GIẢNG VỀ SỨ MỆNH TRUYỀN
GIÁO
Đức Giê-su sai mười hai Tông Đồ
đi giảng
(Mc 3:13-19; 6:7-13; Lc 6:12-16; 9:1-6)
1
Rồi
Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô
uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.
2
Sau
đây là tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô,
rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông
Gio-an, em của ông; 3 ông Phi-líp-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô; ông
Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế; ông Gia-cô-bê con ông An-phê và ông
Ta-đê-ô; 4 ông Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa
Ít-ca-ri-ốt, là chính kẻ nộp Người. 5 Đức Giê-su sai mười hai ông ấy
đi và chỉ thị rằng:
6
Tốt
hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en. 7 Dọc đường hãy
rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. 8 Anh em hãy chữa lành người
đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử
trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy. 9 Đừng
kiếm vàng bạc hay tiền giắt lưng. 10 Đi đường, đừng mang bao bị,
đừng mặc hai áo, đừng đi dép hay cầm gậy. Vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
11
“Khi
anh em vào bất cứ thành nào hay làng nào, thì hãy dò hỏi xem ở đó ai là người
xứng đáng, và hãy ở lại đó cho đến lúc ra đi. 12 Vào nhà nào, anh em
hãy chào chúc bình an cho nhà ấy. 13 Nếu nhà ấy xứng đáng, thì-bình
an của anh em sẽ đến với họ; còn nếu nhà ấy không xứng đáng, thì bình an của
anh em sẽ trở về với anh em. 14 Nếu người ta không đón tiếp và nghe
lời anh em, thì khi ra khỏi nhà hay thành ấy, anh em hãy giũ bụi chân lại. 15
Thầy bảo thật anh em, trong Ngày phán xét, đất Xơ-đôm và Gô-mô-ra còn
được xử khoan hồng hơn thành đó. 16 Này, Thầy sai anh em đi như
chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu.
Đức Giê-su tiên báo những cuộc
bách hại
(Mc 13:9-13; Lc 21:12-19).
17 “Hãy coi chừng người
đời. Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội
đường của họ. 18 Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan
quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết. 19 Khi
người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì
trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì: 20 thật
vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh
em.
21 “Anh sẽ nộp em, em sẽ
nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ
và làm cho cha mẹ phải chết. 22 Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người
thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
23 “Khi người ta bách
hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật anh em:
anh em chưa đi hết các thành của Ít-ra-en, thì Con Người đã đến.
24 “Trò không hơn thầy,
tớ không hơn chủ. 25 Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá
lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bê-en-dê-bun, huống chi là người nhà.
Hãy
nói giữa ban ngày, đừng có sợ (Lc 12:2-9)
26 “Vậy anh em đừng sợ
người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí
mật, mà người ta sẽ không biết. 27 Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm,
thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà
rao giảng.
28 “Anh em đừng sợ những
kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có
thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. 29 Hai con chim sẻ chỉ
bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý
của Cha anh em. 30 Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên
đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. 31 Vậy anh em đừng sợ, anh em còn
quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
32 “Phàm ai tuyên bố
nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt
Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. 33 Còn ai chối Thầy trước mặt thiên
hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
Đức
Giê-su đến để gây chia rẽ (Lc 12:51-53)
34 “Anh em đừng tưởng
Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để
đem gươm giáo. 35 Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với
cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. 36 Kẻ thù của
mình chính là người nhà.
Từ
bỏ mình để theo Đức Giê-su (Lc 14:26-27)
37 “Ai yêu cha yêu mẹ
hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không
xứng với Thầy. 38 Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không
xứng với Thầy. 39 Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều
mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.
Ai
đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy (Mc 9, 41)
40 “Ai đón tiếp anh em
là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.
41 “Ai đón tiếp một ngôn
sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ;
ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được
lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính.
42 “Và ai cho một trong
những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của
Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.”
Chương 11
IV.
MẦU NHIỆM NƯỚC TRỜI
1.
PHẦN KÝ THUẬT
Nhập
đề
1
Ra
chỉ thị cho mười hai môn đệ xong, Đức Giê-su rời chỗ đó, đi dạy dỗ và rao giảng
trong các thành thị trong miền.
Câu
hỏi của ông Gio-an Tẩy Giả và câu trả lời của Đức Giê-su (Lc 7, 18-28)
2
Ông
Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ
đến hỏi Người rằng: 3 “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến
không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” 4 Đức Giê-su trả lời:
”Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: 5 Người
mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết
sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, 6 và phúc thay người nào
không vấp ngã vì tôi.”
7
Họ
đi rồi, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về ông Gio-an rằng: ”Anh em ra xem
gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? 8 Thế thì anh em ra
xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì
ở trong cung điện nhà vua. 9 Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn
sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa. 10
Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả
của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến.
11 “Tôi nói thật với anh
em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gio-an
Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông. 12 Từ
thời ông Gio-an Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh,
ai mạnh sức thì chiếm được. 13 Cho đến ông Gio-an, tất cả các ngôn
sứ cũng như Lề Luật đều đã nói tiên tri. 14 Và nếu anh em chịu tin
lời tôi, thì ông Gio-an chính là Ê-li-a, người phải đến. 15 Ai có
tai thì nghe.
Đức
Giê-su phán đoán về thế hệ của Người (Lc 7:31-35)
16 “Tôi phải ví thế hệ
này với ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác, 17 và
nói:
“
Tụi tôi thổi sáo cho các anh,
mà
các anh không nhảy múa;
tụi
tôi hát bài đưa đám,
mà
các anh không đấm ngực khóc than.”
18
Thật
vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: ”Ông ta bị quỷ ám.”
19 Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo:
”Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.” Nhưng đức
Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.”
Khốn
cho những thành đã chứng kiến các phép lạ mà không sám hối (Lc 10, 13-15)
20
Bấy
giờ Người bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người
làm mà không sám hối:
21 “Khốn cho ngươi, hỡi
Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các
ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu
tỏ lòng sám hối. 22 Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán
xét, thành Tia và thành Xi-đôn còn được xử khoan hồng hơn các ngươi. 23 Còn
ngươi nữa, hỡi Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư?
Ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi ngươi mà
được làm tại Xơ-đôm, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. 24 Vì
thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, đất Xơ-đôm còn được xử khoan
hồng hơn các ngươi.”
Chúa
Cha và người Con (Lc 10:21-22)
25
Vào
lúc ấy, Đức Giê-su cất tiếng nói: ”Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi
khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều
này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. 26 Vâng, lạy Cha, vì
đó là điều đẹp ý Cha.
27 “Cha tôi đã giao phó
mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai
biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.
Hãy
mang lấy ách của tôi
28 “Tất cả những ai đang
vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. 29
Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền
hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. 30 Vì
ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.”
Chương 12
Môn
đệ bứt lúa ăn ngày sa-bát (Mc 2:23-28; Lc 6:1-5)
1
Hôm
ấy, vào ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ thấy
đói và bắt đầu bứt lúa ăn. 2 Người Pha-ri-sêu thấy vậy, mới nói với
Đức Giê-su: ”Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát!”
3 Người đáp: ”Các ông chưa đọc trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm gì,
khi ông và thuộc hạ đói bụng? 4 Ông vào nhà Thiên Chúa, và đã cùng thuộc hạ ăn
bánh tiến. Thứ bánh này, họ không được phép ăn, chỉ có tư tế mới được ăn mà
thôi. 5 Hay các ông chưa đọc trong sách Luật rằng ngày sa-bát, các
tư tế trong Đền Thờ vi phạm luật sa-bát mà không mắc tội đó sao? 6 Tôi nói cho
các ông hay: ở đây còn lớn hơn Đền Thờ nữa. -7 Nếu các ông hiểu được ý nghĩa
của câu này: Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ
vô tội. 8 Quả thế, Con Người làm chủ ngày sa-bát.”
Đức
Giê-su chữa người bị bại tay trong ngày sa-bát (Mc 3:1-6; Lc 6:6-11)
9
Đức
Giê-su bỏ đó mà đi vào hội đường của họ. 10 Tại đây, có người bị bại
một tay. Người ta hỏi Đức Giê-su rằng: ”Có được phép chữa bệnh ngày sa-bát
không?” Họ hỏi thế là để tố cáo Người. 11 Người đáp: ”Ai trong các
ông có một con chiên độc nhất bị sa hố ngày sa-bát, lại không nắm lấy nó và kéo
lên sao? 12 Mà người thì quý hơn chiên biết mấy! Vì thế, ngày sa-bát được phép
làm điều lành.” 13 Rồi Đức Giê-su bảo người bại tay: ”Anh giơ tay
ra!” Người ấy giơ ra và tay liền trở lại bình thường lành mạnh như tay kia. 14
Ra khỏi đó, nhóm Pha-ri-sêu bàn bạc để tìm cách giết Đức Giê-su.
Đức
Giê-su, người Tôi Trung của Thiên Chúa
15
Biết
vậy, Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó. Dân chúng theo Người đông đảo và Người chữa
lành hết. 16 Người còn cấm họ không được tiết lộ Người là ai. 17
Như thế là để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a đã nói: 18 “Đây
là người Tôi Trung Ta đã tuyển chọn, đây là người Ta yêu dấu: Ta hài lòng về
Người. Ta cho Thần Khí Ta ngự trên Người. Người sẽ loan báo công lý trước muôn
dân. 19 Người sẽ không cãi vã, không kêu to, chẳng ai nghe thấy
Người lên tiếng giữa phố phường. 20 Cây lau bị giập, Người không
đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Người đưa công lý
đến toàn thắng, 21 và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người.
Đức
Giê-su và quỷ vương Bê-en-dê-bun (Mc 3:20-30; Lc 11:14-23)
22
Bấy
giờ họ đem đến cho Đức Giê-su một người bị quỷ ám vừa mù lại vừa câm. Người
chữa anh ta, khiến anh nói và thấy được. 23 Tất cả dân chúng đều
sửng sốt và nói: ”Ông này chẳng phải là Con vua Đa-vít sao?” 24 Nghe
vậy, những người Pha-ri-sêu nói rằng: ”Ông này trừ được quỷ chỉ là nhờ dựa thế
quỷ vương Bê-en-dê-bun.”
25
Biết
ý nghĩ của họ, Đức Giê-su nói: ”Bất cứ nước nào tự chia rẽ, thì sẽ điêu tàn.
Bất cứ thành nào hay nhà nào tự chia rẽ, thì sẽ không tồn tại. 26 Nếu
Xa-tan trừ Xa-tan, thì Xa-tan tự chia rẽ: nước nó tồn tại sao được? 27 Nếu tôi
dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ, thì đệ tử các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính
họ sẽ xét xử các ông. 28 Còn nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa
mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.
29 “Làm sao người ta có
thể vào nhà một kẻ mạnh và cướp của được, nếu không trói kẻ mạnh ấy trước đã,
rồi mới cướp sạch nhà nó?
30 “Ai không đi với tôi,
là chống lại tôi; và ai không cùng tôi thu góp, là phân tán. 31 Vì
thế, tôi nói cho các ông hay: mọi tội, kể cả tội nói phạm thượng, cũng sẽ được
tha cho loài người, chứ tội nói phạm đến Thần Khí sẽ chẳng được tha. 32 Ai
nói phạm đến Con Người thì được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng
được tha, cả đời này lẫn đời sau.
Lòng
có đầy, miệng mới nói ra (Lc 6:43-45)
33 “Cây mà tốt thì quả
cũng tốt; cây mà sâu thì quả cũng sâu, vì xem quả thì biết cây. 34 Loài
rắn độc kia, xấu như các người, thì làm sao nói điều tốt được? Vì lòng có đầy,
miệng mới nói ra. 35 Người tốt thì rút cái tốt từ kho tàng tốt của
mình; kẻ xấu thì rút cái xấu từ kho tàng xấu của mình. 36 Tôi nói
cho các người hay: đến Ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều vô
ích mình đã nói. 37 Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án;
và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án.”
Dấu
lạ ngôn sứ Giô-na (Mc 8:11-12; Lc 11:29-32)
38
Bấy
giờ có mấy kinh sư và mấy người Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy,
chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ.” 39 Người đáp: ”Thế hệ gian
ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài
dấu lạ ngôn sứ Giô-na. 40 Quả thật, ông Giô-na đã ở trong bụng kình
ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba
đêm như vậy. 41 Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy
cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông
Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa. 42 Trong cuộc
phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với thế hệ này, và bà sẽ kết án
họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua
Sa-lô-môn; mà đây thì còn hơn vua Sa-lô-môn nữa.
Quỷ
phản công (Lc 11:24-26)
43 “Khi thần ô uế xuất
khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi mà tìm
không ra. 44 Bấy giờ nó nói: ”Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra
đi.” Khi đến nơi, nó thấy nhà để trống, lại được quét tước, trang hoàng hẳn hoi.
45 Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó.
Rốt cuộc, tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước. Thế hệ gian ác này rồi
cũng sẽ bị như vậy.”
Ai
thuộc gia đình của Đức Giê-su? (Mc 3:31-35; Lc 8:19-21)
46
Người
còn đang nói với đám đông, thì có mẹ và anh em của Người đứng bên ngoài, tìm
cách nói chuyện với Người. 47 Có kẻ thưa Người rằng: ”Thưa Thầy, có
mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia, tìm cách nói chuyện với Thầy.” 48 Người
bảo kẻ ấy rằng: ”Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” 49 Rồi Người giơ
tay chỉ các môn đệ và nói: ”Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 50 Vì
phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em
tôi, là mẹ tôi.”
Chương 13
2.
BÀI GIẢNG BẰNG DỤ NGÔN
Nhập
đề (Mc 4:1-2; Lc 8:4)
1
Hôm
ấy, Đức Giê-su từ trong nhà đi ra ngồi ở ven Biển Hồ. 2 Dân chúng tụ
họp bên Người rất đông, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân
chúng thì đứng trên bờ. 3 Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều
điều.
Dụ
ngôn người gieo giống (Mc 4:3-9; Lc 8:5-8)
4
Trong
khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. 5
Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ đất không có nhiều; nó mọc ngay, vì
đất không sâu; 6 nhưng khi nắng lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ
nên bị chết khô. 7 Có những hạt rơi vào bụi gai, gai mọc lên làm nó
chết nghẹt. 8 Có những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết
quả: hạt được gấp trăm, hạt được sáu chục, hạt được ba chục. 9 Ai có
tai thì nghe.”
Tại
sao Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói? (Mc 4:10-12; Lc 8, 9-10)
10
Các
môn đệ đến gần hỏi Đức Giê-su rằng: ”Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?” 11
Người đáp: ”Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời,
còn họ thì không. 12 Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa;
còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất. 13 Bởi
thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà
không nghe không hiểu. 14 Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm
của ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố
mắt nhìn cũng chẳng thấy; 15 vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã
bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán
cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.
16 “Còn anh em, mắt anh
em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe. 17 Quả
thế, Thầy bảo thật anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều người công chính đã mong mỏi
thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh em đang nghe, mà
không được nghe.
Giải
nghĩa dụ ngôn người gieo giống (Mc 4:13-20; Lc 8:11-15)
18 “Vậy anh em hãy nghe
dụ ngôn người gieo giống. 19 Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà
không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy: đó là kẻ
đã được gieo bên vệ đường. 20 Còn kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó
là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. 21 Nhưng nó không đâm rễ mà
là kẻ nhất thời: khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay. 22
Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự
đời, và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt, khiến Lời không sinh hoa kết quả gì. 23
Còn kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên
sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba
chục.”
Dụ
ngôn cỏ lùng
24
Đức
Giê-su trình bày cho dân chúng nghe một dụ ngôn khác: ”Nước Trời ví như chuyện
người kia gieo giống tốt trong ruộng mình. 25 Khi mọi người đang
ngủ, thì kẻ thù của ông đến gieo thêm cỏ lùng vào giữa lúa, rồi đi mất. 26
Khi lúa mọc lên và trổ bông, thì cỏ lùng cũng xuất hiện. 27 Đầy
tớ mới đến thưa chủ nhà rằng: ”Thưa ông, không phải ông đã gieo giống tốt trong
ruộng ông sao? Thế thì cỏ lùng ở đâu mà ra vậy?” Ông đáp: ”Kẻ thù đã làm đó!”
Đầy tớ nói: ”Vậy ông có muốn chúng tôi ra đi gom lại không?” 29 Ông
đáp: ”Đừng, sợ rằng khi gom cỏ lùng, các anh làm bật luôn rễ lúa. 30 Cứ
để cả hai cùng lớn lên cho tới mùa gặt. Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy
gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho
tôi.”
Dụ
ngôn hạt cải (Mc 4:30-32; Lc 13:18-19)
31
Đức
Giê-su còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác. Người nói: ”Nước Trời cũng
giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. 32 Tuy
nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là
thứ lớn nhất; nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được.”
Dụ
ngôn men trong bột (Lc 13:20-21)
33
Người
còn kể cho họ một dụ ngôn khác: ”Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia
lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.”
Tại
sao Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói? (Mc 4:33-34)
34
Tất
cả các điều ấy, Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói với đám đông; và Người không nói
gì với họ mà không dùng dụ ngôn, 35 hầu ứng nghiệm lời sấm của ngôn
sứ: Mở miệng ra, tôi sẽ kể dụ ngôn, công bố những điều được giữ kín từ tạo
thiên lập địa.
Giải
nghĩa dụ ngôn cỏ lùng
36
Bấy
giờ, Đức Giê-su bỏ đám đông mà về nhà. Các môn đệ lại gần Người và thưa rằng:
”Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe.” 37 Người
đáp: ”Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. 38 Ruộng là thế gian. Hạt
giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần. 39 Kẻ
thù đã gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên
thần. 40 Vậy, như người ta nhặt cỏ lùng rồi lấy lửa đốt đi thế nào,
thì đến ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy. 41 Con Người sẽ sai các
thiên thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều
gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người, 42 rồi quăng chúng vào lò
lửa; ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng. 43 Bấy giờ người công
chính sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ. Ai có tai thì nghe.
Dụ
ngôn kho báu và ngọc quý
44 “Nước Trời giống như
chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu
lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
45 “Nước Trời lại cũng
giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. 46 Tìm được một
viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.
Dụ
ngôn chiếc lưới
47 “Nước Trời lại còn
giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. 48 Khi
lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu
thì vứt ra ngoài. 49 Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các
thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, 50
rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Kết
thúc
51 “Anh em có hiểu tất
cả những điều ấy không?” Họ đáp: ”Thưa hiểu.” 52 Người bảo họ: ”Bởi
vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ
nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.”
V.
GIÁO HỘI, BƯỚC ĐẦU CỦA NƯỚC TRỜI
1.
PHẦN KÝ THUẬT
Đức
Giê-su về thăm Na-da-rét (Mc 6:1-6; Lc 4:16-30)
53
Khi
Đức Giê-su kể các dụ ngôn ấy xong, Người đi khỏi nơi đó. 54 Người về
quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: ”Bởi
đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? 55 Ông không phải
là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không
phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? 56 Và chị em của ông
không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như
thế?” 57 Và họ vấp ngã vì Người. Nhưng Đức Giê-su bảo họ: ”Ngôn sứ
có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà
thôi.” 58 Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ không tin.
Chương 14
Vua
Hê-rô-đê và Đức Giê-su (Mc 6:14-16; Lc 9:7-9)
1
Thời
ấy, tiểu vương Hê-rô-đê nghe danh tiếng Đức Giê-su, 2 thì nói với
những kẻ hầu cận rằng: ”Đó chính là ông Gio-an Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi
dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ.”
Ông
Gio-an Tẩy Giả bị chém đầu (Mc 6:17-29)
3
Số
là vua Hê-rô-đê đã bắt trói ông Gio-an và tống ngục vì bà Hê-rô-đi-a, vợ ông
Phi-líp-phê, anh của nhà vua. 4 Ông Gio-an có nói với vua: ”Ngài
không được phép lấy bà ấy.” 5 Vua muốn giết ông Gio-an, nhưng lại sợ
dân chúng, vì họ coi ông là ngôn sứ. 6 Vậy, nhân ngày sinh nhật của
vua Hê-rô-đê, con gái bà Hê-rô-đi-a đã biểu diễn một điệu vũ trước mặt quan
khách, làm cho nhà vua vui thích. 7 Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì,
vua cũng ban cho. 8 Nghe lời mẹ xui bảo, cô thưa rằng: ”Xin ngài ban
cho con, ngay tại chỗ, cái đầu ông Gio-an Tẩy Giả đặt trên mâm.” 9 Nhà
vua lấy làm buồn, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên truyền
lệnh ban cho cô. 10 Vua sai người vào ngục chặt đầu ông Gio-an. 11
Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao cho cô, và cô ta đem đến cho
mẹ. 12 Môn đệ ông đến lấy thi hài ông đem đi mai táng, rồi đi báo
cho Đức Giê-su.
Đức
Giê-su hoá bánh ra nhiều lần thứ nhất (Mc 6:30-44; Lc 9:10-17; Ga 6:1-14)
13
Nghe
tin ấy, Đức Giê-su lánh khỏi nơi đó, đi thuyền đến một chỗ hoang vắng riêng
biệt. Nghe biết vậy, đông đảo dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người. 14
Ra khỏi thuyền, Đức Giê-su trông thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh
lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ.
15
Chiều
đến, các môn đệ lại gần thưa với Người: ”Nơi đây hoang vắng, và đã muộn rồi,
vậy xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào các làng mạc mua lấy thức ăn.” 16
Đức Giê-su bảo: ”Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.”
17 Các ông đáp: ”Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai
con cá!” 18 Người bảo: ”Đem lại đây cho Thầy!” 19 Rồi sau
đó, Người truyền cho dân chúng ngồi xuống cỏ. Người cầm lấy năm cái bánh và hai
con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra, trao cho môn đệ. Và
môn đệ trao cho dân chúng. 20 Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu
bánh còn thừa, người ta thu lại được mười hai giỏ đầy. 21 Số người
ăn có tới năm ngàn đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con.
Đức
Giê-su đi trên mặt nước (Mc 6:45-52; Ga 6:16-21)
22
Đức
Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người
giải tán dân chúng. 23 Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà
cầu nguyện. Tối đến Người vẫn ở đó một mình. 24 Còn chiếc thuyền thì
đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. 25 Vào
khoảng canh tư, Người đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. 26 Thấy
Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: ”Ma đấy!”, và sợ hãi la lên.
27 Đức Giê-su liền bảo các ông: ”Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng
sợ!” 28 Ông Phê-rô liền thưa với Người: ”Thưa Ngài, nếu quả là Ngài,
thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” 29 Đức
Giê-su bảo ông: ”Cứ đến!” Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và
đến với Đức Giê-su. 30 Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và khi
bắt đầu chìm, ông la lên: ”Thưa Ngài, xin cứu con với!” 31 Đức
Giê-su liền đưa tay nắm lấy ông và nói: ”Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài
nghi?” 32 Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. 33 Những
kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: ”Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!”
Đức
Giê-su chữa nhiều người đau ốm tại Ghen-nê-xa-rét (Mc 6:53-56)
34
Khi
qua biển rồi, thầy trò lên đất liền, vào Ghen-nê-xa-rét. 35 Dân địa
phương nhận ra Đức Giê-su, liền tung tin ra khắp vùng, và người ta đem tất cả
những kẻ đau ốm đến với Người. 36 Họ nài xin Người cho họ chỉ sờ vào
tua áo của Người thôi, và ai đã sờ vào thì đều được khỏi.
Chương 15
Tranh
luận về truyền thống (Mc 7:1-13)
1
Bấy
giờ có mấy người Pha-ri-sêu và mấy kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến gặp Đức Giê-su
và nói rằng: 2 “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân,
không chịu rửa tay khi dùng bữa?” 3 Người trả lời: ”Còn các ông, tại
sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên
Chúa? 4 Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa
cha mẹ, thì phải bị xử tử. 5 Còn các ông, các ông lại bảo: ”Ai nói
với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho
Chúa rồi, 6 thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa” . Như thế,
các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa. 7 Những
kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông
rằng: 8 “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì
lại xa Ta. 9 Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý
chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.
Cái
gì làm cho con người ra ô uế? (Mc 7:14-23)
10
Sau
đó, Đức Giê-su gọi đám đông lại mà bảo: ”Hãy nghe và hiểu cho rõ: 11 Không
phải cái vào miệng làm cho con người ra ô uế, nhưng cái từ miệng xuất ra, cái
đó mới làm cho con người ra ô uế.”
12
Bấy
giờ các môn đệ đến gần Đức Giê-su mà thưa rằng: ”Thầy có biết không? Những
người Pha-ri-sêu đã vấp phạm khi nghe Thầy nói lời ấy.” 13 Đức
Giê-su đáp: ”Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời, đã không trồng, thì
sẽ bị nhổ đi. 14 Cứ để mặc họ. Họ là những người mù dắt người mù. Mù
mà lại dắt mù, cả hai sẽ lăn cù xuống hố.”
15
Ông
Phê-rô thưa với Người: ”Xin Thầy giải thích dụ ngôn cho chúng con.” 16 Đức
Giê-su đáp: ”Cả anh em nữa, bây giờ mà anh em vẫn còn ngu tối sao? 17 Anh em
không hiểu rằng bất cứ cái gì vào miệng thì xuống bụng, rồi bị thải ra ngoài
sao? 18 Còn những cái gì từ miệng xuất ra, là phát xuất tự lòng, chính những
cái ấy mới làm cho con người ra ô uế. 19 Vì tự lòng phát xuất những
ý định gian tà, những tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm cắp, làm chứng
gian và vu khống. 20 Đó mới là những cái làm cho con người ra ô uế;
còn ăn mà không rửa tay thì không làm cho con người ra ô uế.”
Đức
Giê-su chữa con gái người đàn bà Ca-na-an (Mc 7:24-30)
21
Ra
khỏi đó, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn, 22 thì này có một
người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: ”Lạy Ngài là con vua
Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” 23 Nhưng
Người không đáp lại một lời.
24
Người
đáp: ”Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.” 25
Bà ấy đến bái lạy mà thưa Người rằng: ”Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!” 26
Người đáp: ”Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” 27
Bà ấy nói: ”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những
mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” 28 Bấy giờ Đức Giê-su đáp: ”Này
bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy.” Từ giờ đó, con gái
bà được khỏi.
Đức
Giê-su chữa nhiều bệnh nhân tại ven Biển Hồ Ga-li-lê
29
Đức
Giê-su xuống khỏi miền ấy, đến ven Biển Hồ Ga-li-lê. Người lên núi và ngồi ở đó.
30 Có những đám người đông đảo kéo đến cùng Người, đem theo những kẻ
què quặt, đui mù, tàn tật, câm điếc và nhiều bệnh nhân khác nữa. Họ đặt những
kẻ ấy dưới chân Người và Người chữa lành, 31 khiến đám đông phải
kinh ngạc vì thấy kẻ câm nói được, người tàn tật được lành, người què đi được,
người mù xem thấy. Và họ tôn vinh Thiên Chúa của Ít-ra-en.
Đức
Giê-su hoá bánh ra nhiều lần thứ hai (Mc 8:1-10)
32
Đức
Giê-su gọi các môn đệ lại mà nói: ”Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở
luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì ăn. Thầy không muốn giải tán họ,
để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc đường.” 33 Các môn đệ
thưa: ”Trong nơi hoang vắng này, chúng con lấy đâu ra đủ bánh cho đám đông như
vậy ăn no?” 34 Đức Giê-su hỏi: ”Anh em có mấy chiếc bánh?” Các ông
đáp: ”Thưa có bảy chiếc bánh và một ít cá nhỏ.” 35 Bấy giờ, Người
truyền cho đám đông ngồi xuống đất. 36 Rồi Người cầm lấy bảy chiếc
bánh và mấy con cá, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho
đám đông. 37 Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa,
người ta thu lại được bảy thúng đầy. 38 Số người ăn có tới bốn ngàn
người đàn ông, không kể đàn bà và trẻ con. 39 Sau khi giải tán đám
đông, Đức Giê-su lên thuyền, sang miền Ma-ga-đan.
Chương 16
Người
Do-thái đòi dấu lạ từ trời (Mc 8:11-13; Lc 12:54-56)
1
Bấy
giờ, có những người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc lại gần Đức Giê-su, và
để thử Người, thì xin Người cho thấy một dấu lạ từ trời. 2 Người
đáp: ”Chiều đến, các ông nói: ”Ráng vàng thì nắng”, 3 rồi sớm mai,
các ông nói: ”Ráng trắng thì mưa” . Cảnh sắc bầu trời thì các ông biết cắt
nghĩa, còn thời điềm thì các ông lại không cắt nghĩa nổi. 4 Thế hệ
gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ
nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na.” Rồi Người bỏ họ mà đi.
Men
Pha-ri-sêu và Xa-đốc (Mc 8:14-21)
5
Khi
sang bờ bên kia, các môn đệ quên đem bánh. 6 Đức Giê-su bảo các ông:
”Anh em phải cẩn thận, phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc.” 7 Các
môn đệ nghĩ thầm rằng: ”Tại chúng ta không đem bánh.” 8 Nhưng, biết
thế, Đức Giê-su nói: ”Sao anh em lại nghĩ đến chuyện không có bánh, người đâu mà
kém tin vậy? 9 Anh em chưa hiểu ư? Anh em không nhớ chuyện năm chiếc bánh nuôi
năm ngàn người sao? Và anh em còn thu lại được bao nhiêu giỏ? 10 Rồi chuyện bảy
chiếc bánh nuôi bốn ngàn người nữa? Và anh em còn thu lại được bao nhiêu thúng?
11 Tại sao anh em không hiểu rằng Thầy chẳng có ý nói về bánh, khi Thầy nói:
Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc?” 12 Bấy giờ các ông
mới hiểu là Người không bảo phải coi chừng men bánh, mà phải coi chừng giáo lý
Pha-ri-sêu và Xa-đốc.
Ông
Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa (Mc 8:27-30; Lc 9:18-21)
13
Khi
Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ
rằng: ”Người ta nói Con Người là ai?” 14 Các ông thưa: ”Kẻ thì nói
là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông
Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ.” 15 Đức Giê-su lại hỏi:
”Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” 16 Ông Si-môn Phê-rô thưa:
”Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống.” 17 Đức Giê-su nói
với ông: ”Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không
phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên
trời. 18 Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là
Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần
sẽ không thắng nổi. 19 Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời:
dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất,
anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” 20 Rồi
Người cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô.
Đức
Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất (Mc 8:31-33; Lc 9:22)
21
Từ
lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi
Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư
gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. 22 Ông Phê-rô
liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: ”Xin Thiên Chúa thương đừng để
Thầy gặp phải chuyện ấy!” 23 Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông
Phê-rô: ”Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh
không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
Điều
kiện phải có để theo Đức Giê-su (Mc 8:34- 9:1; Lc 9:23-27)
24
Rồi
Đức Giê-su nói với các môn đệ: ”Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình mà theo. 25 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì
sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. 26
Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có
lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?
27 “Vì Con Người sẽ ngự
đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy
giơ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. 28 Thầy bảo thật
anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước
khi thấy Con Người đến hiển trị.”
Chương 17
Đức
Giê-su hiển dung (Mc 9:2-8; Lc 9:28-36)
1
Sáu
ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông
Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi
cao. 2 Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan
Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. 3
Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. 4
Bấy giờ ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: ”Lạy Ngài, chúng con ở đây,
thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một
cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” 5 Ông còn đang nói, chợt có
đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: ”Đây là
Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” 6
Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. 7 Bấy
giờ Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: ”Chỗi dậy đi, đừng sợ!” 8
Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà
thôi.
Câu
hỏi về ngôn sứ Ê-li-a (Mc 9:9-13)
9
Đang
khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông rằng: ”Đừng nói
cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy.” 10 Các
môn đệ hỏi Người rằng: ”Vậy sao các kinh sư lại nói Ê-li-a phải đến trước?” 11
Người đáp: ”Ông Ê-li-a phải đến để chỉnh đốn mọi sự. 12 Nhưng
Thầy nói cho anh em biết: ông Ê-li-a đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử
với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế.” 13 Bấy
giờ các môn đệ hiểu Người có ý nói về ông Gio-an Tẩy Giả.
Đức
Giê-su chữa đứa trẻ bị kinh phong (Mc 9:14-29; Lc 9:37-43 a)
14
Khi
thầy trò đến với đám đông, thì có một người tới quỳ xuống trước mặt Đức Giê-su
15 và nói: ”Thưa Ngài, xin thương xót con trai tôi, vì cháu bị kinh phong và
bệnh tình nặng lắm: nhiều lần ngã vào lửa, và cũng nhiều lần ngã xuống nước. 16
Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài chữa, nhưng các ông không chữa
được.” 17 Đức Giê-su đáp: ”Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và
gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các
người cho đến bao giờ nữa? Đem cháu lại đây cho tôi.” 18 Đức Giê-su
quát mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi ngay từ giờ đó.
19
Bấy
giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giê-su rằng: ”Tại sao chúng con đây lại
không trừ nổi tên quỷ ấy?” 20 Người nói với các ông: ”Tại anh em kém
tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù
anh em có bảo núi này: ”rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng
có gì mà anh em không làm được. (21 Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta
không ăn chay cầu nguyện).”
Đức
Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ hai (Mc 9:30-32; Lc 9:43 b-45)
22
Khi
thầy trò tụ họp ở miền Ga-li-lê, Đức Giê-su nói với các ông: ”Con Người sắp bị
nộp vào tay người đời, 23 họ sẽ giết chết Người, và ngày thứ ba
Người sẽ trỗi dậy.” Các môn đệ buồn phiền lắm.
Đức
Giê-su và ông Phê-rô nộp thuế
24
Khi
thầy trò tới Ca-phác-na-um, thì những người thu thuế cho đền thờ đến hỏi ông
Phê-rô: ”Thầy các ông không nộp thuế sao?” 25 Ông đáp: ”Có chứ!” Ông
về tới nhà, Đức Giê-su hỏi đón ông: ”Anh Si-môn, anh nghĩ sao? Vua chúa trần
gian bắt ai đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài?” 26 Ông
Phê-rô đáp: ”Thưa, người ngoài.” Đức Giê-su liền bảo: ”Vậy thì con cái được
miễn. 27 Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh ra biển thả câu; con cá
nào câu được trước hết, thì bắt lấy, mở miệng nó ra: anh sẽ thấy một đồng tiền
bốn quan; anh lấy đồng tiền ấy, nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của
anh.”
Chương 18
2.
BÀI GIẢNG VỀ GIÁO HỘI
Ai
là người lớn nhất trong Nước Trời? (Mc 9:33-37; Lc 9:46-48)
1
Lúc
ấy, các môn đệ lại gần hỏi Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, ai là người lớn nhất
trong Nước Trời?” 2 Đức Giê-su liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa
các ông 3 và bảo: ”Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như
trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
4 “Vậy ai tự hạ, coi
mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.
Đừng
làm cớ cho người ta sa ngã (Mc 9:42-48; Lc 17:1-2)
5 “Còn ai tiếp đón một
em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. 6 Nhưng ai
làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà
treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn. 7 Khốn
cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã. Tất nhiên phải có những cớ gây sa
ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã.
8 “Nếu tay hoặc chân
anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được
vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. 9
Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà
được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục.
10 “Anh em hãy coi
chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh
em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha
Thầy, Đấng ngự trên trời. 11 Vì Con Người đến để cứu cái gì đã hư
mất).
Con
chiên lạc (Lc 15:4-7)
12 “Anh em nghĩ sao? Ai
có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia
trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? 13 Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo
thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con
không bị lạc. 14 Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không
muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.
Sửa
lỗi anh em
15 “Nếu người anh em của
anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu
nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em. 16 Còn
nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công
việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. 17 Nếu
nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng
nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế.
18 “Thầy bảo thật anh
em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy;
dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.
Hiệp
lời cầu nguyện
19 “Thầy còn bảo thật anh
em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì
Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. 20 Vì ở đâu có hai ba
người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”
Anh
em tha thứ cho nhau (Lc 17:3b-4)
21
Bấy
giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: ”Thưa Thầy, nếu anh em con cứ
xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” 22
Đức Giê-su đáp: ”Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần
bảy.”
Dụ
ngôn tên mắc nợ không biết thương xót
23
Vì
thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của
mình thanh toán sổ sách. 24 Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta
dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. 25 Y không có gì để
trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. 26 Bấy
giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: ”Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại
cho tôi, tôi sẽ lo trả hết.” 27 Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh
lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. 28 Nhưng vừa ra đến ngoài,
tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm
lấy, bóp cổ mà bảo: ”Trả nợ cho tao!” 29 Bấy giờ, người đồng bạn sấp
mình xuống năn nỉ: ”Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả
anh.” 30 Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả
xong nợ. 31 Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn
lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. 32 Bấy giờ,
tôn chủ cho đòi y đến và bảo: ”Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy
cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, 33 thì đến lượt ngươi, ngươi
không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” 34 Rồi
tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ
cho ông. 35 Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh
em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.”
Chương 19
VI.
NƯỚC TRỜI: TRIỀU ĐẠI THIÊN CHÚA ĐÃ ĐẾN GẦN
1.
PHẦN KÝ THUẬT
Câu
hỏi về việc ly dị (Mc 10:1-12)
1
Khi
Đức Giê-su giảng dạy những điều ấy xong, Người rời khỏi miền Ga-li-lê và đi đến
miền Giu-đê, bên kia sông Gio-đan. 2 Dân chúng lũ lượt đi theo
Người, và Người đã chữa họ ở đó. 3 Có mấy người Pha-ri-sêu đến gần
Đức Giê-su để thử Người. Họ nói: ”Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ
lý do nào không?” 4 Người đáp: ”Các ông không đọc thấy điều này sao:
”Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ”, 5 và
Người đã phán: ”Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai
sẽ thành một xương một thịt.” 6 Như vậy, họ không còn là hai, nhưng
chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không
được phân ly.” 7 Họ thưa với Người: ”Thế sao ông Mô-sê lại truyền
dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ?” 8 Người bảo họ: ”Vì các ông lòng chai
dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế
đâu. 9 Tôi nói cho các ông biết: Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất
hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình.”
Tự
nguyện sống khiết tịnh
10
Các
môn đệ thưa Người: ”Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy
vợ còn hơn.” 11 Nhưng Người nói với các ông: ”Không phải ai cũng
hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu. 12
Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không
có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn; lại có những
người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu.”
Đức
Giê-su và trẻ em (Mc 10:13-16; Lc 18:15-17)
13
Bấy
giờ người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng và cầu
nguyện. Các môn đệ la rầy chúng. 14 Nhưng Đức Giê-su nói: ”Cứ để trẻ
em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời là của những ai giống như
chúng.” 15 Người đặt tay trên chúng, rồi đi khỏi nơi đó.
Người
thanh niên có nhiều của cải (Mc 10, 17-22; Lc 18:18-23)
16
Bấy
giờ có một người đến thưa Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt
để được hưởng sự sống đời đời?” 17 Đức Giê-su đáp: ”Sao anh hỏi tôi
về điều tốt? Chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi. Nếu anh muốn vào cõi sống, thì
hãy giữ các điều răn.” 18 Người ấy hỏi: ”Điều răn nào?” Đức Giê-su
đáp: ”Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không
được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian. 19 Ngươi phải thờ
cha kính mẹ”, và “Ngươi phải yêu đồng loại như yêu chính mình.” 20 Người
thanh niên ấy nói: ”Tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ, tôi còn thiếu điều
gì nữa không?” 21 Đức Giê-su đáp: ”Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì
hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng
trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” 22 Nghe lời đó, người thanh niên
buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
Người
giàu có khó vào Nước Trời (Mc 10:23-27; Lc 18:24-27)
23
Bấy
giờ Đức Giê-su nói với các môn đệ của Người: ”Thầy bảo thật anh em, người giàu
có khó vào Nước Trời. 24 Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà
chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 25 Nghe
nói vậy, các môn đệ vô cùng sửng sốt và nói: ”Thế thì ai có thể được cứu?” 26
Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông và nói: ”Đối với loài người thì điều đó
không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.”
Phần
thưởng dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Đức Giê-su (Mc 10:28-31; Lc 18:28-30)
27
Bấy
giờ ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: ”Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ
mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” 28 Đức Giê-su đáp:
”Thầy bảo thật anh em: anh em là những người đã theo Thầy, thì đến thời tái
sinh, khi Con Người ngự toà vinh hiển, anh em cũng sẽ được ngự trên mười hai
toà mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en. 29 Và phàm ai bỏ nhà cửa,
anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp
bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp.
30 “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ
phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.”
Chương 20
Dụ
ngôn thợ làm vườn nho
1 “Nước Trời giống như
chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho
của mình. 2 Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền,
ông sai họ vào vườn nho làm việc. 3 Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở
ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. 4 Ông
cũng bảo họ: ”Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp
lẽ công bằng.” 5 Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín,
ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. 6 Khoảng giờ mười một, ông trở
ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: ”Sao các anh đứng
đây suốt ngày không làm gì hết?” 7 Họ đáp: ”Vì không ai mướn chúng
tôi.” Ông bảo họ: ”Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!” 8 Chiều
đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: ”Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ,
bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.” 9
Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi
người một quan tiền. 10 Khi đến lượt những người vào làm trước nhất,
họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một
quan tiền. 11 Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: 12 “Mấy
người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với
chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng
nôi thiêu đốt.” 13 Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: ”Này
bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một
quan tiền sao? 14 Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người
vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. 15 Chẳng lẽ tôi lại
không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt
bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?” 16 Thế là những kẻ đứng chót sẽ được
lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. (Vì kẻ được gọi
thì nhiều, mà người được chọn thì ít. )
Đức
Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ ba (Mc 10:32-34; Lc 18:31-34)
17
Lúc
sắp lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đưa Nhóm Mười Hai đi riêng với mình, và dọc
đường, Người nói với các ông: 18 “Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem, và
Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ kết án xử tử Người, 19
sẽ nộp Người cho dân ngoại nhạo báng, đánh đòn và đóng đinh vào thập giá
và, ngày thứ ba, Người sẽ trỗi dậy.”
Bà
mẹ của hai người con ông Dê-bê-đê (Mc 10:35-40)
20
Bấy
giờ bà mẹ của các con ông Dê-bê-đê đến gặp Đức Giê-su, có các con bà đi theo;
bà bái lạy và kêu xin Người một điều. 21 Người hỏi bà: ”Bà muốn gì?”
Bà thưa: ”Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một
người bên tả Thầy trong Nước Thầy.” 22 Đức Giê-su bảo: ”Các người
không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không?”
Họ đáp: ”Thưa uống nổi.” 23 Đức Giê-su bảo: ”Chén của Thầy, các người
sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho,
nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được.”
Ai
làm lớn phải phục vụ (Mc 10:40-45)
24
Nghe
vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó. 25 Nhưng Đức Giê-su
gọi các ông lại và nói: ”Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị
dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. 26 Giữa anh
em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục
vụ anh em. 27 Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. 28
Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để
phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.”
Đức
Giê-su chữa hai người mù tại Giê-ri-khô (Mc 10:46-52; Lc 18:35-43)
29
Khi
Đức Giê-su và môn đệ ra khỏi thành Giê-ri-khô, dân chúng lũ lượt đi theo Người.
30 Và kìa có hai người mù ngồi ở vệ đường, vừa nghe Đức Giê-su đi
ngang qua đó, liền kêu lên rằng: ”Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng
thương chúng tôi!” 31 Đám đông quát nạt, bảo họ im đi, nhưng họ càng
kêu lớn hơn nữa: ”Lạy Ngài, lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương chúng tôi!” 32
Đức Giê-su dừng lại, gọi họ đến và nói: ”Các anh muốn tôi làm gì cho các
anh?” 33 Họ thưa: ”Lạy Ngài, xin cho mắt chúng tôi được mở ra!” 34
Đức Giê-su chạnh lòng thương, sờ vào mắt họ; tức khắc, họ nhìn thấy được
và đi theo Người.
Chương 21
Đức
Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a (Mc 11:1-11; Lc 19:28-38;
Ga 12:12-16)
1
Khi
thầy trò đến gần thành Giê-ru-sa-lem và tới làng Bết-pha-ghê, phía núi Ô-liu,
Đức Giê-su sai hai môn đệ và 2 bảo: ”Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ
thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi
dây ra và dắt về cho Thầy. 3 Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả
lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay.” 4 Sự việc đó xảy
ra như thế để ứng nghiệm lời ngôn sứ: 5 “Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa
Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con,
là con của một con vật chở đồ.
6
Các
môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giê-su đã truyền. 7 Các ông dắt lừa
mẹ và lừa con về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Đức Giê-su cỡi
lên. 8 Một đám người rất đông cũng lấy áo choàng trải xuống mặt
đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi. 9 Dân
chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: Hoan hô Con vua Đa-vít!
Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời.
10
Khi
Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: ”Ông này
là ai vậy?” 11 Dân chúng trả lời: ”Ngôn sứ Giê-su, người Na-da-rét,
xứ Ga-li-lê đấy.”
Đức
Giê-su đuổi những người đang mua bán trong Đền Thờ (Mc 11:15-19; Lc 19:45-48;
Ga 2:13-22)
12
Đức
Giê-su vào Đền Thờ, đuổi tất cả những người đang mua bán trong Đền Thờ, lật bàn
của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ bán bồ câu. 13 Rồi
Người bảo họ: ”Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện, thế
mà các ngươi lại biến thành sào huyệt của bọn cướp.” 14 Có những kẻ
mù loà, què quặt đến với Người trong Đền Thờ, và Người đã chữa họ lành. 15
Nhưng các thượng tế và kinh sư thấy những việc lạ lùng Người đã làm và
thấy lũ trẻ reo hò trong Đền Thờ: ”Hoan hô Con vua Đa-vít!”, thì tức tối 16 và
nói với Người rằng: ”Ông có nghe chúng nói gì không?” Đức Giê-su đáp: ”Có;
nhưng còn lời này, các ông chưa bao giờ đọc sao: Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ
nhỏ cất tiếng ngợi khen?” 17 Rồi Người bỏ họ mà ra khỏi thành, đến
Bê-ta-ni-a và qua đêm tại đó.
Cây
vả không ra trái (Mc 11:12-14, 20-24)
18
Sáng
sớm, khi trở vào thành, Người cảm thấy đói. 19 Trông thấy cây vả ở
bên đường, Người lại gần nhưng không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi. Nên
Người nói: ”Từ nay, không bao giờ mày có trái nữa!” Cây vả chết khô ngay lập
tức. 20 Thấy vậy, các môn đệ ngạc nhiên nói: ”Sao cây vả lại chết
khô ngay lập tức như thế?” 21 Đức Giê-su trả lời: ”Thầy bảo thật anh
em, nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều
Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: ”Dời chỗ đi, nhào
xuống biển!”, thì sự việc sẽ xảy ra như thế. 22 Tất cả những gì anh
em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được.”
Câu
hỏi về quyền bính của Đức Giê-su (Mc 11:27-33; Lc 20:1-8)
23
Đức
Giê-su vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong
dân đến gần Người và hỏi: ”Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông
quyền ấy?” 24 Đức Giê-su đáp: ”Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông một
điều thôi; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông
biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. 25 Vậy, phép rửa của ông
Gio-an do đâu mà có? Do Trời hay do người ta?” Họ mới nghĩ thầm: ”Nếu mình nói:
”Do Trời”, thì ông ấy sẽ vặn lại: ”Thế sao các ông lại không tin ông ấy?” 26
Còn nếu mình nói: ”Do người ta”, thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho
ông Gio-an là một ngôn sứ.” 27 Họ mới trả lời Đức Giê-su: ”Chúng tôi
không biết.” Người cũng nói với họ: ”Tôi cũng vậy, tôi không nói cho các ông là
tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy.”
Dụ
ngôn hai người con
28
Các
ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất:
”Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.” 29 Nó đáp: ”Con không
muốn đâu!” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. 30 Ông đến gặp
người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: ”Thưa ngài, con đây!” nhưng rồi lại
không đi. 31 Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người
cha?” Họ trả lời: ”Người thứ nhất.” Đức Giê-su nói với họ: ”Tôi bảo thật các
ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các
ông. 32 Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà
các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại
tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin
ông ấy.”
Dụ
ngôn những tá điền sát nhân (Mc 12:1-12; Lc 20:9-19)
33
Các
ông hãy nghe một dụ ngôn khác: ”Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung
quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp
canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. 34 Gần đến mùa hái
nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. 35 Bọn tá
điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ.
36 Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền
cũng xử với họ y như vậy. 37 Sau cùng, ông sai chính con trai mình
đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: ”Chúng sẽ nể con ta.” 38 Nhưng bọn tá
điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: ”Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách
nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” 39 Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng
ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. 40 Vậy xin hỏi: Khi ông chủ vườn
nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” 41 Họ đáp: ”Ác giả ác báo,
ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ
đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông.” 42 Đức Giê-su bảo họ: ”Các ông
chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại
trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu
trước mắt chúng ta.
43
Bởi
đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho
các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi. 44 Ai
ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát
thịt).”
45
Nghe
những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pha-ri-sêu hiểu là Người nói về
họ. 46 Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng
cho Người là một ngôn sứ.
Chương 22
Dụ
ngôn tiệc cưới (Lc 14:15-24)
1
Đức
Giê-su lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: 2 “Nước Trời cũng giống
như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. 3 Nhà vua sai đầy
tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ
không chịu đến. 4 Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ:
”Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và
thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!” 5 Nhưng
quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi
buôn, 6 còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và
giết chết. 7 Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn
sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng. 8 Rồi nhà vua bảo đầy
tớ: ”Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. 9
Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.” 10
Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp
cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
11 “Bấy giờ nhà vua tiến
vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, 12
mới hỏi người ấy: ”Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ
cưới?” Người ấy câm miệng không nói được gì. 13 Nhà vua liền bảo
những người phục dịch: ”Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên
ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! 14 Vì kẻ được gọi thì nhiều,
mà người được chọn thì ít.”
Nộp
thuế cho Xê-da (Mc 12:13-17; Lc 20:20-26)
15
Bấy
giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giê-su
phải lỡ lời mà mắc bẫy.
16
Họ
sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hê-rô-đê, đến nói với Đức
Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật
mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề
ngoài mà đánh giá người ta. 17 Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được
phép nộp thuế cho Xê-da hay không?”
18
Nhưng
Đức Giê-su biết họ có ác ý, nên Người nói: ”Tại sao các người lại thử tôi, hỡi
những kẻ giả hình! 19 Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!” Họ liền đưa cho Người
một quan tiền. 20 Người hỏi họ: ”Hình và danh hiệu này là của ai
đây?” 21 Họ đáp: ”Của Xê-da.” Bấy giờ, Người bảo họ: ”Thế thì của Xê-da,
trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” 22 Nghe vậy, họ
ngạc nhiên và để Người lại đó mà đi.
Kẻ
chết sống lại (Mc 12:18-27; Lc 20:27-40)
23
Hôm
đó, có những người thuộc nhóm Xa-đốc, đen gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương
không có sự sống lại. Họ hỏi Người: 24 “Thưa Thầy, ông Mô-sê có nói:
Nếu ai chết mà không có con, thì anh hay em của người ấy phải cưới lấy người vợ
goá, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. 25 Mà, trong chúng
tôi, nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, rồi chết, và vì không có
con nối dòng, nên để vợ lại cho em. 26 Người thứ hai, rồi người thứ
ba, cho đến hết bảy người, người nào cũng vậy. 27 Sau hết, người đàn
bà ấy cũng chết. 28 Vậy, trong ngày sống lại, bà ấy sẽ là vợ ai
trong số bảy người, vì tất cả đều đã lấy bà?” 29 Đức Giê-su trả lời
họ: ”Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên
Chúa. 30 Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy
chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. 31 Còn về vấn đề
kẻ chết sống lại, thì các ông không đọc lời Thiên Chúa đã phán cùng các ông
sao? 32 Người phán: Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác và
Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là
của kẻ sống.” 33 Dân chúng kinh ngạc khi nghe lời Người dạy.
Điều
răn trọng nhất (Mc 12:28-34; Lc 10:25-28)
34
Khi
nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người
Pha-ri-sêu họp nhau lại. -35 Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giê-su
để thử Người rằng: 36 “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn
nào là điều răn trọng nhất?” 37 Đức Giê-su đáp: ”Ngươi phải yêu mến
Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. 38
Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. 39 Còn
điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như
chính mình. 40 Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc
vào hai điều răn ấy.”
Đức
Ki-tô là Con và cũng là Chúa của vua Đa-vít (Mc 12:35-37; Lc 20:41-44)
41
Những
người Pha-ri-sêu đang tụ tập thì Đức Giê-su hỏi họ42 rằng: ”Các ông nghĩ sao về
Đấng Ki-tô? Người là con của ai?” Họ thưa: ”Con của vua Đa-vít.” 43 Người
hỏi: ”Vậy tại sao vua Đa-vít, được Thần Khí soi sáng, lại gọi Người là Chúa
Thượng, khi nói rằng: 44 Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu
Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con?
45 “Vậy nếu vua Đa-vít
gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng, thì làm sao Đấng Ki-tô lại là con vua ấy được?” 46
Không ai đáp lại Người được một tiếng. Và từ ngày ấy, chẳng ai còn dám
chất vấn Người nữa.
Chương 23
Các
kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình (Mc 12:38-40; Lc 11:43-46; 20:45-47)
1
Bấy
giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: 2 “Các
kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. 3 Vậy,
tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì
đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. 4 Họ bó những gánh nặng mà
chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. 5
Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh
thật lớn, mang những tua áo thật dài. 6 Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám
tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, 7 ưa được người ta chào
hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi” .
8 “Phần anh em, thì
đừng để ai gọi mình là “ráp-bi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em
đều là anh em với nhau. 9 Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là
cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. 10 Anh em
cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo,
là Đức Ki-tô. 11 Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người
phục vụ anh em. 12 Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình
xuống, sẽ được tôn lên.
Đức
Giê-su khiển trách các kinh sư và người Pha-ri-sêu (Mc 12:40; Lc 11:39-48; 20:47)
13 “Khốn cho các người,
hỡi các kinh sư và ngươi Pha-ri-sêu giả hình! Các người khoá cửa Nước Trời
không cho thiên hạ vào! Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người
cũng không để họ vào. (14 Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người
Pha-ri-sêu giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ
đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn).
15 “Khốn cho các người,
hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất
liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại
làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người.
16 “Khốn cho các người,
những kẻ dẫn đường mù quáng! Các người bảo: ”Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề
cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc.” 17
Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của
thánh, cái nào trọng hơn? 18 Các người còn nói: ”Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có
thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc.”
19 Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên
của thánh, cái nào trọng hơn? 20 Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và
mọi sự trên bàn thờ mà thề. 21 Và ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền
Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. 22 Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai
Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.
23 “Khốn cho các người,
hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về
bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là
công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia
thì không được bỏ. 24 Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con
muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.
25 “Khốn cho các người,
hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén
đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. 26 Hỡi
người Pha-ri-sêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để
bên ngoài cũng được sạch.
27 “Khốn cho các người,
hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi,
bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô
uế. 28 Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt
thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!
29 “Khốn cho các người,
hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người xây mồ cho các ngôn sứ
và tô mả cho những người công chính. 30 Các người nói: ”Nếu như
chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các
ngài mà đổ máu các ngôn sứ.” 31 Như vậy, các người tự làm chứng rằng
các người đúng là con cháu của những kẻ đã giết các ngôn sứ. 32 Thì
các người đổ thêm cho đầy đấu tội của tổ tiên các người đi!
Tội
ác và hình phạt (Lc 11:49-51)
33 “Đồ mãng xà, nòi rắn
độc kia! Các người trốn đâu cho khỏi hình phạt hoả ngục? 34 Vì thế, này tôi sai
ngôn sứ, hiền nhân và kinh sư đến cùng các người: các người sẽ giết và đóng
đinh người này vào thập giá, đánh đòn người kia trong hội đường và lùng bắt họ
từ thành này đến thành khác. 35 Như vậy, máu của tất cả những người
công chính đã đổ xuống đất, thì cũng đổ xuống đầu các người, từ máu ông A-ben,
người công chính, đến máu ông Da-ca-ri-a, con ông Be-réc-gia, mà các người đã
giết giữa đền thánh và bàn thờ. 36 Tôi bảo thật các người: tất cả
những tội ấy sẽ đổ xuống đầu thế hệ này.
Đức
Giê-su thương tiếc thành Giê-ru-sa-lem (Lc 13:34-35)
37 “Giê-ru-sa-lem,
Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng
ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con
dưới cánh, mà các ngươi không chịu. 38 Thì này, nhà các ngươi sẽ bị
bỏ hoang mặc cho các ngươi. 39 Thật vậy, Ta nói cho các ngươi hay,
từ nay các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa, cho đến khi các ngươi nói: Chúc tụng
Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!”
Chương 24
2.
BÀI GIẢNG VỀ THỜI CÁNH CHUNG
Nhập
đề (Mc 13:1-4; Lc 21:5-7)
1
Khi
Đức Giê-su từ trong Đền Thờ đi ra, thì các môn đệ của Người lại gần chỉ cho
Người xem công trình kiến trúc Đền Thờ. 2 Nhưng Người nói: ”Anh em
nhìn thấy tất cả những cái đó, phải không? Thầy bảo thật anh em: tại đây, sẽ
không còn tảng đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ.” 3 Sau
đó, lúc Người ngồi trên núi Ô-liu, các môn đệ tới gặp riêng Người và thưa: ”Xin
Thầy nói cho chúng con biết khi nào những sự việc ấy xảy ra, và cứ điềm nào mà
biết ngày Thầy quang lâm và ngày tận thế?”
Những
cơn đau đớn khởi đầu (Mc 13:5-13; Lc 21:8-19)
4
Đức
Giê-su đáp: ”Anh em hãy coi chừng, đừng để ai lừa gạt anh em, 5 vì
sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: ”Chính Ta đây là Đấng Ki-tô”, và họ
sẽ lừa gạt được nhiều người. 6 Anh em sẽ nghe có giặc giã và tin đồn
giặc giã; coi chừng, đừng khiếp sợ, vì những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa
phải là tận cùng. 7 Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước
này chống nước nọ. Sẽ có những cơn đói kém, và những trận động đất ở nhiều nơi.
8 Nhưng tất cả những sự việc ấy chỉ là khởi đầu các cơn đau đớn.
9 “Bấy giờ, người ta sẽ
nộp anh em, khiến anh em phải khốn quẫn, va người ta sẽ giết anh em; anh em sẽ
bị mọi dân tộc thù ghét vì danh Thầy. 10 Bấy giờ sẽ có nhiều người
vấp ngã. Người ta sẽ nộp nhau và thù ghét nhau. 11 Sẽ có nhiều ngôn
sứ giả xuất hiện và lừa gạt được nhiều người. 12 Vì tội ác gia tăng,
nên lòng yêu mến của nhiều người sẽ nguội đi. 13 Nhưng kẻ nào bền
chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
14 “Tin Mừng này về
Vương Quốc sẽ được loan báo trên khắp thế giới, để làm chứng cho mọi dân tộc
được biết. Và bấy giờ sẽ là tận cùng.”
Cơn
gian nan khốn khổ tại Giê-ru-sa-lem (Mc 13:14-23; Lc 21:20-24)
15 “Vậy, khi anh em thấy
đặt trong nơi thánh Đồ Ghê Tởm Khốc Hại mà ngôn sứ Đa-ni-en đã nói đến người
đọc hay lo mà hiểu! 16 thì bấy giờ ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi, 17 ai
ở trên sân thượng thì đừng xuống lấy đồ đạc trong nhà, 18 ai ở ngoài
đồng, đừng trở lại phía sau lấy áo choàng của mình. 19 Khốn cho
những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó! 20
Anh em hãy cầu xin cho khỏi phải chạy trốn vào mùa đông hay ngày sa-bát. 21
Vì khi ấy sẽ có cơn gian nan khốn khổ đến mức từ thuở khai thiên lập địa
cho đến bây giờ chưa khi nào xảy ra, và sẽ không bao giờ xảy ra như vậy nữa. 22
ếu những ngày ấy không được rút ngắn lại, thì không ai được cứu thoát;
nhưng, vì những người được tuyển chọn, các ngày ấy sẽ được rút ngắn
23 “Bấy giờ, nếu có ai
bảo anh em: ”Này, Đấng Ki-tô ở đây” hoặc”ở đó”, thì anh em đừng tin. 24 Thật
vậy, sẽ có những Ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, đưa ra những dấu lạ lớn
lao và những điềm thiêng, đến nỗi chúng lừa gạt cả những người đã được tuyển
chọn, nếu có thể. 25 Thầy báo trước cho anh em đấy!
Cuộc
quang lâm của Con Người (Lc 17:23-24)
26 “Vậy, nếu người ta
bảo anh em: ”Này, Người ở trong hoang địa”, anh em chớ ra đó;”Kìa, Người ở
trong phòng kín”, anh em cũng đừng tin. 27 Vì, như chớp loé ra từ
phương đông và chiếu sáng đến phương tây thế nào, thì cuộc quang lâm của Con
Người cũng sẽ như vậy. 28 Xác chết nằm đâu, diều hâu tụ đó.
Hiện
tượng của ngày Quang Lâm (Mc 13:24-27; Lc 21:25-28)
29 “Ngay sau những ngày
gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các
ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyển. 30 Bấy
giờ, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên trời; bấy giờ mọi chi tộc trên
mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời
mà đến. 31 Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy,
tập hợp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này đến chân
trời kia.
Thí
dụ cây vả (Mc 13:28-32; Lc 21:29-33)
32 “Anh em cứ lấy thí dụ
cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết
là mùa hè đã đến gần. 33 Cũng vậy, khi thấy tất cả những điều đó,
anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. 34 Thầy
bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. 35
Trời đat sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. 36 Còn
về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả
người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi.
Phải
canh thức và sẵn sàng (Mc 13:32-37; Lc 17:26-30, 35-36)
37 “Quả thế, thời ông
Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. 38 Vì
trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng,
mãi cho đen ngày ông Nô-ê vào tàu. 39 Họ không hay biết gì, cho đến
khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như
vậy. 40 Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người
được đem đi, một người bị bỏ lại; 41 hai người đàn bà đang kéo cối
xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại.
42 “Vậy anh em hãy canh
thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. 43 Anh em
hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã
thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. 44 Cho nên anh em cũng
vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ
đến.
Dụ
ngôn người đầy tớ trung tín (Lc 12:42-46)
45 “Vậy thì ai là người
đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà ông chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cấp phát
lương thực cho họ đúng giờ đúng lúc? 46 Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy
anh ta đang làm như vậy. 47 Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta
lên coi sóc tất cả tài sản của mình. 48 Nhưng nếu tên đầy tớ xấu xa
ấy nghĩ bụng: ”Còn lâu chủ ta mới về”, 49 thế rồi hắn bắt đầu đánh
đập các đồng bạn, và chè chén với những bọn say sưa, 50 chủ của tên
đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không chờ, vào giờ hắn không biết, 51 và
ông sẽ loại hắn ra, bắt chung số phận với những tên giả hình: ở đó, người ta sẽ
phải khóc lóc nghiến răng.”
Chương 25
Dụ
ngôn mười trinh nữ
1 “Bấy giờ, Nước Trời
sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. 2 Trong
mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. 3 Quả vậy, các cô dại
mang đèn mà không mang dầu theo. 4 Còn những cô khôn thì vừa mang
đèn vừa mang chai dầu theo. 5 Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp
đi, rồi ngủ cả. 6 Nửa đêm, có tiếng la lên: ”Chú rể kia rồi, ra đón
đi!” 7 Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn.
8 Các cô dại nói với các cô khôn rằng: ”Xin các chị cho chúng em
chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” 9 Các cô khôn đáp: ”Sợ
không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn.” 10
Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi
theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. 11 Sau
cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: ”Thưa Ngài, thưa Ngài! mở cửa cho chúng
tôi với!” 12 Nhưng Người đáp: ”Tôi bảo thật các cô, tôi không biết
các cô là ai cả!” 13 Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết
ngày nào, giờ nào.
Dụ
ngôn những yến bạc (Lc 19:12-27)
14 “Quả thế, cũng như có
người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. 15
Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ
khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, 16 người đã lãnh
năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. 17
Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. 18 Còn
người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. 19 Sau
một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách
với họ. 20 Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và
nói: ”Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến
khác đây.” 21 Ông chủ nói với người ấy: ”Khá lắm! hỡi đầy tớ tài
giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều
cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” 22 Người đã lãnh
hai yến cũng tiến lại gần và nói: ”Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến,
tôi đã gây lời được hai yến khác đây.” 23 Ông chủ nói với người ấy:
”Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung
thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” 24
Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: ”Thưa ông chủ, tôi
biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. 25 Vì
thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông
cầm lấy!” 26 Ông chủ đáp: ”Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã
biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, 27 thì đáng lý anh
phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn
lời chứ! 28 Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có
mười yến. 29 Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa;
còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. 30 Còn tên
đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc
lóc nghiến răng.”
Cuộc
Phán Xét chung
31 “Khi Con Người đến trong
vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên
ngai vinh hiển của Người. 32 Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước
mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê.
33 Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. 34
Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: ”Nào những kẻ
Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ
thuở tạo thiên lập địa. 35 Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta
khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; 36 Ta
trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi
tù, các ngươi đến hỏi han.” 37 Bấy giờ những người công chính sẽ
thưa rằng: ”Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà
cho uống; 38 có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc
trần truồng mà cho mặc? 39 Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi
tù, mà đến hỏi han đâu?” 40 Đức Vua sẽ đáp lại rằng: ”Ta bảo thật
các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất
của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” 41 Rồi Đức Vua sẽ
phán cùng những người ở bên trái rằng: ”Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất
mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. 42
Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho
uống; 43 Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần
truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng
thăm viếng.” 44 Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: ”Lạy Chúa,
có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần
truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?” 45 Bấy giờ
Người sẽ đáp lại họ rằng: ”Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm
như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm
cho chính Ta vậy.” 46 Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp,
còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời.”
Chương 26
VII.
THƯƠNG KHÓ VÀ PHỤC SINH
Âm
mưu hại Đức Giê-su (Mc 14:1-2; Lc 22:1-2; Ga 11:45-53)
1
Khi
Đức Giê-su giảng dạy tất cả những điều ấy xong, Người bảo các môn đệ của Người
rằng: 2 “Anh em biết còn hai ngày nữa là đến lễ Vượt Qua, và Con
Người sắp bị nộp để chịu đóng đinh vào thập giá.”
3
Lúc
ấy, các thượng tế và kỳ mục trong dân nhóm họp tại dinh của vị thượng tế tên là
Cai-pha, 4 và cùng nhau quyết định dùng mưu bắt Đức Giê-su và giết
đi. 5 Nhưng họ lại nói: ”Không nên làm vào chính ngày lễ, kẻo gây náo
động trong dân.”
Đức
Giê-su được xức dầu thơm tại Bê-ta-ni-a (Mc 14:3-9; Ga 12:1-8)
6
Đức
Giê-su đang ở làng Bê-ta-ni-a tại nhà ông Si-mon Cùi, 7 thì có một
người phụ nữ đến gần Người, mang theo một bình bạch ngọc, đựng một thứ dầu thơm
đắt giá. Cô đổ dầu thơm trên đầu Người, lúc Người đang dùng bữa. 8 Thấy
vậy, các môn đệ lấy làm bực tức nói: ”Sao lại phí của như thế? 9 Dầu đó có thể
bán được nhiều tiền mà cho người nghèo.” 10 Biết thế, Đức Giê-su bảo
các ông: ”Sao lại muốn gây chuyện với người phụ nữ này? Quả thật, cô ấy vừa làm
cho Thầy một việc nghĩa. 11 Người nghèo thì lúc nào anh em cũng có
với anh em; còn Thầy, thì không phải lúc nào anh em cũng có đâu! 12 Cô ấy đổ
dầu thơm trên mình Thầy là hướng về ngày mai táng Thầy. 13 Thầy bảo
thật anh em: Tin Mừng này được loan báo bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ, thì
người ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô.”
Giu-đa
nộp Đức Giê-su (Mc 14:10-11; Lc 22:3-6)
14
Bấy
giờ, một người trong Nhóm Mười Hai tên là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, đi gặp các thượng
tế 15 mà nói: ”Tôi nộp ông ấy cho quý vị, thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu.”
Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. 16 Từ lúc đó, hắn cố tìm dịp
thuận tiện để nộp Đức Giê-su.
Chuẩn
bị ăn lễ Vượt Qua (Mc 14:12-16; Lc 22:7-13)
17
Ngày
thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giê-su: ”Thầy
muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?” 18 Người bảo:
”Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia và nói với ông ấy: ”Thầy nhắn:
thời của Thầy đã gần tới, Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ Vượt Qua với các
môn đệ của Thầy.” 19 Các môn đệ làm y như Đức Giê-su đã truyền, và
dọn tiệc Vượt Qua.
Đức
Giê-su tiên báo Giu-đa sẽ nộp Thầy (Mc 14:17-21; Lc 22:21-23; Ga 13:21-30)
20
Chiều
đến, Đức Giê-su vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. 21 Đang bữa ăn,
Người nói: ”Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy.” 22 Các
môn đệ buồn rầu quá sức, lần lượt hỏi Người: ”Thưa Ngài, chẳng lẽ con sao?” 23
Người đáp: ”Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. 24
Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ
nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” 25 Giu-đa, kẻ nộp
Người cũng hỏi: ”Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?” Người trả lời: ”Chính anh nói đó!”
Đức
Giê-su lập bí tích Thanh Thể (Mc 14:22-25; Lc 22 19-20; ICo 11:23-25)
26
Cũng
trong bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho
môn đệ và nói: ”Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy.” 27 Rồi
Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: ”Tất cả anh em hãy
uống chén này, 28 vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn
người được tha tội. 29 Thầy bảo cho anh em biết: từ nay, Thầy không
còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ
rượu mới trong Nước của Cha Thầy.”
Đức
Giê-su tiên báo thánh Phê-rô sẽ chối Thầy (Mc 14:26-31; Lc 22:31-34; Ga 13:36-38)
30
Hát
thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu. 31 Bấy giờ
Đức Giê-su nói với các ông: ”Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có
lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác. 32 Nhưng
sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em.” 33 Ông Phê-rô
liền thưa: ”Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao
giờ vấp ngã.” 34 Đức Giê-su bảo ông: ”Thầy bảo thật anh: nội đêm
nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần.” 35 Ông Phê-rô
lại nói: ”Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” Tất cả các môn
đệ cũng đều nói như vậy.
Đức
Giê-su cầu nguyện tại vườn Ghết-sê-ma-ni (Mc 14:32-42; Lc 22:39-46)
36
Bấy
giờ Đức Giê-su đi cùng với các ông đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Người
nói với các môn đệ: ”Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện.” 37
Rồi Người đưa ông Phê-rô và hai người con ông Dê-bê-đê đi theo. Người bắt
đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến. 38 Bấy giờ Người nói với các ông:
”Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” 39
Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện rằng: ”Lạy Cha, nếu
có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con,
mà xin theo ý Cha.” 40 Rồi Người đến chỗ các môn đệ, thấy các ông
đang ngủ, liền nói với ông Phê-rô: ”Thế ra anh em không thể canh thức nổi với
Thầy một giờ sao? 41 Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn
cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” 42 Người
lại đi cầu nguyện lần thứ hai và nói: ”Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này
mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha.” 43 Rồi Người lại đến,
thấy các môn đệ vẫn đang ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. 44 Người để mặc
các ông mà đi cầu nguyện lần thứ ba, nói lại cũng một lời đó. 45 Bấy
giờ Người đến chỗ các môn đệ và nói với các ông: ”Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ
sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. 46 Đứng
dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!”
Đức
Giê-su bị bắt (Mc 14:43-50; Lc 22:47-53; Ga 18:3-11)
47
Người
còn đang nói, thì Giu-đa, một người trong nhóm Mười Hai, đã đến. Cùng đi với
hắn, có cả một đám người đông đảo mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế
và kỳ mục trong dân sai đến. 48 Kẻ nộp Người đã cho họ một dấu hiệu,
hắn dặn rằng: ”Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy!” 49 Ngay
lúc đó, Giu-đa tiến lại gần Đức Giê-su và nói: ”Ráp-bi, xin chào Thầy!”, rồi
hôn Người. 50 Đức Giê-su bảo hắn: ”Này bạn, bạn đến đây làm gì thì
cứ làm đi!” Bấy giờ họ tiến đến, tra tay bắt Đức Giê-su. 51 Một
trong những kẻ theo Đức Giê-su liền vung tay tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ
của thượng tế, làm nó đứt tai. 52 Đức Giê-su bảo người ấy: ”Hãy xỏ
gươm vào vỏ, vì tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm. 53 Hay anh
tưởng là Thầy không thể kêu cứu với Cha Thầy sao? Người sẽ cấp ngay cho Thầy
hơn mười hai đạo binh thiên thần! 54 Nhưng như thế, thì lời Kinh Thánh ứng
nghiệm sao được? Vì theo đó, mọi sự phải xảy ra như vậy.” 55 Vào giờ
ấy Đức Giê-su nói với đám đông: ”Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm
giáo gậy gộc đến bắt? Ngày ngày tôi vẫn ngồi giảng dạy ở Đền Thờ thì các ông
không bắt. 56 Nhưng tất cả sự việc này xảy ra là để ứng nghiệm những
lời chép trong Sách Các Ngôn Sứ.” Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết.
Đức
Giê-su ra trước Thượng Hội Đồng (Mc 14:53-65; Lc 22:54-55, 63-71; Ga 18:13-14,
19-24)
57
Họ
bắt Đức Giê-su, rồi điệu đến thượng tế Cai-pha. Các kinh sư và kỳ mục đã tề tựu
sẵn đó. 58 Ông Phê-rô theo Người xa xa, đến tận dinh thượng tế. Ông
vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao.
59
Còn
các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức
Giê-su để lên án tử hình. 60 Nhưng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều
kẻ đã đứng ra làm chứng gian. Sau cùng, có hai người bước ra, 61 khai
rằng: ”Tên này đã nói: tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày,
sẽ xây cất lại.” 62 Bấy giờ vị thượng tế đứng lên hỏi Đức Giê-su:
”Ông không nói lại được một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?” 63 Nhưng
Đức Giê-su vẫn làm thinh. Vị thượng tế nói với Người: ”Nhân danh Thiên Chúa
hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng
Ki-tô Con Thiên Chúa không?” 64 Đức Giê-su trả lời: ”Chính ngài vừa
nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự
bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” 65 Bấy giờ vị
thượng tế liền xé áo mình ra và nói: ”Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân
chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, 66 quý
vị nghĩ sao?” Họ liền đáp: ”Hắn đáng chết!”
67
Rồi
họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Người. Có kẻ lai tát Người68 và nói: ”Ông Ki-tô
ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?”
Thánh
Phêrô chối Thầy
69
Lúc
đó ông Phê-rô đang ngồi ngoài sân. Một người đầy tớ gái đến bên ông và nói: ”Cả
bác nữa, bác cũng đã ở với ông Giê-su, người Ga-li-lê đó chứ gì?” 70 Ông
liền chối trước mặt mọi người mà nói: ”Tôi không biết cô nói gì!” 71 Ông
đi ra đến cổng, thì một người tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở
đó: ”Bác này cũng đã ở với ông Giê-su người Na-da-rét đấy.” 72 Nhưng
ông Phê-rô lại thề mà chối: ”Tôi không biết người ấy.” 73 Một lát
sau, những người đứng đó xích lại gần ông Phê-rô mà nói: ”Đúng là bác cũng
thuộc bọn họ. Cứ nghe giọng nói của bác là biết ngay.” 74 Bấy giờ
ông Phê-rô liền thề độc mà quả quyết rằng: ”Tôi thề là không biết người ấy.”
Ngay lúc đó, có tiếng gà gáy. 75 Ông Phê-rô sực nhớ lời Đức Giê-su
đã nói: ”Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” Ông ra ngoài, khóc lóc
thảm thiết.
Chương 27
Đức
Giê-su bị giải đến tổng trấn Phi-la-tô (Mc 15:1; Lc 23, 1; Ga 18:28)
1
Trời
vừa sáng, tất cả các thượng tế và kỳ mục trong dân cùng nhau bàn kế hại Đức
Giê-su, để xử tử Người. 2 Sau đó, họ cho trói Người lại và giải đi nộp
cho tổng trấn Phi-la-tô.
Giu-đa
đi thắt cổ (Cv 1:18-19)
3
Bấy
giờ, Giu-đa, kẻ đã nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem ba mươi
đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ mục4 mà nói: ”Tôi đã phạm tội nộp
người vô tội, khiến Người phải chết oan.” Nhưng họ đáp: ”Can gì đến chúng tôi.
Mặc kệ anh!” 5 Giu-đa ném số bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ. 6
Các thượng tế lượm lấy số bạc ấy mà nói: ”Không được phép bỏ vào quỹ Đền
Thờ, vì đây là giá máu.” 7 Sau khi bàn định với nhau, họ dùng tiền
đó tậu”Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm” để làm nơi chôn cất khách ngoại kiều. 8 Vì
vậy mà thửa ruộng ấy gọi là “Ruộng Máu” cho đến ngày nay. 9 Thế là
ứng nghiệm lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a: ”Họ đã lượm lấy ba mươi đồng bạc, tức là
cái giá mà một số con cái Ít-ra-en đã đặt khi đánh giá Người. 10 Và
họ lấy số bạc đó mà mua”Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm”, theo những điều Đức Chúa đã
truyền cho tôi.”
Đức
Giê-su ra trước toà tổng trấn Phi-la-tô (Mc 15:2-15; Lc 23:3-5, 13-25; Ga 18:33-9:16)
11
Đức
Giê-su bị điệu ra trước mặt tổng trấn; tổng trấn hỏi Người: ”Ông là vua dân
Do-thái sao?” Đức Giê-su trả lời: ”Chính ngài nói đó.” 12 Nhưng khi
các thượng tế và kỳ mục tố Người, thì Người không trả lời một tiếng. 13 Bấy
giờ ông Phi-la-tô hỏi Người: ”Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại
ông đó sao?” 14 Nhưng Đức Giê-su không trả lời ông về một điều nào,
khiến tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên.
15
Vào
mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho dân chúng một người tù, tuỳ ý
họ muốn. 16 Mà khi ấy có một người tù khét tiếng, tên là Ba-ra-ba. 17
Vậy khi đám đông đã tụ họp lại, thì tổng trấn Phi-la-tô nói với họ: ”Các
ngươi muốn ta phóng thích ai cho các ngươi đây? Ba-ra-ba hay Giê-su, cũng gọi
là Ki-tô?” 18 Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Người.
19
Lúc
tổng trấn đang ngồi xử án, thì bà vợ sai người đến nói với ông: ”Ông đừng nhúng
tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao thấy mình phải
khổ nhiều vì ông ấy.”
20
Nhưng
các thượng tế và kỳ mục lại xúi đám đông đòi tha tên Ba-ra-ba mà giết Đức
Giê-su. 21 Tổng trấn hỏi họ: ”Trong hai người này, các người muốn ta
tha ai cho các người?” Họ thưa: ”Ba-ra-ba!” 22 Tổng trấn Phi-la-tô
nói tiếp: ”Thế còn ông Giê-su, cũng gọi là Ki-tô, ta sẽ làm gì đây?” Mọi người
đồng thanh: ”Đóng đinh nó vào thập giá!” 23 Tổng trấn lại nói: ”Thế
ông ấy đã làm điều gì gian ác?” Họ càng la to: ”Đóng đinh nó vào thập giá!” 24
Tổng trấn Phi-la-tô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên
lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: ”Ta vô can trong vụ đổ máu người
này. Mặc các người liệu lấy!” 25 Toàn dân đáp lại: ”Máu hắn cứ đổ
xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi!” 26 Bấy giờ, tổng trấn
phóng thích tên Ba-ra-ba cho họ, còn Đức Giê-su, thì ông truyền đánh đòn, rồi
trao cho họ đóng đinh vào thập giá.
Đức
Giê-su phải đội vòng gai (Mc 15:16-20; Ga 19:1-3)
27
Bấy
giờ lính của tổng trấn đem Đức Giê-su vào trong dinh, và tập trung cả cơ đội
quanh Người. 28 Chúng lột áo Người ra, khoác cho Người một tấm áo
choàng đỏ, 29 rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người,
và trao vào tay mặt Người một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo
rằng: ”Vạn tuế Đức Vua dân Do-thái!” 30 Rồi chúng khạc nhổ vào Người
và lấy cây sậy mà đập vào đầu Người. 31 Chế giễu chán, chúng lột áo
choàng ra, và cho Người mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào
thập giá.
Đức
Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá (Mc 15:21-28; Lc 23:26. 33-34. 36-38; Ga 19:17-24)
32
Đang
đi ra, thì chúng gặp một người Ky-rê-nê, tên là Si-môn; chúng bắt ông vác thập
giá của Người. 33 Khi đến nơi gọi là Gôn-gô-tha, nghĩa là Đồi Sọ, 34
chúng cho Người uống rượu pha mật đắng, nhưng Người chỉ nếm một chút mà
không chịu uống. 35 Đóng đinh Người vào thập giá xong, chúng đem áo
Người ra bắt thăm mà chia nhau. 36 Rồi chúng ngồi đó mà canh giữ
Người.
37
Phía
trên đầu Người, chúng đặt bản án xử tội viết rằng: ”Người này là Giê-su, vua
dân Do-thái.” 38 Cùng bị đóng đinh với Người, có hai tên cướp, một
tên bên phải, một tên bên trái.
Đức
Giê-su bị nhục mạ (Mc 15:29-32; Lc 23:35)
39
Kẻ
qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu40 vừa nói: ”Mi là kẻ phá được Đền
Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con
Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!” 41 Các thượng tế, kinh
sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: 42 “Hắn cứu được thiên hạ,
mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là Vua Ít-ra-en! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây
giờ đi, chúng ta tin hắn liền! 43 Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu
hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: ”Ta là Con Thiên Chúa!” 44
Cả những tên cướp cùng bị đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.
Đức
Giê-su trút linh hồn (Mc 15:33-41; Lc 23:44-49; Ga 19:28-30)
45
Từ
giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. 46 Vào
giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: ”Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”,
nghĩa là “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” 47
Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: ”Hắn ta gọi ông Ê-li-a!” 48
Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm,
buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. 49 Còn những người
khác lại bảo: ”Khoan đã, để xem ông Ê-li-a có đến cứu hắn không!” 50 Đức
Giê-su lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn.
51
Ngay
lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung
đá vỡ. 52 Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được
trỗi dậy. 53 Sau khi Chúa trỗi dậy, các ngài ra khỏi mồ, vào thành
thánh, và hiện ra với nhiều người. 54 Thấy động đất và các sự việc
xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giê-su đều rất
đỗi sợ hãi và nói: ”Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.”
55
Ở
đó, cũng có nhiều người phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa. Các bà này đã theo Đức
Giê-su từ Ga-li-lê để giúp đỡ Người. 56 Trong số đó, có bà Ma-ri-a
Mác-đa-la, bà Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê và Giô-xếp, và bà mẹ các con ông
Dê-bê-đê.
Mai
táng Đức Giê-su (Mc 15:42-47; Lc 23:50-55; Ga 19:38-42)
57
Chiều
đến, có một người giàu sang tới. Ông này là người thành A-ri-ma-thê, tên là
Giô-xếp, và cũng là môn đệ Đức Giê-su. 58 Ông đến gặp ông Phi-la-tô
để xin thi hài Đức Giê-su. Bấy giờ tổng trấn Phi-la-tô ra lệnh trao trả thi hài
cho ông. 59 Khi đã nhận thi hài, ông Giô-xếp lấy tấm vải gai sạch mà
liệm, 60 và đặt vào ngôi mộ mới, đã đục sẵn trong núi đá, dành cho
ông. Ông lăn tảng đá to lấp cửa mồ, rồi ra về. 61 Còn bà Ma-ri-a
Mác-đa-la và một bà khác cũng tên là Ma-ri-a ở lại đó, quay mặt vào mồ.
Lính
canh mồ
62
Hôm
sau, tức là khi ngày áp lễ đã qua, các thượng tế và những người Pha-ri-sêu kéo
nhau đến ông Phi-la-tô, 63 và nói: ”Thưa ngài, chúng tôi nhớ tên bịp
bợm ấy khi còn sống có nói: ”Sau ba ngày, Ta sẽ trỗi dậy.” 64 Vậy
xin quan lớn truyền canh mộ kỹ càng cho đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ hắn đến lấy
trộm xác rồi phao trong dân là hắn đã từ cõi chết trỗi dậy. Và như thế, chuyện
bịp cuối cùng này sẽ còn tệ hại hơn chuyện trước.” 65 Ông Phi-la-tô
bảo họ: ”Thì có sẵn lính đó, các ngươi hãy đi mà canh giữ theo cách các ngươi
biết!” 66 Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá và cắt
lính canh mồ.
Chương 28
Ngôi
mộ trống (Mc 16:1-8; Lc 24:1-10; Ga 20:1-10)
1
Sau
ngày sa-bát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mác-đa-la và
một bà khác cũng tên là Ma-ri-a, đi viếng mộ. 2 Thình lình, đất rung
chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên
trên; 3 diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. 4
Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi. 5 Thiên
thần lên tiếng bảo các phụ nữ: ”Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm
Đức Giê-su, Đấng bị đóng đinh. 6 Người không có ở đây, vì Người đã
trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, 7 rồi
mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và
Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin
nói cho các bà hay.” 8 Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng
cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giê-su hay.
Đức
Giê-su hiện ra với các phụ nữ
9
Bỗng
Đức Giê-su đón gặp các bà và nói: ”Chào chị em!” Các bà tiến lại gần Người, ôm
lấy chân, và bái lạy Người. 10 Bấy giờ, Đức Giê-su nói với các bà:
”Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy
Thầy ở đó.”
Các
thượng tế lừa đảo
11
Các
bà đang đi, thì có mấy người trong đội lính canh mồ vào thành báo cho các
thượng tế biết mọi việc đã xảy ra. 12 Các thượng tế liền họp với các
kỳ mục; sau khi bàn bạc, họ cho lính một số tiền lớn, 13 và bảo:
”Các anh hãy nói như thế này: Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của
hắn đã đến lấy trộm xác. 14 Nếu sự việc này đến tai quan tổng trấn,
chính chúng tôi sẽ dàn xếp với quan và lo cho các anh được vô sự.” 15 Lính
đã nhận tiền và làm theo lời họ dạy. Câu chuyện này được phổ biến giữa người
Do-thái cho đến ngày nay.
Đức
Giê-su hiện ra tại Ga-li-lê, và sai môn đệ đi đến với muôn dân (Mc 16:14-18; Lc
24:36-49; Ga 20:19-23; Cv 1:6-8)
16
Mười
một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông
đến. 17 Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài
nghi. 18 Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: ”Thầy đã được trao
toàn quyền trên trời dưới đất. 19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn
dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần, 20 dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh
em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Mác-cô
Chương 1
I.
GIAI ĐOẠN DỌN ĐƯỜNG CHO SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊ-SU
Ông
Gio-an Tẩy Giả rao giảng (Mt 3:1-12; Lc 3:1-18; Ga 1:19-28)
1
Khởi
đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa:
2
Trong
sách ngôn sứ I-sai-a có chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con,
người sẽ dọn đường cho Con. 3 Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy
dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.
4
Đúng
theo lời đó, ông Gio-an Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi
người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. 5 Mọi
người từ khắp miền Giu-đê và thành Giê-ru-sa-lem kéo đến với ông. Họ thú tội,
và ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan.
6
Ông
Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng.
7 Ông rao giảng rằng: ”Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi,
tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. 8 Tôi thì tôi làm
phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em
trong Thánh Thần.”
Đức
Giê-su chịu phép rửa (Mt 3:13-17; Lc 3:21-22)
9
Hồi
ấy, Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa
dưới sông Gio-đan. 10 Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng
trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. 11 Lại
có tiếng từ trời phán rằng: ”Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.”
Đức
Giê-su chịu cám dỗ trong sa mạc (Mt 4:1-11; Lc 4:1-13)
12
Thần
Khí liền đẩy Người vào hoang địa. 13 Người ở trong hoang địa bốn
mươi ngày, chịu Xa-tan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ
Người.
II.
SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊ-SU TẠI GA-LI-LÊ
Đức
Giê-su khai mạc công việc rao giảng (Mt 4:12-17; Lc 4:14-15)
14
Sau
khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của
Thiên Chúa. 15 Người nói: ”Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa
đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”
Đức
Giê-su kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (Mt 4:18-22; Lc 5:1-11)
16
Người
đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông
An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. 17 Người
bảo họ: ”Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người
như lưới cá.” 18 Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
19
Đi
xa hơn một chút, Người thấy ông Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông
Gio-an. Hai ông này đang vá lưới ở trong thuyền. 20 Người liền gọi
các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những
người làm công, mà đi theo Người.
Đức
Giê-su giảng dạy tại Ca-phác-na-um và chữa lành một người bị quỷ ám (Lc 4:31-37)
21
Đức
Giê-su và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào
hội đường giảng dạy. 22 Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của
Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh
sư.
23
Lập
tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên 24 rằng:
”Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt
chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” 25 Nhưng
Đức Giê-su quát mắng nó: ”Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” 26 Thần
ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta. 27 Mọi
người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: ”Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì
mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng
phải tuân lệnh!” 28 Lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả
vùng lân cận miền Ga-li-lê.
Đức
Giê-su chữa nhạc mẫu ông Si-môn (Mt 8:14-15; Lc 4:38-39)
29
Vừa
ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê.
Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. 30 Lúc đó, bà mẹ vợ ông
Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình
trạng của bà. 31 Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt
dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Đức
Giê-su chữa cho nhiều người (Mt 8:16-17; Lc 4:40-41)
32
Chiều
đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến
cho Người. 33 Cả thành xúm lại trước cửa. 34 Đức Giê-su
chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ
nói, vì chúng biết Người là ai.
Đức
Giê-su âm thầm rời Ca-phác-na-um và đi khắp miền Ga-li-lê (Lc 4:42-44)
35
Sáng
sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện
ở đó. 36 Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. 37 Khi
gặp Người, các ông thưa: ”Mọi người đang tìm Thầy đấy!” 38 Người bảo
các ông: ”Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn
rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” 39 Rồi Người
đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.
Đức
Giê-su chữa người bị phong hủi (Mt 8:1-4; Lc 5:12-16)
40
Có
người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: ”Nếu Ngài
muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” 41 Người chạnh lòng thương
giơ tay đụng vào anh và bảo: ”Tôi muốn, anh sạch đi!” 42 Lập tức,
chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch. 43 Nhưng Người
nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, 44 và bảo anh: ”Coi chừng, đừng nói
gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì
hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.” 45
Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi,
đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi
hoang vắng ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi kéo đến với Người.
Chương 2
Đức
Giê-su chữa người bại liệt (Mt 9:1-8; Lc 5:17-26)
1
Vài
ngày sau, Đức Giê-su trở lại thành Ca-phác-na-um. Hay tin Người ở nhà, 2 dân
chúng tụ tập lại, đông đến nỗi trong nhà ngoài sân chứa không hết. Người giảng
lời cho họ. 3 Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giê-su một kẻ bại
liệt, có bốn người khiêng. 4 Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ
không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người
ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống. 5
Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giê-su bảo người bại liệt: ”Này con, con
đã được tha tội rồi.” 6 Nhưng có mấy kinh sư đang ngồi đó, họ nghĩ
thầm trong bụng rằng: 7 “Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói
phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?” 8 Tâm
trí Đức Giê-su thấu biết ngay họ đang thầm nghĩ như thế, Người mới bảo họ: ”Sao
trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy? 9 Trong hai điều: một là bảo người
bại liệt: ”Con đã được tha tội rồi”, hai là bảo: ”Đứng dậy, vác lấy chõng của
con mà đi”, điều nào dễ hơn? 10 Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người
có quyền tha tội,-Đức Giê-su bảo người bại liệt,-11 Ta truyền cho con: Hãy đứng
dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!” 12 Người bại liệt đứng
dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt
và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau: ”Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ!”
Đức
Giê-su kêu gọi ông Lê-vi (Mt 9:9; Lc 5:27-28)
13
Đức
Giê-su lại đi ra bờ biển hồ. Toàn thể dân chúng đến với Người, và Người dạy dỗ
họ. 14 Đi ngang qua trạm thu thuế, Người thấy ông Lê-vi là con ông
An-phê, đang ngồi ở đó. Người bảo ông: ”Anh hãy theo tôi!” Ông đứng dậy đi theo
Người.
Đức
Giê-su dùng bữa với những người tội lỗi (Mt 9:10-13; Lc 5:29-32)
15
Người
đến dùng bữa tại nhà ông. Nhiều người thu thuế và người tội lỗi cùng ăn với Đức
Giê-su và các môn đệ: con số họ đông và họ đi theo Người. 16 Những
kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người
thu thuế, thì nói với các môn đệ Người: ”Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế
và quân tội lỗi!” 17 Nghe thấy thế, Đức Giê-su nói với họ: ”Người
khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi
người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.”
Tranh
luận về việc ăn chay (Mt 9:14-17; Lc 5:33-39)
18
Bấy
giờ các môn đệ ông Gio-an và các người Pha-ri-sêu đang ăn chay; có người đến
hỏi Đức Giê-su: ”Tại sao các môn đệ ông Gio-an và các môn đệ người Pha-ri-sêu
ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?” 19 Đức Giê-su trả lời:
”Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ? Bao
lâu chàng rể còn ở với họ, họ không thể ăn chay được. 20 Nhưng khi
tới ngày chàng rể bị đem đi rồi, bấy giờ họ mới ăn chay trong ngày đó. 21 Chẳng
ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì như vậy, miếng vá mới đã vá vào sẽ kéo vải cũ,
khiến chỗ rách lại càng rách thêm. 22 Cũng không ai đổ rượu mới vào
bầu da cũ, vì như vậy, rượu sẽ làm nứt bầu, thế là rượu cũng mất mà bầu cũng
hư. Nhưng rượu mới, bầu cũng phải mới!”
Các
môn đệ bứt lúa (Mt 12:1-8; Lc 6:1-5)
23
Vào
ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ
bắt đầu bứt lúa. 24 Người Pha-ri-sêu liền nói với Đức Giê-su: ”Ông
coi, ngày sa-bát mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!” 25 Người
đáp: ”Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm gì, khi ông và
thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng? 26 Dưới thời thượng tế A-bi-a-tha, ông vào
nhà Thiên Chúa, ăn bánh tiến, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn nữa. Thứ bánh này
không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế.”
27
Người
nói tiếp: ”Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho
ngày sa-bát. 28 Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày sa-bát.”
Chương 3
Đức
Giê-su chữa người bị bại tay (Mt 12:9-14; Lc 6:6-11)
1
Đức
Giê-su lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay. 2 Họ rình
xem Đức Giê-su có chữa người ấy ngày sa-bát không, để tố cáo Người. 3 Đức
Giê-su bảo người bại tay: ”Anh trỗi dậy, ra giữa đây!” 4 Rồi Người
nói với họ: ”Ngày sa-bát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người
hay giết đi?” Nhưng họ làm thinh. 5 Đức Giê-su giận dữ rảo mắt nhìn
họ, buồn khổ vì lòng họ chai đá. Người bảo anh bại tay: ”Anh giơ tay ra!” Người
ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường. 6 Ra khỏi đó, nhóm
Pha-ri-sêu lập tức bàn tính với phe Hê-rô-đê, để tìm cách giết Đức Giê-su.
Dân
chúng đi theo Đức Giê-su
7
Đức
Giê-su cùng với các môn đệ của Người lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Ga-li-lê,
người ta lũ lượt đi theo Người. Và từ miền Giu-đê, 8 từ Giê-ru-sa-lem,
từ xứ I-đu-mê, từ vùng bên kia sông Gio-đan và vùng phụ cận hai thành Tia và
Xi-đôn, người ta lũ lượt đến với Người, vì nghe biết những gì Người đã làm. 9
Người đã bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ, để khỏi
bị đám đông chen lấn. 10 Quả thế, Người đã chữa lành nhiều bệnh
nhân, khiến ai ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người. 11 Còn các
thần ô uế, hễ thấy Đức Giê-su, thì sấp mình dưới chân Người và kêu lên: ”Ông là
Con Thiên Chúa!” 12 Nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ
Người là ai.
Đức
Giê-su thành lập Nhóm Mười Hai (Mt 10:1-4; Lc 6:12-16)
13
Rồi
Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với
Người. 14 Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để
Người sai các ông đi rao giảng, 15 với quyền trừ quỷ. 16 Người
lập Nhóm Mười Hai và đặt tên cho ông Si-môn là Phê-rô, 17 rồi có ông
Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê, và ông Gio-an em ông Gia-cô-bê-Người đặt tên cho
hai ông là Bô-a-nê-ghê, nghĩa là con của thiên lôi-, 18 rồi đến các
ông An-rê, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông
An-phê, Ta-đê-ô, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, 19 và Giu-đa
Ít-ca-ri-ốt là chính kẻ nộp Người.
Trình
thuật: a) Các thân nhân coi Đức Giê-su là mất trí
20
Người
trở về nhà và đám đông lại kéo đến, thành thử Người và các môn đệ không sao ăn
uống được. 21 Thân nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì
họ nói rằng Người đã mất trí.
b)
Các kinh sư coi Đức Giê-su là người bị quỷ ám
22
Còn
các kinh sư từ Giê-ru-sa-lem xuống thì lại nói rằng Người bị quỷ vương
Bê-en-dê-bun ám và Người dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ.
c)
Đức Giê-su trả lời
24
Người
liền gọi họ đến, dùng dụ ngôn mà nói với họ: ”Xa-tan làm sao trừ Xa-tan được?
Nước nào tự chia rẽ, nước ấy không thể bền; 25 nhà nào tự chia rẽ,
nhà ấy không thể vững. 26 Vậy Xa-tan mà chống Xa-tan, Xa-tan mà tự
chia rẽ, thì không thể tồn tại, nhưng đã tận số. 27 Không ai vào nhà
một người mạnh mà có thể cướp của được, nếu không trói người mạnh ấy trước đã,
rồi mới cướp sạch nhà nó.
28 “Tôi bảo thật anh em:
mọi tội của con cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng
nhiều đến mấy đi nữa, thì cũng còn được tha. 29 Nhưng ai nói phạm
đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời” . 30 Đó
là vì họ đã nói”ông ấy bị thần ô uế ám.”
Ai
mới thật là thân nhân của Đức Giê-su? (Mt 12:46-50; Lc 8:19-21)
31
Mẹ
và anh em Đức Giê-su đến, đứng ở ngoài, cho gọi Người ra. 32 Lúc ấy,
đám đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng: ”Thưa Thầy, có
mẹ và anh em chị em Thầy ở ngoài kia đang tìm Thầy!” 33 Nhưng Người
đáp lại: ”Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” 34 Rồi Người rảo mắt nhìn
những kẻ ngồi chung quanh và nói: ”Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. 35 Ai
thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”
Chương 4
Dụ
ngôn người gieo giống (Mt 13:1-9; Lc 8:4-8)
1
Đức
Giê-su lại bắt đầu giảng dạy ở ven Biển Hồ. Một đám người rất đông tụ họp chung
quanh Người, nên Người phải xuống thuyền mà ngồi dưới biển, còn toàn thể đám
đông thì ở trên bờ. 2 Người dùng dụ ngôn mà dạy họ nhiều điều. Trong
lúc giảng dạy, Người nói với họ:
3 “Các người nghe đây!
Người gieo giống đi ra gieo giống. 4 Trong khi gieo, có hạt rơi
xuống vệ đường, chim chóc đến ăn mất. 5 Có hạt rơi trên sỏi đá, chỗ
không có nhiều đất; nó mọc ngay, vì đất không sâu; 6 nhưng khi nắng
lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. 7 Có hạt rơi
vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt và không sinh hoa kết quả. 8 Có
những hạt lại rơi nhằm đất tốt, nó mọc và lớn lên, sinh hoa kết quả: hạt thì được
ba mươi, hạt thì được sáu mươi, hạt thì được một trăm.” 9 Rồi Người
nói: ”Ai có tai nghe thì nghe!”
Tại
sao Đức Giê-su dùng dụ ngôn? (Mt 13:10-15; Lc 8:9-10)
10
Khi
còn một mình Đức Giê-su, những người thân cận cùng với Nhóm Mười Hai mới hỏi
Người về các dụ ngôn. 11 Người nói với các ông: ”Phần anh em, mầu
nhiệm Nước Thiên Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người kia là những
kẻ ở ngoài, thì cái gì cũng phải dùng dụ ngôn, 12 để họ có trố mắt
nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu, kẻo họ trở lại và được
ơn tha thứ.”
Cắt
nghĩa dụ ngôn người gieo giống (Mt 13:18-23; Lc 8:11-15)
13
Người
còn nói với các ông: ”Anh em không hiểu dụ ngôn này, thì làm sao hiểu được tất
cả các dụ ngôn? 14 Người gieo giống đây là người gieo lời. 15 Những
kẻ ở bên vệ đường, nơi lời đã gieo xuống, là những kẻ vừa nghe thì Xa-tan liền
đến cất lời đã gieo nơi họ. 16 Còn những kẻ được gieo trên sỏi đá là
những kẻ khi nghe lời thì liền vui vẻ đón nhận, 17 nhưng họ không
đâm rễ mà là những kẻ nông nổi nhất thời; sau đó, khi gặp gian nan hay bị ngược
đãi vì lời, họ vấp ngã ngay. 18 Những kẻ khác là những kẻ được gieo
vào bụi gai: đó là những kẻ đã nghe lời, 19 nhưng những nỗi lo lắng
sự đời, bả vinh hoa phú quý cùng những đam mê khác xâm chiếm lòng họ, bóp nghẹt
lời khiến lời không sinh hoa kết quả gì. 20 Còn những người khác nữa
là những người được gieo vào đất tốt: đó là những người nghe lời và đón nhận,
rồi sinh hoa kết quả, kẻ thì ba mươi, kẻ thì sáu mươi, kẻ thì một trăm.”
Dụ
ngôn cái đèn, đấu đong (Lc 8:16-18)
21
Người
nói với các ông: ”Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm
giường? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao? 22 Vì chẳng có gì che giấu mà
không phải là để được tỏ bày, chẳng có gì bí ẩn mà không phải là để đưa ra ánh
sáng. 23 Ai có tai nghe thì nghe!”
24
Người
nói với các ông: ”Hãy để ý tới điều anh em nghe. Anh em đong đấu nào, thì Thiên
Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em, và còn cho anh em hơn nữa. 25 Vì
ai đã có, thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái đang có cũng sẽ bị
lấy mất.”
Dụ
ngôn hạt giống tự mọc lên
26
Người
nói: ”Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống
xuống đất. 27 Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống
vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. 28 Đất
tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau
cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. 29 Lúa vừa chín, người ấy đem
liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa.”
Dụ
ngôn hạt cải (Mt 13:31-32; Lc 13:18-19)
30
Rồi
Người lại nói: ”Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây? Lấy dụ ngôn nào mà
hình dung được? 31 Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là
loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. 32 Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc
lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ
dưới bóng.”
Kết
luận về các dụ ngôn (Mt 13:34)
33
Người
dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tuỳ theo mức họ có thể
nghe. 34 Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn.
Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.
Đức
Giê-su dẹp sóng gió (Mt 8:23-27; Lc 8:22-25)
35
Hôm
ấy, khi chiều đến, Đức Giê-su nói với các môn đệ: ”Chúng ta sang bờ bên kia đi!”
36 Bỏ đám đông ở lại, các ông chở Người đi, vì Người đang ở sẵn trên
thuyền; có những thuyền khác cùng theo Người. 37 Và một trận cuồng
phong nổi lên, sóng ập vào thuyền, đến nỗi thuyền đầy nước. 38 Trong
khi đó, Đức Giê-su đang ở đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối mà ngủ. Các môn đệ
đánh thức Người dậy và nói: ”Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo
gì sao?” 39 Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: ”Im đi!
Câm đi!” Gió liền tắt, và biển lặng như tờ. 40 Rồi Người bảo các
ông: ”Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” 41 Các
ông hoảng sợ và nói với nhau: ”Vậy người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng
tuân lệnh?”
Chương 5
Người
bị quỷ ám ở Ghê-ra-sa (Mt 8:28-34; Lc 8:26-39)
1
Đức
Giê-su và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa. 2
Người vừa ra khỏi thuyền, thì từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám
liền ra đón Người. 3 Anh này thường sống trong đám mồ mả và không ai
có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích. 4 Thật
vậy, nhiều lần anh bị gông cùm và bị xiềng xích, nhưng anh đã bẻ gãy xiềng
xích, và đập tan gông cùm. Và không ai có thể kiềm chế anh được. 5 Suốt
đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá đập
vào mình. 6 Thấy Đức Giê-su tự đàng xa, anh ta chạy đến bái lạy
Người7 và kêu lớn tiếng rằng: ”Lạy ông Giê-su, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện
tôi can gì đến ông? Nhân danh Thiên Chúa, tôi van ông đừng hành hạ tôi!” 8
Thật vậy, Đức Giê-su đã bảo nó: ”Thần ô uế kia, xuất khỏi người này!” 9
Người hỏi nó: ”Tên ngươi là gì?” Nó thưa: ”Tên tôi là đạo binh, vì chúng
tôi đông lắm.” 10 Nó khẩn khoản nài xin Người đừng đuổi chúng ra
khỏi vùng ấy. 11 Ở đó có một bầy heo rất đông đang ăn bên sườn núi. 12
Đám thần ô uế nài xin Người rằng: ”Xin sai chúng tôi đến nhập vào những
con heo kia.” 13 Người cho phép. Chúng xuất khỏi người đó và nhập
vào bầy heo. Cả bầy heo-chừng hai ngàn con- từ trên sườn núi lao xuống biển và
chết ngộp dưới đó. 14 Các kẻ chăn heo bỏ chạy, loan tin trong thành
và thôn xóm. Thiên hạ đến xem việc gì đã xảy ra. 15 Họ đến cùng Đức
Giê-su và thấy kẻ bị quỷ ám ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo-chính
người này đã bị đạo binh quỷ nhập vào. Họ phát sợ. 16 Những người
chứng kiến đã kể lại cho họ nghe việc đã xảy ra thế nào cho người bị quỷ ám và
chuyện bầy heo. 17 Bấy giờ họ lên tiếng nài xin Người rời khỏi vùng
đất của họ.
18
Khi
Người xuống thuyền, thì kẻ trước kia đã bị quỷ ám nài xin cho được ở với Người.
19 Nhưng Người không cho phép, Người bảo: ”Anh cứ về nhà với thân
nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương
anh như thế nào.” 20 Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền
Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giê-su đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc.
Đức
Giê-su chữa một người bị băng huyết và cho con gái ông Gia-ia sống lại (Mt 9:18-26;
Lc 8:40-56)
21
Đức
Giê-su xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh
Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ. 22 Có một ông trưởng
hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giê-su, ông ta sụp xuống dưới chân
Người, 23 và khẩn khoản nài xin: ”Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài
đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.” 24 Người
liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người.
25
Có
một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, 26 bao phen khổ sở vì chạy
thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn
thêm nặng là khác. 27 Được nghe đồn về Đức Giê-su, bà lách qua đám
đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người. 28 Vì bà tự
nhủ: ”Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.” 29 Tức
khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. 30 Ngay
lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay
lại giữa đám đông mà hỏi: ”Ai đã sờ vào áo tôi?” 31 Các môn đệ thưa:
”Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ÀAi đã sờ vào tôi?” 32
Đức Giê-su ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó. 33 Bà
này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước
mặt Người, và nói hết sự thật với Người. 34 Người nói với bà ta:
”Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn
bệnh.”
35
Đức
Giê-su còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: ”Con
gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” 36 Nhưng Đức Giê-su nghe
được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: ”Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.”
37 Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông
Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an. 38 Các ngài đến nhà ông
trưởng hội đường. Đức Giê-su thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. 39 Người
bước vào nhà và bảo họ: ”Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết
đâu, nó ngủ đấy!” 40 Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài
hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm.
41 Người cầm lấy tay nó và nói: ”Ta-li-tha kum”, nghĩa là: ”Này bé,
Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” 42 Lập tức con bé đứng dậy và đi
lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ. 43
Đức Giê-su nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho
con bé ăn.
Chương 6
Đức
Giê-su về thăm Na-da-rét (Mt 13:53-58; Lc 4:16-30)
1
Đức
Giê-su ra khỏi đó và đến nơi quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2 Đến
ngày sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi
ngạc nhiên. Họ nói: ”Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như
vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3
Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a, và anh em của các ông Gia-cô-bê,
Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với
chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giê-su bảo họ: ”Ngôn sứ
có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân
thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” 5 Người đã không thể làm
được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành
họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin.
Đức
Giê-su sai Nhóm Mười Hai đi giảng (Mt 10:5-15; Lc 9:1-6)
7
Người
gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các
ông quyền trừ quỷ. 8 Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi
đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền đồng để giắt
lưng; 9 được đi dép, nhưng không được mặc hai áo. 10 Người
bảo các ông: ”Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến
lúc ra đi. 11 Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh
em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” 12 Các
ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. 13 Các ông trừ
được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
Vua
Hê-rô-đê và Đức Giê-su (Mt 14:1-2; Lc 9:7-9)
14
Vua
Hê-rô-đê nghe biết về Đức Giê-su, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: ”Đó là ông
Gio-an Tẩy Giả từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ.” 15
Kẻ khác nói: ”Đó là ông Ê-li-a.” Kẻ khác nữa lại nói: ”Đó là một ngôn sứ
như một trong các ngôn sứ.” 16 Vua Hê-rô-đê nghe thế, liền nói: ”Ông
Gio-an, ta đã cho chém đầu, chính ông đã trỗi dậy!”
Ông
Gio-an Tẩy Giả bị trảm quyết (Mt 14:3-12)
17
Số
là vua Hê-rô-đê đã sai người đi bắt ông Gio-an và xiềng ông trong ngục. Lý do
là vì vua đã lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh là Phi-líp-phê, 18 mà
ông Gio-an lại bảo: ”Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài!” 19 Bà
Hê-rô-đi-a căm thù ông Gio-an và muốn giết ông, nhưng không được. 20 Thật
vậy, vua Hê-rô-đê biết ông Gio-an là người công chính thánh thiện, nên sợ ông,
và còn che chở ông. Nghe ông nói, nhà vua rất phân vân, nhưng lại cứ thích
nghe.
21
Một
ngày thuận lợi đến: nhân dịp mừng sinh nhật của mình, vua Hê-rô-đê mở tiệc thết
đãi bá quan văn võ và các thân hào miền Ga-li-lê. 22 Con gái bà
Hê-rô-đi-a vào biểu diễn một điệu vũ, làm cho nhà vua và khách dự tiệc vui
thích. Nhà vua nói với cô gái: ”Con muốn gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho con.” 23
Vua lại còn thề: ”Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng
được.” 24 Cô gái đi ra hỏi mẹ: ”Con nên xin gì đây?” Mẹ cô nói: ”Đầu
Gio-an Tẩy Giả.” 25 Lập tức cô vội trở vào đến bên nhà vua và xin
rằng: ”Con muốn ngài ban ngay cho con cái đầu ông Gio-an Tẩy Giả, đặt trên mâm.”
26 Nhà vua buồn lắm, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự
tiệc, nên không muốn thất hứa với cô. 27 Lập tức, vua sai thị vệ đi
và truyền mang đầu ông Gio-an tới. Thị vệ ra đi, chặt đầu ông ở trong ngục, 28
bưng đầu ông trên một cái mâm trao cho cô gái, và cô gái trao cho mẹ. 29
Nghe tin ấy, môn đệ đến lấy thi hài ông và đặt trong một ngôi mộ.
Đức
Giê-su làm cho bánh hoá nhiều lần thứ nhất (Mt 14:13-21; Lc 9:10-17; Ga 6:1-13)
30
Các
Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giê-su, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông
đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. 31 Người bảo các ông: ”Chính anh
em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ
lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. 32 Vậy,
thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. 33 Thấy
các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo
đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. 34 Ra khỏi thuyền, Đức
Giê-su thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên
không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều. 35 Vì
bấy giờ đã khá muộn, các môn đệ đến gần Người và thưa: ”Ở đây hoang vắng và bây
giờ đã khá muộn. 36 Xin Thầy cho dân chúng về, để họ vào thôn xóm và
làng mạc chung quanh mà mua gì ăn.” 37 Người đáp: ”Thì chính anh em
hãy cho họ ăn đi!” Các ông nói với Người: ”Chúng con phải đi mua tới hai trăm
quan tiền bánh mà cho họ ăn sao?” 38 Người bảo các ông: ”Anh em có
mấy chiếc bánh? Đi coi xem!” Khi biết rồi, các ông thưa: ”Có năm chiếc bánh và
hai con cá.” 39 Người ra lệnh cho các ông bảo mọi người ngồi thành
từng nhóm trên cỏ xanh. 40 Họ ngồi xuống thành từng đám, chỗ thì một
trăm, chỗ thì năm mươi. 41 Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con
cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ bánh ra, trao cho môn đệ để
các ông dọn ra cho dân chúng. Người cũng chia hai con cá cho mọi người. 42
Ai nấy đều ăn và được no nê. 43 Người ta thu lại những mẩu
bánh được mười hai thúng đầy, cùng với cá còn dư. 44 Số người ăn
bánh là năm ngàn người đàn ông.
Đức
Giê-su đi trên mặt biển hồ (Mt 14:22-33; Ga 6:16-21)
45
Lập
tức, Đức Giê-su bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia về phía thành
Bết-xai-đa trước, trong lúc Người giải tán đám đông. 46 Sau khi từ
biệt các ông, Người lên núi cầu nguyện. 47 Chiều đến, chiếc thuyền
đang ở giữa biển hồ, chỉ còn một mình Người ở trên đất. 48 Người
thấy các ông phải vất vả chèo chống vì gió ngược, nên vào khoảng canh tư đêm
ấy, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông và Người định vượt các ông. 49
Nhưng khi các ông thấy Người đi trên mặt biển, lại tưởng là ma, thì la
lên. 50 Quả thế, tất cả các ông đều nhìn thấy Người và đều hoảng
hốt. Lập tức, Người bảo các ông: ”Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” 51
Người lên thuyền với các ông, và gió lặng. Các ông cảm thấy bàng hoàng
sửng sốt, 52 vì các ông đã không hiểu ý nghĩa phép lạ bánh hoá
nhiều: lòng trí các ông còn ngu muội!
Đức
Giê-su chữa nhiều người ở Ghen-nê-xa-rét (Mt 14:34-36)
53
Khi
qua biển rồi, Đức Giê-su và các môn đệ ghé vào đất liền tại Ghen-nê-xa-rét và
lên bờ. 54 Thầy trò vừa ra khỏi thuyền, thì lập tức người ta nhận ra
Đức Giê-su. 55 Họ rảo khắp vùng ấy và nghe tin Người ở đâu, thì bắt
đầu cáng bệnh nhân đến đó. 56 Người đi tới đâu, vào làng mạc, thành
thị hay thôn xóm nào, người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và
xin Người cho họ ít là được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm
đến, thì đều được khỏi.
Chương 7
Tranh
luận về những truyền thống người Pha-ri-sêu (Mt 15:1-9)
1
Có
những người Pha-ri-sêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giê-su. Họ là những
người từ Giê-ru-sa-lem đến. 2 Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa
mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. 3 Thật vậy, người Pha-ri-sêu
cũng như mọi người Do-thái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn
gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; 4 thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải
rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát,
bình lọ và các đồ đồng. 5 Vậy, người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức
Giê-su: ”Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để
tay ô uế mà dùng bữa?” 6 Người trả lời họ: ”Ngôn sứ I-sai-a thật đã
nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng:
Dân
này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,
còn
lòng chúng thì lại xa Ta.
7
Chúng
có thờ phượng Ta thì cũng vô ích,
vì
giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.
8
Các
ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” 9
Người còn nói: ”Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để
nắm giữ truyền thống của các ông. 10 Quả thế, ông Mô-sê đã dạy rằng:
Ngươi hãy thờ cha kính mẹ và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử! 11
Còn các ông, các ông lại bảo: ”Người nào nói với cha với mẹ rằng: những gì con
có để giúp cha mẹ đều là “co-ban” nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa” rồi, 12
và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa. 13 Thế
là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà huỷ bỏ lời Thiên
Chúa. Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa!”
Cái
gì làm cho con người ra ô uế? (Mt 15:10-20)
14
Sau
đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo: ”Xin mọi người nghe tôi nói đây, và
hiểu cho rõ: 15 Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại
có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là
cái làm cho con người ra ô uế. 16 Ai có tai nghe thì nghe!”
17
Khi
Đức Giê-su đã rời đám đông mà vào nhà, các môn đệ hỏi Người về dụ ngôn ấy. 18
Người nói với các ông: ”Cả anh em nữa, anh em cũng ngu tối như thế sao?
Anh em không hiểu sao? Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì
không thể làm cho con người ra ô uế, 19 bởi vì nó không đi vào lòng,
nhưng vào bụng người ta, rồi bị thải ra ngoài?” Như vậy là Người tuyên bố mọi
thức ăn đều thanh sạch. 20 Người nói: ”Cái gì từ trong con người
xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. 21 Vì từ bên trong,
từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, 22
ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu
ngạo, ngông cuồng. 23 Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong
xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.”
III.
NHỮNG CUỘC HÀNH TRÌNH CỦA ĐỨC GIÊ-SU Ở NGOÀI MIỀN GA-LI-LÊ
Đức
Giê-su chữa con gái một bà gốc Phê-ni-xi xứ Xy-ri (Mt 15:21-28)
24
Đức
Giê-su đứng dậy, rời nơi đó, đến địa hạt Tia. Người vào một nhà nọ mà không
muốn cho ai biết, nhưng không thể giấu được. 25 Thật vậy, một người
đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình
dưới chân Người. 26 Bà là người Hy-lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ
Xy-ri. Bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà. 27 Người nói với bà:
”Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà
ném cho chó con.” 28 Bà ấy đáp: ”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con
ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con.” 29 Người
nói với bà: ”Vì bà nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi.” 30
Về đến nhà, bà thấy đứa trẻ nằm trên giường và quỷ đã xuất.
Đức
Giê-su chữa người vừa điếc vừa ngọng
31
Đức
Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập
Tỉnh. 32 Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức
Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh. 33 Người kéo riêng anh ta ra
khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi
anh. 34 Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói:
”Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra! 35 Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị
buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. 36 Đức Giê-su truyền bảo họ không
được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng Người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra.
37 Họ hết sức kinh ngạc, và nói: ”Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp
cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.”
Chương 8
Đức
Giê-su làm cho bánh hoá nhiều lần thứ hai (Mt 15:32-39)
1
Trong
những ngày ấy, lại có một đám rất đông, và họ không có gì ăn, nên Đức Giê-su
gọi các môn đệ lại mà nói: 2 “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ
ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn! 3 Nếu Thầy giải tán, để họ
nhịn đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có những người
ở xa đến.” 4 Các môn đệ thưa Người: ”Ở đây, trong nơi hoang vắng
này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn no?” 5 Người hỏi các ông: ”Anh em có
mấy chiếc bánh?” Các ông đáp: ”Thưa có bảy chiếc.” 6 Người truyền
cho họ ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ
ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho đám đông. 7
Các ông cũng có mấy con cá nhỏ. Người đọc lời chúc tụng, rồi bảo các ông
dọn cả cá ra. 8 Đám đông đã ăn và được no nê. Người ta nhặt lấy
những mẩu bánh còn thừa: bảy giỏ! 9 Mà đám đông có khoảng bốn ngàn người. Người
giải tán họ. 10 Lập tức, Đức Giê-su xuống thuyền với các môn đệ và
đến miền Đan-ma-nu-tha.
Người
Pha-ri-sêu xin một dấu trên trời (Mt 16:1-4)
11
Những
người Pha-ri-sêu kéo ra và bắt đầu tranh luận với Đức Giê-su, họ đòi Người một
dấu lạ từ trời để thử Người. 12 Người thở dài não nuột và nói: ”Sao
thế hệ này lại xin một dấu lạ? Tôi bảo thật cho các ông biết: thế hệ này sẽ
không được một dấu lạ nào cả.” 13 Rồi bỏ họ đó, Người lại xuống
thuyền qua bờ bên kia.
Men
Pha-ri-sêu và men Hê-rô-đê (Mt 16:5-12)
14
Các
môn đệ quên đem bánh theo; trên thuyền, các ông chỉ có một chiếc bánh. 15 Người
răn bảo các ông: ”Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pha-ri-sêu và men
Hê-rô-đê!” 16 Và các ông bàn tán với nhau về chuyện các ông không có
bánh. 17 Biết thế, Người nói với các ông: ”Sao anh em lại bàn tán về
chuyện anh em không có bánh? Anh em chưa hiểu chưa thấu sao? Lòng anh em ngu
muội thế! 18 Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư? Anh em không
nhớ sao: 19 khi Thầy bẻ năm chiếc bánh cho năm ngàn người ăn, anh em
đã thu lại được bao nhiêu thúng đầy mẩu bánh?” Các ông đáp: ”Thưa được mười
hai.” 20 “Và khi Thầy bẻ bảy chiếc bánh cho bốn ngàn người ăn, anh
em đã thu lại được bao nhiêu giỏ đầy mẩu bánh?” Các ông nói: ”Thưa được bảy.” 21
Người bảo các ông: ”Anh em chưa hiểu ư?”
Đức
Giê-su chữa người mù ở Bết-xai-đa
22
Đức
Giê-su và các môn đệ đến Bết-xai-đa. Người ta dẫn một người mù đến và nài xin
Đức Giê-su sờ vào anh ta. 23 Người cầm lấy tay anh mù, đưa ra khỏi
làng, rồi nhổ nước miếng vào mắt anh, đặt tay trên anh và hỏi: ”Anh có thấy gì
không?” 24 Anh ngước mắt lên và thưa: ”Tôi thấy người ta, trông họ
như cây cối, họ đi đi lại lại.” 25 Rồi Người lại đặt tay trên mắt
anh, anh trông rõ và khỏi hẳn; anh thấy tỏ tường mọi sự. 26 Người
cho anh về nhà và dặn: ”Anh đừng có vào làng.”
Ông
Phê-rô tuyên xưng đức tin (Mt 16:13-20; Lc 9:18-21)
27
Đức
Giê-su và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê.
Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: ”Người ta nói Thầy là ai?” 28 Các
ông đáp: ”Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ
khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” 29 Người lại hỏi các ông: ”Còn
anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phê-rô trả lời: ”Thầy là Đấng Ki-tô.” 30
Đức Giê-su liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người.
Đức
Giê-su loan báo lần thứ nhất cuộc Thương Khó và Phục Sinh (Mt 16:21-23; Lc 9:22)
31
Rồi
Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ
mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. 32
Người nói rõ điều đó, không úp mở. Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và
bắt đầu trách Người. 33 Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các
môn đệ, Người trách ông Phê-rô: ”Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của
anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
Những
điều kiện để theo Đức Giê-su (Mt 16:24-28; Lc 9:23-27)
34
Rồi
Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Người nói với họ rằng: ”Ai
muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 35 Quả
vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì
tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 36 Vì được cả thế
giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì? 37 Quả thật, người
ta lấy gì mà đổi lại mạng sống mình? 38 Giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này,
ai hổ thẹn vì tôi và những lời tôi dạy, thì Con Người cũng sẽ hổ thẹn vì kẻ ấy,
khi Người ngự đến cùng với các thánh thiên thần, trong vinh quang của Cha
Người.”
Chương 9
1
Đức
Giê-su còn nói với họ: ”Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở
đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa
đến, đầy uy lực.”
Đức
Giê-su biến đổi hình dạng (Mt 17:1-8; Lc 9:28-36)
2
Sáu
ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình.
Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi
cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. 3 Y phục Người
trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như
vậy. 4 Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo
với Đức Giê-su. 5 Bấy giờ, ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng:
”Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một
cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.” 6 Thực ra, ông
không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. 7 Bỗng có một đám mây
bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: ”Đây là Con Ta yêu dấu, hãy
vâng nghe lời Người.” 8 Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai
nữa, chỉ còn Đức Giê-su với các ông mà thôi.
Câu
hỏi về ông Ê-li-a (Mt 17:9-12)
9
Ở
trên núi xuống, Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe
những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. 10 Các
ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu”từ cõi chết sống lại” nghĩa là
gì. 11 Các ông hỏi Đức Giê-su: ”Tại sao các kinh sư lại nói ông
Ê-li-a phải đến trước?” 12 Người đáp: ”Đúng thế, ông Ê-li-a đến
trước để chỉnh đốn mọi sự. Vậy sao có lời chép rằng Con Người phải chịu nhiều
đau khổ và bị khinh chê? 13 Nhưng Thầy nói cho anh em biết: ông Ê-li-a đã đến,
và họ đã xử với ông theo ý họ muốn, như Sách Thánh đã chép về ông.”
Đức
Giê-su chữa người bị quỷ ám mắc bệnh động kinh (Mt 17:14-21; Lc 9:37-43 a)
14
Khi
Đức Giê-su và ba môn đệ trở lại với các môn đệ khác, thì thấy một đám người rất
đông đang vây quanh các ông, và các kinh sư tranh luận với các ông. 15 Thấy
Đức Giê-su, lập tức tất cả đám đông kinh ngạc. Họ chạy lại chào Người. 16 Người
hỏi các môn đệ: ”Anh em tranh luận gì với họ thế?” 17 Một người
trong đám đông trả lời: ”Thưa Thầy, tôi đã đem con trai tôi lại cùng Thầy; cháu
bị quỷ câm ám. 18 Bất cứ ở đâu, hễ quỷ nhập vào là vật cháu xuống.
Cháu sùi bọt mép, nghiến răng, cứng đờ người ra. Tôi đã nói với các môn đệ Thầy
để họ trừ tên quỷ đó, nhưng các ông không làm nổi.” 19 Người đáp:
”Ôi thế hệ cứng lòng, không chịu tin! Tôi phải ở cùng các người cho đến bao
giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa? Đem nó lại đây cho tôi.”
20 Người ta đem nó lại cho Người. Vừa thấy Người, quỷ liền lay nó
thật mạnh, nó ngã xuống đất, lăn lộn, sùi cả bọt mép. 21 Người hỏi
cha nó: ”Cháu bị như thế từ bao lâu rồi?” Ông ấy đáp: ”Thưa từ thuở bé. 22
Nhiều khi quỷ xô nó vào lửa hoặc đẩy xuống nước cho nó chết. Nhưng nếu
Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi.” 23
Đức Giê-su nói với ông ta: ”Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Mọi sự đều có
thể đối với người tin.” 24 Lập tức, cha đứa bé kêu lên: ”Tôi tin!
Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi!” 25 Khi thấy đám đông
tuôn đến, Đức Giê-su quát mắng tên quỷ: ”Thần câm điếc kia, Ta truyền cho
ngươi: ra khỏi đứa bé và không được nhập vào nó nữa!” 26 Quỷ thét
lên, lay nó thật mạnh, rồi ra khỏi. Đứa bé ra như chết, khiến cho nhiều người
nói: ”Nó chết rồi!” 27 Nhưng Đức Giê-su cầm lấy tay nó, đỡ nó dậy,
và nó đứng lên. 28 Khi Người vào nhà, các môn đệ mới hỏi riêng
Người: ”Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” 29 Người
đáp: ”Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi.”
Đức
Giê-su loan báo lần thứ hai cuộc Thương Khó và Phục Sinh (Mt 17:22-23; Lc 9:43
b-45)
30
Đức
Giê-su và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Ga-li-lê. Nhưng Đức Giê-su
không muốn cho ai biết, 31 vì Người đang dạy các môn đệ rằng: ”Con
Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị
giết chết, Người sẽ sống lại.” 32 Nhưng các ông không hiểu lời đó,
và các ông sợ không dám hỏi lại Người.
Ai
là người lớn hơn hết? (Mt 18:1-5; Lc 9:46-48)
33
Sau
đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Đức
Giê-su hỏi các ông: ”Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” 34 Các
ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả.
35 Rồi Đức Giê-su ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: ”Ai muốn
làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.”
36 Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó
và nói: 37 “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp
đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là
tiếp đón Đấng đã sai Thầy.”
Ai
không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta (Lc 9:49-50)
38
Ông
Gio-an nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà
trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.” 39 Đức
Giê-su bảo: ”Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm
phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. 40 Quả thật, ai
không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta.
Bác
ái đối với môn đệ
41 “Ai cho anh em uống
một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki-tô, thì Thầy bảo thật anh em, người
đó sẽ không mất phần thưởng đâu.
Đừng
làm cớ cho người khác và cho mình sa ngã (Mt 18:6-9; Lc 17:1-2)
42 “Ai làm cớ cho một
trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ
nó mà ném xuống biển còn hơn. 43 Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã,
thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay
mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt. 44 [ ]45 Nếu chân
anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi
sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục. 46 [ ]47 Nếu
mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước
Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, 48 nơi
giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt. 49 Quả thật, ai nấy sẽ
được luyện bằng lửa như thể ướp bằng muối. 50 Muối là cái gì tốt.
Nhưng muối mà hết mặn, thì anh em sẽ lấy gì ướp cho mặn lại? Anh em hãy giữ
muối trong lòng anh em, và sống hoà thuận với nhau.”
Chương 10
Vấn
đề ly dị (Mt 19:1-9; Lc 16:18)
1
Đức
Giê-su bỏ nơi đó, đi tới miền Giu-đê và vùng bên kia sông Gio-đan. Đông đảo dân
chúng lại tuôn đến với Người. Và như thường lệ, Người lại dạy dỗ họ. 2 Có
mấy người Pha-ri-sêu đến gần Đức Giê-su và hỏi rằng: ”Thưa Thầy, chồng có được
phép rẫy vợ không?” Họ hỏi thế là để thử Người. 3 Người đáp: ”Thế
ông Mô-sê đã truyền dạy các ông điều gì?” 4 Họ trả lời: ”Ông Mô-sê
đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ.” 5 Đức Giê-su nói với họ:
”Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các
ông. 6 Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên
con người có nam có nữ; 7 vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn
bó với vợ mình, 8 và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ
không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. 9 Vậy, sự gì
Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” 10 Khi về
đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy. 11 Người nói: ”Ai rẫy
vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; 12 và ai
bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình.”
Đức
Giê-su và các trẻ em (Mt 19:13-15; Lc 18:15-17)
13
Người
ta dẫn trẻ em đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ
la rầy chúng. 14 Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: ”Cứ để
trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai
giống như chúng. 15 Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước
Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” 16 Rồi
Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng.
Người
giàu có muốn theo Đức Giê-su (Mt 19:16-22; Lc 18:18-23)
17
Đức
Giê-su vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và
hỏi: ”Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia
nghiệp?” 18 Đức Giê-su đáp: ”Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có
ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 19 Hẳn anh biết các điều
răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm
hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.” 20 Anh ta nói: ”Thưa Thầy, tất cả
những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” 21 Đức Giê-su đưa mắt
nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: ”Anh chỉ thiếu có một điều,
là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên
trời. Rồi hãy đến theo tôi.” 22 Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt
và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
Người
giàu có khó vào Nước Thiên Chúa (Mt 19:23-26; Lc 18:24-27)
23
Đức
Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: ”Những người có của
thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” 24 Nghe Người nói thế, các
môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: ”Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa
thật khó biết bao! 25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước
Thiên Chúa.” 26 Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau:
”Thế thì ai có thể được cứu?” 27 Đức Giê-su nhìn thẳng vào các ông
và nói: ”Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì
không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.”
Đức
Giê-su hứa ban phần thưởng cho người biết từ bỏ (Mt 19:27-30; Lc 18:28-30)
28
Ông
Phê-rô lên tiếng thưa Người: ”Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự
mà theo Thầy!” 29 Đức Giê-su đáp: ”Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có
ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin
Mừng, 30 mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa,
anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự
sống vĩnh cửu ở đời sau. 31 Quả thật, nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải
xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.”
Đức
Giê-su loan báo lần thứ ba cuộc Thương Khó và Phục Sinh (Mt 20:17-19; Lc 18:31-34)
32
Đức
Giê-su và các môn đệ đang trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người dẫn đầu các ông.
Các ông kinh hoàng, còn những kẻ theo sau cũng sợ hãi. Người lại kéo riêng Nhóm
Mười Hai ra, và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy đến cho mình: 33
“Này chúng ta lên Giê-ru-sa-lem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và
kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. 34 Họ
sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người. Ba
ngày sau, Người sẽ sống lại.”
Lời
xin của hai người con ông Dê-bê-đê (Mt 20:20-23)
35
Hai
người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an đến gần Đức Giê-su và nói: ”Thưa
Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” 36
Người hỏi: ”Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” 37 Các
ông thưa: ”Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người
được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” 38 Đức Giê-su bảo:
”Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay
chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” 39 Các ông đáp: ”Thưa
được.” Đức Giê-su bảo: ”Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy
sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. 40 Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả
Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ
ấy mới được.”
Người
làm đầu phải hầu hạ (Mt 20:24-28)
41
Nghe
vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an. 42 Đức
Giê-su gọi các ông lại và nói: ”Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh
các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai
quản dân. 43 Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm
lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; 44 ai muốn làm
đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. 45 Vì Con Người đến không
phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá
chuộc muôn người.”
Người
mù ở Giê-ri-khô (Mt 20:29-34; Lc 18:35-43)
46
Đức
Giê-su và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Đức Giê-su cùng với các môn đệ
và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, thì có một người mù đang
ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. 47 Vừa
nghe nói đó là Đức Giê-su Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: ”Lạy ông
Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” 48 Nhiều người quát
nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: ”Lạy Con vua Đa-vít, xin
dủ lòng thương tôi!” 49 Đức Giê-su đứng lại và nói: ”Gọi anh ta lại
đây!” Người ta gọi anh mù và bảo: ”Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!” 50
Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su. 51
Người hỏi: ”Anh muốn tôi làm gì cho anh?” Anh mù đáp: ”Thưa Thầy, xin cho
tôi nhìn thấy được.” 52 Người nói: ”Anh hãy đi, lòng tin của anh đã
cứu anh!” Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người
đi.
Chương 11
IV.
SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊ-SU TẠI GIÊ-RU-SA-LEM
Đức
Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a (Mt 21:1-11; Lc 19:28-40;
Ga 12, 12-19)
1
Khi
Đức Giê-su và các môn đệ đến gần thành Giê-ru-sa-lem, gần làng Bết-pha-ghê và
Bê-ta-ni-a, bên triền núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ 2 và bảo: ”Các anh đi vào
làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ,
đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây. 3 Nếu có ai
bảo: ”Tại sao các anh làm như vậy?”, thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ
gởi lại đây ngay.” 4 Các ông ra đi và thấy một con lừa con cột ngoài
cửa ngõ, ngay mặt đường. Các ông liền cởi dây lừa ra. 5 Mấy người
đứng đó nói với các ông: ”Các anh cởi con lừa ra làm gì vậy?” 6 Hai
ông trả lời như Đức Giê-su đã dặn. Và họ để mặc các ông. 7 Hai ông
đem con lừa về cho Đức Giê-su, lấy áo choàng của mình trải lên lưng nó, và Đức
Giê-su cỡi lên. 8 Nhiều người cũng lấy áo choàng trải xuống mặt
đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. 9 Người
đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: ”Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân
danh Đức Chúa! 10 Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ phụ
chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!” 11 Đức Giê-su vào
Giê-ru-sa-lem và đi vào Đền Thờ. Người rảo mắt nhìn xem mọi sự, và vì giờ đã
muộn, Người đi ra Bê-ta-ni-a cùng với Nhóm Mười Hai.
Cây
vả không sinh trái (Mt 21:18-19)
12
Hôm
sau, khi thầy trò rời khỏi Bê-ta-ni-a, thì Đức Giê-su cảm thấy đói. 13 Trông
thấy ở đàng xa có một cây vả tốt lá, Người đến xem có tìm được trái nào không.
Nhưng khi lại gần, Người không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi, vì không phải
là mùa vả. 14 Người lên tiếng bảo cây vả: ”Muôn đời sẽ chẳng còn ai
ăn trái của mày nữa!” Các môn đệ đã nghe Người nói thế.
Đức
Giê-su xua đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ (Mt 21:12-17; Lc 19:45-48;
Ga 2:13-22)
15
Thầy
trò đến Giê-ru-sa-lem. Đức Giê-su vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang
mua bán trong Đền Thờ, lật bàn của những người đổi bạc và xô ghế của những kẻ
bán bồ câu. 16 Người không cho ai được mang đồ vật gì đi qua Đền Thờ.
17 Người giảng dạy và nói với họ: ”Nào đã chẳng có lời chép rằng:
Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của mọi dân tộc sao? Thế mà các người đã
biến thành sào huyệt của bọn cướp!” 18 Các thượng tế và kinh sư nghe
thấy vậy, thì tìm cách giết Đức Giê-su. Quả thế, họ sợ Người, vì cả đám đông
đều rất ngạc nhiên về lời giảng dạy của Người. 19 Chiều đến, Đức
Giê-su và các môn đệ ra khỏi thành.
Cây
vả bị khô héo. Đức tin và cầu nguyện (Mt 21:20-22)
20
Sáng
sớm, khi đi ngang cây vả, các ngài thấy nó đã chết khô tận rễ. 21 Ông
Phê-rô sực nhớ lại, liền thưa Đức Giê-su: ”Kìa Thầy xem: cây vả Thầy rủa đã
chết khô rồi!” 22 Đức Giê-su nói với các ông: ”Anh em hãy tin vào
Thiên Chúa. 23 Thầy bảo thật anh em: nếu có ai nói với núi này: ÀDời
chỗ đi, nhào xuống biển!, mà trong lòng chẳng nghi nan, nhưng tin rằng điều
mình nói sẽ xảy ra, thì sẽ được như ý. 24 Vì thế, Thầy nói với anh
em: tất cả những gì anh em cầu xin, anh em cứ tin là mình đã được rồi, thì sẽ
được như ý. 25 Khi anh em đứng cầu nguyện, nếu anh em có chuyện bất
bình với ai, thì hãy tha thứ cho họ, để Cha của anh em là Đấng ngự trên trời,
cũng tha lỗi cho anh em. (26 Nhưng nếu anh em không tha thứ, thì Cha của anh em
là Đấng ngự trên trời, cũng sẽ không tha lỗi cho anh em).”
Người
Do-thái chất vấn Đức Giê-su về thẩm quyền của Người (Mt 21:23-27; Lc 20:1-8)
27
Đức
Giê-su và các môn đệ lại vào Giê-ru-sa-lem. Người đang đi trong Đền Thờ, thì
các thượng tế, kinh sư và kỳ mục đến cùng Người và hỏi: 28 “Ông lấy
quyền nào mà làm các điều ấy, hay ai đã cho ông quyền làm các điều ấy?” 29
Đức Giê-su đáp: ”Tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi. Các ông trả lời
đi, rồi tôi sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. 30
Vậy, phép rửa của ông Gio-an là do Trời hay do người ta? Các ông trả lời
cho tôi đi!” 31 Họ bàn với nhau: ”Nếu mình nói: ”Do Trời”, thì ông
ấy sẽ vặn lại: ”Thế sao các ông lại không tin ông ấy? 32 Nhưng chẳng lẽ mình
nói: ”Do người ta” ?” Họ sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an thật là một
ngôn sứ. 33 Họ mới trả lời Đức Giê-su: ”Chúng tôi không biết.” Đức
Giê-su liền bảo họ: ”Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói cho các ông là tôi lấy
quyền nào mà làm các điều ấy.”
Chương 12
Dụ
ngôn những người làm vườn nho sát nhân (Mt 21:33-46; Lc 20:9-19)
1
Đức
Giê-su bắt đầu dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: ”Có người kia trồng được một
vườn nho; ông rào giậu chung quanh, đào bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông
cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. 2 Đến mùa, ông sai một đầy tớ
đến gặp các tá điền để thu hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp. 3 Nhưng
họ bắt người đầy tớ, đánh đập và đuổi về tay không. 4 Ông lại sai
một đầy tớ khác đến với họ. Họ đánh vào đầu anh ta và hạ nhục. 5 Ông
sai một người khác nữa, họ cũng giết luôn. Rồi ông lại sai nhiều người khác: kẻ
thì họ đánh, người thì họ giết. 6 Ông chỉ còn một người nữa là người
con yêu dấu: người này là người cuối cùng ông sai đến gặp họ; ông nói: ”Chúng
sẽ nể con ta.” 7 Nhưng bọn tá điền ấy bảo nhau: ”Đứa thừa tự đây
rồi! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta.” 8 Thế là họ
bắt cậu, giết chết rồi quăng ra bên ngoài vườn nho. 9 Vậy ông chủ
vườn nho sẽ làm gì? Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho
người khác. 10 Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao? Tảng đá thợ
xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. 11 Đó chính là công
trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta!
12
Họ
tìm cách bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân chúng; quả vậy, họ thừa hiểu Người đã
nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy. Thế là họ để Người lại đó mà đi.
Vấn
đề nộp thuế cho hoàng đế Xê-da (Mt 22:15-22; Lc 20:20-26)
13
Họ
cử mấy người Pha-ri-sêu và mấy người thuộc phe Hê-rô-dê đến cùng Người để Người
phải lỡ lời mà mắc bẫy. 14 Những người này đến và nói: ”Thưa Thầy,
chúng tôi biết Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ
bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên
Chúa. Vậy có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không? Chúng tôi phải nộp hay
không phải nộp?” 15 Nhưng Đức Giê-su biết họ giả hình, nên Người
nói: ”Tại sao các người lại thử tôi? Đem một đồng bạc cho tôi xem!” 16 Họ
liền đưa cho Người. Người hỏi: ”Hình và danh hiệu này là của ai đây?” Họ đáp:
”Của Xê-da.” 17 Đức Giê-su bảo họ: ”Của Xê-da, trả về Xê-da; của
Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.” Và họ hết sức ngạc nhiên về Người.
Vấn
đề người chết sống lại (Mt 22:23-33; Lc 20:27-40)
18
Có
những người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có
sự sống lại. Họ hỏi Người: 19 “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho
chúng ta rằng: ”Nếu anh hay em của người nào chết đi, để lại vợ mà không để lại
con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình.” 20
Vậy có bảy anh em trai. Người thứ nhất lấy vợ, nhưng chết đi mà không để
lại một đứa con nối dòng. 21 Người thứ hai lấy bà đó, rồi cũng chết
mà không để lại một đứa con nối dòng. Người thứ ba cũng vậy. 22 Cả
bảy người đều không để lại một đứa con nối dòng. Sau cùng, người đàn bà cũng
chết. 23 Trong ngày sống lại, khi họ sống lại, bà ấy sẽ là vợ của ai
trong số họ? Vì bảy người đó đã lấy bà làm vợ.”
24
Đức
Giê-su nói: ”Chẳng phải vì không biết Kinh Thánh và quyền năng Thiên Chúa mà
các ông lầm sao? 25 Quả vậy, khi người ta từ cõi chết sống lại, thì chẳng còn
lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời. 26 Còn
về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, các ông đã không đọc trong sách Mô-sê đoạn nói về
bụi gai sao? Thiên Chúa phán với ông ấy thế nào? Người phán: Ta là Thiên Chúa
của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. 27 Người
không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Các ông lầm to!”
Điều
răn đứng hàng đầu (Mt 23:34-40; Lc 10:25-28)
28
Có
một người trong các kinh sư đã nghe Đức Giê-su và những người thuộc nhóm Xa-đốc
tranh luận với nhau. Thấy Đức Giê-su đối đáp hay, ông đến gần Người và hỏi:
”Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” 29 Đức Giê-su
trả lời: ”Điều răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Ít-ra-en, Đức Chúa, Thiên Chúa
chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. 30 Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.
31 Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính
mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” 32 Ông
kinh sư nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa
là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác. 33 Yêu mến
Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính
mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” 34 Đức Giê-su
thấy ông ta trả lời khôn ngoan như vậy, thì bảo: ”Ông không còn xa Nước Thiên
Chúa đâu!” Sau đó, không ai dám chất vấn Người nữa.
Đấng
Ki-tô là Con và là Chúa của vua Đa-vít (Mt 22:41-46; Lc 20:41-44)
35
Khi
giảng dạy trong Đền Thờ, Đức Giê-su lên tiếng hỏi: ”Sao các kinh sư lại nói
Đấng Ki-tô là con vua Đa-vít? 36 Chính vua Đa-vít được Thánh Thần soi sáng đã
nói: Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi: bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để
rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt dưới chân Con.
37
Chính
vua Đa-vít gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng, thì Đấng Ki-tô lại là con vua ấy thế
nào được?” Đám người đông đảo nghe Đức Giê-su cách thích thú.
Đức
Giê-su lên án các kinh sư (Mt 23:1-36; Lc 20:45-47)
38
Trong
lúc giảng dạy, Đức Giê-su nói rằng: ”Anh em phải coi chừng những ông kinh sư ưa
dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những
nơi công cộng. 39 Họ ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích
ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. 40 Họ nuốt hết tài sản của các bà goá,
lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm
khắc hơn.”
Tiền
dâng cúng của bà goá nghèo (Lc 21:1-4)
41
Đức
Giê-su ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem
đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. 42 Cũng
có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng
xu Rô-ma. 43 Đức Giê-su liền gọi các môn đệ lại và nói: ”Thầy bảo
thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. 44 Quả
vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này,
thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì
bà có để nuôi sống mình.”
Chương 13
Bài
giảng cánh chung: Nhập đề (Mt 24:1-3; Lc 21:5-6)
1
Đang
khi Đức Giê-su ra khỏi Đền Thờ, thì một trong các môn đệ nói với Người: ”Thưa
Thầy, Thầy xem: đá lớn thật! Công trình kiến trúc vĩ đại thật!” 2 Đức
Giê-su đáp: ”Anh nhìn ngắm công trình vĩ đại đó ư? Tại đây, sẽ không còn tảng
đá nào trên tảng đá nào; tất cả đều sẽ bị phá đổ.”
3
Lúc
Đức Giê-su ngồi trên núi Ô-liu, đối diện với Đền Thờ, các ông Phê-rô,
Gia-cô-bê, Gio-an và An-rê hỏi riêng Người: 4 “Xin Thầy nói cho
chúng con biết bao giờ các sự việc ấy sẽ xảy ra, và khi tất cả sắp đến hồi
chung cục, thì có điềm gì báo trước?”
Khởi
đầu các cơn đau đớn (Mt 24:4-13; Lc 21:8-19)
5
Đức
Giê-su bắt đầu nói với các ông: ”Anh em hãy coi chừng kẻo bị người ta lừa gạt. 6
Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: ”Chính Ta đây!”, và họ sẽ lừa
gạt được nhiều người. 7 Khi anh em nghe có giặc giã và tin đồn giặc
giã, thì đừng khiếp sợ. Những việc đó phải xảy ra, nhưng chưa phải là chung cục.
8 Quả thế, dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ.
Sẽ có động đất ở nhiều nơi, sẽ có những cơn đói kém. Những sự việc ấy là khởi
đầu các cơn đau đớn.
9 “Phần anh em, anh em
hãy coi chừng! Người ta sẽ nộp anh em cho các hội đồng và các hội đường; anh em
sẽ bị đánh đòn; anh em sẽ phải ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm
chứng cho họ được biết. 10 Nhưng trước tiên, Tin Mừng phải được rao
giảng cho mọi dân tộc.
11 “Khi người ta điệu
anh em đi nộp, thì anh em đừng lo trước phải nói gì, nhưng trong giờ đó, Thiên
Chúa cho anh em biết điều gì, thì hãy nói điều ấy: thật vậy, không phải chính
anh em nói, mà là Thánh Thần nói. 12 Anh em sẽ nộp nhau cho người ta
giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ
phải chết. 13 Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng
kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
Những
ngày gian nan tại Giê-ru-sa-lem (Mt 24:15-28; Lc 21:20-24)
14 “Khi anh em thấy
Đồ-Ghê-Tởm-Khốc-Hại đứng ở nơi nó không được phép đứng-người đọc hãy lo mà
hiểu!-, thì bấy giờ ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi; 15 ai ở trên
sân thượng thì đừng xuống và đừng vào lấy gì ra khỏi nhà; 16 ai ở
ngoài đồng, đừng trở lại lấy áo choàng của mình. 17 Khốn thay những
người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó! 18 Anh em
hãy cầu xin cho điều ấy đừng xảy ra vào mùa đông. 19 Vì những ngày
đó sẽ là những ngày gian nan đến mức từ lúc khởi đầu, khi Thiên Chúa tạo thành
vạn vật cho đến bây giờ, chưa khi nào xảy ra và sẽ không còn xảy ra như vậy nữa.
20 Nếu Chúa không rút ngắn những ngày ấy lại, thì không ai được cứu
thoát; nhưng vì những kẻ Người đã tuyển chọn, Người đã rút ngắn những ngày ấy
lại. 21 Bấy giờ, nếu có ai bảo anh em: ”Này, Đấng Ki-tô ở đây! Kìa,
Đấng Ki-tô ở đó!”, anh em đừng có tin. 22 Thật vậy, sẽ có những
ki-tô giả và ngôn sứ giả xuất hiện, làm những dấu lạ và những việc phi thường,
để lừa gạt những người đã được tuyển chọn, nếu có thể. 23 Phần anh
em, hãy coi chừng: Thầy đã báo trước tất cả cho anh em!
Con
Người quang lâm (Mt 24:29-31; Lc 21:25-28)
24 “Nhưng trong những
ngày đó, sau cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn
chiếu sáng, 25 các ngôi sao từ trời sa xuống, và các quyền lực trên
trời bị lay chuyển. 26 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền
năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. 27 Lúc đó, Người sẽ sai
các thiên sứ đi, và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn
phương về, từ đầu mặt đất cho đến cuối chân trời.
Dụ
ngôn cây vả (Mt 24:32-36; Lc 21:29-33)
28 “Anh em cứ lấy thí dụ
cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết
là mùa hè đã đến gần. 29 Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra,
anh em hãy biết là Con Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi. 30 Thầy
bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. 31
Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu. 32
“Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời
hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi.
Phải
tỉnh thức và sẵn sàng (Mt 24:36-44)
33 “Anh em phải coi
chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. 34 Cũng
như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình,
chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. 35
Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc
chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. 36 Anh em phải canh
thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. 37 Điều
Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh
thức!”
Chương 14
V.
CUỘC THƯƠNG KHÓ VÀ PHỤC SINH CỦA ĐỨC GIÊ-SU
Người
Do-thái âm mưu hại Đức Giê-su (Mt 26:1-5; Lc 22:1-2; Ga 11:45-53)
1
Hai
ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách
dùng mưu bắt Đức Giê-su và giết đi; 2 vì họ nói: ”Đừng làm vào chính
ngày lễ, kẻo dân chúng náo động.”
Xức
dầu tại Bê-ta-ni-a (Mt 26:6-13; Ga 12:1-8)
3
Lúc
đó, Đức Giê-su đang ở làng Bê-ta-ni-a, tại nhà ông Si-mon Cùi. Giữa lúc Người
dùng bữa, có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm
cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người. 4
Có vài người lấy làm bực tức, nói với nhau: ”Phí dầu thơm như thế để làm
gì? 5 Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người
nghèo.” Rồi họ gắt gỏng với cô. 6 Nhưng Đức Giê-su bảo họ: ”Cứ để
cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. 7
Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm
phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! 8 Điều gì
làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai
táng. 9 Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu
trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới
cô.”
Giu-đa
phản bội (Mt 26:14-16; Lc 22:3-6)
10
Giu-đa
Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người
cho họ. 11 Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giu-đa liền
tìm cách nộp Người sao cho tiện.
Chuẩn
bị ăn lễ Vượt Qua (Mt 26:17-19; Lc 22:7-13)
12
Ngày
thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ
thưa với Đức Giê-su: ”Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”
13 Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: ”Các anh đi vào thành, và sẽ
có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. 14 Người
đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: ”Cái phòng dành cho
tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ của tôi ở đâu? 15 Và ông ấy sẽ chỉ cho các
anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh
hãy dọn tiệc cho chúng ta.” 16 Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các
ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
Đức
Giê-su báo Giu-đa sẽ phản bội (Mt 26:20-25; Lc 22:21-23; Ga 13:21-30)
17
Chiều
đến, Đức Giê-su và Nhóm Mười Hai cùng tới. 18 Đang khi dùng bữa,
Người nói: ”Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là
người đang cùng ăn với Thầy.” 19 Các môn đệ đâm ra buồn rầu, và lần
lượt hỏi Người: ”Chẳng lẽ con sao?” 20 Người đáp: ”Chính là một
trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy. 21 Đã
hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp
Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!”
Đức
Giê-su lập bí tích Thánh Thể (Mt 26:26-29; Lc 22:14-20; ICo 11:23-25)
22
Cũng
đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho
các ông và nói: ”Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.” 23 Và Người
cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén
này. 24 Người bảo các ông: ”Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì
muôn người. 25 Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản
phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên
Chúa.”
Đức
Giê-su tiên báo ông Phê-rô sẽ chối Người (Mt 26:30-35; Lc 22:31-34; Ga 13:36-38)
26
Hát
thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu. 27 Đức
Giê-su nói với các ông: ”Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ
đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác. 28 Nhưng sau khi trỗi
dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em.” 29 Ông Phê-rô liền thưa:
”Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không.” 30 Đức
Giê-su nói với ông: ”Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy
hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần.” 31 Nhưng ông
Phê-rô lại nói quả quyết hơn: ”Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối
Thầy.” Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.
Tại
vườn Ghết-sê-ma-ni (Mt 26:36-46; Lc 22:39-46)
32
Sau
đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Người nói
với các ông: ”Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện.” 33 Rồi
Người đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo. Người bắt đầu cảm thấy
hãi hùng xao xuyến. 34 Người nói với các ông: ”Tâm hồn Thầy buồn đến
chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức.” 35 Người đi xa hơn một
chút, sấp mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể
được. 36 Người nói: ”Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén
này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn.” 37 Rồi
Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phê-rô: ”Si-mon, anh
ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao? 38 Anh em hãy canh thức và cầu nguyện
kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.” 39
Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. 40 Rồi Người
trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Các ông chẳng biết trả
lời làm sao với Người. 41 Lần thứ ba, Người trở lại và bảo các ông:
”Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người bị
nộp vào tay phường tội lỗi. 42 Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy
đã tới!”
Đức
Giê-su bị bắt (Mt 26:47-56; Lc 22:47-53; Ga 18:3-11)
43
Ngay
lúc đó, khi Người còn đang nói, thì Giu-đa, một người trong Nhóm Mười Hai, xuất
hiện. Cùng đi với hắn, có một đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các
thượng tế, kinh sư và kỳ mục sai đến. 44 Kẻ nộp Đức Giê-su đã cho họ
một ám hiệu, hắn dặn rằng: ”Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy
và điệu đi cho cẩn thận.” 45 Vừa tới, Giu-đa tiến lại gần Người và
nói: ”Thưa Thầy!”, rồi hôn Người. 46 Họ liền tra tay bắt Người. 47
Nhưng một trong những kẻ đang có mặt tại đó tuốt gươm ra, chém phải tên
đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai.
48
Đức
Giê-su nói với họ: ”Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc
đến bắt? 49 Ngày ngày, tôi vẫn ở giữa các ông, vẫn giảng dạy ở Đền Thờ, mà các
ông không bắt. Nhưng thế này là để lời Sách Thánh được ứng nghiệm.” 50 Bấy
giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết. 51 Trong khi đó có một cậu
thanh niên đi theo Người, mình khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh. 52
Anh liền trút tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng.
Đức
Giê-su ra trước Thượng Hội Đồng (Mt 26:57-68; Lc 22:54-55, 63-71; Ga 18:13-14,
19-24)
53
Họ
điệu Đức Giê-su đến vị thượng tế. Các thượng tế, kỳ mục và kinh sư tề tựu đông
đủ. 54 Ông Phê-rô theo Người xa xa, vào tận bên trong dinh thượng
tế, và ngồi sưởi bên đống lửa với đám thuộc hạ.
55
Bấy
giờ các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm lời chứng buộc tội Đức Giê-su
để lên án tử hình, nhưng họ tìm không ra, 56 vì tuy có nhiều kẻ đưa
chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau. 57
Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng: 58 “Chúng tôi có nghe
ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày,
tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!” 59 Nhưng
ngay về điểm này, chứng của họ cũng không ăn khớp với nhau.
60
Bấy
giờ vị thượng tế đứng lên giữa hội đồng hỏi Đức Giê-su: ”Ông không nói lại được
một lời sao? Mấy người này tố cáo ông gì đó?” 61 Nhưng Đức Giê-su
vẫn làm thinh, không đáp một tiếng. Vị thượng tế lại hỏi Người: ”Ông có phải là
Đấng Ki-tô, Con của Đấng Đáng Chúc Tụng không?” 62 Đức Giê-su trả lời:
”Phải, chính thế. Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và
ngự giá mây trời mà đến.” 63 Vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói:
”Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? 64 Quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên
Chúa, quý vị nghĩ sao?” Tất cả đều kết án Người đáng chết.
65
Thế
là một số bắt đầu khạc nhổ vào Người, bịt mặt Người lại, vừa đánh đấm Người vừa
nói: ”Hãy nói tiên tri đi!” Và đám thuộc hạ tát Người túi bụi.
26
Ông
Phê-rô chối Thầy (Mt 26, 69-75; Lc 22:56-62; Ga 18:15-18, 25-27)66 Ông Phê-rô
đang ở dưới sân, có một người tớ gái của thượng tế đi tới; 67 thấy
ông ngồi sưởi, cô ta nhìn ông chòng chọc mà nói: ”Cả bác nữa, bác cũng đã ở với
cái ông người Na-da-rét, ông Giê-su đó chứ gì!” 68 Ông liền chối:
”Tôi chẳng biết, chẳng hiểu cô muốn nói gì!” Rồi ông bỏ đi ra phía tiền sảnh.
Bấy giờ có tiếng gà gáy. 69 Người tớ gái thấy ông, lại bắt đầu nói
với những người đứng đó: ”Bác này cũng thuộc bọn chúng đấy.” 70 Nhưng
ông Phê-rô lại chối. Một lát sau, những người đứng đó lại nói với ông: ”Đúng là
bác thuộc bọn chúng, vì bác cũng là người Ga-li-lê!” 71 Nhưng ông
Phê-rô liền thốt lên những lời độc địa và thề rằng: ”Tôi thề là không có biết
người các ông nói đó!” 72 Ngay lúc đó, gà gáy lần thứ hai. Ông
Phê-rô sực nhớ điều Đức Giê-su đã nói với mình: ”Gà chưa kịp gáy hai lần, thì
anh đã chối Thầy đến ba lần.” Thế là ông oà lên khóc.
Chương 15
Đức
Giê-su ra trước tổng trấn Phi-la-tô (Mt 27:1-2. 11-26; Lc 23:1-5, 13-25; Ga 18:28-
19:16)
1
Vừa
tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể
Thượng Hội Đồng. Sau đó, họ trói Đức Giê-su lại và giải đi nộp cho ông
Phi-la-tô.
2
Ông
Phi-la-tô hỏi Người: ”Ông là vua dân Do-thái sao?” Người trả lời: ”Đúng như
ngài nói đó.” 3 Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, 4 nên
ông Phi-la-tô lại hỏi Người: ”Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông
biết bao nhiêu tội!” 5 Nhưng Đức Giê-su không trả lời gì nữa, khiến
ông Phi-la-tô phải ngạc nhiên.
6
Vào
mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho dân một người tù, tuỳ ý họ xin. 7
Khi ấy có một người tên là Ba-ra-ba, đang bị giam với những tên phiến
loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. 8 Đám đông kéo nhau lên yêu
cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. 9 Đáp lời họ yêu cầu, ông
Phi-la-tô hỏi: ”Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Do-thái
không?” 10 Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp
Người. 11 Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ông Phi-la-tô
phóng thích tên Ba-ra-ba thì hơn. 12 Ông Phi-la-tô lại hỏi: ”Vậy ta
phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Do-thái?” 13 Họ
la lên: ”Đóng đinh nó vào thập giá!” 14 Ông Phi-la-tô lại hỏi:
”Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?” Họ càng la to: ”Đóng đinh nó vào thập
giá!” 15 Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Phi-la-tô phóng thích tên
Ba-ra-ba, truyền đánh đòn Đức Giê-su, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập
giá.
Đức
Giê-su đội vòng gai (Mt 27:27-31; Ga 19:2-3)
16
Lính
điệu Đức Giê-su vào bên trong công trường, tức là dinh tổng trấn, và tập trung
cả cơ đội lại. 17 Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một
vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. 18 Rồi chúng bái chào
Người: ”Vạn tuế đức vua dân Do-thái!” 19 Chúng lấy cây sậy đập lên
đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. 20 Chế giễu chán,
chúng lột áo điều ra, và cho Người mặc áo lại như trước. Sau đó, chúng dẫn
Người đi để đóng đinh vào thập giá.
Đường
lên Gôn-gô-tha (Mt 27:32-33; Lc 23:26. 33; Ga 19:16 b-17)
21
Lúc
ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê.
Ông là thân phụ hai ông A-lê-xan-đê và Ru-phô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ
Đức Giê-su. 22 Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Gôn-gô-tha, nghĩa
là Đồi Sọ.
Đức
Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá (Mt 27:34-38; Lc 23:33-34. 38; Ga 19:18-24)
23
Chúng
trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống. 24 Chúng
đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai
được cái gì. 25 Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. 26 Bản
án xử tội Người viết rằng: ”Vua người Do-thái” . 27 Bên cạnh Người,
chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. (28 Thế
là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp. )
Đức
Giê-su ở trên thập giá bị sỉ vả nhạo cười (Mt 27:39-44; Lc 23:35-37)
29
Kẻ
qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: ”Ê, mi là kẻ phá Đền Thờ,
và nội trong ba ngày xây lại được, 30 có giỏi thì xuống khỏi thập
giá mà cứu mình đi!” 31 Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người
như vậy, họ nói với nhau: ”Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. 32
Ông Ki-tô vua Ít-ra-en, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng
ta thấy và tin.” Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.
Đức
Giê-su chết trên thập giá (Mt 27:45-54; Lc 23:44-48; Ga 19:28-30)
33
Vào
giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. 34 Vào
giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: ”Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-bác-tha-ni!”
Nghĩa là: ”Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” 35 Nghe
vậy, một vài người đứng đó liền nói: ”Kìa hắn kêu cứu ông Ê-li-a.” 36 Rồi
có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa
lên cho Người uống mà nói: ”Để xem ông Ê-li-a có đến đem hắn xuống không.” 37
Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. 38 Bức màn
trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. 39 Viên
đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Người tắt thở như vậy liền
nói: ”Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.”
Các
phụ nữ đạo đức trên Gôn-gô-tha (Mt 27:55-56; Lc 23:49)
40
Nhưng
cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà
Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê Thứ và Giô-xết, cùng bà Sa-lô-mê. 41 Các
bà này đã đi theo và giúp đỡ Đức Giê-su khi Người còn ở Ga-li-lê. Lại có nhiều
bà khác đã cùng với Người lên Giê-ru-sa-lem, cũng có mặt tại đó.
Đức
Giê-su được mai táng (Mt 27:57-61; Lc 23:50-56; Ga 19:38-42)
42
Chiều
đến, vì hôm ấy là ngày áp lễ, tức là hôm trước ngày sa-bát, 43 nên
ông Giô-xếp tới. Ông là người thành A-ri-ma-thê, thành viên có thế giá của hội
đồng, và cũng là người vẫn mong đợi Triều Đại của Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn
đến gặp tổng trấn Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su. 44 Nghe nói
Người đã chết, ông Phi-la-tô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng
đến, hỏi xem Người đã chết lâu chưa. 45 Sau khi nghe viên sĩ quan
cho biết sự việc, tổng trấn đã cho ông Giô-xếp lãnh lấy thi hài. 46 Ông
này mua một tấm vải gai, hạ xác Đức Giê-su xuống, lấy tấm vải ấy liệm Người
lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. 47
Còn bà Ma-ri-a Mác-đa-la và bà Ma-ri-a mẹ ông Giô-xết, thì để ý nhìn xem
chỗ họ mai táng Người.
Chương 16
Ngôi
mộ trống. Thiên thần báo tin (Mt 28:1-8; Lc 24:1-12; Ga 20:1-10)
1
Vừa
hết ngày sa-bát, bà Ma-ri-a Mác-đa-la với bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê, và bà
Sa-lô-mê, mua dầu thơm để đi ướp xác Đức Giê-su. 2 Sáng tinh sương
ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
3
Các
bà bảo nhau: ”Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?” 4 Nhưng
vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn
lắm. 5 Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải,
mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. 6 Nhưng người thanh niên liền nói:
”Đừng hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh chứ gì!
Người đã trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này! 7 Xin các
bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến Ga-li-lê trước các
ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông.” 8 Vừa
ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng
nói gì với ai, vì sợ hãi.
Đức
Giê-su phục sinh hiện ra (Mt 28:9-20; Lc 24:13-53; Ga 20:11-23; Cv 1:6-11)
9
Sau
khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giê-su hiện ra
trước tiên với bà Ma-ri-a Mác-đa-la, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. 10
Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã
khóc lóc. 11 Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các
ông vẫn không tin.
12
Sau
đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông,
khi họ đang trên đường đi về quê. 13 Họ trở về báo tin cho các ông
khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này.
14
Sau
cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người
khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những
kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy. 15 Người nói với các
ông: ”Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ
tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin,
thì sẽ bị kết án. 17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng
tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18
Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và
nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ.”
19
Nói
xong, Chúa Giê-su được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20 Còn
các Tông Đồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông,
và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
Lu-ca
Chương 1
Lời
tựa
1
Thưa
ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật
những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta. 2 Họ viết theo những
điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền
lại cho chúng ta. 3 Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu
đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, 4
mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững
chắc.
I.
THỜI THƠ ẤU: ÔNG GIO-AN TẨY GIẢ VÀ ĐỨC GIÊ-SU SINH RA VÀ SỐNG ẨN DẬT
Truyền
tin cho ông Da-ca-ri-a
5
Thời
vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là
Da-ca-ri-a; vợ ông là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. 6 Cả
hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi
điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. 7 Nhưng
họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã
cao niên.
8
Sau
đây là chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi
đến phiên của nhóm ông: 9 Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư
tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. 10 Trong
giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài.
11
Bỗng
một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. 12 Thấy
vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. 13 Nhưng
sứ thần bảo ông: ”Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông
cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải
đặt tên cho con là Gio-an. 14 Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều
người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. 15 Vì em bé sẽ nên
cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn
trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. 16 Em sẽ đưa nhiều con cái
Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. 17 Được đầy thần khí
và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha
ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo
chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa.” 18 Ông
Da-ca-ri-a thưa với sứ thần: ”Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã
già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi.” 19 Sứ thần đáp: ”Tôi là
Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và
loan báo tin mừng ấy cho ông. 20 Và này đây ông sẽ bị câm, không nói
được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là
những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi.” 21 Dân chúng đợi
ông Da-ca-ri-a, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế. 22
Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và dân chúng biết là ông đã thấy
một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm.
23
Khi
thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. 24 Ít lâu sau,
bà Ê-li-sa-bét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. 25 Bà tự nhủ:
”Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu
trước mặt người đời.”
Truyền
tin cho Đức Ma-ri-a
26
Bà
Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến
một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 27 gặp một trinh nữ đã
thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy
tên là Ma-ri-a.
28
Sứ
thần vào nhà trinh nữ và nói: ”Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở
cùng bà.” 29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy
có nghĩa gì.
30
Sứ
thần liền nói: ”Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. 31
Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. 32
Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là
Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. 33 Người
sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”
34
Bà
Ma-ri-a thưa với sứ thần: ”Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến
việc vợ chồng!”
35
Sứ
thần đáp: ”Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp
bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36
Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu
mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai
được sáu tháng. 37 Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể
làm được.”
38
Bấy
giờ bà Ma-ri-a nói: ”Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi
như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.
Đức
Ma-ri-a viếng thăm bà Ê-li-sa-bét
39
Hồi
ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa.
40 Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. 41 Bà
Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và
bà được đầy tràn Thánh Thần, 42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng: ”Em
được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được
chúc phúc. 43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế
này? 44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã
nhảy lên vui sướng. 45 Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực
hiện những gì Người đã nói với em.”
Bài
ca”Ngợi Khen” (Magnificat)
46
Bấy
giờ bà Ma-ri-a nói:
“
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47
thần
trí tôi hớn hở vui mừng
vì
Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48
Phận
nữ tỳ hèn mọn,
Người
đoái thương nhìn tới;
từ
nay, hết mọi đời
sẽ
khen tôi diễm phúc.
49
Đấng
Toàn Năng đã làm cho tôi
biết
bao điều cao cả,
danh
Người thật chí thánh chí tôn!
50
Đời
nọ tới đời kia,
Chúa
hằng thương xót những ai kính sợ Người.
51
Chúa
giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp
tan phường lòng trí kiêu căng.
52
Chúa
hạ bệ những ai quyền thế,
Người
nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53
Kẻ
đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người
giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54
Chúa
độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
55
như
đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì
Người nhớ lại lòng thương xót
dành
cho tổ phụ Áp-ra-ham
và
cho con cháu đến muôn đời.”
56
Bà
Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
Ông
Gio-an Tẩy Giả ra đời, láng giềng chia vui
57
Tới
ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Ê-li-sa-bét sinh hạ một con trai. 58 Nghe
biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với
bà.
Ông
Gio-an Tẩy Giả chịu phép cắt bì
59
Khi
con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là
Da-ca-ri-a mà đặt cho em. 60 Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: ”Không, phải
đặt tên cháu là Gio-an.” 61 Họ bảo bà: ”Trong họ hàng của bà, chẳng
ai có tên như vậy cả.” 62 Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông
muốn đặt tên cho em bé là gì. 63 Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết:
”Tên cháu là Gio-an.” Ai nấy đều bỡ ngỡ. 64 Ngay lúc ấy, miệng lưỡi
ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. 65 Láng giềng
ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giu-đê. 66
Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: ”Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào
đây?” Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em.
Bài
ca”Chúc Tụng” (Benedictus)
67
Bấy
giờ, người cha của em, tức là ông Da-ca-ri-a, được đầy Thánh Thần, liền nói
tiên tri rằng:
68
“Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en
đã
viếng thăm cứu chuộc dân Người.
69
Từ
dòng dõi trung thần Đa-vít,
Người
đã cho xuất hiện
Vị
Cứu Tinh quyền thế để giúp ta,
70
như
Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ
mà
phán hứa tự ngàn xưa:
71
sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù,
thoát
tay mọi kẻ hằng ghen ghét;
72
sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên
và
nhớ lại lời xưa giao ước;
73
Chúa đã thề với tổ phụ Áp-ra-ham
rằng
sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù,
74
và cho ta chẳng còn sợ hãi,
75
để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người,
mà
phụng thờ Người suốt cả đời ta.
76
Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu
là
ngôn sứ của Đấng Tối Cao:
con
sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người,
77
bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ
là
tha cho họ hết mọi tội khiên.
78
Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn,
cho
Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta,
79soi
sáng những ai ngồi nơi tăm tối
và
trong bóng tử thần,
dẫn
ta bước vào đường nẻo bình an” .
Ông
Gio-an Tẩy Giả sống ẩn dật
80
Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho
đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.
Chương 2
Đức
Giê-su ra đời. Những người chăn chiên đến viếng thăm (Mt 1:18-25)
1
Thời
ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên
hạ. 2 Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông
Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. 3 Ai nấy đều phải về nguyên quán
mà khai tên tuổi. 4 Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét, miền
Ga-li-lê lên thành vua Đa-vít tức là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình
dòng tộc vua Đa-vít. 5 Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành
hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. 6 Khi hai người đang
ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. 7 Bà sinh con
trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không
tìm được chỗ trong nhà trọ.
8
Trong
vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.
9 Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả
chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. 10 Nhưng sứ thần bảo họ:
”Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin
mừng cho toàn dân: 11 Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em
trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. 12 Anh em cứ
dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong
máng cỏ.” 13 Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng
ngợi khen Thiên Chúa rằng:
14 “Vinh danh Thiên Chúa
trên trời,
bình
an dưới thế cho loài người Chúa thương.”
15
Khi
các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau:
”Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta
biết.” 16 Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông
Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. 17 Thấy thế, họ liền
kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. 18 Nghe các người
chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. 19 Còn bà Ma-ri-a thì
hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. 20 Rồi
các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều
họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
Đức
Giê-su chịu phép cắt bì
21
Khi
Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên
cho Hài Nhi là Giê-su; đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người
được thụ thai trong lòng mẹ.
Tiến
dâng Đức Giê-su cho Thiên Chúa
22
Khi
đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se
đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép
trong Luật Chúa rằng: ”Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành
cho Chúa”, 24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một
đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có
một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong
chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26 Ông
đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi
được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông
lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật
đã truyền liên quan đến Người, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay,
và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
Bài
ca”An Bình Ra Đi” (Nunc dimittis)
29 “Muôn lạy Chúa, giờ
đây
theo
lời Ngài đã hứa,
xin
để tôi tớ này được an bình ra đi.
30
Vì
chính mắt con được thấy ơn cứu độ
31
Chúa
đã dành sẵn cho muôn dân:
32
Đó
là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là
vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”
Ông
Si-mê-ôn nói tiên tri
33
Cha
và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người. 34 Ông
Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi:
”Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống
hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; 35 và
như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi
gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.”
Bà
An-na nói tiên tri
36
Lại
cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà
đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37 rồi
ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu
nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. 38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến
lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong
chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
Đức
Giê-su tiếp tục sống ẩn dật tại Na-da-rét
39
Khi
hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là
thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê. 40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên,
thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
Đức
Giê-su ngồi giữa các bậc thầy Do-thái
41
Hằng
năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. 42 Khi
Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm
trong ngày lễ. 43 Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su
thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết. 44 Ông bà cứ
tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm
giữa đám bà con và người quen thuộc. 45 Không thấy con đâu, hai ông
bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.
46
Sau
ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy
dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. 47 Ai nghe cậu nói cũng ngạc
nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. 48 Khi thấy
con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: ”Con ơi, sao con lại xử
với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”
49 Người đáp: ”Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có
bổn phận ở nhà của Cha con sao?” 50 Nhưng ông bà không hiểu lời
Người vừa nói.
Đức
Giê-su còn sống ẩn dật tại Na-da-rét
51
Sau
đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các
ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. 52 Còn
Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với
Thiên Chúa và người ta.
Chương 3
II.
ĐỨC GIÊ-SU CHUẨN BỊ THI HÀNH SỨ MỆNH
Ông
Gio-an Tẩy Giả rao giảng (Mt 3:1-12; Mc 1:2-6; Ga 1:19-28)
1
Năm
thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Ti-bê-ri-ô, thời Phong-xi-ô Phi-la-tô làm tổng
trấn miền Giu-đê, Hê-rô-đê làm tiểu vương miền Ga-li-lê, người em là
Phi-líp-phê làm tiểu vương miền I-tu-rê và Tra-khô-nít, Ly-xa-ni-a làm tiểu
vương miền A-bi-lên, 2 Kha-nan và Cai-pha làm thượng tế, có lời
Thiên Chúa phán cùng con ông Da-ca-ri-a là ông Gio-an trong hoang địa. 3 Ông
liền đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa
tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội, 4 như có lời chép trong sách
ngôn sứ I-sai-a rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường
cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. 5 Mọi thung lũng, phải
lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay,
đường lồi lõm, phải san cho phẳng. 6 Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa.
7
Đám
đông lũ lượt kéo đến xin ông Gio-an làm phép rửa; ông nói với họ: ”Nòi rắn độc
kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng
xuống vậy? 8 Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối. Và đừng vội
nghĩ bụng rằng: Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham; vì, tôi nói cho các anh hay,
Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. 9
Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt
đi và quăng vào lửa.”
10
Đám
đông hỏi ông rằng: ”Chúng tôi phải làm gì đây?” 11 Ông trả lời: ”Ai
có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy.” 12
Cũng có những người thu thuế đến chịu phép rửa. Họ hỏi ông: ”Thưa thầy,
chúng tôi phải làm gì?” 13 Ông bảo họ: ”Đừng đòi hỏi gì quá mức đã
ấn định cho các anh.” 14 Binh lính cũng hỏi ông: ”Còn anh em chúng
tôi thì phải làm gì?” Ông bảo họ: ”Chớ hà hiếp ai, cũng đừng tống tiền người
ta, hãy an phận với số lương của mình.”
15
Hồi
đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông
Gio-an lại chẳng là Đấng Mê-si-a! 16 Ông Gio-an trả lời mọi người rằng: ”Tôi,
tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang
đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em
trong Thánh Thần và lửa. 17 Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân:
thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt
đi.” 18 Ngoài ra, ông còn khuyên dân nhiều điều khác nữa, mà loan
báo Tin Mừng cho họ.
Ông
Gio-an Tẩy Giả bị bỏ tù
19
Còn
tiểu vương Hê-rô-đê thì bị ông Gio-an khiển trách vì đã lấy bà Hê-rô-đi-a là vợ
của người anh, và vì tất cả các tội ác tiểu vương đã phạm. 20 Ngoài
ra, tiểu vương còn phạm thêm tội này là bỏ tù ông Gio-an.
Đức
Giê-su chịu phép rửa (Mt 3:13-17; Mc 1:9-11)
21
Khi
toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giê-su cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu
nguyện, thì trời mở ra, 22 và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới
hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày
hôm nay, Cha đã sinh ra Con.
Gia
phả Đức Giê-su Ki-tô (Mt 1:1-17)
23
Khi
Đức Giê-su khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ vẫn coi Người
là con ông Giu-se. Giu-se là con Ê-li, 24 Ê-li con Mát-tát, Mát-tát
con Lê-vi, Lê-vi con Man-ki, Man-ki con Gian-nai, Gian-nai con Giô-xếp. 25
Giô-xếp con Mát-tít-gia, Mát-tít-gia con A-mốt, A-mốt con Na-khum,
Na-khum con Khét-li, Khét-li con Nác-gai. 26 Nác-gai con Ma-khát,
Ma-khát con Mát-tít-gia, Mát-tít-gia con Sim-y, Sim-y con Giô-xếch, Giô-xếch
con Giô-đa. 27 Giô-đa con Giô-kha-nan, Giô-kha-nan con Rê-sa, Rê-sa
con Dơ-rúp-ba-ven, Dơ-rúp-ba-ven con San-ti-ên.
28
Nê-ri
con Man-ki, Man-ki con Át-đi, Át-đi con Cô-xam, Cô-xam con En-mơ-đam, En-mơ-đam
con E. 29 E con Giê-su, Giê-su con Ê-li-e-de, Ê-li-e-de con Giô-rim,
Giô-rim con Mát-tát, Mát-tát con Lê-vi. 30 Lê-vi con Si-mê-ôn,
Si-mê-ôn con Giu-đa, Giu-đa con Giô-xếp, Giô-xếp con Giô-nam, Giô-nam con
En-gia-kim, 31 En-gia-kim con Ma-li-a, Ma-li-a con Mi-na, Mi-na con
Mát-tát-ta, Mát-tát-ta con Na-than, Na-than con Đa-vít.
32
Đa-vít
con Gie-sê. Gie-sê con Ô-vết, Ô-vết con Bô-át, Bô-át con Xan-môn, Xan-môn con
Nác-sôn. 33 Nác-sôn con Am-mi-na-đáp, Am-mi-na-đáp con Át-min,
Át-min con Ác-ni, Ác-ni con Khét-rôn, Khét-rôn con Pe-rét, Pe-rét con Giu-đa. 34
Giu-đa con Gia-cóp, Gia-cóp con I-xa-ác, I-xa-ác con Áp-ra-ham.
35
Na-kho
con Xơ-rúc, Xơ-rúc con Rơ-u, Rơ-u con Pe-léc, Pe-léc con Ê-ve. Ê-ve con Se-lác.
36 Se-lác con Kê-nan, Kê-nan con Ác-pắc-sát, Ác-pắc-sát con Sêm, Sêm
con Nô-ê, Nô-ê con La-méc. 37 La-méc con Mơ-thu-se-lác.
Mơ-thu-se-lác con Kha-nốc, Kha-nốc con Gie-rét, Gie-rét con Ma-ha-lan-ên,
Ma-ha-lan-ên con Kên-nan. 38 Kên-nan con E-nốt, E-nốt con Sết, Sết
con A-đam và A-đam là con Thiên Chúa.
Chương 4
Đức
Giê-su chịu cám dỗ (Mt 4:1-11; Mc 1:12-13)
1
Đức
Giê-su được đầy Thánh Thần, từ sông Gio-đan trở về. 2 Suốt bốn mươi
ngày, Người được Thánh Thần dẫn đi trong hoang địa và chịu quỷ cám dỗ. Trong
những ngày ấy, Người không ăn gì cả, và khi hết thời gian đó, thì Người thấy
đói. 3 Bấy giờ, quỷ nói với Người: ”Nếu ông là Con Thiên Chúa thì
truyền cho hòn đá này hoá bánh đi!” 4 Nhưng Đức Giê-su đáp lại: ”Đã
có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh.”
5
Sau
đó, quỷ đem Đức Giê-su lên cao, và trong giây lát, chỉ cho Người thấy tất cả
các nước thiên hạ. 6 Rồi nó nói với Người: ”Tôi sẽ cho ông toàn
quyền cai trị cùng với vinh hoa lợi lộc của các nước này, vì quyền hành ấy đã
được trao cho tôi, và tôi muốn cho ai tuỳ ý. 7 Vậy nếu ông bái lạy
tôi, thì tất cả sẽ thuộc về ông.” 8 Đức Giê-su đáp lại: ”Đã có lời
chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ
phượng một mình Người mà thôi.”
9
Quỷ
lại đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với
Người: ”Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! 10 Vì đã
có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. 11 Lại
còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá.” 12
Bấy giờ Đức Giê-su đáp lại: ”Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa
là Thiên Chúa của ngươi.”
13
Sau
khi đã xoay hết cách để cám dỗ Người, quỷ bỏ đi, chờ đợi thời cơ.
III.
ĐỨC GIÊ-SU RAO GIẢNG TẠI MIỀN GA-LI-LÊ
Đức
Giê-su bắt đầu rao giảng (Mt 4:12-17; Mc 1:14-15)
14
Được
quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm
Người đồn ra khắp vùng lân cận. 15 Người giảng dạy trong các hội
đường, và được mọi người tôn vinh.
Đức
Giê-su tại Na-da-rét (Mt 13:53-58; Mc 6:1-6)
16
Rồi
Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như
Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. 17 Họ
trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: 18
Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan
báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm
biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người
bị áp bức, 19 công bố một năm hồng ân của Chúa.
20
Đức
Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy
trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. 21 Người bắt đầu nói với
họ: ”Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” 22 Mọi
người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
23
Người
nói với họ: ”Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy
chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um,
ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào!” 24 Người nói tiếp:
”Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
25 “Thật vậy, tôi nói
cho các ông hay: vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng,
cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en; 26 thế
mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà
goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. 27 Cũng vậy, vào thời ngôn sứ
Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào
được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi.”
28
Nghe
vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29 Họ đứng dậy, lôi
Người ra khỏi thành-thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi,
để xô Người xuống vực. 30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
Đức
Giê-su giảng dạy tại Ca-phác-na-um và chữa lành một người bị quỷ ám (Mc 1:21-28)
31
Người
xuống Ca-phác-na-um, một thành miền Ga-li-lê, và ngày sa-bát, Người giảng dạy
dân chúng. 32 Họ sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Người
có uy quyền.
33
Trong
hội đường, có một người bị quỷ thần ô uế nhập, la to lên rằng: 34 “Ông
Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng
tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” 35 Nhưng
Đức Giê-su quát mắng nó: ”Câm đi, hãy xuất khỏi người này!” Quỷ vật người ấy
ngã xuống giữa hội đường, rồi xuất khỏi anh ta, nhưng không làm hại gì anh. 36
Mọi người rất đỗi kinh ngạc và nói với nhau: ”Lời ấy là thế nào? Ông ấy
lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất!” 37
Và tiếng đồn về Người lan ra khắp nơi trong vùng.
Đức
Giê-su chữa bà mẹ vợ ông Si-môn (Mt 8:14-15; Mc 1:29-31)
38
Đức
Giê-su rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Si-môn. Lúc ấy, bà mẹ vợ ông Si-môn
đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà. 39 Đức Giê-su cúi xuống gần
bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất: tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các
ngài.
Đức
Giê-su chữa lành nhiều người đau yếu (Mt 8:16-17; Mc 1:32-34)
40
Lúc
mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa
tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ. 41 Quỷ cũng
xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng: ”Ông là Con Thiên Chúa!” Người quát
mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Ki-tô.
Đức
Giê-su rao giảng tại miền Giu-đê (Mc 1:35-39)
42
Sáng
ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã
đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. 43 Nhưng Người
nói với họ: ”Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác
nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.” 44 Và Người rao giảng
trong các hội đường miền Giu-đê.
Chương 5
Đức
Giê-su kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên (Mt 4:18-22; Mc 1:16-20)
1
Một
hôm, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến
gần Người để nghe lời Thiên Chúa. 2 Người thấy hai chiếc thuyền đậu
dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. 3
Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin
ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền
Người giảng dạy đám đông.
4
Giảng
xong, Người bảo ông Si-môn: ”Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” 5 Ông
Si-môn đáp: ”Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả.
Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” 6 Họ đã làm như vậy, và bắt
được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. 7 Họ làm hiệu cho
các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ
lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
8
Thấy
vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: ”Lạy Chúa, xin
tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” 9 Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt
được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. 10
Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông
Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: ”Đừng sợ, từ
nay anh sẽ là người thu phục người ta.” 11 Thế là họ đưa thuyền vào
bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.
Đức
Giê-su chữa người bị phong hủi (Mt 8:1-4; Mc 1:40-45)
12
Khi
ấy, Đức Giê-su đang ở trong một thành kia; có một người đầy phong hủi vừa thấy
Người, liền sấp mặt xuống, xin Người rằng: ”Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có
thể làm cho tôi được sạch.” 13 Người giơ tay đụng vào anh ta và bảo:
”Tôi muốn, anh sạch đi.” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh. 14 Rồi
Người truyền anh ta không được nói với ai, và Người bảo: ”Hãy đi trình diện tư
tế, và vì anh đã được sạch, thì hãy dâng của lễ như ông Mô-sê đã truyền, để làm
chứng cho người ta biết.”
15
Tiếng
đồn về Người ngày càng lan rộng; đám đông lũ lượt tuôn đến để nghe Người và để
được chữa bệnh. 16 Nhưng Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện.
Đức
Giê-su chữa người bại liệt (Mt 9:1-8; Mc 2:1-12)
17
Một
hôm, khi Đức Giê-su giảng dạy, có mấy người Pha-ri-sêu và luật sĩ ngồi đó; họ
từ khắp các làng mạc miền Ga-li-lê, Giu-đê và từ Giê-ru-sa-lem mà đến. Quyền
năng Chúa ở với Người, khiến Người chữa lành các bệnh tật. 18 Bỗng
có mấy người khiêng đến một bệnh nhân bị bại liệt nằm trên giường, họ tìm cách
đem vào đặt trước mặt Người. 19 Nhưng vì có đám đông, họ không tìm
được lối đem người ấy vào, nên họ mới lên mái nhà, dỡ ngói ra, thả người ấy
cùng với cái giường xuống ngay chính giữa, trước mặt Đức Giê-su. 20 Thấy
họ có lòng tin như vậy, Người bảo: ”Này anh, anh đã được tha tội rồi.”
21
Các
kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu suy nghĩ: ”Ông này là ai mà nói phạm
thượng như thế? Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?” 22 Nhưng
Đức Giê-su thấu biết họ đang suy nghĩ như thế, nên Người lên tiếng bảo họ rằng:
”Các ông đang nghĩ gì trong bụng vậy? 23 Trong hai điều: một là bảo: ”Anh đã
được tha tội rồi”, hai là bảo: ”Đứng dậy mà đi”, điều nào dễ hơn? 24 Vậy, để
các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội-Đức Giê-su bảo người
bại liệt-: tôi truyền cho anh: Hãy đứng dậy, vác lấy giường của anh mà đi về
nhà!” 25 Ngay lúc ấy, người bại liệt trỗi dậy trước mặt họ, vác cái
anh đã dùng để nằm, vừa đi về nhà vừa tôn vinh Thiên Chúa.
26
Mọi
người đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ kinh hãi bảo nhau: ”Hôm nay,
chúng ta đã thấy những chuyện lạ kỳ!”
Đức
Giê-su kêu gọi ông Lê-vi (Mt 9:9; Mc 2:13-14)
27
Sau
đó, Đức Giê-su đi ra và trông thấy một người thu thuế, tên là Lê-vi, đang ngồi
ở trạm thu thuế. Người bảo ông: ”Anh hãy theo tôi!” 28 Ông bỏ tất
cả, đứng dậy đi theo Người.
Đức
Giê–su dùng bữa với những người tội lỗi tại nhà ông Lê–vi (Mt 9, 10-13; Mc 2:15-17)
29
Ông
Lê-vi làm tiệc lớn đãi Người tại nhà ông. Có đông đảo người thu thuế và những
người khác cùng ăn với các ngài. 30 Những người Pha-ri-sêu và những
kinh sư thuộc nhóm của họ mới lẩm bẩm trách các môn đệ Đức Giê-su rằng: ”Sao
các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi?” 31 Đức Giê-su
đáp lại họ rằng: ”Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. 32
Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi
sám hối ăn năn.”
Tranh
luận về việc ăn chay (Mt 9:14-17; Mc 2:18-22)
33
Họ
nói với Người: ”Môn đệ ông Gio-an năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người
Pha-ri-sêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống!” 34 Đức Giê-su
trả lời: ”Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng
rể còn ở với họ? 35 Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi; ngày đó, họ mới ăn chay.”
36
Đức
Giê-su còn kể cho họ nghe dụ ngôn này: ”Chẳng ai xé áo mới lấy vải vá áo cũ, vì
như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới cũng không ăn với áo cũ.
37 “Không ai đổ rượu mới
vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư. 38
Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới. 39 Cũng không ai uống
rượu cũ mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói: ”Rượu cũ ngon hơn.”
Chương 6
Môn
đệ bứt lúa ăn ngày sa-bát (Mt 12:1-8; Mc 2:23-28)
1
Vào
một ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ bứt lúa,
vò trong tay mà ăn. 2 Nhưng có mấy người Pha-ri-sêu nói: ”Tại sao
các ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát?”
3
Đức
Giê-su trả lời: ”Các ông chưa đọc chuyện này trong Sách sao? Ông Đa-vít đã làm
gì khi ông và thuộc hạ đói bụng? 4 Ông vào nhà Thiên Chúa lấy bánh tiến mà ăn
và cho thuộc hạ ăn. Thứ bánh này, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi.” 5 Rồi
Người nói: ”Con Người làm chủ ngày sa-bát.”
Đức
Giê-su chữa người bại tay ngày sa-bát (Mt 12:9-14; Mc 3:1-6)
6
Một
ngày sa-bát khác, Đức Giê-su cũng vào hội đường và giảng dạy. Ở đó có một người
bị khô bại tay phải. 7 Các kinh sư và những người Pha-ri-sêu rình
xem Đức Giê-su có chữa người ấy trong ngày sa-bát không, để tìm được cớ tố cáo
Người. 8 Nhưng Người biết họ đang suy nghĩ như thế, nên bảo người
bại tay: ”Anh trỗi dậy, ra đứng giữa đây!” Người ấy liền trỗi dậy và đứng đó. 9
Đức Giê-su nói với họ: ”Tôi xin hỏi các ông: ngày sa-bát, được phép làm
điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay huỷ diệt?” 10 Người rảo
mắt nhìn họ tất cả, rồi bảo người bại tay: ”Anh giơ tay ra!” Anh ấy làm như vậy
và tay anh liền trở lại bình thường. 11 Nhưng họ thì giận điên lên,
và bàn nhau xem có làm gì được Đức Giê-su không.
Đức
Giê-su tuyển chọn mười hai Tông Đồ (Mt 10:1-4; Mc 3:13-19)
12
Trong
những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu
nguyện cùng Thiên Chúa. 13 Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn
lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ. 14 Đó là ông Si-môn mà Người gọi
là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an,
Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, 15 Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông
An-phê, Si-môn biệt danh là Quá Khích, 16 Giu-đa con ông Gia-cô-bê,
và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, người đã trở thành kẻ phản bội.
Dân
chúng kéo đến cùng Đức Giê-su (Mt 4:23-25)
17
Đức
Giê-su đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó,
đông đảo môn đệ của Người, và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê,
Giê-ru-sa-lem cũng như từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn 18 đến để nghe Người
giảng và để được chữa lành bệnh tật. Những kẻ bị các thần ô uế quấy nhiễu cũng
được chữa lành. 19 Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người, vì có một
năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người.
Bài
giảng khai mạc. Các mối phúc thật (Mt 5:1-12)
20
Đức
Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói:
“
Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó,
vì
Nước Thiên Chúa là của anh em.
21 “Phúc cho anh em là
những kẻ bây giờ đang phải đói,
vì
Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.
“
Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc,
vì
anh em sẽ được vui cười.
22 “Phúc cho anh em khi
vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu
xa. 23 Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng
dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị
cha ông họ đối xử như thế.
Các
mối hoạ
24 “Nhưng khốn cho các
ngươi là những kẻ giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.
25 “Khốn cho các ngươi,
hỡi những kẻ bây giờ đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói.
“
Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ đang được vui cười, vì các ngươi sẽ
phải sầu khổ khóc than.
26 “Khốn cho các ngươi
khi được mọi người ca tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối
xử như thế.
Yêu
thương kẻ thù (Mt 5:38-48; 7:12 a)
27 “Thầy nói với anh em
là những người đang nghe Thầy đây: hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em,
28 hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu
khống anh em. 29 Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia
nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản nó lấy áo trong. 30 Ai
xin, thì hãy cho, ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại. 31 Anh em
muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy. 32 Nếu
anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người
tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ. 33 Và nếu anh em làm ơn
cho kẻ làm ơn cho mình, thì còn gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng
làm như thế. 34 Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn
gì là ân với nghĩa? Cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả
lại sòng phẳng. 35 Trái lại, anh em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và
cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em
sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả
phường vô ân và quân độc ác.
Phải
có lòng nhân từ (Mt 7:1-2)
36 “Anh em hãy có lòng
nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. 37 Anh em đừng xét đoán,
thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị
Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. 38 Anh
em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ
lượng đã dằn, đã lắc và đầy tràn, mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng
đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy.”
Mù
mà lại dắt mù. Cái rác và cái xà (Mt 7:3-5)
39
Đức
Giê-su còn kể cho môn đệ dụ ngôn này: ”Mù mà lại dắt mù được sao? Lẽ nào cả hai
lại không sa xuống hố? 40 Học trò không hơn thầy, có học hết chữ cũng chỉ bằng
thầy mà thôi. 41 Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh
em, mà cái xà trong con mắt của chính mình thì lại không để ý tới? 42 Sao anh
lại có thể nói với người anh em: ”Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt
anh ra”, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt của mình? Hỡi
kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để lấy
cái rác trong con mắt người anh em!
Cây
nào trái ấy (Mt 7:15-20; 12:33-35)
43 “Không có cây nào tốt
mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt. 44 Thật
vậy, xem quả thì biết cây. Ở bụi gai, làm sao bẻ được vả, trong bụi rậm, làm gì
hái được nho! 45 Người tốt thì lấy ra cái tốt từ kho tàng tốt của lòng mình; kẻ
xấu thì lấy ra cái xấu từ kho tàng xấu. Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra.
Phải
thực hành lời Đức Giê-su dạy (Mt 7:24-27)
46 “Tại sao anh em gọi
Thầy: ”Lạy Chúa! Lạy Chúa!, mà anh em không làm điều Thầy dạy?
47 “Ai đến với Thầy, và
nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết
người ấy ví được như ai. 48 Người ấy ví được như một người khi xây
nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt dâng lên, dòng sông
có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã xây vững chắc. 49 Còn
ai nghe mà không thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay mặt đất, không
nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá huỷ tan tành.”
Chương 7
Đức
Giê-su chữa người nô lệ của một đại đội trưởng (Mt 8:5-13)
1
Sau
khi đã nói hết những lời ấy cho dân chúng nghe, Đức Giê-su vào thành
Ca-phác-na-um. 2 Một viên đại đội trưởng kia có người nô lệ bệnh
nặng gần chết. Ông ta yêu quý người ấy lắm. 3 Khi nghe đồn về Đức
Giê-su, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô
lệ của ông.
4
Họ
đến gặp Đức Giê-su và khẩn khoản nài xin Người rằng: ”Thưa Ngài, ông ấy đáng
được Ngài làm ơn cho. 5 Vì ông quý mến dân ta. Vả lại chính ông đã
xây cất hội đường cho chúng ta.” 6 Đức Giê-su liền đi với họ. Khi
Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này cho bạn hữu ra nói
với Người: ”Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước
Ngài vào nhà tôi. 7 Cũng vì thế, tôi không nghĩ mình xứng đáng đến
gặp Ngài. Nhưng xin Ngài cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi được khỏi bệnh. 8
Vì chính tôi đây, tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền
tôi. Tôi bảo người này: ”Đi! là nó đi; bảo người kia: ”Đến! là nó đến; và bảo
người nô lệ của tôi: ”Làm cái này! là nó làm.” 9 Nghe vậy, Đức
Giê-su thán phục ông ta, Người quay lại nói với đám đông đang theo Người rằng:
”Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Ít-ra-en, tôi cũng chưa thấy một
người nào có lòng tin mạnh như thế.” 10 Về đến nhà, những người đã
được sai đi thấy người nô lệ đã khỏi hẳn.
Đức
Giê-su cho con trai một bà goá thành Na-in sống lại
11
Sau
đó, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông
cùng đi với Người. 12 Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì đang lúc
người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ
anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. 13 Trông
thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: ”Bà đừng khóc nữa!” 14 Rồi
Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói: ”Này
người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!” 15 Người chết liền
ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. 16 Mọi
người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: ”Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất
hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người” . 17 Lời
này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.
Câu
hỏi của ông Gio-an Tẩy Giả và câu trả lời của Đức Giê-su (Mt 11:2-15)
18
Môn
đệ của ông Gio-an báo cho ông biết tất cả những việc ấy; ông Gio-an liền gọi
hai người trong nhóm môn đệ lại, 19 sai họ đến hỏi Chúa rằng: ”Thầy
có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” 20
Khi đến gặp Đức Giê-su, hai người ấy nói: ”Ông Gio-an Tẩy Giả sai chúng
tôi đến hỏi Thầy: ”Thầy có thật là “Đấng phải đến” không, hay là chúng tôi còn
phải đợi ai khác?” 21 Chính giờ ấy, Đức Giê-su chữa nhiều người khỏi
bệnh hoạn tật nguyền, khỏi quỷ ám, và ban ơn cho nhiều người mù được thấy. 22
Người trả lời hai người ấy rằng: ”Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an
những điều mắt thấy tai nghe: người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi
được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết trỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng,
23 và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”
24
Khi
những người ông Gio-an sai đến đã ra về, Đức Giê-su bắt đầu nói với đám đông về
ông Gio-an rằng: ”Anh em đi xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước
gió chăng? 25 Hẳn là không! Thế thì anh em đi xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa
là chăng? Nhưng kẻ áo quần lộng lẫy, đời sống xa hoa thì ở trong cung trong
điện. 26 Thế thì anh em đi xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế
đó; mà tôi nói cho anh em biết: đây còn hơn cả ngôn sứ nữa! 27 Chính ông là
người Thiên Chúa đã nói tới trong Kinh Thánh rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi
trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến!
28 “Tôi nói cho anh em
biết: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, không có ai cao trọng hơn ông Gio-an;
tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông. 29 Nghe
ông giảng, toàn dân, kể cả những người thu thuế, đều nhìn nhận Thiên Chúa là
Đấng Công Chính và đã chịu phép rửa của ông. 30 Còn những người
Pha-ri-sêu và các nhà thông luật thì khước từ ý định của Thiên Chúa về họ, và
không chịu phép rửa của ông.
Đức
Giê-su phán đoán về thế hệ của Người (Mt 11, 16-19)
31 “Vậy tôi phải ví
người thế hệ này với ai? Họ giống ai? 32 Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi
nhau mà nói:
“
Tụi tôi thổi sáo cho các anh,
mà
các anh không nhảy múa;
tụi
tôi hát bài đưa đám,
mà
các anh không khóc than.
33 “Thật vậy, ông Gio-an
Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ông bảo: ”Ông ta bị quỷ ám.
34 Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì các ông lại bảo:
”Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi. 35 Nhưng
Đức Khôn Ngoan đã được tất cả con cái mình biện minh cho.”
Người
phụ nữ tội lỗi đã được tha thứ và đã yêu mến Chúa nhiều
36
Có
người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến
nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn. 37 Bỗng một phụ nữ vốn là
người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông
Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. 38 Chị
đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị
lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.
39
Thấy
vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: ”Nếu quả thật ông này là
ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người
nào: một người tội lỗi!” 40 Đức Giê-su lên tiếng bảo ông: ”Này ông
Si-môn, tôi có điều muốn nói với ông!” Ông ấy thưa: ”Dạ, xin Thầy cứ nói.” 41
Đức Giê-su nói: ”Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan
tiền, một người năm chục. 42 Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã
thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?” 43
Ông Si-môn đáp: ”Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn.” Đức
Giê-su bảo: ”Ông xét đúng lắm.”
44
Rồi
quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Si-môn: ”Ông thấy người phụ nữ
này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy
đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. 45 Ông
đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân
tôi. 46 Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy
dầu thơm mà đổ lên chân tôi. 47 Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của
chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được
tha ít thì yêu mến ít.” 48 Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ: ”Tội
của chị đã được tha rồi.” 49 Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ
bụng: ”Ông này là ai mà lại tha được tội?” 50 Nhưng Đức Giê-su nói
với người phụ nữ: ”Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an.”
Chương 8
Những
người phụ nữ đi theo Đức Giê-su
1
Sau
đó, Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng
Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai 2 và mấy người phụ nữ đã
được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Ma-ri-a gọi là Ma-ri-a Mác-đa-la,
người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, 3 bà Gio-an-na, vợ ông Khu-da
quản lý của vua Hê-rô-đê, bà Su-san-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy
của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ.
Dụ
ngôn người gieo giống (Mt 13:1-9; Mc 4:1-9)
4
Người
ta tụ họp đông đảo. Từ khắp các thành thị, người ta kéo đến cùng Đức Giê-su.
Bấy giờ Người dùng dụ ngôn mà nói rằng:
5 “Người gieo giống đi
ra gieo hạt giống của mình. Trong khi người ấy gieo, thì có hạt rơi xuống vệ
đường, người ta giẫm lên và chim trời ăn mất. 6 Hạt khác rơi trên
đá, và khi mọc lên, lại héo đi vì thiếu ẩm ướt. 7 Có hạt rơi vào
giữa bụi gai, gai cùng mọc lên, làm nó chết nghẹt. 8 Có hạt lại rơi
nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm” . Nói xong, Người
hô lên rằng: ”Ai có tai nghe thì nghe.”
Tại
sao Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói (Mt 13:10-17; Mc 4:10-12)
9
Các
môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì. 10 Người đáp: ”Anh em thì
được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; còn với kẻ khác thì phải dùng
dụ ngôn để chúng nhìn mà không nhìn, nghe mà không hiểu.
Giải
nghĩa dụ ngôn người gieo giống (Mt 13:18-23; Mc 4:13-20)
11 “Đây là ý nghĩa dụ
ngôn: Hạt giống là lời Thiên Chúa. 12 Những kẻ ở bên vệ đường là
những kẻ đã nghe nhưng rồi quỷ đến cất Lời ra khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được
cứu độ. 13 Còn những kẻ ở trên đá là những kẻ khi nghe thì vui vẻ
tiếp nhận Lời, nhưng họ không có rễ. Họ tin nhất thời, và khi gặp thử thách, họ
bỏ cuộc. 14 Hạt rơi vào bụi gai: đó là những kẻ nghe, nhưng dọc
đường bị những nỗi lo lắng và vinh hoa phú quý cùng những khoái lạc cuộc đời
làm cho chết ngộp và không đạt tới mức trưởng thành. 15 Hạt rơi vào
đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm
giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả.
Lãnh
nhận và truyền bá giáo huấn của Đức Giê-su thế nào (Mc 4:21-25)
16 “Chẳng có ai đốt đèn,
rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường, nhưng đặt trên đế, để những ai đi
vào thì nhìn thấy ánh sáng. 17 Vì chẳng có gì bí ẩn mà lại không trở
nên hiển hiện, chẳng có gì che giấu mà người ta lại không biết và không bị đưa
ra ánh sáng. 18 Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe. Vì ai đã có,
thì được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái họ tưởng là có, cũng sẽ bị lấy
mất.”
Những
ai thật sự thuộc gia đình của Đức Giê-su (Mt 12:46-50; Mc 3:31-35)
19
Mẹ
và anh em Đức Giê-su đến gặp Người, mà không làm sao lại gần được, vì dân chúng
quá đông. 20 Người ta báo cho Người biết: ”Thưa Thầy, có mẹ và anh
em Thầy đang đứng ngoài kia, muốn gặp Thầy.” 21 Người đáp lại: ”Mẹ
tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành.”
Đức
Giê-su dẹp yên biển động (Mt 8:23-27; Mc 4:35-41)
22
Một
ngày nọ, Đức Giê-su xuống thuyền với các môn đệ. Người nói: ”Chúng ta sang bên
kia hồ đi!” Rồi thầy trò ra khơi. 23 Đang khi các ngài đi thuyền,
thì Đức Giê-su thiếp ngủ. Một trận cuồng phong ập xuống hồ; các ngài bị ngập
nước và lâm nguy. 24 Các môn đệ lại gần đánh thức Người dậy và nói:
”Thầy ơi, Thầy! Chúng ta chết mất!” Người thức dậy, ngăm đe sóng gió, sóng gió
liền ngừng và biển lặng ngay. 25 Người bảo các ông: ”Đức tin anh em
ở đâu?” Các ông hoảng sợ, kinh ngạc và nói với nhau: ”Vậy người này là ai mà ra
lệnh cho cả sóng gió, và sóng gió phải tuân lệnh?”
Đức
Giê-su chữa người bị quỷ ám tại Ghê-ra-xa (Mt 8:28-34; Mc 5:1-20)
26
Thầy
trò ghé thuyền vào vùng đất của người Ghê-ra-xa, đối diện với miền Ga-li-lê. 27
Người vừa ra khỏi thuyền và đặt chân lên đất, thì có một người dân trong
thành bị quỷ ám ra đón Người. Từ lâu, anh ta không mặc quần áo, không ở trong
nhà, nhưng ở trong đám mồ mả.
28
Thấy
Đức Giê-su, anh la lên, sấp mình dưới chân Người, và lớn tiếng nói rằng: ”Lạy
ông Giê-su, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Tôi xin ông đừng
hành hạ tôi!” 29 Ấy là vì Đức Giê-su đã truyền cho thần ô uế xuất
khỏi người ấy. Thật vậy, đã nhiều lần quỷ bắt lấy anh ta, người ta dùng xiềng
xích gông cùm mà trói và giữ anh; nhưng anh bứt tung dây trói và bị quỷ đưa vào
những nơi hoang vắng. 30 Đức Giê-su hỏi anh: ”Tên anh là gì?” Anh
thưa: ”Đạo Binh”, vì rất nhiều quỷ nhập vào anh. 31 Lũ quỷ nài xin
Người đừng truyền cho chúng rút xuống vực thẳm.
32
Ở
đó có một bầy heo khá đông đang ăn trên núi. Lũ quỷ nài xin Người cho phép
chúng nhập vào bầy heo kia, và Người cho phép. 33 Lũ quỷ xuất khỏi
người đó, nhập vào bầy heo. Cả bầy heo từ trên sườn núi lao xuống hồ và chết
ngộp hết.
34
Thấy
sự việc xảy ra, các người chăn heo bỏ chạy, loan tin trong thành và thôn xóm. 35
Thiên hạ ra xem sự việc đã xảy ra. Họ đến cùng Đức Giê-su và thấy kẻ đã
được trừ quỷ đang ngồi dưới chân Đức Giê-su, ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh
táo. Họ phát sợ. 36 Những người chứng kiến đã kể lại cho họ nghe
người bị quỷ ám được cứu chữa thế nào. 37 Bấy giờ đông đảo dân chúng
vùng Ghê-ra-xa xin Người rời họ, vì họ sợ quá. Thế nên Người xuống thuyền trở
về.
38
Kẻ
đã được trừ quỷ xin được ở với Người. Nhưng Người bảo anh ta về và nói: 39
“Anh cứ về nhà và kể lại mọi điều Thiên Chúa đã làm cho anh.” Anh ta ra đi, rao
truyền cho cả thành biết mọi điều Đức Giê-su đã làm cho anh.
Đức
Giê-su chữa người đàn bà bị băng huyết và cho con gái ông Gia-ia sống lại (Mt 9:18-26;
Mc 5:21-43)
40
Khi
Đức Giê-su trở về thì đám đông tiếp đón, vì ai ai cũng đợi chờ Người. 41 Bỗng
có một người tên là Gia-ia đi tới; ông là trưởng hội đường. Ông sụp xuống dưới
chân Đức Giê-su, nài xin Người vào nhà ông, 42 vì ông có một đứa con
gái duy nhất độ mười hai tuổi, mà nó lại sắp chết. Trong khi Người đi, đám đông
dân chúng chen lấn làm Người nghẹt thở.
43
Có
một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm, không ai có thể chữa được. 44 Bà
tiến đến phía sau Người và sờ vào tua áo của Người. Tức khắc, máu ngừng chảy. 45
Đức Giê-su hỏi: ”Ai là người đã sờ vào tôi?” Mọi người đều chối, nên ông
Phê-rô nói: ”Thưa Thầy, đám đông xô đẩy, chen lấn Thầy đấy!” 46 Nhưng
Đức Giê-su nói: ”Có người đã đụng vào Thầy, vì Thầy biết có một năng lực tự nơi
Thầy phát ra.” 47 Người đàn bà thấy mình không giữ kín được nữa, thì
run rẩy đến phủ phục trước mặt Người, và loan báo trước mặt toàn dân lý do tại
sao bà đã đụng vào Đức Giê-su, và bà đã được khỏi bệnh tức khắc như thế nào. 48
Đức Giê-su nói với bà: ”Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con
hãy đi bình an.”
49
Đức
Giê-su còn đang nói, thì có người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo ông: ”Con
gái ông chết rồi, đừng làm phiền Thầy nữa!” 50 Nghe vậy, Đức Giê-su
bảo ông trưởng hội đường: ”Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi, là con gái ông sẽ
được cứu.” 51 Khi đến nhà, Người không cho ai vào với mình, trừ ông
Phê-rô, ông Gio-an, ông Gia-cô-bê và cha mẹ của đứa bé. 52 Mọi người
đều đấm ngực khóc thương nó. Đức Giê-su nói: ”Đừng khóc! Con bé có chết đâu, nó
ngủ đấy!” 53 Họ chế nhạo Người, vì biết nó đã chết. 54 Nhưng
Người cầm lấy tay nó, lên tiếng gọi: ”Này bé, trỗi dậy đi!” 55 Hồn
đứa bé trở lại, và nó đứng dậy ngay. Đức Giê-su bảo người ta cho nó ăn. 56
Cha mẹ nó kinh ngạc. Nhưng Người ra lệnh cho họ không được nói với ai về
việc đã xảy ra.
Chương 9
Đức
Giê-su sai mười hai Tông Đồ đi giảng (Mt 10:1. 5-14; Mc 6:7-13)
1
Đức
Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ
mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật. 2 Người sai các ông đi rao giảng
Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. 3 Người nói: ”Anh em đừng
mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai
áo. 4 Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và cũng từ đó mà
ra đi. 5 Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành,
anh em hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” 6 Các ông ra đi, rảo
qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi.
Vua
Hê-rô-đê và Đức Giê-su (Mt 14:1-2; Mc 6:14-29)
7
Tiểu
vương Hê-rô-đê nghe biết tất cả những gì đã xảy ra, thì phân vân lắm. Thật vậy,
có kẻ nói: ”Đó là ông Gio-an từ cõi chết trỗi dậy.” 8 Kẻ khác nói:
”Ông Ê-li-a xuất hiện đấy!” Kẻ khác nữa lại nói: ”Đó là một ngôn sứ thời xưa
sống lại.” 9 Còn vua Hê-rô-đê thì nói: ”Ông Gio-an, chính ta đã chém
đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?” Rồi vua
tìm cách gặp Đức Giê-su.
Các
Tông Đồ trở về. Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều (Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Ga 6:1-13)
10
Các
Tông Đồ trở về thuật lại cho Đức Giê-su những việc các ông đã làm. Người đem
các ông đi riêng với mình, lui về thành kia gọi là Bết-xai-đa. 11 Đám
đông dân chúng biết thế, liền đi theo Người. Người tiếp đón họ, nói với họ về
Nước Thiên Chúa và chữa lành những ai cần được chữa.
12
Ngày
đã bắt đầu tàn. Nhóm Mười Hai đến bên Đức Giê-su thưa Người rằng: ”Xin Thầy cho
đám đông về, để họ vào các làng mạc nông trại quanh đây, tìm chỗ trọ và kiếm
thức ăn, vì nơi chúng ta đang ở đây là nơi hoang vắng.” 13 Đức
Giê-su bảo: ”Chính anh em hãy cho họ ăn.” Các ông đáp: ”Chúng con chỉ có vỏn
vẹn năm cái bánh và hai con cá, trừ phi chính chúng con phải đi mua thức ăn cho
cả đám dân này.” 14 Quả thật có tới chừng năm ngàn đàn ông. Đức
Giê-su nói với các môn đệ: ”Anh em hãy bảo họ ngồi thành từng nhóm khoảng năm
mươi người một.” 15 Các môn đệ làm y như vậy, và bảo mọi người ngồi
xuống. 16 Bấy giờ Đức Giê-su cầm lấy năm cái bánh và hai con cá,
ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho môn đệ để các ông dọn
ra cho đám đông. 17 Mọi người đều ăn, và ai nấy được no nê. Những
miếng vụn còn thừa, người ta thu lại được mười hai thúng.
Ông
Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa (Mt 16:13-20; Mc 8:27-30).
18
Hôm
ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người, và Người
hỏi các ông rằng: ”Dân chúng nói Thầy là ai?” 19 Các ông thưa: ”Họ
bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, nhưng có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại
cho là một trong các ngôn sứ thời xưa đã sống lại.” 20 Người lại
hỏi: ”Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phê-rô thưa: ”Thầy là Đấng Ki-tô
của Thiên Chúa.” 21 Nhưng Người nghiêm giọng truyền các ông không
được nói điều ấy với ai.
Đức
Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất (Mt 16:21; Mc 8:31)
22
Người
còn nói: ”Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh
sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.”
Điều
kiện phải có để theo Đức Giê-su (Mt 16:24-27; Mc 8:34-38)
23
Rồi
Đức Giê-su nói với mọi người: ”Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình hằng ngày mà theo. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống
mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng
sống ấy. 25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính
mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì? 26 Ai xấu hổ vì tôi và những lời của
tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang
của mình, của Chúa Cha và các thánh thiên thần.
Triều
đại Thiên Chúa đã gần đến (Mt 16:28; Mc 9:1)
27 “Thầy bảo thật anh
em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải chết, trước khi thấy
Nước Thiên Chúa.”
Đức
Giê-su hiển dung (Mt 17:1-8; Mc 9:2-8)
28
Khoảng
tám ngày sau khi nói những lời ấy, Đức Giê-su lên núi cầu nguyện đem theo các
ông Phê-rô, Gio-an và Gia-cô-bê. 29 Đang lúc Người cầu nguyện, dung
mạo Người bỗng đổi khác, y phục Người trở nên trắng tinh chói loà. 30 Và
kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Mô-sê và ông Ê-li-a. 31 Hai
vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành
tại Giê-ru-sa-lem. 32 Còn ông Phê-rô và đồng bạn thì ngủ mê mệt,
nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su, và hai nhân
vật đứng bên Người. 33 Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giê-su, ông
Phê-rô thưa với Người rằng: ”Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con
xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
Ông không biết mình đang nói gì. 34 Ông còn đang nói, thì bỗng có
một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ.
35 Và từ đám mây có tiếng phán rằng: ”Đây là Con Ta, người đã được
Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” 36 Tiếng phán vừa dứt, thì
chỉ còn thấy một mình Đức Giê-su. Còn các môn đệ thì nín thinh, và trong những
ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.
Đức
Giê-su chữa đứa trẻ bị kinh phong (Mt 17:14-18; Mc 9:14-27)
37
Hôm
sau, khi Đức Giê-su và ba môn đệ ở trên núi xuống, có đám đông dân chúng tới
đón Người. 38 Bỗng có một người đàn ông từ trong đám đông kêu lên
rằng: ”Thưa Thầy, tôi xin Thầy đoái nhìn đứa con trai tôi, vì tôi chỉ có một
mình cháu. 39 Thế mà quỷ nhập vào cháu, khiến cháu bỗng dưng la lên,
vật mình vật mẩy, sùi cả bọt mép, và khó lắm nó mới chịu rời cháu, bỏ cháu lại
đó mệt nhừ. 40 Tôi có xin các môn đệ Thầy trừ tên quỷ đó, nhưng các
ông trừ không được.” 41 Đức Giê-su đáp: ”Ôi thế hệ cứng lòng không
chịu tin và gian tà! Tôi phải ở cùng các người và chịu đựng các người cho đến
bao giờ nữa? Ông đem cháu lại đây!” 42 Đứa trẻ đang tiến lại, thì
quỷ vật nó xuống và lay nó thật mạnh. Đức Giê-su quát mắng tên quỷ ô uế, chữa
đứa trẻ, và trao lại cho cha nó. 43 Mọi người đều kinh ngạc trước
quyền năng cao cả của Thiên Chúa.
Đức
Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ hai (Mt 18:22-23; Mc 9:30-32)
44 “Phần anh em, hãy
lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời.”
45 Nhưng các ông không hiểu lời đó, vì đối với các ông, lời đó còn
bí ẩn, đến nỗi các ông không nhận ra ý nghĩa. Nhưng các ông sợ không dám hỏi
lại Người về lời ấy.
Ai
là người lớn nhất trong các môn đệ (Mt 18:1-5; Mc 9:33-37)
46
Một
câu hỏi chợt đến với các ông: trong các ông, ai là người lớn nhất? 47 Đức
Giê-su biết điều các ông đang tự hỏi trong lòng, liền đem một em nhỏ đặt bên
cạnh mình48 và nói với các ông: ”Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp
đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. Thật vậy, ai
là người nhỏ nhất trong tất cả anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất.”
Nhân
danh Đức Giê-su mà trừ quỷ (Mc 9:38-40)
49
Ông
Gio-an lên tiếng nói: ”Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh Thầy mà trừ
quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không cùng với chúng con đi theo
Thầy.” 50 Đức Giê-su bảo ông: ”Đừng ngăn cản người ta. Quả thật, ai
không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta!”
IV.
ĐỨC GIÊ-SU LÊN GIÊ-RU-SA-LEM
Một
làng miền Sa-ma-ri không đón tiếp Đức Giê-su
51
Khi
đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên
Giê-ru-sa-lem. 52 Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào
một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. 53 Nhưng dân làng
không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem. 54 Thấy
thế, hai môn đệ Người là ông Gia-cô-bê và ông Gio-an nói rằng: ”Thưa Thầy, Thầy
có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” 55 Nhưng
Đức Giê-su quay lại quở mắng các ông. 56 Rồi Thầy trò đi sang làng
khác.
Đức
Giê-su đòi hỏi môn đệ phải bỏ mọi sự (Mt 8:19-22)
57
Đang
khi Thầy trò đi đường thì có kẻ thưa Người rằng: ”Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi
cũng xin đi theo.” 58 Người trả lời: ”Con chồn có hang, chim trời có
tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”
59
Đức
Giê-su nói với một người khác: ”Anh hãy theo tôi!” Người ấy thưa: ”Thưa Thầy,
xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” 60 Đức Giê-su bảo:
”Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại
Thiên Chúa.”
61
Một
người khác nữa lại nói: ”Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi
từ biệt gia đình trước đã.” 62 Đức Giê-su bảo: ”Ai đã tra tay cầm
cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”
Chương 10
Đức
Giê-su sai bảy mươi hai môn đệ đi giảng (Mt 11:20-24)
1
Sau
đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một
đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. 2 Người
bảo các ông:
3
Anh
em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. 4 Đừng
mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường. 5 Vào
bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: ”Bình an cho nhà này!” 6 Nếu ở đó,
có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng
không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em. 7 Hãy ở lại nhà ấy, và
người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì đáng được
trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. 8 Vào bất cứ thành nào mà
được người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. 9 Hãy
chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: ”Triều Đại Thiên Chúa đã
đến gần các ông.” 10 Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không
tiếp đón, thì anh em ra các quảng trường mà nói: 11 “Ngay cả bụi
trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin giũ trả lại các
ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.” 12
Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành Xơ-đôm còn được xử khoan
hồng hơn thành đó.”
13 “Khốn cho ngươi, hỡi
Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các
ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn, thì từ lâu họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên
tro tỏ lòng sám hối rồi. 14 Vì thế, trong cuộc Phán Xét, Tia và
Xi-đôn sẽ được xử khoan hồng hơn các ngươi. 15 Còn ngươi nữa, hỡi
Ca-phác-na-um, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ
phải nhào xuống tận âm phủ!
16 “ Ai nghe anh em là
nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước
từ Đấng đã sai Thầy.”
“
Hãy mừng vì tên anh em được ghi trên trời”
17
Nhóm
Bảy Mươi Hai trở về, hớn hở nói: ”Thưa Thầy, nghe đến danh Thầy, cả ma quỷ cũng
phải khuất phục chúng con.” 18 Đức Giê-su bảo các ông: ”Thầy đã thấy
Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống. 19 Đây, Thầy đã ban cho
anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực Kẻ Thù, mà chẳng có
gì làm hại được anh em. 20 Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần
phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời.”
Chúa
Cha mặc khải cho những người bé mọn (Mt 11:25-26)
21
Ngay
giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói: ”Lạy Cha
là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc
khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người
bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.
Chúa
Cha và Chúa Con (Mt 11:27)
22 “Cha tôi đã giao phó
mọi sự cho tôi. Và không ai biết người Con là ai, trừ Chúa Cha, cũng như không
ai biết Chúa Cha là ai, trừ người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”
Đặc
ân các môn đệ (Mt 13:16-17)
23
Rồi
Đức Giê-su quay lại với các môn đệ và bảo riêng: ”Phúc thay mắt nào được thấy
điều anh em thấy! 24 Quả vậy, Thầy bảo cho anh em biết: nhiều ngôn sứ và nhiều
vua chúa đã muốn thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, muốn nghe điều
anh em đang nghe, mà không được nghe.”
Điều
răn lớn
25
Và
này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: ”Thưa
Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia ì
26
Người
đáp: ”Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” 27 Ông ấy thưa:
”Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết
sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình.” 28
Đức Giê-su bảo ông ta: ”Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được
sống.”
Dụ
ngôn người Sa-ma-ri tốt lành
29
Nhưng
ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: ”Nhưng
ai là người thân cận của tôi?” 30 Đức Giê-su đáp: ”Một người kia từ
Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột
sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. 31
Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người
này, ông tránh qua bên kia mà đi. 32 Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi
tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. 33 Nhưng một
người Sa-ma-ri kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng
thương. 34 Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho
người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán
trọ mà săn sóc. 35 Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ
quán và nói: ”Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi
trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.” 36 Vậy theo ông nghĩ, trong ba
người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?” 37
Người thông luật trả lời: ”Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối
với người ấy.” Đức Giê-su bảo ông ta: ”Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”
Hai
chị em Mác-ta và Ma-ri-a
38
Trong
khi thầy trò đi đường, Đức Giê-su vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là
Mác-ta đón Người vào nhà. 39 Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô
này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. 40 Còn cô Mác-ta
thì tất bật lo việc phục vụ. Cô tiến lại mà nói: ”Thưa Thầy, em con để mình con
phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” 41
Chúa đáp: ”Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! 42
Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không
bị lấy đi.”
Chương 11
“Kinh
Lạy Cha” (Mt 6:9-13)
1
Có
một lần Đức Giê-su cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một
người trong nhóm môn đệ nói với Người: ”Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu
nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông.” 2 Người bảo các
ông: ”Khi cầu nguyện, anh em hãy nói:
“
Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,
Triều
Đại Cha mau đến,
3
xin
Cha cho chúng con
ngày
nào có lương thực ngày ấy;
4
xin
tha tội cho chúng con,
vì
chính chúng con cũng tha
cho
mọi người mắc lỗi với chúng con,
và
xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ.”
Người
bạn quấy rầy
5
Người
còn nói với các ông: ”Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người
bạn ấy mà nói: ”Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, 6 vì tôi có anh bạn
lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả”; 7 mà
người kia từ trong nhà lại đáp: ”Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi,
các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.
? 8 Thầy nói cho anh em biết: dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình
bạn, thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ
lì ra đó.
Cứ
xin thì sẽ được (Mt 7:7-11)
9 “Thế nên Thầy bảo anh
em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. 10
Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. 11
Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại
lấy rắn mà cho nó? 12 Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? 13 Vậy nếu anh em
vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi
Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”
Đức
Giê-su và quỷ vương Bê-en-dê-bun (Mt 12:22-29; Mc 3:22-27)
14
Bấy
giờ Đức Giê-su trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi, thì người
câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên. 15 Nhưng trong số đó có
mấy người lại bảo: ”Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ.” 16 Kẻ
khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời. 17 Nhưng
Người biết tư tưởng của họ, nên nói: ”Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà
nọ đổ xuống nhà kia. 18 Nếu Xa-tan cũng tự chia rẽ chống lại chính
mình, thì nước nó tồn tại sao được? . . . bởi lẽ các ông nói tôi dựa thế
Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ. 19 Nếu tôi dựa thế Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ,
thì con cái các ông dựa thế ai mà trừ? Bởi vậy, chính họ sẽ xét xử các ông. 20
Còn nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại
Thiên Chúa đã đến giữa các ông. 21 Khi một người mạnh được vũ trang
đầy đủ canh giữ lâu đài của mình, thì của cải người ấy được an toàn. 22 Nhưng
nếu có người mạnh thế hơn đột nhập và thắng được người ấy, thì sẽ tước lấy vũ
khí mà người ấy vẫn tin tưởng và sẽ đem phân phát những gì đã lấy được.
Không
theo Đức Giê-su là chống lại Người (Mt 12:30)
23 “Ai không đi với tôi
là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.
Quỷ
phản công (Mt 12:43-45)
24 “Khi thần ô uế xuất
khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì
tìm không ra, nó nói: ”Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi.” 25 Khi
đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. 26 Nó liền đi
kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của
người ấy lại còn tệ hơn trước.”
Thế
nào là hạnh phúc thật
27
Khi
Đức Giê-su đang giảng dạy, thì giữa đám đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa
với Người: ”Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!” 28 Nhưng
Người đáp lại: ”Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời
Thiên Chúa.”
Dấu
lạ ngôn sứ Giô-na (Mt 12:38-42)
29
Khi
dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giê-su bắt đầu nói: ”Thế hệ này là một thế hệ
gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu
lạ ông Giô-na. 30 Quả thật, ông Giô-na đã là một dấu lạ cho dân
thành Ni-ni-vê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như
vậy. 31 Trong cuộc Phán Xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng
với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng
trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; mà đây thì còn hơn vua
Sa-lô-môn nữa. 32 Trong cuộc Phán Xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ chỗi
dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông
Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa.
Hai
lời nói về đèn (Mt 5:15; 6:22-23)
33 “Chẳng có ai đốt đèn
lên rồi đặt vào chỗ khuất hoặc dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, để những ai
đi vào thì nhìn thấy ánh sáng.
34 “Đèn của thân thể là
con mắt của anh. Khi mắt anh sáng, thì toàn thân anh cũng sáng. Nhưng khi mắt
anh xấu, thì thân anh cũng tối. 35 Vậy hãy coi chừng kẻo ánh sáng
nơi anh lại thành bóng tối. 36 Nếu toàn thân anh sáng, không có phần
nào tối tăm, thì nó sẽ sáng hoàn toàn, như khi đèn toả sáng chiếu soi anh.”
Đức
Giê-su khiển trách các người Pha-ri-sêu và các nhà thông luật (Mt 23:1-36; Mc 12:38-40)
37
Đức
Giê-su đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi,
Người liền vào bàn ăn. 38 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu lấy làm lạ vì Người
không rửa tay trước bữa ăn. 39 Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng:
”Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch,
nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. 40 Đồ
ngốc! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao? 41 Tốt
hơn, hãy bố thí những gì ở bên trong, thì bấy giờ mọi sự sẽ trở nên trong sạch
cho các người. 42 Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu! Các
người nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao lãng lẽ
công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa. Các điều này phải làm, mà các điều kia
cũng không được bỏ. 43 Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu!
Các người thích ngồi ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi ở
nơi công cộng. 44 Khốn cho các người! Các người như mồ mả không có
gì làm dấu, người ta giẫm lên mà không hay.”
45
Một
người trong số các nhà thông luật lên tiếng nói: ”Thưa Thầy, Thầy nói như vậy
là nhục mạ cả chúng tôi nữa!” 46 Đức Giê-su nói: ”Khốn cho cả các
người nữa, hỡi các nhà thông luật! Các người chất trên vai kẻ khác những gánh
nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không
động vào.
47 “Khốn cho các người!
Các người xây lăng cho các ngôn sứ, nhưng cha ông các người đã giết chết các vị
ấy! 48 Như vậy, các người vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các
người, vì họ đã giết các vị ấy, còn các người thì xây lăng.
49 “Vì thế mà Đức Khôn
Ngoan của Thiên Chúa đã phán: ”Ta sẽ sai Ngôn Sứ và Tông Đồ đến với chúng:
chúng sẽ giết người này, lùng bắt người kia. 50 Như vậy, thế hệ này
sẽ bị đòi nợ máu tất cả các ngôn sứ đã đổ ra từ tạo thiên lập địa, 51 từ
máu ông A-ben đến máu ông Da-ca-ri-a, người đã bị giết giữa bàn thờ và Thánh
Điện. Phải, tôi nói cho các người biết: thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu.
52 “Khốn cho các người,
hỡi những nhà thông luật! Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết: các
người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản.”
53
Khi
Đức Giê-su ra khỏi đó, các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận
Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, 54 gài bẫy để xem có
bắt được Người nói điều gì sai chăng.
Chương 12
Hãy
nói công khai và đừng sợ (Mt 10:26-33; 12:32; 10:17-20)
1
Trong
lúc ấy, đám đông tụ họp hàng vạn người, đến nỗi giẫm lên nhau. Bấy giờ Đức
Giê-su bắt đầu nói, trước hết là với các môn đệ: ”Anh em phải coi chừng men
Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả. 2 Không có gì che giấu mà sẽ
không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. 3 Vì
thế, tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày; và
điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà.
4 “Thầy nói cho anh em
là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó
không làm gì hơn được nữa. 5 Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai:
hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục. Thật vậy, Thầy nói cho
anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy. 6 Năm con chim sẻ chỉ bán được
hai hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. 7
Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em
còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
8 “Thầy nói cho anh em
biết: phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ
tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa. 9 Còn
ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì sẽ bị chối trước mặt các thiên thần của
Thiên Chúa.
10 “Bất cứ ai nói phạm
đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng
được tha.
11 “Khi người ta đưa anh
em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền,
thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, 12 vì
ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói.”
Đừng
thu tích của cải cho mình
13
Có
người trong đám đông nói với Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, xin Thầy bảo anh tôi
chia phần gia tài cho tôi.” 14 Người đáp: ”Này anh, ai đã đặt tôi
làm người xử kiện hay người chia gia tài cho các anh?” 15 Và Người
nói với họ: ”Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không
phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.”
16
Sau
đó Người nói với họ dụ ngôn này: ”Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều
hoa lợi, 17 mới nghĩ bụng rằng: ”Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ
đâu mà tích trữ hoa mầu! 18 Rồi ông ta tự bảo: ”Mình sẽ làm thế này: phá những
cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải
mình vào đó. 19 Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề
của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã! 20
Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: ”Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng
ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? 21 Ấy kẻ nào thu tích của
cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như
thế đó.”
Tin
tưởng vào Thiên Chúa quan phòng (Mt 6:25-34)
22
Đức
Giê-su nói với các môn đệ rằng: ”Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho
mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; 23 vì
mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc. 24 Hãy nhìn
những con quạ mà suy: chúng không gieo, không gặt, cũng không có kho có lẫm,
thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý giá hơn loài chim biết bao! 25
Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được một gang
tay? 26 Vậy, việc nhỏ nhất mà anh em còn làm không được, thì anh em lo lắng về
những việc khác làm gì? 27 Hãy nhìn hoa huệ mà suy: chúng không kéo sợi, không
dệt vải, thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa
tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. 28 Vậy nếu hoa cỏ
ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như
thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! 29 Phần anh em, đừng tìm xem
mình sẽ ăn gì, uống gì, và đừng bận tâm. 30 Vì tất cả những thứ đó,
dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm; nhưng Cha của anh em thừa biết anh em cần
những thứ đó. 31 Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia,
Người sẽ thêm cho.
32 “Hỡi đoàn chiên nhỏ
bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.
Bán
của cải đi mà bố thí (Mt 6:19-21)
33 “Hãy bán tài sản của
mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng
không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục
phá. 34 Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó.
Phải
sẵn sàng chờ Chủ trở về (Mt 24:43-51)
35 “Anh em hãy thắt lưng
cho gọn, thắp đèn cho sẵn. 36 Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn
cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa, là mở ngay. 37 Khi chủ về mà
thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh
em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. 38
Nếu canh hai hoặc canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như
vậy, thì thật là phúc cho họ. 39 Anh em hãy biết điều này: nếu chủ
nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. 40
Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì
Con Người sẽ đến.”
41
Bấy
giờ ông Phê-rô hỏi: ”Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng con hay cho tất
cả mọi người?” 42 Chúa đáp: ”Vậy thì ai là người quản gia trung tín,
khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần thóc
gạo đúng giờ đúng lúc? 43 Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy đang làm như vậy, thì
thật là phúc cho anh ta. 44 Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta
lên coi sóc tất cả tài sản của mình. 45 Nhưng nếu người đầy tớ ấy
nghĩ bụng: ”Chủ ta còn lâu mới về”, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gái và chè
chén say sưa, 46 chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không
ngờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt phải chung số phận với
những tên thất tín.
47 “Đầy tớ nào đã biết ý
chủ mà không chuẩn bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều.
48 Còn kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị
đòn ít. Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều
thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.
Thái
độ của Đức Giê-su trước cuộc Thương Khó
49 “Thầy đã đến ném lửa
vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! 50 Thầy còn
một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này
hoàn tất!
Thầy
đến để gây chia rẽ (Mt 10, 34-36)
51 “Anh em tưởng rằng
Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải
thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ. 52 Vì từ nay, năm người trong cùng
một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba. 53 Họ
sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai, con trai chống lại cha; mẹ chống lại
con gái, con gái chống lại mẹ; mẹ chồng chống lại nàng dâu, nàng dâu chống lại
mẹ chồng.”
Nhận
xét thời đại (Mt 16:2-3; 5:25-26)
54
Đức
Giê-su cũng nói với đám đông rằng: ”Khi các người thấy mây kéo lên ở phía tây,
các người nói ngay: ”Mưa đến nơi rồi”, và xảy ra đúng như vậy. 55 Khi
thấy gió nồm thổi, các người nói: ”Trời sẽ oi bức”, và xảy ra đúng như vậy. 56
Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời, thì các người biết nhận xét,
còn thời đại này, sao các người lại không biết nhận xét?
57 “Sao các người không
tự mình xét xem cái gì là phải? 58 Thật vậy, khi anh đi cùng đối phương ra toà,
thì dọc đường hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo người ấy lôi
anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống
anh vào ngục. 59 Tôi bảo cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó trước
khi trả hết đồng kẽm cuối cùng.”
Chương 13
Nếu
không sám hối, thì sẽ chết hết
1
Cùng
lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê
bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang
dâng. 2 Đức Giê-su đáp lại rằng: ”Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê
này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? 3 Tôi
nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì
các ông cũng sẽ chết hết như vậy. 4 Cũng như mười tám người kia bị
tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng
hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? 5 Tôi nói cho các ông biết:
không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ
chết hết y như vậy.”
Dụ
ngôn cây vả không ra trái
6
Rồi
Đức Giê-su kể dụ ngôn này: ”Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình.
Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, 7 nên bảo người làm vườn: ”Anh
coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó
đi, để làm gì cho hại đất? 8 Nhưng người làm vườn đáp: ”Thưa ông, xin cứ để nó
lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. 9 May
ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.”
Đức
Giê-su chữa một phụ nữ còng lưng ngày sa-bát
10
Ngày
sa-bát kia, Đức Giê-su giảng dạy trong một hội đường. 11 Ở đó, có
một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà
không thể nào đứng thẳng lên được. 12 Trông thấy bà, Đức Giê-su gọi
lại và bảo: ”Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền!” 13 Rồi
Người đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa.
14
Ông
trưởng hội đường tức tối vì Đức Giê-su đã chữa bệnh vào ngày sa-bát. Ông lên tiếng
nói với đám đông rằng: ”Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh
những ngày đó, đừng có đến vào ngày sa-bát!” 15 Chúa đáp: ”Những kẻ
đạo đức giả kia! Thế ngày sa-bát, ai trong các người lại không cởi dây, dắt bò
lừa rời máng cỏ đi uống nước? 16 Còn bà này, là con cháu ông Áp-ra-ham, bị
Xa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, thì chẳng lẽ lại không được cởi xiềng
xích đó trong ngày sa-bát sao?” 17 Nghe Người nói thế, tất cả những
kẻ chống đối Người lấy làm xấu hổ, còn toàn thể đám đông thì vui mừng vì mọi
việc hiển hách Người đã thực hiện.
Dụ
ngôn hạt cải (Mt 13:31-32; Mc 4:30-32)
18
Vậy
Người nói: ”Nước Thiên Chúa giống cái gì đây? Tôi phải ví Nước ấy với cái gì?
19 Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn
mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được.”
Dụ
ngôn nắm men trong bột (Mt 13:33)
20
Người
lại nói: ”Tôi phải ví Nước Thiên Chúa với cái gì? 21 Nước Thiên Chúa giống như
chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy
men.”
Cửa
hẹp. Thiên Chúa ruồng bỏ người Do-thái bất trung và kêu mời dân ngoại (Mt 7:13-14:1-23)
22
Trên
đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà
giảng dạy. 23 Có kẻ hỏi Người: ”Thưa Ngài, những người được cứu
thoát thì ít, có phải không?” Người bảo họ: 24 “Hãy chiến đấu để qua
được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào
mà không thể được.
25 “Một khi chủ nhà đã
đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói:
”Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!, thì ông sẽ bảo anh em: ”Các anh đấy ư?
Ta không biết các anh từ đâu đến! 26 Bấy giờ anh em mới nói: ”Chúng tôi đã từng
được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố
của chúng tôi. 27 Nhưng ông sẽ đáp lại: ”Ta không biết các anh từ
đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!
28 “Bấy giờ anh em sẽ
khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất
cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. 29
Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. 30
“Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống
hàng chót.”
Con
cáo già Hê-rô-đê
31
Cũng
vào giờ ấy, có mấy người Pha-ri-sêu đến thưa Đức Giê-su rằng: ”Xin ông đi ra
khỏi đây, vì vua Hê-rô-đê đang muốn giết ông!” 32 Người bảo họ: ”Các
ông hãy đi nói với con cáo ấy thế này: ”Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa
lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất. 33 Tuy nhiên, hôm nay, ngày
mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành
Giê-ru-sa-lem thì không được.
Đức
Giê-su than trách thành Giê-ru-sa-lem (Mt 23:37-39)
34 “Giê-ru-sa-lem,
Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng
ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con
dưới cánh, mà các ngươi không chịu. 35 Thì này, nhà các ngươi sẽ bị
bỏ mặc cho các ngươi. Mà Ta nói cho các ngươi hay: các ngươi sẽ không còn thấy Ta
nữa cho đến thời các ngươi nói: Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!”
Chương 14
Ngày
sa-bát Đức Giê-su chữa người mắc bệnh phù thũng
1
Một
ngày sa-bát kia, Đức Giê-su đến nhà một ông thủ lãnh nhóm Pha-ri-sêu để dùng
bữa: họ cố dò xét Người. 2 Và kìa trước mặt Đức Giê-su, có một người
mắc bệnh phù thũng. 3 Người lên tiếng nói với các nhà thông luật và
những người Pha-ri-sêu: ”Có được phép chữa bệnh ngày sa-bát hay không?” 4 Nhưng
họ làm thinh. Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về. 5 Rồi
Người nói với họ: ”Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống
giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát?” 6 Và họ không
thể đáp lại những lời đó.
“
Hãy ngồi chỗ cuối”
7
Người
nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, nên nói với họ dụ ngôn này: 8
“Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào
quan trọng hơn anh cũng được mời, 9 và rồi người đã mời cả anh lẫn
nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: ”Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ
anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối. 10 Trái lại, khi anh được
mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải đến nói: ”Xin mời
ông bạn lên trên cho. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn.
11Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn
lên.”
“
Khi đãi khách, hãy mời những người nghèo khó”
12
Rồi
Đức Giê-su nói với kẻ đã mời Người rằng: ”Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn
tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ
cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. 13 Trái lại, khi
ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. 14
Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được
đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.”
Dụ
ngôn khách được mời xin kiếu (Mt 22:1-10)
15
Nghe
vậy, một trong những kẻ đồng bàn nói với Đức Giê-su: ”Phúc thay ai được dự tiệc
trong Nước Thiên Chúa!” 16 Người đáp: ”Một người kia làm tiệc lớn và
đã mời nhiều người. 17 Đến giờ tiệc, ông sai đầy tớ đi thưa với quan
khách rằng: ”Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn. 18 Bấy giờ mọi người
nhất loạt bắt đầu xin kiếu. Người thứ nhất nói: ”Tôi mới mua một thửa đất, cần
phải đi thăm; cho tôi xin kiếu. 19 Người khác nói: ”Tôi mới tậu năm
cặp bò, tôi đi thử đây; cho tôi xin kiếu. 20 Người khác nói: ”Tôi
mới cưới vợ, nên không thể đến được.
21 “Đầy tớ ấy trở về, kể
lại sự việc cho chủ. Bấy giờ chủ nhà nổi cơn thịnh nộ bảo người đầy tớ rằng:
”Mau ra các nơi công cộng và đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó,
tàn tật, đui mù, què quặt vào đây. 22 Đầy tớ nói: ”Thưa ông, lệnh
ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ. 23 Ông chủ bảo người đầy tớ:
”Ra các đường làng, đường xóm, ép người ta vào đầy nhà cho ta. 24 Tôi
nói cho các anh biết: Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự
tiệc của tôi.”
Vác
thập giá mình mà đi theo Đức Giê-su (Mt 10:37-38)
25
Có
rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Người quay lại bảo họ:
26 “Ai đến với tôi mà
không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không
thể làm môn đệ tôi được. 27 Ai không vác thập giá mình mà đi theo
tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.
Từ
bỏ hết những gì mình có
28 “Quả thế, ai trong
anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí
tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? 29 Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có
khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: 30
“Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc. 31 Hoặc
có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống
bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai
vạn quân tiến đánh mình chăng? 32 Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở
xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà. 33 Cũng vậy, ai trong anh
em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.
Muối
mà nhạt đi. . . (Mt 5:13; Mc 9:50)
34 “Muối quả là một cái
gì tốt. Nhưng chính muối mà nhạt đi, thì lấy gì ướp nó cho mặn lại? 35 Dùng nó
để bón ruộng hay trộn phân đều không thích hợp, nên người ta quăng nó ra ngoài.
Ai có tai nghe thì nghe.”
Chương 15
Ba
dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa
1
Các
người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người
giảng. 2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau:
”Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” 3 Đức Giê-su
mới kể cho họ dụ ngôn này:
Dụ
ngôn con chiên bị mất (Mt 18:12-14)
4 “Người nào trong các
ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con
kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? 5 Tìm được rồi,
người ấy mừng rỡ vác lên vai. 6 Về đến nhà, người ấy mời bạn bè,
hàng xóm lại, và nói: ”Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của
tôi, con chiên bị mất đó. 7 Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời
cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì
chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.
Dụ
ngôn đồng bạc bị đánh mất
8 “Hoặc người phụ nữ
nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi
quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được? 9 Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm
lại, và nói: ”Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh
mất. 10 Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: giữa triều thần Thiên
Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối.”
Dụ
ngôn người cha nhân hậu
11
Rồi
Đức Giê-su nói tiếp: ”Một người kia có hai con trai. 12 Người con
thứ nói với cha rằng: ”Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và
người cha đã chia của cải cho hai con. 13 Ít ngày sau, người con thứ
thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí
tài sản của mình.
14 “Khi anh ta đã ăn
tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta
bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, 15 nên phải đi ở đợ cho một người dân
trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. 16 Anh ta ao ước
lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. 17 Bấy
giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: ”Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được
cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! 18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha
và thưa với người: ”Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19 chẳng
còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. 20
Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
21
Bấy
giờ người con nói rằng: ”Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng
còn đáng gọi là con cha nữa. . . 22 Nhưng người cha liền bảo các đầy
tớ rằng: ”Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép
vào chân cậu, 23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở
tiệc ăn mừng! 24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm
thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.
25 “Lúc ấy người con cả
của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca
nhảy múa, 26 liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. 27
Người ấy trả lời: ”Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì
gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ. 28 Người anh cả liền nổi giận và không
chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29 Cậu trả lời cha: ”Cha coi,
đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa
bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30 Còn
thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở
về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!
31 “Nhưng người cha nói
với anh ta: ”Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là
của con. 32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây
đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.”
Chương 16
Dụ
ngôn người quản gia bất lương
1
Đức
Giê-su còn nói với các môn đệ rằng: ”Một nhà phú hộ kia có một người quản gia.
Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông. 2 Ông
mới gọi anh ta đến mà bảo: ”Tôi nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản
lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm quản gia nữa! 3 Người
quản gia liền nghĩ bụng: ”Mình sẽ làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia
của mình rồi. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. 4 Mình
biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình
về nhà họ!
5 “Anh ta liền cho gọi
từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: ”Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?
6 Người ấy đáp: ”Một trăm thùng dầu ô-liu. Anh ta bảo: ”Bác cầm lấy biên lai
của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi. 7 Rồi anh ta hỏi
người khác: ”Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: ”Một ngàn giạ lúa.
Anh ta bảo: ”Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.
8 “Và ông chủ khen tên
quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn
khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại.
Trung
tín trong việc sử dụng Tiền Của
9 “Phần Thầy, Thầy bảo
cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết
tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. 10 Ai trung
tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong
việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. 11 Vậy nếu anh em
không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà
giao phó của cải chân thật cho anh em? 12 Và nếu anh em không trung tín trong
việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành
riêng cho anh em?
13 “Không gia nhân nào
có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó
với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa
làm tôi Tiền Của được.”
Đức
Giê-su khiển trách người Pha-ri-sêu ham tiền
14
Người
Pha-ri-sêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giê-su.
15 Người bảo họ: ”Các ông là những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt
người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi vì điều cao trọng đối
với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.
Dùng
sức mạnh mà vào Nước Thiên Chúa (Mt 11:12-13)
16 “Cho đến thời ông
Gio-an, thì có Lề Luật và các ngôn sứ; còn từ thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên
Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào.
Lề
Luật sẽ không bao giờ ra vô hiệu (Mt 5:18)
17 “Trời đất qua đi còn
dễ hơn là một cái phết của Lề Luật rụng mất.
Vấn
đề ly dị (Mt 5:31-32; Mc 10:11-12)
18 “Bất cứ ai rẫy vợ mà
cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị chồng rẫy, thì
cũng phạm tội ngoại tình.
Dụ
ngôn ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó
19 “Có một ông nhà giàu
kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. 20 Lại
có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông
nhà giàu, 21 thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà
ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. 22 Thế
rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông
nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.
23 “Dưới âm phủ, đang
khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa,
và thấy anh La-da-rô trong lòng tổ phụ. 24 Bấy giờ ông ta kêu lên:
”Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón
tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!
25 Ông Áp-ra-ham đáp: ”Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần
phước của con rồi; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ,
La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. 26 Hơn
nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn
qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không
được.
27 “Ông nhà giàu nói:
”Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con, 28 vì
con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng
sa vào chốn cực hình này! 29 Ông Áp-ra-ham đáp: ”Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn
Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó. 30 Ông nhà giàu nói: ”Thưa tổ
phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với
họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối. 31 Ông Áp-ra-ham đáp: ”Mô-sê và các
Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng
chịu tin.”
Chương 17
Cớ
vấp ngã (Mt 18:6-7; Mc 9:42)
1
Đức
Giê-su nói với các môn đệ rằng: ”Không thể không có những cớ làm cho người ta
vấp ngã; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã! 2 Thà buộc cối đá lớn
vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong
những kẻ bé nhỏ này vấp ngã. 3 Anh em hãy đề phòng!
Sửa
lỗi anh em (Mt 18:15, 21-22)
4
Dù
nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: ”Tôi
hối hận”, thì anh cũng phải tha cho nó.”
Sức
mạnh của lòng tin
5
Các
Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.”
6 Chúa đáp: ”Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em
có bảo cây dâu này: ”Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc”, nó cũng sẽ
vâng lời anh em.
Phục
vụ cách khiêm tốn
7 “Ai trong anh em có
người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó:
”Mau vào ăn cơm đi”, 8 chứ không bảo: ”Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt
lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau! ? 9 Chẳng lẽ ông
chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao? 10 Đối với anh em
cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi
là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”
Mười
người phong hủi
11
Trên
đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi qua biên giới giữa hai miền Sa-ma-ri và
Ga-li-lê. 12 Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi
đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa 13 và kêu lớn tiếng: ”Lạy Thầy Giê-su, xin
dủ lòng thương chúng tôi!” 14 Thấy vậy, Đức Giê-su bảo họ: ”Hãy đi
trình diện với các tư tế.” Đang khi đi thì họ được sạch. 15 Một
người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh
Thiên Chúa. 16 Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giê-su mà tạ ơn. Anh ta
lại là người Sa-ma-ri. 17 Đức Giê-su mới nói: ”Không phải cả mười
người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? 18 Sao không thấy họ trở
lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?” . 19 Rồi
Người nói với anh ta: ”Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.”
19 “Triều Đại Thiên Chúa
đang ở giữa các ông” 20 Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ
Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: ”Triều Đại Thiên Chúa không đến như
một điều có thể quan sát được. 21 Và người ta sẽ không nói: ”Ở đây
này! hay”Ở kia kìa!, vì này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.”
Ngày
của Con Người (Mt 24:23-28, 37-41)
22
Rồi
Đức Giê-su nói với các môn đệ: ”Sẽ đến thời anh em mong ước được thấy một trong
những ngày của Con Người thôi, mà cũng không được thấy. 23 Người ta
sẽ bảo anh em: ”Người ở kia kìa! hay”Người ở đây này! Anh em đừng đi, đừng chạy
theo. 24 Vì ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến
phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. 25
Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ.
26 “Và cũng như thời ông
Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc
cũng sẽ xảy ra như vậy. 27 Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi
cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả. 28
Sự việc cũng xảy ra giống như vậy trong thời ông Lót: thiên hạ ăn uống,
mua bán, trồng trọt, xây cất. 29 Nhưng ngày ông Lót ra khỏi Xơ-đôm,
thì Thiên Chúa khiến mưa lửa và diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả. 30
Sự việc cũng sẽ xảy ra như thế, ngày Con Người được mặc khải.
31 “Ngày ấy, ai ở trên
sân thượng mà đồ đạc ở dưới nhà, thì đừng xuống lấy. Cũng vậy, ai ở ngoài đồng
thì đừng quay trở lại. 32 Hãy nhớ chuyện vợ ông Lót. 33 Ai
tìm cách giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ
bảo tồn được mạng sống. 34 Thầy nói cho anh em biết: đêm ấy, hai
người đang nằm chung một giường, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị
bỏ lại. 35 Hai người đàn bà đang cùng nhau xay bột, thì một người sẽ
được đem đi, còn người kia bị bỏ lại. 36 Hai người đàn ông đang ở
ngoài đồng, thì một người sẽ được đem đi, còn người kia bị bỏ lại.” 37 Các
môn đệ lên tiếng hỏi Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, ở đâu vậy?” Người nói với các ông:
”Xác nằm đâu, diều hâu tụ đó.”
Chương 18
Dụ
ngôn quan toà bất chính và bà goá quấy rầy
1
Đức
Giê-su kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn,
không được nản chí. 2 Người nói: ”Trong thành kia, có một ông quan
toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. 3 Trong
thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: ”Đối phương
tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho. 4 Một thời gian khá lâu, ông
không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: ”Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên
Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, 5 nhưng mụ goá này quấy rầy mãi,
thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc.”
6
Rồi
Chúa nói: ”Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! 7 Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa
lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với
Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? 8Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ
mau chóng minh xét cho họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy
lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”
Dụ
ngôn người Pha-ri-sêu và người thu thuế
9
Đức
Giê-su còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà
khinh chê người khác: 10 “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một
người thuộc nhóm Pha-ri-sêu, còn người kia làm nghề thu thuế. 11 Người
Pha-ri-sêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: ”Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì
con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu
thuế kia. 12 Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một
phần mười thu nhập của con. 13 Còn người thu thuế thì đứng đằng xa,
thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: ”Lạy
Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi. 14 Tôi nói cho các ông
biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn
người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình
xuống sẽ được tôn lên.”
Đức
Giê-su và các trẻ em (Mt 19:13-15; Mc 10:13-16)
15
Người
ta còn đem cả trẻ thơ đến với Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Thấy
vậy, các môn đệ la rầy chúng. 16 Nhưng Đức Giê-su gọi chúng lại mà
nói: ”Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của
những ai giống như chúng. 17 Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận
Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.”
Người
thủ lãnh giàu có (Mt 19:16-22; Mc 10:17-22)
18
Có
một thủ lãnh hỏi Đức Giê-su: ”Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự
sống đời đời làm gia nghiệp?” 19 Đức Giê-su đáp: ”Sao ông nói tôi
nhân lành? Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. 20 Hẳn
ông biết các điều răn: Chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm
chứng gian, hãy thờ cha kính mẹ.” 21 Ông ta nói: ”Tất cả những việc
đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.” 22 Nghe vậy, Đức Giê-su bảo ông:
”Ông chỉ còn thiếu có một điều, là hãy bán tất cả những gì ông có mà phân phát
cho người nghèo, và ông sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” 23
Nghe vậy, ông ta buồn lắm, vì ông rất giàu.
Người
giàu có khó vào Nước Thiên Chúa (Mt 19:23-26; Mc 10:23-27)
24
Đức
Giê-su nhìn ông ta và nói: ”Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết
bao! 25 Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước
Thiên Chúa.” 26 Những người nghe Đức Giê-su nói liền hỏi: ”Thế thì
ai có thể được cứu?” 27 Người đáp: ”Những gì không thể được đối với
loài người, thì đều có thể được đối với Thiên Chúa.”
Phần
thưởng dành cho ai bỏ mọi sự mà theo Đức Giê-su (Mt 19:27-29; Mc 10:28-30)
28
Ông
Phê-rô thưa: ”Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ những gì là của mình mà
theo Thầy.” 29 Người đáp: ”Thầy bảo thật anh em: chẳng hề có ai bỏ
nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa, 30 mà lại
không được gấp bội ở đời này và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.”
Đức
Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ ba (Mt 20:17-19; Mc 10:32-34)
31
Đức
Giê-su kéo riêng Nhóm Mười Hai ra và nói với các ông: ”Này chúng ta lên
Giê-ru-sa-lem, và tất cả những gì các ngôn sứ đã viết về Con Người sẽ được hoàn
tất. 32 Quả vậy, Người sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng,
nhục mạ, khạc nhổ. 33 Sau khi đánh đòn, họ sẽ giết Người, và ngày
thứ ba Người sẽ sống lại.” 34 Nhưng các ông không hiểu gì cả; đối
với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói.
Đức
Giê-su chữa người mù tại Giê-ri-khô (Mt 20:29-34; Mc 10:46-52)
35
Khi
Đức Giê-su gần đến Giê-ri-khô, có một người mù đang ngồi ăn xin ở vệ đường. 36
Nghe thấy đám đông đi qua, anh ta hỏi xem có chuyện gì. 37 Họ
báo cho anh biết là Đức Giê-su Na-da-rét đang đi qua đó. 38 Anh liền
kêu lên rằng: ”Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” 39
Những người đi đầu quát nạt, bảo anh ta im đi; nhưng anh càng kêu lớn
tiếng: ”Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!” 40 Đức Giê-su
dừng lại, truyền dẫn anh ta đến. Khi anh đã đến gần, Người hỏi: 41 “Anh
muốn tôi làm gì cho anh?” Anh ta đáp: ”Lạy Ngài, xin cho tôi nhìn thấy được.” 42
Đức Giê-su nói: ”Anh nhìn thấy đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” 43
Lập tức, anh ta nhìn thấy được và theo Người, vừa đi vừa tôn vinh Thiên
Chúa. Thấy vậy, toàn dân cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa.
Chương 19
Ông
Da-kêu
1
Sau
khi vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. 2 Ở đó có
một người tên là Da-kêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có.
3 Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không
được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. 4 Ông liền chạy tới
phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. 5
Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: ”Này ông
Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” 6 Ông vội
vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. 7 Thấy vậy, mọi người xầm
xì với nhau: ”Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!” 8 Ông
Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: ”Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi,
tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp
bốn.” 9 Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng: ”Hôm nay, ơn cứu độ đã
đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. 10 Vì
Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”
Dụ
ngôn mười nén bạc (Mt 25:14-30)
11
Khi
dân chúng đang nghe những điều ấy, thì Đức Giê-su lại kể thêm một dụ ngôn, vì
Người đang ở gần Giê-ru-sa-lem và vì họ tưởng là Triều Đại Thiên Chúa sắp xuất
hiện đến nơi rồi. 12 Vậy Người nói: ”Có một người quý tộc kia trẩy
đi phương xa lãnh nhận vương quyền, rồi trở về. 13 Ông gọi mười người
trong các tôi tớ của ông đến, phát cho họ mười nén bạc và nói với họ: ”Hãy lo
làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến.” 14 Nhưng đồng bào ông ghét
ông, nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng: ”Chúng tôi không muốn ông
này làm vua chúng tôi.
15 “Sau khi lãnh nhận
vương quyền, ông trở về. Bấy giờ ông truyền gọi những đầy tớ ông đã giao bạc
cho, để xem mỗi người làm ăn sinh lợi được bao nhiêu. 16 Người thứ
nhất đến trình: ”Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén. 17
Ông bảo người ấy: ”Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi! Vì anh đã trung thành
trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành. 18 Người
thứ hai đến trình: ”Thưa ngài, nén bạc của ngài đã làm lợi được năm nén. 19
Ông cũng bảo người ấy: ”Anh cũng vậy, anh hãy cai trị năm thành.
20
Rồi
người thứ ba đến trình: ”Thưa ngài, nén bạc của ngài đây, tôi đã bọc khăn giữ
kỹ. 21 Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi,
gặt cái không gieo. 22 Ông nói: ”Hỡi đầy tớ tồi tệ! Tôi cứ lời miệng
anh mà xử anh. Anh đã biết tôi là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái
không gieo. 23 Thế sao anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng? Có
vậy, khi tôi đến, tôi mới rút ra được cả vốn lẫn lời chứ! 24 Rồi ông bảo những
người đứng đó: ”Lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén. 25
Họ thưa ông: ”Thưa ngài, anh ấy có mười nén rồi! 26-” Tôi nói cho các anh
hay: phàm ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang
có cũng sẽ bị lấy đi.
27 “Còn bọn thù địch của
tôi kia, những người không muốn tôi làm vua cai trị chúng, thì hãy dẫn chúng
lại đây và giết chết trước mặt tôi.”
V.
ĐỨC GIÊ-SU RAO GIẢNG TẠI GIÊ-RU-SA-LEM
Đức
Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Mê-si-a (Mt 21:1-11; Mc 11:1-10; Ga 12:12-19)
28
Nói
những lời ấy xong, Đức Giê-su đi đầu, tiến lên Giê-ru-sa-lem. 29 Khi
đến gần làng Bết-pha-ghê và làng Bê-ta-ni-a, bên triền núi gọi là núi Ô-liu,
Người sai hai môn đệ và bảo: 30 “Các anh đi vào làng trước mặt kia.
Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh
cởi dây ra và dắt nó đi. 31 Nếu có ai hỏi: ”Tại sao các anh cởi lừa
người ta ra”, thì cứ nói: ”Chúa có việc cần dùng! 32 Hai người được sai liền ra
đi và thấy y như Người đã nói. 33 Các ông đang cởi dây lừa, thì
những người chủ nói với các ông: ”Tại sao các anh lại cởi lừa người ta ra?” 34
Hai ông đáp: ”Chúa có việc cần dùng.”
35
Các
ông dắt lừa về cho Đức Giê-su, rồi lấy áo choàng của mình phủ trên lưng lừa, và
giúp Người cỡi lên. 36 Người đi tới đâu, dân chúng cũng lấy áo
choàng trải xuống mặt đường. 37 Khi Người đến gần chỗ dốc xuống núi
Ô-liu, tất cả đoàn môn đệ vui mừng bắt đầu lớn tiếng ca tụng Thiên Chúa, vì các
phép lạ họ đã được thấy. 38 Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự
đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời!
Đức
Giê-su tán thành việc các môn đệ hoan hô Người (Mt 21:15-16)
39
Trong
đám đông, có vài người thuộc nhóm Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy,
Thầy trách môn đệ Thầy đi chứ!” 40 Người đáp: ”Tôi bảo các ông: họ
mà làm thinh, thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên!”
Đức
Giê-su thương tiếc thành Giê-ru-sa-lem
41
Khi
đến gần Giê-ru-sa-lem và trông thấy thành, Đức Giê-su khóc thương42 mà nói:
”Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi!
Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. 43 Thật
vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi
tư bề. 44 Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ
không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi
được Thiên Chúa viếng thăm.”
Đức
Giê-su đuổi những người đang buôn bán trong Đền Thờ (Mt 21:12-14; Mc 11:15-19;
Ga 2:13-16)
45
Đức
Giê-su vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán46 và nói với họ:
”Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi đã biến
thành sào huyệt của bọn cướp!”
Đức
Giê-su giảng dạy tại Đền Thờ (Mc 11:18)
47
Hằng
ngày, Người giảng dạy trong Đền Thờ. Các thượng tế và kinh sư tìm cách giết
Người, cả các thân hào trong dân cũng vậy. 48 Nhưng họ không biết
phải làm sao, vì toàn dân say mê nghe Người.
Chương 20
Câu
hỏi về quyền bính của Đức Giê-su (Mt 21:23-27; Mc 11:27-33)
1
Một
hôm, đang khi Đức Giê-su giảng dạy cho dân trong Đền Thờ và loan báo Tin Mừng,
thì các thượng tế và kinh sư cùng các kỳ mục kéo đến 2 và nói với Người rằng:
”Xin ông cho chúng tôi biết: ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Hay ai là
người đã cho ông quyền ấy?” 3 Đức Giê-su đáp: ”Tôi cũng vậy, tôi hỏi
các ông một điều, xin nói cho tôi biết: 4 phép rửa của ông Gio-an là
do Trời hay do người ta?” 5 Họ liền bàn tính với nhau: ”Nếu mình
nói: ”Do Trời”, thì ông ấy sẽ vặn lại: ”Thế sao các ông lại không tin ông ấy? 6
Còn nếu mình nói: ”Do người ta”, thì toàn dân sẽ ném đá mình, vì họ xác tín
rằng ông Gio-an là một Ngôn Sứ.” 7 Họ mới trả lời là họ không biết
do đâu. 8 Đức Giê-su liền bảo họ: ”Tôi cũng vậy, tôi cũng không nói
cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy.”
Dụ
ngôn những tá điền sát nhân (Mt 21:33-46; Mc 12:1-12)
9
Rồi
Đức Giê-su bắt đầu kể cho dân nghe dụ ngôn này: ”Có người kia trồng được một
vườn nho và cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa một thời gian khá lâu.
10 “Đến mùa, ông sai một
đầy tớ đến gặp các tá điền để chúng nộp hoa lợi vườn nho cho anh đem về. Nhưng
bọn tá điền đánh anh ta rồi đuổi về tay không. 11 Ông lại sai một
đầy tớ khác, nhưng họ cũng đánh anh ta, hạ nhục, rồi đuổi về tay không. 12
Ông còn sai thêm một người thứ ba, nhưng họ cũng đánh trọng thương, rồi
quăng ra ngoài. 13 Ông chủ vườn nho mới nói: ”Ta phải làm gì đây? Ta
sẽ phái người con yêu dấu của ta, biết đâu chúng sẽ nể con ta. 14 Nhưng
vừa thấy cậu, bọn tá điền liền bàn nhau: ”Đứa thừa tự đây rồi! Ta giết quách nó
đi, rồi gia tài sẽ về tay ta. 15 Thế là chúng quăng cậu ra bên ngoài
vườn nho, rồi giết đi.
16
Ông
sẽ đến tru diệt các tá điền ấy, rồi giao vườn nho cho người khác” . Nghe vậy,
họ nói: ”Mong đừng có chuyện ấy!” 17 Nhưng Đức Giê-su đưa mắt nhìn
họ và nói: ”Vậy câu Kinh Thánh này có nghĩa gì:
Tảng
đá thợ xây nhà loại bỏ,
lại
trở nên đá tảng góc tường?
18 “Phàm ai ngã xuống đá
này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt.”
19
Ngay
giờ đó, các kinh sư và thượng tế tìm cách tra tay bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ
dân. Quả vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy.
Nộp
thuế cho Xê-da (Mt 22:15-22; Mc 12:13-17)
20
Họ
rình rập và sai một số người giả bộ công chính đến dò la, mong bắt quả tang Đức
Giê-su lỡ lời, để nộp Người cho nhà chức trách có thẩm quyền là tổng trấn. 21
Những người này hỏi Đức Giê-su rằng: ”Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói
và dạy một cách thẳng thắn, không thiên vị ai, nhưng theo sự thật mà dạy đường
lối của Thiên Chúa. 22 Vậy, chúng tôi có được phép nộp thuế cho
Xê-da hay không?” 23 Nhưng Đức Giê-su thấu suốt lòng xảo trá của họ,
nên Người nói: 24 “Cho tôi coi một quan tiền! Quan tiền này mang hình
và danh hiệu của ai đây?” Họ đáp: ”Của Xê-da.” 25 Người bảo họ: ”Thế
thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”
26
Họ
không tài nào bắt quả tang Người lỡ lời trước mặt dân; nghe câu trả lời của
Người, họ ngạc nhiên và làm thinh luôn.
Kẻ
chết sống lại (Mt 22:23-33; Mc 12:18-27)
27
Có
mấy người thuộc nhóm Xa-đốc đến gặp Đức Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự
sống lại. 28 Mấy người ấy hỏi Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, ông Mô-sê có
viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ
mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay
em mình. 29 Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ,
nhưng chưa có con thì đã chết. 30 Người thứ hai, 31 rồi
người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà
không để lại đứa con nào. 32 Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. 33
Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã
lấy nàng làm vợ?”
34
Đức
Giê-su đáp: ”Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, 35 chứ những ai được
xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng
chẳng lấy chồng. 36 Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang
hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. 37
Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy
trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ
Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. 38
Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ
sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.”
39
Bấy
giờ có mấy người thuộc nhóm kinh sư lên tiếng nói: ”Thưa Thầy, Thầy nói hay
lắm.” 40 Thế là, họ không dám chất vấn Người điều gì nữa.
Đức
Ki-tô là Con và cũng là Chúa của vua Đa-vít (Mt 22:41-46; Mc 12:35-37)
41
Nhưng
Người hỏi họ: ”Sao người ta lại nói Đấng Ki-tô là con vua Đa-vít? 42 Vì chính
vua Đa-vít đã nói trong sách Thánh vịnh: Đức Chúa phán cùng Chúa Thượng tôi:
Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, 43 Để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt
làm bệ dưới chân Con.
44 “Như vậy, vua Đa-vít
gọi Đấng Ki-tô là Chúa Thượng; thế thì làm sao Đấng Ki-tô lại là con vua ấy
được?”
Đức
Giê-su khiển trách các kinh sư (Mt 23:1-36; Mc 12:38-40)
45
Toàn
dân đang nghe, thì Người nói với các môn đệ: 46 “Anh em phải coi
chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được
chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích
ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. 47 Họ nuốt hết tài sản của các bà goá,
lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị kết án nghiêm
khắc hơn.”
Chương 21
Hai
đồng tiền nhỏ của bà goá (Mc 12:41-44)
1
Ngước
mắt lên nhìn, Đức Giê-su thấy những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ
vào thùng tiền. 2 Người cũng thấy một bà goá túng thiếu kia bỏ vào
đó hai đồng tiền kẽm. 3 Người liền nói: ”Thầy bảo thật anh em: bà
goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. 4 Quả vậy, tất cả những
người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này,
thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi
sống mình.”
Bài
giảng về sự sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem. Nhập đề (Mt 24:1-3; Mc 13:1-4)
5
Nhân
có mấy người nói về Đền Thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ
dâng cúng, Đức Giê-su bảo: 6 “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó
sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào.” 7 Họ
hỏi Người: ”Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra,
thì có điềm gì báo trước?”
Những
điềm báo trước (Mt 24:4-13; Mc 13:5-13)
8
Đức
Giê-su đáp: ”Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh
Thầy đến nói rằng: ”Chính ta đây”, và: ”Thời kỳ đã đến gần”; anh em chớ có theo
họ. 9 Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì
những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu” . 10
Rồi Người nói tiếp: ”Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống
nước nọ. 11 Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn
dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời
xuất hiện.
12 “Nhưng trước khi tất
cả các sự ấy xảy ra, thì người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp anh
em cho các hội đường và bỏ tù, điệu anh em đến trước mặt vua chúa quan quyền vì
danh Thầy. 13 Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy. 14 Vậy
anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách
nào. 15 Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến
tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được. 16 Anh
em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số
người trong anh em. 17 Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét.
18 Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. 19
Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình.
Giê-ru-sa-lem
bị vây hãm (Mt 24:15-19; Mc 13:14-17)
20 “Khi anh em thấy
thành Giê-ru-sa-lem bị các đạo binh vây hãm, bấy giờ anh em hãy biết rằng đã
gần đến ngày khốc hại của thành. 21 Bấy giờ, ai ở miền Giu-đê, hãy
trốn lên núi; ai ở trong thành, hãy bỏ đi nơi khác; ai ở vùng quê, thì chớ vào
thành. 22 Thật vậy, đó sẽ là những ngày báo oán, ngày mà tất cả
những gì đã chép trong Kinh Thánh sẽ được ứng nghiệm.
Cơn
khốn khổ. Thời của dân ngoại
23
Khốn
thay những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó!
“
Vì sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ sẽ giáng xuống dân
này.
24
Họ
sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem
sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại.
Những
điềm lạ. Con Người quang lâm. (Mt 24, 29-31; Mc 13:24-27)
25 “Sẽ có những điềm lạ
trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang
mang trước cảnh biển gào sóng thét. 26 Người ta sợ đến hồn xiêu
phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ
bị lay chuyển. 27 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng
và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. 28 Khi những biến cố ấy bắt
đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu
chuộc.”
Dụ
ngôn cây vả (Mt 24:32-35; Mc 13:28-31)
29
Đức
Giê-su kể cho các môn đệ nghe một dụ ngôn: ”Anh em hãy xem cây vả cũng như tất
cả những cây khác. 30 Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì đủ biết là
mùa hè đã đến gần rồi. 31 Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó
xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. 32 Thầy bảo
thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. 33 Trời
đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.
Phải
tỉnh thức và cầu nguyện
34 “Vậy anh em phải đề
phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo
Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, 35 vì
Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. 36 Vậy anh em hãy
tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và
đứng vững trước mặt Con Người.”
Những
ngày sau hết của Đức Giê-su
37
Ban
ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm
tại núi gọi là núi Ô-liu. 38 Sáng sớm, toàn dân đến với Người trong
Đền Thờ để nghe Người giảng dạy.
Chương 22
VI.
CUỘC THƯƠNG KHÓ
Âm
mưu hại Đức Giê-su. Giu-đa tìm cách nộp Thầy (Mt 26:1-5, 14-16; Mc 14:1-2,
10-11; Ga 11:45-53)
1
Lễ
Bánh Không Men, cũng gọi là lễ Vượt Qua, đã đến gần. 2 Các thượng tế
và kinh sư tìm cách thủ tiêu Đức Giê-su, vì họ sợ dân.
3
Xa-tan
đã nhập vào Giu-đa, cũng gọi là Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai. 4
Hắn đi nói chuyện với các thượng tế và lãnh binh Đền Thờ về cách thức nộp
Người cho họ. 5 Họ rất mừng và đồng ý sẽ cho hắn tiền. 6 Hắn
ưng thuận và tìm dịp tiện để nộp Đức Giê-su cho họ, lúc không có đám đông.
Chuẩn
bị ăn lễ Vượt Qua (Mt 26:17-25; Mc 14:12-21; Ga 13:21-30)
7
Đã
đến ngày lễ Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. 8 Đức
Giê-su sai ông Phê-rô với ông Gio-an đi và dặn: ”Các anh hãy đi dọn cho chúng
ta ăn lễ Vượt Qua.” 9 Hai ông hỏi: ”Thầy muốn chúng con dọn ở đâu?” 10
Người bảo họ: ”Này, khi vào thành, các anh sẽ gặp một người mang vò nước.
Cứ đi theo người đó, người đó vào nhà nào, 11 thì các anh vào thưa
với chủ nhà: ”Thầy nhắn ông: Căn phòng dành cho tôi ăn lễ Vượt Qua với các môn
đệ của tôi ở đâu? 12 Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một căn phòng rộng rãi trên
lầu, đã được trang bị: các anh hãy dọn ở đó.” 13 Các ông ra đi, thấy
mọi sự y như Người đã nói, và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
Ăn
tiệc Vượt Qua (Mt 26:20. 29; Mc 14:17-25)
14
Khi
giờ đã đến, Đức Giê-su vào bàn, và các Tông Đồ cùng vào với Người. 15 Người
nói với các ông: ”Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em
trước khi chịu khổ hình. 16 Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy sẽ
không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn
trong Nước Thiên Chúa.”
17
Rồi
Người nhận lấy chén, dâng lời tạ ơn và nói: ”Anh em hãy cầm lấy mà chia nhau. 18
Bởi vì, Thầy bảo cho anh em biết, từ nay, Thầy không còn uống sản phẩm
của cây nho nữa, cho đến khi Triều Đại Thiên Chúa đến.”
Đức
Giê-su lập phép Thánh Thể (Mt 26:26-28; Mc 14:22-24; ICo 11:23-25)
19
Rồi
Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao cho các ông và nói: ”Đây là
mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy.” 20
Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy và nói: ”Chén này là
giao ước mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em.
Đức
Giê-su tiên báo Giu-đa sẽ nộp Thầy (Mt 26:21-25; Mc 14:17-21)
21 “Nhưng này bàn tay kẻ
nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy. 22 Đã hẳn Con Người ra đi
như đã ấn định, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người.” 23 Các Tông Đồ
bắt đầu bàn tán với nhau xem ai trong Nhóm lại là kẻ toan làm chuyện ấy.
Kẻ
làm đầu phải hầu thiên hạ
24
Các
ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong Nhóm được coi là người lớn nhất. 25 Đức
Giê-su bảo các ông: ”Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm
quyền thì tự xưng là ân nhân. 26 Nhưng anh em thì không phải như
thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất,
và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. 27 Bởi lẽ, giữa người
ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy
đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ.
Phần
thưởng dành cho các Tông Đồ
28 “Còn anh em, anh em
vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. 29
Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy,
30 để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của
Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en.”
Đức
Giê-su tiên báo: ông Phê-rô sẽ chối Thầy, nhưng sẽ trở lại (Mt 26:30-35; Mc 14:26-31;
Ga 13:36-38)
31
Rồi
Chúa nói: ”Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta
sàng gạo. 32 Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng
tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh.” 33
Ông Phê-rô thưa với Người: ”Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết
với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng.” 34 Đức Giê-su lại nói: ”Này anh
Phê-rô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối
là không biết Thầy.”
Giờ
chiến đấu quyết liệt
35
Rồi
Người nói với các ông: ”Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao
bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?” Các ông đáp: ”Thưa không.” 36
Người bảo các ông: ”Nhưng bây giờ, ai có túi tiền thì hãy mang theo, ai
có bao bị cũng vậy; còn ai chưa có gươm thì bán áo đi mà mua. 37 Vì
Thầy bảo cho anh em hay: cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh
đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy
sắp được hoàn tất.” 38 Các ông nói: ”Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm
đây.” Người bảo họ: ”Đủ rồi!”
Tại
núi Ô-liu (Mt 26:36-46; Mc 14:32-42)
39
Rồi
Người đi ra núi Ô-liu như đã quen. Các môn đệ cũng theo Người. 40 Đến
nơi, Người bảo các ông: ”Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ.”
41
Rồi
Người đi xa các ông một quãng, chừng bằng ném một hòn đá, và quỳ gối cầu nguyện
rằng: 42 “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy,
xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha.” 43 Bấy giờ có thiên sứ
tự trời hiện đến tăng sức cho Người. 44 Người lâm cơn xao xuyến bồi
hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống
đất.
45
Cầu
nguyện xong, Người đứng lên, đến chỗ các môn đệ, thấy các ông đang ngủ vì buồn
phiền, 46 Người liền nói với các ông: ”Sao anh em lại ngủ? Dậy mà
cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ.”
Đức
Giê-su bị bắt (Mt 26:47-55; Mc 14:43-49; Ga 18:3-11)
47
Người
còn đang nói, thì một đám đông xuất hiện, và kẻ dẫn đầu tên là Giu-đa, một
người trong Nhóm Mười Hai. Hắn lại gần Đức Giê-su để hôn Người. 48 Đức
Giê-su bảo hắn: ”Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” 49 Thấy
việc sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi: ”Lạy Chúa, chúng con
tuốt gươm chém được không?” 50 Thế rồi một người trong nhóm chém tên
đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai bên phải. 51 Nhưng Đức Giê-su
lên tiếng: ”Thôi, ngừng lại.” Và Người sờ vào tai tên đầy tớ mà chữa lành.
52
Sau
đó Đức Giê-su nói với các thượng tế, lãnh binh Đền Thờ và kỳ mục đến bắt Người:
”Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo gậy gộc đến? 53 Ngày ngày,
tôi ở giữa các ông trong Đền Thờ, mà các ông không tra tay bắt. Nhưng đây là
giờ của các ông, là thời của quyền lực tối tăm.”
Ông
Phê-rô chối Thầy (Mt 26:57, 69-75; Mc 14:53-54, 66-72; Ga 18:12-18, 25-27)
54
Họ
bắt Đức Giê-su, điệu Người đến nhà vị thượng tế. Còn ông Phê-rô thì theo xa xa.
55 Họ đốt lửa giữa sân và đang ngồi quây quần với nhau, thì ông
Phê-rô đến ngồi giữa họ. 56 Thấy ông ngồi bên ánh lửa, một người tớ
gái nhìn ông chòng chọc và nói: ”Cả bác này cũng đã ở với ông ấy đấy!” 57 Ông
liền chối: ”Tôi có biết ông ấy đâu, chị!” 58 Một lát sau, có người
khác thấy ông, liền nói: ”Cả bác nữa, bác cũng thuộc bọn chúng!” Nhưng ông
Phê-rô đáp lại: ”Này anh, không phải đâu!” 59 Chừng một giờ sau, có
người khác lại quả quyết: ”Đúng là bác này cũng đã ở với ông ấy, vì bác ta cũng
là người Ga-li-lê.” 60 Nhưng ông Phê-rô trả lời: ”Này anh, tôi không
biết anh nói gì!” Ngay lúc ông còn đang nói, thì gà gáy. 61 Chúa
quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: ”Hôm nay, gà chưa kịp gáy,
thì anh đã chối Thầy ba lần.” 62 Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm
thiết.
Đức
Giê-su bị đánh đập (Mt 26:67-68; Mc 14:65)
63
Những
kẻ canh giữ Đức Giê-su nhạo báng đánh đập Người. 64 Chúng bịt mắt
Người lại, rồi hỏi rằng: ”Nói tiên tri xem: ai đánh ông đó?” 65 Chúng
còn thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Người.
Đức
Giê-su ra trước Thượng Hội Đồng (Mt 26:59-66; Mc 14:55-64; Ga 18:19-24)
66
Khi
trời sáng, đoàn kỳ mục trong dân, các thượng tế và kinh sư nhóm họp. Họ điệu
Người ra trước Thượng Hội Đồng67 và hỏi: ”Ông có phải là Đấng Mê-si-a thì nói
cho chúng tôi biết!” Người đáp: ”Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin;
68 tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời. 69 Nhưng từ
nay, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng.” 70 Mọi người
liền nói: ”Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?” Người đáp: ”Đúng như các ông nói,
chính tôi đây.” 71 Họ liền nói: ”Chúng ta cần gì lời chứng nữa?
Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!”
Chương 23
1
Toàn
thể cử toạ đứng lên, điệu Đức Giê-su đến ông Phi-la-tô; .
Đức
Giê-su ra trước toà tổng trấn Phi-la-tô (Mt 27:11-14; Mc 15:2-5; Ga 18:28-38)
2
Họ
bắt đầu tố cáo Người rằng: ”Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc
chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xê-da, lại còn xưng mình
là Mê-si-a, là Vua nữa.” 3 Ông Phi-la-tô hỏi Người: ”Ông là Vua dân
Do-thái sao?” Người trả lời: ”Chính ngài nói đó.” 4 Ông Phi-la-tô
nói với các thượng tế và đám đông: ”Ta xét thấy người này không có tội gì.” 5
Nhưng họ cứ khăng khăng nói: ”Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp
vùng Giu-đê, bắt đầu từ Ga-li-lê cho đến đây.” 6 Nghe nói thế, ông
Phi-la-tô liền hỏi xem đương sự có phải là người Ga-li-lê không. 7 Và
khi biết Người thuộc thẩm quyền vua Hê-rô-đê, ông liền cho áp giải Người đến
với nhà vua lúc ấy cũng đang có mặt tại Giê-ru-sa-lem.
Đức
Giê-su ra trước mặt vua Hê-rô-đê.
8
Vua
Hê-rô-đê thấy Đức Giê-su thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn được gặp Người bởi
đã từng nghe nói về Người. Vả lại, vua cũng mong được xem Người làm một hai
phép lạ. 9 Nhà vua hỏi Người nhiều điều, nhưng Người không trả lời
gì cả. 10 Các thượng tế và kinh sư đứng đó, tố cáo Người dữ dội. 11
Vua Hê-rô-đê cũng như thị vệ đều khinh dể Người ra mặt nên khoác cho
Người một chiếc áo rực rỡ mà chế giễu, rồi cho giải Người lại cho ông Phi-la-tô.
12 Ngày hôm ấy, vua Hê-rô-đê và tổng trấn Phi-la-tô bắt đầu thân
thiện với nhau, chứ trước kia hai bên vẫn hiềm thù.
Đức
Giê-su lại ra trước toà tổng trấn Phi-la-tô (Mt 27:15-26; Mc 15:6-15; Ga 18:39-19:16)
13
Bấy
giờ ông Phi-la-tô triệu tập các thượng tế, thủ lãnh và dân chúng lại 14 mà nói:
”Các ngươi nộp người này cho ta, vì cho là tay kích động dân, nhưng ta đã hỏi
cung ngay trước mặt các ngươi, mà không thấy người này có tội gì, như các ngươi
tố cáo. 15 Cả vua Hê-rô-đê cũng vậy, bởi lẽ nhà vua đã cho giải ông
ấy lại cho chúng ta. Và các ngươi thấy đó, ông ấy chẳng can tội gì đáng chết cả.
16 Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra.” 17 Vào mỗi dịp lễ
lớn, ông Phi-la-tô phải phóng thích cho họ một người tù. 18 Nhưng
tất cả mọi người đều la ó: ”Giết nó đi, thả Ba-ra-ba cho chúng tôi!” 19 Tên
này đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết
người.
20
Ông
Phi-la-tô muốn thả Đức Giê-su, nên lại lên tiếng một lần nữa. 21 Nhưng
họ cứ một mực la lớn: ”Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập giá!” 22 Lần
thứ ba, ông Phi-la-tô nói với họ: ”Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác? Ta xét
thấy ông ấy không có tội gì đáng chết. Vậy ta sẽ cho đánh đòn rồi thả ra.” 23
Nhưng họ cứ la to hơn, nhất định đòi phải đóng đinh Người. Và tiếng la
càng thêm dữ dội.
24
Ông
Phi-la-tô quyết định chấp thuận điều họ yêu cầu. 25 Ông phóng thích
người tù họ xin tha, tức là tên bị tống ngục vì tội bạo động và giết người. Còn
Đức Giê-su thì ông trao nộp theo ý họ muốn.
Trên
đường lên núi Sọ (Mt 27:32; Mc 15:21)
26
Khi
điệu Đức Giê-su đi, họ bắt một người từ miền quê lên, tên là Si-môn, gốc
Ky-rê-nê, đặt thập giá lên vai cho ông vác theo sau Đức Giê-su. 27 Dân
chúng đi theo Người đông lắm, trong số đó có nhiều phụ nữ vừa đấm ngực vừa than
khóc Người. 28 Đức Giê-su quay lại phía các bà mà nói: ”Hỡi chị em
thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận
mình và cho con cháu. 29 Vì này đây sẽ tới những ngày người ta phải
nói: ”Phúc thay đàn bà hiếm hoi, người không sinh không đẻ, kẻ không cho bú
mớm!” 30 Bấy giờ người ta sẽ bắt đầu nói với núi non: Đổ xuống chúng
tôi đi!, và với gò nổng: Phủ lấp chúng tôi đi! 31 Vì cây xanh tươi mà người ta
còn đối xử như thế, thì cây khô héo sẽ ra sao?” 32 Có hai tên gian
phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Người.
Đức
Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá (Mt 27:33-35; Mc 15:22-24; Ga 19:17-18,
23-24)
33
Khi
đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên
gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. 34 Bấy giờ Đức Giê-su
cầu nguyện rằng: ”Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Rồi
họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm.
Đức
Giê-su bị nhục mạ (Mt 27:37-44; Mc 15:26-32)
35
Dân
chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: ”Hắn đã cứu người
khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người
được tuyển chọn!” 36 Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần,
đưa giấm cho Người uống 37 và nói: ”Nếu ông là vua dân Do-thái thì cứu lấy mình
đi!” 38 Phía trên đầu Người, có bản án viết: ”Đây là vua người
Do-thái.”
Người
gian phi sám hối
39
Một
trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: ”Ông không
phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” 40 Nhưng
tên kia mắng nó: ”Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày
cũng không biết sợ! 41 Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc
đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!” 42 Rồi anh ta thưa với
Đức Giê-su: ”Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” 43
Và Người nói với anh ta: ”Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với
tôi trên Thiên Đàng.”
Đức
Giê-su trút hơi thở cuối cùng (Mt 27:45-51; Mc 15:33-38; Ga 19:28-30)
44
Bấy
giờ đã gần tới giờ thứ sáu, thế mà bóng tối bao phủ khắp mặt đất, mãi đến giờ
thứ chín. 45 Mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng trong Đền Thờ
bị xé ngay chính giữa. 46 Đức Giê-su kêu lớn tiếng: Lạy Cha, con xin
phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở.
Sau
khi Đức Giê-su tắt thở (Mt 27:54-56; Mc 15:39-41)
47
Thấy
sự việc xảy ra như thế, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa rằng:
”Người này đích thực là người công chính!” 48 Toàn thể dân chúng đã
kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về.
49
Đứng
đàng xa, có tất cả những người quen biết Đức Giê-su cũng như những phụ nữ đã
theo Người từ Ga-li-lê; các bà đã chứng kiến những việc ấy.
Mai
táng Đức Giê-su (Mt 27:57-61; Mc 15:42-47; Ga 19:38-42)
50
Khi
ấy có một người tên là Giô-xếp, thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương
thiện, công chính. 51 Ông đã không tán thành quyết định và hành động
của Thượng Hội Đồng. Ông là người thành A-ri-ma-thê, một thành của người
Do-thái, và cũng là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa. 52 Ông đến
gặp tổng trấn Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su. 53 Ông hạ xác
Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong
núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ. 54 Hôm ấy là áp lễ, và ngày
sa-bát bắt đầu ló rạng.
55
Cùng
đi với ông Giô-xếp, có những người phụ nữ đã theo Đức Giê-su từ Ga-li-lê. Các
bà để ý nhìn ngôi mộ và xem xác Người được đặt như thế nào.
56
Rồi
các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày sa-bát, các bà nghỉ lễ
như Luật truyền.
Chương 24
VII.
SAU PHỤC SINH
Ngôi
mộ trống (Mt 28:1-7; Mc 16:1-7)
1
Ngày
thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã
chuẩn bị sẵn. 2 Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. 3 Nhưng
khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả. 4 Họ còn
đang phân vân, thì bỗng có hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. 5
Đang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: ”Sao
các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? 6 Người không còn đây nữa, nhưng đã
trỗi dậy rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê, 7
là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập
giá, rồi ngày thứ ba sống lại.”
Các
Tông Đồ không tin lời các phụ nữ (Mt 28:8)
8
Bấy
giờ các bà nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. 9 Khi từ mộ trở về,
các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. 10
Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a, mẹ
ông Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Đồ như
vậy. 11 Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin.
Ông
Phê-rô ra mộ (Ga 20:3-10)
12
Dầu
vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông thấy chỉ còn
có những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy
ra.
Đức
Giê-su hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau (Mc 16:12-13)
13
Cũng
ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau,
cách Giê-ru-sa-lem chừng mười một cây số. 14 Họ trò chuyện với nhau
về tất cả những sự việc mới xảy ra. 15 Đang lúc họ trò chuyện và bàn
tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. 16 Nhưng
mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. 17 Người hỏi họ: ”Các
anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn
rầu.
18
Một
trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: ”Chắc ông là người duy nhất trú ngụ
tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa
nay.” 19 Đức Giê-su hỏi: ”Chuyện gì vậy?” Họ thưa: ”Chuyện ông
Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời
nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. 20 Thế mà các thượng tế và thủ
lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người
vào thập giá. 21 Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính
Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là
ngày thứ ba rồi. 22 Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm
chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, 23 không
thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người
vẫn sống. 24 Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự
việc y như các bà ấy nói; còn chính Người thì họ không thấy.”
25
Bấy
giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: ”Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các
anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! 26 Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu
khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? 27 Rồi bắt đầu từ
ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên
quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
28
Khi
gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. 29 Họ
nài ép Người rằng: ”Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày
sắp tàn.” Bấy giờ Người mới vào và ở lại với họ. 30 Khi đồng bàn với
họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. 31 Mắt
họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. 32 Họ
mới bảo nhau: ”Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho
chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”
33
Ngay
lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn
hữu đang tụ họp tại đó. 34 Những người này bảo hai ông: ”Chúa trỗi dậy
thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-môn.” 35 Còn hai ông thì thuật
lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người
bẻ bánh.
Đức
Giê-su hiện ra với các Tông Đồ (Ga 20:19-20)
36
Các
ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: ”Bình an cho
anh em!” 37 Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. 38 Nhưng
Người nói: ”Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? 39 Nhìn chân tay
Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy
Thầy có đây?” 40 Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. 41
Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi:
”Ở đây anh em có gì ăn không?” 42 Các ông đưa cho Người một khúc cá
nướng. 43 Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.
Những
lời chỉ bảo sau hết cho các Tông Đồ (Mt 28:16-20; Mc 16:14-18; Ga 20:21-23; Cv 1:6-8)
44
Rồi
Người bảo: ”Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những
gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải
được ứng nghiệm.” 45 Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh
Thánh46 và Người nói: ”Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ
hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; 47 phải nhân danh Người
mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được
ơn tha tội. 48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này. 49
“Phần Thầy, Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại
trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”
Đức
Giê-su được rước lên trời (Mc 16:19-20; Cv 1:9-11)
50
Sau
đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. 51
Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời. 52
Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan
hỷ, 53 và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
Gio-an
Chương 1
I.
LỜI TỰA
1
Lúc
khởi đầu đã có Ngôi Lời.
Ngôi
Lời vẫn hướng về Thiên Chúa,
và
Ngôi Lời là Thiên Chúa.
2
Lúc
khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa.
3
Nhờ
Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành,
và
không có Người,
thì
chẳng có gì được tạo thành.
Điều
đã được tạo thành
4
ở
nơi Người là sự sống,
và
sự sống là ánh sáng cho nhân loại.
5
Ánh
sáng chiếu soi trong bóng tối,
và
bóng tối đã không diệt được ánh sáng.
6
Có
một người được Thiên Chúa sai đến,
tên
là Gio-an.
7
Ông
đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng,
để
mọi người nhờ ông mà tin.
8
Ông
không phải là ánh sáng,
nhưng
ông đến để làm chứng về ánh sáng.
9
Ngôi
Lời là ánh sáng thật,
ánh
sáng đến thế gian
và
chiếu soi mọi người.
10
Người
ở giữa thế gian,
và
thế gian đã nhờ Người mà có,
nhưng
lại không nhận biết Người.
11
Người
đã đến nhà mình,
nhưng
người nhà chẳng chịu đón nhận.
12
Còn
những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì
Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.
13
Họ
được sinh ra, không phải do khí huyết,
cũng
chẳng do ước muốn của nhục thể,
hoặc
do ước muốn của người đàn ông,
nhưng
do bởi Thiên Chúa.
14
Ngôi
Lời đã trở nên người phàm
và
cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng
tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh
quang mà Chúa Cha ban cho Người,
là
Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật.
15
Ông
Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố:
“
Đây là Đấng mà tôi đã nói:
Người
đến sau tôi,
nhưng
trổi hơn tôi, vì có trước tôi.”
16
Từ
nguồn sung mãn của Người,
tất
cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.
17
Quả
thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,
còn
ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có.
18
Thiên
Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả;
nhưng
Con Một vốn là Thiên Chúa
và
là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính
Người đã tỏ cho chúng ta biết.
II.
SỨ VỤ CỦA ĐỨC GIÊ-SU
1.
LOAN BÁO NHIỆM CỤC MỚI
A.
TUẦN LỄ KHAI MẠC
Lời
chứng của ông Gio-an (Mt 3:1-12; Mc 1:1-8; Lc 3:1-18)
19
Và
đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử một số
tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: ”Ông là ai?” 20 Ông tuyên bố
thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: ”Tôi không phải là Đấng Ki-tô.” 21 Họ
lại hỏi ông: ”Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?” Ông nói:
”Không phải.”-”Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: ”Không.” 22 Họ
liền nói với ông: ”Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã
cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?” 23 Ông nói: Tôi là tiếng
người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ
I-sai-a đã nói. 24 Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái
Pha-ri-sêu. 25 Họ hỏi ông: ”Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông
không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?” 26
Ông Gio-an trả lời: ”Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị
đang ở giữa các ông mà các ông không biết. 27 Người sẽ đến sau tôi
và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” 28 Các việc đó đã xảy ra
tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa.
29
Hôm
sau, ông Gio-an thấy Đức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: ”Đây là Chiên
Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian. 30 Chính Người là Đấng
tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có
trước tôi.
31
Tôi
đã không biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm
phép rửa trong nước.” 32 Ông Gio-an còn làm chứng: ”Tôi đã thấy Thần
Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. 33 Tôi đã không
biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi:
”Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Đấng làm phép
rửa trong Thánh Thần.” 34 Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người
là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn.”
Các
môn đệ đầu tiên
35
Hôm
sau, ông Gio-an lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. 36 Thấy
Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: ”Đây là Chiên Thiên Chúa.” 37 Hai
môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. 38 Đức Giê-su quay
lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: ”Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: ”Thưa
Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” 39 Người bảo họ: ”Đến mà
xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào
khoảng giờ thứ mười.
40
Ông
An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và
đi theo Đức Giê-su. 41 Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-môn và
nói: ”Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). 42 Rồi
ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn ông Si-môn và nói: ”Anh là
Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô).
43
Hôm
sau, Đức Giê-su quyết định đi tới miền Ga-li-lê. Người gặp ông Phi-líp-phê và
nói: ”Anh hãy theo tôi.” 44 Ông Phi-líp-phê là người Bết-xai-đa,
cùng quê với các ông An-rê và Phê-rô.
45
Ông
Phi-líp-phê gặp ông Na-tha-na-en và nói: ”Đấng mà sách Luật Mô-sê và các ngôn
sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giê-su, con ông Giu-se, người
Na-da-rét.” 46 Ông Na-tha-na-en liền bảo: ”Từ Na-da-rét, làm sao có
cái gì hay được?” Ông Phi-líp-phê trả lời: ”Cứ đến mà xem!” 47 Đức
Giê-su thấy ông Na-tha-na-en tiến về phía mình, liền nói về ông rằng: ”Đây đích
thật là một người Ít-ra-en, lòng dạ không có gì gian dối.” 48 Ông
Na-tha-na-en hỏi Người: ”Làm sao Ngài lại biết tôi?” Đức Giê-su trả lời: ”Trước
khi Phi-líp-phê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi.” 49
Ông Na-tha-na-en nói: ”Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính
Thầy là Vua Ít-ra-en!” 50 Đức Giê-su đáp: ”Vì tôi nói với anh là tôi
đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao
hơn thế nữa.” 51 Người lại nói: ”Thật, tôi bảo thật các anh, các anh
sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống trên
Con Người.”
Chương 2
Tiệc
cưới Ca-na
1
Ngày
thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức
Giê-su. 2 Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. 3 Khi
thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: ”Họ hết rượu rồi.” 4 Đức
Giê-su đáp: ”Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến.” 5
Thân mẫu Người nói với gia nhân: ”Người bảo gì, các anh cứ việc làm
theo.”
6
Ở
đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi
chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. 7 Đức
Giê-su bảo họ: ”Các anh đổ đầy nước vào chum đi!” Và họ đổ đầy tới miệng. 8
Rồi Người nói với họ: ”Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc.” Họ
liền đem cho ông. 9 Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành
rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới
gọi tân lang lại 10 và nói: ”Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã
ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây
giờ.” 11 Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền
Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người. 12 Sau
đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Ca-phác-na-um và ở lại
đó ít ngày.
B.
LỄ VƯỢT QUA THỨ NHẤT
Đức
Giê-su tẩy uế Đền Thờ (Mt 21:12-13; Mc 11:15-17; Lc 19:45-46)
13
Gần
đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem. 14 Người
thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi
đổi tiền. 15 Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ
cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ
tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. 16 Người nói với những kẻ bán
bồ câu: ”Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi
buôn bán.” 17 Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh
Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.
18
Người
Do-thái hỏi Đức Giê-su: ”Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông
có quyền làm như thế?” 19 Đức Giê-su đáp: ”Các ông cứ phá huỷ Đền
Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” 20 Người Do-thái nói:
”Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày
ông xây lại được sao?” 21 Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là
chính thân thể Người. 22 Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các
môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã
nói.
Đức
Giê-su ở tại Giê-ru-sa-lem
23
Trong
lúc Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh
Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. 24 Nhưng chính Đức
Giê-su không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, 25 và không cần ai
làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người.
Chương 3
Cuộc
đối thoại với ông Ni-cô-đê-mô
1
Trong
nhóm Pha-ri-sêu, có một người tên là Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người
Do-thái. 2 Ông đến gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông nói với Người: ”Thưa
Thầy, chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy,
chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy.”
3 Đức Giê-su trả lời: ”Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy
Nước Thiên Chúa, nếu không đươc sinh ra một lần nữa bởi ơn trên.” 4 Ông
Ni-cô-đê-mô thưa: ”Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được? Chẳng lẽ
người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao?” 5 Đức
Giê-su đáp: ”Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu
không sinh ra bởi nước và Thần Khí. 6 Cái bởi xác thịt sinh ra là
xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí. 7 Ông đừng ngạc
nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. 8
Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ
đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy.”
9
Ông
Ni-cô-đê-mô hỏi Người: ”Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra được?” 10 Đức
Giê-su đáp: ”Ông là bậc thầy trong dân Ít-ra-en, mà lại không biết những chuyện
ấy! 11 Thật, tôi bảo thật ông: chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng
tôi làm chứng về những đieu chúng tôi đã thấy, nhưng các ông không nhận lời
chứng của chúng tôi. 12 Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới
đất mà các ông còn không tin, thì giả như tôi nói với các ông về những chuyện
trên trời, làm sao các ông tin được?” 13 Không ai đã lên trời, ngoại
trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. 14 Như ông Mô-sê đã giương cao
con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, 15 để
ai tin vào Người thì được sống muôn đời.
16
Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời. 17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con
của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian,
nhờ Con của Người, mà được cứu độ. 18 Ai tin vào Con của Người, thì
không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào
danh của Con Một Thiên Chúa. 19 Và đây là bản án: ánh sáng đã đến
thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm
đều xấu xa. 20 Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không
đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. 21 Nhưng kẻ
sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của
người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”
Sứ
vụ của Đức Giê-su tại Giu-đê. Lời chứng cuối cùng của ông Gio-an
22
Sau
đó, Đức Giê-su và các môn đệ đi tới miền Giu-đê. Người ở lại nơi ấy với các ông
và làm phép rửa. 23 Còn ông Gio-an, ông cũng đang làm phép rửa tại
Ê-nôn, gần Sa-lim, vì ở đấy có nhiều nước, và người ta thường đến chịu phép rửa.
24 Lúc ấy, ông Gio-an chưa bị tống giam.
25
Bấy
giờ, có một cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của ông Gio-an và một người
Do-thái về việc thanh tẩy. 26 Họ đến gặp ông Gio-an và nói: ”Thưa
thầy, người trước đây đã ở với thầy bên kia sông Gio-đan và được thầy làm chứng
cho, bây giờ ông ấy cũng đang làm phép rửa, và thiên hạ đều đến với ông.” 27
Ông Gio-an trả lời: ”Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban. 28
Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: ”Tôi đây không phải là
Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. 29 Ai cưới cô dâu,
người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng
hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy
bây giờ đã trọn vẹn. 30 Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ
đi.
31
Đấng
từ trên cao mà đến thì ở trên mọi người; kẻ từ đất mà ra thì thuộc về đất và
nói những chuyện dưới đất. Đấng từ trời mà đến thì ở trên mọi người; 32 Người
làm chứng về những gì Người đã thấy đã nghe, nhưng chẳng ai nhận lời chứng của
Người. 33 Ai nhận lời chứng của Người, thì xác nhận Thiên Chúa là
Đấng chân thật. 34 Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói
những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. 35
Chúa Cha yêu thương người Con và đã giao mọi sự trong tay Người. 36 Ai
tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người
Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ
ấy.”
Chương 4
Đức
Giê-su tại Sa-ma-ri
1
Nhóm
Pha-ri-sêu nghe tin Đức Giê-su thâu nạp và làm phép rửa cho nhiều môn đệ hơn
ông Gio-an. 2 (Thực ra, không phải chính Đức Giê-su làm phép rửa,
nhưng là các môn đệ của Người). 3 Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền
Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê. 4 Do đó, Người phải băng qua
Sa-ma-ri. 5 Vậy, Người đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần
thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. 6 Ở đấy, có giếng của
ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào
khoảng mười hai giờ trưa.
7
Có
một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: ”Chị cho
tôi xin chút nước uống!” 8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành
mua thức ăn. 9 Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: ”Ông là người
Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?” Quả the,
người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. 10 Đức
Giê-su trả lời: ”Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với
chị: ”Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị
nước hằng sống.” 11 Chị ấy nói: ”Thưa ông, ông không có gầu, mà
giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? 12 Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ
phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống
nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.” 13 Đức
Giê-su trả lời: ”Ai uống nước này, sẽ lại khát. 14 Còn ai uống nước
tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy
một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”
15
Người
phụ nữ nói với Đức Giê-su: ”Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết
khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” 16 Người bảo chị ấy: ”Chị hãy
gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” 17 Người phụ nữ đáp: ”Tôi không có
chồng.” Đức Giê-su bảo: ”Chị nói: ”Tôi không có chồng” là phải, 18 vì
chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng
chị. Chị đã nói đúng.” 19 Người phụ nữ nói với Người: ”Thưa ông, tôi
thấy ông thật là một ngôn sứ. . . 20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng
Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi
phải thờ phượng Thiên Chúa.” 21 Đức Giê-su phán: ”Này chị, hãy tin
tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay
tại Giê-ru-sa-lem. 22 Các người thờ Đấng các người không biết; còn
chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. 23
Nhưng giờ đã đến-và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích
thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm
những ai thờ phượng Người như thế. 24 Thiên Chúa là thần khí, và
những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” 25 Người
phụ nữ thưa: ”Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến,
Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” 26 Đức Giê-su nói: ”Đấng ấy
chính là tôi, người đang nói với chị đây.”
27
Vừa
lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một
phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: ”Thầy cần gì vậy?” Hoặc”Thầy nói gì với chị
ấy?” 28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: 29
“Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy
không phải là Đấng Ki-tô sao?” 30 Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
31
Trong
khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: ”Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa.” 32
Người nói với các ông: ”Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không
biết.” 33 Các môn đệ mới hỏi nhau: ”Đã có ai mang thức ăn đến cho
Thầy rồi chăng?” 34 Đức Giê-su nói với các ông: ”Lương thực của Thầy
là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. 35
Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy
bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!
36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế,
cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng. 37 Thật vậy, câu tục
ngữ”kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng! 38 Thầy sai anh em đi gặt những gì
chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn
anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ.”
39
Có
nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ
làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. 40 Vậy, khi đến
gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. 41
Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa. 42 Họ bảo
người phụ nữ: ”Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính
chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.”
Đức
Giê-su ở Ga-li-lê
43
Sau
hai ngày, Đức Giê-su bỏ nơi đó đi Ga-li-lê. 44 Chính Người đã quả
quyết: ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình. 45 Khi Người
đến Ga-li-lê, dân chúng trong miền đón tiếp Người, vì đã được chứng kiến tất cả
những gì Người làm tại Giê-ru-sa-lem trong dịp lễ, bởi lẽ chính họ cũng đã đi
dự lễ.
Dấu
lạ thứ hai ở Ca-na: Đức Giê-su chữa con của một sĩ quan cận vệ của nhà vua
46
Vậy
Đức Giê-su trở lại Ca-na miền Ga-li-lê, là nơi Người đã làm cho nước hoá thành
rượu. Bấy giờ có một sĩ quan cận vệ của nhà vua có đứa con trai đang bị bệnh
tại Ca-phác-na-um. 47 Khi nghe tin Đức Giê-su từ Giu-đê đến
Ga-li-lê, ông tới gặp và xin Người xuống chữa con ông vì nó sắp chết. 48 Đức
Giê-su nói với ông: ”Các ông mà không thấy dấu lạ điềm thiêng thì các ông sẽ
chẳng tin đâu!” 49 Viên sĩ quan nói: ”Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho,
kẻo cháu nó chết mất!” 50 Đức Giê-su bảo: ”Ông cứ về đi, con ông
sống.” Ông tin vào lời Đức Giê-su nói với mình, và ra về. 51 Ông còn
đang đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp và nói là con ông sống rồi. 52 Ông
hỏi họ con ông đã bắt đầu khá hơn vào giờ nào. Họ đáp: ”Hôm qua, vào lúc một
giờ trưa thì cậu hết sốt.” 53 Người cha nhận ra là vào đúng giờ đó,
Đức Giê-su đã nói với mình: ”Con ông sống”, nên ông và cả nhà đều tin. 54 Đó
là dấu lạ thứ hai Đức Giê-su đã làm, khi Người từ miền Giu-đê đến miền
Ga-li-lê.
Chương 5
2.
LỄ THỨ HAI TẠI GIÊ-RU-SA-LEM
Đức
Giê-su chữa một người đau ốm ở hồ nước tại Bết-da-tha
1
Sau
đó, nhân dịp lễ của người Do-thái, Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. 2 Tại
Giê-ru-sa-lem, gần Cửa Chiên, có một hồ nước, tiếng Híp-ri gọi là Bết-da-tha.
Hồ này có năm hành lang. 3 Nhiều người đau ốm, đui mù, què quặt, bất
toại nằm la liệt ở đó, (chờ cho nước động, 4 vì thỉnh thoảng có
thiên thần Chúa xuống hồ khuấy nước lên; khi nước khuấy lên, ai xuống trước,
thì dù mắc bệnh gì đi nữa, cũng được khỏi). 5 Ở đó, có một người đau
ốm đã ba mươi tám năm. 6 Đức Giê-su thấy anh ta nằm đấy và biết anh
sống trong tình trạng đó đã lâu, thì nói: ”Anh có muốn khỏi bệnh không?” 7
Bệnh nhân đáp: ”Thưa Ngài, khi nước khuấy lên, không có người đem tôi
xuống hồ. Lúc tôi tới đó, thì đã có người khác xuống trước mất rồi!” 8 Đức
Giê-su bảo: ”Anh hãy trỗi dậy, vác chõng mà đi!” 9 Người ấy liền
được khỏi bệnh, vác chõng và đi được.
Hôm
đó lại là ngày sa-bát.
10
Người
Do-thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh: ”Hôm nay là ngày sa-bát, anh không được
phép vác chõng!” 11 Nhưng anh đáp: ”Chính người chữa tôi khỏi bệnh
đã nói với tôi: ”Anh hãy vác chõng mà đi!” 12 Họ hỏi anh: ”Ai là
người đã bảo anh: ”Vác chõng mà đi” ?” 13 Nhưng người đã được khỏi
bệnh không biết là ai. Quả thế, Đức Giê-su đã lánh đi, vì có đám đông ở đấy. 14
Sau đó, Đức Giê-su gặp người ấy trong Đền Thờ và nói: ”Này, anh đã được
khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!” 15 Anh
ta đi nói với người Do-thái: Đức Giê-su là người đã chữa anh khỏi bệnh. 16
Do đó, người Do-thái chống đối Đức Giê-su, vì Người hay chữa bệnh ngày
sa-bát. 17 Nhưng Đức Giê-su đáp lại: ”Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm
việc, thì tôi cũng làm việc.” 18 Bởi vậy, người Do-thái lại càng tìm
cách giết Đức Giê-su, vì không những Người phá luật sa-bát, lại còn nói Thiên
Chúa là Cha của mình, và như thế là tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa.
Diễn
từ về công việc của Chúa Con
19
Đức
Giê-su lên tiếng nói với họ rằng: ”Thật, tôi bảo thật các ông: người Con không
thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều
gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy. 20 Quả thật, Chúa
Cha yêu người Con và cho người Con thấy mọi điều mình làm, lại sẽ còn cho người
Con thấy những việc lớn lao hơn nữa, khiến chính các ông cũng phải kinh ngạc. 21
Chúa Cha làm cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì
người Con cũng ban sự sống cho ai tuỳ ý. 22 Quả thật, Chúa Cha không
xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử, 23 để ai
nấy đều tôn kính người Con như tôn kính Chúa Cha. Kẻ nào không tôn kính người
Con, thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con. 24 Thật,
tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự
sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống.
25
Thật,
tôi bảo thật các ông: giờ đã đến- và chính là lúc này đây- giờ các kẻ chết nghe
tiếng Con Thiên Chúa; ai nghe thì sẽ được sống. 26 Quả thật, Chúa
Cha có sự sống nơi mình thế nào, thì cũng ban cho người Con được có sự sống nơi
mình như vậy, 27 lại ban cho người Con được quyền xét xử, vì người
Con là Con Người. 28 Các ông chớ ngạc nhiên về điều này, vì giờ đã
đến, giờ mọi kẻ ở trong mồ sẽ nghe tiếng người Con 29 và sẽ ra khỏi đó: ai đã
làm điều lành, thì sẽ sống lại để được sống; ai đã làm điều dữ, thì sẽ sống lại
để bị kết án.
30
Tôi
không thể tự ý mình làm gì. Tôi xét xử theo như tôi được nghe, và phán quyết
của tôi thật công minh, vì tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo
ý Đấng đã sai tôi.
31
Nếu
tôi làm chứng về chính mình, thì lời chứng của tôi không thật. 32 Có
Đấng khác làm chứng về tôi, và tôi biết: lời Người làm chứng về tôi là lời
chứng thật. 33 Chính các ông đã cử người đến gặp ông Gio-an, và ông
ấy đã làm chứng cho sự thật. 34 Phần tôi, tôi không cần lời chứng
của một phàm nhân, nhưng tôi nói ra những điều này để các ông được cứu độ. 35
Ông Gio-an là ngọn đèn cháy sáng, và các ông đã muốn vui hưởng ánh sáng
của ông trong một thời gian. 36 Nhưng phần tôi, tôi có một lời chứng
lớn hơn lời chứng của ông Gio-an: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để
tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã
sai tôi. 37 Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, chính Người cũng đã làm chứng
cho tôi. Các ông đã không bao giờ nghe tiếng Người, cũng chẳng bao giờ thấy tôn
nhan Người. 38 Các ông đã không để cho lời Người ở mãi trong lòng,
bởi vì chính các ông không tin vào Đấng Người đã sai đến. 39 Các ông
nghiên cứu Kinh Thánh, vì nghĩ rằng trong đó các ông sẽ tìm được sự sống đời
đời. Mà chính Kinh Thánh lại làm chứng về tôi. 40 Các ông không muốn
đến cùng tôi để được sự sống.
41
Tôi
không cần người đời tôn vinh. 42 Nhưng tôi biết: các ông không có
lòng yêu mến Thiên Chúa. 43 Tôi đã đến nhân danh Cha tôi, nhưng các
ông không đón nhận. Nếu có ai khác nhân danh mình mà đến, thì các ông lại đón
nhận. 44 Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát
xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin được?
45
Các
ông đừng tưởng là tôi sẽ tố cáo các ông với Chúa Cha. Kẻ tố cáo các ông chính
là ông Mô-sê, người mà các ông tin cậy. 46 Vì nếu các ông tin ông
Mô-sê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi. 47 Nhưng
nếu điều ông ấy viết mà các ông không tin, thì làm sao tin được lời tôi nói?”
Chương 6
3.
LỄ VƯỢT QUA- DIỄN TỪ VỀ BÁNH TRƯỜNG SINH
Đức
Giê-su hoá bánh ra nhiều (Mt 14:13-21; Mc 6:30-44; Lc 9:10-17)
1
Sau
đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a. 2
Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những
dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. 3 Đức Giê-su lên núi và
ngồi đó với các môn đệ. 4 Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của
người Do-thái.
5
Ngước
mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông
Phi-líp-phê: ”Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” 6 Người nói thế là
để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. 7 Ông Phi-líp-phê
đáp: ”Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một
chút.” 8 Một trong các môn đệ, là ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô,
thưa với Người: 9 “Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và
hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!” 10 Đức Giê-su
nói: ”Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi.” Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi
xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. 11 Vậy, Đức Giê-su
cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ,
Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. 12 Khi họ
đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: ”Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí
đi.” 13 Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch
người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. 14 Dân chúng
thấy dấu lạ Đức Giê-su làm thì nói: ”Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến
thế gian!” 15 Nhưng Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà
tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Đức
Giê-su đi trên mặt Biển Hồ mà đến với các môn đệ (Mt 14:22-33; Mc 6:45-52)
16
Chiều
đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ, 17 rồi xuống thuyền đi về phía
Ca-phác-na-um bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Đức Giê-su chưa đến với các ông. 18
Biển động, vì gió thổi mạnh. 19 Khi đã chèo được chừng năm
hoặc sáu cây số, các ông thấy Đức Giê-su đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần
thuyền. Các ông hoảng sợ. 20 Nhưng Người bảo các ông: ”Thầy đây mà,
đừng sợ!” 21 Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó
thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến.
Diễn
từ trong hội đường Ca-phác-na-um
22
Hôm
sau, đám đông dân chúng còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ, thấy rằng ở đó chỉ có
một chiếc thuyền và Đức Giê-su lại không cùng xuống thuyền đó với các môn đệ,
nhưng chỉ có các ông đi mà thôi. 23 Tuy nhiên, có những thuyền khác
từ Ti-bê-ri-a đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn.
24 Vậy khi dân chúng thấy Đức Giê-su cũng như các môn đệ đều không
có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Ca-phác-na-um tìm Người. 25 Khi gặp
thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: ”Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” 26
Đức Giê-su đáp: ”Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không
phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê. 27
Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng
để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con
Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi
dấu xác nhận.” 28 Họ liền hỏi Người: ”Chúng tôi phải làm gì để thực
hiện những việc Thiên Chúa muốn?” 29 Đức Giê-su trả lời: ”Việc Thiên
Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.” 30 Họ
lại hỏi: ”Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông?
Ông sẽ làm gì đây? 31 Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời
chép: Người đã cho họ ăn bánh bởi trời.”
32
Đức
Giê-su đáp: ”Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn
bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích
thực, 33 vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại
sự sống cho thế gian.” 34 Họ liền nói: ”Thưa Ngài, xin cho chúng tôi
được ăn mãi thứ bánh ấy.” 35 Đức Giê-su bảo họ: ”Chính tôi là bánh
trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao
giờ! 36 Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy tôi mà không tin. 37 Tất
cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi
sẽ không loại ra ngoài, 38 vì tôi tự trời mà xuống, không phải để
làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. 39 Mà ý của
Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất
một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. 40 Thật vậy, ý
của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được
sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.”
41
Người
Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: ”Tôi là bánh từ trời
xuống.” 42 Họ nói: ”Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se
đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: ”Tôi
từ trời xuống?” 43 Đức Giê-su bảo họ: ”Các ông đừng có xầm xì với
nhau! 44 Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi
kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. 45 Xưa
có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ.
Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. 46
Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên
Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. 47 Thật, tôi bảo thật
các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. 48 Tôi là bánh trường sinh.
49 Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. 50
Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. 51 Tôi
là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh
tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
52
Người
Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: ”Làm sao ông này có thể cho chúng
ta ăn thịt ông ta được?” 53 Đức Giê-su nói với họ: ”Thật, tôi bảo
thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có
sự sống nơi mình. 54 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn
đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, 55 vì thịt
tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. 56 Ai ăn thịt và
uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. 57 Như
Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ
ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. 58 Đây là bánh từ trời
xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh
này, sẽ được sống muôn đời.”
59
Đó
là những điều Đức Giê-su đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um.
60
Nghe
rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: ”Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?”
61 Nhưng Đức Giê-su tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về
vấn đề ấy, Người bảo các ông: ”Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận
được ư? 62 Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? 63
Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh
em là thần khí và là sự sống.
64
Nhưng
trong anh em có những kẻ không tin.” Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết
những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. 65 Người nói tiếp:
”Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban
ơn ấy cho.” 66 Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo
Người nữa.
Ông
Phê-rô tuyên xưng lòng tin
67
Vậy
Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai: ”Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” 68
Ông Si-môn Phê-rô liền đáp: ”Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến
với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. 69 Phần chúng
con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên
Chúa.” 70 Đức Giê-su đáp: ”Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm
Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em lại là quỷ!” 71 Người
muốn nói về Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt; thật thế, chính y, một môn đệ
trong Nhóm Mười Hai, sẽ nộp Người.
Chương 7
4.
LỄ LỀU
Đức
Giê-su lên Giê-ru-sa-lem dự lễ và giảng dạy
1
Sau
đó, Đức Giê-su thường đi lại trong miền Ga-li-lê; thật vậy, Người không muốn đi
lại trong miền Giu-đê, vì người Do-thái tìm giết Người.
2
Lễ
Lều của người Do-thái gần tới, 3 anh em Đức Giê-su nói với Người:
”Ông bỏ đây mà sang miền Giu-đê đi, để cả môn đệ của ông cũng được nhìn thấy
những việc ông làm, 4 vì không ai muốn nổi danh mà lại hoạt động âm
thầm cả. Nếu ông làm những việc ấy, thì hãy tỏ mình ra cho thiên hạ biết.” 5
Thật thế, anh em Người không tin vào Người. 6 Đức Giê-su nói
với họ: ”Thời của tôi chưa đến, nhưng thời của các anh lúc nào cũng thuận tiện.
7 Thế gian không thể ghét các anh, nhưng tôi thì nó ghét, vì tôi làm
chứng rằng các việc nó làm thì xấu xa. 8 Các anh cứ lên dự lễ đi;
còn tôi, tôi không lên dự lễ này, vì thời của tôi chưa chín muồi.” 9 Nói
thế rồi, Người ở lại miền Ga-li-lê. 10 Tuy nhiên, khi anh em Người
đã lên dự lễ, thì chính Người cũng lên, nhưng không công khai và hầu như bí mật.
11 Người Do-thái tìm kiếm Người trong dịp lễ và nói: ”Ông ấy đâu
rồi?” 12 Dân chúng bàn tán nhiều về Người. Kẻ thì bảo: ”Đó là một
người tốt.” Kẻ thì nói: ”Không, ông ta mê hoặc dân chúng.” 13 Nhưng
không ai dám công khai nói về Người, vì sợ người Do-thái.
14
Vào
giữa kỳ lễ, Đức Giê-su lên Đền Thờ và giảng dạy. 15 Người Do-thái
lấy làm ngạc nhiên. Họ nói: ”Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo
chữ nghĩa thế!” 16 Đức Giê-su trả lời: ”Đạo lý tôi dạy không phải là
của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi. 17 Ai muốn làm theo ý của
Người, thì sẽ biết rằng đạo lý ấy là bởi Thiên Chúa hay do tôi tự mình giảng
dạy. 18 Ai tự mình giảng dạy, thì tìm vinh quang cho chính mình. Còn
ai tìm vinh quang cho Đấng đã sai mình, thì là người chân thật, và nơi người ấy
không có gì là bất chính. 19 Ông Mô-sê đã chẳng ban Lề Luật cho các
ông sao? Thế mà không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!
Sao
các ông lại tìm cách giết tôi?”
20
Dân
chúng đáp: ”Ông bị quỷ ám rồi! Có ai tìm giết ông đâu?” 21 Đức
Giê-su trả lời: ”Tôi chỉ làm có một việc, mà tất cả các ông đều ngạc nhiên. 22
Ông Mô-sê đã truyền cho các ông làm phép cắt bì (thực ra, phép ấy đã có
từ thời các tổ phụ, chứ không phải từ thời ông Mô-sê), và các ông làm phép cắt
bì cả trong ngày sa-bát. 23 Vậy nếu người ta làm phép cắt bì cả
trong ngày sa-bát để khỏi lỗi Luật Mô-sê, thì sao các ông lại nổi giận với tôi,
vì tôi đã chữa lành toàn thân một người trong ngày sa-bát? 24 Các ông đừng xét
đoán theo bề ngoài nữa, nhưng hãy xét đoán cho công minh.”
Dân
chúng tranh luận về nguồn gốc của Đấng Ki-tô
25
Bấy
giờ có những người ở Giê-ru-sa-lem nói: ”Ông này không phải là người họ đang
tìm giết đó sao? 26 Kìa, ông ta ăn nói công khai mà họ chẳng bảo gì cả. Phải
chăng các nhà hữu trách đã thực sự nhìn nhận ông là Đấng Ki-tô? 27 Ông ấy,
chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Đấng Ki-tô, khi Người đến thì chẳng
ai biết Người xuất thân từ đâu cả.” 28 Lúc giảng dạy trong Đền Thờ,
Đức Giê-su nói lớn tiếng rằng: ”Các ông biết tôi ư? Các ông biết tôi xuất thân
từ đâu ư? Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi là Đấng chân thật. Các
ông, các ông không biết Người. 29 Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì
tôi từ nơi Người mà đến, và chính Người đã sai tôi.”
30
Bấy
giờ họ tìm cách bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa
đến.
Đức
Giê-su loan báo Người sắp ra đi
31
Trong
dân chúng, có nhiều kẻ đã tin vào Người, họ nói: ”Khi Đấng Ki-tô đến, liệu
Người có làm nhiều dấu lạ hơn ông này chăng?” 32 Người Pha-ri-sêu
nghe dân chúng bàn tán với nhau về Người như thế, nên họ và các thượng tế sai
vệ binh đi bắt Người. 33 Vậy, Đức Giê-su bảo họ: ”Tôi còn ở với các
ông ít lâu nữa thôi, rồi tôi đi đến cùng Đấng đã sai tôi. 34 Các ông
sẽ tìm tôi mà không gặp, và nơi tôi ở, các ông không thể đến được.” 35 Người
Do-thái liền nói với nhau: ”Ông ấy sắp đi đâu mà chúng ta không gặp được? Phải
chăng ông sắp đi gặp kiều bào sống giữa người Hy-lạp, để giảng dạy cho người
Hy-lạp? 36 Ông ấy muốn nói gì khi bảo: ”Các ông sẽ tìm tôi mà không gặp, và nơi
tôi ở, các ông không thể đến được. ?”
Lời
hứa ban nước hằng sống
38
Hôm
ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất. Đức Giê-su đứng
trong Đền Thờ và lớn tiếng nói rằng: ”Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi,
hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng
nước hằng sống.” 39 Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin
vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức
Giê-su chưa được tôn vinh.
Dân
chúng lại tranh luận về nguồn gốc của Đấng Ki-tô
40
Trong
dân chúng, có những người nghe các lời ấy thì nói: ”Ông này thật là vị ngôn sứ.”
41 Kẻ khác rằng: ”Ông này là Đấng Ki-tô.” Nhưng có kẻ lại nói: ”Đấng
Ki-tô mà lại xuất thân từ Ga-li-lê sao? 42 Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng
Ki-tô xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít và từ Bê-lem, làng của vua Đa-vít sao?” 43
Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ. 44 Một số trong bọn
họ muốn bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt.
45
Các
vệ binh trở về với các thượng tế và người Pha-ri-sêu. Họ liền hỏi chúng: ”Tại
sao các anh không điệu ông ấy về đây?” 46 Các vệ binh trả lời: ”Xưa
nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!” 47 Người Pha-ri-sêu
liền nói với chúng: ”Cả các anh nữa, các anh cũng bị mê hoặc rồi sao? 48 Trong
hàng thủ lãnh hay trong giới Pha-ri-sêu, đã có một ai tin vào tên ấy đâu? 49
Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa!”
50 Trong nhóm Pha-ri-sêu, có một người tên là Ni-cô-đê-mô, trước đây
đã đến gặp Đức Giê-su; ông nói với họ: 51 “Lề Luật của chúng ta có
cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?” 52
Họ đáp: ”Cả ông nữa, ông cũng là người Ga-li-lê sao? Ông cứ nghiên cứu,
rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Ga-li-lê cả.” 53 Sau
đó, ai nấy trở về nhà mình.
Chương 8
1
Còn
Đức Giê-su thì đến núi Ô-liu.
Người
phụ nữ ngoại tình
2
Vừa
tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống
giảng dạy họ. 3 Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến
trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở
giữa, 4 rồi nói với Người: ”Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả
tang đang ngoại tình. 5 Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng
tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” 6 Họ nói
thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy
ngón tay viết trên đất. 7 Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và
bảo họ: ”Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” 8
Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. 9 Nghe vậy, họ bỏ đi
hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình
Đức Giê-su, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. 10 Người ngẩng lên và
nói: ”Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”
11Người
đàn bà đáp: ”Thưa ông, không có ai cả.” Đức Giê-su nói: ”Tôi cũng vậy, tôi
không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Đức
Giê-su, ánh sáng cho trần gian
12
Đức
Giê-su lại nói với người Do-thái: ”Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ
không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.”
Tranh
luận về lời chứng của Đức Giê-su liên quan đến bản thân Người
13
Người
Pha-ri-sêu nói với Đức Giê-su: ”Ông làm chứng cho chính mình; lời chứng của ông
không thật!” 14 Người trả lời: ”Tôi có làm chứng cho chính mình đi
nữa, thì lời chứng của tôi vẫn là chứng thật, bởi vì tôi biết tôi từ đâu tới và
đi đâu. Còn các ông, các ông không biết tôi từ đâu tới và đi đâu. 15 Các
ông xét đoán theo kiểu người phàm; phần tôi, tôi không xét đoán ai cả. 16 Mà
nếu tôi có xét đoán, thì sự xét đoán của tôi vẫn đúng sự thật, vì không phải
chỉ có mình tôi, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi. 17 Trong Lề Luật
của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật. 18 Tôi
làm chứng cho chính mình, và Chúa Cha là Đấng đã sai tôi cũng làm chứng cho
tôi.” 19 Họ liền hỏi Người: ”Cha ông ở đâu?” Đức Giê-su đáp: ”Các
ông không biết tôi, cũng chẳng biết Cha tôi. Nếu các ông biết tôi, thì hẳn cũng
biết Cha tôi.”
20
Người
đã nói những lời ấy, khi giảng dạy trong Đền Thờ, tại nơi đặt thùng tiền dâng
cúng. Không có ai bắt Người, vì giờ của Người chưa đến. 21 Đức
Giê-su lại nói với họ: ”Tôi ra đi, các ông sẽ tìm tôi, và các ông sẽ mang tội
mình mà chết. Nơi tôi đi, các ông không thể đến được.” 22 Người
Do-thái mới nói: ”Ông ấy sẽ tự tử hay sao mà lại nói: ”Nơi tôi đi, các ông
không thể đến được” ?” 23 Người bảo họ: ”Các ông bởi hạ giới; còn
tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không
thuộc về thế gian này. 24 Tôi đã nói với các ông là các ông sẽ mang
tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông
sẽ mang tội lỗi mình mà chết.” 25 Họ liền hỏi Người: ”Ông là ai?”
Đức Giê-su đáp: ”Hoàn toàn đúng như tôi vừa nói với các ông đó. 26 Tôi
còn có nhiều điều phải nói và xét đoán về các ông. Nhưng Đấng đã sai tôi là
Đấng chân thật; còn tôi, tôi nói lại cho thế gian những điều tôi đã nghe Người
nói.” 27 Họ không hiểu là Đức Giê-su nói với họ về Chúa Cha. 28
Người bảo họ: ”Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ
biết là Tôi Hằng Hữu, và biết tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa
Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy. 29 Đấng đã sai tôi vẫn
ở với tôi; Người không để tôi cô độc, vì tôi hằng làm những điều đẹp ý Người.” 30
Khi Đức Giê-su nói thế, thì có nhiều kẻ tin vào Người.
Đức
Giê-su và ông Áp-ra-ham
31
Vậy,
Đức Giê-su nói với những người Do-thái đã tin Người: ”Nếu các ông ở lại trong
lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; 32 các ông sẽ biết sự
thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông.” 33 Họ đáp: ”Chúng tôi là
dòng dõi ông Áp-ra-ham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao
ông lại nói: các ông sẽ được tự do?” 34 Đức Giê-su trả lời: ”Thật,
tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. 35 Mà kẻ
nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. 36
Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là
những người tự do. 37 Tôi biết các ông là dòng dõi ông Áp-ra-ham,
nhưng các ông tìm cách giết tôi, vì lời tôi không thấm vào lòng các ông. 38
Phần tôi, tôi nói những điều đã thấy nơi Cha tôi; còn các ông, các ông
làm những gì đã nghe cha các ông nói.” 39 Họ đáp: ”Cha chúng tôi là
ông Áp-ra-ham.” Đức Giê-su nói: ”Giả như các ông là con cái ông Áp-ra-ham, hẳn
các ông phải làm những việc ông Áp-ra-ham đã làm. 40 Thế mà bây giờ
các ông lại tìm giết tôi, là người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe
biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Áp-ra-ham đã không làm. 41 Còn các
ông, các ông làm những việc cha các ông làm.”
42
Đức
Giê-su bảo họ: ”Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến
tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến. Thật thế, tôi
không tự mình mà đến, nhưng chính Người đã sai tôi. 43 Tại sao các
ông không hiểu lối nói của tôi? Là vì các ông không thể nghe lời tôi nói. 44
Cha các ông là ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham
thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thật, vì
sự thật không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì
nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối. 45 Còn tôi, chính vì tôi
nói sự thật, nên các ông không tin tôi. 46 Ai trong các ông chứng
minh được là tôi có tội? Nếu tôi nói sự thật, sao các ông lại không tin tôi? 47
Ai thuộc về Thiên Chúa, thì nghe lời Thiên Chúa nói; còn các ông, các ông không
chịu nghe, vì các ông không thuộc về Thiên Chúa.”
48
Người
Do-thái đáp: ”Chúng tôi bảo ông là người Sa-ma-ri và là người bị quỷ ám thì
chẳng đúng lắm sao?” 49 Đức Giê-su trả lời: ”Tôi không bị quỷ ám.
Nhưng tôi tôn kính Cha tôi; còn các ông, các ông lại làm nhục tôi. 50 Phần
tôi, tôi không tìm vinh quang cho mình. Có Đấng tìm cho tôi và xét xử cho tôi. 51
Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ
phải chết.”
52
Người
Do-thái liền nói: ”Bây giờ, chúng tôi biết chắc là ông bị quỷ ám. Ông Áp-ra-ham
đã chết, các ngôn sứ cũng vậy; thế mà ông lại nói: ”Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ
không bao giờ phải chết.
53
Chẳng
lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Áp-ra-ham sao? Người đã chết, các
ngôn sứ cũng đã chết. Ông tự coi mình là ai?” 54 Đức Giê-su đáp:
”Nếu tôi tôn vinh chính mình, vinh quang của tôi chẳng là gì cả. Đấng tôn vinh
tôi chính là Cha tôi, Đấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông. 55 Các
ông không biết Người; còn tôi, tôi biết Người. Nếu tôi nói là tôi không biết
Người, thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông. Nhưng tôi biết Người và giữ lời
Người. 56 Ông Áp-ra-ham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng
được thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ.”
57
Người
Do-thái nói: ”Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông Áp-ra-ham!” 58 Đức
Giê-su đáp: ”Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Áp-ra-ham, thì tôi,
Tôi Hằng Hữu!”
59
Họ
liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giê-su lánh đi và ra khỏi Đền Thờ.
Chương 9
Đức
Giê-su chữa một người mù từ thuở mới sinh
1
Đi
ngang qua, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. 2 Các
môn đệ hỏi Người: ”Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù,
anh ta hay cha mẹ anh ta?” 3 Đức Giê-su trả lời: ”Không phải anh ta,
cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ
nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. 4 Chúng ta
phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến,
không ai có thể làm việc được. 5 Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy
là ánh sáng thế gian.”
6
Nói
xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người
mù, 7 rồi bảo anh ta: ”Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có
nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn
thấy được.
8
Các
người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: ”Hắn
không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?” 9 Có người nói: ”Chính
hắn đó!” Kẻ khác lại rằng: ”Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó
thôi!” Còn anh ta thì quả quyết: ”Chính tôi đây!” 10 Người ta liền
hỏi anh: ”Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?” 11 Anh ta
trả lời: ”Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo:
”Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi nhìn thấy.” 12 Họ
lại hỏi anh: ”Ông ấy ở đâu?” Anh ta đáp: ”Tôi không biết.”
13
Họ
dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu. 14 Nhưng ngày
Đức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sa-bát. 15
Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy
được. Anh trả lời: ”Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.”
16 Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói: ”Ông ta không thể là người
của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát”; kẻ thì bảo: ”Một người tội lỗi
sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ. 17 Họ
lại hỏi người mù: ”Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp:
”Người là một vị ngôn sứ!”
18
Người
Do-thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha
mẹ anh ta đến. 19 Họ hỏi: ”Anh này có phải là con ông bà không? Ông
bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?” 20
Cha mẹ anh đáp: ”Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới
sinh. 21 Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết,
hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó;
nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được.” 22 Cha mẹ anh nói thế
vì sợ người Do-thái. Thật vậy, người Do-thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội
đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. 23 Vì thế, cha
mẹ anh mới nói: ”Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó.”
24
Một
lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: ”Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa.
Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi.” 25 Anh ta đáp:
”Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một
điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!” 26 Họ mới nói
với anh: ”Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?” 27 Anh
trả lời: ”Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao
các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông
ấy chăng?” 28 Họ liền mắng nhiếc anh: ”Có mày mới là môn đệ của ông
ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. 29 Chúng ta biết
rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giê-su ấy
bởi đâu mà đến.” 30 Anh đáp: ”Kể cũng lạ thật! Các ông không biết
ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! 31 Chúng ta
biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và
làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. 32 Xưa nay chưa hề
nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. 33 Nếu không
phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì.” 34 Họ
đối lại: ”Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta
ư?” Rồi họ trục xuất anh.
35
Đức
Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: ”Anh có tin
vào Con Người không?” 36 Anh đáp: ”Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi
tin?” 37 Đức Giê-su trả lời: ”Anh đã thấy Người. Chính Người đang
nói với anh đây.” 38 Anh nói: ”Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình
xuống trước mặt Người.
39
Đức
Giê-su nói: ”Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy
được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!”
40
Những
người Pha-ri-sêu đang ở đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng: ”Thế ra cả
chúng tôi cũng đui mù hay sao?” 41 Đức Giê-su bảo họ: ”Nếu các ông
đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ”Chúng tôi
thấy”, nên tội các ông vẫn còn!”
Chương 10
Vị
Mục Tử nhân lành
1 “Thật, tôi bảo thật
các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào,
người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. 2 Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy
là mục tử. 3 Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng
của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. 4 Khi đã cho chiên
ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh.
5 Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không
nhận biết tiếng người lạ.” 6 Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó.
Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.
7
Vậy,
Đức Giê-su lại nói: ”Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. 8
Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ. 9
Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp
được đồng cỏ. 10 Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ.
Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
11
Tôi
chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn
chiên. 12 Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không
thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và
làm cho chiên tán loạn, 13 vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết
gì đến chiên. 14 Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của
tôi, và chiên của tôi biết tôi, 15 như Chúa Cha biết tôi, và tôi
biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
16
Tôi
còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng
sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. 17 Sở
dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. 18
Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh
mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là
mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.”
19
Người
Do-thái lại chia rẽ nhau vì những lời đó. 20 Nhiều người trong nhóm
họ nói: ”Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi! Nghe ông ấy làm gì?” 21 Kẻ
khác bảo: ”Người bị quỷ ám đâu có nói được như vậy! Quỷ có thể mở mắt cho người
mù được sao?”
5.
LỄ CUNG HIẾN ĐỀN THỜ
Đức
Giê-su xưng mình là Con Thiên Chúa
22
Khi
ấy, ở Giê-ru-sa-lem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa
đông. 23 Đức Giê-su đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang
Sa-lô-môn. 24 Người Do-thái vây quanh Đức Giê-su và nói: ”Ông còn để
lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì
xin nói công khai cho chúng tôi biết.” 25 Đức Giê-su đáp: ”Tôi đã
nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi,
những việc đó làm chứng cho tôi. 26 Nhưng các ông không tin, vì các
ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. 27 Chiên của tôi thì nghe
tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. 28 Tôi ban cho chúng sự
sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng
khỏi tay tôi. 29 Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất
cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. 30 Tôi và Chúa
Cha là một.”
31
Người
Do-thái lại lấy đá để ném Đức Giê-su. 32 Người bảo họ: ”Tôi đã cho
các ông thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm; vì việc nào mà
các ông ném đá tôi?” 33 Người Do-thái đáp: ”Chúng tôi ném đá ông,
không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng: ông là người
phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa.” 34 Đức Giê-su bảo họ: ”Trong
Lề Luật các ông, đã chẳng có chép lời này sao: ”Ta đã phán: các ngươi là những
bậc thần thánh”“? 35 Nếu Lề Luật gọi những kẻ được Thiên Chúa ngỏ lời là những
bậc thần thánh, mà lời Kinh Thánh không thể bị huỷ bỏ, 36 thì tôi là
người Chúa Cha đã thánh hiến và sai đến thế gian, làm sao các ông lại bảo tôi:
”Ông nói phạm thượng! vì tôi đã nói: ”Tôi là Con Thiên Chúa” ? 37 Nếu tôi không
làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. 38 Còn nếu tôi
làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó.
Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và
tôi ở trong Chúa Cha.”
39Bấy
giờ họ lại tìm cách bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ.
Đức
Giê-su rút lui sang bên kia sông Gio-đan
40
Đức
Giê-su lại ra đi, sang bên kia sông Gio-đan, đến chỗ trước kia ông Gio-an đã
làm phép rửa, và Người ở lại đó. 41 Nhiều người đến gặp Đức Giê-su.
Họ bảo nhau: ”Ông Gio-an đã không làm một dấu lạ nào cả, nhưng mọi điều ông ấy
nói về người này đều đúng.” 42 Ở đó, nhiều người đã tin vào Đức
Giê-su.
Chương 11
Anh
La-da-rô sống lại
1
Có
một người bị đau nặng, tên là La-da-rô, quê ở Bê-ta-ni-a, làng của hai chị em
cô Mác-ta và Ma-ri-a. 2 Cô Ma-ri-a là người sau này sẽ xức dầu thơm
cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh La-da-rô, người bị đau nặng, là em của
cô. 3 Hai cô cho người đến nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, người
Thầy thương mến đang bị đau nặng.” 4 Nghe vậy, Đức Giê-su bảo: ”Bệnh
này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa:
qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.”
5
Đức
Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là cô Ma-ri-a và anh La-da-rô.
6
Tuy
nhiên, sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày
tại nơi đang ở. 7 Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: ”Nào chúng
ta cùng trở lại miền Giu-đê!” 8 Các môn đệ nói: ”Thưa Thầy, mới đây
người Do-thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?” 9 Đức
Giê-su trả lời: ”Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì
không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. 10 Còn ai đi ban đêm, thì
vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình!”
11
Nói
những lời này xong, Người bảo họ: ”La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc;
tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây.” 12 Các môn đệ nói với Người:
”Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khoẻ lại.” 13 Đức
Giê-su nói về cái chết của anh La-da-rô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ
thường. 14 Bấy giờ Người mới nói rõ: ”La-da-rô đã chết. 15 Thầy
mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng
ta đến với anh ấy.” 16 Ông Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô, nói với các bạn
đồng môn: ”Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy!”
17
Khi
đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. 18
Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây số. 19 Nhiều
người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô mới qua
đời. 20 Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người.
Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. 21 Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su:
”Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. 22 Nhưng bây
giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho
Thầy.” 23 Đức Giê-su nói: ”Em chị sẽ sống lại!” 24 Cô
Mác-ta thưa: ”Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau
hết.” 25 Đức Giê-su liền phán: ”Chính Thầy là sự sống lại và là sự
sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. 26 Ai sống
và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” 27 Cô
Mác-ta đáp: ”Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng
phải đến thế gian.”
28
Nói
xong, cô đi gọi em là Ma-ri-a, và nói nhỏ: ”Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!” 29
Nghe vậy, cô Ma-ri-a vội đứng lên và đến với Đức Giê-su. 30 Lúc
đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mác-ta đã ra đón Người. 31
Những người Do-thái đang ở trong nhà với cô Ma-ri-a để chia buồn, thấy cô
vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em.
32
Khi
đến gần Đức Giê-su, cô Ma-ri-a vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói:
”Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết.” 33 Thấy cô
khóc, và những người Do-thái đi với cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức trong
lòng và xao xuyến. 34 Người hỏi: ”Các người để xác anh ấy ở đâu?” Họ
trả lời: ”Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem.” 35 Đức Giê-su liền khóc. 36
Người Do-thái mới nói: ”Kìa xem! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy!” 37
Có vài người trong nhóm họ nói: ”Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không
thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?” 38 Đức Giê-su lại thổn thức trong
lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. 39 Đức
Giê-su nói: ”Đem phiến đá này đi.” Cô Mác-ta là chị người chết liền nói: ”Thưa
Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.” 40 Đức
Giê-su bảo: ”Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy
vinh quang của Thiên Chúa sao?” 41 Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức
Giê-su ngước mắt lên và nói: ”Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. 42
Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh
đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.” 43 Nói xong, Người
kêu lớn tiếng: ”Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!” 44 Người chết liền
ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su bảo: ”Cởi khăn và
vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.”
Các
thủ lãnh Do-thái quyết định giết Đức Giê-su (Mt 26:1-5; Mc 14:1-2; Lc 22:1-2)
45
Trong
số những người Do-thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su
làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người. 46 Nhưng lại có những người đi
gặp nhóm Pha-ri-sêu và kể cho họ những gì Đức Giê-su đã làm. 47 Vậy
các thượng tế và các người Pha-ri-sêu triệu tập Thượng Hội Đồng và nói: ”Chúng
ta phải làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ. 48 Nếu chúng ta cứ
để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rô-ma sẽ đến phá huỷ
cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta.” 49 Một người trong Thượng Hội
Đồng tên là Cai-pha, làm thượng tế năm ấy, nói rằng: ”Các ông không hiểu gì cả,
50 các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một
người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt.” 51 Điều
đó, ông không tự mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên
tri là Đức Giê-su sắp phải chết thay cho dân, 52 và không chỉ thay
cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi
về một mối. 53 Từ ngày đó, họ quyết định giết Đức Giê-su. 54 Vậy
Đức Giê-su không đi lại công khai giữa người Do-thái nữa; nhưng từ nơi ấy,
Người đến một vùng gần hoang địa, tới một thành gọi là Ép-ra-im. Người ở lại đó
với các môn đệ.
6.
SỨ VỤ CÔNG KHAI CỦA ĐỨC GIÊ-SU KẾT THÚC
Lễ
Vượt Qua gần đến
55
Khi
ấy sắp đến lễ Vượt Qua của người Do-thái. Từ miền quê, nhiều người lên
Giê-ru-sa-lem để cử hành các nghi thức thanh tẩy dọn mình mừng lễ. 56 Họ
tìm Đức Giê-su và đứng trong Đền Thờ bàn tán với nhau: ”Có thể ông ấy sẽ không
lên dự lễ, các ông có nghĩ thế không?” 57 Còn các thượng tế và người
Pha-ri-sêu thì ra lệnh: ai biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt.
Chương 12
Xức
dầu thơm tại Bê-ta-ni-a (Mt 26:6-13; Mc 14:3-9)
1
Sáu
ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a, nơi anh La-da-rô ở. Anh
này đã được Người cho sống lại từ cõi chết. 2 Ở đó, người ta dọn bữa
ăn tối thết đãi Đức Giê-su; cô Mác-ta lo hầu bàn, còn anh La-da-rô là một trong
những kẻ cùng dự tiệc với Người. 3 Cô Ma-ri-a lấy một cân dầu thơm
cam tùng nguyên chất và quý giá xức chân Đức Giê-su, rồi lấy tóc mà lau. Cả nhà
sực mùi thơm. 4 Một trong các môn đệ của Đức Giê-su là Giu-đa
Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói: 5 “Sao lại không bán dầu
thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo?” 6 Y nói thế,
không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền
và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung. 7 Đức
Giê-su nói: ”Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai
táng Thầy. 8 Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng
có; còn Thầy, anh em không có mãi đâu.”
9
Một
đám đông người Do-thái biết Đức Giê-su đang ở đó. Họ tuôn đến, không phải chỉ
vì Đức Giê-su, nhưng còn để nhìn thấy anh La-da-rô, kẻ đã được Người cho sống
lại từ cõi chết. 10 Các thượng tế mới quyết định giết cả anh
La-da-rô nữa, 11 vì tại anh mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin
vào Đức Giê-su.
Đức
Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a (Mt 21:1-11; Mc 11:1-10;
Lc 19:28-38)
12
Hôm
sau, dân chúng lũ lượt tuôn đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Đức Giê-su tới
Giê-ru-sa-lem, 13 họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò:
Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua
Ít-ra-en! 14 Đức Giê-su gặp một con lừa nhỏ, liền cỡi lên như có lời chép: 15
Hỡi thiếu nữ Xi-on, đừng sợ! Này Đức Vua của ngươi ngự đến, ngồi trên
lưng lừa con. 16 Lúc đầu, các môn đệ không hiểu những điều ấy. Nhưng
sau khi Đức Giê-su được tôn vinh, các ông mới nhớ lại là Kinh Thánh đã chép
những điều đó về Người, và dân chúng đã làm cho Người đúng y như vậy.
17
Vậy,
đám đông dân chúng làm chứng cho Đức Giê-su, họ là những người đã có mặt, khi
Đức Giê-su gọi anh La-da-rô ra khỏi mồ và làm cho anh trỗi dậy từ cõi chết. 18
Sở dĩ dân chúng đi đón Người, là vì họ nghe biết Người đã làm dấu lạ đó. 19
Bấy giờ người Pha-ri-sêu bảo nhau: ”Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm
nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!”
Đức
Giê-su loan báo Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người
20
Trong
số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp. 21
Họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, và xin rằng:
”Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su.” 22 Ông Phi-líp-phê
đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức
Giê-su. 23 Đức Giê-su trả lời: ”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!
24 Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi,
thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
25 Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng
sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. 26 Ai
phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.
Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy.”
27 “Bây giờ, tâm hồn
Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng
chính vì giờ này mà con đã đến. 28 Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha.”
Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: ”Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn
vinh nữa!” 29 Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: ”Đó là tiếng
sấm!” Người khác lại bảo: ”Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!” 30 Đức
Giê-su đáp: ”Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. 31
Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế
gian này sắp bị tống ra ngoài! 32 Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi
mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” 33 Đức Giê-su nói thế để
ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
34
Vậy,
dân chúng thưa Người: ”Chúng tôi đã học biết trong sách Luật rằng: Đấng Ki-tô
phải trường tồn mãi mãi. Thế sao ông lại nói: ”Con Người phải được giương cao”
? Con Người đó là ai?” 35 Đức Giê-su bảo họ: ”Ánh sáng còn ở giữa
các ông ít lâu nữa thôi. Các ông hãy bước đi, bao lâu các ông còn có ánh sáng,
kẻo bóng tối bắt chợt các ông. Ai bước đi trong bóng tối, thì không biết mình
đi đâu. 36 Bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để
trở nên con cái ánh sáng.” Nói thế xong, Đức Giê-su rời nơi đó và lánh đi không
cho họ thấy.
Kết
luận: Người Do-thái cứng lòng không chịu tin
37
Người
đã làm ngần ấy dấu lạ trước mặt họ, thế mà họ vẫn không tin vào Người. 38 Như
vậy là ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a: Lạy Đức Chúa, ai đã tin lời chúng tôi
rao giảng? Và quyền lực của Đức Chúa đã được tỏ cho ai?
39
Sở
dĩ họ không thể tin là vì ngôn sứ I-sai-a còn nói: 40 Thiên Chúa đã
làm cho mắt chúng ra đui mù và lòng chúng ra chai đá, kẻo mắt chúng thấy và
lòng chúng hiểu được mà hoán cải, rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành!
41
Ngôn
sứ I-sai-a nói những lời đó, vì đã thấy vinh quang của Đức Giê-su, và ông đã
nói về Người.
42
Tuy
nhiên, ngay cả trong giới lãnh đạo Do-thái cũng có nhiều người đã tin vào Đức
Giê-su. Nhưng họ không dám xưng ra, vì sợ bị nhóm Pha-ri-sêu khai trừ khỏi hội
đường. 43 Thật thế, họ chuộng vinh quang của người phàm hơn là vinh
quang của Thiên Chúa. 44 Đức Giê-su lớn tiếng nói rằng: ”Ai tin vào
tôi, thì không phải là tin vào tôi, nhưng là tin vào Đấng đã sai tôi; 45 ai
thấy tôi là thấy Đấng đã sai tôi. 46 Tôi là ánh sáng đến thế gian,
để bất cứ ai tin vào tôi, thì không ở lại trong bóng tối. 47 Ai nghe
những lời tôi nói mà không tuân giữ, thì không phải chính tôi xét xử người ấy,
vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian. 48 Ai
từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan toà xét xử người ấy: chính
lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. 49 Thật vậy,
không phải tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai tôi, truyền
lệnh cho tôi phải nói gì, tuyên bố gì. 50 Và tôi biết: mệnh lệnh của
Người là sự sống đời đời. Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha
đã nói với tôi.”
Chương 13
III.
GIỜ CỦA ĐỨC GIÊ-SULỄ VƯỢT QUA CỦA CHIÊN THIÊN CHÚA
1.
BỮA ĂN CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC GIÊ-SU VÀ CÁC MÔN ĐỆ
Đức
Giê-su rửa chân cho các môn đệ
1
Trước
lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về
với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và
Người yêu thương họ đến cùng.
2
Ma
quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su.
3 Đức Giê-su biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người,
Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, 4 nên
trong một bữa ăn, Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà
thắt lưng. 5 Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho
các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau.
6
Vậy,
Người đến chỗ ông Si-môn Phê-rô, ông liền thưa với Người: ”Thưa Thầy! Thầy mà
lại rửa chân cho con sao?” 7 Đức Giê-su trả lời: ”Việc Thầy làm, bây
giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu.” 8 Ông Phê-rô lại
thưa: ”Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” Đức Giê-su đáp: ”Nếu
Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy.” 9 Ông
Si-môn Phê-rô liền thưa: ”Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả
tay và đầu con nữa.” 10 Đức Giê-su bảo ông: ”Ai đã tắm rồi, thì
không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã
sạch, nhưng không phải tất cả đâu!” 11 Thật vậy, Người biết ai sẽ
nộp Người, nên mới nói: ”Không phải tất cả anh em đều sạch.”
12
Khi
rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: ”Anh em có
hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? 13 Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”,
điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. 14 Vậy, nếu
Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa
chân cho nhau. 15 Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm
như Thầy đã làm cho anh em. 16 Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ
không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. 17 Anh
em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em! 18
Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn,
nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh
lại giơ gót đạp con. 19 Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này,
trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu. 20
Thật, Thầy bảo thật anh em: ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp
Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”
Đức
Giê-su loan báo Giu-đa sẽ phản bội (Mt 26:20-25; Mc 14:17-21; Lc 22:21-23)
21
Nói
xong, Đức Giê-su cảm thấy tâm thần xao xuyến. Người tuyên bố: ”Thật, Thầy bảo
thật anh em: có một người trong anh em sẽ nộp Thầy.” 22 Các môn đệ
nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai. 23 Trong số các môn
đệ, có một người được Đức Giê-su thương mến. Ông đang dùng bữa, đầu tựa vào
lòng Đức Giê-su. 24 Ông Si-môn Phê-rô làm hiệu cho ông ấy và bảo:
”Hỏi xem Thầy muốn nói về ai?” 25 Ông này liền nghiêng mình vào ngực
Đức Giê-su và hỏi: ”Thưa Thầy, ai vậy?” 26 Đức Giê-su trả lời: ”Thầy
chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy.” Rồi Người chấm một miếng bánh, trao
cho Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt. 27 Y vừa ăn xong miếng bánh,
Xa-tan liền nhập vào y. Đức Giê-su bảo y: ”Anh làm gì thì làm mau đi!” 28 Nhưng
trong số các người đang dùng bữa, không ai hiểu tại sao Người nói với y như thế.
29 Vì Giu-đa giữ túi tiền, nên có vài người tưởng rằng Đức Giê-su
nói với y: ”Hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ”, hoặc bảo y bố thí cho
người nghèo. 30 Sau khi ăn miếng bánh, Giu-đa liền đi ra. Lúc đó,
trời đã tối.
Những
lời cáo biệt
31
Khi
Giu-đa đi rồi, Đức Giê-su nói: ”Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa
cũng được tôn vinh nơi Người. 32 Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi
Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp
tôn vinh Người.
33
Hỡi
anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa
thôi. Anh em sẽ tìm kiếm Thầy; nhưng như Thầy đã nói với người Do-thái: ”Nơi
tôi đi, các người không thể đến được”, bây giờ, Thầy cũng nói với anh em như
vậy. 34 Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu
thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 35 Mọi
người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu
thương nhau.”
36
Ông
Si-môn Phê-rô nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, Thầy đi đâu vậy?” Đức Giê-su trả
lời: ”Nơi Thầy đi, bây giờ anh không thể theo đến được; nhưng sau này anh sẽ đi
theo.” 37 Ông Phê-rô thưa: ”Thưa Thầy, sao con lại không thể đi theo
Thầy ngay bây giờ được? Con sẽ thí mạng con vì Thầy!” 38 Đức Giê-su
đáp: ”Anh sẽ thí mạng vì Thầy ư? Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: gà chưa gáy,
anh đã chối Thầy ba lần.
Chương 14
1
Anh
em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. 2 Trong
nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi
dọn chỗ cho anh em. 3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại
đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. 4 Và
Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”
5
Ông
Tô-ma nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao
chúng con biết được đường?” 6 Đức Giê-su đáp: ”Chính Thầy là con
đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. 7
Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết
Người và đã thấy Người.”
8
Ông
Phi-líp-phê nói: ”Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là
chúng con mãn nguyện.” 9 Đức Giê-su trả lời: ”Thầy ở với anh em bấy
lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa
Cha. Sao anh lại nói: ”Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha” ? 10 Anh không tin
rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với
anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy,
chính Người làm những việc của mình. 11 Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở
trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc
Thầy làm. 12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người
đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn
nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha. 13 Và bất cứ điều gì anh em nhân
danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. 14
Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều
đó.
15
Nếu
anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. 16 Thầy sẽ
xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em
luôn mãi. 17 Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón
nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người,
vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em. 18 Thầy sẽ không để
anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em. 19 Chẳng bao lâu nữa, thế gian
sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và
anh em cũng sẽ được sống. 20 Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở
trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. 21 Ai
có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến
Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình
ra cho người ấy.”
22
Ông
Giu-đa, không phải Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, nói với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, tại sao
Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” 23 Đức
Giê-su đáp: ”Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người
ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. 24 Ai không yêu
mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của
Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. 25 Các điều đó, Thầy
đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. 26 Nhưng Đấng Bảo Trợ
là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi
điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.
27
Thầy
để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho
anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. 28
Anh em đã nghe Thầy bảo: ”Thầy ra đi và đến cùng anh em” . Nếu anh em yêu
mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa
Cha cao trọng hơn Thầy. 29 Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự
việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.
30
Thầy
sẽ không còn nói nhiều với anh em nữa, bởi vì Thủ lãnh thế gian đang đến. Đã
hẳn, nó không làm gì được Thầy. 31 Nhưng chuyện đó xảy ra là để cho
thế gian biết rằng Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho
Thầy. Nào đứng dậy! Ta đi khỏi đây!”
Chương 15
Cây
nho thật
1 “Thầy là cây nho
thật, và Cha Thầy là người trồng nho. 2 Cành nào gắn liền với Thầy
mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì
Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. 3 Anh em được thanh
sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em. 4 Hãy ở lại trong Thầy như
Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu
không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy.
5
Thầy
là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. 6
Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô
héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. 7 Nếu anh em ở
lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh
em sẽ được như ý. 8 Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh
nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.
9
Chúa
Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại
trong tình thương của Thầy. 10 Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy,
anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của
Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. 11 Các điều ấy, Thầy
đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh
em được nên trọn vẹn.
12
Đây
là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
13 Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy
sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. 14 Anh em là bạn hữu của Thầy,
nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. 15 Thầy không còn
gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh
em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh
em biết.
16
Không
phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để
anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả
những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. 17
Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.
Các
môn đệ và thế gian
18
Nếu
thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. 19 Giả
như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng
vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế
gian, nên thế gian ghét anh em. 20 Hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em:
tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.
Nếu họ đã tuân giữ lời Thầy, họ cũng sẽ tuân giữ lời anh em. 21 Nhưng
họ sẽ làm tất cả những điều ấy chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi
họ không biết Đấng đã sai Thầy.
22
Giả
như Thầy không đến và không nói với họ, họ đã chẳng có tội. Nhưng bây giờ, họ
không thể chữa tội được. 23 Ai ghét Thầy, thì cũng ghét Cha Thầy. 24
Giả như Thầy không làm giữa họ những việc không một ai khác đã làm, họ đã
không có tội. Nhưng nay họ thấy rồi mà vẫn ghét cả Thầy lẫn Cha Thầy. 25 Như
thế là ứng nghiệm lời đã viết trong Sách Luật của họ: Chúng ghét con vô cớ.
26
Khi
Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là
Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. 27 Cả
anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.
Chương 16
1
Thầy
đã nói với anh em các điều ấy, để anh em khỏi bị vấp ngã. 2 Họ sẽ
khai trừ anh em khỏi hội đường. Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng
tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa. 3 Họ sẽ làm như thế, bởi vì họ
không biết Chúa Cha cũng chẳng biết Thầy.
Đấng
Bảo Trợ sẽ đến
4
Nhưng
Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để khi đến giờ họ hành động, anh em nhớ
lại là Thầy đã nói với anh em rồi.
5
Bây
giờ Thầy đến cùng Đấng đã sai Thầy, và không ai trong anh em hỏi: ”Thầy đi đâu?
6 Nhưng vì Thầy nói ra các điều ấy, nên lòng anh em tràn ngập ưu phiền. 7 Song,
Thầy nói thật với anh em: Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy
không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ
sai Đấng ấy đến với anh em. 8 Khi Người đến, Người sẽ chứng minh
rằng thế gian sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và việc xét xử: 9 về
tội lỗi: vì chúng không tin vào Thầy; 10 về sự công chính: vì Thầy
đến cùng Chúa Cha, và anh em không còn thấy Thầy nữa; 11 về việc xét
xử: vì Thủ lãnh thế gian này đã bị xét xử rồi.
12
Thầy
còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi.
13 Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật
toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe,
Người sẽ nói lại, và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến. 14 Người
sẽ tôn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy mà loan báo cho anh em. 15
Mọi sự Chúa Cha có đều là của Thầy. Vì thế, Thầy đã nói: Người lấy những
gì của Thầy mà loan báo cho anh em.
Đức
Giê-su loan báo Người sẽ mau trở lại
16 “Ít lâu nữa, anh em
sẽ không còn trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy.”
17
Bấy
giờ vài người trong nhóm môn đệ của Đức Giê-su hỏi nhau: ”Người muốn nói gì khi
bảo chúng ta: ”Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu nữa, anh
em sẽ lại thấy Thầy” và “Thầy đến cùng Chúa Cha” ?” 18 Vậy các ông
nói: ”“ Ít lâu nữa” nghĩa là gì? Chúng ta không hiểu Người nói gì!” 19 Đức
Giê-su biết là các ông muốn hỏi mình, nên bảo các ông: ”Anh em bàn luận với
nhau về lời Thầy nói: ”Ít lâu nữa, anh em sẽ không trông thấy Thầy, rồi ít lâu
nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy” . 20 Thật, Thầy bảo thật anh em: anh
em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng
nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui. 21 Khi sinh con, người
đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến
cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong
thế gian. 22 Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ
gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy
mất được. 23 Ngày ấy, anh em không còn phải hỏi Thầy gì nữa. Thật,
Thầy bảo thật anh em: anh em mà xin Chúa Cha điều gì, thì Người sẽ ban cho anh
em nhân danh Thầy. 24 Cho đến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh
Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được, để niềm vui của anh em nên trọn vẹn.
25
Thầy
đã dùng dụ ngôn mà nói những điều ấy với anh em. Sẽ đến giờ Thầy không còn dùng
dụ ngôn mà nói với anh em nữa, nhưng Thầy sẽ nói rõ cho anh em về Chúa Cha,
không còn úp mở. 26 Ngày ấy, anh em sẽ nhân danh Thầy mà xin, và
Thầy không nói với anh em là Thầy sẽ cầu xin Chúa Cha cho anh em. 27 Thật
vậy, chính Chúa Cha yêu mến anh em, vì anh em đã yêu mến Thầy, và tin rằng Thầy
từ Thiên Chúa mà đến. 28 Thầy từ Chúa Cha mà đến và Thầy đã đến thế
gian. Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha.”
29
Các
môn đệ Người thưa: ”Đấy, bây giờ Thầy nói rõ, chứ không còn dùng dụ ngôn nào
nữa. 30 Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy
không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến.”
31 Đức Giê-su đáp: ”Bây giờ anh em tin à? 32 Này đến giờ-và giờ ấy
đã đến rồi- anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình.
Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy. 33 Thầy nói với
anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em
sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.”
Chương 17
Lời
cầu nguyện của Đức Giê-su
1
Nói
thế xong, Đức Giê-su ngước mắt lên trời và cầu nguyện: ”Lạy Cha, giờ đã đến!
Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. 2 Thật vậy, Cha đã
ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất
cả những ai Cha đã ban cho Người. 3 Mà sự sống đời đời đó là họ nhận
biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến,
là Giê-su Ki-tô.
4
Phần
con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho
con làm. 5 Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin
ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian. 6
Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết
danh Cha. Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha. 7
Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, 8
vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy,
họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con.
9
Con
cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã
ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. 10 Tất cả những gì của con đều
là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của con; và con được tôn vinh nơi họ.
11 Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế
gian; phần con, con đến cùng Cha.
12
Khi
còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã
canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng
nghiệm lời Kinh Thánh. 13 Bây giờ, con đến cùng Cha, và con nói
những điều này lúc còn ở thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con. 14
Con đã truyền lại cho họ lời của Cha, và thế gian đã ghét họ, vì họ không
thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. 15 Con
không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. 16
Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian. 17
Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. 18 Như
Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. 19 Vì
họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.
20
Con
không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà
tin vào con, 21 để tất cả nên một, như Cha ở trong con và con ở
trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai
con. 22 Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho
con, để họ được nên một như chúng ta là một: 23 Con ở trong họ và
Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết
là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con.
24
Lạy
Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với
con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con,
vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành. 25 Lạy
Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng con, con đã biết Cha,
và những người này đã biết là chính Cha đã sai con. 26 Con đã cho họ
biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa, để tình Cha đã yêu thương con, ở
trong họ, và con cũng ở trong họ nữa.”
Chương 18
2.
CUỘC THƯƠNG KHÓ
Đức
Giê-su bị bắt giữ (Mt 26:47-56; Mc 14:43-50; Lc 22:47-53)
1
Sau
khi nói những lời đó, Đức Giê-su đi ra cùng với các môn đệ, sang bên kia suối
Kít-rôn. Ở đó, có một thửa vườn, Người cùng với các môn đệ đi vào. 2 Giu-đa,
kẻ nộp Người, cũng biết nơi này, vì Người thường tụ họp ở đó với các môn đệ. 3
Vậy, Giu-đa tới đó, dẫn một toán quân cùng đám thuộc hạ của các thượng tế
và nhóm Pha-ri-sêu; họ mang theo đèn đuốc và khí giới. 4 Đức Giê-su
biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: ”Các anh tìm ai?” 5
Họ đáp: ”Tìm Giê-su Na-da-rét.” Người nói: ”Chính tôi đây.” Giu-đa, kẻ
nộp Người, cũng đứng chung với họ. 6 Khi Người vừa nói: ”Chính tôi
đây”, thì họ lùi lại và ngã xuống đất. 7 Người lại hỏi một lần nữa:
”Các anh tìm ai?” Họ đáp: ”Tìm Giê-su Na-da-rét.” 8 Đức Giê-su nói:
”Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để
cho những người này đi.” 9 Thế là ứng nghiệm lời Đức Giê-su đã nói:
”Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai.”
10
Ông
Si-môn Phê-rô có sẵn một thanh gươm, bèn tuốt ra, nhằm người đầy tớ vị thượng tế,
mà chém đứt tai phải của y. Người đầy tớ ấy tên là Man-khô. 11 Đức
Giê-su nói với ông Phê-rô: ”Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho
Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống?”
Đức
Giê-su bị điệu ra trước các ông Kha-nan và Cai-pha. Ông Phê-rô chối Thầy (Mt 26:57-58,
69-75; Mc 14:53-54, 66-72; Lc 22:54-62)
12
Bấy
giờ toán quân và viên chỉ huy cùng đám thuộc hạ của người Do-thái bắt Đức
Giê-su và trói Người lại. 13 Trước tiên, họ điệu Đức Giê-su đến ông
Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Ông Cai-pha làm thượng tế năm đó. 14 Chính
ông này đã đề nghị với người Do-thái là nên để một người chết thay cho dân thì
hơn.
15
Ông
Si-môn Phê-rô và một môn đệ khác đi theo Đức Giê-su. Người môn đệ này quen biết
vị thượng tế, nên cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế. 16
Còn ông Phê-rô đứng ở phía ngoài, gần cổng. Người môn đệ kia quen biết vị
thượng tế ra nói với chị giữ cổng, rồi dẫn ông Phê-rô vào. 17 Người
tớ gái giữ cổng nói với ông Phê-rô: ”Cả bác nữa, bác không thuộc nhóm môn đệ
của người ấy sao?” Ông liền đáp: ”Đâu phải.” 18 Vì trời lạnh, các
đầy tớ và thuộc hạ đốt than và đứng sưởi ở đó; ông Phê-rô cũng đứng sưởi với họ.
19 Vị thượng tế tra hỏi Đức Giê-su về các môn đệ và giáo huấn của
Người. 20 Đức Giê-su trả lời: ”Tôi đã nói công khai trước mặt thiên
hạ; tôi hằng giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do-thái tụ
họp. Tôi không hề nói điều gì lén lút. 21 Sao ông lại hỏi tôi? Điều
tôi đã nói, xin cứ hỏi những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì.” 22
Đức Giê-su vừa dứt lời, thì một tên trong nhóm thuộc hạ đứng đó vả vào
mặt Người mà nói: ”Anh trả lời vị thượng tế như thế ư?” 23 Đức
Giê-su đáp: ”Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói
phải, sao anh lại đánh tôi?” 24 Ông Kha-nan cho giải Người đến
thượng tế Cai-pha, Người vẫn bị trói.
25
Còn
ông Si-môn Phê-rô thì vẫn đứng sưởi ở đó. Người ta nói với ông: ”Cả bác nữa,
bác không thuộc nhóm môn đệ của ông ấy sao?” Ông liền chối: ”Đâu phải.” 26
Một trong các đầy tớ của vị thượng tế, có họ với người bị ông Phê-rô chém
đứt tai, lên tiếng hỏi: ”Tôi đã chẳng thấy bác ở trong vườn với ông ấy sao?” 27
Một lần nữa ông Phê-rô lại chối, và ngay lúc ấy gà liền gáy.
Đức
Giê-su bị điệu ra trước tổng trấn Phi-la-tô (Mt 27:1-2, 11-30; Mc 15:1-19; Lc 23:1-5,
13-23)
28
Vậy,
người Do-thái điệu Đức Giê-su từ nhà ông Cai-pha đến dinh tổng trấn. Lúc đó
trời vừa sáng. Nhưng họ không vào dinh kẻo bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua
được. 29 Vì thế, tổng trấn Phi-la-tô ra ngoài gặp họ và hỏi: ”Các
người tố cáo ông này về tội gì?” 30 Họ đáp: ”Nếu ông này không làm
điều ác, thì chúng tôi đã chẳng đem nộp cho quan.” 31 Ông Phi-la-tô
bảo họ: ”Các người cứ đem ông ta đi mà xét xử theo luật của các người.” Người
Do-thái đáp: ”Chúng tôi không có quyền xử tử ai cả.” 32 Thế là ứng
nghiệm lời Đức Giê-su đã nói, khi ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.
33
Ông
Phi-la-tô trở vào dinh, cho gọi Đức Giê-su và nói với Người: ”Ông có phải là
vua dân Do-thái không?” 34 Đức Giê-su đáp: ”Ngài tự ý nói điều ấy,
hay những người khác đã nói với ngài về tôi?” 35 Ông Phi-la-tô trả
lời: ”Tôi là người Do-thái sao? Chính dân của ông và các thượng tế đã nộp ông
cho tôi. Ông đã làm gì?” 36 Đức Giê-su trả lời: ”Nước tôi không
thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã
chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do-thái. Nhưng thật ra Nước tôi không
thuộc chốn này.” 37 Ông Phi-la-tô liền hỏi: ”Vậy ông là vua sao?”
Đức Giê-su đáp: ”Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế
gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe
tiếng tôi.” 38 Ông Phi-la-tô nói với Người: ”Sự thật là gì?”
39
Theo
tục lệ của các người, vào dịp lễ Vượt Qua, ta thường tha một người nào đó cho
các người. Vậy các người có muốn ta tha vua dân Do-thái cho các người không?” 40
Họ lại la lên rằng: ”Đừng tha nó, nhưng xin tha Ba-ra-ba!” Mà Ba-ra-ba là
một tên cướp.
Chương 19
1
Bấy
giờ ông Phi-la-tô truyền đem Đức Giê-su đi và đánh đòn Người. 2 Bọn
lính kết một vòng gai làm vương miện, đặt lên đầu Người, và khoác cho Người một
áo choàng đỏ. 3 Họ đến gần và nói: ”Kính chào Vua dân Do-thái!”, rồi
vả vào mặt Người.
4
Ông
Phi-la-tô lại ra ngoài và nói với người Do-thái: ”Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài
cho các người, để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy.”
5 Vậy, Đức Giê-su bước ra ngoài, đầu đội vương miện bằng gai, mình
khoác áo choàng đỏ. Ông Phi-la-tô nói với họ: ”Đây là người!” 6 Khi
vừa thấy Đức Giê-su, các thượng tế cùng các thuộc hạ liền kêu lên rằng: ”Đóng
đinh, đóng đinh nó vào thập giá!” Ông Phi-la-tô bảo họ: ”Các người cứ đem ông
này đi mà đóng đinh vào thập giá, vì phần ta, ta không tìm thấy lý do để kết
tội ông ấy.” 7 Người Do-thái đáp lại: ”Chúng tôi có Lề Luật; và
chiếu theo Lề Luật, thì nó phải chết, vì nó đã xưng mình là Con Thiên Chúa.”
8
Nghe
lời đó, ông Phi-la-tô càng sợ hơn nữa. 9 Ông lại trở vào dinh và nói
với Đức Giê-su: ”Ông từ đâu mà đến?” Nhưng Đức Giê-su không trả lời. 10 Ông
Phi-la-tô mới nói với Người: ”Ông không trả lời tôi ư? Ông không biết rằng tôi
có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?” 11 Đức
Giê-su đáp lại: ”Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho
ngài. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ngài thì mắc tội nặng hơn.”
Đức
Giê-su bị kết án tử hình
12
Từ
đó, ông Phi-la-tô tìm cách tha Người. Nhưng dân Do-thái kêu lên rằng: ”Nếu ngài
tha nó, ngài không phải là bạn của Xê-da. Ai xưng mình là vua, thì chống lại
Xê-da.” 13 Khi nghe thấy thế, ông Phi-la-tô truyền dẫn Đức Giê-su ra
ngoài. Ông đặt Người ngồi trên toà, ở nơi gọi là Nền Đá, tiếng Híp-ri là
Gáp-ba-tha. 14 Hôm ấy là ngày áp lễ Vượt Qua, vào khoảng mười hai
giờ trưa. Ông Phi-la-tô nói với người Do-thái: ”Đây là vua các người!” 15 Họ
liền hô lớn: ”Đem đi! Đem nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!” Ông Phi-la-tô nói
với họ: ”Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao?” Các thượng tế đáp:
”Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xê-da.” 16 Bấy giờ ông
Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho họ đóng đinh vào thập giá.
Đức
Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá (Mt 27:33-38; Mc 15:22-26; Lc 23:33-38)
17
Chính
Người vác lấy thập giá đi ra, đến nơi gọi là Cái Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha;
18 tại đó, họ đóng đinh Người vào thập giá, đồng thời cũng đóng đinh
hai người khác nữa, mỗi người một bên, còn Đức Giê-su thì ở giữa. 19 Ông
Phi-la-tô cho viết một tấm bảng và treo trên thập giá; bảng đó có ghi: ”Giê-su
Na-da-rét, Vua dân Do-thái.” 20 Trong dân Do-thái, có nhiều người
đọc được bảng đó, vì nơi Đức Giê-su bị đóng đinh là một địa điểm ở gần thành.
Tấm bảng này viết bằng các tiếng: Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp. 21 Các
thượng tế của người Do-thái nói với ông Phi-la-tô: ”Xin ngài đừng viết: ”Vua
dân Do-thái”, nhưng viết: ”Tên này đã nói: Ta là Vua dân Do-thái” .” 22 Ông
Phi-la-tô trả lời: ”Ta viết sao, cứ để vậy!”
Lính
tráng chia nhau áo xống của Đức Giê-su (Mt 27:35; Mc 15:24; Lc 23:34 b)
23
Đóng
đinh Đức Giê-su vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm
bốn phần, mỗi người một phần; họ lấy cả chiếc áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài
này không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. 24 Vậy họ nói
với nhau: ”Đừng xé áo ra, cứ bắt thăm xem ai được.” Thế là ứng nghiệm lời Kinh
Thánh: Áo xống tôi, chúng đem chia chác, cả áo dài, cũng bắt thăm luôn. Đó là
những điều lính tráng đã làm.
27
25
Đứng
gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông
Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. 26 Khi thấy thân mẫu và
môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: ”Thưa
Bà, đây là con của Bà.” 27 Rồi Người nói với môn đệ: ”Đây là mẹ của
anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.
27
28
Sau
đó, Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh,
Người nói: ”Tôi khát!” 29 Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy
miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên
miệng Người. 30 Nhắp xong, Đức Giê-su nói: ”Thế là đã hoàn tất!” Rồi
Người gục đầu xuống và trao Thần Khí.
Đức
Giê-su bị lưỡi đòng đâm thâu
31
Hôm
đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày
sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho
đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống. 32 Quân
lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh
với Đức Giê-su. 33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không
đánh giập ống chân Người. 34 Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào
cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra. 35 Người xem thấy
việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết
mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin. 36 Các việc này đã
xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị
đánh giập. 37 Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã
đâm thâu.
Đức
Giê-su được mai táng (Mt 27:57-60; Mc 15:42-46; Lc 23:50-54)
38
Sau
đó, ông Giô-xếp, người A-ri-ma-thê, xin ông Phi-la-tô cho phép hạ thi hài Đức
Giê-su xuống. Ông Giô-xếp này là một môn đệ theo Đức Giê-su, nhưng cách kín
đáo, vì sợ người Do-thái. Ông Phi-la-tô chấp thuận. Vậy, ông Giô-xếp đến hạ thi
hài Người xuống. 39 Ông Ni-cô-đê-mô cũng đến. Ông này trước kia đã
tới gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông mang theo chừng một trăm cân mộc dược trộn với
trầm hương. 40 Các ông lãnh thi hài Đức Giê-su, lấy băng vải tẩm
thuốc thơm mà quấn, theo tục lệ chôn cất của người Do-thái. 41 Nơi Đức
Giê-su bị đóng đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới,
chưa chôn cất ai. 42 Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Do-thái, mà
ngôi mộ lại gần bên, nên các ông mai táng Đức Giê-su ở đó.
Chương 20
3.
NGÀY PHỤC SINH
Ngôi
mộ trống (Mt 28:1-8; Mc 16:1-8; Lc 24:1-11)
1
Sáng
sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ,
thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. 2 Bà liền chạy về gặp ông Si-môn
Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: ”Người ta đã đem Chúa đi
khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.”
3
Ông
Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. 4 Cả hai người cùng chạy. Nhưng
môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. 5 Ông cúi
xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. 6 Ông
Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng
vải để ở đó, 7 và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với
các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. 8 Bấy giờ người
môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. 9 Thật
vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi
dậy từ cõi chết. 10 Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà.
Đức
Giê-su hiện ra với bà Ma-ri-a Mác-đa-la (Mt 28:9-10; Mc 16:9-11)
11
Bà
Ma-ri-a Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống
nhìn vào trong mộ, 12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở
nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân. 13
Thiên thần hỏi bà: ”Này bà, sao bà khóc?” Bà thưa: ”Người ta đã lấy mất
Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu!” 14 Nói xong, bà
quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su. 15
Đức Giê-su nói với bà: ”Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai?” Bà Ma-ri-a tưởng
là người làm vườn, liền nói: ”Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói
cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về.” 16 Đức Giê-su
gọi bà: ”Ma-ri-a!” Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri: ”Ráp-bu-ni!” (nghĩa là
“Lạy Thầy” ). 17 Đức Giê-su bảo: ”Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy
chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: ”Thầy lên cùng
Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là
Thiên Chúa của anh em” .” 18 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn
đệ: ”Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.
Đức
Giê-su hiện ra với các môn đệ (Mt 28:16-20; Mc 16:14-18; Lc 24:36-49)
19
Vào
chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng
kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói:
”Bình an cho anh em!” 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh
sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại nói với
các ông: ”Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh
em.” 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: ”Anh em hãy
nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được
tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”
24
Một
người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các
ông khi Đức Giê-su đến. 25 Các môn đệ khác nói với ông: ”Chúng tôi
đã được thấy Chúa!” Ông Tô-ma đáp: ”Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người,
nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người,
tôi chẳng có tin.” 26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt
trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su
đến, đứng giữa các ông và nói: ”Bình an cho anh em.” 27 Rồi Người
bảo ông Tô-ma: ”Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà
đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” 28 Ông
Tô-ma thưa Người: ”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” 29 Đức
Giê-su bảo: ”Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà
tin!”
4.
KẾT LUẬN THỨ NHẤT
30
Đức
Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó
không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã được chép ở
đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh
em tin mà được sự sống nhờ danh Người.
Chương 21
IV.
ĐOẠN CUỐI
Đức
Giê-su hiện ra ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a
1
Sau
đó, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ
mình ra như thế này. 2 Ông Si-môn Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô,
ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê, các người con ông Dê-bê-đê và hai
môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau. 3 Ông Si-môn Phê-rô nói với
các ông: ”Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp: ”Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi
mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng đêm ấy họ không bắt được gì cả.
4
Khi
trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra đó
chính là Đức Giê-su. 5 Người nói với các ông: ”Này các chú, không có
gì ăn ư?” Các ông trả lời: ”Thưa không.” 6 Người bảo các ông: ”Cứ
thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá.” Các ông thả lưới
xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá. 7 Người
môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: ”Chúa đó!” Vừa nghe
nói”Chúa đó!”, ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy
xuống biển. 8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới đầy
cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
9
Bước
lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả bánh nữa.
10 Đức Giê-su bảo các ông: ”Đem ít cá mới bắt được tới đây!” 11
Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá lớn,
đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị rách. 12
Đức Giê-su nói: ”Anh em đến mà ăn!” Không ai trong các môn đệ dám hỏi”Ông
là ai?”, vì các ông biết rằng đó là Chúa. 13 Đức Giê-su đến, cầm lấy
bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy. 14 Đó là lần
thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi chết.
15
Khi
các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô: ”Này anh Si-môn, con ông
Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Ông đáp: ”Thưa Thầy có, Thầy
biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su nói với ông: ”Hãy chăm sóc chiên con của
Thầy.” 16 Người lại hỏi: ”Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến
Thầy không?” Ông đáp: ”Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người nói:
”Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” 17 Người hỏi lần thứ ba: ”Này anh
Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?” Ông Phê-rô buồn vì Người
hỏi tới ba lần: ”Anh có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: ”Thưa Thầy, Thầy biết rõ
mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su bảo: ”Hãy chăm sóc chiên của
Thầy. 18 Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình
thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra
cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” 19 Người
nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi,
Người bảo ông: ”Hãy theo Thầy.”
20
Ông
Phê-rô quay lại, thì thấy người môn đệ Đức Giê-su thương mến đi theo sau; ông
này là người đã nghiêng mình vào ngực Đức Giê-su trong bữa ăn tối và hỏi: ”Thưa
Thầy, ai là kẻ nộp Thầy?” 21 Vậy khi thấy người đó, ông Phê-rô nói
với Đức Giê-su: ”Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” 22 Đức Giê-su đáp:
”Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến, thì việc gì đến anh?
Phần anh, hãy theo Thầy.” 23 Do đó, mới có tiếng đồn giữa anh em là
môn đệ ấy sẽ không chết. Nhưng Đức Giê-su đã không nói với ông Phê-rô là: ”Anh
ấy sẽ không chết”, mà chỉ nói: ”Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi
Thầy đến, thì việc gì đến anh?”
Kết
luận
24
Chính
môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra. Chúng tôi biết rằng lời
chứng của người ấy là xác thực.
25
Còn
có nhiều điều khác Đức Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết
nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra.
Các Sách Khác
Công Vụ Tông
Đồ
Chương 1
Lời
tựa
1
Thưa
ngài Thê-ô-phi-lô, trong quyển thứ nhất, tôi đã tường thuật tất cả những việc
Đức Giê-su làm và những điều Người dạy, kể từ đầu 2 cho tới ngày Người được
rước lên trời. Trước ngày ấy, Người đã dạy bảo các Tông Đồ mà Người đã tuyển
chọn nhờ Thánh Thần. 3 Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho
các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày,
Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. 4 Một
hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Đức Giê-su truyền cho các ông không
được rời khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã
hứa,”điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, 5 đó là: ông Gio-an thì
làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong
Thánh Thần.”
Thăng
thiên
6
Bấy
giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: ”Thưa Thầy, có phải bây giờ là
lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” 7 Người đáp: ”Anh em
không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, 8 nhưng
anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.
Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền
Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.”
9
Nói
xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người,
khiến các ông không còn thấy Người nữa. 10 Và đang lúc các ông còn
đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng
đứng bên cạnh 11 và nói: ”Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời?
Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y
như các ông đã thấy Người lên trời.”
I.
HỘI THÁNH TẠI GIÊ-RU-SA-LEM
Nhóm
các Tông Đồ
12
Bấy
giờ các ông từ núi gọi là núi Ô-liu trở về Giê-ru-sa-lem. Núi này ở gần
Giê-ru-sa-lem, cách đoạn đường được phép đi trong ngày sa-bát. 13 Trở
về nhà, các ông lên lầu trên, là nơi các ông trú ngụ. Đó là các ông: Phê-rô,
Gio-an, Gia-cô-bê, An-rê, Phi-líp-phê, Tô-ma, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu,
Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và Giu-đa con ông
Gia-cô-bê. 14 Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu
nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với
anh em của Đức Giê-su.
Chọn
ông Mát-thi-a thay thế ông Giu-đa
15
Trong
những ngày ấy, ông Phê-rô đứng lên giữa các anh em- có khoảng một trăm hai mươi
người đang họp mặt- Ông nói: 16 “Thưa anh em, lời Kinh Thánh phải ứng
nghiệm, lời mà Thánh Thần đã dùng miệng vua Đa-vít để nói trước về Giu-đa, kẻ
đã trở thành tên dẫn đường cho những người bắt Đức Giê-su. 17 Y đã
là một người trong số chúng tôi và được tham dự vào công việc phục vụ của chúng
tôi. 18 Vậy, con người ấy đã dùng tiền công của tội ác mà tậu một
thửa đất; y đã ngã lộn đầu xuống, vỡ bụng, lòi cả ruột gan ra. 19 Điều
đó, mọi người ở Giê-ru-sa-lem đều biết, khiến họ đặt tên cho thửa đất ấy là
Kha-ken-đơ-ma, theo tiếng của họ nghĩa là Đất Máu. 20 Thật thế,
trong sách Thánh vịnh có chép rằng:
Ước
gì lều trại nó phải tan hoang,
không
còn ai trú ngụ.
và
ước gì người khác nhận lấy chức vụ của nó.
21 “Vậy phải làm thế
này: có những anh em đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giê-su suốt thời gian Người
sống giữa chúng ta, 22 kể từ khi Người được ông Gio-an làm phép rửa
cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên trời. Một trong những anh
em đó phải cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh.”
23
Họ
đề cử hai người: ông Giô-xếp, biệt danh là Ba-sa-ba, cũng gọi là Giút-tô, và
ông Mát-thi-a. 24 Họ cầu nguyện rằng: ”Lạy Chúa, chính Chúa thấu
suốt lòng mọi người; giữa hai người này, xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai 25 để
nhận chỗ trong sứ vụ Tông Đồ, chỗ Giu-đa đã bỏ để đi về nơi dành cho y.” 26
Họ rút thăm, thăm trúng ông Mát-thi-a: ông được kể thêm vào số mười một
Tông Đồ.
Chương 2
Ngày
lễ Ngũ Tuần
1
Khi
đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, 2 bỗng từ
trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ
đang tụ họp. 3 Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi
lửa tản ra đậu xuống từng người một. 4 Và ai nấy đều được tràn đầy
ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần
ban cho.
5
Lúc
đó, tại Giê-ru-sa-lem, có những người Do-thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở
về. 6 Nghe tiếng ấy, có nhiều người kéo đến. Họ kinh ngạc vì ai nấy
đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. 7 Họ sửng sốt, thán phục
và nói: ”Những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? 8 Thế sao
mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta? 9 Chúng ta đây, có
người là dân Pác-thi-a, Mê-đi, Ê-lam, Mê-xô-pô-ta-mi-a, Giu-đê, Cáp-pa-đô-ki-a,
Pon-tô, và A-xi-a, 10 có người là dân Phy-ghi-a, Pam-phy-li-a,
Ai-cập, và những vùng Li-by-a giáp giới Ky-rê-nê; nào là những người từ Rô-ma
đến đây; 11 nào là người Do-thái cũng như người đạo theo; nào là
người đảo Cơ-rê-ta hay người Ả-rập, vậy mà chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói
của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!”12 Ai nấy đều sửng sốt và
phân vân, họ bảo nhau: ”Thế nghĩa là gì?” 13 Nhưng người khác lại
chế nhạo: ”Mấy ông này say bứ rồi!”
Ông
Phê-rô giảng cho dân chúng
14
Bấy
giờ, ông Phê-rô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với họ rằng: ”Thưa
anh em miền Giu-đê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, xin
biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây. 15 Không,
những người này không say rượu như anh em nghĩ, vì bây giờ mới là giờ thứ ba. 16
Nhưng đó là điều đã được ngôn sứ Giô-en nói đến: 17 Thiên Chúa
phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người
phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị
kiến, bô lão sẽ được báo mộng. 18 Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ
Thần Khí Ta cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ. 19
Ta sẽ cho xuất hiện những điềm thiêng trên trời cao, và những dấu lạ dưới
đất thấp, đó là máu, lửa và những cột khói. 20 Mặt trời sẽ trở nên
tối tăm, mặt trăng hoá thành máu, trước khi ngày của Đức Chúa đến, ngày vĩ đại,
vinh quang. 21 Bấy giờ hết những ai kêu cầu danh Đức Chúa, sẽ được
ơn cứu độ.
22 “Thưa đồng bào
Ít-ra-en, xin nghe những lời sau đây. Đức Giê-su Na-da-rét, là người đã được
Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa
đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh
em biết điều đó. 23 Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước,
Đức Giê-su ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào
thập giá mà giết đi. 24 Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại,
giải thoát Người khỏi những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào
khống chế được Người mãi. 25 Quả vậy, vua Đa-vít đã nói về Người
rằng: Tôi luôn nhìn thấy Đức Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu, để tôi
chẳng nao lòng. 26 Bởi thế tâm hồn con mừng rỡ, và miệng lưỡi hân
hoan, cả thân xác con cũng nghỉ ngơi trong niềm hy vọng. 27 Vì Chúa
chẳng đành bỏ mặc linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài
phải hư nát. 28 Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và cho con
được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan.
29 “Thưa anh em, xin
được phép mạnh dạn nói với anh em về tổ phụ Đa-vít rằng: người đã chết và được
mai táng, và mộ của người còn ở giữa chúng ta cho đến ngày nay. 30 Nhưng
vì là ngôn sứ và biết rằng Thiên Chúa đã thề với người là sẽ đặt một người
trong dòng dõi trên ngai vàng của người, 31 nên người đã thấy trước
và loan báo sự phục sinh của Đức Ki-tô khi nói: Người đã không bị bỏ mặc trong
cõi âm ty và thân xác Người không phải hư nát. 32 Chính Đức Giê-su
đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng.
33 Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người
Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy đang nghe. 34
Thật vậy, vua Đa-vít đã chẳng lên trời, thế mà lại nói: Đức Chúa phán
cùng Chúa Thượng tôi: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, 35 để rồi
bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con. 36 Vậy toàn thể nhà
Ít-ra-en phải biết chắc điều này: Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá,
Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô.”
Những
người trở lại đầu tiên
37
Nghe
thế, họ đau đớn trong lòng, và hỏi ông Phê-rô cùng các Tông Đồ khác: ”Thưa các
anh, vậy chúng tôi phải làm gì?” 38 Ông Phê-rô đáp: ”Anh em hãy sám
hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, để được ơn tha
tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. 39 Thật vậy, đó là
điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những
người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.” 40
Ông Phê-rô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ
họ. Ông nói: ”Anh em hãy tránh xa thế hệ gian tà này để được cứu độ.” 41 Vậy
những ai đã đón nhận lời ông, đều chịu phép rửa. Và hôm ấy đã có thêm khoảng ba
ngàn người theo đạo.
Cộng
đoàn tín hữu đầu tiên
42
Các
tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau,
siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng.
43
Mọi
người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ.
44
Tất
cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. 45 Họ
đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu.
46
Họ
đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư
gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. 47 Họ ca tụng Thiên Chúa,
và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người
được cứu độ.
Chương 3
Ông
Phê-rô chữa một người què
1
Một
hôm, ông Phê-rô và ông Gio-an lên Đền Thờ, vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín. 2
Khi ấy, người ta khiêng đến một người què từ khi lọt lòng mẹ. Ngày ngày
họ đặt anh ta bên cửa Đền Thờ gọi là Cửa Đẹp, để xin kẻ ra vào Đền Thờ bố thí. 3
Vừa thấy ông Phê-rô và ông Gio-an sắp vào Đền Thờ, anh liền xin bố thí. 4
Hai ông nhìn thẳng vào anh, và ông Phê-rô nói: ”Anh nhìn chúng tôi đây!”5
Anh ta chăm chú nhìn hai ông, tưởng rằng sẽ được cái gì. 6 Bấy giờ
ông Phê-rô nói: ”Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây:
nhân danh Đức Giê-su Ki-tô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi!”7 Rồi ông nắm
chặt lấy tay mặt anh, kéo anh chỗi dậy. Lập tức bàn chân và xương mắt cá của
anh trở nên cứng cáp. 8 Anh đứng phắt dậy, đi lại được; rồi cùng với
hai ông, anh vào Đền Thờ, vừa đi vừa nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa. 9 Toàn
dân thấy anh đi lại và ca tụng Thiên Chúa. 10 Và khi nhận ra anh
chính là người vẫn ngồi ăn xin tại Cửa Đẹp Đền Thờ, họ kinh ngạc sững sờ về sự
việc mới xảy đến cho anh.
Ông
Phê-rô giảng cho dân chúng
11
Anh
cứ níu lấy ông Phê-rô và ông Gio-an, nên toàn dân rất kinh ngạc, chạy ùa tới
các ông tại hành lang gọi là hành lang Sa-lô-môn. 12 Thấy vậy, ông
Phê-rô lên tiếng nói với dân: ”Thưa đồng bào Ít-ra-en, sao lại ngạc nhiên về
điều đó, sao lại nhìn chúng tôi chằm chằm, như thể chúng tôi đã làm cho người
này đi lại được, nhờ quyền năng riêng hay lòng đạo đức của chúng tôi? 13 Thiên
Chúa của các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, Thiên Chúa của cha ông chúng
ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Người là Đức Giê-su, Đấng mà chính anh em đã nộp
và chối bỏ trước mặt quan Phi-la-tô, dù quan ấy xét là phải tha. 14 Anh
em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công Chính, mà lại xin ân xá cho một tên sát
nhân. 15 Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống, nhưng Thiên Chúa đã
làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết: về điều này, chúng tôi xin làm chứng. 16
Chính nhờ lòng tin vào danh Người, mà danh Người đã làm cho kẻ anh em
nhìn và biết đây trở nên cứng cáp; chính lòng tin Người ban đã cho anh này được
khỏi hẳn như thế, ngay trước mắt tất cả anh em.
17 “Thưa anh em, giờ đây
tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh
em. 18 Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người
dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Ki-tô của Người phải
chịu khổ hình. 19 Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa,
để Người xoá bỏ tội lỗi cho anh em. 20 Như vậy thời kỳ an lạc mà Đức
Chúa ban cho anh em sẽ đến, khi Người sai Đấng Ki-tô Người đã dành cho anh em,
là Đức Giê-su. 21 Đức Giê-su còn phải được giữ lại trên trời, cho
đến thời phục hồi vạn vật, thời mà Thiên Chúa đã dùng miệng các vị thánh ngôn
sứ của Người mà loan báo tự ngàn xưa. 22 Thật vậy, ông Mô-sê đã nói:
Từ giữa đồng bào của anh em, Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em sẽ cho trỗi dậy
một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; tất cả những gì vị ấy nói với anh em, anh
em hãy nghe. 23 Kẻ nào mà không nghe ngôn sứ ấy, thì sẽ bị diệt trừ
khỏi dân. 24 Sau đó, mọi ngôn sứ, kể từ ông Sa-mu-en đến các vị kế
tiếp, khi lên tiếng thì cũng đã loan báo những ngày chúng ta đang sống.
25 “Phần anh em, anh em
là con cháu của các ngôn sứ và của giao ước mà Thiên Chúa đã lập với cha ông
anh em, khi Người phán với ông Áp-ra-ham: Nhờ dòng dõi ngươi, mọi gia tộc trên
mặt đất sẽ được chúc phúc. 26 Thiên Chúa đã cho Tôi Trung của Người
trỗi dậy để giúp anh em trước tiên, và sai đi chúc phúc cho anh em, bằng cách
làm cho mỗi người trong anh em lìa bỏ những tội ác của mình.”
Chương 4
Ông
Phê-rô và ông Gio-an ra trước Thượng Hội Đồng
1
Hai
ông còn đang nói với dân, thì có các tư tế, viên lãnh binh Đền Thờ, và các
người thuộc nhóm Xa-đốc kéo đến. 2 Họ bực tức vì các ông giảng dạy
cho dân và dựa vào trường hợp Đức Giê-su mà loan báo kẻ chết sẽ sống lại. 3
Họ bắt hai ông và tống ngục cho đến ngày hôm sau, vì trời đã về chiều. 4
Nhưng trong đám người nghe lời giảng, có nhiều kẻ đã tin theo, chỉ riêng
số đàn ông đã lên đến chừng năm ngàn.
5
Hôm
sau, các thủ lãnh Do-thái, các kỳ mục và kinh sư họp nhau tại Giê-ru-sa-lem. 6
Có cả thượng tế Kha-nan, các ông Cai-pha, Gio-an, A-lê-xan-đê và mọi
người trong dòng họ thượng tế. 7 Họ cho điệu hai Tông Đồ ra giữa hội
đồng và tra hỏi: ”Nhờ quyền năng nào hay nhân danh ai mà các ông làm điều ấy?” 8
Bấy giờ, ông Phê-rô được đầy Thánh Thần, liền nói với họ: ”Thưa quý vị
thủ lãnh trong dân và quý vị kỳ mục, 9 hôm nay chúng tôi bị thẩm vấn
về việc lành chúng tôi đã làm cho một người tàn tật, về cách thức người ấy đã
được cứu chữa. 10 Vậy xin tất cả quý vị và toàn dân Ít-ra-en biết
cho rằng: nhân danh chính Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã
đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính
nhờ Đấng ấy mà người này được lành mạnh ra đứng trước mặt quý vị. 11 Đấng
ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá
tảng góc tường. 12 Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì
dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để
chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ.”
13
Họ
ngạc nhiên khi thấy ông Phê-rô và ông Gio-an mạnh dạn, và biết rằng hai ông là
những người không có chữ nghĩa, lại thuộc giới bình dân. Họ nhận ra hai ông là
những người đã từng theo Đức Giê-su; 14 đồng thời họ lại thấy người
đã được chữa lành đứng đó với hai ông, nên họ không biết đối đáp thế nào. 15
Họ mới truyền cho hai ông ra khỏi Thượng Hội Đồng, và bàn tính với nhau. 16
Họ nói: ”Ta phải xử làm sao với những người này? Họ đã làm một dấu lạ
rành rành: điều đó hiển nhiên đối với mọi người cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, và ta
không thể chối được. 17 Nhưng để cho việc đó khỏi lan rộng thêm
trong dân, ta hãy ngăm đe, nghiêm cấm họ từ nay không được nói đến danh ấy với
ai nữa.”
18
Họ
cho gọi hai ông vào và tuyệt đối cấm hai ông không được lên tiếng hay giảng dạy
về danh Đức Giê-su nữa. 19 Hai ông Phê-rô và Gio-an đáp lại: ”Nghe
lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa, xin hỏi: trước mặt Thiên Chúa, điều ấy
có phải lẽ không? Các ông thử xét xem! 20 Phần chúng tôi, những gì tai đã nghe,
mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra.” 21 Sau khi ngăm đe
lần nữa, họ thả hai ông về, vì không tìm được cách trừng trị hai ông. Lý do là
vì họ sợ dân: ai nấy đều tôn vinh Thiên Chúa vì việc đã xảy ra. 22 Thật
vậy, người được phép lạ ấy chữa lành đã ngoài bốn mươi tuổi.
Các
Tông Đồ cầu nguyện trong cơn bách hại
23
Được
thả về, hai ông đến với các anh em và thuật lại mọi điều các thượng tế và kỳ
mục đã nói với hai ông. 24 Nghe vậy, họ đồng tâm nhất trí cất tiếng
lên cùng Thiên Chúa: ”Lạy Chúa, Ngài là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi
cùng muôn loài trong đó; 25 Ngài là Đấng đã nhờ Thánh Thần, dùng
miệng tổ phụ chúng con là Đa-vít, tôi trung của Ngài, mà phán: Sao chư dân lại
ồn ào náo động, sao vạn quốc dám bày kế viển vông? 26 Vua chúa trần gian cùng
nổi dậy, vương hầu khanh tướng rập mưu đồ, chống lại Đức Chúa, chống lại Đấng
Người đã xức dầu phong vương.
27 “Đúng vậy, Hê-rô-đê,
Phong-xi-ô Phi-la-tô, cùng với chư dân và dân Ít-ra-en đã toa rập trong thành
này, chống lại tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giê-su, Đấng Ngài đã xức dầu. 28
Như thế họ đã thực hiện tất cả những gì quyền năng và ý muốn của Ngài đã
định trước. 29 Giờ đây, lạy Chúa, xin để ý đến những lời ngăm đe của
họ, và cho các tôi tớ Ngài đây được nói lời Ngài với tất cả sự mạnh dạn. 30
Xin giơ tay chữa lành, và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, nhân danh
tôi tớ thánh của Ngài là Đức Giê-su.” 31 Họ cầu nguyện xong, thì nơi
họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh
dạn nói lời Thiên Chúa.
Cộng
đoàn tín hữu đầu tiên
32
Các
tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất
cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung.
33
Nhờ
quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giê-su đã sống
lại. Và Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng.
34
Trong
cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa,
đều bán đi, lấy tiền, 35 đem đặt dưới chân các Tông Đồ. Tiền ấy được
phân phát cho mỗi người, tuỳ theo nhu cầu.
Lòng
rộng rãi của ông Ba-na-ba
36
Ông
Giô-xếp, người được các Tông Đồ đặt tên là Ba-na-ba, nghĩa là người có tài yên
ủi, có một thửa đất. Ông là một thầy Lê-vi quê quán ở đảo Sýp. 37 Ông
bán đất đi, lấy tiền đem đặt dưới chân các Tông Đồ.
Chương 5
Kha-na-ni-a
và Xa-phi-ra gian lận
1
Có
một người tên là Kha-na-ni-a cùng với vợ là Xa-phi-ra bán một thửa đất. 2 Ông
đồng ý với vợ giữ lại một phần tiền, rồi đem phần còn lại đặt dưới chân các
Tông Đồ. 3 Ông Phê-rô mới nói: ”Anh Kha-na-ni-a, sao anh lại để
Xa-tan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh Thần, mà giữ lại một phần
giá thửa đất? 4 Khi đất còn đó thì nó chẳng còn là của anh sao? Bán đi rồi thì
anh chẳng có quyền sử dụng tiền bán đó sao? Sao anh lại rắp tâm làm việc ấy?
Anh đã không lừa dối người phàm, mà lừa dối Thiên Chúa.” 5 Nghe
những lời ấy, Kha-na-ni-a ngã xuống tắt thở. Tất cả những ai nghe kể lại chuyện
này đều rất sợ hãi. 6 Các thanh niên đến liệm xác ông và đem đi
chôn.
7
Khoảng
ba giờ sau, vợ ông đi vào mà không hay biết chuyện đã xảy ra. 8 Ông
Phê-rô lên tiếng hỏi: ”Chị nói cho tôi hay: anh chị bán thửa đất được bấy
nhiêu, phải không?” Chị ta đáp: ”Vâng, được bấy nhiêu thôi.” 9 Ông
Phê-rô liền nói: ”Sao anh chị lại đồng lòng với nhau để thử thách Thần Khí
Chúa? Kìa những người đã chôn cất chồng chị còn đứng ở ngoài cửa, họ sắp khiêng
cả chị đi đấy!”10 Lập tức bà ta ngã xuống dưới chân ông Phê-rô và tắt thở. Khi
vào, các thanh niên thấy bà đã chết, liền khiêng đi chôn bên cạnh chồng. 11
Toàn thể Hội Thánh và tất cả những ai nghe kể chuyện này đều rất sợ hãi.
Các
Tông Đồ làm phép lạ
12
Nhiều
dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông Đồ.
13
Không
một ai khác dám nhập đoàn với họ. Nhưng dân thì lại ca tụng họ. 14 Càng
ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông.
15
Người
ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng,
để khi ông Phê-rô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh
nhân nào đó. 16 Nhiều người từ các thành chung quanh Giê-ru-sa-lem
cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế
ám, và tất cả đều được chữa lành.
Các
Tông Đồ bị bắt và được giải thoát
17
Bấy
giờ, vị thượng tế cùng tất cả những người theo ông-tức là phái Xa-đốc- ra tay
hành động. Đầy lòng ghen tức, 18 họ bắt các Tông Đồ, nhốt vào nhà tù
công cộng.
19
Nhưng
ban đêm thiên sứ của Đức Chúa mở cửa ngục, đưa các ông ra mà nói: 20
“Các ông hãy đi, vào đứng trong Đền Thờ mà nói cho dân những lời ban sự sống.” 21
Nghe thế, các ông vào Đền Thờ ngay từ lúc rạng đông và bắt đầu giảng dạy.
Các
Tông Đồ ra trước Thượng Hội Đồng
22
Nhưng
khi thuộc hạ đến, họ không thấy các ông trong ngục. Họ trở về báo cáo 23 rằng:
”Chúng tôi thấy ngục đóng kỹ lưỡng và những người lính canh đứng ở cửa; nhưng
khi mở cửa ra, chúng tôi không thấy ai ở bên trong.” 24 Nghe những
lời ấy, viên lãnh binh Đền Thờ và các thượng tế phân vân về các ông, không biết
chuyện gì xảy ra. 25 Bấy giờ có một người đến báo cáo cho họ: ”Những
người các ông đã tống ngục, kìa họ đang đứng trong Đền Thờ và giảng dạy cho
dân!”26 Viên lãnh binh bèn đi với bọn thuộc hạ và điệu các ông về, nhưng không
dùng bạo lực vì sợ bị dân ném đá.
27
Họ
điệu các ông đến giữa Thượng Hội Đồng; vị thượng tế hỏi các ông rằng: 28
“Chúng tôi đã nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về danh ấy nữa, thế mà
các ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem ngập đầy giáo lý của các ông, lại còn muốn cho
máu người ấy đổ trên đầu chúng tôi!”29 Bấy giờ ông Phê-rô và các Tông Đồ khác
đáp lại rằng: ”Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm. 30 Đức
Giê-su đã bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa của cha ông
chúng ta đã làm cho Người trỗi dậy, 31 và Thiên Chúa đã ra tay uy
quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en
ơn sám hối và ơn tha tội. 32 Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm
chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời
Người.” 33 Nghe vậy, họ giận điên lên và muốn giết các ông.
Ông
Ga-ma-li-ên lên tiếng
34
Bấy
giờ có một người Pha-ri-sêu tên là Ga-ma-li-ên đứng lên giữa Thượng Hội Đồng;
ông là một kinh sư được toàn dân kính trọng. Ông truyền đưa các đương sự ra
ngoài một lát. 35 Rồi ông nói với Thượng Hội Đồng: ”Thưa quý vị là
người Ít-ra-en, xin quý vị coi chừng điều quý vị sắp làm cho những người này. 36
Thời gian trước đây, có Thêu-đa nổi lên, xưng mình là một nhân vật và kết
nạp được khoảng bốn trăm người; ông ta đã bị giết, và mọi kẻ theo ông cũng tan
rã, không còn gì hết. 37 Sau ông, có Giu-đa người Ga-li-lê nổi lên
vào thời kiểm tra dân số, và lôi cuốn dân đi với mình; cả ông này cũng bị diệt,
và tất cả những người theo ông ta đều bị tan tác. 38 Vậy giờ đây,
tôi xin nói với quý vị: hãy để mặc những người này. Cứ cho họ về, vì nếu ý định
hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; 39 còn nếu
quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá huỷ được; không khéo
quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa.” Họ tán thành ý kiến của ông.
40
Họ
cho gọi các Tông Đồ lại mà đánh đòn và cấm các ông không được nói đến danh Đức
Giê-su, rồi thả các ông ra. 41 Các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng,
lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su.
42
Mỗi
ngày, trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông không ngừng giảng dạy và loan báo
Tin Mừng về Đức Ki-tô Giê-su.
Chương 6
II.
NHỮNG BƯỚC ĐẦU CỦA CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO
Lập
nhóm Bảy người
1
Thời
đó, khi số môn đệ thêm đông, thì các tín hữu Do-thái theo văn hoá Hy-lạp kêu
trách những tín hữu Do-thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng
ngày, các bà goá trong nhóm họ bị bỏ quên. 2 Bởi thế, Nhóm Mười Hai
triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: ”Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên
Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. 3 Vậy, thưa anh em, anh
em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn
ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. 4 Còn chúng
tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.” 5 Đề
nghị trên được mọi người tán thành. Họ chọn ông Tê-pha-nô, một người đầy lòng
tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Phi-líp-phê, Pơ-rô-khô-rô, Ni-ca-no,
Ti-môn, Pác-mê-na và ông Ni-cô-la, một người ngoại quê An-ti-ô-khi-a đã theo
đạo Do-thái. 6 Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu
nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông.
7
Lời
Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giê-ru-sa-lem, số các môn đệ tăng thêm rất
nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin.
Ông
Tê-pha-nô bị bắt
8
Ông
Tê-pha-nô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn
lao trong dân. 9 Có những người thuộc hội đường gọi là hội đường của
nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Ky-rê-nê và A-lê-xan-ri-a, cùng với một số
người gốc Ki-li-ki-a và A-xi-a, đứng lên tranh luận với ông Tê-pha-nô. 10 Nhưng
họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông. 11 Bấy
giờ, họ mới xui mấy người phao lên rằng: ”Chúng tôi đã nghe hắn nói lộng ngôn
xúc phạm đến ông Mô-sê và Thiên Chúa.” 12 Họ sách động dân và các kỳ
mục cùng kinh sư, rồi ập đến bắt ông và điệu đến Thượng Hội Đồng. 13 Họ
đưa mấy người chứng gian ra khai rằng: ”Tên này không ngừng nói những lời phạm
đến Nơi Thánh và Lề Luật. 14 Vì chúng tôi đã nghe hắn nói rằng
Giê-su người Na-da-rét sẽ phá huỷ nơi này và thay đổi những tục lệ mà ông Mô-sê
đã truyền lại cho chúng ta.” 15 Toàn thể cử toạ trong Thượng Hội
Đồng đều nhìn thẳng vào ông Tê-pha-nô, và họ thấy mặt ông giống như mặt thiên
sứ.
Chương 7
Diễn
từ của ông Tê-pha-nô
1
Bấy
giờ vị thượng tế hỏi ông Tê-pha-nô: ”Có đúng như vậy không?” 2 Ông
đáp: ”Thưa quý vị là những bậc cha anh, xin nghe tôi đây: Thiên Chúa hiển vinh
đã hiện ra với ông Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta, khi ông còn đang ở miền
Mê-xô-pô-ta-mi-a, trước khi ông đến ở Kha-ran. 3 Người phán với ông:
Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng ngươi, và đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. 4 Ông
liền bỏ xứ người Can-đê mà đến ở Kha-ran. Sau khi thân phụ qua đời, Người bảo
ông rời nơi ấy đến đất này, nơi anh em hiện đang ở. 5 Người không
ban cho ông sản nghiệp nào ở đất này, dù một tấc đất cũng không, nhưng hứa cho
ông cũng như cho dòng dõi ông được chiếm hữu đất này, mặc dầu bấy giờ ông không
có con. 6 Thiên Chúa phán với ông rằng dòng dõi ông sẽ trú ngụ nơi
đất khách quê người, và người ta sẽ bắt họ làm nô lệ và ngược đãi họ trong vòng
bốn trăm năm. 7 Người lại phán: Nhưng Ta sẽ xét xử dân đã bắt chúng
làm nô lệ, và sau đó chúng sẽ ra đi và sẽ thờ phượng Ta tại nơi này. 8 Rồi
Người ban cho ông giao ước, mà dấu chỉ là phép cắt bì; và như thế, sau khi sinh
ông I-xa-ác được tám ngày, ông làm phép cắt bì cho con; ông I-xa-ác cũng làm
như thế cho ông Gia-cóp, và ông Gia-cóp đã làm như thế cho mười hai tổ phụ.
9 “Các tổ phụ ghen ông
Giu-se nên đã bán ông cho người ta đưa sang Ai-cập. Nhưng Thiên Chúa vẫn ở với
ông. 10 Người cứu ông khỏi mọi bước ngặt nghèo, cho ông được cảm
tình của Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và được khôn ngoan trước mặt nhà vua, khiến nhà
vua đặt ông làm tể tướng cai quản nước Ai-cập và toàn thể hoàng cung. 11 Rồi
xảy ra nạn đói trong cả nước Ai-cập và tại Ca-na-an: đó là thời rất ngặt nghèo,
và cha ông chúng ta không tìm đâu ra lương thực. 12 Khi ông Gia-cóp
nghe nói bên Ai-cập có lúa mì, liền sai cha ông chúng ta đi lần thứ nhất. 13
Rồi đến lần thứ hai, thì ông Giu-se cho các anh em nhận ra mình; bấy giờ
Pha-ra-ô biết rõ gốc tích của ông Giu-se. 14 Ông Giu-se liền sai đi
mời thân phụ là ông Gia-cóp, cùng với tất cả họ hàng là bảy mươi lăm người. 15
Vậy ông Gia-cóp xuống Ai-cập. Ông đã qua đời ở đó, và cha ông chúng ta
cũng vậy. 16 Hài cốt các ông được đưa về Si-khem và táng trong ngôi
mộ mà ông Áp-ra-ham đã bỏ tiền ra mua của con cái Kha-mo tại Si-khem.
17 “Khi gần đến thời
thực hiện lời Thiên Chúa đã long trọng hứa với ông Áp-ra-ham, thì dân sinh sôi
nảy nở ra nhiều tại Ai-cập, 18 cho đến khi một vua khác lên trị vì
nước Ai-cập. Vua này không biết ông Giu-se. 19 Là người xảo quyệt,
vua xử tệ với nòi giống chúng ta, ngược đãi cha ông chúng ta, đến nỗi bắt các
cụ phải đem trẻ sơ sinh của mình bỏ đi, không cho chúng sống. 20 Chính
vào thời đó, Mô-sê sinh ra. Đứa bé kháu khỉnh trước mặt Thiên Chúa, lại chỉ
được nuôi ba tháng ở nhà thân phụ. 21 Sau đó bị bỏ, nhưng được con
gái Pha-ra-ô rước về nuôi làm con trai mình. 22 Cậu bé được dạy cho
biết tất cả về sự khôn ngoan của người Ai-cập, và là người đầy uy thế trong lời
nói cũng như việc làm.
23 “Khi được chẵn bốn
mươi tuổi, ông Mô-sê nảy ra ý định thăm viếng các anh em mình là con cái
Ít-ra-en. 24 Thấy một người anh em bị một người Ai-cập làm hại, ông
liền bênh, và để trả thù cho người bị áp bức, ông đánh chết người Ai-cập. 25
Ông tưởng các anh em ông sẽ hiểu rằng Thiên Chúa dùng tay ông để ban ơn
cứu độ cho họ; nhưng họ thì không hiểu. 26 Ngày hôm sau, đang khi họ
đánh lộn thì ông xuất hiện và dàn xếp cho đôi bên làm hoà. Ông nói: ”Này các
người, các người là anh em, tại sao lại xử tệ với nhau? 27 Nhưng kẻ đang xử tệ
với người đồng bào gạt ông ra và nói: Ai đã đặt ông làm người lãnh đạo và người
xét xử chúng tôi? 28 Hay là ông tính giết tôi, y như đã giết tên Ai-cập hôm
qua? 29 Nghe câu nói ấy, ông Mô-sê liền trốn đi và đến trú ngụ ở miền Ma-đi-an.
Ở đó ông sinh được hai con trai.
30 “Đúng bốn mươi năm
sau, một thiên sứ hiện ra với ông tại sa mạc núi Xi-nai, trong ngọn lửa của một
bụi cây đang cháy. 31 Ông Mô-sê ngạc nhiên khi thấy thị kiến ấy.
Đang khi ông lại gần để xem cho rõ, thì có tiếng Chúa phán với ông: 32 Ta
là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp.
Ông Mô-sê phát run lên, không dám nhìn nữa. 33 Bấy giờ Chúa phán với
ông: ”Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh! 34 Ta đã thấy rõ
cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập và đã nghe tiếng chúng kêu than, nên Ta
xuống giải thoát chúng. Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi sang Ai-cập".
35 “Ông Mô-sê này là
người mà họ đã từng chối bỏ khi nói: Ai đã đặt ông làm người lãnh đạo và người
xét xử?, thì Thiên Chúa lại sai ông làm người lãnh đạo và cứu chuộc, qua trung
gian vị thiên sứ đã hiện ra với ông trong bụi gai. 36 Chính ông đã
đưa họ ra, bằng cách làm những điềm thiêng dấu lạ tại đất Ai-cập, trong Biển Đỏ
và trong sa mạc bốn mươi năm trường. 37 Chính ông Mô-sê đó là người
đã nói với con cái Ít-ra-en: Từ giữa đồng bào của anh em, Thiên Chúa sẽ cho
đứng lên một ngôn sứ như tôi để giúp anh em. 38 Chính ông là người
đã có mặt trong đại hội ở sa mạc, bên cạnh vị thiên sứ nói với ông trên núi
Xi-nai, và bên cạnh cha ông chúng ta. Chính ông đã đón nhận những lời hằng sống
để ban cho chúng ta. 39 Nhưng cha ông chúng ta đã không muốn vâng
lời ông; họ đã gạt ông ra và trong thâm tâm, họ đã quay lại Ai-cập. 40 Họ
nói với ông A-ha-ron: Xin ông làm cho chúng tôi những vị thần dẫn đầu chúng
tôi, vì cái ông Mô-sê, người đã đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, chúng tôi
không biết chuyện gì đã xảy ra cho ông ta. 41 Trong những ngày ấy,
họ đã làm tượng một con bê, họ dâng lễ tế cho ngẫu tượng ấy và ăn mừng công
trình tay họ làm ra. 42 Bấy giờ Thiên Chúa xoay mặt họ đi, và để mặc
họ thờ thiên binh, như có lời chép trong sách các ngôn sứ:
Hỡi
nhà Ít-ra-en, bốn mươi năm trường trong sa mạc,
các
ngươi có dâng lên Ta vật hy sinh và lễ tế nào đâu?
43
Các
ngươi đã kiệu lều của thần Mô-lóc
và
ngôi sao của thần Rê-phan,
là
những ảnh tượng các ngươi đã làm ra để thờ;
nên
Ta đã đày các ngươi tới bên kia Ba-by-lon.
44 “Khi ở trong sa mạc,
cha ông chúng ta có Lều chứng ước, như Đấng phán với ông Mô-sê đã truyền phải
làm theo kiểu mẫu ông đã thấy. 45 Lều ấy, cha ông chúng ta đã kế
thừa, và đã cùng với ông Giô-suê, đem vào đất chiếm được của các dân ngoại mà
Thiên Chúa đã đuổi đi khuất mắt các ông. Lều ở lại đó cho đến thời vua Đa-vít. 46
Vua này đẹp lòng Thiên Chúa và đã xin được tìm một ngôi nhà cho Thiên
Chúa của Gia-cóp. 47 Nhưng chính vua Sa-lô-môn mới xây nhà cho Người.
48 Tuy nhiên, Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người
phàm làm ra, như lời ngôn sứ đã nói:
49
Chúa
phán: Trời là ngai của Ta,
còn
đất là bệ dưới chân Ta.
Các
ngươi sẽ xây cho Ta nhà nào,
và
nơi nào sẽ là chốn Ta nghỉ ngơi
50
Chẳng
phải chính tay Ta đã làm nên mọi sự ấy sao?
51 “Hỡi những người cứng
đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần.
Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy. 52 Có ngôn sứ nào mà
cha ông các ông không bắt bớ? Họ đã giết những vị tiên báo Đấng Công Chính sẽ
đến; còn các ông, nay đã trở thành những kẻ phản bội và sát hại Đấng ấy. 53
Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố,
nhưng lại chẳng tuân giữ.”
54
Khi
nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông
Tê-pha-nô.
Ông
Tê-pha-nô bị ném đá. Ông Sao-lô bắt đạo
55
Được
đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy
Đức Giê-su đứng bên hữu Thiên Chúa. 56 Ông nói: ”Kìa, tôi thấy trời
mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.” 57 Họ liền kêu lớn
tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông58 rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá.
Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Sao-lô. 59 Họ
ném đá ông Tê-pha-nô, đang lúc ông cầu xin rằng: ”Lạy Chúa Giê-su, xin nhận lấy
hồn con.” 60 Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: ”Lạy Chúa, xin
đừng chấp họ tội này.” Nói thế rồi, ông an nghỉ.
Chương 8
1
Phần
ông Sao-lô, ông tán thành việc giết ông Tê-pha-nô.
Hồi
ấy, Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem trải qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông
Đồ ra, mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri.
2
Có
mấy người sùng đạo chôn cất ông Tê-pha-nô và khóc thương ông thảm thiết.
3
Còn
ông Sao-lô thì cứ phá hoại Hội Thánh: ông đến từng nhà, lôi cả đàn ông lẫn đàn
bà đi tống ngục.
Ông
Phi-líp-phê đến Sa-ma-ri
4
Vậy
những người phải tản mác này đi khắp nơi loan báo lời Chúa.
5
Ông
Phi-líp-phê xuống một thành miền Sa-ma-ri và rao giảng Đức Ki-tô cho dân cư ở
đó. 6 Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Phi-líp-phê giảng,
bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm. 7 Thật
vậy, các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người trong số những
kẻ bị chúng ám. Nhiều người tê bại và tàn tật được chữa lành. 8 Trong
thành, người ta rất vui mừng.
Thầy
phù thủy Si-môn
9
Trong
thành ấy, có một người tên là Si-môn, vốn dùng phù phép làm cho dân Sa-ma-ri
kinh ngạc. Ông ta xưng mình là một nhân vật quan trọng, 10 và mọi
người từ nhỏ đến lớn đều chú ý đến ông. Họ nói: ”Ông này là Quyền năng của
Thiên Chúa, Quyền năng được gọi là “Vĩ đại".” 11 Họ chú ý đến
ông, vì từ khá lâu ông đã dùng phù phép làm cho họ kinh ngạc. 12 Nhưng
khi họ tin lời ông Phi-líp-phê loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa và về danh
Đức Giê-su Ki-tô, thì họ đã chịu phép rửa, có cả đàn ông lẫn đàn bà. 13 Cả
ông Si-môn nữa cũng đã tin theo, và sau khi chịu phép rửa, ông cứ theo sát ông
Phi-líp-phê, và kinh ngạc vì được thấy các dấu lạ và các phép mầu vĩ đại xảy
ra.
14
Các
Tông Đồ ở Giê-ru-sa-lem nghe biết dân miền Sa-ma-ri đã đón nhận lời Thiên Chúa,
thì cử ông Phê-rô và ông Gio-an đến với họ. 15 Khi đến nơi, hai ông
cầu nguyện cho họ, để họ nhận được Thánh Thần. 16 Vì Thánh Thần chưa
ngự xuống một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su.
17 Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần.
18
Ông
Si-môn thấy khi các Tông Đồ đặt tay, thì Thánh Thần được ban xuống, nên ông đem
tiền đến biếu các ông 19 và nói: ”Xin cũng ban quyền ấy cho tôi nữa, để tôi đặt
tay cho ai thì người ấy nhận được Thánh Thần.” 20 Nhưng ông Phê-rô
đáp: ”Tiền bạc của anh tiêu tan luôn với anh cho rồi, vì anh tưởng có thể lấy
tiền mà mua ân huệ của Thiên Chúa! 21 Chẳng có phần chia cho anh, cũng chẳng có
phần thừa kế trong việc này đâu, vì lòng anh không ngay thẳng trước mặt Thiên
Chúa. 22 Vậy anh hãy sám hối về việc xấu ấy của anh, và cầu xin
Chúa, may ra Người sẽ tha cho anh tội đã nghĩ như thế trong lòng. 23 Thật
vậy, tôi thấy anh đang ứ đầy mật đắng và đang bị tội ác trói buộc.” 24 Ông
Si-môn thưa: ”Xin hai ông cầu cùng Chúa cho tôi, để không điều nào trong những
điều các ông đã nói giáng xuống trên tôi.”
25
Sau
khi đã long trọng làm chứng và nói lời Chúa, hai Tông Đồ trở về Giê-ru-sa-lem
và loan Tin Mừng cho nhiều làng miền Sa-ma-ri.
Ông
Phi-líp-phê làm phép rửa cho một viên thái giám
26
Thiên
sứ của Chúa nói với ông Phi-líp-phê: ”Đứng lên, đi về hướng nam, theo con đường
từ Giê-ru-sa-lem xuống Ga-da; con đường này vắng.” 27 Ông đứng lên đi.
Khi ấy có một viên thái giám người Ê-thi-óp, làm quan lớn trong triều của bà
Can-đa-kê, nữ hoàng nước Ê-thi-óp. Ông này làm tổng quản kho bạc của bà. Ông đã
lên Giê-ru-sa-lem hành hương 28 và bấy giờ đang trên đường về. Ngồi trên xe
nhà, ông đọc sách ngôn sứ I-sai-a. 29 Thần Khí nói với ông
Phi-líp-phê: ”Tiến lên, đuổi kịp xe đó.” 30 Ông Phi-líp-phê chạy
lại, nghe thấy ông kia đọc sách ngôn sứ I-sai-a, thì hỏi: ”Ngài có hiểu điều
ngài đọc không?” 31 Ông quan đáp: ”Mà làm sao tôi hiểu được, nếu
không có người dẫn giải?” Rồi ông mời ông Phi-líp-phê lên ngồi với mình. 32
Đoạn Kinh Thánh ông đang đọc là đoạn này: Như chiên bị đem đi làm thịt,
như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng mở miệng kêu ca. 33 Bởi
Người bị hạ xuống, nên bản án của Người đã được huỷ bỏ. Dòng dõi Người, ai sẽ
kể lại, vì cuộc sống của Người trên trần gian đã bị chấm dứt.
34
Viên
thái giám ngỏ lời với ông Phi-líp-phê: ”Xin ông cho biết: vị ngôn sứ nói thế về
ai? Về chính mình hay về một ai khác?” 35 Ông Phi-líp-phê lên tiếng,
và khởi từ đoạn Kinh Thánh ấy mà loan báo Tin Mừng Đức Giê-su cho ông.
36
Dọc
đường, các ông tới một chỗ có nước, viên thái giám mới nói: ”Sẵn nước đây, có
gì ngăn trở tôi chịu phép rửa không?” 37 Ông Phi-líp-phê đáp: ”Nếu
ngài tin hết lòng, thì được.” Viên thái giám thưa: ”Tôi tin Đức Giê-su Ki-tô là
Con Thiên Chúa.” 38 Ông truyền dừng xe lại. Ông Phi-líp-phê và viên
thái giám, cả hai cùng xuống chỗ có nước, và ông Phi-líp-phê làm phép rửa cho
ông quan. 39 Khi hai ông lên khỏi nước, Thần Khí Chúa đem ông
Phi-líp-phê đi mất, và viên thái giám không còn thấy ông nữa. Nhưng ông tiếp
tục cuộc hành trình, lòng đầy hoan hỷ. 40 Còn ông Phi-líp-phê thì
người ta gặp thấy ở Át-đốt. Ông loan báo Tin Mừng cho mọi thành thị ông đi qua,
cho tới khi đến Xê-da-rê.
Chương 9
Ông
Sao-lô được kêu gọi làm Tông Đồ (Cv 22:5-16; 26:9-18 )
1
Ông
Sao-lô vẫn còn hằm hằm đe doạ giết các môn đệ Chúa, nên đã tới gặp thượng tế 2
xin thư giới thiệu đến các hội đường ở Đa-mát, để nếu thấy những người theo
Đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giê-ru-sa-lem.
3
Vậy
đang khi ông đi đường và đến gần Đa-mát, thì bỗng nhiên có một luồng ánh sáng
từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. 4 Ông ngã xuống đất và nghe có
tiếng nói với ông: ”Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” 5 Ông
nói: ”Thưa Ngài, Ngài là ai?” Người đáp: ”Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ. 6
Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết
ngươi phải làm gì.” 7 Những người cùng đi với ông dừng lại, sững sờ:
họ nghe có tiếng nói, nhưng không trông thấy ai. 8 Ông Sao-lô từ
dưới đất đứng dậy, mắt thì mở nhưng không thấy gì. Người ta phải cầm tay dắt
ông vào Đa-mát. 9 Suốt ba ngày, ông không nhìn thấy, cũng chẳng ăn,
chẳng uống.
10
Bấy
giờ ở Đa-mát có một môn đệ tên là Kha-na-ni-a. Trong một thị kiến, Chúa phán
với ông: ”Kha-na-ni-a!” Ông thưa: ”Dạ, lạy Chúa, con đây.” 11 Chúa
bảo ông: ”Đứng lên, đi tới phố gọi là Phố Thẳng, đến nhà Giu-đa tìm một người
tên là Sao-lô quê ở Tác-xô: người ấy đang cầu nguyện 12 và thấy một người tên
là Kha-na-ni-a đi vào, đặt tay trên mình để làm cho mình lại thấy được.” 13
Ông Kha-na-ni-a thưa: ”Lạy Chúa, con đã nghe lắm kẻ nói về người ấy, về
tất cả những điều ác người ấy đã làm cho dân thánh Chúa tại Giê-ru-sa-lem. 14
Còn ở đây, người ấy được các thượng tế cho quyền bắt trói tất cả những ai
kêu cầu danh Chúa.” 15 Nhưng Chúa phán với ông: ”Cứ đi, vì người ấy
là lợi khí Ta chọn để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và
con cái Ít-ra-en. 16 Thật vậy, chính Ta sẽ chỉ cho người ấy thấy tất
cả những đau khổ người ấy phải chịu vì danh Ta.” 17 Ông Kha-na-ni-a
liền đi; ông vào nhà, đặt tay trên ông Sao-lô và nói: ”Anh Sa-un, Chúa đã sai
tôi đến đây, Người là Đức Giê-su, Đấng đã hiện ra với anh trên đường anh tới
đây. Người sai tôi đến để anh lại thấy được và để anh được đầy Thánh Thần.” 18
Lập tức có những cái gì như vảy bong ra khỏi mắt ông Sao-lô, và ông lại
thấy được. Ông đứng dậy và chịu phép rửa. 19 Rồi ông ăn và khoẻ lại.
Ông
Sao-lô rao giảng tại Đa-mát
20
rồi
lập tức ông bắt đầu rao giảng Đức Giê-su trong các hội đường, rằng Người là Con
Thiên Chúa. 21 Mọi người nghe ông giảng đều kinh ngạc và nói: ”Ông
này chẳng phải là người ở Giê-ru-sa-lem vẫn tiêu diệt những ai kêu cầu danh
Giê-su sao? Chẳng phải ông đã đến đây với mục đích bắt trói họ giải về cho các
thượng tế sao?” 22 Nhưng ông Sao-lô càng thêm vững mạnh, và ông làm
cho người Do-thái ở Đa-mát phải bẽ mặt, khi minh chứng rằng Đức Giê-su là Đấng
Mê-si-a.
23
Sau
một thời gian khá lâu, người Do-thái cùng nhau bàn kế giết ông Sao-lô; 24 nhưng
ông biết được âm mưu của họ. Thậm chí người ta canh giữ các cửa thành ngày đêm,
để giết ông. 25 Nhưng ban đêm, các môn đệ ông đã đưa ông qua tường
thành bằng cách đặt ông ngồi trong một cái thúng rồi dòng dây thả xuống.
Ông
Sao-lô tới thăm Giê-ru-sa-lem
26
Khi
tới Giê-ru-sa-lem, ông Sao-lô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng mọi
người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ. 27 Ông
Ba-na-ba liền đứng ra bảo lãnh đưa ông Sao-lô đến gặp các Tông Đồ, và tường
thuật cho các ông nghe chuyện ông ấy được thấy Chúa hiện ra trên đường và phán
dạy làm sao, cũng như việc ông ấy đã mạnh dạn rao giảng nhân danh Đức Giê-su
tại Đa-mát thế nào. 28 Từ đó ông Sao-lô cùng với các Tông Đồ đi lại
hoạt động tại Giê-ru-sa-lem. Ông mạnh dạn rao giảng nhân danh Chúa. 29 Ông
thường đàm đạo và tranh luận với những người Do-thái theo văn hoá Hy-lạp. Nhưng
họ tìm cách giết ông. 30 Các anh em biết thế, liền dẫn ông xuống
Xê-da-rê và tiễn ông lên đường về Tác-xô.
Thời
kỳ yên ổn
31
Hồi
ấy, trong khắp miền Giu-đê, Ga-li-lê và Sa-ma-ri, Hội Thánh được bình an, được
xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông, nhờ
Thánh Thần nâng đỡ.
Ông
Phê-rô chữa một người tê bại ở Lốt
32
Bấy
giờ ông Phê-rô rảo khắp nơi, xuống thăm cả dân thánh cư ngụ tại Lốt. 33 Nơi
đây ông gặp thấy một người tên là Ê-nê liệt giường đã tám năm, vì anh bị tê bại.
34 Ông Phê-rô nói với anh ta: ”Anh Ê-nê, Đức Giê-su Ki-tô chữa anh
khỏi. Anh hãy đứng dậy và tự dọn giường lấy.” Lập tức anh đứng dậy. 35 Tất
cả những người cư ngụ ở Lốt và đồng bằng Sa-ron thấy anh, và họ trở lại cùng
Chúa.
Ông
Phê-rô làm cho một người chết sống lại
36
Ở
Gia-phô, trong số các môn đệ có một bà tên là Ta-bi-tha, có nghĩa là Linh
Dương. Bà này đầy công đức vì những việc lành và bố thí bà đã làm. 37 Trong
những ngày ấy, bà mắc bệnh và qua đời. Người ta tắm xác cho bà và đặt ở lầu
trên. 38 Vì Lốt gần Gia-phô, nên khi các môn đệ nghe biết ông Phê-rô
ở đó, liền cử hai người đến mời: ”Xin ông đến với chúng tôi, đừng trì hoãn.”
39
Ông
Phê-rô đứng dậy cùng đi với họ. Tới nơi, người ta đưa ông lên lầu trên. Các bà
goá xúm lại quanh ông, vừa khóc vừa cho ông xem những áo dài và áo choàng bà
Linh Dương đã may khi còn sống với họ. 40 Ông Phê-rô cho mọi người
ra ngoài, rồi quỳ xuống cầu nguyện. Sau đó, ông quay lại về phía thi hài và ra
lệnh: ”Bà Ta-bi-tha, hãy đứng dậy!” Bà ấy mở mắt ra, và khi thấy ông Phê-rô,
liền ngồi dậy. 41 Ông đưa tay đỡ bà đứng dậy, rồi gọi dân thánh và
các bà goá lại và cho thấy bà đang sống. 42 Cả thành Gia-phô đều
biết việc này, và có nhiều người tin vào Chúa.
43
Ông
Phê-rô ở lại Gia-phô khá lâu, tại nhà một người thợ thuộc da tên là Si-môn.
Chương 10
Ông
Phê-rô tới nhà một viên đại đội trưởng người Rô-ma
1
Ở
Xê-da-rê có một người tên là Co-nê-li-ô làm đại đội trưởng thuộc cơ đội gọi là
cơ đội I-ta-li-a. 2 Ông là người đạo đức và kính sợ Thiên Chúa, cũng
như cả nhà ông; ông rộng tay cứu trợ dân và luôn luôn cầu nguyện cùng Thiên
Chúa.
3
Một
hôm, vào khoảng giờ thứ chín, trong một thị kiến ông thấy rõ ràng một thiên sứ
của Thiên Chúa vào nhà ông và nói: ”Co-nê-li-ô!”4 Ông nhìn thẳng vào thiên sứ
và phát sợ, ông nói: ”Thưa ngài, có việc chi vậy?” Thiên sứ đáp: ”Lời cầu
nguyện và việc cứu trợ của ông đã thấu toà Thiên Chúa khiến Người nhớ đến ông. 5
Vậy bây giờ ông hãy sai người đi Gia-phô mời một người tên là Si-môn,
cũng gọi là Phê-rô. 6 Ông ấy trọ tại nhà một người thợ thuộc da tên
là Si-môn, ở gần bờ biển.” 7 Khi vị thiên sứ nói với ông Co-nê-li-ô
vừa đi khỏi, ông gọi hai người nhà và một người lính đạo đức trong số những
người vẫn ở dưới quyền ông. 8 Ông kể cho họ nghe tất cả sự việc, rồi
sai họ đi Gia-phô.
9
Hôm
sau, đang khi họ đi đường và đến gần Gia-phô, thì ông Phê-rô lên sân thượng cầu
nguyện; lúc đó, vào khoảng giờ thứ sáu. 10 Ông thấy đói và muốn ăn.
Đang khi người ta dọn bữa thì ông xuất thần. 11 Ông thấy trời mở ra
và một vật gì sà xuống, trông như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, đang được thả
xuống đất. 12 Trong đó có mọi giống vật bốn chân và rắn rết sống
trên đất, cùng mọi thứ chim trời. 13 Có tiếng phán bảo ông: ”Phê-rô,
đứng dậy, làm thịt mà ăn!”14 Ông Phê-rô thưa: ”Lạy Chúa, không thể được, vì
không bao giờ con ăn những gì ô uế và không thanh sạch.” 15 Lại có
tiếng phán bảo ông lần thứ hai: ”Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch,
thì ngươi chớ gọi là ô uế.” 16 Việc ấy xảy ra đến ba lần, và lập tức
vật ấy được đưa lên trời.
17
Ông
Phê-rô còn đang phân vân tự hỏi thị kiến ông vừa thấy có ý nghĩa gì, thì những
người ông Co-nê-li-ô sai đi đã hỏi ra được nhà ông Si-môn, và họ đang đứng
trước cổng. 18 Họ lớn tiếng hỏi có phải ông Si-môn, cũng gọi là
Phê-rô, trọ ở đấy không. 19 Ông Phê-rô vẫn còn phân vân về thị kiến,
thì Thần Khí bảo ông: ”Kìa có ba người đang tìm ngươi. 20 Đứng lên,
xuống mà đi với họ, đừng ngần ngại gì, vì chính Ta đã sai họ đến.” 21 Ông
Phê-rô xuống với những người ấy và nói: ”Tôi đây chính là người các ông đang
tìm. Vì lý do nào các ông đến đây?” 22 Họ đáp: ”Ông đại đội trưởng
Co-nê-li-ô, một người công chính, kính sợ Thiên Chúa và được toàn dân Do-thái
chứng nhận là tốt, đã được một thánh thiên sứ linh báo là phải cho mời ông đến
nhà, để được nghe các lời ông dạy.” 23 Ông Phê-rô liền rước họ vào
và mời họ nghỉ lại.
24
Hôm
sau nữa, ông vào Xê-da-rê. Bấy giờ ông Co-nê-li-ô đang đợi; ông đã cho mời thân
bằng quyến thuộc đến. 25 Khi ông Phê-rô bước vào, thì ông Co-nê-li-ô
liền ra đón và phủ phục dưới chân ông mà bái lạy. 26 Nhưng ông
Phê-rô đỡ ông ấy lên và nói: ”Xin ông đứng dậy, vì bản thân tôi đây cũng chỉ là
người phàm.” 27 Rồi ông vừa nói chuyện với ông Co-nê-li-ô, vừa đi
vào. Thấy có đông người tụ họp ở đó, 28 ông nói với họ: ”Quý vị thừa
biết: giao du hay vào nhà một người khác chủng tộc là điều cấm kỵ đối với người
Do-thái. Nhưng tôi thì Thiên Chúa đã cho tôi thấy là không được gọi ai là ô uế
hay không thanh sạch. 29 Vì thế khi được mời, tôi đã đến mà không hề
chống cãi. Vậy tôi xin hỏi: vì lẽ nào quý vị đã mời tôi đến?” 30 Ông
Co-nê-li-ô trả lời: ”Cách đây bốn hôm, vào khoảng giờ này, lúc tôi đang đọc
kinh giờ chín tại nhà, bỗng có một người đứng trước mặt tôi, y phục rực rỡ. 31
Người ấy nói với tôi: ”Ông Co-nê-li-ô, Thiên Chúa đã nhận lời cầu nguyện
của ông và nhớ đến việc cứu trợ của ông. 32 Vậy ông hãy sai người đi
Gia-phô mời ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô; ông ấy trọ tại nhà ông Si-môn, thợ
thuộc da, ở gần bờ biển. 33 Lập tức tôi đã sai người đến mời ông, và
ông đã có lòng tốt đến đây. Vậy bây giờ tất cả chúng tôi đang ở trước mặt Thiên
Chúa, để nghe tất cả những gì Người đã truyền cho ông.”
Ông
Phê-rô giảng tại nhà ông Co-nê-li-ô
34
Bấy
giờ ông Phê-rô lên tiếng nói: ”Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị
người nào. 35 Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì
dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận.
36 “Người đã gửi đến cho
con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, là
Chúa của mọi người. 37 Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn
cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Ga-li-lê, sau phép rửa mà ông Gio-an rao giảng. 38
Quý vị biết rõ: Đức Giê-su xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng
Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân
giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở
với Người. 39 Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã
làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem. Họ đã treo Người lên
cây gỗ mà giết đi. 40 Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi
dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, 41 không phải trước mặt toàn
dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là
chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi
chết sống lại. 42 Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân,
và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán,
để xét xử kẻ sống và kẻ chết. 43 Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về
Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha
tội.”
Ông
Phê-rô làm phép rửa cho những người ngoại đầu tiên
44
Ông
Phê-rô còn đang nói những điều đó, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả
những người đang nghe lời Thiên Chúa. 45 Những tín hữu thuộc giới
cắt bì cùng đến đó với ông Phê-rô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban
Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, 46 bởi họ nghe những
người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Bấy giờ ông Phê-rô nói
rằng: 47 “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta,
thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” 48 Rồi
ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giê-su Ki-tô. Sau đó họ xin ông ở
lại ít ngày.
Chương 11
Ông
Phê-rô tự biện minh ở Giê-ru-sa-lem
1
Các
Tông Đồ và các anh em ở miền Giu-đê nghe tin là cả dân ngoại cũng đã đón nhận
lời Thiên Chúa. 2 Khi ông Phê-rô lên Giê-ru-sa-lem, các người thuộc
giới cắt bì chỉ trích ông, 3 họ nói: ”Ông đã vào nhà những kẻ không
cắt bì và cùng ăn uống với họ!”4 Bấy giờ ông Phê-rô bắt đầu trình bày cho họ
đầu đuôi sự việc, ông nói: 5 “Tôi đang cầu nguyện tại thành Gia-phô,
thì trong lúc xuất thần, tôi thấy thị kiến này: có một vật gì sà xuống, trông
như một tấm khăn lớn buộc bốn góc, từ trời thả xuống đến tận chỗ tôi. 6 Nhìn
chăm chú và xem xét kỹ, tôi thấy các giống vật bốn chân sống trên đất, các thú
rừng, rắn rết và chim trời. 7 Và tôi nghe có tiếng phán bảo tôi:
”Phê-rô, đứng dậy, làm thịt mà ăn! 8 Tôi đáp: ”Lạy Chúa, không thể được, vì
những gì ô uế và không thanh sạch không bao giờ lọt vào miệng con! 9 Có tiếng
từ trời phán lần thứ hai: ”Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch, thì
ngươi chớ gọi là ô uế! 10 Việc ấy xảy ra đến ba lần, rồi tất cả lại được kéo
lên trời.
11 “Ngay lúc đó, có ba
người đến nhà chúng tôi ở: họ được sai từ Xê-da-rê đến gặp tôi. 12 Thần
Khí bảo tôi đi với họ, đừng ngần ngại gì. Có sáu anh em đây cùng đi với tôi.
Chúng tôi đã vào nhà ông Co-nê-li-ô. 13 Ông này thuật lại cho chúng
tôi nghe việc ông đã thấy thiên sứ đứng trong nhà ông và bảo: ”Hãy sai người đi
Gia-phô mời ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô. 14 Ông ấy sẽ nói với ông
những lời nhờ đó ông và cả nhà ông sẽ được cứu độ.
15 “Tôi vừa mới bắt đầu
nói, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên họ, như đã ngự xuống trên chúng ta lúc
ban đầu. 16 Tôi sực nhớ lại lời Chúa nói rằng: ”Ông Gio-an thì làm
phép rửa bằng nước, còn anh em thì sẽ được rửa trong Thánh Thần. 17 Vậy,
nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì
chúng ta tin vào Chúa Giê-su Ki-tô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa?”
18
Nghe
thế, họ mới chịu im, và họ tôn vinh Thiên Chúa mà nói: ”Vậy ra Thiên Chúa cũng
ban cho các dân ngoại ơn sám hối để được sự sống!”
Thành
lập Hội Thánh An-ti-ô-khi-a
19
Vậy
những người phải tản mác vì cuộc bách hại xảy ra nhân vụ ông Tê-pha-nô, đi đến
tận miền Phê-ni-xi, đảo Sýp và thành An-ti-ô-khi-a. Họ không rao giảng lời Chúa
cho ai ngoài người Do-thái. 20 Nhưng trong nhóm, có mấy người gốc
Sýp và Ky-rê-nê; những người này, khi đến An-ti-ô-khi-a, đã giảng cho cả người
Hy-lạp nữa, loan Tin Mừng Chúa Giê-su cho họ. 21 Vì có bàn tay Chúa
ở với họ, nên một số đông đã tin và trở lại cùng Chúa.
22
Tin
ấy đến tai Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem, nên người ta cử ông Ba-na-ba đi
An-ti-ô-khi-a. 23 Khi tới nơi và thấy ơn Thiên Chúa như vậy, ông
Ba-na-ba mừng rỡ và khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa, 24 vì
ông là người tốt, đầy ơn Thánh Thần và lòng tin. Và đã có thêm một đám rất đông
theo Chúa.
25
Ông
Ba-na-ba trẩy đi Tác-xô tìm ông Sao-lô. 26 Tìm được rồi, ông đưa ông
Sao-lô đến An-ti-ô-khi-a. Hai ông cùng làm việc trong Hội Thánh ấy suốt một năm
và giảng dạy cho rất nhiều người. Chính tại An-ti-ô-khi-a mà lần đầu tiên các
môn đệ được gọi là Ki-tô hữu.
Ông
Ba-na-ba và ông Sao-lô được cử đi Giê-ru-sa-lem
27
Trong
những ngày ấy, có những ngôn sứ từ Giê-ru-sa-lem xuống An-ti-ô-khi-a. 28 Một
trong những người ấy tên là A-ga-bô đứng lên và được Thần Khí soi sáng, báo
trước là sẽ có nạn đói lớn trong khắp cả thiên hạ; đó là nạn đói xảy ra dưới
thời hoàng đế Cơ-lau-đi-ô. 29 Các môn đệ mới quyết định là mỗi người
tuỳ theo khả năng, sẽ gửi quà giúp đỡ anh em ở miền Giu-đê. 30 Và họ
đã làm việc ấy: gửi đến cho hàng kỳ mục qua tay ông Ba-na-ba và ông Sao-lô.
Chương 12
Ông
Phê-rô bị bắt và được cứu cách lạ lùng
1
Thời
kỳ ấy, vua Hê-rô-đê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. 2 Nhà
vua đã cho chém đầu ông Gia-cô-bê là anh ông Gio-an. 3 Thấy việc đó
làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phê-rô nữa. Bấy giờ đang
là tuần lễ Bánh Không Men. 4 Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục
và giao cho bốn tốp lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn người, định sau lễ Vượt Qua
sẽ điệu ông ra cho dân chúng. 5 Đang khi ông Phê-rô bị giam giữ như
thế, thì Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết
cho ông.
6
Trong
đêm trước ngày bị vua Hê-rô-đê đem ra xử, ông Phê-rô ngủ giữa hai người lính,
và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh. 7 Bỗng
thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, và ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên
sứ đập vào cạnh sườn ông Phê-rô, đánh thức ông và bảo: ”Đứng dậy mau đi!” Xiềng
xích liền tuột khỏi tay ông. 8 Thiên sứ nói tiếp: ”Thắt lưng lại và
xỏ dép vào!” Ông làm như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo ông: ”Khoác áo choàng vào và
đi theo tôi!”9 Ông liền theo ra, mà không biết việc thiên sứ làm đó có thật hay
không, cứ tưởng là mình thấy một thị kiến. 10 Qua vọng canh thứ
nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông tới trước cửa sắt thông ra phố.
Cửa tự động mở ra trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết một đường phố, thì
bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi. 11 Lúc ấy ông Phê-rô mới hoàn hồn
và nói: ”Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và
Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hê-rô-đê, và khỏi mọi điều dân Do-thái mong
muốn tôi phải chịu.”
12
Ý
thức được như vậy, ông đi đến nhà bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gio-an, cũng gọi là
Mác-cô; ở đó có khá đông người đang tụ họp và cầu nguyện. 13 Ông đập
cổng thì có một người tớ gái tên là Rô-đê ra nghe ngóng. 14 Nhận ra
tiếng ông Phê-rô, cô mừng quýnh, không mở cổng, mà lại chạy vào báo tin ông
Phê-rô đang đứng ngoài cổng. 15 Người ta bảo cô: ”Đồ khùng!” Nhưng
cô ấy cứ quả quyết là đúng như vậy. Họ nói: ”Thiên sứ của ông ấy đấy!”16 Trong
khi đó, ông Phê-rô tiếp tục đập cổng. Mở cổng ra, thấy ông, họ kinh ngạc. 17
Ông giơ tay làm hiệu bảo họ im lặng, rồi kể cho họ nghe Chúa đã đưa ông
ra khỏi tù thế nào. Ông nói: ”Xin báo tin này cho ông Gia-cô-bê và cho các anh
em.” Rồi ông ra đi, đến một nơi khác.
18
Sáng
ra, bọn lính nhốn nháo không ít: ông Phê-rô đã ra sao rồi? 19Vua Hê-rô-đê cho
truy nã ông: bởi không tìm ra, nhà vua tra hỏi lính canh và ra lệnh điệu họ đi
xử. Rồi nhà vua bỏ miền Giu-đê xuống ở Xê-da-rê.
Cái
chết của vua Hê-rô-đê
20
Nhà
vua đang tức tối với dân thành Tia và Xi-đôn. Họ đồng tâm nhất trí đến yết kiến
nhà vua. Sau khi đã mua chuộc được quan thị vệ của vua là Bơ-lát-tô, họ cầu
hoà, vì lãnh thổ của họ phải nhờ lãnh thổ của nhà vua cung cấp lương thực. 21
Đến ngày hẹn, vua Hê-rô-đê mặc cẩm bào, ngồi trên ngai, ngỏ lời với họ. 22
Dân hoan hô: ”Tiếng thần minh, chứ không phải tiếng người phàm!”23 Nhưng
ngay lúc đó, thiên sứ của Chúa đánh phạt nhà vua, vì nhà vua đã không tôn vinh
Thiên Chúa. Nhà vua bị giòi bọ rúc rỉa nên đã tắt thở.
Ông
Ba-na-ba và ông Sao-lô trở về An-ti-ô-khi-a
24
Trong
khi ấy, lời Thiên Chúa vẫn lan tràn và phát triển. 25 Còn ông
Ba-na-ba và ông Sao-lô, sau khi đã chu toàn công việc phục vụ tại Giê-ru-sa-lem
thì trở về, đem theo ông Gio-an, cũng gọi là Mác-cô.
Chương 13
III.
CUỘC HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO CỦA ÔNG BA-NA-BA VÀ ÔNG SAO-LÔ. CÔNG ĐỒNG
GIÊ-RU-SA-LEM
Ông
Ba-na-ba và ông Sao-lô được cử đi truyền giáo
1
Trong
Hội Thánh tại An-ti-ô-khi-a, có những ngôn sứ và thầy dạy, đó là các ông
Ba-na-ba, Si-mê-ôn biệt hiệu là Đen, Lu-ki-ô người Ky-rê-nê, Ma-na-en, bạn thời
thơ ấu của tiểu vương Hê-rô-đê, và Sao-lô. 2 Một hôm, đang khi họ làm
việc thờ phượng Chúa và ăn chay, thì Thánh Thần phán bảo: ”Hãy dành riêng
Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta, để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm.” 3
Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi.
Thầy
phù thủy Ê-ly-ma tại đảo Sýp
4
Vậy,
được Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Xê-lêu-ki-a, rồi từ đó đáp tàu đi đảo Sýp.
5 Đến Xa-la-min, hai ông loan báo lời Thiên Chúa trong các hội đường
người Do-thái. Có ông Gio-an giúp hai ông.
6
Các
ông đi xuyên qua đảo đến Pa-phô; ở đây các ông gặp một người phù thuỷ, mạo xưng
là ngôn sứ; ông này là người Do-thái, tên là Ba-giê-su. 7 Ông ta ở
với thống đốc Xéc-ghi-ô Phao-lô, một người thông minh. Thống đốc cho mời ông
Ba-na-ba và ông Sao-lô đến và ước ao được nghe lời Thiên Chúa. 8 Nhưng
người phù thủy ấy, tên Hy-lạp là Ê-ly-ma, chống lại hai ông và tìm cách ngăn
cản thống đốc tin Chúa. 9 Bấy giờ ông Sao-lô, cũng gọi là Phao-lô,
được đầy Thánh Thần, nhìn thẳng vào người phù thuỷ, 10 và nói: ”Hỡi
kẻ đầy mọi thứ mưu mô và mọi trò xảo trá, hỡi con cái ma quỷ và kẻ thù của tất
cả những gì là công chính, ngươi không bỏ thói bẻ cong những đường lối ngay
thẳng của Chúa sao? 11 Giờ đây, này bàn tay Chúa giáng xuống trên ngươi: ngươi
sẽ bị mù, không thấy ánh sáng mặt trời trong một thời gian.” Lập tức, mù loà và
tối tăm ập xuống trên người phù thuỷ, và ông ta phải lần mò tìm người dắt. 12
Bấy giờ, thấy việc xảy ra, thống đốc liền tin theo, vì ông rất đỗi ngạc
nhiên về giáo huấn của Chúa.
Hai
ông đến An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a
13
Từ
Pa-phô, ông Phao-lô và các bạn đồng hành vượt biển đến Péc-ghê miền
Pam-phy-li-a. Nhưng ông Gio-an bỏ các ông mà về Giê-ru-sa-lem. 14 Còn
hai ông thì rời Péc-ghê tiếp tục đi An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a. Ngày sa-bát,
hai ông vào hội đường ngồi tham dự. 15 Sau phần đọc sách Luật và
sách Các Ngôn Sứ, các trưởng hội đường cho người đến nói với hai ông: ”Thưa anh
em, nếu anh em muốn khuyên nhủ dân điều gì, xin cứ nói.”
Ông
Phao-lô giảng cho người Do-thái
16
Ông
Phao-lô đứng dậy, giơ tay xin mọi người lưu ý, rồi nói:
17
Thiên
Chúa của dân Ít-ra-en đã chọn cha ông chúng ta, đã làm cho dân này thành một
dân lớn trong thời họ cư ngụ ở đất Ai-cập, và đã giơ cánh tay mạnh mẽ của Người
mà đem họ ra khỏi đó. 18 Và trong thời gian chừng bốn mươi năm,
Người đã nuôi dưỡng họ trong sa mạc. 19 Rồi Người đã tiêu diệt bảy
dân tộc ở đất Ca-na-an và ban đất của chúng cho họ làm gia sản: 20 tất
cả đã xảy ra trong khoảng bốn trăm năm mươi năm. Sau đó, Người ban cho họ các
vị thủ lãnh cho đến thời ngôn sứ Sa-mu-en. 21 Rồi họ đòi có vua,
Thiên Chúa ban cho họ ông Sa-un, con ông Kít thuộc chi tộc Ben-gia-min, trị vì
bốn mươi năm. 22 Sau khi truất phế vua Sa-un, Người đã cho ông
Đa-vít xuất hiện làm vua cai trị họ. Người đã làm chứng về ông rằng: Ta đã tìm
được Đa-vít, con của Gie-sê, một người đẹp lòng Ta và sẽ thi hành mọi ý muốn
của Ta. 23 Từ dòng dõi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến
cho Ít-ra-en một Đấng Cứu Độ là Đức Giê-su. 24 Để dọn đường cho Đức
Giê-su, ông Gio-an đã rao giảng kêu gọi toàn dân Ít-ra-en chịu phép rửa tỏ lòng
sám hối. 25 Khi sắp hoàn thành sứ mệnh, ông Gio-an đã tuyên bố: ”Tôi
không phải là Đấng mà anh em tưởng đâu, nhưng kìa Đấng ấy đến sau tôi, và tôi
không đáng cởi dép cho Người.
26 “Thưa anh em, là con
cái thuộc dòng giống Áp-ra-ham, và thưa anh em đang hiện diện nơi đây, là những
người kính sợ Thiên Chúa, lời cứu độ này được gửi tới chúng ta. 27 Dân
cư thành Giê-ru-sa-lem và các thủ lãnh của họ đã không nhận biết Đức Giê-su;
khi kết án Người, họ đã làm cho ứng nghiệm những lời ngôn sứ đọc mỗi ngày
sa-bát. 28 Tuy không thấy Người có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi
Phi-la-tô xử tử. 29 Sau khi thực hiện tất cả mọi điều Kinh Thánh
chép về Người, họ đã hạ Người từ trên cây gỗ xuống và mai táng trong mồ. 30
Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy từ cõi chết. 31 Trong
nhiều ngày, Đức Giê-su đã hiện ra với những kẻ từng theo Người từ Ga-li-lê lên
Giê-ru-sa-lem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân.
32 “Còn chúng tôi, chúng
tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng
ta, 33 thì Người đã thực hiện cho chúng ta là con cháu các ngài, khi
làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong Thánh vịnh 2: Con là
Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con.
34 “Về việc Người đã làm
cho Đức Giê-su từ cõi chết sống lại, không còn phải hư nát nữa, thì Người phán
thế này: Ta sẽ ban cho các ngươi những ơn lộc đã hứa cho Đa-vít. 35 Vì
vậy ở chỗ khác, lại có lời rằng: Ngài sẽ không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát.
36 Thế mà vua Đa-vít, sau khi phục vụ ý định của Thiên Chúa trong
đời ông, đã an nghỉ, đã được chôn cất bên cạnh tổ tiên và phải hư nát. 37 Còn
Đấng mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy thì không phải hư nát.
38 “Vậy thưa anh em, xin
biết cho điều này: chính nhờ Đấng ấy mà ơn tha tội được loan báo cho anh em; và
trong khi anh em không thể được giải thoát khỏi tội lỗi mà trở nên công chính
nhờ tuân giữ Luật Mô-sê, 39 thì nhờ Người, mọi kẻ tin đều được nên
công chính.
40 “Vậy hãy coi chừng
kẻo lại xảy ra điều đã nói trong sách Các Ngôn Sứ: 41 Hỡi những kẻ
khinh mạn, hãy xem, hãy kinh ngạc sững sờ và biến mất đi! Vì chính vào thời các
ngươi, Ta sắp làm một việc, một việc mà các ngươi sẽ chẳng tin, nếu có ai kể
lại cho các ngươi.
42
Khi
ông Phao-lô và ông Ba-na-ba đi ra, người ta mời hai ông lại nói về đề tài ấy
ngày sa-bát sau. 43Tan buổi họp, có nhiều người Do-thái và nhiều người đạo
theo, tức là những người tôn thờ Thiên Chúa, đi theo hai ông. Hai ông nói
chuyện với họ và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Thiên Chúa.
Ông
Phao-lô và ông Ba-na-ba hướng về dân ngoại
44
Ngày
sa-bát sau, gần như cả thành tụ họp nghe lời Thiên Chúa. 45 Thấy
những đám đông như vậy, người Do-thái sinh lòng ghen tức, họ phản đối những lời
ông Phao-lô nói và nhục mạ ông. 46 Bấy giờ ông Phao-lô và ông
Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: ”Anh em phải là những người đầu tiên được nghe
công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không
xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. 47
Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn
dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.”
48
Nghe
thế, dân ngoại vui mừng tôn vinh lời Chúa, và tất cả những người đã được Thiên
Chúa định cho hưởng sự sống đời đời, đều tin theo. 49 Lời Chúa lan
tràn khắp miền ấy.
50
Nhưng
người Do-thái sách động nhóm phụ nữ hượng lưu đã theo đạo Do-thái, và những
thân hào trong thành, xúi giục họ ngược đãi ông Phao-lô và ông Ba-na-ba, và
trục xuất hai ông ra khỏi lãnh thổ của họ. 51 Hai ông liền giũ bụi
chân phản đối họ và đi tới I-cô-ni-ô. 52 Còn các môn đệ được tràn
đầy hoan lạc và Thánh Thần.
Chương 14
Loan
báo Tin Mừng tại I-cô-ni-ô
1
Tại
I-cô-ni-ô cũng xảy ra như vậy: hai ông vào hội đường người Do-thái và giảng
dạy, khiến rất đông người Do-thái và Hy-lạp tin theo.
2
Nhưng
những người Do-thái không tin theo thì xúi giục những người ngoại và làm cho họ
có ác cảm với các anh em.
3
Vậy
hai ông ở lại một thời gian khá lâu, mạnh dạn vì dựa vào Chúa, là Đấng chứng
nhận lời giảng về ân sủng của Người, khi cho tay các ông thực hiện những dấu lạ
điềm thiêng.
4
Quần
chúng trong thành chia rẽ, kẻ thì đứng về phía người Do-thái, kẻ thì đứng về
phía các Tông Đồ. 5 Những người ngoại và những người Do-thái, cùng
với các thủ lãnh của họ, mưu toan làm nhục và ném đá hai ông. 6 Biết
thế, hai ông lánh sang các thành miền Ly-cao-ni-a là Lýt-ra, Đéc-bê và các vùng
phụ cận; 7 và tại đó các ông tiếp tục loan báo Tin Mừng.
Ông
Phao-lô chữa một người bại chân
8
Tại
Lýt-ra, có một người bại hai chân ngồi đó; anh ta bị què từ khi lọt lòng mẹ,
chưa hề đi được bước nào. 9 Anh nghe ông Phao-lô giảng. Ông nhìn
thẳng vào anh và thấy anh có lòng tin để được cứu chữa, 10 thì lớn
tiếng nói: ”Anh trỗi dậy đi, hai chân đứng thẳng!” Anh đứng phắt dậy và đi lại
được.
11
Thấy
việc ông Phao-lô làm, đám đông hô lên bằng tiếng Ly-cao-ni-a: ”Thần linh mặc
lốt người phàm đã xuống với chúng ta!”12 Họ gọi ông Ba-na-ba là thần Dớt, ông
Phao-lô là thần Héc-mê, vì ông là người phát ngôn. 13 Thầy tư tế đền
thờ thần Dớt ở ngoại thành đem bò và vòng hoa đến trước cổng thành, và cùng với
đám đông, muốn dâng lễ tế. 14 Nghe biết được, hai tông đồ Ba-na-ba
và Phao-lô xé áo mình ra, xông vào đám đông mà kêu lên: 15 “Hỡi các
bạn, các bạn làm gì thế này? Chúng tôi đây cũng chỉ là người phàm, cùng thân
phận với các bạn. Chúng tôi loan Tin Mừng cho các bạn, là hãy bỏ những cái hão
huyền này đi, mà trở lại cùng Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã tạo thành trời đất
với biển khơi cùng muôn loài trong đó. 16 Trong những thế hệ đã qua,
Người để cho muôn dân đi theo đường lối của họ. 17 Tuy vậy Người
không ngừng làm chứng cho mình, khi thi ân giáng phúc, ban mưa từ trời và mùa
màng sung túc cho các bạn, và cho các bạn được no lòng, được an vui.” 18 Nói
vậy mà hai ông vẫn còn phải vất vả mới can được đám đông không dâng lễ tế cho
hai ông. 19 Bấy giờ có những người Do-thái từ An-ti-ô-khi-a và
I-cô-ni-ô đến, thuyết phục được đám đông. Họ ném đá ông Phao-lô rồi lôi ông ra
ngoài thành, vì tưởng ông đã chết. 20 Nhưng khi các môn đệ xúm lại
quanh ông, ông đứng dậy và vào thành. Hôm sau, ông trẩy đi Đéc-bê cùng với ông
Ba-na-ba.
21
Sau
khi đã loan Tin Mừng cho thành ấy và nhận khá nhiều người làm môn đệ, hai ông
trở lại Lýt-ra, I-cô-ni-ô và An-ti-ô-khi-a. 22 Hai ông củng cố tinh
thần các môn đệ, và khuyên nhủ họ giữ vững đức tin. Hai ông nói: ”Chúng ta phải
chịu nhiều gian khổ mới được vào Nước Thiên Chúa.” 23 Trong mỗi Hội
Thánh, hai ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, hai
ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin.
24
Hai
ông đi qua miền Pi-xi-đi-a mà đến miền Pam-phy-li-a, 25 rao giảng
lời Chúa tại Péc-ghê, rồi xuống Át-ta-li-a. 26 Từ đó hai ông vượt
biển về An-ti-ô-khi-a, là nơi trước đây các ông đã được giao phó cho ân sủng
của Thiên Chúa để làm công việc vừa mới hoàn thành.
27
Khi
tới nơi, hai ông tập họp Hội Thánh và kể lại tất cả những gì Thiên Chúa đã cùng
làm với hai ông, và việc Người đã mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin. 28
Rồi hai ông ở lại một thời gian khá lâu với các môn đệ.
Chương 15
Cuộc
tranh luận tại An-ti-ô-khi-a
1
Có
những người từ miền Giu-đê đến dạy anh em rằng: ”Nếu anh em không chịu phép cắt
bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ.” 2 Ông
Phao-lô và ông Ba-na-ba chống đối và tranh luận khá gay go với họ. Người ta bèn
quyết định cử ông Phao-lô, ông Ba-na-ba và một vài người khác lên Giê-ru-sa-lem
gặp các Tông Đồ và các kỳ mục, để bàn về vấn đề đang tranh luận này.
3
Các
ông được Hội Thánh tiễn đưa. Khi đi qua miền Phê-ni-xi và miền Sa-ma-ri, các
ông tường thuật việc các dân ngoại đã trở lại với Thiên Chúa, khiến tất cả các
anh em rất đỗi vui mừng. 4 Tới Giê-ru-sa-lem, các ông được Hội
Thánh, các Tông Đồ và kỳ mục tiếp đón, và các ông kể lại tất cả những gì Thiên
Chúa đã cùng làm với các ông.
Cuộc
tranh luận tại Giê-ru-sa-lem
5
Có
những người thuộc phái Pha-ri-sêu đã trở thành tín hữu, bấy giờ đứng ra nói
rằng: ”Phải làm phép cắt bì cho người ngoại và truyền cho họ giữ luật Mô-sê.” 6
Các Tông Đồ và các kỳ mục bèn họp nhau để xem xét vụ này.
Diễn
từ của ông Phê-rô
7
Sau
khi các ông đã tranh luận nhiều, ông Phê-rô đứng lên nói: ”Thưa anh em, anh em
biết: ngay từ những ngày đầu, Thiên Chúa đã chọn tôi giữa anh em, để các dân
ngoại được nghe lời Tin Mừng từ miệng tôi và tin theo. 8 Thiên Chúa
là Đấng thấu suốt mọi tâm can đã chứng tỏ Người chấp nhận họ, khi ban Thánh
Thần cho họ cũng như đã ban cho chúng ta. 9 Người không phân biệt
chút nào giữa chúng ta với họ, vì đã dùng đức tin để thanh tẩy lòng họ. 10
Vậy bây giờ, sao anh em lại thử thách Thiên Chúa, mà quàng vào cổ các môn
đệ một cái ách mà cả cha ông chúng ta lẫn chúng ta đã không có sức mang nổi? 11
Vả lại, chính nhờ ân sủng Chúa Giê-su mà chúng ta tin mình được cứu độ, cùng
một cách như họ.”
12
Bấy
giờ toàn thể hội nghị im lặng. Họ nghe ông Ba-na-ba và ông Phao-lô thuật lại
các dấu lạ điềm thiêng Thiên Chúa đã dùng hai ông mà làm giữa các dân ngoại.
Diễn
từ của ông Gia-cô-bê
13
Khi
hai ông dứt lời, ông Gia-cô-bê lên tiếng nói: ”Thưa anh em, xin nghe tôi đây: 14
Ông Si-môn đã thuật lại cho chúng ta rằng: ngay từ đầu, Thiên Chúa đã
đoái thương chọn trong các dân ngoại một dân mang danh Người. 15 Những
lời các ngôn sứ cũng phù hợp với điều ấy, như đã chép: 16 Sau đó, Ta
sẽ trở lại, và sẽ xây dựng lại lều Đa-vít đã sụp đổ; đống hoang tàn đó, Ta sẽ
xây dựng lại, và Ta sẽ dựng lại lều ấy. 17 Như vậy các người còn lại
và tất cả các dân ngoại được mang danh Ta sẽ tìm kiếm Chúa. Chúa phán như vậy, 18
Người là Đấng cho biết những điều ấy tự ngàn xưa.
19 “Vì vậy, phần tôi,
tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với
Thiên Chúa, 20 nhưng chỉ viết thư bảo họ kiêng những thức ăn ô uế vì
đã cúng cho ngẫu tượng, tránh gian dâm, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết
và kiêng ăn tiết. 21 Thật vậy, từ những thế hệ xa xưa, trong mỗi
thành ông Mô-sê đều có những người rao giảng: họ đọc lời của ông trong các hội
đường mỗi ngày sa-bát.”
Thư
của các Tông Đồ
22
Bấy
giờ các Tông Đồ và các kỳ mục, cùng với toàn thể Hội Thánh, quyết định chọn mấy
người trong các ông, để phái đi An-ti-ô-khi-a với ông Phao-lô và ông Ba-na-ba.
Đó là ông Giu-đa, biệt danh là Ba-sa-ba, và ông Xi-la, những người có uy tín
trong Hội Thánh. 23 Các ông trao cho phái đoàn bức thư sau:
24
Chúng
tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm,
mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang. 25
Vì thế, chúng tôi đã đồng tâm nhất trí quyết định chọn một số đại biểu,
và phái họ đến với anh em, cùng với những người anh em thân mến của chúng tôi
là ông Ba-na-ba và ông Phao-lô, 26 những người đã cống hiến cuộc đời
vì danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. 27 Vậy chúng tôi cử ông
Giu-đa và ông Xi-la đến trình bày trực tiếp những điều viết sau đây: 28 Thánh
Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác
ngoài những điều cần thiết này: 29 là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu
tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm. Anh
em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh.”
Các
đại biểu đến An-ti-ô-khi-a
30
Sau
khi được mọi người tiễn chân, các đại biểu xuống An-ti-ô-khi-a, triệu tập cộng
đoàn lại và trao bức thư. 31 Đọc thư xong, họ vui mừng vì lời khích
lệ đó. 32 Ông Giu-đa và ông Xi-la, vì cũng là ngôn sứ, đã nói chuyện
lâu với các anh em mà khuyên nhủ và làm cho họ được vững mạnh. 33 Hai
ông ở lại một thời gian, rồi các anh em lại tiễn chân hai ông trở về bình an
với những người đã phái hai ông đi. 34 Nhưng ông Xi-la quyết định ở
lại, chỉ một mình ông Giu-đa đi. 35 Còn ông Phao-lô và ông Ba-na-ba
thì ở lại An-ti-ô-khi-a. Cùng với nhiều người khác, hai ông giảng dạy và loan
báo Tin Mừng lời Chúa.
IV.
NHỮNG CUỘC HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO CỦA ÔNG PHAO-LÔ
Ông
Phao-lô và ông Ba-na-ba chia tay. Ông Phao-lô chọn ông Xi-la làm cộng tác viên
36
Ít
ngày sau, ông Phao-lô nói với ông Ba-na-ba: ”Ta hãy trở lại thăm các anh em
trong mỗi thành ta đã loan báo lời Chúa, xem họ ra sao.” 37 Ông
Ba-na-ba muốn đem theo cả ông Gio-an cũng gọi là Mác-cô. 38 Nhưng
ông Phao-lô thì nghĩ là một người đã từng bỏ hai ông từ khi ở miền Pam-phy-li-a
và đã không cộng tác với hai ông, thì không nên đem theo. 39 Hai bên
nổi nóng đến mức phải chia tay nhau. Ông Ba-na-ba đem ông Mác-cô theo, vượt
biển đi đảo Sýp. 40 Còn ông Phao-lô thì chọn ông Xi-la và lên đường,
sau khi đã được các anh em giao phó cho ân sủng Chúa.
Ông
Phao-lô chọn thêm ông Ti-mô-thê
41
Ông
đi qua miền Xy-ri và miền Ki-li-ki-a, và làm cho các Hội Thánh được vững mạnh.
Chương 16
1
Ông
đến Đéc-bê, rồi đến Lýt-ra. Ở đó có một môn đệ tên là Ti-mô-thê, mẹ là người
Do-thái đã tin Chúa, còn cha là người Hy-lạp. 2 Ông được các anh em
ở Lýt-ra và I-cô-ni-ô chứng nhận là tốt. 3 Ông Phao-lô muốn ông ấy
cùng lên đường với mình, nên đã đem ông đi làm phép cắt bì, vì nể các người
Do-thái ở những nơi ấy; thật vậy, ai cũng biết cha ông là người Hy-lạp.
4
Khi
đi qua các thành, các ông truyền lại cho các anh em những chỉ thị đã được các
Tông Đồ và kỳ mục ở Giê-ru-sa-lem ban bố, để họ tuân giữ.
5
Vậy
các Hội Thánh được vững mạnh trong đức tin và mỗi ngày thêm đông số.
Đi
qua miền A-xi-a
6
Các
ông đi qua miền Phy-ghi-a và Ga-lát, vì Thánh Thần ngăn cản không cho các ông
rao giảng lời Chúa ở A-xi-a. 7 Khi tới sát ranh giới My-xi-a, các
ông thử vào miền Bi-thy-ni-a, nhưng Thần Khí Đức Giê-su không cho phép. 8 Các
ông bèn đi qua miền My-xi-a mà xuống Trô-a.
9
Ban
đêm, ông Phao-lô thấy một thị kiến: một người miền Ma-kê-đô-ni-a đứng đó, mời
ông rằng: ”Xin ông sang Ma-kê-đô-ni-a giúp chúng tôi!”10 Sau khi ông thấy thị kiến
đó, lập tức chúng tôi tìm cách đi Ma-kê-đô-ni-a, vì hiểu ra rằng Thiên Chúa kêu
gọi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho họ.
Đến
Phi-líp-phê
11
Xuống
tàu ở Trô-a, chúng tôi đi thẳng đến đảo Xa-mốt-ra-kê, rồi hôm sau đến
Nê-a-pô-li. 12 Từ đó chúng tôi đi Phi-líp-phê là thị trấn quan trọng
nhất trong hạt ấy của tỉnh Ma-kê-đô-ni-a, và là thuộc địa Rô-ma. Chúng tôi ở
lại thành đó mấy ngày. 13 Ngày sa-bát, chúng tôi ra khỏi cổng thành,
men theo bờ sông, đến một chỗ chúng tôi đoán chừng có nơi cầu nguyện. Chúng tôi
ngồi xuống nói chuyện với những phụ nữ đang họp nhau tại đó. 14 Có
một bà tên là Ly-đi-a, quê ở Thy-a-ti-ra, chuyên buôn bán vải điều. Bà là người
tôn thờ Thiên Chúa; bà nghe, và Chúa mở lòng cho bà để bà chú ý đến những lời
ông Phao-lô nói. 15 Sau khi bà và cả nhà đã chịu phép rửa, bà mời
chúng tôi: ”Các ông đã coi tôi là một tín hữu Chúa, thì xin các ông đến ở nhà
tôi.” Và bà ép chúng tôi phải nhận lời.
Ông
Phao-lô và ông Xi-la bị bắt giam
16
Một
hôm, đang khi chúng tôi đi tới nơi cầu nguyện, một đầy tớ gái đón gặp chúng
tôi; cô ta bị quỷ thần ốp, và thuật bói toán của cô làm lợi nhiều cho các chủ
của cô. 17 Cô lẽo đẽo theo ông Phao-lô và chúng tôi mà kêu: ”Các ông
này là tôi tớ Thiên Chúa Tối Cao; họ loan báo cho các người con đường cứu độ.” 18
Cô cứ làm thế trong nhiều ngày. Bực mình, ông Phao-lô quay lại bảo quỷ:
”Nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, ta truyền cho ngươi phải xuất khỏi người này!”
Ngay lúc ấy, quỷ thần liền xuất.
19
Các
chủ của cô thấy hy vọng kiếm lợi đã tiêu tan, liền túm lấy ông Phao-lô và ông
Xi-la mà lôi đến quảng trường, đưa ra trước nhà chức trách. 20 Họ
điệu hai ông đến các quan toà và nói: ”Những người này gây xáo trộn trong thành
phố chúng ta; họ là người Do-thái, 21 và họ truyền bá những tập tục
mà người Rô-ma chúng ta không được phép chấp nhận và thi hành.” 22 Đám
đông nổi lên chống hai ông. Các quan toà, sau khi đã cho lột áo hai ông, thì ra
lệnh đánh đòn. 23 Khi đã đánh nhừ tử, họ tống hai ông vào ngục, và
truyền cho viên cai ngục phải canh giữ cẩn thận. 24 Được lệnh đó,
người này tống hai ông vào phòng giam sâu nhất và cùm chân lại.
Các
nhà truyền giáo được giải thoát cách lạ lùng
25
Vào
quãng nửa đêm, ông Phao-lô và ông Xi-la hát thánh ca cầu nguyện với Thiên Chúa;
các người tù nghe hai ông hát. 26 Bỗng nhiên có động đất mạnh, khiến
nền móng nhà tù phải rung chuyển. Ngay lúc đó, tất cả các cửa mở toang và xiềng
xích của mọi người buột tung ra. 27 Viên cai ngục choàng dậy và thấy
các cửa ngục mở toang, liền rút gươm định tự tử, vì tưởng rằng các người tù đã
trốn đi. 28 Nhưng ông Phao-lô lớn tiếng bảo: ”Ông chớ hại mình làm
chi: chúng tôi còn cả đây mà!”
29
Viên
cai ngục bảo lấy đèn, nhảy bổ vào, run rẩy sấp mình dưới chân ông Phao-lô và
ông Xi-la, 30 rồi đưa hai ông ra ngoài và nói: ”Thưa các ngài, tôi
phải làm gì để được cứu độ?” 31 Hai ông đáp: ”Hãy tin vào Chúa
Giê-su, thì ông và cả nhà sẽ được cứu độ.” 32 Hai ông liền giảng lời
Chúa cho viên cai ngục cùng mọi người trong nhà ông ấy. 33 Ngay lúc
đó, giữa ban đêm, viên cai ngục đem hai ông đi, rửa các vết thương, và lập tức
ông ấy được chịu phép rửa cùng với tất cả người nhà. 34 Rồi ông ấy
đưa hai ông lên nhà, dọn bàn ăn. Ông và cả nhà vui mừng vì đã tin Thiên Chúa.
35
Sáng
ngày ra, các quan toà sai vệ binh đến nói với viên cai ngục: ”Thả những người
ấy ra!”36 Viên cai ngục báo tin ấy cho ông Phao-lô: ”Các quan toà sai người đến
bảo thả các ngài. Vậy bây giờ xin các ngài ra và đi bình an.” 37 Nhưng
ông Phao-lô nói với họ: ”Chúng tôi là những công dân Rô-ma, không có án gì cả,
mà họ đã đánh đòn chúng tôi trước công chúng, rồi tống ngục. Bây giờ họ lại lén
lút tống chúng tôi ra! Không được! Họ phải đích thân đến đưa chúng tôi ra!”
38
Các
vệ binh trình lại những lời ấy cho các quan toà. Những ông này sợ hãi khi nghe
biết hai ông là công dân Rô-ma. 39 Họ bèn đến xin lỗi, rồi đưa hai
ông ra và xin hai ông rời khỏi thành phố. 40 Ra khỏi ngục, hai ông
đến nhà bà Ly-đi-a; sau khi gặp các anh em và khuyên nhủ họ, hai ông ra đi.
Chương 17
Ông
Phao-lô gặp khó khăn với người Do-thái tại Thê-xa-lô-ni-ca
1
Hai
ông đi ngang qua Am-phi-pô-li và A-pô-lô-ni-a, đến Thê-xa-lô-ni-ca, là nơi có
một hội đường của người Do-thái. 2 Theo thói quen, ông Phao-lô đến
với họ, và trong ba ngày sa-bát liền, ông thảo luận với họ; dựa vào Kinh Thánh,
ông 3 giải thích và xác định rằng Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình và sống lại từ
cõi chết; ông nói: ”Đấng Ki-tô ấy, chính là Đức Giê-su mà tôi rao giảng cho anh
em.” 4 Trong nhóm đó, có mấy người đã chịu tin theo và nhập đoàn với
ông Phao-lô và ông Xi-la; một số rất đông những người Hy-lạp tôn thờ Thiên Chúa
và không ít phụ nữ quý phái cũng làm như vậy.
5
Nhưng
người Do-thái sinh ghen tức, họ quy tụ một số du đãng đầu đường xó chợ, họp
thành đám đông, gây náo động trong thành. Họ kéo đến nhà ông Gia-xon, tìm ông
Phao-lô và ông Xi-la để đưa hai ông ra trước đại hội toàn dân. 6 Không
tìm thấy hai ông, họ bèn lôi ông Gia-xon và một số anh em ra trước nhà chức
trách thành phố, mà kêu la rằng: ”Những tên gây rối trong cả thiên hạ, nay vác
mặt đến đây, 7 thế mà Gia-xon lại chứa chấp chúng! Tất cả bọn này đi
ngược lại các chiếu chỉ của hoàng đế Xê-da, vì chúng nói rằng có một vua khác
là Giê-su.” 8 Nghe những lời ấy, đám đông và các nhà chức trách
thành phố xôn xao, 9 họ đòi ông Gia-xon và những người kia phải nộp
tiền ký quỹ rồi mới thả ra.
Lại
gặp khó khăn ở Bê-roi-a
10
Ngay
đêm ấy, các anh em tiễn ông Phao-lô và ông Xi-la đi Bê-roi-a. Đến nơi, các ông
vào hội đường người Do-thái. 11 Những người Do-thái ở đây cởi mở hơn
những người ở Thê-xa-lô-ni-ca: họ đón nhận lời Chúa với tất cả nhiệt tâm, ngày
ngày tra cứu Sách Thánh để xem có đúng như vậy không. 12 Vậy nhiều
người trong nhóm họ tin theo; về phía người Hy-lạp, cũng có nhiều phụ nữ thượng
lưu và nhiều đàn ông cũng tin theo.
13
Nhưng
khi người Do-thái ở Thê-xa-lô-ni-ca biết là ông Phao-lô cũng loan báo lời Thiên
Chúa ở Bê-roi-a nữa, thì họ lại đến đấy sách động và gây xôn xao trong dân
chúng. 14 Bấy giờ các anh em lập tức tiễn ông Phao-lô ra tận bờ
biển; còn ông Xi-la và ông Ti-mô-thê thì vẫn ở lại đó. 15 Các người
tháp tùng đưa ông Phao-lô đến A-thê-na rồi từ đó trở về, mang theo lệnh bảo ông
Xi-la và ông Ti-mô-thê phải đến với ông Phao-lô càng sớm càng tốt.
Ông
Phao-lô giảng ở A-thê-na
16
Trong
khi ông Phao-lô đợi hai ông ở A-thê-na, ông nổi giận vì thấy thành phố nhan
nhản những tượng thần. 17 Vậy ông thảo luận trong hội đường với
những người Do-thái và những người tôn thờ Thiên Chúa, và ngoài quảng trường
mỗi ngày với những người qua lại. 18 Có mấy triết gia thuộc phái
Khoái Lạc và phái Khắc Kỷ cũng trao đổi với ông. Kẻ thì nói: ”Con vẹt đó muốn
nói gì vậy?” Người khác lại bảo: ”Hình như ông ta rao giảng về những thần xa
lạ", vì ông Phao-lô loan báo Tin Mừng về Đức Giê-su và về sự Phục Sinh.
19
Họ
mời ông đi với họ đến Hội đồng A-rê-ô-pa-gô và nói: ”Chúng tôi có thể biết thứ
đạo lý mới ông dạy là gì không? 20 Quả ông có đem đến cho chúng tôi một số điều
lạ tai; vậy chúng tôi muốn biết những điều đó nghĩa là gì.” 21 Thật
thế, mọi người A-thê-na và kiều dân ở đó chỉ để thời giờ bàn tán hay nghe những
chuyện mới nhất.
Diễn
từ của ông Phao-lô trước Hội đồng A-rê-ô-pa-gô
22
Đứng
giữa Hội đồng A-rê-ô-pa-gô, ông Phao-lô nói: ”Thưa quý vị người A-thê-na, tôi
thấy rằng, về mọi mặt, quý vị là người sùng đạo hơn ai hết. 23 Thật
vậy, khi rảo qua thành phố và nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã
thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: ”Kính thần vô danh". Vậy Đấng
quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị.
24 “Thiên Chúa, Đấng tạo
thành vũ trụ và muôn loài trong đó, Đấng làm Chúa Tể trời đất, không ngự trong
những đền do tay con người làm nên. 25 Người cũng không cần được bàn
tay con người phục vụ, như thể Người thiếu thốn cái gì, vì Người ban cho mọi
loài sự sống, hơi thở và mọi sự. 26 Từ một người duy nhất, Thiên
Chúa đã tạo thành toàn thể nhân loại, để họ ở trên khắp mặt đất; Người đã vạch
ra những thời kỳ nhất định và những ranh giới cho nơi ở của họ. 27 Như
vậy là để họ tìm kiếm Thiên Chúa; may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Người, tuy rằng
thực sự Người không ở xa mỗi người chúng ta. 28 Thật vậy, chính ở
nơi Người mà chúng ta sống, cử động, và hiện hữu, như một số thi sĩ của quý vị
đã nói: ”Chúng ta cũng thuộc dòng giống của Người.
29 “Vậy, vì là dòng
giống Thiên Chúa, chúng ta không được nghĩ rằng thần linh giống như hình tượng
do nghệ thuật và tài trí con người chạm trổ trên vàng, bạc hay đá.
30 “Vậy mà Thiên Chúa nhắm
mắt bỏ qua những thời người ta không nhận biết Người. Bây giờ Người truyền cho
người ta rằng mọi người ở mọi nơi phải sám hối, 31 vì Người đã ấn
định một ngày để xét xử thiên hạ theo công lý, nhờ một người mà Người đã chỉ
định. Để bảo đảm điều ấy với mọi người, Thiên Chúa đã làm cho vị này sống lại
từ cõi chết.”
32
Vừa
nghe nói đến người chết sống lại, kẻ thì nhạo cười, kẻ thì nói: ”Để khi khác
chúng tôi sẽ nghe ông nói về vấn đề ấy.” 33 Thế là ông Phao-lô bỏ họ
mà đi. 34 Nhưng có mấy người đã theo ông và tin Chúa, trong số đó có
ông Đi-ô-ny-xi-ô, thành viên Hội đồng A-rê-ô-pa-gô và một phụ nữ tên là
Đa-ma-ri cùng những người khác nữa.
Chương 18
Thành
lập Hội Thánh Cô-rin-tô
1
Sau
đó, ông Phao-lô rời A-thê-na đi Cô-rin-tô. 2 Tại đây, ông gặp một
người Do-thái tên là A-qui-la, quê ở Pon-tô, vừa mới từ I-ta-li-a đến, cùng với
vợ là Pơ-rít-ki-la, vì hoàng đế Cơ-lau-đi-ô đã ra lệnh cho mọi người Do-thái
phải rời Rô-ma. Ông Phao-lô đến thăm hai ông bà, 3 và vì cùng nghề,
nên ông ở lại nhà họ và cùng làm việc: họ làm nghề dệt lều. 4 Mỗi
ngày sa-bát, ông thảo luận tại hội đường, cố thuyết phục cả người Do-thái lẫn
người Hy-lạp.
5
Khi
ông Xi-la và ông Ti-mô-thê từ Ma-kê-đô-ni-a xuống, thì ông Phao-lô chỉ lo
giảng, long trọng làm chứng cho người Do-thái biết rằng Đức Giê-su chính là
Đấng Ki-tô. 6 Bởi họ chống đối và nói lộng ngôn, nên ông giũ áo mà
bảo họ: ”Máu các người cứ đổ xuống trên đầu các người! Phần tôi, tôi vô can; từ
nay trở đi, tôi sẽ đến với người ngoại.” 7 Ông rời bỏ chỗ ấy đến nhà
một người ngoại tôn thờ Thiên Chúa, tên là Ti-xi-ô Giút-tô, ở sát bên hội đường.
8 Ông Cơ-rít-pô, trưởng hội đường, tin Chúa, cùng với cả nhà. Nhiều
người Cô-rin-tô đã nghe ông Phao-lô giảng cũng tin theo và chịu phép rửa. 9
Một đêm, Chúa bảo ông Phao-lô trong một thị kiến: ”Đừng sợ! Cứ nói đi,
đừng làm thinh, 10 vì Thầy ở với anh; không ai tra tay hại anh được,
vì Thầy có một dân đông đảo trong thành này.” 11 Ông Phao-lô ở lại
đó một năm rưỡi, dạy cho họ lời Thiên Chúa.
Người
Do-thái đưa ông Phao-lô ra toà
12
Thời
ông Ga-li-on làm thống đốc tỉnh A-khai-a, người Do-thái nhất tề nổi dậy chống
ông Phao-lô; họ đưa ông ra toà 13 và nói: ”Tên này xúi giục người ta tôn thờ
Thiên Chúa trái với Lề Luật.” 14 Ông Phao-lô toan mở miệng, thì ông
Ga-li-on đã nói với người Do-thái: ”Hỡi người Do-thái, giả như có gì là trái
Luật hay phạm pháp, thì lẽ đương nhiên là tôi sẽ chịu khó nghe các ông. 15
Nhưng đây lại là những chuyện tranh luận về giáo thuyết, danh từ, luật lệ
riêng của các ông, thì các ông hãy tự xét lấy. Phần tôi, tôi không muốn xét xử
những điều ấy.” 16 Rồi ông đuổi họ ra khỏi toà án. 17 Mọi
người liền túm lấy ông Xốt-thê-nê, trưởng hội đường, mà đánh túi bụi ngay trước
toà án. Nhưng ông Ga-li-on chẳng bận tâm gì về việc này.
Ông
Phao-lô trở về An-ti-ô-khi-a và bắt đầu cuộc hành trình thứ ba
18
Ông
Phao-lô còn ở lại Cô-rin-tô khá lâu, rồi từ giã các anh em và vượt biển sang
miền Xy-ri, cùng với bà Pơ-rít-ki-la và ông A-qui-la. Trước đó, tại Ken-khơ-rê,
ông xuống tóc, vì có lời khấn.
19
Khi
đến Ê-phê-xô, ông Phao-lô từ biệt hai người kia. Phần ông, ông vào hội đường và
thảo luận với người Do-thái. 20 Họ xin ông ở lại lâu hơn. Ông không
chịu. 21 Nhưng khi từ giã họ, ông nói: ”Để lần khác tôi sẽ trở lại
với các ông, nếu Thiên Chúa muốn.” Rồi ông xuống tàu rời Ê-phê-xô.
22
Đến
Xê-da-rê, ông lên Giê-ru-sa-lem chào thăm Hội Thánh, rồi xuống An-ti-ô-khi-a. 23
Sau khi ở đó một thời gian, ông ra đi, lần lượt qua miền Ga-lát và
Phy-ghi-a và làm cho tất cả các môn đệ được vững mạnh.
Ông
A-pô-lô
24
Có
một người Do-thái tên là A-pô-lô, quê ở A-lê-xan-ri-a, đã đến Ê-phê-xô; ông là
người có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh. 25 Ông đã được học
Đạo Chúa; với tâm hồn nồng nhiệt, ông thường lên tiếng giảng dạy chính xác
những điều liên quan đến Đức Giê-su, tuy rằng ông chỉ biết có phép rửa của ông
Gio-an. 26 Ông bắt đầu mạnh dạn rao giảng trong hội đường. Sau khi
nghe ông nói, bà Pơ-rít-ki-la và ông A-qui-la mời ông về nhà trình bày Đạo của
Thiên Chúa cho ông chính xác hơn.
27
Ông
A-pô-lô muốn sang miền A-khai-a thì các anh em khuyến khích ông và viết thư xin
các môn đệ tiếp đón ông. Khi đến nơi, nhờ ơn Chúa, ông đã giúp ích nhiều cho
các tín hữu, 28 vì ông mạnh mẽ và công khai bẻ lại người Do-thái,
dẫn Kinh Thánh mà minh chứng rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô.
Chương 19
Môn
đệ của ông Gio-an Tẩy Giả tại Ê-phê-xô
1
Trong
khi ông A-pô-lô ở Cô-rin-tô thì ông Phao-lô đi qua miền thượng du đến Ê-phê-xô.
Ông Phao-lô gặp một số môn đệ 2 và hỏi họ: ”Khi tin theo, anh em đã nhận được
Thánh Thần chưa?” Họ trả lời: ”Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa
hề được nghe nói.” 3 Ông hỏi: ”Vậy anh em đã được chịu phép rửa
nào?” Họ đáp: ”Phép rửa của ông Gio-an.” 4 Ông Phao-lô nói: ”Ông
Gio-an đã làm một phép rửa tỏ lòng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng đến sau
ông, tức là Đức Giê-su.” 5 Nghe nói thế, họ chịu phép rửa nhân danh
Chúa Giê-su. 6 Và khi ông Phao-lô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần
ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri. 7 Cả nhóm có
chừng mười hai người.
Thành
lập Hội Thánh Ê-phê-xô
8
Ông
Phao-lô vào hội đường, và trong vòng ba tháng, ông mạnh dạn rao giảng, thảo
luận về Nước Thiên Chúa và cố gắng thuyết phục họ. 9 Nhưng có một số
người cứng lòng, không chịu tin, lại còn nói xấu Đạo trước mặt cộng đoàn, nên
ông tuyệt giao với họ, tách các môn đệ ra; ngày ngày ông thảo luận trong trường
học của ông Ty-ran-nô. 10 Cứ như thế trong vòng hai năm, khiến mọi
người ở A-xi-a, Do-thái cũng như Hy-lạp, đều được nghe lời Chúa.
Những
người Do-thái làm nghề trừ quỷ
11
Thiên
Chúa dùng tay ông Phao-lô mà làm những phép lạ phi thường, 12 đến
nỗi người ta lấy cả khăn cả áo đã chạm đến da thịt ông mà đặt trên người bệnh,
và bệnh tật biến đi, tà thần cũng phải xuất.
13
Có
mấy người Do-thái đi đây đi đó làm nghề trừ quỷ cũng thử lấy danh Chúa Giê-su
mà chữa những người bị tà thần ám. Họ nói: ”Nhân danh Đức Giê-su mà ông Phao-lô
rao giảng, ta truyền lệnh cho các ngươi!”14 Ông Xi-kêu-a nọ, thượng tế Do-thái,
có bảy con trai thường làm như vậy. 15 Nhưng tà thần đáp: ”Đức
Giê-su, tao biết; ông Phao-lô, tao cũng tường; còn bay, bay là ai?” 16 Rồi
người bị tà thần ám xông vào họ, đè cả bọn xuống đánh túi bụi, khiến họ phải bỏ
nhà ấy mà chạy trốn, trần truồng và đầy thương tích. 17 Mọi người ở
Ê-phê-xô, Do-thái cũng như Hy-lạp, đều biết chuyện ấy; ai cũng sợ hãi, và thiên
hạ tán dương danh Chúa Giê-su.
18
Trong
số các tín hữu, có nhiều người đến thú nhận và kể ra những phù phép của mình. 19
Khá đông người làm nghề phù thủy đem gom sách vở mà đốt trước mặt mọi
người; tổng cộng số sách ấy trị giá tới năm mươi ngàn đồng bạc.
20
Như
vậy, nhờ uy lực của Chúa, lời Chúa cứ lan tràn và thêm vững mạnh.
V.
KẾT THÚC NHỮNG CUỘC HÀNH TRÌNH TRUYỀN GIÁO. ÔNG PHAO-LÔ, NGƯỜI TÙ CỦA ĐỨC KI-TÔ
Các
dự định của ông Phao-lô
21
Sau
khi những việc ấy xảy ra, ông Phao-lô được Thánh Thần thúc đẩy, quyết định đi
ngang qua miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a mà về Giê-ru-sa-lem; ông nói: ”Về
đó rồi, tôi còn phải đi thăm Rô-ma nữa.” 22 Ông sai hai người trong
các phụ tá của ông là Ti-mô-thê và Ê-rát-tô đi Ma-kê-đô-ni-a, còn ông thì ở lại
A-xi-a một thời gian.
Thợ
bạc Ê-phê-xô gây rối loạn
23
Vào
thời kỳ ấy, xảy ra một vụ rối loạn khá trầm trọng liên quan đến Đạo. 24 Số
là có một người thợ bạc tên là Đê-mết-ri-ô, chuyên làm mô hình đền nữ thần
Ác-tê-mi bằng bạc, và nhờ đó đem lại cho các người thợ một nguồn lợi không nhỏ.
25 Ông ta tập hợp họ và những người làm nghề tương tự, và nói: ”Thưa
các bạn, các bạn thừa biết là nhờ việc làm ăn này mà chúng ta phát tài. 26
Thế mà, như các bạn thấy và nghe biết: không những ở Ê-phê-xô này, mà gần
như trong khắp cả A-xi-a, tên Phao-lô ấy đã thuyết phục và làm cho một đám đông
đáng kể thay lòng đổi dạ, khi hắn nói rằng thần linh do tay người làm ra không
phải là thần. 27 Như vậy, có nguy cơ là không những ngành nghề của
chúng ta bị chê bai, mà cả đền thờ đại nữ thần Ác-tê-mi cũng bị người ta coi
chẳng ra gì, và rốt cuộc vị nữ thần mà toàn A-xi-a và cả thiên hạ tôn thờ cũng
chẳng còn gì là vĩ đại nữa.” 28 Nghe nói thế, họ đầy lòng căm phẫn
và thét lên: ”Vĩ đại thay, thần Ác-tê-mi của người Ê-phê-xô!”29 Cả thành đầy
hỗn loạn, người ta ùn ùn kéo đến hí trường, lôi theo ông Gai-ô và ông
A-rít-ta-khô là những người Ma-kê-đô-ni-a, bạn đồng hành của ông Phao-lô. 30
Ông Phao-lô muốn ra trước đại hội toàn dân, nhưng các môn đệ không cho. 31
Có mấy vị chức sắc tỉnh A-xi-a, là bạn của ông Phao-lô, cũng sai người
đến khuyên ông đừng liều mình đến hí trường.
32
Dân
chúng hò la, kẻ thế này, người thế nọ, đại hội trở nên hỗn loạn và phần đông
không biết mình họp nhau để làm gì. 33 Trong đám đông, có những
người nói rõ sự thể cho ông A-lê-xan-đê biết, vì người Do-thái đã đưa ông ra.
Ông A-lê-xan-đê giơ tay làm hiệu tỏ ý muốn thanh minh với đại hội toàn dân. 34
Nhưng khi nhận ra ông là người Do-thái, thì tất cả mọi người đồng thanh
hò hét suốt gần hai tiếng đồng hồ: ”Vĩ đại thay, thần Ác-tê-mi của người
Ê-phê-xô!”35 Sau cùng, viên thư ký thành phố trấn an đám đông, ông nói: ”Thưa
đồng bào Ê-phê-xô, có ai trong loài người lại không biết rằng thành Ê-phê-xô
được coi sóc đền thần Ác-tê-mi vĩ đại và giữ pho tượng của người từ trời rơi
xuống? 36 Điều đó hẳn không ai chối cãi được, vậy đồng bào hãy bình tĩnh và
đừng làm gì hấp tấp. 37 Đồng bào đã đưa những người này tới đây: họ
không phạm thánh cũng chẳng nói lộng ngôn chống nữ thần của chúng ta. 38 Vậy
nếu ông Đê-mết-ri-ô và các thợ cùng đi với ông có điều gì kiện cáo ai, thì đã
có các phiên toà, các thống đốc: họ cứ việc đưa nhau ra toà! 39 Ngoài ra, nếu
đồng bào còn điều gì khác muốn yêu cầu, thì đại hội hợp pháp sẽ giải quyết. 40
Quả thế, điều xảy ra hôm nay có nguy cơ làm chúng ta bị tố cáo về tội nổi
loạn, vì không có lý do nào để chúng ta có thể biện minh việc tụ họp này.” Nói
thế rồi, ông giải tán đại hội.
Chương 20
Ông
Phao-lô rời Ê-phê-xô
1
Sau
khi cuộc náo động chấm dứt, ông Phao-lô mời các môn đệ tới, khuyên nhủ họ, rồi
chào từ biệt và lên đường đi Ma-kê-đô-ni-a. 2 Ông đi qua miền đó, nói
nhiều lời khuyên nhủ các anh em, rồi tới Hy-lạp 3 và ở lại đó ba tháng. Vì
người Do-thái âm mưu hại ông, nên khi sắp xuống tàu sang miền Xy-ri, ông quyết
định qua ngã Ma-kê-đô-ni-a mà về. 4 Cùng đi với ông, có ông
Xô-pát-rô, con ông Py-rô, người Bê-roi-a, hai ông A-rít-ta-khô và Xê-cun-đô,
người Thê-xa-lô-ni-ca, ông Gai-ô, người Đéc-bê, ông Ti-mô-thê, hai ông
Ty-khi-cô và Trô-phi-mô, người A-xi-a. 5 Các ông này đã đi trước
chúng tôi và đợi chúng tôi ở Trô-a. 6 Phần chúng tôi, sau tuần lễ
Bánh Không Men, chúng tôi xuống tàu rời Phi-líp-phê, và năm ngày sau gặp các
ông ấy ở Trô-a và ở lại đó bảy ngày.
Ở
Trô-a, ông Phao-lô làm cho một người chết sống lại
7
Ngày
thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phao-lô thảo luận với
các anh em, và vì hôm sau ông ra đi, nên ông đã kéo dài cuộc nói chuyện đến mãi
nửa đêm. 8 Có khá nhiều đèn ở lầu trên, nơi chúng tôi họp nhau. 9
Một thiếu niên kia, tên là Êu-ty-khô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ
say trong khi ông Phao-lô vẫn cứ giảng. Vì ngủ say, nên nó ngã từ tầng thứ ba
xuống. Vực lên, thì nó đã chết. 10 Ông Phao-lô xuống, cúi mình trên
nó, ôm lấy và nói: ”Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!”11 Rồi ông lên, bẻ bánh và
ăn. Ông còn nói chuyện khá lâu, mãi đến tảng sáng mới ra đi. 12 Người
ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít.
Từ
Trô-a đến Mi-lê-tô
13
Chúng
tôi xuống tàu trước đi Át-xô, là nơi chúng tôi sẽ đón ông Phao-lô; ông đã sắp
đặt như thế, vì ông tính đi đường bộ. 14 Khi ông gặp lại chúng tôi ở
Át-xô, chúng tôi đón ông xuống tàu rồi đi tới Mi-ty-len. 15 Từ đó
chúng tôi vượt biển và hôm sau tới ngang đảo Khi-ô. Hôm sau nữa, chúng tôi cặp
bến ở đảo Xa-mốt, rồi ngày kế đó đến Mi-lê-tô, 16 vì ông Phao-lô đã
quyết định không ghé Ê-phê-xô, để khỏi mất thời giờ ở A-xi-a. Ông vội vã như thế
để, nếu có thể, thì có mặt ở Giê-ru-sa-lem ngày lễ Ngũ Tuần.
Từ
giã các kỳ mục trong Hội Thánh Ê-phê-xô
17
Từ
Mi-lê-tô, ông sai người đi mời các kỳ mục trong Hội Thánh Ê-phê-xô. 18 Khi
họ đến gặp ông, ông nói với họ:
19
Khi
phục vụ Chúa, tôi đã hết lòng khiêm tốn, đã nhiều lần phải rơi lệ, đã gặp bao
thử thách do những âm mưu của người Do-thái. 20 Anh em biết tôi đã
không bỏ qua một điều gì có ích cho anh em; trái lại tôi đã giảng cho anh em và
dạy anh em ở nơi công cộng cũng như tại chốn tư gia. 21 Tôi đã
khuyến cáo cả người Do-thái lẫn người Hy-lạp phải trở về với Thiên Chúa, và tin
vào Đức Giê-su, Chúa chúng ta.
22 “Giờ đây, bị Thần Khí
trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó,
23 trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến
cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. 24 Nhưng
mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng
đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giê-su, là long trọng làm chứng cho
Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa.
25 “Giờ đây tôi biết
rằng: tất cả anh em, những người tôi đã đến thăm để rao giảng Nước Thiên Chúa,
anh em sẽ không còn thấy mặt tôi nữa. 26 Vì vậy, hôm nay tôi xin
tuyên bố với anh em rằng: nếu có ai trong anh em phải hư mất, thì tôi vô can. 27
Thật tôi đã không bỏ qua điều gì, trái lại đã rao giảng cho anh em tất cả
ý định của Thiên Chúa.
28 “Anh em hãy ân cần lo
cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi
sóc, hãy chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của
chính mình.
29 “Phần tôi, tôi biết
rằng khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không
tha đàn chiên. 30 Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những
người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng. 31
Vì vậy anh em phải canh thức, và nhớ rằng, suốt ba năm, ngày đêm tôi đã
không ngừng khuyên bảo mỗi người trong anh em, lắm khi phải rơi lệ.
32 “Giờ đây, tôi xin phó
thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, là lời có sức xây dựng
và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được
thánh hiến.
33 “Vàng bạc hay quần áo
của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham. 34 Chính anh em biết rõ: những gì
cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. 35
Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng
cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì
có phúc hơn là nhận.”
36
Nói
thế rồi, ông Phao-lô cùng với tất cả các anh em quỳ gối xuống cầu nguyện. 37
Ai nấy oà lên khóc và ôm cổ ông mà hôn. 38 Họ đau đớn nhất vì
lời ông vừa nói là họ sẽ không còn thấy mặt ông nữa. Rồi họ tiễn ông xuống tàu.
Chương 21
Ông
Phao-lô lên Giê-ru-sa-lem
1
Đến
khi dứt ra được mà xuống tàu, chúng tôi đi thẳng đến đảo Cô, ngày hôm sau đến
đảo Rô-đô, rồi từ đó đến Pa-ta-ra. 2 Gặp chuyến đi Phê-ni-xi, chúng
tôi xuống tàu và ra khơi. 3 Khi trông thấy đảo Sýp, chúng tôi đi
vòng phía nam mà hướng về Xy-ri, và cập bến tại Tia, vì tàu phải đổ hàng ở đó. 4
Tìm gặp được các môn đệ, chúng tôi ở lại đó bảy ngày. Được Thần Khí soi
sáng, họ nói với ông Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem. 5 Nhưng khi hết
thời gian ở đó, chúng tôi ra đi và lên đường, có tất cả các môn đệ cùng với vợ
con họ tiễn chân đến tận ngoại thành. Chúng tôi quỳ xuống trên bãi biển mà cầu
nguyện. 6 Sau khi từ biệt nhau, chúng tôi xuống tàu, còn họ thì trở
về nhà.
7
Phần
chúng tôi, để kết thúc chuyến vượt biển này, chúng tôi đi từ Tia đến
Pơ-tô-lê-mai; chúng tôi chào thăm các anh em ở đó và ở lại với họ một ngày. 8
Hôm sau chúng tôi lên đường và đến Xê-da-rê. Chúng tôi vào nhà ông
Phi-líp-phê, người loan báo Tin Mừng, thuộc nhóm Bảy người, và ở lại với ông. 9
Ông này có bốn người con gái đồng trinh được ơn nói tiên tri. 10 Đang
khi chúng tôi ở lại đó nhiều ngày, có một ngôn sứ tên là A-ga-bô từ miền Giu-đê
xuống. 11 Ông đến thăm chúng tôi và lấy dây lưng của ông Phao-lô tự
trói chân tay lại và nói: ”Đây là điều Thánh Thần phán: người có dây lưng này
sẽ bị người Do-thái trói lại như thế ở Giê-ru-sa-lem mà nộp vào tay người
ngoại.” 12 Nghe vậy, chúng tôi và các người địa phương nài xin ông
Phao-lô đừng lên Giê-ru-sa-lem. 13 Bấy giờ ông Phao-lô trả lời: ”Có
gì mà anh em phải khóc và làm tan nát trái tim tôi? Phần tôi, tôi sẵn sàng
không những để cho người ta trói, mà còn chịu chết tại Giê-ru-sa-lem vì danh
Chúa Giê-su.” 14 Không thể thuyết phục được ông, chúng tôi đành thôi
và nói: ”Xin cho ý Chúa được thể hiện!”
Ông
Phao-lô tới Giê-ru-sa-lem
15
Sau
mấy ngày đó, khi đã chuẩn bị xong, chúng tôi lên Giê-ru-sa-lem. 16 Có
những môn đệ từ Xê-da-rê cùng đi với chúng tôi; họ dẫn chúng tôi đến trọ nhà
ông Mơ-na-xon người Sýp, một môn đệ kỳ cựu.
17
Khi
chúng tôi đến Giê-ru-sa-lem, các anh em niềm nở đón tiếp chúng tôi. 18 Hôm
sau, ông Phao-lô cùng đi với chúng tôi đến nhà ông Gia-cô-bê, ở đó có đông đủ
các kỳ mục đang họp. 19 Sau khi chào hỏi, ông Phao-lô kể lại từng
chi tiết những gì Thiên Chúa đã dùng việc phục vụ của ông mà làm nơi các dân
ngoại. 20 Nghe nói thế, họ tôn vinh Thiên Chúa, rồi nói với ông Phao-lô:
”Thưa anh, anh thấy có hàng vạn người Do-thái đã tin theo, và tất cả đều nhiệt
thành đối với Luật Mô-sê. 21 Thế mà họ đã nghe nói về anh rằng: anh
dạy tất cả những người Do-thái sống giữa các dân ngoại phải bỏ ông Mô-sê, anh
bảo họ đừng làm phép cắt bì cho con cái, và đừng giữ các tục lệ nữa. 22 Vậy
phải làm gì? Thế nào người ta cũng sẽ nghe biết là anh đã tới. 23 Vậy
xin anh làm như chúng tôi nói với anh đây: chúng tôi có bốn người đang phải giữ
lời khấn; 24 anh hãy đem họ theo mà cùng làm nghi lễ tẩy uế với họ,
và đài thọ chi phí cho họ để họ có thể xuống tóc. Như vậy ai nấy sẽ biết rằng
những điều họ đã nghe nói về anh chỉ là chuyện không đâu; trái lại, chính anh
cũng ăn ở như người tuân giữ Lề Luật. 25 Còn về những người ngoại đã
tin theo, thì chúng tôi đã viết thư thông báo những quyết định của chúng tôi,
là họ phải kiêng: ăn đồ cúng cho ngẫu tượng, ăn tiết, ăn thịt loài vật không
cắt tiết, và tránh gian dâm.”
26
Bấy
giờ ông Phao-lô đem bốn người kia theo, và ngày hôm sau ông cùng làm nghi lễ
tẩy uế với họ. Rồi ông vào Đền Thờ và loan báo ngày kết thúc thời gian tẩy uế,
là ngày phải dâng lễ vật cầu cho mỗi người trong nhóm họ.
Ông
Phao-lô bị bắt
27
Khi
sắp hết thời gian bảy ngày, những người Do-thái từ A-xi-a đến thấy ông trong
Đền Thờ thì sách động toàn thể đám đông và tra tay bắt ông. 28 Họ
tri hô: ”Hỡi đồng bào Ít-ra-en, giúp một tay nào! Nó kia kìa, tên vẫn đi mọi
nơi dạy cho mọi người những điều phản dân, phạm đến Lề Luật và Nơi Thánh này!
Nó còn đem cả mấy người Hy-lạp vào Đền Thờ mà làm cho Nơi Thánh này ra ô uế.” 29
Họ nói thế là vì trước đó họ đã thấy ông Trô-phi-mô, người Ê-phê-xô, cùng
đi với ông Phao-lô trong thành, và họ nghĩ ông Phao-lô đã đưa ông ấy vào Đền
Thờ.
30
Cả
thành phố sôi động và dân đổ xô đến. Họ túm lấy ông Phao-lô, lôi ra khỏi Đền
Thờ; lập tức người ta đóng các cửa Đền Thờ lại. 31 Họ còn đang tìm
cách giết ông, thì có tin báo lên cho vị chỉ huy cơ đội: ”Cả Giê-ru-sa-lem náo
động!”32 Lập tức, ông ta huy động một số binh sĩ và đại đội trưởng, và xông vào
đám đông. Vừa thấy vị chỉ huy và binh sĩ, thì họ thôi không đánh ông Phao-lô
nữa. 33 Bấy giờ vị chỉ huy lại gần, bắt ông và ra lệnh lấy hai cái
xiềng còng ông lại, rồi hỏi cho biết ông là ai và đã làm gì. 34 Đám
đông la hét, kẻ thế này, người thế nọ. Vì quá ồn ào, vị chỉ huy không thể biết
được điều gì chắc chắn, nên mới ra lệnh đem ông Phao-lô về đồn. 35 Khi
đến bậc thềm, binh sĩ phải khiêng ông đi, vì đám đông quá hung bạo. 36 Dân
cứ theo sau cả đám mà hò la: ”Giết nó đi!”
37
Khi
sắp bị đem vào đồn, ông Phao-lô nói với vị chỉ huy: ”Tôi có được phép nói với
ông một lời chăng?” Ông này đáp: ”Ông biết tiếng Hy-lạp à? 38 Vậy ra ông không
phải là tên Ai-cập, trước đây ít lâu, đã xúi bốn ngàn tên khủng bố nổi loạn và
dẫn chúng vào sa mạc hay sao?” 39 Ông Phao-lô nói: ”Tôi đây là người
Do-thái, quê ở Tác-xô miền Ki-li-ki-a, công dân một thành không phải là không
có tiếng tăm. Xin ông cho phép tôi ngỏ lời với dân.” 40 Được vị chỉ
huy cho phép, ông Phao-lô đứng trên bậc thềm giơ tay làm hiệu cho dân. Mọi
người im phăng phắc; ông Phao-lô nói với họ bằng tiếng Híp-ri:
Chương 22
Ông
Phao-lô nói với người Do-thái ở Giê-ru-sa-lem (Cv 9:1-19; 26:12-18 )
1 “Thưa quý vị là những
bậc cha anh, xin nghe những lời biện bạch tôi nói với quý vị bây giờ đây.” 2
Khi nghe thấy ông nói với họ bằng tiếng Híp-ri, họ càng yên lặng hơn. Ông
nói tiếp: 3 “Tôi là người Do-thái, sinh ở Tác-xô miền Ki-li-ki-a,
nhưng tôi đã được nuôi dưỡng tại thành này; dưới chân ông Ga-ma-li-ên, tôi đã
được giáo dục để giữ Luật cha ông một cách nghiêm ngặt. Tôi cũng đã nhiệt thành
phục vụ Thiên Chúa như tất cả các ông hiện nay. 4 Tôi đã bắt bớ Đạo
này, không ngần ngại giết kẻ theo Đạo, đã đóng xiềng và tống ngục cả đàn ông
lẫn đàn bà, 5 như cả vị thượng tế lẫn toàn thể hội đồng kỳ mục có
thể làm chứng cho tôi. Tôi còn được các vị ấy cho thư giới thiệu với anh em ở
Đa-mát, và tôi đi để bắt trói những người ở đó, giải về Giê-ru-sa-lem trừng
trị.
6 “Đang khi tôi đi
đường và đến gần Đa-mát, thì vào khoảng trưa, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng
chói lọi từ trời chiếu xuống bao phủ lấy tôi. 7 Tôi ngã xuống đất và
nghe có tiếng nói với tôi: ”Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta? 8 Tôi đáp:
”Thưa Ngài, Ngài là ai? Người nói với tôi: ”Ta là Giê-su Na-da-rét mà ngươi
đang bắt bớ. 9 Những người cùng đi với tôi trông thấy có ánh sáng,
nhưng không nghe thấy tiếng Đấng đang nói với tôi. 10 Tôi nói: ”Lạy
Chúa, con phải làm gì? Chúa bảo tôi: ”Hãy đứng dậy, đi vào Đa-mát, ở đó người
ta sẽ nói cho anh biết tất cả những gì Thiên Chúa đã chỉ định cho anh phải làm.
11 Vì ánh sáng chói loà kia làm cho tôi không còn trông thấy nữa,
nên tôi đã được các bạn đồng hành cầm tay dắt vào Đa-mát.
12 “Ở đó, có ông
Kha-na-ni-a, một người sùng đạo, sống theo Lề Luật và được mọi người Do-thái ở
Đa-mát chứng nhận là tốt. 13 Ông đến, đứng bên tôi và nói: ”Anh
Sa-un, anh thấy lại đi! Ngay lúc đó, tôi thấy lại được và nhìn ông. 14 Ông
nói: ”Thiên Chúa của cha ông chúng ta đã chọn anh để anh được biết ý muốn của
Người, được thấy Đấng Công Chính và nghe tiếng từ miệng Đấng ấy phán ra. 15
Quả vậy, anh sẽ làm chứng nhân cho Đấng ấy trước mặt mọi người về các
điều anh đã thấy và đã nghe. 16 Vậy bây giờ anh còn chần chừ gì nữa?
Anh hãy đứng lên, chịu phép rửa và thanh tẩy mình cho sạch tội lỗi, miệng kêu
cầu danh Người.
17 “Khi trở về
Giê-ru-sa-lem, đang lúc tôi cầu nguyện trong Đền Thờ, thì tôi xuất thần 18 và
thấy Chúa bảo tôi: ”Mau lên, hãy rời khỏi Giê-ru-sa-lem gấp, vì chúng sẽ không
nhận lời anh làm chứng về Thầy đâu. 19 Tôi thưa: ”Lạy Chúa, chính họ
biết rõ con đây đã đến từng hội đường bắt giam và đánh đòn những kẻ tin Chúa. 20
Khi người ta đổ máu ông Tê-pha-nô, chứng nhân của Chúa, thì chính con
cũng có mặt, con tán thành và giữ áo cho những kẻ giết ông ấy. 21 Chúa
bảo tôi: ”Hãy đi, vì Thầy sẽ sai anh đến với các dân ngoại ở phương xa.
Ông
Phao-lô, công dân Rô-ma
22
Đám
đông lắng nghe ông Phao-lô nói tới đó thì hét lên: ”Hãy bứng khỏi mặt đất loại
người như thế! Nó không đáng sống!”23 Họ hò la, phất áo và tung bụi lên trời. 24
Vị chỉ huy cơ đội ra lệnh đem ông Phao-lô vào đồn và truyền đánh đòn tra
tấn, để biết lý do tại sao người ta hò hét phản đối ông ấy như vậy. 25 Họ
vừa nọc ông Phao-lô ra để đánh đòn, thì ông nói với viên đại đội trưởng đứng
gần đó: ”Một công dân Rô-ma chưa được xét xử, các ông có được phép đánh đòn
không?” 26 Nghe vậy, viên đại đội trưởng đi báo cáo cho vị chỉ huy
rằng: ”Ông định làm gì bây giờ? Đương sự là công dân Rô-ma!”27 Vị chỉ huy liền
đến gặp ông Phao-lô và hỏi: ”Ông nói cho tôi biết: ông là công dân Rô-ma sao?”
Ông Phao-lô trả lời: ”Phải.” 28 Vị chỉ huy nói tiếp: ”Tôi đây, tôi
phải tốn bao nhiêu tiền của mới mua được quyền công dân ấy.” Ông Phao-lô đáp:
”Còn tôi, sinh ra đã có quyền ấy rồi.” 29 Lập tức những người sắp
tra tấn ông rút lui, còn vị chỉ huy thì phát sợ, vì biết rằng ông Phao-lô là
công dân Rô-ma mà mình lại đã còng ông ấy.
Ông
Phao-lô ra trước Thượng Hội Đồng
30
Hôm
sau, vì muốn biết chắc chắn người Do-thái tố cáo ông Phao-lô về điều gì, vị chỉ
huy tháo xiềng cho ông và ra lệnh cho các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng
họp lại, rồi ông đưa ông Phao-lô từ đồn xuống, để ra trước mặt họ.
Chương 23
1
Ông
Phao-lô nhìn thẳng vào Thượng Hội Đồng rồi nói: ”Thưa anh em, cho đến ngày hôm
nay, tôi đã ăn ở trước mặt Thiên Chúa với một lương tâm hoàn toàn ngay thẳng.” 2
Nhưng thượng tế Kha-na-ni-a truyền cho những người phụ tá đánh vào miệng
ông Phao-lô. 3 Bấy giờ ông Phao-lô nói với ông ấy: ”Bức tường tô vôi
kia, Thiên Chúa sẽ đánh ông! Ông ngồi xử tôi chiếu theo Lề Luật, mà ông lại ra
lệnh đánh tôi trái với Lề Luật!”4 Những người phụ tá nói: ”Vị thượng tế của
Thiên Chúa mà mi dám nguyền rủa sao?” 5 Ông Phao-lô trả lời: ”Thưa
anh em, tôi không biết đó là thượng tế; quả có lời chép: Ngươi không được
nguyền rủa người đầu mục trong dân.”
6
Ông
Phao-lô biết rằng một phần Thượng Hội Đồng thuộc phái Xa-đốc, còn phần kia
thuộc phái Pha-ri-sêu, nên ông nói lớn tiếng giữa hội nghị: ”Thưa anh em, tôi
là người Pha-ri-sêu, thuộc dòng dõi Pha-ri-sêu; chính vì hy vọng rằng kẻ chết
sẽ sống lại mà tôi bị đưa ra xét xử.” 7 Ông vừa nói thế, thì người
Pha-ri-sêu và người Xa-đốc chống đối nhau, khiến hội nghị chia rẽ. 8 Thật
vậy, người Xa-đốc chủ trương rằng chẳng có sự sống lại, chẳng có thiên sứ hay
quỷ thần; còn người Pha-ri-sêu thì lại tin là có. 9 Người ta la lối
om sòm. Có mấy kinh sư thuộc phái Pha-ri-sêu đứng lên phản đối mạnh mẽ: ”Chúng
tôi không thấy người này có gì là xấu. Biết đâu một vị thần hay một thiên sứ đã
nói với ông ấy?” 10 Hai bên chống đối gay gắt đến nỗi vị chỉ huy sợ
người ta xé xác ông Phao-lô, nên mới ra lệnh cho lính xuống lôi ông ra khỏi đám
người đó mà đưa về đồn.
11
Đêm
ấy Chúa đến bên ông Phao-lô và nói: ”Hãy vững lòng! Con đã long trọng làm chứng
cho Thầy ở Giê-ru-sa-lem thế nào, thì con cũng phải làm chứng như vậy tại Rô-ma
nữa.”
Người
Do-thái âm mưu giết ông Phao-lô
12
Sáng
ngày ra, người Do-thái âm mưu với nhau. Họ thề độc là sẽ không ăn không uống,
bao lâu chưa giết được ông Phao-lô. 13 Có trên bốn mươi người đã
cùng thề với nhau như vậy. 14 Họ đến gặp các thượng tế và kỳ mục mà
nói: ”Chúng tôi đã thề độc là sẽ không ăn uống gì, bao lâu chưa giết được tên
Phao-lô. 15 Vậy bây giờ xin quý vị, cùng với Thượng Hội Đồng, đề
nghị vị chỉ huy cho dẫn nó xuống với quý vị, lấy cớ là để điều tra về nó cho
cặn kẽ hơn. Phần chúng tôi, chúng tôi sẵn sàng giết nó trước khi nó tới.”
16
Nhưng
người con trai của bà chị ông Phao-lô nghe biết âm mưu đó, liền đến đồn và vào
báo tin cho ông Phao-lô. 17 Ông Phao-lô mời viên đại đội trưởng đến
và nói: ”Xin ông dẫn cháu này đến gặp vị chỉ huy, vì cháu có điều phải báo cáo
cho ông ấy.” 18 Vậy viên đại đội trưởng đem cậu bé đi theo, dẫn đến
gặp vị chỉ huy mà trình rằng: ”Tù nhân Phao-lô đã mời tôi đến và xin tôi dẫn
cậu này đến gặp ông; cậu ấy có điều phải nói với ông.” 19 Vị chỉ huy
nắm tay cậu bé, đưa riêng ra một nơi mà hỏi: ”Em có điều gì phải báo cáo cho ta
biết?” 20 Cậu bé trả lời: ”Người Do-thái đã đồng ý với nhau là sẽ
xin ông ngày mai cho điệu ông Phao-lô xuống Thượng Hội Đồng, lấy cớ là để tra
hỏi cho cặn kẽ hơn. 21 Vậy xin ông đừng tin họ, vì có trên bốn mươi
người trong bọn họ đang phục sẵn để hại ông ấy; họ đã thề độc là sẽ không ăn
không uống, bao lâu chưa giết được ông ấy. Hiện giờ họ sẵn sàng, chỉ còn chờ
ông chấp thuận.” 22 Vị chỉ huy cho cậu bé về và căn dặn: ”Đừng nói
với ai là em đã tiết lộ những chuyện đó cho ta.”
Ông
Phao-lô bị giải đi Xê-da-rê
23
Ông
gọi hai viên đại đội trưởng đến và bảo: ”Các anh hãy chuẩn bị hai trăm bộ binh,
bảy mươi kỵ binh và hai trăm khinh binh, để ngay giờ thứ ba đêm nay đi Xê-da-rê.
24 Cũng phải có sẵn ngựa cho ông Phao-lô, để đưa ông ấy an toàn đến
với tổng trấn Phê-lích.”
25
Ông
viết một bức thư nội dung như sau: 26 “Cơ-lau-đi-ô Ly-xi-a trân
trọng chào ngài tổng trấn Phê-lích đáng kính. 27 Người này đã bị
người Do-thái bắt và sắp bị họ giết, thì tôi đem lính đến giải thoát, vì được
biết rằng đương sự là công dân Rô-ma. 28 Vì muốn biết rõ họ tố cáo
đương sự về tội gì, tôi đã đưa đương sự ra trước Thượng Hội Đồng của họ. 29
Tôi thấy rằng đương sự bị tố cáo về những vấn đề liên quan đến Lề Luật
của họ, nhưng không có tội gì đáng chết hay đáng bị tù. 30 Được báo
là người ta âm mưu hại đương sự, tôi đã cho giải đương sự lên ngài ngay lập
tức, một trật bảo nguyên cáo muốn kiện đương sự thì cứ lên ngài mà kiện.”
31
Tuân
lệnh trên, binh lính đã nhận ông Phao-lô, và ban đêm đưa ông đi An-ti-pát-ri. 32
Hôm sau, họ để kỵ binh tiếp tục đi với ông, còn họ thì trở về đồn. 33
Đến Xê-da-rê, kỵ binh trình thư và giao ông Phao-lô cho tổng trấn. 34
Tổng trấn đọc thư và hỏi ông là người tỉnh nào. Biết ông là người miền
Ki-li-ki-a, 35 ông nói: ”Tôi sẽ xét vụ của anh, khi nào cả nguyên
cáo nữa cũng đến.” Rồi ông ra lệnh giam ông Phao-lô ở dinh Hê-rô-đê.
Chương 24
Tổng
trấn Phê-lích xử vụ kiện ông Phao-lô
1
Năm
ngày sau, thượng tế Kha-na-ni-a xuống Xê-da-rê cùng với một số kỳ mục và một
trạng sư tên là Téc-tu-lô. Họ đến kiện ông Phao-lô trước toà tổng trấn. 2 Ông
Phao-lô bị gọi ra toà, và ông Téc-tu-lô bắt đầu tố cáo như sau: ”Thưa ngài
Phê-lích đáng kính, nhờ ngài chúng tôi được sống trong cảnh thái bình; nhờ ngài
ân cần săn sóc, dân tộc này được hưởng nhiều cải cách. 3 Ở đâu và
lúc nào chúng tôi cũng đón nhận những ân huệ ấy với tất cả lòng biết ơn. 4
Nhưng để khỏi quấy rầy ngài thêm, chúng tôi sẽ trình bày vắn tắt vụ việc
như sau, xin ngài nghe với tấm lòng khoan hậu sẵn có. 5 Số là chúng
tôi đã bắt gặp tên này, một thứ ôn dịch, chuyên gây bạo loạn giữa mọi người
Do-thái trong thiên hạ, và là đầu sỏ phái Na-da-rét. 6 Y còn mưu
toan xúc phạm đến Đền Thờ, và chúng tôi đã bắt y. 7 Chúng tôi muốn
xử y chiếu theo Luật của chúng tôi, nhưng viên chỉ huy Ly-xi-a đã can thiệp,
dùng bạo lực mà giật y khỏi tay chúng tôi, và truyền cho những người tố cáo y phải
đến trước toà ngài. 8 Tra hỏi y, ngài sẽ có thể biết rõ về mọi điều
chúng tôi tố cáo y.” 9 Người Do-thái tán đồng và quả quyết là đúng
như vậy.
Ông
Phao-lô tự biện hộ trước tổng trấn Rô-ma
10
Tổng
trấn ra hiệu bảo ông Phao-lô nói, ông liền đáp: ”Tôi biết rằng đã từ nhiều năm,
ngài cầm cân nảy mực cho dân tộc này, nên tôi sung sướng biện hộ cho mình. 11
Chính ngài có thể biết rõ: tôi lên Giê-ru-sa-lem hành hương đến nay chưa
quá mười hai ngày. 12 Trong Đền Thờ, trong các hội đường cũng như
trong thành phố, người ta đã không bắt gặp được tôi thảo luận với ai hay sách
động đám đông. 13 Họ cũng không thể đưa ra cho ngài bằng chứng về
những điều bây giờ họ tố cáo tôi.
14 “Tuy nhiên, tôi xin
công nhận với ngài điều này: tôi phụng thờ Thiên Chúa của cha ông chúng tôi
theo Đạo mà họ gọi là bè phái; tôi tin mọi điều chép trong sách Luật Mô-sê và
sách Các Ngôn Sứ. 15 Tôi đặt nơi Thiên Chúa niềm hy vọng này, như
chính họ cũng hy vọng, là người lành và kẻ dữ sẽ sống lại. 16 Vì
thế, cả tôi nữa, tôi cố gắng để trước mặt Thiên Chúa và người ta, lương tâm tôi
không có gì đáng chê trách.
17 “Sau nhiều năm, tôi
về Giê-ru-sa-lem để đem tiền cứu trợ cho dân tộc tôi và để dâng lễ phẩm lên
Thiên Chúa. 18 Chính lúc đó họ bắt gặp tôi trong Đền Thờ, sau khi
tôi làm nghi lễ tẩy uế, không có tụ tập đám đông, cũng không gây ồn ào chi cả. 19
Có mấy người Do-thái từ A-xi-a đến. Đáng lẽ họ phải ra trình diện với
ngài mà tố cáo tôi, nếu như họ có điều gì chống tôi. 20 Hoặc những
người đang có mặt đây cứ nói xem: khi tôi ra trước Thượng Hội Đồng, họ đã tìm
thấy điều gì phạm pháp? 21 Phải chăng là lời duy nhất tôi đã hô lên khi đứng
giữa họ: chính vì sự phục sinh của kẻ chết mà hôm nay tôi bị các ông đưa ra xét
xử?”
Ông
Phao-lô bị giam ở Xê-da-rê
22
Ông
Phê-lích là người biết rất chính xác về Đạo, ông hoãn vụ án lại và nói: ”Khi
nào viên chỉ huy Ly-xi-a xuống, tôi sẽ xét vụ kiện của các người.” 23 Ông
truyền cho viên đại đội trưởng giam ông Phao-lô, nhưng cho ông hưởng chế độ dễ
dãi và không ngăn cấm thân nhân nào đến giúp đỡ ông.
24
Ít
ngày sau, ông Phê-lích cùng đến với vợ là bà Đơ-ru-xi-la, người Do-thái. Ông
cho vời ông Phao-lô đến và nghe ông nói về lòng tin vào Đức Ki-tô Giê-su. 25
Nhưng khi ông Phao-lô biện luận về đức công chính, sự tiết độ và cuộc
phán xét mai sau, thì ông Phê-lích phát sợ nên nói: ”Bây giờ ông có thể lui ra.
Khi nào tiện dịp, tôi sẽ cho gọi ông đến.” 26 Một trật, ông cũng hy
vọng ông Phao-lô đút lót; vì thế ông năng cho vời ông Phao-lô đến nói chuyện.
27
Mãn
hạn hai năm, ông Phê-lích được ông Po-ki-ô Phét-tô đến thay thế. Vì muốn được
lòng người Do-thái, ông Phê-lích cứ để ông Phao-lô ở lại trong tù.
Chương 25
Ông
Phao-lô kháng cáo lên hoàng đế Xê-da
1
Ba
ngày sau khi nhậm chức, tổng trấn Phét-tô từ Xê-da-rê lên Giê-ru-sa-lem. 2
Các thượng tế và thân hào Do-thái đến kiện ông Phao-lô. Họ khẩn khoản 3
xin tổng trấn một ân huệ để hại ông Phao-lô, là đưa ông về Giê-ru-sa-lem, vì họ
đang chuẩn bị một cuộc mai phục để giết ông dọc đường. 4 Nhưng ông
Phét-tô đáp rằng ông Phao-lô đang bị giam giữ ở Xê-da-rê, còn chính ông cũng
sắp sửa về đó ngay. 5 Ông lại thêm: ”Những ai trong các ông có đủ tư
cách, hãy cùng xuống đó với tôi, và nếu đương sự có gì sai trái thì cứ việc
tố.”
6
Sau
khi ở lại Giê-ru-sa-lem không quá tám hay mười ngày, ông xuống Xê-da-rê. Hôm
sau ông ra ngồi toà và truyền điệu ông Phao-lô đến. 7 Ông Phao-lô
vừa tới, thì những người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem xuống đã vây quanh ông: họ tố
cáo ông nhiều tội, mà toàn là tội nặng, nhưng họ không thể minh chứng. 8 Ông
Phao-lô tự biện hộ: ”Tôi không có tội gì đối với Lề Luật Do-thái, đối với Đền
Thờ hay hoàng đế Xê-da.” 9 Ông Phét-tô muốn được lòng người Do-thái
nên đề nghị với ông Phao-lô: ”Ông có muốn lên Giê-ru-sa-lem để được xử tại đó
trước mặt tôi về những lời tố cáo này không?” 10 Nhưng ông Phao-lô
đáp: ”Tôi đang đứng trước toà án của hoàng đế Xê-da, tôi phải được xử tại đó.
Tôi đã không làm gì hại người Do-thái, như chính ngài thừa biết. 11 Nếu
quả thật tôi có tội, nếu tôi đã làm điều gì đáng chết, thì tôi không xin tha
chết. Nhưng nếu những điều tố cáo của các người này là vô căn cứ, thì không ai
có quyền nộp tôi cho họ. Tôi kháng cáo lên hoàng đế Xê-da!”12 Bấy giờ ông
Phét-tô bàn với hội đồng tư vấn, rồi trả lời: ”Ông đã kháng cáo lên hoàng đế
Xê-da, thì ông sẽ lên hoàng đế Xê-da.”
Ông
Phao-lô ra trình diện vua Ác-ríp-pa
13
Ít
ngày sau, vua Ác-ríp-pa và bà Béc-ni-kê đến Xê-da-rê chào mừng ông Phét-tô. 14
Vì hai người ở lại đó nhiều ngày, ông Phét-tô mới đem vụ ông Phao-lô ra
trình bày với nhà vua. Ông nói: ”Ở đây có một người tù ông Phê-lích để lại. 15
Khi tôi tới Giê-ru-sa-lem, các thượng tế và các kỳ mục Do-thái đến kiện
và xin tôi kết án người ấy. 16 Tôi đã trả lời họ rằng người Rô-ma
không có lệ nộp bị cáo nào, trước khi đương sự ra đối chất với nguyên cáo, và
được cơ hội biện hộ về lời tố cáo. 17 Vậy họ cùng đến đây với tôi,
và không chút trì hoãn, ngày hôm sau tôi ra ngồi toà và truyền điệu đương sự
đến. 18 Đứng quanh đương sự, các nguyên cáo đã không đưa ra một tội
trạng nào như tôi tưởng. 19 Họ chỉ tranh luận với ông ta về một số
vấn đề liên quan đến tôn giáo riêng của họ, và liên quan đến một ông Giê-su nào
đó đã chết, mà Phao-lô quả quyết là vẫn sống. 20 Phần tôi, phân vân
trước cuộc tranh luận về những chuyện ấy, tôi hỏi xem ông ta có muốn đi
Giê-ru-sa-lem để được xử tại đó về vụ này không. 21 Nhưng Phao-lô đã
kháng cáo, xin dành vụ này cho Thánh Thượng xét xử, nên tôi đã ra lệnh giữ ông
ta lại cho đến khi giải lên hoàng đế.” 22 Bấy giờ vua Ác-ríp-pa nói
với ông Phét-tô: ”Tôi cũng muốn được nghe ông ta nói.” Ông Phét-tô trả lời:
”Ngày mai ngài sẽ được nghe.”
23
Vậy
hôm sau vua Ác-ríp-pa và bà Béc-ni-kê tiến vào công đường cách rất long trọng,
cùng với các sĩ quan chỉ huy cơ đội và các người có chức vị trong thành phố.
Theo lệnh của ông Phét-tô, người ta điệu ông Phao-lô đến. 24 Ông
Phét-tô nói: ”Kính thưa đức vua Ác-ríp-pa và toàn thể quý vị có mặt ở đây với
chúng tôi, quý vị thấy người này: toàn thể cộng đồng Do-thái đã đến gặp tôi, ở
Giê-ru-sa-lem cũng như ở đây, về việc của đương sự. Họ la lên rằng đương sự
không được phép sống nữa. 25 Phần tôi, tôi không thấy đương sự đã
làm gì đáng chết; nhưng vì chính đương sự đã kháng cáo lên thánh thượng, nên
tôi đã quyết định giải về kinh. 26 Về vụ của đương sự, tôi không có
gì chắc chắn để tâu lên chúa thượng. Vì thế tôi đã đưa đương sự ra trình diện
quý vị, và nhất là ngài, kính thưa đức vua Ác-ríp-pa, để sau lần tra hỏi này,
tôi sẽ có gì để tâu. 27 Vì thiết tưởng giải tù nhân lên, mà không
nói rõ đương sự bị tố cáo về những tội gì, thì thật là vô lý.”
Chương 26
Diễn
từ của ông Phao-lô trước mặt vua Ác-ríp-pa (Cv 9:1-19; 22:6-16 )
1
Vua
Ác-ríp-pa nói với ông Phao-lô: ”Ông được phép tự bào chữa.” Ông Phao-lô bèn giơ
tay ra tự biện hộ:
2 “Kính thưa đức vua
Ác-ríp-pa, tôi lấy làm sung sướng vì hôm nay sắp được tự biện hộ trước mặt
ngài, về mọi điều người Do-thái tố cáo tôi, 3 nhất là vì ngài am
hiểu tất cả những tục lệ và những chuyện tranh luận giữa người Do-thái. Bởi
thế, xin ngài kiên nhẫn nghe tôi nói.
4 “Tôi đã sống như thế
nào từ hồi niên thiếu, ngay từ đầu, giữa dân tộc tôi và tại Giê-ru-sa-lem, điều
đó mọi người Do-thái đều rõ. 5 Từ lâu họ đã biết, và nếu muốn, họ có
thể làm chứng rằng tôi đã sống theo phái nghiêm nhặt nhất trong tôn giáo chúng
tôi, tức là phái Pha-ri-sêu. 6 Và giờ đây tôi bị đưa ra toà chính là
vì hy vọng điều Thiên Chúa đã hứa cho cha ông chúng tôi. 7 Mười hai
chi tộc chúng tôi ngày đêm kiên trì thờ phượng Chúa, hy vọng thấy lời hứa ấy
được thực hiện. Kính thưa đức vua, chính vì niềm hy vọng đó mà tôi bị người
Do-thái tố cáo. 8 Sao trong quý vị lại có người cho rằng việc Thiên
Chúa làm cho kẻ chết sống lại là chuyện không thể tin được?
9 “Về phần tôi, trước
kia tôi nghĩ rằng phải dùng mọi cách để chống lại danh Giê-su người Na-da-rét. 10
Đó là điều tôi đã làm tại Giê-ru-sa-lem. Được các thượng tế uỷ quyền,
chính tôi đã bỏ tù nhiều người trong dân thánh; và khi họ bị xử tử, tôi đã bỏ
phiếu tán thành. 11 Nhiều lần tôi đã rảo khắp các hội đường, dùng
cực hình cưỡng bức họ phải nói lộng ngôn. Tôi đã giận dữ quá mức đến nỗi sang
cả các thành nước ngoài mà bắt bớ họ.
12 “Thế là sau khi được
các thượng tế trao quyền và uỷ nhiệm, tôi lên đường đi Đa-mát. 13 Kính
thưa đức vua, đang khi đi đường, vào lúc trưa, tôi đã thấy một luồng ánh sáng
chói lọi hơn mặt trời, từ trời chiếu toả xuống chung quanh tôi và các bạn đồng
hành. 14 Tất cả chúng tôi đều ngã nhào xuống đất, và tôi nghe có
tiếng nói với tôi bằng tiếng Híp-ri: ”Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Đá
lại mũi nhọn thì khốn cho ngươi! 15 Tôi hỏi: ”Thưa Ngài, Ngài là ai? Chúa đáp:
”Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ. 16 Nhưng ngươi hãy chỗi dậy,
đứng thẳng lên. Ta hiện ra với ngươi là để chọn ngươi làm đầy tớ và làm chứng
nhân về những điều ngươi đã thấy, cũng như những điều Ta sẽ hiện ra mà tỏ cho
ngươi biết. 17 Ta sẽ cứu ngươi thoát khỏi tay dân Do-thái và các dân
ngoại: Ta sai ngươi đến với chúng 18 để mở mắt cho chúng, khiến chúng rời bóng
tối mà trở về cùng ánh sáng, thoát khỏi quyền lực Xa-tan mà trở về cùng Thiên
Chúa. Như vậy, nhờ tin vào Ta, chúng sẽ được ơn tha tội và được hưởng phần gia
tài cùng với các người đã được thánh hiến.”
19 “Từ đó, kính thưa đức
vua Ác-ríp-pa, tôi đã không cưỡng lại thị kiến bởi trời. 20 Trái
lại, tôi đã rao giảng trước hết cho những người ở Đa-mát, rồi cho những người ở
Giê-ru-sa-lem và trong khắp miền Giu-đê, sau đó cho các dân ngoại, kêu gọi họ
sám hối và trở về cùng Thiên Chúa, đồng thời làm những việc chứng tỏ lòng ăn
năn sám hối. 21 Chính vì thế, người Do-thái đã bắt tôi khi tôi đang
ở trong Đền Thờ và tìm cách giết tôi. 22 Được Thiên Chúa phù hộ, cho
đến ngày hôm nay, tôi vẫn tiếp tục làm chứng trước mặt kẻ nhỏ cũng như kẻ lớn;
tôi không nói gì khác ngoài những điều các ngôn sứ và ông Mô-sê đã báo trước sẽ
xảy ra, 23 đó là: Đấng Ki-tô sẽ chịu đau khổ và là người đầu tiên
sống lại từ cõi chết, để loan báo ánh sáng cho dân Do-thái cũng như cho các dân
ngoại.”
Phản
ứng của cử toạ
24
Ông
Phao-lô còn đang tự biện hộ như thế, thì ông Phét-tô lớn tiếng nói: ”Ông
Phao-lô, ông điên mất rồi! Ông hay chữ quá nên hoá điên!”25 Ông Phao-lô đáp:
”Thưa ngài Phét-tô đáng kính, tôi không điên đâu, nhưng tôi nói lên những điều
hợp với sự thật và lẽ phải. 26 Quả thế, đức vua biết rõ những điều
ấy, và tôi mạnh dạn nói với người: tôi tin chắc rằng trong các điều ấy, không
có gì mà người không biết, vì chuyện này đã không xảy ra ở một xó nào đó. 27
Kính thưa đức vua Ác-ríp-pa, chắc là ngài tin các ngôn sứ? Tôi biết là
ngài tin.” 28 Vua Ác-ríp-pa nói với ông Phao-lô: ”Chút nữa là ông
thuyết phục được tôi trở thành Ki-tô hữu rồi đấy!”29 Ông Phao-lô trả lời: ”Chút
nữa hay nhiều nữa, thì tôi cũng xin Thiên Chúa cho, không những ngài, mà hết
mọi người đang nghe tôi nói hôm nay, được trở nên giống như tôi, trừ ra những
xiềng xích này!”
30
Bấy
giờ nhà vua, ông tổng trấn, bà Béc-ni-kê và cử toạ đứng dậy. 31 Khi
ra về, họ nói với nhau: ”Người này không làm chi đáng chết hay đáng bị tù.” 32
Vua Ác-ríp-pa nói với ông Phét-tô: ”Đáng lẽ người này có thể được thả ra,
nếu đã chẳng kháng cáo lên hoàng đế Xê-da.”
Chương 27
Ông
Phao-lô khởi hành đi Rô-ma
1
Khi
có quyết định cho chúng tôi đáp tàu sang I-ta-li-a, người ta giao ông Phao-lô
và mấy tù nhân khác cho một đại đội trưởng tên là Giu-li-ô, thuộc cơ đội
Au-gút-ta. 2 Chúng tôi xuống một chiếc tàu của thành
Át-ra-mýt-ti-on, sắp nhổ neo đi các cảng miền A-xi-a và chúng tôi ra khơi. Cùng
đi với chúng tôi có anh A-rít-ta-khô, một người Ma-kê-đô-ni-a quê
Thê-xa-lô-ni-ca. 3 Hôm sau, chúng tôi cập bến Xi-đôn; ông Giu-li-ô
xử nhân đạo với ông Phao-lô, cho phép ông đi thăm bạn hữu và để họ săn sóc ông.
4 Từ đó, chúng tôi lại ra khơi và đi vòng theo đảo Sýp, vì gió ngược.
5 Rồi chúng tôi vượt qua biển Ki-li-ki-a và Pam-phy-li-a và tới
My-ra miền Ly-ki-a. 6 Ở đấy, viên đại đội trưởng tìm được một chiếc
tàu của thành A-lê-xan-ri-a sắp đi I-ta-li-a, nên ông cho chúng tôi sang tàu
đó.
7
Trong
vòng nhiều ngày, tàu đi chậm, và vất vả lắm chúng tôi mới đến ngang Cơ-ni-đô.
Vì không thuận gió, chúng tôi đi vòng theo đảo Cơ-rê-ta, hướng về phía mũi
Xan-mô-nê. 8 Chúng tôi vất vả đi men theo mũi đó đến một nơi gọi là
Bến Lành, gần đó có thành La-xai-a.
Ông
Phao-lô gặp bão và bị đắm tàu
9
Chúng
tôi đã mất khá nhiều thời gian, và việc đi biển từ nay thật nguy hiểm, vì ngày
ăn chay đã qua rồi. Ông Phao-lô khuyên họ: 10 “Thưa các bạn, tôi
thấy rằng chuyến đi biển này sẽ gây nhiều thiệt hại và mất mát, chẳng những cho
hàng hoá và con tàu, mà còn cho tính mạng chúng ta nữa.” 11 Nhưng
viên đại đội trưởng tin tài công và chủ tàu hơn tin lời ông Phao-lô. 12 Vì
cảng không thích hợp cho tàu ở lại qua mùa đông, nên đa số có ý kiến lại ra
khơi, để nếu có thể thì cập bến và qua mùa đông ở Phê-ních, một cảng khác trên
đảo Cơ-rê-ta quay về hướng tây nam và tây bắc.
13
Một
cơn gió nam thổi nhẹ, khiến họ tưởng rằng có thể thực hiện được ý định, nên nhổ
neo và cho tàu đi men theo đảo Cơ-rê-ta. 14 Nhưng chẳng bao lâu một
trận cuồng phong, gọi là gió đông bắc, từ đảo thổi ra. 15 Tàu bị
cuốn đi, không thể chống chọi với gió, nên chúng tôi đành để cho trôi giạt. 16
Khi chạy vòng phía sau một đảo nhỏ tên là Cau-đa, chúng tôi vất vả lắm
mới ghì chiếc xuồng lại được. 17 Kéo nó lên rồi, họ dùng các phương
tiện cấp cứu, lấy thừng đánh đai con tàu. Rồi, vì sợ tàu bị mắc cạn trong vịnh
Xiếc-ti, họ thả neo nổi và cứ để tàu trôi giạt. 18 Chúng tôi vẫn bị
bão dữ dội, nên hôm sau thủy thủ ném hàng hoá xuống biển, 19 và hôm
sau nữa họ tự tay quăng đồ trang bị của tàu đi. 20 Đã từ nhiều ngày,
chẳng thấy mặt trời hay một vì sao nào xuất hiện, còn bão vẫn thổi mạnh, nên
chúng tôi mất dần hy vọng được cứu.
21
Từ
lâu không ai ăn uống gì; bấy giờ ông Phao-lô đứng giữa họ mà nói: ”Thưa các
bạn, phải chi các bạn đã nghe tôi không rời đảo Cơ-rê-ta, thì đã tránh được
những thiệt hại mất mát này. 22 Nhưng giờ đây tôi khuyên các bạn cứ
can đảm, vì không ai trong các bạn phải mất mạng đâu, chỉ mất tàu thôi. 23
Thật vậy, đêm vừa rồi, một thiên sứ của Thiên Chúa là Chúa Tể của tôi và
là Đấng tôi phụng thờ, đã hiện ra với tôi 24 và bảo: ”Này ông Phao-lô, đừng sợ!
Ông phải ra trước toà hoàng đế Xê-da; vì thương ông, Thiên Chúa cho tất cả
những người cùng đi tàu với ông được sống. 25 Vì thế, thưa các bạn,
hãy can đảm lên! Tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa: sự việc sẽ xảy ra đúng như lời
đã phán với tôi. 26 Nhưng chúng ta sẽ phải mắc cạn ở một hòn đảo.”
27
Đến
đêm thứ mười bốn, chúng tôi đang trôi giạt trên biển Át-ri-a, thì vào quãng nửa
đêm, các thủy thủ có cảm giác như đang tới gần đất. 28 Thả dây dò
đáy biển, họ thấy sâu hai mươi sải; cách một quãng, họ lại thả dây dò lần nữa,
thì thấy còn mười lăm sải. 29 Sợ rằng tàu chúng tôi có thể đụng phải
đá ngầm, họ thả bốn chiếc neo ở đằng lái và cầu mong cho trời mau sáng. 30
Nhưng các thủy thủ tìm cách bỏ tàu mà trốn: họ hạ chiếc xuồng xuống biển,
lấy cớ là để thả neo đằng mũi. 31 Ông Phao-lô mới bảo viên đại đội
trưởng và binh sĩ: ”Nếu những người này không ở lại trên tàu, thì các ông không
thể được cứu đâu!”32 Lính bèn cắt đứt dây xuồng, cho nó trôi đi.
33
Trong
khi đợi trời sáng, ông Phao-lô khuyên mọi người nên ăn uống; ông nói: ”Cho đến
hôm nay là mười bốn ngày, các bạn nhịn đói chờ đợi, không ăn gì cả. 34 Vậy
tôi khuyên các bạn nên ăn uống, vì có thế các bạn mới được cứu. Không ai trong
các bạn sẽ mất một sợi tóc trên đầu.” 35 Nói thế rồi, ông cầm lấy
bánh, dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trước mặt mọi người, bẻ ra và bắt đầu ăn. 36
Mọi người lấy lại được can đảm và họ cũng ăn uống. 37 Chúng
tôi ở trên tàu tất cả là hai trăm bảy mươi sáu người. 38 Sau khi ăn
no, họ đổ lúa mì xuống biển cho tàu nhẹ bớt.
39
Đến
sáng, họ không nhận ra được đó là đất nào, nhưng thấy rõ một vùng có bãi cát,
và tính chuyện cho tàu chạy vào, nếu có thể. 40 Họ mới gỡ các neo,
bỏ lại dưới biển, đồng thời tháo những thừng cột bánh lái ra; rồi căng buồm
đằng mũi lên cho gió thổi, hướng thẳng vào bãi. 41 Nhưng họ đụng
phải bãi cát ngầm, nên cho tàu mắc cạn ở đó. Mũi tàu đâm vào cát, không nhúc
nhích được, còn đằng lái thì bị sóng mạnh đánh vỡ tan.
42
Bấy
giờ binh sĩ nẩy ra ý muốn giết các người tù, vì sợ có người bơi được mà trốn
mất. 43 Nhưng viên đại đội trưởng muốn cứu ông Phao-lô nên ngăn cản
họ thực hiện ý định. Ông ra lệnh cho những ai biết bơi thì nhảy xuống trước bơi
vào bờ; 44 còn những người khác thì bám vào ván hoặc mảnh tàu vỡ mà
vào. Thế là mọi người vào được bờ và được cứu.
Chương 28
Ông
Phao-lô tại đảo Man-ta
1
Được
cứu rồi, chúng tôi mới biết đảo ấy gọi là Man-ta. 2 Dân địa phương
đối xử với chúng tôi một cách nhân đạo hiếm có. Họ đốt một đống lửa to và tiếp
đón tất cả chúng tôi, vì trời đã bắt đầu mưa và lạnh. 3 Ông Phao-lô
vơ được một mớ cành khô và đang bỏ vào lửa, thì một con rắn độc bị nóng bò ra,
cuốn vào tay ông. 4 Người địa phương thấy con vật lủng lẳng ở tay
ông thì bảo nhau: ”Chắc chắn người này là một tên sát nhân: hắn vừa được cứu
khỏi chết dưới biển, nhưng Thần Công Lý đã không để cho sống.” 5 Nhưng
ông giũ con vật vào lửa mà không hề hấn gì. 6 Họ cứ đợi ông sẽ sưng
phù lên hoặc lăn ra chết; nhưng đợi lâu mà không thấy có gì khác thường xảy đến
cho ông, thì đổi ý và bảo ông là một vị thần.
7
Gần
nơi ấy, có đồn điền của viên quan lớn nhất đảo, tên là Púp-li-ô. Ông tiếp đón
chúng tôi và niềm nở cho chúng tôi trú ngụ trong ba ngày. 8 Có ông
thân sinh ông Púp-li-ô đang liệt giường vì bị sốt và kiết lỵ. Ông Phao-lô vào
thăm, cầu nguyện, đặt tay trên ông và chữa khỏi. 9 Thấy thế, các
bệnh nhân khác trên đảo cũng đến với ông và được chữa lành. 10 Họ
trọng đãi chúng tôi, và khi chúng tôi xuống tàu, họ đã đem tới những gì chúng
tôi cần dùng.
Từ
Man-ta tới Rô-ma
11
Ba
tháng sau, chúng tôi ra khơi trên một chiếc tàu đã qua mùa đông tại đảo; tàu
này của thành A-lê-xan-ri-a và mang huy hiệu hai thần Đi-ốt-cu-ri. 12 Chúng
tôi ghé vào thành Xy-ra-cu-xa và ở lại đó ba ngày. 13 Từ nơi ấy,
chúng tôi đi men theo bờ biển và tới thành Rê-gi-ô. Ngày hôm sau có gió nam nổi
lên, và sau hai ngày chúng tôi tới cảng Pu-tê-ô-li. 14 Ở đây chúng
tôi gặp được những người anh em, họ mời chúng tôi ở lại với họ bảy ngày. Chúng
tôi đến Rô-ma như thế đó.
15
Các
anh em ở Rô-ma nghe tin chúng tôi tới thì đến tận chợ Áp-pi-ô và Ba Quán đón
chúng tôi. Thấy họ, ông Phao-lô tạ ơn Thiên Chúa và thêm can đảm. 16 Khi
chúng tôi vào Rô-ma, ông Phao-lô được phép ở nhà riêng cùng với người lính canh
giữ ông.
Ông
Phao-lô tiếp xúc với kiều bào Do-thái ở Rô-ma
17
Ba
ngày sau, ông mời các thân hào Do-thái đến. Khi họ đã tới đông đủ, ông nói với
họ: ”Thưa anh em, tôi đây, mặc dầu đã không làm gì chống lại dân ta hay các tục
lệ của tổ tiên, tôi đã bị bắt tại Giê-ru-sa-lem và bị nộp vào tay người Rô-ma. 18
Sau khi điều tra, họ muốn thả tôi, vì tôi không có tội gì đáng chết. 19
Nhưng vì người Do-thái chống đối, nên bó buộc tôi phải kháng cáo lên
hoàng đế Xê-da; tuy vậy không phải là tôi muốn tố cáo dân tộc tôi. 20 Đó
là lý do khiến tôi xin được gặp và nói chuyện với anh em, bởi chính vì niềm hy
vọng của Ít-ra-en mà tôi phải mang xiềng xích này.”
21
Họ
nói với ông: ”Về phía chúng tôi, chúng tôi không nhận được thư nào từ Giu-đê
nói về ông, cũng chẳng có ai trong các anh em đến đây báo cáo hoặc nói gì xấu
về ông. 22Chúng tôi muốn được nghe ông trình bày ý nghĩ của ông, vì chúng tôi biết
là phái của ông đến đâu cũng gặp chống đối.”
Ông
Phao-lô tuyên bố với kiều bào Do-thái ở Rô-ma
23
Họ
hẹn ngày với ông, và hôm đó đến gặp ông tại nhà trọ đông hơn. Ông trình bày cho
họ và long trọng làm chứng về Nước Thiên Chúa; từ sáng đến chiều, ông dựa vào
Luật Mô-sê và các ngôn sứ mà nói về Đức Giê-su, để cố thuyết phục họ. 24 Nghe
ông nói, người thì được thuyết phục, người thì không chịu tin. 25 Khi
giải tán, họ vẫn không đồng ý với nhau; ông Phao-lô chỉ nói thêm một lời:
”Thánh Thần đã nói rất đúng khi dùng ngôn sứ I-sai-a mà phán với cha ông anh em
26 rằng: Hãy đến gặp dân này và nói: Các ngươi có lắng tai nghe cũng không
hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; 27 vì lòng dân này đã ra chai
đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu
được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.
28 “Vậy xin anh em biết
cho rằng: ơn cứu độ này của Thiên Chúa đã được gửi đến cho các dân ngoại; họ
thì họ sẽ nghe.” 29 Ông nói thế rồi thì người Do-thái đi ra, tranh
luận với nhau rất sôi nổi.
30
Suốt
hai năm tròn, ông Phao-lô ở tại nhà ông đã thuê, và tiếp đón tất cả những ai
đến với ông. 31 Ông rao giảng Nước Thiên Chúa và dạy về Chúa Giê-su
Ki-tô, một cách rất mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào.
Rô-ma
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Tôi
là Phao-lô, tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành
riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. 2 Tin Mừng ấy, xưa Người
đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. 3 Đó là
Tin Mừng về Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
4
Nhưng
xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con
Thiên Chúa với tất cả quyền năng.
5
Nhờ
Người, chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các
dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ. 6 Trong số
đó, có cả anh em, là những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giê-su Ki-tô.
7
Kính
gửi tất cả anh em ở Rô-ma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi
làm dân thánh.
Xin
Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và
bình an.
Tạ
ơn và cầu xin
8
Trước
hết, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, tôi tạ ơn Thiên Chúa của tôi về tất cả anh em, vì
trong khắp hoàn cầu, ai ai cũng đều nói đến lòng tin của anh em. 9 Thiên
Chúa là Đấng tôi hết lòng thờ phượng khi loan báo Tin Mừng về Con của Người,
chính Người làm chứng cho tôi là tôi hằng nhắc nhở đến anh em: 10 mỗi
khi cầu nguyện, tôi hằng xin Người cho tôi có ngày nào được dịp tốt đến thăm
anh em, nếu Người muốn. 11 Thật vậy, tôi rất ước ao được gặp anh em,
để chia sẻ với anh em phần nào ân huệ của Thánh Thần, nhờ đó anh em vững mạnh, 12
nghĩa là để chúng ta cùng khích lệ nhau, bởi vì cả anh em lẫn tôi, chúng
ta đều chung một niềm tin. 13 Thưa anh em, tôi không muốn để anh em
chẳng hay biết là đã nhiều lần tôi có ý định đến thăm anh em, mong cũng thâu
lượm được kết quả nào đó nơi anh em, như đã thâu lượm được nơi các dân ngoại
khác, nhưng cho đến nay tôi cứ bị ngăn trở hoài. 14 Tôi mắc nợ người
Hy-lạp cũng như người man-di, người thông thái cũng như người dốt nát. 15 Bởi
vậy, tôi nóng lòng loan báo Tin Mừng cho cả anh em nữa, những người đang sống ở
Rô-ma.
CON
NGƯỜI ĐƯỢC CỨU ĐỘ NHỜ ĐỨC TIN
1.
THIÊN CHÚA LÀM CHO CON NGƯỜI NÊN CÔNG CHÍNH
Đề
tài bức thư
16
Vâng,
tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để
cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp. 17
Vì trong Tin Mừng, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức
tin để đưa đến đức tin, như có lời chép: Người công chính nhờ đức tin sẽ được
sống.
A.
NGƯỜI NGOẠI VÀ NGƯỜI DO-THÁI PHẢI CHỊU CƠN THỊNH NỘ CỦA THIÊN CHÚA
Người
ngoại phải chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa
18
Thật
vậy, từ trời, Thiên Chúa mặc khải cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô
luân và bất chính của những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý. 19
Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước
mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ. 20 Quả vậy, những gì
người ta không thể nhìn thấy được nơi Thiên Chúa, tức là quyền năng vĩnh cửu và
thần tính của Người, thì từ khi Thiên Chúa tạo thành vũ trụ, trí khôn con người
có thể nhìn thấy được qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự
bào chữa được, 21 vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay
cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí
ngu si của họ hoá ra mê muội. 22 Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã
trở nên điên rồ. 23 Thay vì Thiên Chúa vinh quang bất tử, họ đã thờ
hình tượng người phàm là loài phải chết, hay hình tượng các loài chim chóc, thú
vật, rắn re
Chương 2
Người
Do-thái cũng phải chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa
1
Hỡi
người, dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét đoán, thì bạn cũng không thể tự bào chữa
được. Vì khi bạn xét đoán người khác, mà bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án
chính mình. 2 Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa cứ theo sự thật mà xét
xử những ai làm những điều đó. 3 Còn bạn, hỡi người xét đoán những
kẻ làm những điều đó trong khi chính mình cũng làm như vậy, bạn tưởng mình sẽ
khỏi bị Thiên Chúa xét xử sao? 4 Hay là bạn coi thường lòng Chúa vô cùng nhân
hậu, khoan dung, đại lượng, mà không nhận ra rằng: Thiên Chúa nhân hậu như thế
là để thúc giục bạn hối cải sao? 5 Thế nhưng bạn lòng chai dạ đá không chịu hối
cải, và như vậy bạn càng làm cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa chồng chất trên
đầu bạn, trong ngày Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ và biểu lộ phán quyết công minh.
6 Ngày đó, Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ theo việc họ làm;
7 những ai bền chí làm việc thiện mà tìm vinh quang, danh dự và phúc
trường sinh bất tử, thì Thiên Chúa sẽ cho họ được sống đời đời; 8 còn
những ai chống Thiên Chúa mà không vâng phục chân lý và chạy theo điều ác, thì
Người sẽ nổi trận lôi đình, trút cơn thịnh nộ xuống đầu họ. 9 Người
sẽ bắt mọi kẻ làm điều ác phải gian nan khốn khổ, trước là người Do-thái, sau
là người Hy-lạp. 10 Nhưng Người sẽ ban vinh quang, danh dự và bình
an cho tất cả những ai làm điều thiện, trước là người Do-thái, sau là người
Hy-lạp, 11 vì Thiên Chúa không thiên vị ai.
Mặc
dầu có Luật Mô-sê
12
Quả
thế, những người không biết Luật Mô-sê mà phạm tội, thì sẽ bị diệt vong không
chiếu theo Luật đó. Còn những người sống dưới Luật Mô-sê mà phạm tội, thì sẽ bị
xét xử theo Luật đó. 13 Thật vậy, người ta được Thiên Chúa coi là
công chính, không phải vì nghe biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật. 14
Dân ngoại là những người không có Luật Mô-sê; nhưng mỗi khi họ theo lẽ tự
nhiên mà làm những gì Luật dạy, thì họ là Luật cho chính mình, mặc dầu họ không
có Luật Mô-sê. 15 Họ cho thấy là điều gì Luật đòi hỏi, thì đã được
ghi khắc trong lòng họ. Lương tâm họ cũng chứng thực điều đó, vì họ tự phán
đoán trong lòng, khi thì cho mình là trái, khi thì cho mình là phải. 16 Người
ta sẽ thấy điều đó, trong ngày Thiên Chúa cho Đức Ki-tô Giê-su đến xét xử những
gì bí ẩn nơi con người theo Tin Mừng tôi rao giảng.
17
Còn
bạn, bạn mang tên là người Do-thái, lại ỷ rằng mình có Lề Luật, và tự hào vì có
Thiên Chúa; 18 bạn được biết ý Người, được Lề Luật dạy cho điều hay
lẽ phải; 19 bạn xác tín rằng mình là người dẫn dắt kẻ mù loà, là ánh
sáng cho kẻ ở trong bóng tối, 20 là nhà giáo dục kẻ u mê, là thầy
dạy người non dại, vì bạn tưởng mình có Lề Luật là có tất cả tri thức và chân
lý: 21 Vậy, bạn biết dạy người khác, mà lại không dạy chính mình!
Bạn giảng: đừng trộm cắp, mà bạn lại trộm cắp! 22 Bạn nói: chớ ngoại tình, mà
bạn lại ngoại tình! Bạn gớm ghét ngẫu tượng, mà bạn lại cướp bóc đền miếu! 23
Bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục
Thiên Chúa! 24 Thật đúng như lời chép: Chính vì các người mà danh Thiên Chúa bị
phỉ báng giữa chư dân.
Mặc
dầu có phép cắt bì
25
Còn
phép cắt bì, đã hẳn là có ích, nếu bạn thi hành Lề Luật. Nhưng nếu bạn vi phạm
Lề Luật, thì bạn có được cắt bì cũng kể như không cắt bì. 26 Trái
lại, nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không
được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì sao? 27 Người không
được cắt bì trong thân xác mà vẫn chu toàn Lề Luật, người ấy sẽ lên án bạn, vì
bạn có Lề Luật ghi chép hẳn hoi và bạn đã được cắt bì, mà vẫn vi phạm Lề Luật. 28
Thật vậy, người Do-thái chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được
bên ngoài, phép cắt bì chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được bên
ngoài, nơi thân xác. 29 Nhưng người Do-thái chính hiệu là người
Do-thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo
tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật. Người như thế
được Thiên Chúa chứ không phải người phàm khen ngợi.
Chương 3
Mặc
dầu có lời hứa của Thiên Chúa
1
Vậy
thì người Do-thái được gì hơn? Phép cắt bì có ích lợi gì? 2 Nhiều lắm chứ! Về
mọi mặt! Trước hết, họ đã được Thiên Chúa giao phó lời Người cho họ. 3 Nhưng
nếu có một số người Do-thái không trung tín thì sao? Chẳng lẽ sự bất trung bất
tín của họ lại làm cho lòng trung tín của Thiên Chúa ra vô hiệu? 4 Không phải
thế! Thiên Chúa nhất định là Đấng chân thật, còn mọi người đều giả dối. Như có
lời chép trong Kinh Thánh:
Như
vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án,
liêm
chính khi xét xử.
5
Nhưng
nếu sự bất chính của chúng tôi làm nổi bật sự công chính của Thiên Chúa, thì
phải nói sao? Phải chăng Thiên Chúa không công chính khi Người trút cơn thịnh
nộ? Ấy là tôi nói theo kiểu người phàm. 6 Không phải thế! Vì giả như
Thiên Chúa không công chính, thì làm sao Người phán xét thế gian được? 7 Nhưng
nếu sự giả dối của tôi làm cho thấy rõ hơn Thiên Chúa là Đấng chân thật, và như
vậy càng tôn vinh Người, thì tại sao tôi lại còn bị kết án là kẻ tội lỗi? 8 Thế
thì”Sao ta không cứ làm điều dữ đi, để nhờ đó mà được điều lành?” như có những
kẻ vu cho chúng tôi nói câu đó. Họ có bị kết tội cũng là đích đáng.
Mọi
người đều bị tội lỗi thống trị
9
Vậy
thì sao? Người Do-thái chúng tôi có hơn gì người khác không? Không hơn gì cả!
Quả thế, chúng ta đã chứng minh rằng mọi người, Do-thái cũng như Hy-lạp đều bị
tội lỗi thống trị. 10 Như có lời chép rằng: Không ai là người công
chính, dẫu một người cũng không; 11 chẳng ai có lương tri, chẳng ai
kiếm tìm Thiên Chúa. 12 Người người đã lìa xa chính lộ, chỉ biết
theo nhau làm chuyện suy đồi; chẳng có một ai làm điều thiện, dẫu một người
cũng không. 13 Cửa họng chúng như nấm mồ mở rộng, khéo đẩy đưa ba
tấc lưỡi phỉnh phờ chúng chứa đầy mồm nọc độc hổ mang, 14 miệng độc
dữ điêu ngoa những buông lời nguyền rủa. 15 Chúng nhanh chân đi đổ
máu người ta, 16 đi tới đâu cũng gieo tai rắc hoạ. 17 Chúng
chẳng biết con đường đưa tới bình an, 18 chẳng thấy cần phải kính sợ
Thiên Chúa.
19
Chúng
ta biết rằng: tất cả những gì sách Luật nói là nhằm những người sống dưới Luật
đó. Như vậy ai ai cũng phải câm miệng và mọi người trên thế gian đều đắc tội
trước toà Thiên Chúa. 20 Bởi lẽ trước nhan Chúa, không người phàm
nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy. Luật chẳng qua
chỉ làm cho người ta ý thức về tội.
B.
CON NGƯỜI ĐƯỢC NÊN CÔNG CHÍNH NHỜ ĐỨC TIN
Thiên
Chúa cho thấy Người là Đấng Công Chính
21
Nhưng
ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật
Mô-sê. Điều này, sách Luật và các ngôn sứ làm chứng. 22 Quả thế,
người ta được Thiên Chúa làm cho nên công chính nhờ lòng tin vào Đức Giê-su
Ki-tô. Tất cả những ai tin đều được như thế, bất luận là ai. 23 Thật
vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, 24 nhưng
họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu
chuộc thực hiện trong Đức Ki-tô Giê-su. 25 Thiên Chúa đã đặt Người
làm nơi xá tội nhờ máu của Người cho những ai có lòng tin. Như vậy, Thiên Chúa
cho thấy Người là Đấng Công Chính. Trước kia, trong thời Thiên Chúa nhẫn nại,
Người đã bỏ qua các tội lỗi người ta phạm. 26 Nhưng bây giờ, Người
muốn cho thấy rằng Người vừa là Đấng Công Chính, vừa làm cho kẻ tin vào Đức
Giê-su được nên công chính.
Vai
trò của đức tin
27
Vậy
thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện! Dựa vào luật nào mà hãnh
diện? Vào việc làm chăng? Không, nhưng dựa vào lòng tin. 28 Thật
vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải
vì làm những gì Luật dạy. 29 Hay là Thiên Chúa chỉ là Thiên Chúa của
người Do-thái thôi? Thiên Chúa không là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa sao?
Có chứ! Người cũng là Thiên Chúa của các dân ngoại nữa, 30 vì chỉ có
một Thiên Chúa, Đấng làm cho người được cắt bì nên công chính vì họ tin, và làm
cho người không được cắt bì nên công chính cũng bởi họ tin. 31 Vậy
có phải là chúng ta dựa vào đức tin mà huỷ bỏ Lề Luật chăng? Không phải thế!
Trái lại, chúng ta củng cố Lề Luật.
C.
GƯƠNG TỔ PHỤ ÁP-RA-HAM
Chương 4
Ông
Áp-ra-ham được nên công chính vì đã tin
1
Vậy
phải nói sao về ông Áp-ra-ham, tổ phụ dân tộc chúng tôi? Ông đã được gì? 2 Giả
như ông Áp-ra-ham được nên công chính vì những việc ông đã làm, thì ông có lý
do để hãnh diện; nhưng không phải là hãnh diện trước mặt Thiên Chúa. 3 Thật
vậy, Kinh Thánh nói gì? Ông Áp-ra-ham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là
người công chính. 4 Người nào làm việc, thì lương trả cho người ấy
không được kể là ân huệ, mà là nợ. 5 Trái lại người nào không dựa
vào việc làm nhưng tin vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ vô đạo nên công chính,
thì lòng tin làm cho người ấy được Thiên Chúa kể là công chính. 6 Đó
là điều vua Đa-vít nói khi ca tụng hạnh phúc của người được Thiên Chúa kể là
công chính mà không xét đến việc làm:
7
Hạnh
phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ,
người
có tội mà được khoan dung!
8
Hạnh
phúc thay người Chúa không kể là có tội!
Không
phải vì chịu phép cắt bì
9
Lời
ca tụng hạnh phúc này chỉ áp dụng cho những người được cắt bì, hay cho cả những
người không được cắt bì nữa? Quả vậy, như chúng ta vừa nói: Ông Áp-ra-ham đã
tin, và vì thế được kể là người công chính. 10 Ông được kể là người
công chính khi nào? Trước hay sau khi ông được cắt bì? Không phải sau, mà là
trước khi ông được cắt bì! 11 Ông nhận được phép cắt bì như dấu hiệu chứng thực
rằng: nhờ tin mà ông được trở nên công chính, trước khi được cắt bì. Như vậy,
ông là cha của mọi kẻ tin mà không được cắt bì, và vì tin nên được kể là công
chính. 12 Ông cũng là cha của những người được cắt bì, nhưng không
phải chỉ được cắt bì, mà còn dõi bước tổ phụ chúng ta là ông Áp-ra-ham, trên
đường đức tin, đức tin ông đã có trước khi được cắt bì.
Không
phải vì giữ Lề Luật
13
Thật
vậy, không phải chiếu theo Lề Luật, mà Thiên Chúa đã hứa cho ông Áp-ra-ham và
dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp; nhưng ông được lời hứa đó, vì đã trở
nên công chính nhờ lòng tin. 14 Nếu gia nghiệp được dành cho những
kẻ lệ thuộc vào Lề Luật, thì đức tin trở nên vô nghĩa, và lời Thiên Chúa hứa bị
huỷ bỏ. 15 Quả thế, Luật gây nên cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, còn ở
đâu không có Lề Luật, thì cũng không có vi phạm. 16 Bởi vậy, vì tin
mà người ta được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa; như thế lời hứa là ân huệ Thiên
Chúa ban không, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Áp-ra-ham, nghĩa là
không phải chỉ cho những ai giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có lòng tin như
ông. Ông là tổ phụ chúng ta hết thảy, 17 như có lời chép: Ta đã đặt
ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa,
Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có
hoá có.
Lòng
tin của ông Áp-ra-ham và lòng tin của chúng ta
18
Mặc
dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở
thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo
như thế. 19 Ông đã gần một trăm tuổi, nhưng ông vẫn vững tin không
nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Xa-ra đều đã chết. 20 Ông
đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ
niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, 21 vì ông
hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền
năng thực hiện. 22 Bởi thế, ông được kể là người công chính.
23
Nhưng
khi viết ông được kể là người công chính, thì không phải chỉ nói về ông, 24
mà còn nói về cả chúng ta nữa: chúng ta sẽ được kể là công chính, vì tin
vào Đấng đã làm cho Đức Giê-su, Chúa chúng ta, sống lại từ cõi chết; 25 Đức
Giê-su chính là Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa
làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính.
Chương 5
2.
THIÊN CHÚA CỨU ĐỘ CON NGƯỜI
Một
khi nên công chính, con người được bảo đảm ơn cứu độ
1
Vậy,
một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên
Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. 2 Vì chúng ta tin, nên
Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng
ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh
quang của Thiên Chúa. 3 Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự
hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; 4
ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là
trung kiên, thì có quyền trông cậy. 5 Trông cậy như thế, chúng ta sẽ
không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta,
nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. 6 Quả vậy, khi chúng ta
không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức
Ki-tô đã chết vì chúng ta. 7 Hầu như không ai chết vì người công
chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. 8 Thế
mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi;
đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. 9 Phương chi bây
giờ chúng ta đã được nên công chính nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, hẳn chúng ta sẽ
được Người cứu khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. 10 Thật vậy, nếu
ngay khi chúng ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Thiên Chúa đã để cho Con của
Người phải chết mà cho chúng ta được hoà giải với Người, phương chi bây giờ
chúng ta đã được hoà giải rồi, hẳn chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Người
Con ấy. 11 Nhưng không phải chỉ có thế, chúng ta còn có Thiên Chúa
là niềm tự hào, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, Đấng nay đã hoà giải chúng
ta với Thiên Chúa.
A.
CHÚNG TA ĐƯỢC GIẢI THOÁT KHỎI TỘI LỖI, SỰ CHẾT VÀ LỀ LUẬT
A-đam
và Đức Ki-tô Giê-su
12
Vì
một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự
chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.
13 Trước khi có Lề Luật, đã có tội lỗi ở trần gian. Nhưng nếu không
có Luật, thì tội không bị kể là tội. 14 Thế mà, từ thời A-đam đến
thời Mô-sê, sự chết đã thống trị cả những người đã không phạm tội bất tuân lệnh
Thiên Chúa như A-đam đã phạm. A-đam là hình ảnh Đấng sẽ tới.
15
Nhưng
sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật
vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng
của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn
biết mấy cho muôn người. 16 Ơn Thiên Chúa ban cũng khác với hậu quả
do một người phạm tội đã gây ra. Quả thế, vì một người duy nhất phạm tội, con
người đã bị xét xử để phải mang án, còn sau nhiều lần sa ngã, thì lại được
Thiên Chúa ban ơn cho trở nên công chính. 17 Nếu chỉ vì một người,
một người duy nhất sa ngã, mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên Chúa làm qua
một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, lại còn lớn lao hơn biết mấy. Quả vậy,
những ai được Thiên Chúa ban ân sủng dồi dào và cho trở nên công chính, thì sẽ
được sống và được thống trị.
18
Tóm
lại, cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết
án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được
Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. 19 Thật vậy,
cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người
thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người
cũng sẽ thành người công chính.
20
Lề
Luật đã xen vào, để cho sự sa ngã lan tràn; nhưng ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở
đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. 21 Như vậy, nếu tội lỗi đã thống
trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng cũng thống trị bằng cách
làm cho người ta nên công chính để được sống đời đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô,
Chúa chúng ta.
Chương 6
Phép
rửa
1
Vậy
phải nói sao? Chúng ta cứ ở mãi trong tội lỗi, để ân sủng càng lan tràn ư? 2
Không phải thế! Chúng ta là những kẻ đã chết đối với tội lỗi, thì làm sao còn
sống mãi trong tội được. 3 Anh em không biết rằng: khi chúng ta được
dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào
trong cái chết của Người sao? 4 Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng
ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ
cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một
đời sống mới.
5
Thật
vậy, vì chúng ta đã nên một với Đức Ki-tô nhờ được chết như Người đã chết, thì
chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại. 6
Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập
giá với Đức Ki-tô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để
chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. 7 Quả thế, ai đã chết,
thì thoát khỏi quyền của tội lỗi.
8
Nếu
chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó
là niềm tin của chúng ta. 9 Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi
Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết
chẳng còn quyền chi đối với Người. 10 Người đã chết, là chết đối với
tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. 11 Anh
em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho
Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su.
Phục
vụ tội lỗi và phục vụ sự công chính
12
Vậy
tội lỗi đừng có thống trị thân xác phải chết của anh em nữa, khiến anh em phải
nghe theo những dục vọng của thân xác. 13 Anh em đừng dùng chi thể
của anh em như khí cụ để làm điều bất chính, phục vụ cho tội lỗi nữa. Trái lại,
anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho
Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều công chính, phục
vụ Thiên Chúa. 14 Tội lỗi sẽ không còn quyền chi đối với anh em nữa,
vì anh em không còn lệ thuộc vào Lề Luật, nhưng lệ thuộc vào ân sủng.
Người
tín hữu được giải thoát khỏi tội lỗi
15
Vậy
thì sao? Chúng ta cứ phạm tội ư, vì chúng ta không còn lệ thuộc vào Lề Luật,
nhưng lệ thuộc vào ân sủng? Không đời nào! 16 Anh em không biết sao? Khi đem thân
làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của người mà anh em vâng phục:
hoặc làm nô lệ tội lỗi, thì sẽ phải chết; hoặc làm nô lệ phục vụ Thiên Chúa,
thì sẽ được nên công chính. 17 Tạ ơn Thiên Chúa! Trước kia anh em
làm nô lệ tội lỗi, nhưng nay anh em đã hết lòng vâng theo quy luật đạo lý đã
đào tạo anh em. 18 Anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở
thành nô lệ sự công chính. 19 Ấy là tôi nói theo kiểu người phàm,
hợp với tầm hiểu biết yếu kém của anh em. Trước đây, anh em đã dùng chi thể của
mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô luân, thì nay anh em
cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện.
Kết
quả của tội lỗi và kết quả của sự công chính
20
Khi
còn là nô lệ tội lỗi, anh em được tự do không phải làm điều công chính. 21
Bấy giờ anh em thu được kết quả nào, bởi làm những việc mà ngày nay anh
em phải xấu hổ? Vì rốt cuộc những việc ấy đưa đến chỗ chết. 22 Nhưng
giờ đây anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ của Thiên
Chúa; anh em thu được kết quả là được trở nên thánh thiện, và rốt cuộc được
sống đời đời. 23 Thật vậy, lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta,
là cái chết; còn ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức
Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.
Chương 7
Người
tín hữu được giải thoát khỏi Lề Luật
1
Thưa
anh em,-tôi nói đây là nói với những người biết Luật- anh em không biết điều
này sao: Luật chỉ có hiệu lực đối với người ta, bao lâu người ta còn sống? 2 Tỉ
dụ như người đàn bà có chồng, thì luật buộc theo chồng bao lâu chồng còn sống.
Nhưng nếu chồng chết, thì vợ không còn bị luật ràng buộc với chồng nữa. 3 Vậy
bao lâu chồng còn sống, mà vợ đi lấy người khác, thì sẽ bị gọi là kẻ ngoại
tình. Nhưng nếu chồng chết, thì vợ được tự do không phải giữ luật đó nữa, và có
đi lấy người khác, cũng không phải là ngoại tình. 4 Đối với anh em
cũng thế. Bởi được liên kết với thân thể Đức Ki-tô, anh em đã chết đối với Luật
Mô-sê. Giờ đây, anh em thuộc về một người khác, tức là thuộc về Đấng đã được
Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết, để chúng ta sinh hoa kết quả cho Thiên
Chúa. 5 Vì trước đây, khi chúng ta còn bị tính xác thịt chi phối,
thì các đam mê tội lỗi dùng Lề Luật mà hoạt động nơi các chi thể chúng ta, để
chúng ta sinh hoa kết quả đưa tới cái chết. 6 Nhưng nay, chúng ta không
còn bị Lề Luật ràng buộc nữa, vì chúng ta đã chết đối với cái vẫn giam hãm
chúng ta. Như vậy, chúng ta phục vụ Thiên Chúa theo tinh thần mới, chứ không
theo bản văn cũ của Lề Luật.
Vai
trò của Lề Luật
7
Vậy
phải nói sao? Lề Luật là tội chăng? Không phải thế! Nhưng tôi đã chẳng biết tội
là gì nếu không có Lề Luật. Thật vậy, tôi đã chẳng biết ham muốn là gì, nếu
Luật không dạy: Ngươi không được ham muốn. 8 Tội đã thừa cơ, dùng
điều răn mà làm nảy sinh trong tôi đủ thứ ham muốn. Thật vậy, không có Lề Luật
thì tội đã chết rồi.
9
Xưa
kia, không có Luật thì tôi sống; nhưng từ khi có điều răn thì tội bắt đầu sống,
10 còn tôi thì chết. Thành thử điều răn lẽ ra phải đưa đến sự sống,
lại dẫn tôi đến chỗ chết. 11 Quả thế, tội đã thừa cơ, dùng điều răn
để quyến rũ tôi và cũng dùng điều răn đó để giết tôi.
12
Như
vậy, Lề Luật là thánh, và điều răn cũng là thánh, đúng và tốt. 13 Vậy
phải chăng điều tốt lại đã gây nên cái chết cho tôi? Không phải thế! Nhưng
chính tội đã dùng điều tốt mà gây nên cái chết cho tôi: như vậy, tội để lộ chân
tướng và cho thấy tất cả sức mạnh tội lỗi của nó.
Cuộc
chiến đấu nội tâm
14
Vẫn
biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán
làm tôi cho tội lỗi. 15 Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: vì
điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. 16
Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và
nhận rằng Lề Luật là tốt. 17 Vậy thật ra không còn phải là chính tôi
làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. 18 Tôi biết rằng sự thiện
không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi
có thể muốn, nhưng làm thì không. 19 Sự thiện tôi muốn thì tôi không
làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. 20 Nếu tôi cứ làm
điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội
vẫn ở trong tôi.
21
Bởi
đó tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất
hiện ngay. 22 Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của
Thiên Chúa; 23 nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một
luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong
luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
24
Tôi
thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?
25 Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta!
Như
vậy, nếu theo lý trí, thì tôi làm nô lệ luật của Thiên Chúa; nhưng theo xác
thịt, thì tôi làm nô lệ luật của tội.
B.
NGƯỜI TÍN HỮU SỐNG THEO THẦN KHÍ
Chương 8
Sống
theo Thần Khí
1
Vậy
giờ đây, những ai ở trong Đức Ki-tô Giê-su, thì không còn bị lên án nữa. 2
Thật vậy, luật của Thần Khí ban sự sống trong Đức Ki-tô Giê-su, đã giải
thoát tôi khỏi luật của tội và sự chết. 3 Điều mà Lề Luật không thể
làm được, vì bị tính xác thịt làm cho ra suy yếu, thì Thiên Chúa đã làm: khi
sai chính Con mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền
tội chúng ta, Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình. 4 Thiên
Chúa làm như vậy, để sự công chính mà Luật đòi hỏi được hoàn toàn thực hiện nơi
chúng ta, là những người không sống theo tính xác thịt, nhưng theo Thần Khí.
5
Những
ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn
những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí. 6 Hướng
đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình
an. 7 Thật vậy, hướng đi của tính xác thịt là sự phản nghịch cùng
Thiên Chúa, vì tính xác thịt không phục tùng luật của Thiên Chúa, mà cũng không
thể phục tùng được. 8 Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không
thể vừa lòng Thiên Chúa. 9 Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi
phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh
em. Ai không có Thần Khí của Đức Ki-tô, thì không thuộc về Đức Ki-tô. 10 Nhưng
nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã
phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công
chính. 11 Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng
đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống
lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm
cho thân xác của anh em được sự sống mới.
12
Vậy
thưa anh em, chúng ta mang nợ, không phải mang nợ đối với tính xác thịt, để
phải sống theo tính xác thịt. 13 Vì nếu anh em sống theo tính xác
thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành
vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống.
Nhờ
Thần Khí, chúng ta được làm con Thiên Chúa
14
Quả
vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. 15
Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô
lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ
đó chúng ta được kêu lên: ”Áp-ba! Cha ơi!”16 Chính Thần Khí chứng thực cho thần
trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. 17 Vậy đã là con,
thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế
với Đức Ki-tô; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được
hưởng vinh quang với Người.
Vinh
quang dành cho ta
18
Thật
vậy, tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh
quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta. 19 Muôn loài thọ tạo
những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người.
20 Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng
muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt chịu vậy; tuy nhiên, vẫn còn niềm trông cậy 21
là có ngày cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được
cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang. 22 Thật
vậy, chúng ta biết rằng: cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và
quằn quại như sắp sinh nở. 23 Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng
ta cũng rên siết trong lòng: chúng ta đã lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu,
nhưng còn trông đợi Thiên Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc
thân xác chúng ta nữa. 24 Quả thế, chúng ta đã được cứu độ, nhưng
vẫn còn phải trông mong. Thấy được điều mình trông mong, thì không còn phải là
trông mong nữa: vì ai lại trông mong điều mình đã thấy rồi? 25 Nhưng nếu chúng
ta trông mong điều mình chưa thấy, thì đó là chúng ta bền chí đợi chờ.
26
Hơn
nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không
biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp
chúng ta, bằng những tiếng rên siết khôn tả. 27 Và Thiên Chúa, Đấng
thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp
cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa.
Ý
định cứu độ của Thiên Chúa
28
Chúng
ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến
Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định. 29 Vì
những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình
đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em
đông đúc. 30 Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu
gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai
Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.
Ca
tụng tình yêu của Thiên Chúa
31
Vậy
còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được
chúng ta? 32 Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao
nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại
chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? 33 Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã
chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? 34 Ai sẽ kết án họ?
Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên
hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?
35
Ai
có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân,
khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? 36 Như có lời chép: Chính vì
Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh.
37
Nhưng
trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.
38
Đúng
thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương
quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, 39 trời
cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách được
chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa
chúng ta.
C.
VẤN ĐỀ ÍT-RA-EN KHÔNG TIN
Chương 9
Các
đặc ân dành cho Ít-ra-en
1
Có
Đức Ki-tô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối và lương tâm tôi,
được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi rằng: 2 lòng tôi
rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi. 3 Quả vậy, giả như vì
anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức
Ki-tô, thì tôi cũng cam lòng. 4 Họ là người Ít-ra-en, họ đã được
Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước,
lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; 5 họ là con cháu các tổ
phụ; và sau hết, chính Đức Ki-tô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống
với họ. Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn
thuở muôn đời. A-men.
Thiên
Chúa không thất tín
6
Nói
thế không có nghĩa là lời Thiên Chúa đã hoá ra vô hiệu. Vì không phải tất cả
con cháu ông Áp-ra-ham đều là dân Ít-ra-en; 7 cũng như không phải vì
họ thuộc dòng dõi ông Áp-ra-ham mà họ đều là con cái ông. Nhưng chính dòng dõi
I-xa-ác mới được mang tên ngươi, 8 nghĩa là không phải hễ là con đẻ
của ông Áp-ra-ham, thì là con cái Thiên Chúa; nhưng con cái sinh ra do lời
Thiên Chúa hứa mới được kể là chính tông. 9 Thật vậy, lời hứa là thế
này: Sang năm, cũng vào thời kỳ này, Ta sẽ trở lại và Xa-ra sẽ có một con trai.
10 Không phải chỉ có thế: bà Rê-bê-ca đã có thai với một người duy
nhất là ông I-xa-ác, tổ tiên chúng ta. 11 Nhưng khi các con bà chưa
sinh ra, và do đó chưa làm gì tốt hay xấu, thì Thiên Chúa đã nói với bà: Thằng
anh sẽ làm tôi thằng em. Như vậy là để giữ vững kế hoạch Thiên Chúa đã tự do
chọn lựa, 12 mà chọn không dựa vào việc người ta làm, nhưng dựa vào
ý muốn của Thiên Chúa là Đấng kêu gọi. 13 Như có lời chép: Ta yêu
Gia-cóp mà ghét Ê-xau.
Thiên
Chúa không bất công
14
Vậy
phải nói sao? Chẳng lẽ Thiên Chúa bất công ư? Không phải thế! 15 Quả vậy, Thiên
Chúa đã phán với ông Mô-sê: Ta muốn thương xót ai thì thương xót, muốn cảm
thương ai thì cảm thương. 16 Vậy người ta được chọn không phải vì
muốn hay chạy vạy, nhưng vì được Thiên Chúa thương xót. 17 Quả thế,
trong Kinh Thánh, Thiên Chúa cũng nói với Pha-ra-ô: Ta đã cất nhắc ngươi lên,
chính là để dùng ngươi làm cớ cho mọi người thấy sức mạnh của Ta, và để cho
danh Ta lẫy lừng trên khắp hoàn cầu. 18 Vậy Thiên Chúa thương xót ai
là tuỳ ý Người, và làm cho ai ra cứng cổ cũng tuỳ ý Người.
19
Hẳn
bạn sẽ nói với tôi: ”Vậy Thiên Chúa còn trách gì nữa? Vì ai cưỡng lại được ý
Người?” 20 Hỡi người, bạn là ai mà dám cãi lại Thiên Chúa? Chẳng lẽ
sản phẩm lại nói với người sản xuất: Sao ông làm ra tôi như thế này? 21 Phải
chăng thợ gốm không có quyền dùng đất sét theo ý mình: từ cùng một nắm đất mà
nắn ra đồ vật khác nhau, cái thì dùng vào việc cao quý, cái thì dùng vào việc
thấp hèn. 22 Thiên Chúa cũng vậy: dù muốn cho thấy cơn thịnh nộ và
cho biết sức mạnh của Người, nhưng Người đã hết lòng kiên nhẫn chịu đựng những
kẻ đáng hứng chịu cơn thịnh nộ và chờ sẵn ngày diệt vong. 23 Thiên
Chúa cũng muốn cho biết vinh quang của Người dồi dào biết mấy đối với những kẻ
được Người thương xót, những kẻ mà Người đã chuẩn bị trước cho họ lãnh nhận
vinh quang đó. 24 Những kẻ ấy là chính chúng ta. Thiên Chúa đã kêu
gọi chúng ta là những người không phải chỉ thuộc dân Do-thái, mà còn thuộc các
dân ngoại nữa.
Cựu
Ước thấy trước Ít-ra-en sẽ thất trung và dân ngoại sẽ được kêu gọi
25
Đó
chính là điều Thiên Chúa phán trong sách Hô-sê: Dân trước đây không phải dân
của Ta, Ta sẽ gọi là Dân của Ta; người chẳng được yêu, Ta sẽ gọi là Người Yêu. 26
Và chính ở nơi đã nói về họ: ”Các ngươi không phải là dân của Ta",
thì ở đó họ sẽ được gọi là con cái của Thiên Chúa hằng sống. 27 Ngôn
sứ I-sai-a đã lớn tiếng nói về dân Ít-ra-en rằng: Dù số con cái Ít-ra-en có
nhiều như cát biển, thì chỉ phần còn sót lại mới được cứu. 28 Quả
thế, Đức Chúa sẽ thực hiện lời Người cách trọn vẹn và mau chóng trên mặt đất. 29
Như ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo: Nếu như Đức Chúa các đạo binh chẳng chừa
lại cho chúng ta kẻ nối dõi, thì chúng ta đã trở nên như thành Xơ-đom, và giống
như thành Gô-mô-ra rồi.
30
Vậy
phải nói sao? Phải nói rằng: các dân ngoại không tìm cách để được nên công
chính, thì được nên công chính, mà được nên công chính là nhờ đức tin. 31 Còn
dân Ít-ra-en tìm một luật làm cho họ nên công chính thì lại không đạt tới Luật
đó. 32 Tại sao thế? Tại vì họ không tìm cách nên công chính nhờ đức
tin, nhưng nhờ việc làm. Họ đã vấp phải hòn đá làm cho vấp, 33 như
có lời chép rằng: Này đây Ta đặt tại Xi-on một hòn đá làm cho vấp, một tảng đá
làm cho ngã; nhưng kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng.
Chương 10
Ít-ra-en
không nhận biết rằngThiên Chúa làm cho con người nên công chính
1
Thưa
anh em, lòng tôi những ước mong và tôi cầu xin cho dân Do-thái được cứu độ. 2
Quả thế, tôi làm chứng cho họ là họ có lòng nhiệt thành đối với Thiên
Chúa, nhưng lòng nhiệt thành đó không được sáng suốt 3 họ không nhận biết rằng
chính Thiên Chúa làm cho người ta nên công chính, và họ tìm cách nên công chính
tự sức mình. Như vậy là họ không tuân theo đường lối Thiên Chúa làm cho người
ta nên công chính. 4 Quả thế, cứu cánh của Lề Luật là Đức Ki-tô,
khiến bất cứ ai tin đều được nên công chính.
Ông
Mô-sê báo trước con người được nên công chính nhờ đức tin
5
Về
việc người ta được nên công chính nhờ Lề Luật, ông Mô-sê có viết: Ai thực hành
những điều Lề Luật dạy, thì nhờ đó sẽ được sống. 6 Còn về việc người
ta được nên công chính nhờ đức tin, thì có lời nói: Đừng tự hỏi: ai sẽ lên
trời? ngụ ý là: để đem Đức Ki-tô xuống. 7 Cũng đừng hỏi: Ai sẽ xuống
âm phủ? ngụ ý là: để đưa Đức Ki-tô lên từ cõi chết. 8 Vậy Kinh Thánh
nói gì? Thưa: Lời Thiên Chúa ở gần bạn, ngay trên miệng, ngay trong lòng. Lời
đó chính là lời chúng tôi rao giảng để khơi dậy đức tin. 9 Nếu miệng
bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho
Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. 10 Quả thế, có
tin thật trong lòng, mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng, mới được
ơn cứu độ. 11 Kinh Thánh nói: Mọi kẻ tin vào Người sẽ không phải
thất vọng. 12 Như vậy, không có sự khác biệt giữa người Do-thái và
người Hy-lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả
những ai kêu cầu Người. 13 Vì: Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa
sẽ được cứu thoát.
Ít-ra-en
không tự bào chữa
14
Thế
nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được
nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? 15 Làm sao mà rao giảng, nếu
không được sai đi? Như có lời chép: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo
tin mừng! 16 Nhưng không phải mọi người đều đã vâng theo Tin Mừng; chính ngôn
sứ I-sai-a đã nói: Lạy Đức Chúa, ai đã tin khi nghe chúng con giảng? 17 Ấy vậy,
có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô.
18
Nhưng
tôi xin hỏi: Phải chăng họ đã không được nghe giảng? Có chứ!
Tiếng
các ngài đã dội khắp hoàn cầu,
và
thông điệp loan đi tới chân trời góc biển.
19
Tôi
xin hỏi thêm: Phải chăng dân Ít-ra-en đã không hiểu? Trước hết, ông Mô-sê nói:
Ta sẽ làm cho các ngươi ganh tị với một dân không đáng gọi là dân, tức giận một
dân ngu đần. 20 Ông I-sai-a còn dám nói:
Những
kẻ không tìm Ta, lại được gặp Ta;
những
kẻ không hỏi Ta,
Ta
đã xuất hiện cho chúng thấy.
21
Còn
về dân Ít-ra-en, ông nói: Suốt ngày Ta dang tay kêu gọi một dân không vâng lời
và ngỗ nghịch.
Chương 11
Phần
còn sót lại của Ít-ra-en
1
Vậy
tôi xin hỏi: Phải chăng Thiên Chúa đã ruồng bỏ dân Người? Không phải thế! Chính
tôi đây cũng là người Ít-ra-en, thuộc dòng dõi Áp-ra-ham, thuộc chi tộc
Ben-gia-min. 2 Thiên Chúa không ruồng bỏ dân Người, dân mà Người đã
biết từ trước. Anh em chẳng biết truyện ông Ê-li-a trong Kinh Thánh sao? Khi
cầu nguyện với Thiên Chúa, ông đã tố cáo dân Ít-ra-en rằng: 3 Lạy
Chúa, các ngôn sứ của Ngài, chúng đã giết chết; bàn thờ của Ngài, chúng đã phá
huỷ. Chỉ còn sót lại một mình con, thế mà chúng cũng đang tìm hại mạng sống con.
4 Thiên Chúa trả lời ông thế nào? Ta chừa lại cho Ta bảy ngàn người,
là những kẻ đã không quỳ gối thờ thần Ba-an. 5 Ngày nay cũng vậy,
còn sót lại một số người được tuyển chọn nhờ ân sủng của Thiên Chúa. 6 Nhưng
nếu được chọn nhờ ân sủng, thì không phải là do việc làm, chẳng vậy ân sủng
không còn là ân sủng nữa.
7
Vậy
thì sao? Điều mà Ít-ra-en tìm kiếm, thì họ đã không đạt được; nhưng những kẻ
được tuyển chọn đã đạt được. Còn những người khác thì đã ra cứng lòng, 8 như
có lời chép: Thiên Chúa đã cho họ một thần khí hôn mê, cho họ mắt để không
thấy, tai để không nghe, mãi cho đến ngày nay. 9 Vua Đa-vít cũng
nói: Ước gì bàn tiệc của chúng nên dò, nên bẫy cho chúng sa vào, và nên cớ vấp
ngã, nên hình phạt đích đáng! 10 Ước gì mắt chúng mù đi không thấy nữa và lưng
sụm xuống đến mãn đời.
Thiên
Chúa sẽ khôi phục Ít-ra-en
11
Vậy
tôi xin hỏi: Phải chăng Ít-ra-en đã vấp đến mức phải ngã quỵ? Không phải thế!
Nhưng vì họ sa ngã mà Thiên Chúa cho các dân ngoại hưởng ơn cứu độ, khiến họ
phải ganh tị. 12 Nếu vì người Do-thái sa ngã mà thế giới được ơn
phúc dồi dào, nếu vì họ suy vi mà các dân ngoại được ơn phúc dồi dào, thì khi
họ trở về đông đủ, tình trạng còn tốt đẹp hơn biết mấy! 13 Tôi xin ngỏ lời với
anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, tôi
coi trọng chức vụ của tôi, 14 mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em
đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. 15 Thật
vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa, thì
việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi
sống?
Cây
ô-liu dại và cây ô-liu tốt
16
Nếu
cái bánh đầu tiên mà thánh thì cả khối bột làm bánh cũng vậy; nếu rễ cây mà
thánh, thì cành cây cũng vậy. 17 Một số cành cây ô-liu đã bị chặt
đi, còn bạn là ô-liu dại đã được tháp vào đó, và cùng được hưởng sự sống dồi
dào từ rễ cây ô-liu chính. 18 Vì thế, bạn đừng có lên mặt khinh dể các
cành khác. Thì bạn cứ lên mặt đi! Đâu phải bạn mang rễ, mà là rễ mang bạn! 19
Có lẽ bạn sẽ nói: ”Một số cành đã bị chặt đi, để tôi được tháp vào.” 20 Đúng
thế! Vì họ không tin mà đã bị chặt đi, còn bạn vì tin mà còn đó. Đừng có tự cao
tự đại, nhưng phải sợ thì hơn. 21 Thật vậy, nếu những cành tự nhiên,
mà Thiên Chúa đã không tha, thì Người cũng sẽ chẳng tha bạn đâu. 22 Bạn
hãy xem Thiên Chúa nhân từ và nghiêm khắc thế nào: Người nghiêm khắc với những
kẻ sa ngã, nhưng nhân từ với bạn, cứ một mực cậy nhờ vào lòng nhân từ đó. Chẳng
vậy, cả bạn nữa cũng sẽ bị chặt đi. 23 Còn người Do-thái, nếu họ từ
bỏ thái độ ngoan cố chẳng chịu tin, thì họ sẽ được tháp vào, vì Thiên Chúa thừa
sức tháp họ một lần nữa. 24 Nếu bạn vốn là cành của cây ô-liu dại,
mà còn được chặt đi và tháp vào cây ô-liu tốt, trái lẽ tự nhiên, thì phương chi
họ vốn là những cành của cây ô-liu chính, họ lại càng có thể được tháp vào cây
cũ.
Ít-ra-en
sẽ trở lại
25
Thưa
anh em, tôi không muốn anh em chẳng hay biết mầu nhiệm này, để anh em đừng tự
cho mình là khôn, đó là: một phần dân Ít-ra-en đã ra cứng lòng, cho đến khi các
dân ngoại gia nhập đông đủ. 26 Như vậy, toàn thể Ít-ra-en sẽ được
cứu độ, như có lời chép: Từ núi Xi-on, vị Cứu Tinh sẽ đến, Người sẽ loại bỏ
những điều vô đạo khỏi nhà Gia-cóp. 27 Đó sẽ là giao ước của Ta với
chúng, khi Ta xoá bỏ tội lỗi chúng.
28
Đối
chiếu với Tin Mừng thì họ là thù địch, điều đó có lợi cho anh em; nhưng theo ơn
tuyển chọn, họ là những người được yêu thương, và đó là nhờ các tổ phụ. 29
Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý.
30
Thật
vậy, trước kia anh em đã không vâng phục Thiên Chúa, nhưng nay anh em đã được
thương xót, vì họ không vâng phục; 31 họ cũng thế: nay họ không vâng
phục Thiên Chúa, vì Người thương xót anh em, nhưng đó là để chính họ cũng được
thương xót. 32 Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội
không vâng phục, để thương xót mọi người.
Ca
tụng thánh ý nhiệm mầu
33
Sự
giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định
của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được! 34 Thật vậy,
ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người? 35 Ai đã cho Người
trước, để Người phải trả lại sau? 36 Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người
mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! A-men.
KHUYÊN
NHỦ
Chương 12
Cách
thức xứng hợp để thờ phượng Thiên Chúa
1
Thưa
anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng
thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách
thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. 2 Anh em đừng có rập theo
đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có
thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì
hoàn hảo.
Sống
khiêm nhường và bác ái trong cộng đoàn
3
Dựa
vào ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi xin nói với từng người trong anh em:
đừng đi quá mức khi đánh giá mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức, mỗi
người tuỳ theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho. 4 Cũng như
trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một
chức năng, 5 thì chúng ta cũng vậy: tuy nhiều nhưng chỉ là một thân
thể trong Đức Ki-tô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận
của một thân thể. 6 Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo
ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho
phù hợp với đức tin. 7 Được ơn phục vụ, thì phải phục vụ. Ai dạy
bảo, thì cứ dạy bảo. 8 Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân
phát, thì phải chân thành. Ai chủ toạ, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác
ái thì vui vẻ mà làm.
9
Lòng
bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với
điều lành; 10 thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác
trọng hơn mình; 11 nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt
sắng mà phục vụ Chúa. 12 Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên
nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. 13 Hãy chia sẻ
với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi
khách đến nhà.
Bác
ái đối với mọi người, kể cả thù địch
14
Hãy
chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: 15
vui với người vui, khóc với người khóc. 16 Hãy đồng tâm nhất
trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng
cho mình là khôn ngoan, 17 đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những
điều mọi người cho là tốt. 18 Hãy làm tất cả những gì anh em có thể
làm được, để sống hoà thuận với mọi người. 19 Anh em thân mến, đừng
tự mình báo oán, nhưng hãy để cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa làm việc đó, vì
có lời chép: Đức Chúa phán: Chính Ta sẽ báo oán, chính Ta sẽ đáp trả. 20 Trái
lại, kẻ thù ngươi có đói, hãy cho nó ăn; có khát, hãy cho nó uống; làm như vậy,
ngươi sẽ chất than hồng lên đầu nó. 21 Đừng để cho sự ác thắng được
mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác.
Chương 13
Phục
tùng chính quyền
1
Mỗi
người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên
Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. 2 Như
vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào
chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. 3 Thật thế, làm điều thiện thì không
phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ. Bạn muốn khỏi phải sợ chính
quyền ư? Hãy làm điều thiện, và bạn sẽ được họ khen ngợi, 4 vì chính
quyền là người thừa hành của Thiên Chúa để giúp bạn làm điều thiện. Nhưng nếu
bạn làm điều ác, thì hãy sợ, vì họ mang gươm không phải không có lý do. Thật
vậy, họ là người thừa hành của Thiên Chúa để giáng cơn thịnh nộ của Người xuống
kẻ làm điều ác. 5 Vì lẽ đó, cần thiết phải phục tùng, không những vì
sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm. 6 Đó cũng là lý do khiến anh em nộp
thuế: nhân viên thu thuế là những người phục vụ Thiên Chúa, khi chu toàn phận
sự. 7 Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu
cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người
phải kính.
Yêu
thương là chu toàn Lề Luật
8
Anh
em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã
chu toàn Lề Luật. 9 Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được
ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn,
cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người
thân cận như chính mình. 10 Đã yêu thương thì không làm hại người
đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.
Người
tín hữu là con cái ánh sáng
11
Phải
như thế, vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em
phải thức dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước
kia, khi chúng ta mới tin đạo. 12 Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy
chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để
chiến đấu. 13 Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống
giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi
cọ ghen tương. 14 Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giê-su Ki-tô, và
đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.
Chương 14
Bác
ái đối với người yếu tin
1
Anh
em hãy đón nhận người yếu đức tin và đừng tranh luận với họ. 2 Có
người tin mình ăn được mọi thứ, có người vì yếu chỉ ăn rau. 3 Người
ăn đừng có khinh kẻ không ăn, còn kẻ không ăn cũng đừng xét đoán người ăn, vì
Thiên Chúa đã đón nhận người ấy. 4 Bạn là ai mà xét đoán người nhà
của kẻ khác? Nó đứng hay nó ngã, đó là việc của chủ nó. Nhưng nó sẽ đứng, vì
Chúa có khả năng làm cho nó đứng. 5 Người thì cho rằng: ngày này
trọng hơn ngày khác; kẻ thì lại nghĩ: ngày nào cũng như nhau. Trong thâm tâm,
mỗi người phải có xác tín. 6 Ai để ý đến ngày này ngày nọ, thì làm
thế để kính Chúa. Người ăn, thì vì Chúa mà ăn, bởi lẽ họ tạ ơn Thiên Chúa. Còn
người không ăn, thì không ăn vì Chúa, họ cũng tạ ơn Thiên Chúa. 7 Thật
vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho
chính mình. 8 Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là
chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa; 9 vì
Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết. 10
Thế mà bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em? Và bạn nữa, sao bạn khinh
dể người anh em? Quả thế, tất cả chúng ta sẽ phải ra trước toà Thiên Chúa, 11
vì có lời chép rằng: Đức Chúa phán: Ta lấy sự sống Ta mà thề: mọi người
sẽ quỳ gối lạy Ta, và mọi miệng lưỡi phải xưng tụng Thiên Chúa. 12 Như
vậy, mỗi người trong chúng ta sẽ phải trả lời về chính mình trước mặt Thiên
Chúa.
13
Vậy
chúng ta đừng xét đoán nhau nữa. Tốt hơn, anh em hãy xét sao để tránh gây cớ
cho anh em mình phải vấp hay phải ngã. 14 Trong Chúa Giê-su, tôi
biết và xác tín rằng không có gì tự nó là ô uế; có ô uế là chỉ đối với người
cho nó là ô uế. 15 Nếu vì bạn ăn một thức ăn, mà bạn làm phiền lòng
người anh em, thì bạn không còn sống theo đức ái nữa. Đừng vì chuyện ăn uống mà
làm cho người anh em của bạn phải hư mất, vì Đức Ki-tô đã chết cho người ấy.
16
Vậy
đừng để cho thiên hạ chê bai điều mà anh em cho là tốt. 17 Vì Nước
Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an
và hoan lạc trong Thánh Thần. 18 Ai phục vụ Đức Ki-tô như thế, thì
đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta quý trọng. 19 Vậy chúng ta hãy
theo đuổi những gì đem lại bình an và những gì xây dựng cho nhau. 20 Đừng
vì một thức ăn mà phá huỷ công trình Thiên Chúa. Đã hẳn, mọi thức ăn đều thanh
sạch; nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu. 21 Tốt nhất là
đừng ăn thịt, uống rượu, và tránh những gì có thể gây cớ cho anh em mình vấp
ngã.
22
Bạn
xác tín điều gì, thì cứ giữ lấy cho mình trước mặt Thiên Chúa. Phúc thay ai
không cho mình là có lỗi khi quyết định làm điều gì! 23 Còn ai hồ nghi mà cứ
ăn, thì bị kết án, vì hành động không do xác tín. Hành động nào không do xác
tín đều là tội.
Chương 15
1
Bổn
phận của chúng ta, những người có đức tin vững mạnh, là phải nâng đỡ những
người yếu đuối, không có đức tin vững mạnh, chứ không phải chiều theo sở thích
của mình. 2 Mỗi người chúng ta hãy chiều theo sở thích kẻ khác, vì
lợi ích của họ, và để xây dựng. 3 Thật vậy, Đức Ki-tô đã không chiều
theo sở thích của mình; trái lại, như có lời chép: Lời kẻ thoá mạ Ngài, này
chính con hứng chịu. 4 Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh
Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên
nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy.
5
Xin
Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí
với nhau, như Đức Ki-tô Giê-su đòi hỏi. 6 Nhờ đó, anh em sẽ có thể
hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa
chúng ta.
7
Vậy,
anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh
Thiên Chúa. 8 Thật vậy, tôi xin quả quyết: Đức Ki-tô có đến phục vụ
những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên
họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. 9 Còn các dân ngoại có
được tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời
chép: Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng
danh thánh Chúa. 10 Chỗ khác lại chép: Hỡi chư dân, hãy vui mừng với
dân Thiên Chúa! 11 Chỗ khác nữa: Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi,
hãy chúc tụng Người! 12 Ông I-sai-a cũng nói: Từ gốc tổ Gie-sê sẽ xuất hiện một
mầm non, một Đấng sẽ đứng lên lãnh đạo chư dân. Chư dân sẽ hy vọng nơi Người.
13
Xin
Thiên Chúa là nguồn hy vọng, ban cho anh em được chan chứa niềm vui và bình an
nhờ đức tin, để nhờ quyền năng của Thánh Thần, anh em được tràn trề hy vọng.
KẾT
Công
việc phục vụ của thánh Phao-lô
14
Thưa
anh em, chính tôi, tôi tin chắc rằng anh em có đầy thiện chí, thừa hiểu biết và
có khả năng khuyên bảo nhau. 15 Trong thư này, đôi chỗ tôi đã nói
hơi mạnh, chẳng qua là để nhắc lại cho anh em điều anh em đã biết. Tôi viết thế
là dựa vào ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi 16 làm người phục vụ Đức Giê-su
Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa,
để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hoá mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng
Thiên Chúa.
17
Vậy,
trong Đức Ki-tô Giê-su, tôi có quyền hãnh diện về công việc phục vụ Thiên Chúa.
18 Thật thế, tôi đâu dám nhắc đến chuyện nào khác, ngoài những gì
Đức Ki-tô đã dùng tôi mà thực hiện để đưa các dân ngoại về phục vụ Thiên Chúa,
thực hiện bằng lời nói việc làm, 19 bằng sức mạnh của những dấu lạ
điềm thiêng, bằng quyền năng của Thánh Thần. Như vậy, từ Giê-ru-sa-lem, đi vòng
đến tận miền I-ly-ri, tôi đã làm tròn sứ mạng loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô. 20
Nhưng tôi chỉ có tham vọng là loan báo Tin Mừng ở những nơi người ta chưa
được nghe nói đến danh Đức Ki-tô. Tôi làm thế vì không muốn xây dựng trên nền
móng người khác đã đặt. 21 Trái lại, như có lời chép: Những kẻ đã
không được loan báo về Người, sẽ thấy, những kẻ đã không được nghe nói về
Người, sẽ hiểu.
Dự
định mấy chuyến đi
22
Chính
vì lẽ đó mà đã bao lần tôi bị ngăn trở không thể đến với anh em. 23 Nhưng
bây giờ tôi không còn môi trường hoạt động trong những vùng này nữa; đàng khác,
từ nhiều năm nay, tôi vẫn ước ao đến thăm anh em, 24 khi nào tôi
sang Tây Ban Nha. Tôi hy vọng trên đường đi sẽ ghé thăm anh em, và được anh em
tiễn đưa qua đó, sau khi được thoả mãn phần nào vì đã gặp anh em. 25 Nhưng
bây giờ tôi còn phải đi Giê-ru-sa-lem để phục vụ dân thánh ở đó, 26 vì
miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a đã có nhã ý đóng góp để giúp những người
nghèo trong số dân thánh ở Giê-ru-sa-lem. 27 Họ đã có nhã ý làm như
vậy, nhưng thực ra họ cũng có bổn phận đối với dân thánh ở đó. Bởi vì các dân
ngoại đã được chia sẻ các phúc lộc thiêng liêng của dân thánh ở Giê-ru-sa-lem,
thì họ cũng có bổn phận dùng của cải vật chất mà giúp đỡ lại. 28 Vậy
khi đã hoàn thành công việc ấy và đã chính thức chuyển giao kết quả cuộc lạc
quyên, tôi sẽ ghé thăm anh em trên đường đi Tây Ban Nha. 29 Tôi biết
rằng, khi đến thăm anh em, tôi sẽ đến với đầy đủ phúc lành của Đức Ki-tô.
30
Thưa
anh em, vì Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, và vì tình yêu của Thánh Thần, tôi
khuyên nhủ anh em cùng chiến đấu với tôi, bằng cách cầu xin Thiên Chúa cho tôi,
31 để tôi thoát khỏi tay những người miền Giu-đê không chịu tin và
để dân thánh vui lòng chấp nhận những gì tôi mang đến Giê-ru-sa-lem phục vụ họ.
32 Như thế, tôi sẽ vui mừng đến với anh em và được nghỉ ngơi giữa
anh em, nếu Thiên Chúa muốn.
33
Xin
Thiên Chúa là nguồn bình an, ở cùng tất cả anh em. A-men.
Chương 16
Giới
thiệu và chào thăm
1
Tôi
xin giới thiệu với anh em chị Phê-bê, người chị em của chúng tôi, là nữ trợ tá
Hội Thánh Ken-khơ-rê. 2 Mong anh em tiếp đón chị trong Chúa cách
xứng đáng, như dân thánh phải đối xử với nhau. Chị có việc gì cần đến anh em,
xin anh em giúp đỡ, vì chính chị cũng đã bảo trợ cho nhiều người, kể cả tôi
nữa.
3
Tôi
xin gửi lời thăm chị Pơ-rít-ca và anh A-qui-la, những người cộng tác với tôi để
phục vụ Đức Ki-tô Giê-su; 4 hai anh chị đã liều mất đầu để cứu mạng
tôi. Không chỉ mình tôi, mà còn các Hội Thánh trong dân ngoại cũng phải mang ơn
anh chị. 5 Tôi cũng xin gửi lời thăm Hội Thánh vẫn họp tại nhà anh
chị ấy.
6
Xin
gửi lời thăm chị Ma-ri-a, người đã vất vả nhiều vì anh em. 7 Xin gửi
lời thăm các anh An-rô-ni-cô và Giu-ni-a, bà con với tôi, và đã từng ngồi tù
với tôi; các anh là những người xuất sắc trong các Tông Đồ, lại còn theo Đức
Ki-tô trước tôi. 8 Xin gửi lời thăm anh Am-li-át, bạn yêu quý của
tôi trong Chúa. 9 Xin gửi lời thăm anh Ua-ban, người cộng tác với
chúng tôi trong Đức Ki-tô, và anh Ta-khy, bạn yêu quý của tôi. 10 Xin
gửi lời thăm anh A-pe-lê, người đã từng được tôi luyện trong Đức Ki-tô. Xin gửi
lời thăm mọi người trong nhà anh A-rít-tô-bu-lô. 11 Xin gửi lời thăm
anh Hê-rô-đi-on, bà con với tôi. Xin gửi lời thăm bà con anh Na-ki-xô, những
người đang ở trong Chúa. 12 Xin gửi lời thăm hai chị Try-phen và
Try-phô-xa, những người đang vất vả vì Chúa. Xin gửi lời thăm chị Péc-xi-đê yêu
quý, người đã vất vả nhiều vì Chúa. 13 Xin gửi lời thăm anh Ru-phô,
người được Chúa chọn, và thăm mẹ của anh, cũng là mẹ của tôi. 14 Xin
gửi lời thăm các anh A-xinh-rít, Phơ-lê-gon, Héc-mê, Pát-rô-ba, Héc-ma và những
anh em ở với các anh ấy. 15 Xin gửi lời thăm anh Phi-lô-lô-gô và chị
Giu-li-a, anh Nê-rê và cô em anh ấy, anh Ô-lim-pa và mọi người trong dân thánh
đang ở với các anh chị ấy. 16 Anh em hãy hôn chào nhau một cách
thánh thiện. Tất cả các Hội Thánh Đức Ki-tô gửi lời chào anh em.
Tái
bút lần thứ nhất: khuyên nhủ coi chừng
17
Thưa
anh em, tôi khuyên nhủ anh em hãy coi chừng những kẻ gây chia rẽ và làm cớ vấp
ngã, vì đi ngược lại với đạo lý anh em đã học hỏi; anh em hãy xa lánh họ. 18
Hạng người đó chẳng phục vụ Đức Ki-tô, Chúa chúng ta, mà phục vụ chính
cái bụng của mình. Họ dùng những lời ngọt ngào nịnh bợ mà quyến rũ những tâm
hồn đơn sơ. 19 Thật vậy, ai ai cũng biết rằng anh em vâng phục Thiên
Chúa; bởi thế tôi lấy làm vui vì anh em. Nhưng tôi muốn cho anh em khôn ngoan
làm điều tốt, trong sạch không làm điều xấu. 20 Thiên Chúa là nguồn
bình an, chẳng bao lâu nữa sẽ đè bẹp Xa-tan, bắt nó phải ở dưới chân anh em.
Nguyện xin Đức Giê-su, Chúa chúng ta, ban ân sủng cho anh em.
Tái
bút lần thứ hai: chào thăm lần cuối
21
Anh
Ti-mô-thê, người cộng tác với tôi, các anh Lu-ki-ô, Gia-xon và Xô-xi-pát-rô, bà
con của tôi, gửi lời thăm anh em. 22 Tôi là Téc-xi-ô, người chép thư
này, xin gửi lời thăm anh em trong Chúa. 23 Anh Gai-ô, người tiếp
rước tôi và tiếp rước cả Hội Thánh trong nhà của anh, gửi lời thăm anh em. Anh
Ê-rát-tô, quản lý kho bạc của thành phố, và anh Qua-tô, người anh em chúng tôi,
gửi lời thăm anh em. 24 Nguyện xin Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta,
ban ân sủng cho toàn thể anh em. A-men.
Vinh
tụng ca
25
Vinh
danh Thiên Chúa, Đấng có quyền năng làm cho anh em được vững mạnh theo Tin Mừng
tôi loan báo, khi rao giảng Đức Giê-su Ki-tô. Tin Mừng đó mặc khải mầu nhiệm
vốn được giữ kín tự ngàn xưa 26 nhưng nay lại được biểu lộ như lời các ngôn sứ
trong Sách Thánh. Theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng hằng có đời đời, mầu nhiệm này
được thông báo cho muôn dân biết, để họ tin mà vâng phục Thiên Chúa. 27 Chỉ
mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang
đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. A-men.
Cô-rin-tô 1
Chương 1
Lời
chào thăm. Lời cảm tạ
1
Tôi
là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và ông
Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi, 2 kính gửi Hội Thánh của
Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Đức Ki-tô Giê-su,
được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu
danh Chúa của chúng ta, Đức Giê-su Ki-tô, là Chúa của họ và của chúng ta. 3
Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em
ân sủng và bình an.
4
Tôi
hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi
Đức Ki-tô Giê-su. 5 Quả vậy, trong Đức Ki-tô Giê-su, anh em đã trở
nên phong phú về mọi phương diện, phong phú vì được nghe lời Chúa và hiểu biết
mầu nhiệm của Người. 6 Thật thế, lời chứng về Đức Ki-tô đã ăn sâu
vững chắc vào lòng trí anh em, 7 khiến anh em không thiếu một ân huệ
nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh
quang của Người. 8 Chính Người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến
cùng, nhờ thế không ai có thể trách cứ được anh em trong Ngày của Chúa chúng ta
là Đức Giê-su Ki-tô. 9 Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu
gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
I.
CHIA RẼ VÀ GƯƠNG XẤU
1.
CÁC PHE PHÁI TRONG GIÁO ĐOÀN CÔ-RIN-TÔ
Các
tín hữu chia rẽ nhau
10
Thưa
anh em, nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy
nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em,
nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau. 11 Thật vậy, thưa
anh em, người nhà của bà Khơ-lô-e cho tôi hay tin có chuyện bè phái giữa anh em.
12 Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: ”Tôi thuộc
về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông A-pô-lô, tôi thuộc về ông Kê-pha, tôi thuộc về
Đức Ki-tô.” 13 Thế ra Đức Ki-tô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải
Phao-lô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em đã chịu phép
rửa nhân danh Phao-lô sao? 14 Tôi tạ ơn Thiên Chúa, vì tôi đã không làm phép
rửa cho ai, trừ ông Cơ-rít-pô và ông Gai-ô. 15 Như thế, không ai nói
được rằng anh em đã chịu phép rửa nhân danh tôi. 16 À, tôi còn làm
phép rửa cho gia đình Tê-pha-na nữa. Ngoài ra, tôi không biết có làm phép rửa
cho ai khác nữa hay chăng.
Sự
khôn ngoan của thế gian và sự khôn ngoan theo Ki-tô giáo
17
Quả
vậy, Đức Ki-tô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin
Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Ki-tô khỏi
trở nên vô hiệu. 18 Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự
điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những
người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa. 19 Vì có
lời chép rằng: Ta sẽ huỷ diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự
thông thái của người thông thái. 20 Người khôn ngoan đâu? Người học
thức đâu? Người lý sự của thời này đâu? Thiên Chúa lại đã không để cho sự khôn
ngoan của thế gian ra điên rồ đó sao? 21 Thật vậy, thế gian đã không dùng sự
khôn ngoan mà nhận biết Thiên Chúa ở những nơi Thiên Chúa biểu lộ sự khôn ngoan
của Người. Cho nên Thiên Chúa đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những
người tin. 22 Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu
lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, 23 thì chúng tôi lại
rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục
không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. 24 Nhưng đối với
những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là
Đức Ki-tô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. 25 Vì cái điên
rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của
Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.
26
Thưa
anh em, anh em thử nghĩ lại xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em
đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy
người quý phái. 27 Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên
Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu
kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; 28 những
gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn
để huỷ diệt những gì hiện có, 29 hầu không một phàm nhân nào dám tự
phụ trước mặt Người. 30 Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa mà anh em
được hiện hữu trong Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng
ta, sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa, Đấng đã làm cho anh em trở nên công
chính, đã thánh hoá và cứu chuộc anh em, 31 hợp như lời đã chép
rằng: Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa.
Chương 2
1
Thưa
anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý
cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. 2 Vì hồi còn ở giữa
anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô, mà là
Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá. 3 Vì thế, khi đến với
anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. 4 Tôi nói, tôi
giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng
xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. 5 Có vậy, đức tin
của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng
Thiên Chúa.
6
Thế
mà điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn
ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các
thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. 7 Trái
lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí
mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta
được vinh hiển. 8 Không một ai trong các thủ lãnh thế gian này đã
được biết lẽ khôn ngoan ấy, vì nếu biết, họ đã chẳng đóng đinh Đức Chúa hiển
vinh vào thập giá. 9 Nhưng, như đã chép: Điều mắt chẳng hề thấy, tai
chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn
sẵn cho những ai mến yêu Người.
10
Còn
chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí. Thật vậy,
Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa. 11 Vậy
ai trong loài người biết được những gì nơi con người, nếu không phải là thần
trí của con người trong con người? Cũng thế, không ai biết được những gì nơi
Thiên Chúa, nếu không phải là Thần Khí của Thiên Chúa. 12 Phần chúng
ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát
xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. 13
Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được
nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần
Khí; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc
về Thần Khí. 14 Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận
những gì của Thần Khí Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể biết
được, bởi vì phải nhờ Thần Khí mới có thể xét đoán. 15 Nhưng con
người sống theo Thần Khí thì xét đoán được mọi sự, mà chẳng có ai xét đoán được
người đó. 16 Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa, để chỉ vẽ cho
Người? Còn chúng tôi, chúng tôi biết được tư tưởng của Đức Ki-tô.
Chương 3
1
Thưa
anh em, về phần tôi, tôi đã không thể nói với anh em như với những con người
sống theo Thần Khí, nhưng như với những con người sống theo tính xác thịt, như
với những trẻ nhỏ trong Đức Ki-tô. 2 Tôi đã cho anh em uống sữa chứ
không cho dùng thức ăn, vì anh em chưa chịu nổi. Nhưng bây giờ anh em cũng vẫn
còn không chịu nổi, 3 vì anh em còn là những con người sống theo
tính xác thịt. Bao lâu giữa anh em có sự ghen tương và cãi cọ, thì anh em chẳng
phải là những con người sống theo tính xác thịt và theo thói người phàm sao? 4
Khi người này nói: ”Tôi, tôi thuộc về ông Phao-lô", và người khác: ”Tôi,
tôi thuộc về ông A-pô-lô", thì anh em chẳng là người phàm tục sao?
Vai
trò thực sự của người rao giảng
5
Vậy
A-pô-lô là gì? Phao-lô là gì? Đó là những tôi tớ đã giúp cho anh em có đức tin,
mỗi người đã làm theo khả năng Chúa ban. 6 Tôi trồng, anh A-pô-lô
tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. 7 Vì thế, kẻ trồng hay
người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể.
8 Kẻ trồng người tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ được thù lao
theo công khó của mình. 9 Thật vậy, chúng tôi là cộng sự viên của
Thiên Chúa. Anh em là cánh đồng của Thiên Chúa, là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên.
10
Theo
ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi đặt nền móng như một kiến trúc sư lành nghề,
còn người khác thì xây trên nền móng đó. Nhưng ai nấy phải coi chừng về cách
mình xây cất. 11 Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền
móng đã đặt sẵn là Đức Giê-su Ki-tô. 12 Người ta có thể dùng vàng,
bạc, đá quý, gỗ, cỏ, rơm mà xây trên nền đó. 13 Nhưng công việc của
mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Thật thế, Ngày của Chúa sẽ cho thấy
công việc đó, vì Ngày ấy tỏ rạng trong lửa; chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị
công việc của mỗi người. 14 Công việc xây dựng của ai tồn tại trên
nền, thì người ấy sẽ được lĩnh thưởng. 15 Còn công việc của ai bị
thiêu huỷ, thì người ấy sẽ phải thiệt. Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được
cứu, nhưng như thể băng qua lửa.
16
Nào
anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên
Chúa ngự trong anh em sao? 17 Vậy ai phá huỷ Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa
sẽ huỷ diệt kẻ ấy. Vì Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là
anh em.
Kết
luận
18
Đừng
ai tự lừa dối mình. Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói
đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. 19 Vì sự
khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa, như có lời chép rằng:
Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của chúng. 20 Lại có
lời rằng: Tư tưởng kẻ khôn ngoan, Chúa đều biết cả: thật chỉ như cơn gió thoảng
ngoài.
21
Vậy
đừng ai dựa vào phàm nhân mà tự hào. Vì tất cả đều thuộc về anh em; 22 dù
là Phao-lô, hay A-pô-lô, hay Kê-pha, dù cả thế gian này, sự sống, sự chết, hiện
tại hay tương lai, tất cả đều thuộc về anh em, 23 mà anh em thuộc về
Đức Ki-tô, và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa.
Chương 4
1
Vậy
chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức Ki-tô, những người quản
lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. 2 Mà người ta chỉ đòi hỏi ở người
quản lý một điều, là phải chứng tỏ lòng trung thành. 3 Đối với tôi,
dù có bị anh em hay toà đời xét xử, tôi cũng chẳng coi là gì. Mà tôi, tôi cũng
chẳng tự xét xử lấy mình. 4 Quả thật, tôi không thấy lương tâm áy
náy điều gì, nhưng đâu phải vì thế mà tôi đã được kể là người công chính. Đấng
xét xử tôi chính là Chúa. 5 Vậy xin anh em đừng vội xét xử điều gì
trước kỳ hạn, trước ngày Chúa đến. Chính Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn
khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm con người. Bấy
giờ, mỗi người sẽ được Thiên Chúa khen thưởng đích đáng.
6
Thưa
anh em, tôi đã áp dụng các điều đó cho tôi và anh A-pô-lô, vì lợi ích của anh
em, để anh em theo gương chúng tôi mà học cho biết”đừng có đi ra ngoài những gì
đã viết", kẻo sinh ra kiêu ngạo, theo người này mà chống người khác. 7
Thật vậy, nào có ai coi bạn hơn kẻ khác đâu? Bạn có gì mà bạn đã không
nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?
8 Anh em đã no nê rồi, đã giàu có rồi! Không có chúng tôi, anh em đã làm vua
rồi! Phải chi anh em làm vua, để chúng tôi cũng được làm vua với anh em! 9 Thật
vậy, tôi thiết nghĩ: Thiên Chúa đã đặt chúng tôi làm Tông Đồ hạng chót như
những kẻ bị án tử hình, bởi vì chúng tôi đã nên trò cười cho thế gian, cho
thiên thần và loài người! 10 Chúng tôi điên dại vì Đức Ki-tô, còn anh em thì
khôn ngoan trong Đức Ki-tô; chúng tôi yếu đuối, còn anh em thì mạnh mẽ; anh em
được kính trọng, còn chúng tôi thì bị khinh khi. 11 Cho đến giờ này,
chúng tôi vẫn chịu đói khát, trần truồng, bị hành hạ và lang thang phiêu bạt; 12
chúng tôi phải vất vả tự tay làm lụng. Bị nguyền rủa, chúng tôi chúc
lành; bị bắt bớ, chúng tôi cam chịu; 13 bị vu khống, chúng tôi đem
lời an ủi. Cho đến bây giờ, chúng tôi đã nên như rác rưởi của thế gian, như phế
vật đối với mọi người.
Lời
khiển trách
14
Tôi
viết những lời đó không phải để làm anh em xấu hổ, nhưng là để sửa dạy anh em
như những người con yêu quý của tôi. 15 Thật thế, cho dầu anh em có
ngàn vạn giám thị trong Đức Ki-tô, anh em cũng không có nhiều cha đâu, bởi vì
trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em. 16 Vậy
tôi khuyên anh em: hãy bắt chước tôi. 17 Vì lẽ đó, tôi đã phái người
con yêu quý và trung tín của tôi trong Chúa, là anh Ti-mô-thê, đến với anh em.
Anh ấy sẽ nhắc cho anh em những quy tắc hướng dẫn đời sống trong Đức Ki-tô mà
tôi đã đề ra, những quy tắc mà tôi vẫn giảng dạy khắp nơi, trong mọi Hội Thánh.
18
Vì
nghĩ rằng tôi sẽ không đến với anh em, có vài người đã sinh ra kiêu ngạo. 19
Nhưng nếu Chúa muốn, chẳng bao lâu nữa tôi sẽ đến với anh em, và tôi sẽ
được biết, không phải tài ăn nói của những kẻ kiêu ngạo đó, mà là quyền năng
của Thần Khí. 20 Thật vậy, Nước Thiên Chúa không cốt ở tài ăn nói,
nhưng ở quyền năng. 21 Anh em muốn gì? Muốn tôi mang roi vọt hay là
đức bác ái và lòng nhân hậu mà đến với anh em?
Chương 5
2.
TRƯỜNG HỢP LOẠN LUÂN
1
Đi
đâu cũng chỉ nghe nói đến chuyện dâm ô xảy ra giữa anh em, mà là thứ dâm ô
không thấy xảy ra ngay cả nơi dân ngoại: có kẻ ăn ở với vợ kế của cha mình!
2
Thế
mà anh em lại còn kiêu ngạo! Lẽ ra anh em đã phải than khóc và loại trừ kẻ làm
điều ấy ra khỏi cộng đoàn của anh em! 3 Phần tôi, tuy vắng mặt về thân xác,
nhưng về tinh thần vẫn có mặt, tôi đã lên án kẻ có hành vi đó như thể tôi có
mặt tại chỗ. 4 Trong một buổi họp của anh em, ở đó có tôi hiện diện
bằng tinh thần, nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, và với quyền năng
của Người, 5 chúng ta phải nộp con người đó cho Xa-tan, để phần xác
nó bị huỷ diệt, còn phần hồn được cứu thoát trong Ngày của Chúa.
6
Lý
do khiến anh em vênh vang chẳng đẹp đẽ gì! Anh em không biết rằng chỉ một chút
men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? 7 Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở
thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế
làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. 8 Vì thế, chúng ta đừng lấy men
cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền
và chân thật, mà ăn mừng đại lễ.
9
Trong
thư đã gửi cho anh em, tôi có viết là đừng đi lại với những kẻ dâm đãng. 10
Tôi không có ý nói chung về mọi người dâm đãng ở thế gian này, hay về mọi
kẻ tham lam trộm cắp, hoặc mọi kẻ thờ ngẫu tượng, vì nếu vậy, anh em phải ra
khỏi thế gian! 11 Không, khi viết thế, tôi muốn nói với anh em là đừng đi lại
với kẻ nào mang danh là người anh em mà cứ dâm đãng, tham lam, thờ ngẫu tượng,
quen chửi bới, say sưa rượu chè hoặc trộm cắp; anh em cũng phải tránh đừng ăn
uống với con người như thế. 12 Thật vậy, xét xử người ngoài đâu phải
là chuyện của tôi. Còn người trong đạo, anh em không được xét xử hay sao? 13
Người ngoài, chính Thiên Chúa sẽ xét xử. Hãy khử trừ sự gian ác, không cho tồn
tại giữa anh em.
Chương 6
3.
KIỆN NHAU Ở TOÀ ĐỜI
1
Khi
xảy ra tranh chấp với kẻ khác, có người trong anh em dám đi kiện cáo trước mặt
người ngoại mà lại không đến trước mặt những người trong dân thánh! 2 Nào anh
em chẳng biết rằng dân thánh sẽ xét xử thế gian sao? Mà nếu được quyền xét xử
thế gian, anh em lại không xứng đáng xử những việc nhỏ mọn ư? 3 Nào anh em
chẳng biết rằng chúng ta sẽ xét xử các thiên thần sao? Phương chi là những việc
đời này! 4 Thế mà khi phải xét xử những việc đời này, anh em lại đặt những
người mà Hội Thánh coi nhẹ làm quan toà! 5 Tôi nói thế cho anh em phải xấu hổ.
Chẳng lẽ trong anh em lại không có người nào khôn ngoan có thể xử các vụ tranh
chấp giữa anh em mình ư? 6 Đằng này, anh em đã kiện cáo nhau thì chớ, lại còn
đem nhau ra trước toà những người không có đức tin! 7 Dù sao, nguyên việc anh
em kiện cáo nhau đã là một thất bại cho anh em rồi. Tại sao anh em chẳng thà
chịu bất công? Tại sao anh em chẳng thà chịu thiệt thòi? 8 Nhưng chính anh em
lại ăn ở bất công và bóc lột, và đã đối xử như thế với anh em mình!
9
Nào
anh em chẳng biết rằng những kẻ bất chính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ
nghiệp sao? Anh em đừng lầm. Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình,
truỵ lạc, kê gian, 10 những kẻ trộm cướp, tham lam, say sưa rượu
chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp. 11 Trước
kia, có vài người trong anh em đã là như thế. Nhưng anh em đã được tẩy rửa,
được thánh hoá, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí
của Thiên Chúa chúng ta!
4.
TỘI TÀ DÂM
12 “Tôi được phép làm
mọi sự"; nhưng không phải mọi sự đều có ích.” Tôi được phép làm mọi
sự"; nhưng tôi sẽ không để sự gì làm chủ được tôi. 13 Thức ăn
dành cho bụng, và bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ huỷ diệt cả cái này lẫn
cái kia. Nhưng thân xác con người không phải để gian dâm, mà để phụng sự Chúa,
vì Chúa làm chủ thân xác. 14 Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống
lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại.
15
Nào
anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? Tôi
lại lấy phần thân thể của Đức Ki-tô mà làm phần thân thể của người kỹ nữ sao?
Không đời nào! 16 Anh em chẳng biết rằng ăn ở với người kỹ nữ là nên một thân
xác với người ấy sao? Thật thế, có lời chép rằng cả hai sẽ thành một xương một
thịt. 17 Ai đã kết hợp với Chúa, thì nên một tinh thần với Người.
18
Anh
em hãy tránh xa tội gian dâm. Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình,
còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình.
19
Hay
anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà
Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh
em. Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa, 20 vì Thiên Chúa đã
trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân
xác anh em.
Chương 7
II.
GIẢI QUYẾT MỘT SỐ VẤN ĐỀ
1.
HÔN NHÂN VÀ ĐỘC THÂN
1
Bây
giờ, tôi đề cập tới những điều anh em đã viết cho tôi: đàn ông không gần đàn bà
là điều tốt. 2 Nhưng để tránh hiểm hoạ dâm ô, thì mỗi người hãy có
vợ có chồng. 3 Chồng hãy làm tròn bổn phận đối với vợ, và vợ đối với
chồng cũng vậy. 4 Vợ không có quyền trên thân xác mình, nhưng là
chồng; cũng vậy, chồng không có quyền trên thân xác mình, nhưng là vợ. 5 Vợ
chồng đừng từ chối nhau, trừ phi hai người đồng ý sống như vậy trong một thời
gian, để chuyên lo cầu nguyện; rồi hai người lại ăn ở với nhau, kẻo vì hai
người không tiết dục nổi mà Xa-tan lợi dụng để cám dỗ. 6 Điều tôi
nói đó là một sự nhân nhượng chứ không phải là một mệnh lệnh. 7 Tôi
ước muốn mọi người đều như tôi; nhưng mỗi người được Thiên Chúa ban cho đặc
sủng riêng, kẻ thế này, người thế khác. 8 Với những người độc thân
và quả phụ, tôi nói thế này: họ cứ ở vậy như tôi thì tốt cho họ. 9 Nếu
không tiết dục được, họ cứ kết hôn, vì thà kết hôn còn hơn là bị thiêu đốt.
10
Còn
với những người đã kết hôn, tôi ra lệnh này, không phải tôi, mà là Chúa: vợ
không được bỏ chồng, 11 mà nếu đã bỏ chồng, thì phải ở độc thân hoặc
phải làm hoà với chồng; và chồng cũng không được rẫy vợ.
12
Còn
với những người khác, thì tôi nói-chính tôi chứ không phải Chúa-: nếu anh em
nào có vợ ngoại đạo mà người này bằng lòng ở với người ấy, thì người ấy đừng
rẫy vợ. 13 Người vợ nào có chồng ngoại đạo mà người này bằng lòng ở
với người ấy, thì người ấy đừng bỏ chồng. 14 Thật vậy, chồng ngoại
đạo được thánh hoá nhờ vợ, và vợ ngoại đạo được thánh hoá nhờ người chồng có
đạo. Chẳng vậy, con cái anh em sẽ là ô uế, trong khi thật ra chúng là thánh. 15
Nếu người ngoại đạo muốn bỏ người kia, thì cứ bỏ; trong trường hợp đó,
chồng hay vợ có đạo không bị luật hôn nhân ràng buộc: Thiên Chúa đã kêu gọi anh
em sống bình an với nhau! 16 Chị là vợ, biết đâu chị chẳng cứu được chồng? Hay
anh là chồng, biết đâu anh chẳng cứu được vợ?
17
Ngoài
ra, như Chúa đã định cho mỗi người làm sao, như Thiên Chúa đã kêu gọi mỗi người
thế nào, thì cứ sống như vậy: đó là điều tôi truyền dạy trong mỗi Hội Thánh. 18
Ai đã cắt bì khi được kêu gọi, thì đừng huỷ bỏ dấu vết cắt bì! Ai chưa
cắt bì khi được kêu gọi, thì đừng cắt bì! 19 Cắt bì chẳng là gì, mà không cắt
bì cũng chẳng là gì cả; điều đáng kể là tuân giữ các điều răn Thiên Chúa. 20
Ai đang ở địa vị nào khi được kêu gọi, thì cứ ở địa vị đó. 21 Bạn
là nô lệ khi được kêu gọi ư? Chớ bận tâm! Ngay cả khi có thể được tự do, tốt
hơn hãy lợi dụng thân phận nô lệ. 22 Thật thế, người đang làm nô lệ
mà được Chúa kêu gọi, thì là người được Chúa giải phóng. Cũng vậy, người đang
tự do mà được kêu gọi, thì là nô lệ của Đức Ki-tô. 23 Thiên Chúa đã
trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Anh em đừng trở nên nô lệ cho người phàm. 24
Thưa anh em, khi được kêu gọi ở địa vị nào, mỗi người cứ ở địa vị đó
trước mặt Thiên Chúa.
25
Về
vấn đề độc thân, tôi không có chỉ thị nào của Chúa, nhưng tôi chỉ khuyên nhủ
anh em với tư cách là người-nhờ Chúa thương- đáng được anh em tín nhiệm. 26
Vậy tôi nghĩ rằng: vì những nỗi thống khổ hiện tại, ở vậy là điều tốt.
Phải, tôi nghĩ rằng đối với người ta, như thế là tốt. 27 Bạn đã kết
hôn với một người đàn bà ư? Đừng tìm cách gỡ ra. Bạn chưa kết hôn với một người
đàn bà ư? Đừng lo kiếm vợ. 28 Nhưng nếu bạn cưới vợ, thì cũng chẳng
có tội gì. Và nếu người con gái lấy chồng, thì cũng chẳng có tội gì. Tuy nhiên,
những người ấy sẽ tự chuốc lấy những nỗi gian truân khốn khổ. Mà tôi, tôi muốn
cho anh em thoát khỏi điều đó.
29
Thưa
anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ
nay những người có vợ hãy sống như không có; 30 ai khóc lóc, hãy làm
như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm như không
có gì cả; 31 kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng.
Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.
32
Tôi
muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì. Đàn ông không có vợ thì
chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. 33 Còn người có
vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, 34 thế là họ
bị chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo
việc Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo
lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng. 35 Tôi nói thế là để
mong tìm ích lợi cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng
chỉ muốn đề nghị với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng
Chúa mà không bị giằng co.
36
Nếu
ai đang lúc quá dồi dào khí lực mà nghĩ rằng mình khó có thể tôn trọng vị hôn
thê của mình, và cho rằng chuyện thường tình sẽ phải xảy ra, thì người ấy cứ làm
như ý mình muốn, không mắc tội đâu: họ cứ việc lấy nhau. 37 Còn ai
đứng vững, lòng không nao núng, cũng chẳng miễn cưỡng, lại làm chủ được ý chí
của mình, và quyết tâm tôn trọng người trinh nữ, thì người ấy làm một việc tốt.
38 Như thế, ai cưới người trinh nữ của mình, thì làm một việc tốt,
nhưng ai không cưới, thì làm một việc tốt hơn.
39
Người
vợ bị ràng buộc bao lâu chồng còn sống. Nếu chồng chết rồi, thì vợ được tự do,
muốn lấy ai thì lấy, miễn là trong Chúa. 40 Nhưng theo ý kiến tôi,
người ấy có phúc hơn nếu cứ ở vậy. Tôi thiết nghĩ: tôi cũng được Thần Khí của
Thiên Chúa soi sáng.
Chương 8
2.
VẤN ĐỀ THỊT CÚNG
Nguyên
tắc
1
Về
vấn đề thịt cúng, đã rõ là tất cả chúng ta đều hiểu biết. Sự hiểu biết đó sinh
lòng kiêu ngạo, còn lòng bác ái thì xây dựng. 2 Ai tưởng mình hiểu
biết điều gì, thì chưa hẳn là đã hiểu biết như phải hiểu biết. 3 Ai
yêu mến Thiên Chúa, thì được Người biết đến. 4 Vậy, về việc ăn thịt
cúng, chúng ta biết rằng ngẫu tượng chẳng là gì trên thế gian, và cũng chẳng có
thần nào ngoài Thiên Chúa độc nhất. 5 Thật thế, mặc dầu người ta cho
là có những thần ở trên trời hay dưới đất-quả thực, thần cũng lắm mà chúa cũng
nhiều-, 6 nhưng đối với chúng ta, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Đấng
tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta; và cũng chỉ có một Chúa là Đức
Giê-su Ki-tô, nhờ Người mà vạn vật được tạo thành, và nhờ Người mà chúng ta
được hiện hữu.
Xét
theo đức ái
7
Nhưng
không phải mọi người đều hiểu biết như vậy đâu! Có một số người từ trước đến
nay đã quen thờ ngẫu tượng, nên khi ăn các thức ấy thì cứ tưởng làm như vậy là
ăn của cúng; và lương tâm yếu đuối của họ đã ra ô uế. 8 Không phải
của ăn làm cho chúng ta được gần Thiên Chúa. Không ăn những thứ đó, chúng ta
chẳng thiệt; mà có ăn, cũng chẳng lợi gì. 9 Nhưng hãy coi chừng kẻo
sự tự do của anh em nên dịp cho những người yếu đuối sa ngã. 10 Thật
vậy, nếu có ai thấy bạn là người hiểu biết mà lại ngồi dự tiệc trong đền trong
miếu, thì lương tâm của người yếu đuối ấy lại chẳng dựa vào đó mà ăn của cúng
sao? 11 Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu đuối, một người
anh em mà Đức Ki-tô đã chịu chết để cứu chuộc! 12 Như vậy, phạm đến anh em và
làm thương tổn lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến Đức Ki-tô! 13 Vì thế, nếu
của ăn mà làm cớ cho anh em tôi sa ngã, thì tôi sẽ không bao giờ ăn thịt nữa,
để khỏi làm cớ cho anh em tôi sa ngã.
Chương 9
Gương
của ông Phao-lô
1
Tôi
không tự do ư? Tôi không phải là tông đồ ư? Tôi đã không thấy Đức Giê-su, Chúa
chúng ta sao? Anh em không phải là công trình của tôi trong Chúa sao? 2 Nếu đối
với những người khác tôi không phải là tông đồ, thì ít ra đối với anh em tôi là
tông đồ, vì ấn tín chứng thực chức vụ tông đồ của tôi trong Chúa chính là anh
em. 3 Đây là lời biện hộ của tôi chống lại những kẻ hạch sách tôi. 4
Phải chăng tôi không có quyền ăn uống, 5 không có quyền đem
theo một người chị em tín hữu như các tông đồ khác, như các anh em của Chúa và
như ông Kê-pha? 6 Phải chăng chỉ có tôi và anh Ba-na-ba không có quyền được
miễn lao động? 7 Có ai đi đánh giặc mà lại phải tự túc bao giờ? Có ai trồng nho
mà lại không được ăn trái? Hay có ai chăn súc vật mà lại không được uống sữa
của súc vật?
8
Phải
chăng tôi nói thế theo kiểu người phàm? Há Lề Luật lại cũng chẳng nói thế sao?
9 Thật vậy, trong luật Mô-sê có chép: Đừng bịt mõm con bò đang đạp lúa. Chẳng
lẽ Thiên Chúa lại bận tâm đến con bò sao? 10 Hay cũng vì chúng ta mà Người phán
như vậy? Phải, chính vì chúng ta mà có lời chép: Khi cày, thợ cày phải mong
được chia phần; và khi đạp lúa, kẻ đạp lúa phải mong được chia phần. 11 Một
khi chúng tôi đã gieo của thiêng liêng cho anh em, nếu chúng tôi gặt của vật
chất nơi anh em, thì đâu có phải là chuyện quá đáng? 12 Nếu những người khác
còn có quyền đòi hỏi anh em, thì huống hồ là chúng tôi! Nhưng chúng tôi đã
không dùng quyền đó. Trái lại, chúng tôi chịu đựng tất cả mọi sự để khỏi gây
trở ngại cho Tin Mừng của Đức Ki-tô. 13 Anh em không biết rằng người
lo các thánh vụ thì được hưởng lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được
chia phần của bàn thờ sao? 14 Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng
phải sống nhờ Tin Mừng.
15
Nhưng
phần tôi, tôi đã không dùng một quyền nào trong những quyền ấy. Tôi viết các
điều này không phải để cũng được như vậy, vì đối với tôi thà chết còn hơn là. .
. . Niềm tự hào đó, không ai có thể huỷ diệt được! 16 Thật vậy, đối với tôi,
rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt
buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! 17 Tôi mà tự
ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý, thì đó
là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. 18 Vậy đâu là phần thưởng của
tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền
lợi Tin Mừng dành cho tôi.
19
Phải,
tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của
mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. 20 Với người
Do-thái, tôi đã trở nên Do-thái, để chinh phục người Do-thái. Với những ai sống
theo Lề Luật, tôi đã trở nên người sống theo Lề Luật, dù không còn phải sống
theo Lề Luật nữa, để chinh phục những người sống theo Lề Luật. 21 Đối
với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù
tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Ki-tô, để chinh
phục những người sống ngoài Lề Luật. 22 Tôi đã trở nên yếu với những
người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người,
để bằng mọi cách cứu được một số người. 23 Vì Tin Mừng, tôi làm tất
cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.
24
Anh
em chẳng biết sao: trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều
chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho
được phần thưởng. 25 Phàm là tay đua, thì phải kiêng kỵ đủ điều,
song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm
phần thưởng không bao giờ hư nát. 26 Vậy tôi đây cũng chạy như thế,
chứ không chạy mà không xác tín; tôi đấm như thế, chứ không phải đấm vào không
khí. 27 Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao
giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại.
Chương 10
Xét
theo sự thận trọng- Bài học của quá khứ Ít-ra-en
1
Thưa
anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha
ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. 2 Tất
cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Mô-sê. 3
Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, 4 tất cả cùng uống một
thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn
đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Ki-tô. 5 Nhưng phần đông họ
không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc.
6
Những
sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục
vọng xấu xa như cha ông chúng ta. 7 Anh em đừng trở thành những kẻ
thờ ngẫu tượng, như một số trong nhóm họ, theo lời đã chép: Dân đã ngồi xuống
để ăn uống, rồi lại đứng lên chơi đùa. 8 Ta đừng gian dâm, như một
số trong nhóm họ đã gian dâm: nội một ngày, hai mươi ba ngàn người đã ngã gục. 9
Ta đừng thử thách Chúa, như một số trong nhóm họ đã thử thách Người và đã
bị rắn cắn chết. 10 Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong
nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. 11 Những
sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng
ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. 12 Bởi vậy, ai
tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã. 13 Không một
thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa
là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để
anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng.
Tiệc
cúng. Không thoả hiệp với việc thờ ngẫu tượng
14
Vì
thế, anh em thân mến, hãy xa lánh việc thờ ngẫu tượng. 15 Tôi nói
với anh em như nói với những người khôn ngoan hiểu biết; anh em hãy tự mình suy
xét điều tôi nói. 16 Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên
Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh
Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? 17 Bởi vì chỉ có một
tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người,
chúng ta cũng chỉ là một thân thể. 18 Anh em hãy coi Ít-ra-en xét
theo huyết thống. Những ai ăn tế phẩm, há chẳng phải là những kẻ được chia lộc
bàn thờ sao? 19 Thế nghĩa là gì? Thịt cúng là gì? Ngẫu tượng là gì? 20 Tuy
nhiên, đồ cúng là cúng cho ma quỷ, chứ không phải cho Thiên Chúa; mà tôi không
muốn anh em hiệp thông với ma quỷ. 21 Anh em không thể vừa uống chén
của Chúa, vừa uống chén của ma quỷ được; anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc của
Chúa, vừa ăn ở bàn tiệc của ma quỷ được. 22 Hay là ta muốn làm cho
Chúa phải ghen tương? Chẳng lẽ ta mạnh sức hơn Người?
Vấn
đề ăn thịt cúng. Cách giải quyết
23 “Được phép làm mọi
sự"; nhưng không phải mọi sự đều có ích.” Được phép làm mọi sự";
nhưng không phải mọi sự đều có tính cách xây dựng. 24 Đừng ai tìm
ích lợi cho riêng mình, nhưng hãy tìm ích lợi cho người khác. 25 Tất
cả những gì bán ngoài chợ, anh em cứ việc ăn, không cần phải đặt vấn đề lương
tâm, 26 bởi vì trái đất và muôn vật muôn loài trên trái đất đều là
của Chúa. 27 Nếu có người ngoại nào mời anh em và anh em muốn đi,
thì cứ ăn tất cả những gì người ta dọn cho anh em, không cần phải đặt vấn đề
lương tâm. 28 Nhưng nếu có người bảo: ”Đây là của cúng", thì
anh em đừng ăn, vì người ấy-kẻ đã báo trước cho anh em- và vì vấn đề lương tâm.
29 Tôi không có ý nói lương tâm của anh em, nhưng lương tâm của
người khác, bởi vì chẳng lẽ quyền tự do của tôi lại bị lương tâm kẻ khác xét
xử? 30 Nếu tôi vừa tham dự, vừa tạ ơn Thiên Chúa, tại sao tôi lại bị khiển
trách vì của ăn mà tôi tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho?
Kết
luận
31
Vậy,
dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên
Chúa. 32 Anh em đừng làm gương xấu cho bất cứ ai, dù là cho người
Do-thái hay người ngoại, hoặc cho Hội Thánh của Thiên Chúa; 33 cũng
như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm
ích lợi cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người, để họ được cứu độ.
Chương 11
1
Anh
em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô.
3.
TRẬT TỰ TRONG CỘNG ĐOÀN
Trang
phục của phụ nữ
2
Tôi
có lời khen anh em đã nhớ đến tôi trong mọi dịp và nắm giữ các truyền thống tôi
đã để lại cho anh em. 3 Nhưng tôi muốn anh em biết rằng thủ lãnh của
người nam là Đức Ki-tô, thủ lãnh của người nữ là người nam, và thủ lãnh của Đức
Ki-tô là Thiên Chúa. 4 Phàm người nam nào cầu nguyện hoặc nói tiên
tri mà che đầu, thì hạ nhục Đấng làm đầu mình. 5 Phàm người nữ nào
cầu nguyện hoặc nói tiên tri mà lại để đầu trần, thì làm nhục kẻ làm đầu mình,
vì người ấy như thể trọc đầu vậy. 6 Người nữ mà để đầu trần, thì cứ
cắt tóc đi! Nhưng nếu cắt tóc hay trọc đầu là một điều xấu hổ đối với người nữ,
thì hãy che đầu lại! 7 Người nam không được che đầu, bởi vì là hình ảnh và vinh
quang của Thiên Chúa; còn người nữ là vinh quang của người nam. 8 Thật
vậy, không phải người nam tự người nữ mà có, nhưng người nữ tự người nam. 9
Cũng chẳng phải người nam được dựng nên vì người nữ, nhưng người nữ vì
người nam. 10 Bởi thế, người nữ phải mang trên đầu một dấu hiệu phục
tùng, vì có các thiên thần. 11 Tuy nhiên, trong Chúa, không nam thì
chẳng có nữ, và không nữ thì chẳng có nam. 12 Thật thế, như người nữ
tự người nam mà có, thì người nam cũng bởi người nữ mà sinh ra, và mọi sự đều
tự Thiên Chúa mà có.
13
Anh
em hãy tự xét xem: người nữ không che đầu mà cầu nguyện với Thiên Chúa thì có
xứng hợp không? 14 Chính thiên nhiên lại không dạy anh em rằng người nam mà để
tóc dài là điều ô nhục, 15 còn người nữ mà để tóc dài thì lại là
vinh dự cho họ đó sao? Là vì Thiên Chúa ban cho người nữ mái tóc làm khăn che
đầu.
16
Ngoài
ra, nếu có ai nghĩ mình phải cãi lý, thì đó không phải là thói quen của chúng
tôi, cũng như không phải là thói quen trong các Hội Thánh của Thiên Chúa.
Bữa
tiệc của Chúa (Mt 26:26-29; Mc 14:22-25; Lc 22:14-20 )
17
Nhân
lúc đưa ra các chỉ thị này, tôi chẳng khen anh em đâu, vì những buổi họp của
anh em không đem lại lợi ích gì, mà chỉ gây hại. 18 Thật thế, trước
tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau, và tôi tin là điều
ấy có phần nào đúng. 19 Những sự chia rẽ giữa anh em, thế nào cũng
có, nhưng nhờ vậy mới rõ ai là người đạo đức chắc chắn. 20 Khi anh
em họp nhau, thì không phải là để ăn bữa tối của Chúa. 21 Thật vậy,
mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế, kẻ thì đói, người lại say.
22 Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội Thánh
của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của? Tôi phải nói gì với anh
em? Chẳng lẽ tôi khen anh em sao? Về điểm này, tôi chẳng khen đâu!
23
Thật
vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong
đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, 24 dâng lời chúc tụng tạ ơn,
rồi bẻ ra và nói: ”Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em;
anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy.” 25 Cũng thế,
cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: ”Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập
Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến
Thầy.” 26 Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống
Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết. 27 Vì thế, bất cứ
ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu
Chúa.
28
Ai
nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. 29 Thật vậy,
ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình.
30 Vì lẽ đó, trong anh em, có nhiều người ốm đau suy nhược, và cũng
có lắm người đã chết. 31 Giả như chúng ta tự xét mình, thì chúng ta
đã không bị xét xử. 32 Nhưng khi Chúa xét xử là Người sửa dạy chúng
ta, để chúng ta khỏi bị kết án cùng với thế gian.
33
Cho
nên, thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. 34 Ai
đói, thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hoá ra để bị kết án. Về các vấn đề
khác, tôi sẽ liệu khi nào đến thăm anh em.
Chương 12
Ân
huệ của Thần Khí hay đặc sủng
1
Thưa
anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về các ân huệ thiêng liêng. 2
Anh em biết rằng khi còn là người ngoại, anh em bị lôi cuốn mãnh liệt vào
việc thờ cúng các ngẫu tượng câm. 3 Vì thế, tôi nói cho anh em biết:
chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: ”Giê-su là đồ khốn kiếp!”;
cũng không ai có thể nói rằng: ”Đức Giê-su là Chúa", nếu người ấy không ở
trong Thần Khí.
Đặc
sủng tuy nhiều, nhưng chung một gốc
4
Có
nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. 5 Có nhiều việc
phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. 6 Có nhiều hoạt động khác
nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. 7 Thần
Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. 8 Người thì
được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban
cho ơn hiểu biết để trình bày. 9 Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng
tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa
bệnh. 10 Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên
tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng
lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. 11 Nhưng chính
Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi
cách, tuỳ theo ý của Người.
So
sánh với thân thể
12
Thật
vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ
phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy.
13 Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay
tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một
thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.
14
Thật
vậy, thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ không phải chỉ có một mà thôi. 15 Giả
như chân có nói: ”Tôi không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể",
thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. 16 Giả như tai
có nói: ”Tôi không phải là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể", thì cũng
chẳng vì thế mà nó không thuộc về thân thể. 17 Giả như toàn thân chỉ
là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi?
18
Nhưng
Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn. 19
Giả như tất cả chỉ là một thứ bộ phận, thì làm sao mà thành thân thể
được? 20 Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một. 21 Vậy
mắt không có thể bảo tay: ”Tao không cần đến mày"; đầu cũng không thể bảo
hai chân: ”Tao không cần chúng mày.”
22
Hơn
nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất; 23 và
những bộ phận ta coi là tầm thường nhất, thì ta lại tôn trọng hơn cả. Những bộ
phận kém trang nhã, thì ta lại mặc cho chúng trang nhã hơn hết. 24 Còn
những bộ phận trang nhã thì không cần gì cả. Nhưng Thiên Chúa đã khéo xếp đặt
các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. 25
Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo
lắng cho nhau. 26 Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau.
Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.
27
Vậy
anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận. 28 Trong
Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người, thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là
các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ,
được những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khác, để quản trị, để nói
các thứ tiếng lạ. 29 Chẳng lẽ ai cũng là tông đồ? Chẳng lẽ ai cũng
là ngôn sứ, ai cũng là thầy dạy sao? Chẳng lẽ ai cũng được ơn làm phép lạ, 30
ai cũng được ơn chữa bệnh sao? Chẳng lẽ ai cũng nói được các tiếng lạ, ai
cũng giải thích được các tiếng lạ sao?
Thứ
bậc các đặc sủng. Bài ca đức mến
31
Trong
các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất.
Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.
Chương 13
1
Giả
như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa,
mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ
xoang xoảng. 2 Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết
mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi
dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. 3 Giả như
tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu
thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. 4 Đức
mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, 5
không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi
hận thù, 6 không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều
chân thật. 7 Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất
cả, chịu đựng tất cả. 8 Đức mến không bao giờ mất được. Ơn nói tiên
tri ư? Cũng chỉ nhất thời. Nói các tiếng lạ chăng? Có ngày sẽ hết. Ơn hiểu biết
ư? Rồi cũng chẳng còn. 9 Vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói
tiên tri cũng có hạn. 10 Khi cái hoàn hảo tới, thì cái có ngần có
hạn sẽ biến đi. 11 Cũng như khi tôi còn là trẻ con, tôi nói năng như
trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi tôi đã thành
người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con. 12 Bây giờ chúng
ta thấy lờ mờ như trong một tấm gương, mai sau sẽ được mặt giáp mặt. Bây giờ
tôi biết chỉ có ngần có hạn, mai sau tôi sẽ được biết hết, như Thiên Chúa biết
tôi. 13 Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng
cao trọng hơn cả là đức mến.
Chương 14
Thứ
bậc các đặc sủng để mưu cầu ích chung
1
Anh
em hãy cố đạt cho được đức mến, hãy khao khát những ơn của Thần Khí, nhất là ơn
nói tiên tri. 2 Thật vậy, kẻ nói tiếng lạ thì không nói với người
ta, nhưng là nói với Thiên Chúa, bởi vì chẳng ai hiểu được: nhờ Thần Khí, kẻ ấy
nói ra những điều nhiệm mầu. 3 Còn người nói tiên tri thì nói với
người ta để xây dựng, để khích lệ và an ủi. 4 Kẻ nói tiếng lạ thì tự
xây dựng chính mình; người nói tiên tri thì xây dựng Hội Thánh. 5 Tôi
muốn cho tất cả anh em nói các tiếng lạ, và nhất là tôi muốn cho anh em nói
tiên tri. Người nói tiên tri thì cao trọng hơn người nói các tiếng lạ, trừ phi
người này giải thích để xây dựng Hội Thánh.
6
Thưa
anh em, giờ đây, giả như tôi đến cùng anh em mà chỉ nói các tiếng lạ, giả như
lời nói của tôi không đem lại cho anh em một mặc khải, một sự hiểu biết, hay
không phải là một lời tiên tri, một lời giáo huấn, thì nào có ích gì cho anh
em? 7 Như thế, có khác chi những nhạc cụ không hồn, như sáo như đàn: nếu âm
thanh không rõ, thì làm sao nhận ra được cung nhạc tiếng đàn? 8 Thật vậy, giả
như kèn chỉ phát ra một tiếng vu vơ, thì ai sẽ chuẩn bị chiến đấu? 9 Anh em
cũng thế: nếu miệng lưỡi anh em chẳng nói những lời có thể hiểu được, thì làm
sao người ta biết điều anh em nói? Anh em chỉ nói bông lông thôi! 10 Trong
thiên hạ, có rất nhiều thứ ngôn ngữ, nhưng không có thứ nào là vô nghĩa. 11
Vậy nếu tôi không biết giá trị của ngôn ngữ, thì tôi sẽ là kẻ man dã đối
với người nói, và người nói là kẻ man dã đối với tôi. 12 Anh em cũng
vậy: vì khao khát những ơn của Thần Khí, anh em hãy tìm kiếm để được dồi dào
các ân huệ đó, nhằm xây dựng Hội Thánh.
13
Vì
thế, kẻ nói tiếng lạ thì phải xin cho được ơn giải thích. 14 Thật
vậy, nếu tôi cầu nguyện bằng tiếng lạ thì lòng tôi cầu nguyện, nhưng trí tôi
chẳng thu được kết quả gì. 15 Vậy, phải làm sao? Tôi sẽ cầu nguyện
với tấm lòng, nhưng cũng cầu nguyện với trí khôn nữa. Tôi sẽ ca hát với tấm
lòng, nhưng cũng ca hát với trí khôn nữa. 16 Quả thế, nếu bạn chỉ
chúc tụng với tấm lòng thôi, thì làm sao hạng người ngoài cuộc có thể
thưa”A-men" lúc bạn dâng lời tạ ơn, vì người đó không biết bạn nói gì? 17
Đã hẳn, lời tạ ơn của bạn tốt đẹp thật, nhưng không xây dựng cho người khác. 18
Tôi cảm tạ Thiên Chúa vì tôi nói các tiếng lạ nhiều hơn tất cả anh em, 19
nhưng trong cộng đoàn, thà tôi nói năm ba tiếng có thể hiểu được để dạy
dỗ kẻ khác, còn hơn là nói hàng vạn lời bằng tiếng lạ.
20
Thưa
anh em, về mặt phán đoán thì đừng sống như trẻ con; về đàng dữ, sống như trẻ
con thì được, nhưng về mặt phán đoán thì phải là người trưởng thành. 21 Trong
Lề Luật có chép: Chúa phán rằng: Ta sẽ dùng những người nói tiếng khác lạ và
môi miệng người ngoại quốc mà nói với dân này; dù thế, chúng cũng chẳng nghe Ta.
22 Vì thế, các tiếng lạ được dùng làm dấu hiệu, không phải cho những
người tin, mà cho những kẻ không tin; còn lời ngôn sứ thì không phải là cho
những kẻ không tin, mà cho những người tin. 23 Vậy giả như cả cộng
đoàn họp lại một nơi và mọi người đều nói các tiếng lạ, mà khi đó có người
ngoài cuộc hay người không tin đi vào, thì họ chẳng bảo là anh em điên sao? 24
Còn nếu mọi người đều nói tiên tri, mà có người không tin hoặc người ngoài cuộc
đi vào, người đó sẽ thấy mình bị mọi người khiển trách, mọi người xét xử. 25
Những điều bí ẩn trong lòng người đó sẽ bị lộ, và như thế, người đó sẽ sấp
mình xuống mà thờ lạy Thiên Chúa, tuyên bố rằng: ”Hẳn thật, Thiên Chúa ở giữa
anh em.”
Các
đặc sủng. Quy luật thực tiễn
26
Vậy,
thưa anh em, phải kết luận thế nào? Khi anh em hội họp, người thì hát thánh ca,
người thì giảng dạy, người thì nói lời mặc khải, người thì nói tiếng lạ, người
thì giải nghĩa: tất cả những điều ấy đều phải nhằm xây dựng Hội Thánh. 27 Nếu
có nói tiếng lạ, thì chỉ hai hoặc tối đa ba người nói thôi, mỗi người cứ theo
phiên mà nói, và phải có một người giải thích. 28 Nếu không có người
giải thích, thì phải giữ thinh lặng trong cộng đoàn, mỗi người chỉ nói với mình
và với Thiên Chúa thôi. 29 Về các ngôn sứ, chỉ nên có hai hoặc ba
người lên tiếng thôi, còn những người khác thì phân định. 30 Nếu có
ai ngồi đó được ơn mặc khải, thì người đang nói phải im đi. 31 Mọi
người có thể lần lượt nói tiên tri, để ai nấy đều được học hỏi và khích lệ. 32
Ngôn sứ thì làm chủ những cảm hứng tiên tri của mình, 33 bởi
vì Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa gây hỗn loạn, nhưng là Thiên Chúa tạo
bình an. Như thói quen trong mọi cộng đoàn dân thánh, 34 phụ nữ phải
làm thinh trong các buổi họp, vì họ không được phép lên tiếng; trái lại, họ
phải sống phục tùng như chính Lề Luật dạy. 35 Nếu họ muốn tìm hiểu
điều gì, thì cứ về nhà hỏi chồng, bởi vì phụ nữ mà lên tiếng trong cộng đoàn
thì không còn thể thống gì. 36 Lời Thiên Chúa có phát xuất từ anh em
không? Hay lời ấy chỉ đến với một mình anh em mà thôi? 37 Nếu ai tưởng mình là
ngôn sứ hoặc được Thần Khí linh hứng, thì hãy nhìn nhận rằng các điều tôi viết
đây là mệnh lệnh của Chúa. 38 Ai không nhận biết điều ấy, thì cũng
không được Chúa biết đến.
39
Cho
nên, thưa anh em, anh em hãy khao khát ơn nói tiên tri và đừng ngăn cấm nói các
tiếng lạ. 40 Nhưng hãy làm mọi sự cách trang nghiêm và có trật tự.
Chương 15
III.
KẺ CHẾT SỐNG LẠI
Sự
kiện Phục Sinh
1
Thưa
anh em, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng tôi đã loan báo và anh em đã lãnh
nhận cùng đang nắm vững. 2 Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát,
nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo, bằng không thì anh em có tin cũng vô
ích.
3
Trước
hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức
Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, 4 rồi
Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. 5
Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai. 6 Sau
đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông
hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. 7 Tiếp đến, Người hiện
ra với ông Gia-cô-bê, rồi với tất cả các Tông Đồ. 8 Sau hết, Người
cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non.
9
Thật
vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là
Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. 10 Nhưng tôi có
là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu;
trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi,
mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi.
11
Tóm
lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và
anh em đã tin như vậy.
12
Nhưng
nếu chúng tôi rao giảng rằng Đức Ki-tô đã từ cõi chết trỗi dậy, thì sao trong
anh em có người lại nói: không có chuyện kẻ chết sống lại? 13 Nếu kẻ chết không
sống lại, thì Đức Ki-tô đã không trỗi dậy. 14 Mà nếu Đức Ki-tô đã
không trỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của
anh em cũng trống rỗng. 15 Thế ra chúng tôi là những chứng nhân giả
của Thiên Chúa, bởi vì đã chống lại Thiên Chúa mà làm chứng rằng Người đã cho
Đức Ki-tô trỗi dậy, trong khi thực sự Người đã không cho Đức Ki-tô trỗi dậy,
nếu quả thật kẻ chết không trỗi dậy. 16 Vì nếu kẻ chết không trỗi
dậy, thì Đức Ki-tô cũng đã không trỗi dậy. 17 Mà nếu Đức Ki-tô đã
không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống
trong tội lỗi của anh em. 18 Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ
trong Đức Ki-tô cũng bị tiêu vong. 19 Nếu chúng ta đặt hy vọng vào
Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết
mọi người.
20
Nhưng
không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an
giấc ngàn thu. 21 Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì
cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. 22 Quả thế, như mọi
người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức
Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống. 23 Nhưng mỗi người theo thứ tự
của mình: mở đường là Đức Ki-tô, rồi khi Đức Ki-tô quang lâm thì đến lượt những
kẻ thuộc về Người. 24 Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu
diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền
lại cho Thiên Chúa là Cha.
25
Thật
vậy, Đức Ki-tô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch
dưới chân Người. 26 Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết, 27
vì Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Ki-tô. Mà khi nói muôn loài,
thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Ki-tô. 28 Lúc
muôn loài đã quy phục Đức Ki-tô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục
Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên
muôn loài.
29
Chẳng
vậy, những người chịu phép rửa thế cho kẻ chết thì được gì? Nếu tuyệt nhiên kẻ
chết không trỗi dậy, thì tại sao người ta lại chịu phép rửa thế cho kẻ chết? 30
Và chính chúng tôi, tại sao hằng giờ chúng tôi liều mình đương đầu với hiểm
hoạ? 31 Thưa anh em, mỗi ngày tôi phải đối diện với cái chết: tôi có hãnh diện
về anh em trong Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, thì mới quả quyết như vậy. 32
Nếu vì những lý do phàm trần mà tôi đã chiến đấu với thú dữ tại Ê-phê-xô,
thì điều đó nào có ích gì cho tôi? Nếu kẻ chết không trỗi dậy, thì chúng ta cứ
ăn cứ uống đi, vì ngày mai chúng ta sẽ chết. 33 Anh em chớ có lầm:
Chơi với kẻ xấu, người tốt cũng ra xấu. 34 Đừng say sưa nữa mới phải
phép, và chớ phạm tội: một số người quả không biết gì về Thiên Chúa. Tôi nói
như vậy để anh em phải xấu hổ.
Cách
thức kẻ chết sống lại
35
Nhưng
có người sẽ nói: kẻ chết trỗi dậy thế nào? Họ lấy thân thể nào mà trở về? 36 Đồ
ngốc! Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống. 37 Cái
ngươi gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi, chẳng
hạn như hạt lúa hay một thứ nào khác. 38 Rồi Thiên Chúa cho nó một
hình thể như ý Người muốn: giống nào hình thể nấy.
39
Không
phải mọi thể xác đều giống nhau: của loài người thì khác, của loài vật thì khác,
của loài chim thì khác, của loài cá thì khác. 40 Lại có những vật
thể thuộc thiên giới và những vật thể thuộc địa giới. Nhưng vẻ rạng rỡ của
những vật thể thuộc thiên giới thì khác, vẻ rạng rỡ của những vật thể thuộc địa
giới thì khác. 41 Ánh mặt trời thì khác, ánh mặt trăng thì khác, ánh
tinh tú thì khác, bởi vì ánh sáng tinh tú này khác với ánh sáng tinh tú kia. 42
Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì
bất diệt; 43 gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo
xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, 44 gieo xuống là thân
thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí.
45
Như
có lời đã chép: con người đầu tiên là A-đam được dựng nên thành một sinh vật,
còn A-đam cuối cùng là thần khí ban sự sống. 46 Loài xuất hiện trước
không phải là loài có thần khí, nhưng là loài có sinh khí; loài có thần khí chỉ
xuất hiện sau đó. 47 Người thứ nhất bởi đất mà ra thì thuộc về đất;
còn người thứ hai thì từ trời mà đến. 48 Những kẻ thuộc về đất thì
giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ
trời mà đến. 49 Vì thế, cũng như chúng ta đã mang hình ảnh người bởi
đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến.
50
Thưa
anh em, điều tôi muốn nói là xác thịt và khí huyết không thể thừa hưởng Nước
Thiên Chúa được, cũng như cái hư nát không thể thừa hưởng sự bất diệt được. 51
Đây tôi nói cho anh em biết mầu nhiệm này: không phải tất cả chúng ta sẽ
chết, nhưng tất cả chúng ta sẽ được biến đổi52 trong một giây lát, trong một nháy
mắt, khi tiếng kèn cuối cùng vang lên. Vì tiếng kèn sẽ vang lên, và những kẻ
chết sẽ trỗi dậy mà không còn hư nát; còn chúng ta, chúng ta sẽ được biến đổi.
53Quả vậy, cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân phải
chết này sẽ mặc lấy sự bất tử.
Khải
hoàn ca
54
Vậy
khi cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt, khi cái thân phải chết này
mặc lấy sự bất tử, thì bấy giờ sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã
bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng! 55 Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi?
Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? 56 Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội
lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật. 57 Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Người
đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
58
Bởi
vậy, anh em thân mến, anh em hãy kiên tâm bền chí, và càng ngày càng tích cực
tham gia vào công việc của Chúa, vì biết rằng: trong Chúa, sự khó nhọc của anh
em sẽ không trở nên vô ích.
Chương 16
KẾT
LUẬN
Những
lời dặn dò, thăm hỏi và lời cầu chúc cuối cùng
1
Về
việc quyên tiền giúp các người thuộc dân thánh, tôi đã truyền dạy cho các Hội
Thánh ở Ga-lát như thế nào, thì anh em cũng làm như vậy. 2 Ngày thứ
nhất trong tuần, mỗi người trong anh em hãy để riêng ra những gì đã may mắn thu
góp được, chứ đừng đợi khi tôi đến rồi mới quyên. 3 Khi tới, tôi sẽ
cử những người được anh em chấp thuận đi Giê-ru-sa-lem, mang thư và quà anh em
đã rộng rãi quyên tặng. 4 Và nếu xét là tôi nên đi, thì họ sẽ cùng
đi với tôi.
5
Tôi
sẽ đến thăm anh em, sau khi ghé Ma-kê-đô-ni-a, bởi vì tôi sẽ đi qua đó. 6 Có
lẽ tôi sẽ ở lại và qua mùa đông với anh em nữa, để anh em đưa tôi đến những nơi
tôi sẽ đến. 7 Thật thế, tôi không muốn chỉ ghé qua thăm anh em mà
thôi, nhưng còn hy vọng ở lại với anh em ít lâu, nếu Chúa cho phép. 8 Tôi
sẽ ở lại Ê-phê-xô cho đến lễ Ngũ Tuần, 9 bởi vì ở đó cửa đã rộng mở
cho tôi, để tôi hoạt động, nhưng đối thủ cũng nhiều.
10
Anh
Ti-mô-thê có đến, thì anh em hãy lo cho anh ấy ở với anh em mà không phải e
ngại gì, vì anh ấy cũng làm việc Chúa như tôi. 11 Vậy đừng có ai
khinh anh ấy. Xin anh em đưa anh ấy trở về an toàn với tôi, vì tôi cùng các anh
em ở đây đang chờ anh ấy. 12 Còn về anh A-pô-lô, tôi đã tha thiết
xin anh ấy đến thăm anh em cùng với các anh em khác. Nhưng lúc này anh ấy nhất
định không chịu đi, anh ấy sẽ đi khi có dịp thuận tiện.
13
Hãy
tỉnh thức, hãy đứng vững trong đức tin, hãy sống cho đáng bậc nam nhi và ăn ở
kiên cường. 14 Hãy làm mọi sự vì đức ái.
15
Thưa
anh em, tôi có một lời khuyên nữa, anh em biết gia đình Tê-pha-na: họ là những
người đầu tiên trở lại đạo tại xứ A-khai-a và đã dấn thân phục vụ dân thánh. 16
Anh em hãy tuân phục những người như thế và những người cùng vất vả cộng
tác với họ. 17 Tôi vui mừng vì có Tê-pha-na, Pho-tu-na-tô và
A-khai-cô đến thăm, bởi vì họ thế cho anh em là những người vắng mặt. 18 Thật
vậy, họ đã làm cho tinh thần của tôi và của anh em được bình an thanh thản. Vậy
anh em hãy biết quý trọng những người như thế.
19
Các
Hội Thánh A-xi-a gửi lời chào anh em. A-qui-la và Pơ-rít-ca cùng với Hội Thánh
họp tại nhà họ gửi lời chào anh em trong Chúa. 20 Tất cả các anh em
ở đây gửi lời chào anh em. Anh em hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện.
21
Chính
tôi, Phao-lô, tự tay viết lời chào này.
22
Nếu
ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!
"Ma-ra-na
tha!”
23
Cầu
chúc anh em đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su!
24
Tôi
thương mến tất cả anh em trong Đức Ki-tô Giê-su.
Cô-rin-tô 2
Chương 1
Lời
chào thăm. Lời cảm tạ
1
Tôi
là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và
Ti-mô-thê là người anh em, kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, cùng
với mọi người trong dân thánh trong khắp miền A-khai-a. 2 Xin Thiên
Chúa là Cha chúng ta và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình
an.
3
Chúc
tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Người là Cha giàu
lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. 4 Người
luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã
được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian
nan khốn khó. 5 Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau
của Đức Ki-tô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi. 6 Chúng
tôi có phải chịu gian nan, thì đó là để anh em được an ủi và được cứu độ. Chúng
tôi có được an ủi, thì cũng là để anh em được an ủi, khiến anh em có sức kiên
trì chịu đựng cùng những nỗi thống khổ mà chính chúng tôi phải chịu. 7 Chúng
tôi lấy làm an tâm về anh em, vì biết rằng anh em thông phần thống khổ với
chúng tôi thế nào, thì cũng sẽ được thông phần an ủi như vậy.
8
Thật
thế, thưa anh em, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về nỗi gian
truân chúng tôi đã gặp bên A-xi-a: chúng tôi đã phải chịu đựng quá mức, quá sức
chúng tôi, đến nỗi chúng tôi không còn hy vọng sống nổi. 9 Nhưng
chúng tôi đã mang án tử nơi chính bản thân rồi, để chúng tôi không tin tưởng
vào chính mình, mà vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ chết trỗi dậy. 10 Chính
Người đã cứu và sẽ còn cứu chúng tôi khỏi một cái chết như thế. Người là Đấng
chúng tôi trông cậy, Người sẽ còn cứu chúng tôi nữa. 11 Còn anh em,
hãy lấy lời cầu nguyện mà trợ giúp chúng tôi. Như vậy, Thiên Chúa sẽ ban ơn cho
chúng tôi nhờ lời cầu thay nguyện giúp của nhiều người; và do đó, nhiều người
sẽ cảm tạ Thiên Chúa vì Người đã thương chúng tôi.
I.
NHẮC LẠI NHỮNG SỰ VIỆC ĐÃ XẢY RA
Lý
do khiến ông Phao-lô thay đổi lộ trình
12
Điều
khiến chúng tôi tự hào là lương tâm chúng tôi làm chứng rằng: chúng tôi lấy sự
thánh thiện và chân thành Thiên Chúa ban mà cư xử với người ta ở đời, đặc biệt
là với anh em. Chúng tôi không cư xử theo lẽ khôn ngoan người đời, nhưng theo
ân sủng của Thiên Chúa. 13 Thật thế, chúng tôi không viết cho anh em
điều gì khác ngoài những điều anh em có thể đọc và hiểu được. Và tôi hy vọng
anh em sẽ hiểu đến nơi đến chốn, 14 như anh em đã hiểu chúng tôi
phần nào: chúng tôi là niềm vinh dự của anh em, cũng như anh em là niềm vinh dự
của chúng tôi trong Ngày của Đức Giê-su, Chúa chúng ta.
15
Với
lòng tin tưởng đó, tôi định đến với anh em trước để anh em được hưởng ân phúc
lần thứ hai; 16 rồi từ nơi anh em, tôi đi Ma-kê-đô-ni-a; sau đó lại
từ Ma-kê-đô-ni-a về với anh em, để anh em đưa tôi đi Giu-đê. 17 Dự
tính như thế, phải chăng tôi đã tỏ ra nhẹ dạ? Hay điều tôi dự tính là dự tính
theo kiểu người phàm, khiến tôi vừa nói”có" lại vừa nói”không"? 18
Xin Thiên Chúa trung thành chứng giám cho chúng tôi! Lời chúng tôi nói với anh
em chẳng phải vừa là “có" vừa là “không". 19 Vì Đức Ki-tô
Giê-su, Con Thiên Chúa, Đấng mà chúng tôi, là Xin-va-nô, Ti-mô-thê và tôi, rao
giảng cho anh em, đã không vừa là “có" vừa là “không", nhưng nơi
Người chỉ toàn là “có". 20 Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa
đều là “có" nơi Người. Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô
lên”A-men" để tôn vinh Thiên Chúa. 21 Đấng củng cố chúng tôi
cùng với anh em trong Đức Ki-tô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên
Chúa. 22 Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần
Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng.
23
Phần
tôi, có Thiên Chúa chứng giám, tôi xin lấy mạng sống mà thề rằng: chính vì nể
anh em mà tôi đã không đến Cô-rin-tô nữa. 24 Không phải là chúng tôi
khống chế đức tin của anh em; trái lại, chúng tôi góp phần tạo niềm vui cho anh
em, bởi vì đức tin của anh em đã vững rồi.
Chương 2
1
Vậy,
tôi đã quyết định không trở lại với anh em trong lúc ưu phiền. 2 Thật
thế, nếu chính tôi gây ưu phiền cho anh em, thì ai là người làm cho tôi vui
được, nếu không phải là kẻ ưu phiền vì tôi? 3 Tôi đã viết trong thư như vậy là
để khi đến, tôi khỏi phải ưu phiền vì chính những người đáng lẽ phải làm cho
tôi vui, bởi vì đối với tất cả anh em, tôi xác tín rằng niềm vui của tôi cũng
là niềm vui của tất cả anh em. 4 Thật thế, tôi đã vô cùng đau khổ,
con tim se thắt, nước mắt chan hoà khi viết cho anh em: tôi viết không phải để
gây ưu phiền, nhưng là để cho anh em biết tôi hết lòng yêu mến anh em.
5
Nếu
có ai đã gây ưu phiền, thì không phải là gây ưu phiền cho tôi, mà cho tất cả
anh em, một phần nào đó- nói thế, kẻo sợ quá lời. 6 Con người đó bị
số đông phạt như thế là đủ rồi. 7 Vì vậy, tốt hơn, anh em phải tha
thứ và an ủi, kẻo người đó bị chìm đắm trong nỗi ưu phiền quá mức chăng. 8
Cho nên, đối với người đó, tôi khuyên anh em hãy đặt tình bác ái lên trên
hết. 9 Thật thế, sở dĩ tôi đã viết thư cho anh em, là để thử anh em,
xem anh em có vâng phục về mọi mặt chăng. 10 Anh em tha thứ cho ai,
thì tôi cũng tha thứ cho người ấy. Và nếu tôi đã tha thứ-trong trường hợp phải
tha thứ-, thì cũng là vì anh em, trước mặt Đức Ki-tô, 11 kẻo chúng
ta bị Xa-tan phỉnh gạt, vì chúng ta không lạ gì ý đồ của nó.
Từ
Trô-a đến Ma-kê-đô-ni-a. Viết ra ngoài đề: về sứ vụ tông đồ
12
Khi
tôi đến Trô-a rao giảng Tin Mừng Đức Ki-tô, dù cửa đã mở cho tôi để làm việc
Chúa, 13 nhưng tôi vẫn không yên lòng, vì không gặp Ti-tô, người anh
em của tôi. Tôi từ giã những người ở đó để đi Ma-kê-đô-ni-a.
14
Tạ
ơn Thiên Chúa, Đấng hằng cho chúng tôi tham dự cuộc khải hoàn trong Đức Ki-tô,
tạ ơn Người là Đấng đã dùng chúng tôi mà làm cho sự nhận biết Đức Ki-tô, như
hương thơm, lan toả khắp nơi. 15 Vì chúng tôi là hương thơm của Đức
Ki-tô dâng kính Thiên Chúa, toả ra giữa những người được cứu độ cũng như những
kẻ bị hư mất. 16 Đối với những người bị hư mất, chúng tôi là mùi tử
khí đưa đến tử vong; nhưng đối với những người được cứu độ, chúng tôi lại là
hương sự sống đưa đến sự sống. Nhưng ai là người có khả năng thực hiện những
điều ấy? 17 Thật thế, chúng tôi không phải như nhiều người, những kẻ xuyên tạc
Lời Chúa, mà với tư cách là những người trung thực, được Thiên Chúa sai đi,
chúng tôi lên tiếng trước mặt Người, trong Đức Ki-tô.
Chương 3
1
Phải
chăng chúng tôi lại bắt đầu tự giới thiệu mình? Hoặc chẳng lẽ, như vài người,
chúng tôi lại cần có thư giới thiệu chúng tôi với anh em, hoặc thư của anh em
giới thiệu chúng tôi? 2 Thư giới thiệu chúng tôi là chính anh em. Thư ấy viết
trong tâm hồn chúng tôi, mọi người đều biết và đã đọc. 3 Rõ ràng anh
em là bức thư của Đức Ki-tô được giao cho chúng tôi chăm sóc, không phải viết
bằng mực đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên
những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người.
4
Nhờ
Đức Ki-tô, chúng tôi dám tin tưởng vào Thiên Chúa như vậy. 5 Không
phải vì tự chúng tôi, chúng tôi có khả năng để nghĩ rằng mình làm được gì,
nhưng khả năng của chúng tôi là do ơn Thiên Chúa, 6 Đấng ban cho
chúng tôi khả năng phục vụ Giao Ước Mới, không phải Giao Ước căn cứ trên chữ
viết, nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban
sự sống. 7 Nếu việc phục vụ Lề Luật-thứ Lề Luật chỉ đưa đến sự chết
và được khắc ghi từng chữ trên những bia đá- mà được vinh quang đến nỗi dân
Ít-ra-en không thể nhìn mặt ông Mô-sê được, vì mặt ông chói lọi vinh quang-dù
đó chỉ là vinh quang chóng qua-, 8 thì việc phục vụ Thần Khí lại
không được vinh quang hơn sao? 9 Vì việc phục vụ án chết mà còn được vinh quang
như thế, thì việc phục vụ đức công chính lại chẳng vinh quang hơn lắm sao? 10
So với vinh quang tuyệt vời này, thì vinh quang xưa kia chẳng vinh quang gì. 11
Thật vậy, nếu cái chóng qua mà còn được vinh quang, thì cái còn mãi lại
chẳng vinh quang hơn sao?
12
Vì
có một niềm hy vọng như thế mà chúng ta thật vững dạ an lòng. 13 Chúng
ta không làm như ông Mô-sê lấy màn che để dân Ít-ra-en khỏi thấy khi nào cái
chóng qua kia chấm dứt. 14 Nhưng trí họ đã ra mê muội. Thật vậy, cho
đến ngày nay, khi họ đọc Cựu Ước, tấm màn ấy vẫn còn, chưa được vén lên, vì chỉ
trong Đức Ki-tô, tấm màn ấy mới được vứt bỏ. 15 Phải, cho đến nay,
mỗi khi họ đọc sách ông Mô-sê, tấm màn vẫn che phủ lòng họ. 16 Nhưng
khi người ta quay lại với Chúa, thì tấm màn mới được cất đi. 17 Chúa
là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do. 18 Tất
cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một
bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày
càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí.
Chương 4
1
Bởi
thế, vì Thiên Chúa đoái thương giao cho chúng tôi công việc phục vụ, nên chúng
tôi không sờn lòng nản chí. 2 Trái lại, chúng tôi khước từ những
cách hành động ám muội, đáng xấu hổ, và không dùng mưu mô mà xử trí, cũng chẳng
xuyên tạc lời Thiên Chúa; nhưng chúng tôi giãi bày sự thật, và bằng cách đó,
chúng tôi để cho lương tâm mọi người phê phán trước mặt Thiên Chúa. 3 Tin
Mừng chúng tôi rao giảng có bị che khuất, thì chỉ bị che khuất đối với những
người hư mất, 4 đối với những kẻ không tin. Họ không tin, vì tên ác
thần của đời này đã làm cho tâm trí họ ra mù quáng, khiến họ không thấy bừng
sáng lên Tin Mừng nói về vinh quang của Đức Ki-tô, là hình ảnh Thiên Chúa. 5
Bởi chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng Đức Ki-tô
Giê-su là Chúa; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giê-su.
6 Quả thật, xưa Thiên Chúa đã phán: Ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối
tăm! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho
thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên gương mặt Đức
Ki-tô.
Gian
truân và hy vọng trong công việc tông đồ
7
Nhưng
kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền
năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. 8 Chúng
tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng;
9 bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị
tiêu diệt. 10 Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của
Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi.
11 Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức
Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của
chúng tôi. 12 Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống
thì lại hoạt động nơi anh em.
13
Vì
có được cùng một lòng tin, như đã chép: Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng
tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói. 14 Quả thật, chúng tôi biết
rằng Đấng đã làm cho Chúa Giê-su trỗi dậy cũng sẽ làm cho chúng tôi được trỗi
dậy với Chúa Giê-su, và đặt chúng tôi bên hữu Người cùng với anh em. 15 Thật
vậy, tất cả những điều ấy xảy ra là vì anh em. Như thế, ân sủng càng dồi dào,
thì càng có đông người hơn dâng lên Thiên Chúa muôn ngàn lời cảm tạ, để tôn
vinh Người.
16
Cho
nên chúng tôi không chán nản. Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi có
tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới. 17 Thật
vậy, một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta cả
một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. 18 Vì thế, chúng ta mới không
chú tâm đến những sự vật hữu hình, nhưng đến những thực tại vô hình. Quả vậy,
những sự vật hữu hình thì chỉ tạm thời, còn những thực tại vô hình mới tồn tại
vĩnh viễn.
Chương 5
1
Quả
thật, chúng ta biết rằng: nếu ngôi nhà của chúng ta ở dưới đất, là chiếc lều
này, bị phá huỷ đi, thì chúng ta có một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên, một ngôi
nhà vĩnh cửu ở trên trời, không do tay người thế làm ra. 2 Do đó,
chúng ta rên siết là vì những ước mong được thấy ngôi nhà thiên quốc của chúng
ta phủ lên chiếc lều kia, 3 miễn là chúng ta có mặc áo, chứ không
phải trần trụi. 4 Thật thế, bao lâu còn ở trong chiếc lều này, chúng
ta rên siết, khổ tâm vì không muốn cởi bỏ cái này, nhưng lại muốn trùm thêm lên
mình cái kia, để cho cái phải chết tiêu tan trong sự sống. 5 Đấng đã
tạo thành chúng ta vì mục đích ấy chính là Thiên Chúa, Người đã ban Thần Khí
cho chúng ta làm bảo chứng.
6
Vậy
chúng tôi luôn mạnh dạn, và chúng tôi biết rằng: ở lại trong thân xác này là
lưu lạc xa Chúa, 7 vì chúng ta tiến bước nhờ lòng tin chứ không phải
nhờ được thấy Chúa. . . 8 Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều
chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa. 9 Nhưng,
dù còn ở trong thân xác hoặc đã lìa bỏ thân xác, chúng tôi chỉ có một tham vọng
là làm đẹp lòng Người. 10Vì tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng,
trước toà Đức Ki-tô, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc
tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác.
Thi
hành sứ vụ tông đồ
11
Vậy,
vì biết kính sợ Chúa, chúng tôi cố gắng thuyết phục người ta; còn đối với Thiên
Chúa, thì mọi sự nơi chúng tôi đều lộ trần trước mặt Người. Và tôi hy vọng rằng
mọi sự nơi chúng tôi cũng lộ trần như vậy trước lương tâm của anh em. 12 Chúng
tôi không nói hay cho mình để tự giới thiệu một lần nữa với anh em, nhưng cho
anh em một cơ hội tự hào về chúng tôi, để anh em có thể trả lời cho những ai
chỉ biết kiêu hãnh về những vẻ bề ngoài, chứ không phải về những gì trong tâm
hồn. 13 Thật vậy, chúng tôi có điên, thì cũng là vì Thiên Chúa;
chúng tôi có khôn, thì cũng là vì anh em. 14 Tình yêu Đức Ki-tô thôi
thúc chúng tôi, vì chúng tôi nghĩ rằng: nếu một người đã chết thay cho mọi
người, thì mọi người đều chết. 15 Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi
người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho
Đấng đã chết và sống lại vì mình.
16
Vì
thế, từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho
dù chúng tôi đã được biết Đức Ki-tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây
chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa. 17 Cho nên, phàm ai ở
trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. 18
Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta
được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải. 19 Thật
vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người
không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. 20
Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa
dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh
em hãy làm hoà với Thiên Chúa. 21 Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì
Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho
chúng ta nên công chính trong Người.
Chương 6
1
Vì
được cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhủ anh em: anh em đã lãnh nhận
ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu. 2 Quả thế, Chúa
phán rằng: Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta
cứu độ. Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ. 3
Phần chúng tôi, chúng tôi chẳng làm gì gây cớ cho ai vấp phạm, để không
người nào có thể đàm tiếu về công việc phục vụ của chúng tôi. 4 Trái
lại, trong mọi sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của
Thiên Chúa: gian nan, khốn quẫn, lo âu, 5 đòn vọt, tù tội, loạn ly,
nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực kiên trì chịu đựng. 6
Chúng tôi còn chứng tỏ điều đó bằng cách ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn
nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối, 7
bằng lời chân lý, bằng sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng tôi lấy sự công
chính làm vũ khí tấn công và tự vệ, 8 khi vinh cũng như khi nhục,
lúc được tiếng tốt cũng như khi mang tiếng xấu. Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ
thực chúng tôi chân thành; 9 bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ
thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng
tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; 10 coi
như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ; coi như nghèo túng,
nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì,
nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả.
Ông
Phao-lô thố lộ tâm tình và cảnh cáo
11
Thưa
anh em người Cô-rin-tô, chúng tôi đã chân thành ngỏ lời với anh em, chúng tôi
đã mở rộng tấm lòng. 12 Chúng tôi không hẹp hòi với anh em đâu,
nhưng chính lòng dạ anh em hẹp hòi. 13 Vậy anh em hãy đền đáp chúng
tôi; tôi nói với anh em như nói với con cái: anh em cũng hãy mở rộng tấm lòng.
14
Anh
em đừng mang chung một ách với những kẻ không tin. Thật thế, làm sao sự công
chính lại liên kết được với sự bất chính? Làm sao ánh sáng lại dung hoà được
với bóng tối? 15 Làm sao Đức Ki-tô lại hoà hợp được với Bê-li-a? Làm sao người
tin lại chung phần được với người không tin? 16 Làm sao đền thờ Thiên Chúa lại
đi đôi với tà thần được? Vì chính chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa hằng sống,
như lời Người phán: Ta sẽ đến cư ngụ và đi đi lại lại giữa họ. Ta sẽ là Thiên
Chúa của họ, và họ sẽ là dân riêng của Ta. 17 Vì thế, hãy ra khỏi
dân ấy, hãy rời xa chúng- Chúa phán như vậy. Đừng có đụng tới vật ô uế nào, và
Ta sẽ đón nhận các ngươi. 18 Ta sẽ là Cha các ngươi, và các ngươi sẽ
là con trai, con gái của Ta. Chúa toàn năng phán như vậy.
Chương 7
1
Anh
em thân mến, vì nắm được những lời hứa ấy, nên chúng ta hãy tẩy rửa hồn xác cho
sạch mọi vết nhơ, và đem lòng kính sợ Thiên Chúa mà lo đạt tới mức thánh thiện
hoàn toàn.
2
Anh
em hãy dành cho chúng tôi một chỗ trong lòng anh em. Chúng tôi đã không làm hại
ai, không làm cho ai phải sạt nghiệp, không bóc lột ai. 3 Tôi nói
thế không phải để lên án anh em, vì tôi đã từng nói: anh em hằng ở trong lòng
chúng tôi, sống chết chúng ta đều có nhau. 4 Tôi rất tin tưởng anh
em, tôi rất hãnh diện về anh em. Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập
nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó.
Ông
Phao-lô gặp lại ông Ti-tô ở Ma-kê-đô-ni-a
5
Thật
thế, khi đến Ma-kê-đô-ni-a, thân xác chúng tôi chẳng được nghỉ ngơi chút nào;
trái lại, ở đâu cũng gặp gian nan khốn khó: bên ngoài phải chiến đấu, bên trong
phải lo sợ. 6 Nhưng Thiên Chúa, Đấng an ủi những kẻ yếu hèn, đã an
ủi chúng tôi bằng cách sai anh Ti-tô đến. 7 Chúng tôi được an ủi
không những vì anh Ti-tô đến, mà còn vì anh ấy đã được anh em an ủi. Anh ấy đã
cho chúng tôi biết là anh em nóng lòng mong đợi, buồn phiền, nhưng vẫn đầy
nhiệt tình đối với tôi, khiến tôi càng vui mừng hơn nữa.
8
Dù
trong bức thư trước tôi có làm cho anh em phải ưu phiền, tôi cũng không hối
tiếc. Mà giả như có hối tiếc-vì thấy rằng bức thư ấy đã làm cho anh em phải ưu
phiền, tuy chỉ trong chốc lát-, 9 thì nay tôi lại vui mừng, không
phải vì đã làm cho anh em phải ưu phiền, nhưng vì nỗi ưu phiền đó đã làm cho
anh em hối cải. Thật thế, anh em đã phải ưu phiền theo ý Thiên Chúa, nên chúng
tôi không làm thiệt hại gì cho anh em. 10 Quả vậy, nỗi ưu phiền theo
ý Thiên Chúa làm cho chúng ta hối cải để được cứu độ: đó là điều không bao giờ
phải hối tiếc; còn nỗi ưu phiền theo kiểu thế gian thì gây ra sự chết. 11 Hãy
xem nỗi ưu phiền theo ý Thiên Chúa đã đem lại cho anh em những gì: bao nồng
nhiệt, và hơn thế nữa, bao lời xin lỗi, bao ân hận, bao sợ hãi, bao ước mong,
bao nhiệt tình, bao hình phạt; bằng mọi cách, anh em đã chứng tỏ mình vô can
trong vụ này. 12 Vậy, nếu tôi đã viết thư cho anh em, thì không phải
vì kẻ làm nhục hay người bị nhục, nhưng để cho thái độ nồng nhiệt của anh em đối
với chúng tôi được tỏ hiện nơi anh em, trước mặt Thiên Chúa. 13 Đó
là điều an ủi chúng tôi.
14
Nếu
trước mặt anh ấy, tôi đã có đôi chút tự hào về anh em, thì tôi cũng không hổ
thẹn. Trái lại, trong mọi sự, chúng tôi đã nói thật với anh em thế nào, thì thái
độ tự hào của chúng tôi trước mặt anh Ti-tô cũng chân thật như vậy. 15 Lòng
anh ấy càng tha thiết quý mến anh em, khi nhớ lại anh em đã vâng lời, đã kính
sợ và run rẩy đón tiếp anh. 16 Tôi vui mừng vì trong mọi sự tôi có
thể tin cậy anh em.
Chương 8
II.
TỔ CHỨC LẠC QUYÊN
Những
lý do chứng tỏ lòng quảng đại
1
Thưa
anh em, chúng tôi xin báo cho anh em biết ân huệ Thiên Chúa đã ban cho các Hội
Thánh ở Ma-kê-đô-ni-a. 2 Trải qua bao nỗi gian truân, họ vẫn được
chan chứa niềm vui; giữa cảnh khó nghèo cùng cực, họ lại trở nên những người
giàu lòng quảng đại. 3 Họ đã tự nguyện theo sức họ, và tôi xin làm
chứng là quá sức họ nữa; 4 họ khẩn khoản nài xin chúng tôi cho họ
được phúc tham dự vào việc phục vụ các người trong dân thánh. 5 Họ
đã vượt quá điều chúng tôi mong ước là tự hiến mình phụng sự Chúa trước, rồi
phục vụ chúng tôi theo ý Thiên Chúa. 6 Vì vậy chúng tôi đã xin anh
Ti-tô hoàn thành công việc lạc quyên đó nơi anh em, như anh ấy đã bắt đầu làm.
7
Cũng
như anh em từng trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng
nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học được nơi
chúng tôi, thì anh em cũng phải trổi vượt về lòng quảng đại trong dịp lạc quyên
này nữa. 8 Tôi nói thế không phải để ra lệnh cho anh em đâu. Nhưng
tôi chỉ nêu lên lòng nhiệt thành của người khác để xem lòng yêu mến của anh em
chân thành đến mức nào. 9 Quả thật, anh em biết Đức Giê-su Ki-tô,
Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý,
nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho
anh em trở nên giàu có. 10 Về điều này, tôi xin đưa ra một ý kiến. Ý
kiến đó thích hợp với anh em, vì anh em là những người đầu tiên, chẳng những đã
thực hiện công cuộc đó, mà còn đã quyết định làm ngay từ năm ngoái. 11 Vậy
nay anh em hãy hoàn thành công cuộc đó, để như anh em đã hăng hái quyết định
thế nào, thì cũng tuỳ khả năng mà hoàn thành như vậy. 12 Vì khi
người ta hăng hái dâng cái mình có, thì Thiên Chúa chấp nhận; còn nếu không có
thì thôi. 13 Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho
người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. 14 Trong
hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm
cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em
lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều, 15 hợp với lời đã
chép: Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu.
Gửi
gắm ông Ti-tô và các bạn đồng hành
16
Cảm
tạ Thiên Chúa đã đặt vào lòng anh Ti-tô một sự nhiệt thành như thế đối với anh
em: 17 anh đã nhận lời yêu cầu của tôi và đã nhiệt thành tự nguyện
tới thăm anh em. 18 Cùng với anh Ti-tô, chúng tôi cử một người anh
em rao giảng Tin Mừng nổi tiếng trong khắp các Hội Thánh. 19 Không
những thế, anh lại được các Hội Thánh chỉ định cùng đi với chúng tôi lo việc
lạc quyên, một việc nghĩa chúng tôi đảm nhận, để tôn vinh Chúa và biểu lộ lòng
hăng hái của chúng tôi. 20 Chúng tôi đề phòng như thế, để không ai
chê trách được chúng tôi về món tiền lớn chúng tôi chịu trách nhiệm. 21 Vì
chúng tôi quan tâm đến điều thiện, không những trước mặt Chúa, mà cả trước mặt
người ta. 22 Chúng tôi lại cử thêm một người anh em nữa của chúng
tôi cùng đi với hai người nói trên. Chúng tôi thường hay có dịp thử lòng nhiệt
thành của anh ấy bằng nhiều cách; và nay anh còn nhiệt thành hơn nữa, vì đầy
lòng tin tưởng vào anh em. 23 Về phần anh Ti-tô, anh vừa là bạn
đường, vừa là người cộng tác với tôi trong việc phục vụ anh em. Còn về hai
người anh em kia của chúng tôi, họ là sứ giả của các Hội Thánh và là vinh quang
của Đức Ki-tô. 24 Vậy, trước mặt các Hội Thánh, anh em hãy tỏ cho
những người đó thấy đức ái của anh em, và cho họ biết là chúng tôi có lý để tự
hào về anh em.
Chương 9
1
Về
việc phục vụ các người trong dân thánh, tôi có viết cho anh em thì kể cũng bằng
thừa, 2 vì tôi biết lòng hăng hái của anh em. Điều đó làm cho tôi tự
hào vì anh em mà khoe với các anh em vùng Ma-kê-đô-ni-a rằng: ”Xứ A-khai-a đã
sẵn sàng từ năm ngoái". Và nhiệt tình của anh em đã khích lệ rất nhiều
người. 3 Tôi cử mấy người anh em đi để niềm tự hào của chúng tôi về
thiện chí của anh em khỏi trở thành hư ảo, và để anh em được sẵn sàng, như tôi
đã nói. 4 Chẳng vậy, lúc anh em Ma-kê-đô-ni-a cùng đến với tôi mà
thấy anh em không sẵn sàng, thì chúng tôi phải xấu hổ vì đã tin cậy như thế,
nếu không muốn nói là cả anh em nữa cũng phải xấu hổ. 5 Vậy, tôi
nghĩ cần phải xin mấy người anh em đến với anh em trước chúng tôi và chuẩn bị
cho anh em quyên góp rộng rãi như đã hứa, để anh em sẵn sàng quyên góp với lòng
quảng đại, chứ không phải theo tính hẹp hòi.
Ích
lợi của cuộc lạc quyên
6
Tôi
xin nói điều này: gieo ít thì gặt ít; gieo nhiều thì gặt nhiều. 7 Mỗi
người hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không buồn phiền, cũng không
miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được Thiên Chúa yêu thương. 8 Vả
lại, Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ xuống trên anh em mọi thứ ân huệ, để anh em
vừa được luôn đầy đủ mọi mặt, vừa được dư thừa mà làm mọi việc thiện, 9 theo
như lời đã chép: Kẻ túng nghèo, Người rộng tay làm phúc; đức công chính của
Người tồn tại muôn đời.
10
Đấng
cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh làm của ăn nuôi dưỡng, tất sẽ cung cấp
dư dật hạt giống cho anh em gieo, và sẽ làm cho đức công chính của anh em sinh
hoa kết quả dồi dào. 11 Anh em sẽ được sung túc mọi bề để làm mọi
việc thiện cách rộng rãi. Những việc chúng ta làm sẽ khiến người ta dâng lời
cảm tạ Thiên Chúa. 12 Thật thế, việc phục vụ cho công ích này không
những đáp ứng nhu cầu của của các người trong dân thánh, mà hơn thế nữa, còn là
nguồn phát sinh bao lời cảm tạ dâng lên Thiên Chúa. 13 Việc phục vụ
này là một bằng cớ cho họ tôn vinh Thiên Chúa, vì thấy anh em vâng phục và
tuyên xưng Tin Mừng của Đức Ki-tô, và vì thấy anh em có lòng quảng đại, sẵn
sàng chia sẻ với họ và với mọi người. 14 Còn họ, họ sẽ cầu nguyện
cho anh em để tỏ lòng quý mến, bởi nhận thấy ân huệ tuyệt vời Thiên Chúa đổ
xuống trên anh em. 15 Xin cảm tạ Thiên Chúa vì phúc lộc khôn tả
Người ban!
Chương 10
III.
ÔNG PHAO-LÔ TỰ BIỆN HỘ
Ông
Phao-lô trả lời những kẻ trách ông nhu nhược
1
Chính
tôi, Phao-lô, một kẻ trước mặt anh em thì khúm núm, mà vắng mặt thì lại ra oai,
tôi xin dựa vào lòng nhân từ và khoan dung của Đức Ki-tô mà khuyên nhủ anh em. 2
Tôi xin anh em chớ bắt buộc tôi, khi có mặt, phải mạnh dạn ra oai mà tính
đến chuyện thẳng tay với những kẻ cho rằng chúng tôi chỉ biết sống theo tính
xác thịt. 3 Quả thế, chúng tôi đang sống trong xác phàm, nhưng không
chiến đấu theo tính xác thịt. 4 Thật vậy, khí giới chúng tôi dùng để
chiến đấu không phải là thứ khí giới thuộc xác thịt, nhưng là những khí giới,
nhờ Thiên Chúa, có sức đánh đổ các đồn luỹ. Chúng tôi đánh đổ các kiểu lý luận5
và mọi thái độ kiêu căng chống lại sự hiểu biết Thiên Chúa. Chúng tôi bắt mọi
tư tưởng phải đầu hàng để đi tới chỗ vâng phục Đức Ki-tô. 6 Chúng
tôi sẵn sàng sửa trị mọi kẻ bất tuân, một khi anh em đã hoàn toàn vâng phục.
7
Anh
em hãy nhìn nhận những gì sờ sờ trước mắt. Nếu có ai tự phụ mình thuộc về Đức
Ki-tô, thì hãy nhận thức một lần nữa điều này: họ thuộc về Đức Ki-tô làm sao,
thì chúng tôi cũng vậy. 8 Vì cho dầu tôi có tự hào quá đáng một đôi
chút về quyền Chúa đã ban cho chúng tôi để xây dựng, chứ không phải để đánh đổ
anh em, thì tôi cũng không lấy làm xấu hổ, 9 kẻo như muốn dùng thư
từ mà làm cho anh em phải khiếp sợ. 10 Có kẻ nói rằng: ”Trong thư
thì nghiêm khắc và hùng hổ; nhưng khi có mặt thì nhu nhược, nói chẳng ra hồn.” 11
Xin họ biết cho rằng: khi vắng mặt, chúng tôi viết thư làm sao, thì khi
có mặt, chúng tôi cũng hành động như vậy.
Ông
Phao-lô trả lời những kẻ trách ông đầy tham vọng
12
Thật
ra, chúng tôi đâu dám cho mình ngang hàng hay so sánh mình với những kẻ tự cao
tự đại kia. Nhưng khi họ lấy mình làm tiêu chuẩn để tự đánh giá và so sánh, thì
họ không được khôn. 13 Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ không tự hào
quá giới hạn. Trái lại, niềm tự hào của chúng tôi giới hạn trong phạm vi Thiên
Chúa đã quy định cho chúng tôi, khi đưa chúng tôi đến với anh em. 14 Vì
anh em ở trong phạm vi đó, nên chúng tôi không vượt quá giới hạn khi đến với
anh em. Thật thế, chúng tôi đã đến với anh em trước, mang theo Tin Mừng của Đức
Ki-tô, 15 chứ không cướp công của người khác mà tự hào quá giới hạn.
Nhưng chúng tôi hy vọng rằng: một khi đức tin của anh em lớn mạnh, công việc
của chúng tôi ngày càng phát triển nơi anh em trong phạm vi đã quy định cho
chúng tôi, 16 thì chúng tôi có thể đem Tin Mừng xa hơn nữa, mà không
tự hào về những thành tựu thuộc phạm vi người khác. 17 Nhưng ai tự
hào thì hãy tự hào trong Chúa! 18 Người được chấp nhận không phải là kẻ tự cao
tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao.
Chương 11
Ông
Phao-lô bắt buộc phải tự khen mình
1
Phải
chi anh em chịu đựng được một chút điên rồ của tôi! Mà hẳn anh em chịu đựng
được tôi. 2 Thật thế, vì anh em, tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa,
bởi tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng
anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết. 3 Nhưng tôi sợ rằng
như xưa con rắn đã dùng mưu chước mà lừa dối bà E-và thế nào, thì nay trí lòng
anh em cũng dần dần đâm ra hư hỏng, mất sự đơn sơ đối với Đức Ki-tô như vậy. 4
Quả thật, nếu có ai đến rao giảng một Đức Giê-su khác với Đức Giê-su mà
chúng tôi rao giảng, hay nếu anh em lãnh nhận một Thần Khí nào khác với Thần
Khí anh em đã lãnh nhận, hoặc nếu anh em lãnh nhận một Tin Mừng nào khác với
Tin Mừng anh em đã đón nhận, thì anh em sẵn lòng chịu đựng được ngay. 5 Tôi
nghĩ rằng tôi chẳng có thua gì các Tông Đồ siêu đẳng kia. 6 Giả như
tôi có thua kém về khoa ăn nói, thì về sự hiểu biết, tôi chẳng thua kém đâu!
Trong mọi dịp và trước mặt mọi người, chúng tôi đã tỏ cho anh em thấy điều đó
rồi.
7
Phải
chăng tôi có lỗi, vì đã hạ mình xuống để tôn anh em lên, khi rao giảng không
công cho anh em Tin Mừng của Thiên Chúa? 8 Tôi đã bóc lột các Hội Thánh khác,
ăn lương của họ, để phục vụ anh em. 9 Hồi ở giữa anh em, những khi
lâm cảnh túng thiếu, tôi đã chẳng phiền luỵ ai, bởi vì các anh em từ
Ma-kê-đô-ni-a đến đã cung cấp đầy đủ những gì tôi cần. Trong mọi dịp, tôi đã
tránh không trở nên gánh nặng cho anh em, và tôi cũng sẽ còn tránh như vậy. 10
Nhân danh chân lý của Đức Ki-tô ở trong tôi, tôi xin nói với anh em rằng:
chẳng ai cấm được tôi có niềm vinh dự đó trong các miền xứ A-khai-a. 11 Tại
sao thế? Có phải vì tôi không yêu mến anh em chăng? Có Thiên Chúa biết!
12
Điều
tôi làm, tôi sẽ tiếp tục làm, để những kẻ muốn có cơ hội tự phụ là những người
ngang hàng với chúng tôi, không còn cơ hội đó nữa. 13 Vì những kẻ đó
là tông đồ giả, là thợ gian xảo, đội lốt tông đồ của Đức Ki-tô. 14 Lạ
gì đâu! Vì chính Xa-tan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! 15 Vậy có gì là khác
thường khi kẻ phục vụ nó đội lốt người phục vụ sự công chính. Chung cục, chúng
sẽ lãnh nhận hậu quả công việc chúng đã làm. 16 Tôi xin nói lại:
đừng ai tưởng là tôi điên. Mà có ai tưởng như thế, thì cứ nhận tôi là điên, để
tôi cũng được tự hào đôi chút. 17 Điều tôi đang nói, tôi không nói
theo tinh thần của Chúa, nhưng nói như một người điên, bởi tin chắc rằng mình
có lý để tự hào. 18 Vì có lắm kẻ tự hào theo tính xác thịt, thì tôi
đây, tôi cũng tự hào. 19 Vốn là người khôn, anh em lại sẵn lòng chịu
đựng kẻ điên! 20 Phải rồi, anh em đành chịu người ta áp chế, cấu xé, tước đoạt,
đối xử ngạo ngược và tát vào mặt! 21 Tôi nói thế, thật là nhục nhã, như thể
chúng tôi đã tỏ ra nhu nhược. . .
22
Họ
là người Híp-ri ư? Tôi cũng vậy! Họ là người Ít-ra-en ư? Tôi cũng vậy! Họ là
dòng giống Áp-ra-ham ư? Tôi cũng vậy! 23 Họ là người phục vụ Đức Ki-tô ư? Tôi
nói như người điên: tôi còn hơn họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở
tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao lần suýt chết. 24 Năm lần tôi bị
người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; 25 ba lần bị đánh đòn; một
lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! 26
Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên
sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại,
nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả
danh là anh em. 27 Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức
đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. 28 Không
kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho
tất cả các Hội Thánh! 29 Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu
đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên?
30
Nếu
phải tự hào, thì tôi sẽ tự hào về những yếu đuối của tôi. 31 Thiên
Chúa, Đấng đáng chúc tụng muôn đời, là Cha của Chúa Giê-su, biết rằng tôi không
nói dối. 32 Tại Đa-mát, tổng đốc của vua A-rê-ta đã cho lính canh
gác thành để bắt tôi. 33 Nhưng người ta đã cho tôi vào một cái
thúng, rồi thòng qua cửa sổ dọc theo tường thành. Thế là tôi thoát khỏi tay ông
ta.
Chương 12
1
Phải
tự hào ư? Nào có ích gì! Dù thế, tôi cũng xin nói về những thị kiến và mặc khải
Chúa đã ban cho tôi. 2 Tôi biết có một người môn đệ Đức Ki-tô, trước
đây mười bốn năm đã được nhắc lên tới tầng trời thứ ba-có ở trong thân xác hay
không, tôi không biết, có ở ngoài thân xác hay không, tôi cũng không biết, chỉ
có Thiên Chúa biết. 3 Tôi biết rằng người ấy đã được nhắc lên tận
thiên đàng-trong thân xác hay ngoài thân xác, tôi không biết, chỉ có Thiên Chúa
biết-, 4 và người ấy đã được nghe những lời khôn tả mà loài người
không được phép nói lại. 5 Về một người như thế, tôi sẽ tự hào; còn
về bản thân tôi, tôi chỉ tự hào về những yếu đuối của tôi. 6 Quả
vậy, nếu muốn tự hào, thì tôi cũng không phải là người điên, vì tôi nói sự
thật. Nhưng tôi không làm thế, kẻo người ta đánh giá tôi quá cao, so với điều
họ thấy nơi tôi hoặc nghe tôi nói.
7
Và
để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân
xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả
mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại. 8 Đã ba lần tôi xin Chúa cho
thoát khỏi nỗi khổ này. 9 Nhưng Người quả quyết với tôi: ”Ơn của
Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu
đuối.” Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức
mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi. 10 Vì vậy, tôi cảm thấy vui
sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức
Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.
11
Tôi
điên rồi! Chính anh em đã khiến tôi hoá ra như thế. Đáng lẽ anh em phải khen
tôi, vì mặc dầu tôi chẳng là gì, tôi đâu có thua kém các Tông Đồ siêu đẳng kia.
12 Anh em đã thấy thực hiện nơi anh em những dấu chỉ của sứ vụ Tông
Đồ: nào là đức kiên nhẫn hoàn hảo, nào là những dấu lạ điềm thiêng, nào là các
phép lạ. 13 Anh em có thua gì các Hội Thánh khác? Có chăng, chỉ thua
ở chỗ bản thân tôi đã không phiền luỵ anh em! Xin anh em tha cho tôi sự bất
công đó. 14 Đây tôi sẵn sàng đến thăm anh em lần thứ ba. Tôi cũng sẽ
không phiền luỵ anh em đâu, bởi vì điều tôi tìm kiếm không phải là của cải của
anh em, mà là chính anh em. Thật vậy, không phải con cái có nhiệm vụ thu tích
của cải cho cha mẹ, mà là cha mẹ phải thu tích của cải cho con cái. 15 Phần
tôi, tôi rất vui lòng tiêu phí tiền của, và tiêu phí cả sức lực lẫn con người
của tôi vì linh hồn anh em. Phải chăng vì yêu mến anh em nhiều hơn mà tôi được
yêu mến ít hơn?
16
Thế
cũng được! Tôi đã không trở nên gánh nặng cho anh em; nhưng vốn là người xảo
quyệt, tôi đã dùng mưu mà lừa gạt anh em. 17 Phải chăng trong số
những kẻ tôi sai đến, tôi đã dùng người nào đó để bóc lột anh em? 18 Tôi đã xin
anh Ti-tô đi, và đã cử người anh em kia cùng đi với anh. Phải chăng anh Ti-tô
đã bóc lột anh em? Chúng tôi đã không sống theo cùng một tinh thần, cùng một
đường lối sao?
Nỗi
lo âu của ông Phao-lô
19
Đã
từ lâu, anh em tưởng rằng chúng tôi tự biện hộ trước mặt anh em. Thật ra tôi
nói là nói trước mặt Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô. Và thưa anh em thân mến,
chúng tôi nói tất cả những điều ấy cốt để xây dựng anh em. 20 Quả
vậy, tôi sợ rằng khi đến, tôi không thấy anh em được như ý tôi, và anh em thấy
tôi không được như ý anh em. Chớ gì giữa anh em đừng có chia rẽ, ghen tương,
oán ghét, cạnh tranh, vu khống, nói hành, kiêu căng, hỗn loạn. 21 Tôi
sợ rằng lần sau đến thăm anh em, Thiên Chúa của tôi lại để tôi phải nhục vì anh
em, và tôi phải than khóc nhiều người trước đây đã phạm tội, mà nay chẳng chịu
ăn năn hối cải về những việc ô uế, gian dâm và phóng đãng họ đã làm.
Chương 13
1
Đây
sẽ là lần thứ ba tôi đến thăm anh em. Mọi công việc phải được giải quyết nhờ có
ba mặt một lời. 2 Tôi đã nói với những kẻ trước đây đã phạm tội và
mọi người khác, và hôm nay khi vắng mặt, tôi cũng xin nói lại như đã nói khi có
mặt lần thứ hai, là: nếu đến lần nữa, tôi sẽ không nương tay, 3 bởi
vì anh em muốn có một bằng chứng cho thấy Đức Ki-tô nói trong tôi. Người không
nhu nhược đối với anh em đâu, nhưng Người đầy uy quyền giữa anh em. 4 Thật
vậy, Người đã chịu đóng đinh vì mang thân phận yếu hèn, nhưng nay Người đang
sống nhờ quyền năng của Thiên Chúa. Cả chúng tôi nữa, trong Đức Ki-tô, chúng
tôi cũng mang thân phận yếu hèn, nhưng cùng với Người, chúng tôi sống nhờ quyền
năng của Thiên Chúa để xử sự với anh em.
5
Anh
em hãy tự xét xem mình có còn sống trong đức tin hay không. Hãy tự kiểm điểm.
Anh em chẳng nhận thấy là có Đức Giê-su Ki-tô ở trong anh em sao? Trừ phi anh
em đã thua trong cuộc kiểm điểm này. 6 Tôi hy vọng rằng anh em sẽ
nhận thấy là chúng tôi đây không bị thua. 7 Chúng tôi cầu xin Thiên
Chúa cho anh em đừng làm điều gì trái, không phải để tỏ ra chúng tôi thắng,
nhưng để anh em làm điều thiện, cho dù chúng tôi như bị thua. 8 Vì
chúng tôi không thể làm gì chống lại sự thật, nhưng chúng tôi chỉ có thể hoạt
động cho sự thật. 9 Quả thế, chúng tôi vui mừng khi chúng tôi yếu mà
anh em lại mạnh. Điều chúng tôi cầu xin là anh em được nên hoàn thiện. 10 Vì
vậy, khi vắng mặt, tôi viết các điều này, để lúc có mặt, tôi khỏi phải xử
nghiêm khắc, theo quyền hành Chúa đã ban cho tôi để xây dựng, chứ không phải để
phá đổ.
KẾT
LuẬN
Những
lời dặn dò, thăm hỏi và lời cầu chúc cuối cùng
11
Ngoài
ra, thưa anh em, anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích
nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu
thương và bình an, sẽ ở cùng anh em.
12
Anh
em hãy hôn chào nhau cách thánh thiện. Mọi người thuộc dân thánh ở đây gửi lời
chào anh em.
13
Cầu
chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình
thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. A-men.
Ga-lát
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Tôi
là Phao-lô, Tông Đồ không phải do loài người, cũng không phải nhờ một người
nào, nhưng bởi Đức Giê-su Ki-tô và Thiên Chúa là Cha, Đấng đã cho Người từ cõi
chết trỗi dậy, 2 tôi và mọi anh em đang ở với tôi, kính gửi các Hội
Thánh miền Ga-lát. 3 Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa
Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an. 4 Để cứu chúng ta
thoát khỏi cõi đời xấu xa hiện tại, Đức Giê-su Ki-tô đã tự hiến vì tội lỗi
chúng ta, theo ý muốn của Thiên Chúa là Cha chúng ta. 5 Xin tôn vinh
Thiên Chúa đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Lời
cảnh cáo
6
Tôi
lấy làm ngạc nhiên, khi thấy anh em trở mặt mau lẹ như thế với Đấng đã kêu gọi
anh em nhờ ân sủng của Đức Ki-tô, để theo một Tin Mừng khác. 7 Không
có Tin Mừng nào khác đâu, mà chỉ có một vài kẻ phá rối anh em, và muốn làm xáo
trộn Tin Mừng của Đức Ki-tô đó thôi. 8 Nhưng nếu có ai, kể cả chúng
tôi, hoặc một thiên thần nào từ trời xuống, loan báo cho anh em Tin Mừng khác
với Tin Mừng chúng tôi đã loan báo cho anh em, thì xin Thiên Chúa loại trừ kẻ
ấy đi! 9 Như tôi đã nói, và nay tôi xin nói lại: nếu có ai loan báo cho anh em
một Tin Mừng khác với Tin Mừng anh em đã lãnh nhận, thì xin Thiên Chúa loại trừ
kẻ ấy đi! 10 Vậy, giờ đây tôi tìm cách lấy lòng người đời, hay lấy lòng Thiên
Chúa? Phải chăng tôi tìm cách làm đẹp lòng người đời? Nếu tôi còn muốn làm đẹp
lòng người đời, thì tôi không phải là tôi tớ của Đức Ki-tô.
I.
LỜI THANH MINH
Ơn
gọi của thánh Phao-lô
11
Thật
vậy, thưa anh em, tôi xin nói cho anh em biết: Tin Mừng tôi loan báo không phải
là do loài người. 12 Vì không có ai trong loài người đã truyền lại
hay dạy cho tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Đức Giê-su Ki-tô đã mặc khải. 13
Anh em hẳn đã nghe nói tôi đã ăn ở thế nào trước kia trong đạo Do-thái:
tôi đã quá hăng say bắt bớ, và những muốn tiêu diệt Hội Thánh của Thiên Chúa. 14
Trong việc giữ đạo Do-thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi
với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông.
15
Nhưng
Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi
nhờ ân sủng của Người. 16 Người đã đoái thương mặc khải Con của
Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi
đã chẳng thuận theo các lý do tự nhiên, 17 cũng chẳng lên
Giê-ru-sa-lem để gặp các vị đã là Tông Đồ trước tôi, nhưng tức khắc tôi đã sang
xứ Ả-rập, rồi lại trở về Đa-mát. 18 Ba năm sau tôi mới lên
Giê-ru-sa-lem diện kiến ông Kê-pha, và ở lại với ông mười lăm ngày. 19 Tôi
đã không gặp một vị Tông Đồ nào khác ngoài ông Gia-cô-bê, người anh em của Chúa.
20 Viết cho anh em những điều này, tôi cam đoan trước mặt Thiên Chúa
là tôi không nói dối. 21 Sau đó tôi đến miền Xy-ri và miền
Ki-li-ki-a. 22 Nhưng lúc ấy các Hội Thánh Đức Ki-tô tại miền Giu-đê
không biết mặt tôi. 23 Họ chỉ nghe nói rằng: ”Người trước đây bắt bớ
chúng ta, bây giờ lại loan báo đức tin mà xưa kia ông những muốn tiêu
diệt", 24 và vì tôi họ tôn vinh Thiên Chúa.
Chương 2
Đại
hội ở Giê-ru-sa-lem
1
Rồi
sau mười bốn năm, tôi lại lên Giê-ru-sa-lem một lần nữa cùng với ông Ba-na-ba;
tôi cũng đem theo anh Ti-tô đi với tôi. 2 Tôi lên đó vì được Thiên
Chúa mặc khải, và đã trình bày cho người ta Tin Mừng tôi rao giảng cho dân
ngoại,-cách riêng cho các vị có thế giá-, vì sợ rằng tôi ngược xuôi, và đã
ngược xuôi vô ích. 3 Thế mà ngay cả anh Ti-tô, người cùng đi với tôi
và là người Hy-lạp, cũng không bị ép phải chịu cắt bì. 4 Sở dĩ thế
là vì có những tên xâm nhập, những kẻ giả danh giả nghĩa anh em, đã len lỏi vào
dò xét sự tự do của chúng ta, sự tự do chúng ta có được trong Đức Ki-tô Giê-su;
họ làm như vậy là để bắt chúng ta trở thành nô lệ. 5 Nhưng với những
người ấy, chúng tôi đã không chịu nhượng bộ, dù chỉ trong giây lát, để duy trì
cho anh em chân lý của Tin Mừng. 6 Còn về các vị có thế giá-lúc bấy
giờ các vị ấy có là gì đi nữa, điều đó không quan hệ đối với tôi: Thiên Chúa
không thiên vị ai-, các vị có thế giá ấy đã không đưa ra thêm điều gì cho tôi. 7
Trái lại, các ngài thấy rằng tôi đã được uỷ thác nhiệm vụ loan báo Tin
Mừng cho những người không được cắt bì, cũng như ông Phê-rô được uỷ thác nhiệm
vụ loan báo Tin Mừng cho những người được cắt bì. 8 Thật vậy, Đấng
đã hoạt động nơi ông Phê-rô, biến ông thành Tông Đồ của những người được cắt
bì, cũng đã hoạt động biến tôi thành Tông Đồ các dân ngoại. 9 Vậy
khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa đã ban cho tôi, các ông Gia-cô-bê, Kê-pha và Gio-an,
những người được coi là cột trụ, đã bắt tay tôi và ông Ba-na-ba để tỏ dấu hiệp
thông: chúng tôi thì lo cho các dân ngoại, còn các vị ấy thì lo cho những người
được cắt bì. 10 Chỉ có điều này là chúng tôi phải nhớ đến những
người túng thiếu, điều mà tôi vẫn gắng làm.
Thánh
Phê-rô và thánh Phao-lô tại An-ti-ô-khi-a
11
Nhưng
khi ông Kê-pha đến An-ti-ô-khi-a, tôi đã cự lại ông ngay trước mặt, vì ông đã
làm điều đáng trách. 12 Thật vậy, ông thường dùng bữa với những
người gốc dân ngoại trước khi có những người của ông Gia-cô-bê đến; nhưng khi
những người này đến, ông lại tránh né và tự tách ra, vì sợ những người được cắt
bì. 13 Những người Do-thái khác cũng theo ông mà giả hình giả bộ,
khiến cả ông Ba-na-ba cũng bị lôi cuốn mà giả hình như họ.
14
Nhưng
khi tôi thấy các ông ấy không đi đúng theo chân lý của Tin Mừng, thì tôi đã nói
với ông Kê-pha trước mặt mọi người: ”Nếu ông là người Do-thái mà còn sống như
người dân ngoại, chứ không như người Do-thái, thì làm sao ông lại ép người dân
ngoại phải xử sự như người Do-thái?”
Tin
Mừng của thánh Phao-lô
15
Chúng
ta bẩm sinh là người Do-thái chứ không phải hạng người tội lỗi xuất thân từ dân
ngoại. 16 Tuy nhiên, vì biết rằng con người được nên công chính
không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giê-su Ki-tô, nên
chúng ta cũng tin vào Đức Ki-tô Giê-su, để được nên công chính, nhờ tin vào Đức
Ki-tô, chứ không phải nhờ làm những gì Luật dạy. Quả thế, không phàm nhân nào
sẽ được nên công chính vì làm những gì Luật dạy. 17 Nhưng nếu khi
tìm cách nên công chính trong Đức Ki-tô mà chúng ta vẫn bị liệt vào hàng tội
lỗi, thì chẳng hoá ra Đức Ki-tô là người phục vụ tội lỗi sao? Không phải thế!
18 Thật vậy, nếu tôi xây lại những gì tôi đã phá, thì tôi tỏ ra mình là kẻ phạm
pháp. 19 Quả thế, tại vì Lề Luật mà tôi đã chết đối với Lề Luật, để
sống cho Thiên Chúa. Tôi cùng chịu đóng đinh với Đức Ki-tô vào thập giá. 20
Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi.
Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu
mến tôi và hiến mạng vì tôi. 21 Tôi không làm cho ân huệ của Thiên
Chúa ra vô hiệu, vì nếu người ta được nên công chính do Lề Luật, thì hoá ra Đức
Ki-tô đã chết vô ích.
Chương 3
II.
PHẦN GIÁO THUYẾT
Kinh
nghiệm của người tín hữu
1
Hỡi
những người Ga-lát ngu xuẩn, ai đã mê hoặc anh em là những người đã được thấy
hình ảnh Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá phơi bày ra trước mắt? 2
Tôi muốn anh em cho tôi biết điều này thôi: anh em đã nhận được Thần Khí vì đã
làm những gì Luật dạy, hay vì đã tin nhờ được nghe? 3 Anh em ngu xuẩn như thế
sao? Anh em đã khởi sự nhờ Thần Khí, nay lại kết thúc nhờ xác thịt sao? 4 Bấy
nhiêu kinh nghiệm anh em đã trải qua, lại uổng công sao? Mà quả thật là uổng
công! 5 Vậy Đấng đã rộng ban Thần Khí cho anh em và thực hiện những phép lạ
giữa anh em, có phải vì anh em làm những gì Luật dạy, hay vì anh em đã tin nhờ
được nghe?
Kinh
Thánh làm chứng: đức tin và Lề Luật
6
Cũng
như ông Áp-ra-ham đã tin Thiên Chúa, và vì thế Thiên Chúa kể ông là người công
chính. 7 Vậy anh em nên biết rằng: những ai dựa vào đức tin, những
người ấy là con cái ông Áp-ra-ham. 8 Đàng khác, Kinh Thánh thấy
trước rằng Thiên Chúa sẽ làm cho dân ngoại nên công chính nhờ đức tin, nên đã
tiên báo cho ông Áp-ra-ham tin mừng này: Nhờ ngươi, muôn dân sẽ được chúc phúc.
9 Như vậy, những kẻ dựa vào đức tin thì được chúc phúc làm một với
ông Áp-ra-ham, người có đức tin.
10
Thật
thế, những ai dựa vào những việc Luật dạy phải làm thì đều chuốc lấy lời nguyền
rủa, vì Kinh Thánh viết: Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ không bền chí thi hành tất
cả những gì chép trong sách Luật! 11 Vả lại, không ai được nên công chính trước
mặt Thiên Chúa nhờ Lề Luật, đó là điều hiển nhiên, vì người công chính nhờ đức
tin sẽ được sống. 12 Thế mà Lề Luật không lệ thuộc đức tin, nhưng ai
thực hành những điều Lề Luật dạy, thì nhờ đó sẽ được sống. 13 Đức
Ki-tô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì Lề Luật, khi vì chúng ta
chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa, vì có lời chép: Đáng nguyền rủa thay mọi
kẻ bị treo trên cây gỗ! 14 Như thế là để nhờ Đức Giê-su Ki-tô, các dân ngoại
cũng được hưởng phúc lành dành cho ông Áp-ra-ham, và để nhờ đức tin, chúng ta
nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa tức là Thần Khí.
Lề
Luật không huỷ bỏ lời hứa
15
Thưa
anh em, tôi nói theo kiểu người đời: một chúc thư đúng thể thức, dù chỉ là do
một người phàm, thì cũng không ai được huỷ bỏ hay thêm thắt điều gì. 16 Thế
mà những lời hứa đã được ban cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông, Kinh Thánh
không nói: và cho những dòng dõi, như thể nói về nhiều, mà chỉ nói về một: và
cho dòng dõi người là Đức Ki-tô. 17 Tôi muốn nói là: một chúc thư
xưa kia đã được Thiên Chúa lập đúng thể thức, thì Lề Luật, mãi bốn trăm ba mươi
năm sau mới có, không phế bỏ chúc thư đó được, và như vậy làm cho lời hứa ra vô
hiệu. 18 Thật thế, nếu nhờ Lề Luật mà người ta được hưởng gia tài,
thì không còn phải là nhờ lời hứa nữa. Thế nhưng Thiên Chúa đã dùng một lời hứa
mà ban ân huệ cho ông Áp-ra-ham.
Vai
trò của Lề Luật
19
Vậy
Lề Luật để làm gì? Chính là để gây ra các sự vi phạm mà Lề Luật đã được đặt
thêm, cho tới khi Đấng là dòng dõi Áp-ra-ham đến, Đấng được hưởng lời hứa. Lề
Luật đã được ban bố nhờ các thiên thần, qua tay một trung gian. 20 Nhưng
không thể có trung gian khi chỉ có một bên, mà Thiên Chúa thì chỉ có một. 21
Vậy thì Lề Luật đi ngược lại với những lời hứa của Thiên Chúa sao? Không
phải thế. Thật vậy, giả như có một luật nào đã được ban cho con người mà lại có
khả năng làm cho sống, thì quả là người ta được nên công chính nhờ Lề Luật. 22
Nhưng Kinh Thánh đã giam hãm mọi sự trong vòng tội lỗi, để nhờ lòng tin
vào Đức Giê-su Ki-tô, điều Thiên Chúa đã hứa được ban cho các kẻ tin.
Thời
của đức tin đã đến
23
Trước
khi đức tin đến, chúng ta bị Lề Luật giam giữ, cho tới khi đức tin được mặc
khải. 24 Như thế Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới
Đức Ki-tô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin. 25 Nhưng khi
đức tin đến, thì chúng ta không còn ở dưới quyền giám hộ nữa. 26 Thật
vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su
Ki-tô. 27 Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về
Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô. 28 Không còn chuyện phân biệt
Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em
chỉ là một trong Đức Ki-tô. 29 Mà nếu anh em thuộc về Đức Ki-tô, thì
anh em là dòng dõi ông Áp-ra-ham, những người thừa kế theo lời hứa.
Chương 4
Chúng
ta được làm con cái Thiên Chúa
1
Tôi
thiết nghĩ: bao lâu người thừa kế còn là thiếu niên thì không khác gì một nô
lệ, mặc dù là chủ mọi tài sản. 2 Nó phải ở dưới quyền những người
giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định. 3 Chúng
ta cũng vậy, khi còn là thiếu niên, chúng ta phải làm nô lệ những yếu tố của vũ
trụ. 4 Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con
mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, 5 để
chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử. 6
Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình
đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ”Áp-ba, Cha ơi!”7 Vậy anh em không còn
phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ
Thiên Chúa.
8
Trước
kia, khi chưa biết Thiên Chúa, anh em làm nô lệ những vật tự bản chất không
phải là thần. 9 Nhưng nay anh em đã biết Thiên Chúa, hay đúng hơn
được Thiên Chúa biết đến, làm sao anh em còn trở lại với những yếu tố bất lực
và nghèo nàn ấy, còn muốn làm nô lệ chúng một lần nữa? 10 Anh em cẩn thận giữ
ngày, giữ tháng, giữ mùa, giữ năm! 11 Anh em làm tôi sợ rằng tôi đã vất vả uổng
công vì anh em!
Nhắc
lại quá khứ
12
Thưa
anh em, tôi van anh em, anh em hãy nên giống như tôi, vì tôi cũng đã nên giống
như anh em. Anh em đã không làm tổn thương gì cho tôi cả. 13 Anh em
biết: nhân khi thân xác bị đau ốm, tôi đã loan báo Tin Mừng cho anh em lần đầu
tiên. 14 Mặc dù thân xác tôi là một dịp thử thách cho anh em, anh em
đã không khinh, không tởm; trái lại anh em đã tiếp đón tôi như một sứ giả của
Thiên Chúa, như Đức Ki-tô Giê-su. 15 Vậy hạnh phúc của anh em lúc
đó, bây giờ đâu rồi? Thật thế, tôi xin làm chứng cho anh em rằng: nếu có thể,
hẳn anh em đã móc mắt hiến cho tôi. 16 Thành thử tôi đã trở nên kẻ
thù của anh em vì nói sự thật cho anh em sao? 17 Họ nhiệt thành với anh em
không phải vì mục đích tốt, mà chỉ vì muốn ly gián anh em với tôi, để anh em
nhiệt thành với họ. 18 Được người ta tỏ lòng nhiệt thành là điều
tốt, miễn là vì mục đích tốt và trong mọi trường hợp, chứ không phải chỉ khi
nào tôi có mặt giữa anh em. 19 Hỡi anh em, những người con bé nhỏ
của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa cho đến khi Đức Ki-tô được
thành hình nơi anh em, 20 tôi ước ao được có mặt giữa anh em lúc
này, để lựa lời nói sao cho thích hợp, vì tôi thấy khó xử với anh em quá!
Hai
giao ước: Ha-ga và Xa-ra
21
Hãy
nói cho tôi hay: anh em là những người muốn sống dưới Lề Luật, anh em không
nghe Lề Luật nói gì sao? 22 Thật vậy, có lời chép rằng: ông Áp-ra-ham có hai
người con, mẹ của một người là nô lệ, mẹ của người kia là tự do. 23 Nhưng
con của người mẹ nô lệ thì sinh ra theo luật tự nhiên; còn con của người mẹ tự
do thì sinh ra nhờ lời hứa. 24 Truyện đó ngụ ý thế này: hai người
đàn bà là hai giao ước. Giao ước thứ nhất tại núi Xi-nai, thì sinh ra nô lệ: đó
là Ha-ga. 25 Ha-ga chỉ núi Xi-nai trong miền Ả-rập, và tương đương
với Giê-ru-sa-lem ngày nay, vì thành này cùng với các con đều là nô lệ. 26
Còn Giê-ru-sa-lem thượng giới thì tự do: đó là mẹ chúng ta. 27 Thật
vậy, có lời chép:
Reo
mừng lên,
hỡi
người phụ nữ son sẻ, không sinh con;
hãy
bật tiếng reo hò mừng vui,
hỡi
ai chưa một lần chuyển dạ,
vì
con của phụ nữ bị bỏ rơi
thì
đông hơn con của phụ nữ có chồng!
28
Thưa
anh em, như I-xa-ác, anh em là những người con sinh ra do lời Thiên Chúa hứa. 29
Nhưng cũng như thuở ấy đứa con sinh ra theo luật tự nhiên đã ngược đãi
đứa con sinh ra theo thần khí, thì bây giờ cũng vậy. 30 Thế nhưng
Kinh Thánh nói gì? Kinh Thánh nói: Tống cổ người nô lệ và con của nó đi, vì con
của nô lệ không đời nào được thừa kế gia tài cùng với con của người tự do. 31
Ấy vậy, thưa anh em, chúng ta không phải là con của một người nô lệ,
nhưng là con của người tự do.
Chương 5
III.
PHẦN KHUYÊN NHỦ
Tự
do của người tín hữu
1
Chính
để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy
đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa. 2 Phải, tôi đây,
Phao-lô, tôi nói cho anh em biết: anh em mà chịu phép cắt bì thì Đức Ki-tô sẽ
không có ích gì cho anh em. 3 Một lần nữa, tôi xin khẳng định với
bất cứ ai chịu phép cắt bì là: người ấy buộc phải giữ trọn vẹn Lề Luật. 4 Anh
em mà tìm sự công chính trong Lề Luật, là anh em đoạn tuyệt với Đức Ki-tô và
mất hết ân sủng. 5 Còn chúng tôi thì nhờ Thần Khí và dựa vào đức tin
mà vững lòng chờ đợi được nên công chính như chúng tôi hy vọng. 6 Quả
thật, trong Đức Ki-tô Giê-su, cắt bì hay không cắt bì đều không có giá trị, chỉ
có đức tin hành động nhờ đức ái. 7 Anh em đang chạy ngon trớn như
thế mà ai đã ngăn cản anh em vâng phục chân lý? 8 Lời dụ dỗ ấy không phát xuất
từ Đấng kêu gọi anh em. 9 Một chút men làm cả khối bột dậy men. 10
Đối với anh em, trong Chúa, tôi tin tưởng rằng, anh em sẽ không nghĩ
khác. Còn kẻ phá rối anh em thì phải chuốc lấy án phạt, bất kể người ấy là ai. 11
Về phần tôi, thưa anh em, giả như tôi còn rao giảng phép cắt bì, thì tại
sao tôi lại vẫn bị ngược đãi? Như thế, thập giá đâu còn là chướng ngại nữa! 12
Những kẻ làm cho anh em bị rối loạn, phải chi họ tự thiến cho xong!
Tự
do và bác ái
13
Quả
thế, thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng
tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. 14
Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi
phải yêu người thân cận như chính mình. 15 Nhưng nếu anh em cắn xé
nhau, anh em hãy coi chừng, anh em tiêu diệt lẫn nhau đấy!
16
Tôi
xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn
thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. 17 Vì tính xác thịt thì ước
muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều
trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm
được điều anh em muốn. 18 Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì
anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa. 19 Những việc do tính xác
thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, 20 thờ
quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ,
bè phái, 21 ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như
vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó
sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa. 22 Còn hoa quả của Thần
Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, 23
hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế. 24
Những ai thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã đóng đinh tính xác thịt vào
thập giá cùng với các dục vọng và đam mê.
25
Nếu
chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước. 26 Chúng
ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tỵ nhau.
Chương 6
Đôi
lời khuyên nhủ sống bác ái và nhiệt thành
1
Thưa
anh em, nếu có ai vướng mắc tội nào, thì anh em, những người được Thần Khí thúc
đẩy, hãy lấy tinh thần hiền hoà mà sửa dạy người ấy; phải tự đề phòng kẻo chính
mình cũng bị cám dỗ. 2 Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy
là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô. 3 Thật vậy, ai tưởng mình là gì
mà kỳ thực không là gì hết, thì là lừa gạt chính mình. 4 Mỗi người
hãy xem xét việc làm của chính mình, và bấy giờ sẽ có lý do để hãnh diện vì
chính mình, chứ không phải vì so sánh với người khác. 5 Quả thế, mỗi
người phải mang gánh nặng của riêng mình.
6
Người
được học Lời Chúa, hãy chia sẻ mọi của cải với người dạy dỗ mình.
7
Anh
em đừng có lầm tưởng: Thiên Chúa không để cho người ta nhạo báng đâu! Thật vậy,
ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. 8 Ai theo tính xác thịt mà
gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai
theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống
đời đời. 9 Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa
chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng. 10 Vậy bao lâu còn thời
giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong
cùng đại gia đình đức tin.
Lời
cuối thư
11
Anh
em thấy những chữ to này: chính tay tôi viết cho anh em đó! 12 Những ai muốn nở
mày nở mặt vì những lý do thuần tuý con người, thì ép anh em phải chịu cắt bì,
chỉ là để khỏi bị ngược đãi vì thập giá Đức Ki-tô. 13 Thật vậy,
chính những kẻ được cắt bì cũng không giữ Lề Luật, nhưng họ muốn anh em phải
cắt bì để tìm được nơi thân xác anh em, một lý do hãnh diện. 14 Ước
chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng
ta! Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và
tôi đối với thế gian. 15 Quả thật, cắt bì hay không cắt bì chẳng là
gì cả, điều quan trọng là trở nên một thụ tạo mới. 16 Chúc tất cả
những ai sống theo quy tắc ấy, và chúc Ít-ra-en của Thiên Chúa được hưởng bình
an và lòng thương xót của Người.
17
Từ
nay, xin đừng có ai gây phiền toái cho tôi nữa, vì tôi mang trên mình tôi những
dấu tích của Đức Giê-su. 18 Thưa anh em, nguyện xin Đức Giê-su
Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho thần trí anh em được đầy tràn ân sủng. A-men.
Ê-phê-xô
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Tôi
là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, kính gửi
dân thánh tại Ê-phê-xô, là những người tin vào Đức Ki-tô Giê-su. 2 Xin
Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và
bình an.
I.
MẦU NHIỆM CỨU ĐỘ: ĐỨC KI-TÔ VÀ HỘI THÁNH
Kế
hoạch cứu độ của Thiên Chúa
3
Chúc
tụng Thiên Chúa
là
Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
Trong
Đức Ki-tô,
từ
cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc
cho
ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.
4
Trong
Đức Ki-tô,
Người
đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ,
để
trước thánh nhan Người,
ta
trở nên tinh tuyền thánh thiện,
nhờ
tình thương của Người.
5
Theo
ý muốn và lòng nhân ái của Người,
Người
đã tiền định cho ta làm nghĩa tử
nhờ
Đức Giê-su Ki-tô,
6
để
ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời,
ân
sủng Người ban tặng cho ta
trong
Thánh Tử yêu dấu.
7
Trong
Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra
chúng
ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi
theo
lượng ân sủng rất phong phú của Người.
8
Ân
sủng này, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta
cùng
với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu.
9
Người
cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu:
thiên
ý này là kế hoạch yêu thương
Người
đã định từ trước trong Đức Ki-tô.
10
Đó
là đưa thời gian tới hồi viên mãn
là
quy tụ muôn loài trong trời đất
dưới
quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô.
Cũng
trong Đức Ki-tô,
11
Thiên
Chúa là Đấng làm nên mọi sự
theo
quyết định và ý muốn của Người,
đã
tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng
theo
kế hoạch của Người,
12
để
chúng tôi là những người đầu tiên
đặt
hy vọng vào Đức Ki-tô,
chúng
tôi ngợi khen vinh quang Người.
13
Trong
Đức Ki-tô, cả anh em nữa
anh
em đã được nghe lời chân lý
là
Tin Mừng cứu độ anh em;
vẫn
trong Đức Ki-tô,
một
khi đã tin, anh em được đóng ấn Thánh Thần,
Đấng
Thiên Chúa đã hứa.
14
Thánh
Thần
là
bảo chứng phần gia nghiệp của chúng ta,
chờ
ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc,
để
ngợi khen vinh quang Thiên Chúa.
Đức
Ki-tô được siêu tôn
15
Bởi
vậy, cả tôi nữa, từ khi được nghe nói về lòng tin của anh em vào Chúa Giê-su,
và về lòng mến của anh em đối với toàn thể dân thánh, 16 tôi không
ngừng tạ ơn Thiên Chúa vì anh em, khi nhắc tới anh em trong những lời cầu
nguyện của tôi. 17 Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của
Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải
cho anh em nhận biết Người. 18 Xin Người soi lòng mở trí cho anh em
thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là
gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh, 19 đâu
là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu. Đó
chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực, 20 mà Người đã biểu dương
nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu
Người trên trời. 21 Như vậy, Người đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi
quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được, không những trong thế
giới hiện tại, mà cả trong thế giới tương lai. 22 Thiên Chúa đã đặt
tất cả dưới chân Đức Ki-tô và đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; 23 mà
Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả
được viên mãn.
Chương 2
Chính
do ân sủng mà chúng ta được cứu độ
1
Anh
em đã chết vì những sa ngã và tội lỗi của anh em. 2 Xưa kia anh em
đã sống trong đó, theo trào lưu của thế gian này, theo tên thủ lãnh nắm giữ
quyền lực trên không trung, tên ác thần hiện đang hoạt động trên những kẻ không
vâng phục. 3 Tất cả chúng tôi xưa kia cũng thuộc hạng người đó, khi
chúng tôi buông theo các đam mê của tính xác thịt, thi hành những ước muốn của
tính xác thịt và của trí khôn. Bẩm sinh chúng tôi là những kẻ đáng chịu cơn
thịnh nộ của Thiên Chúa, như những người khác. 4 Nhưng Thiên Chúa
giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, 5 nên dầu chúng ta
đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô.
Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! 6 Người đã cho chúng ta được cùng sống
lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.
7
Như
thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Ki-tô Giê-su,
để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người.
8 Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ:
đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; 9 cũng
không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. 10 Thật
thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức
Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị
cho chúng ta.
Người
Do-thái và người ngoại được hoà giải với nhau và với Thiên Chúa
11
Vậy
thưa anh em, trước kia anh em là dân ngoại trong thân xác, bị kẻ mệnh danh là “giới
cắt bì"-nhưng cắt bì trong thân xác, do tay người phàm- gọi là “giới không
cắt bì", anh em hãy nhớ lại 12 rằng thuở ấy anh em không có Đấng Ki-tô,
không được hưởng quyền công dân Ít-ra-en, xa lạ với các giao ước dựa trên lời
hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này.
13 Trước kia anh em là những người ở xa, nhưng nay, trong Đức Ki-tô
Giê-su, nhờ máu Đức Ki-tô đổ ra, anh em đã trở nên những người ở gần.
14
Thật
vậy, chính Người là bình an của chúng ta: Người đã liên kết đôi bên, dân
Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường
ngăn cách là sự thù ghét; 15 Người đã huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều
răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên
thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người. 16 Nhờ thập
giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể
duy nhất; trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. 17 Người đã
đến loan Tin Mừng bình an: bình an cho anh em là những kẻ ở xa, và bình an cho
những kẻ ở gần. 18 Thật vậy, nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được
liên kết trong một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.
19
Vậy
anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng
hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, 20 bởi
đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường
là chính Đức Ki-tô Giê-su. 21 Trong Người, toàn thể công trình xây
dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. 22 Trong
Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi
nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí.
Chương 3
Thánh
Phao-lô là người phục vụ mầu nhiệm Đức Ki-tô
1
Vì
lý do đó, tôi, Phao-lô, người tù của Đức Ki-tô Giê-su vì anh em, những người
dân ngoại. . . 2 Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà
Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. 3 Người đã mặc
khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên
đây. 4 Anh em đọc thì có thể thấy rõ tôi am hiểu mầu nhiệm Đức Ki-tô
thế nào. 5 Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc
các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho
các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. 6 Mầu nhiệm đó là: trong Đức
Ki-tô Giê-su và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với
người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.
7 Tôi đã trở nên người phục vụ Tin Mừng đó, nhờ ân sủng đặc biệt
Thiên Chúa ban cho tôi, khi Người thi thố quyền năng của Người. 8 Tôi
là kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh, thế mà Thiên Chúa đã ban cho tôi ân
sủng này là loan báo cho các dân ngoại Tin Mừng về sự phong phú khôn lường của
Đức Ki-tô, 9 và soi sáng cho mọi người được thấy đâu là mầu nhiệm
Thiên Chúa đã an bài. Mầu nhiệm này đã được giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa
là Đấng tạo thành vạn vật, 10 để giờ đây, nhờ Hội Thánh, mọi quyền
năng thượng giới được biết sự khôn ngoan thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. 11
Thiên Chúa đã hành động như thế theo quyết định Người đã có từ muôn thuở
và đã thực hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta. 12 Trong Đức
Ki-tô và nhờ tin vào Người, chúng ta được mạnh dạn và tin tưởng đến gần Thiên
Chúa. 13 Bởi vậy, tôi xin anh em đừng nản chí khi thấy tôi phải gian
truân vì anh em: những gian truân ấy là vinh quang của anh em.
Lời
cầu xin của thánh Phao-lô
14
Vì
lý do đó, tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha, 15 là nguồn gốc mọi gia
tộc trên trời dưới đất. 16 Tôi nguyện xin Chúa Cha, thể theo sự
phong phú của Người là Đấng vinh hiển, ban cho anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ
Thần Khí của Người, để con người nội tâm nơi anh em được vững vàng. 17 Xin
cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được
bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, 18 để cùng toàn thể
dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, 19 và
nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như
vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.
20
Xin
tôn vinh Đấng có thể dùng quyền năng đang hoạt động nơi chúng ta, mà làm gấp
ngàn lần điều chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới, 21 xin tôn vinh
Người trong Hội Thánh và nơi Đức Ki-tô Giê-su đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Chương 4
II.
KHUYÊN NHỦ
Kêu
gọi hiệp nhất
1
Vậy,
tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn
kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em. 2 Anh em hãy ăn ở thật
khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. 3
Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách
ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. 4 Chỉ có một thân thể, một Thần Khí,
cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. 5 Chỉ
có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. 6 Chỉ có một Thiên Chúa,
Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người.
7
Nhưng
mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tuỳ theo mức độ Đức Ki-tô ban cho. 8
Vì thế, có lời Kinh Thánh nói: Người đã lên cao, dẫn theo một đám tù;
Người đã ban ân huệ cho loài người.
9
Người
đã lên nghĩa là gì, nếu không phải là Người đã xuống tận các vùng sâu thẳm dưới
mặt đất? 10 Đấng đã xuống cũng chính là Đấng đã lên cao hơn mọi tầng trời để
làm cho vũ trụ được viên mãn. 11 Và chính Người đã ban ơn cho kẻ này
làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác
nữa làm người coi sóc và dạy dỗ. 12 Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị
để làm công việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Ki-tô, 13 cho đến
khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết
Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của
Đức Ki-tô.
14
Như
vậy, chúng ta sẽ không còn là những trẻ nhỏ, bị sóng đánh trôi giạt theo mọi
chiều gió đạo lý, giữa trò bịp bợm của những kẻ giảo quyệt khéo dùng mưu ma
chước quỷ để làm cho kẻ khác lầm đường. 15 Nhưng, sống theo sự thật
và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức
Ki-tô vì Người là Đầu. 16 Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp
với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và
mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân
lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái.
Đời
sống mới trong Đức Ki-tô
17
Vậy
đây là điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em: đừng
ăn ở như dân ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ. 18
Tâm trí họ đã ra tối tăm, họ xa lạ với sự sống Thiên Chúa ban, vì lòng
chai dạ đá khiến họ trở nên dốt nát. 19 Họ đã mất ý thức nên đã
buông thả, sống phóng đãng đến mức làm mọi thứ ô uế cách vô độ. 20 Còn
anh em, anh em đã chẳng học biết về Đức Ki-tô như vậy đâu; 21 ấy là
nếu anh em đã được nghe nói về Đức Giê-su và được dạy dỗ theo tinh thần của
Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giê-su. 22 Vì thế, anh em phải cởi
bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn
lừa dối, 23 anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, 24 và
phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên
Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện.
25
Bởi
thế, một khi đã cởi bỏ sự gian dối, mỗi người trong anh em hãy nói sự thật với
người thân cận, vì chúng ta là phần thân thể của nhau. 26 Anh em nổi
nóng ư? Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn. 27 Đừng
để ma quỷ thừa cơ lợi dụng! 28 Ai quen trộm cắp, đừng trộm cắp nữa, trái lại,
hãy chịu khó dùng đôi tay của mình mà làm ăn lương thiện để có gì chia sẻ với
người túng thiếu. 29 Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa,
nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe.
30 Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính
Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. 31 Đừng bao
giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thoá mạ, và hãy loại trừ
mọi hành vi gian ác. 32 Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có
lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em
trong Đức Ki-tô.
Chương 5
1
Vậy,
anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, 2
và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, và
vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa
hương thơm ngào ngạt. 3 Chuyện gian dâm, mọi thứ ô uế hay tham lam,
thì dù nói đến, anh em cũng phải tránh, như thế mới xứng đáng là những người
trong dân thánh. 4 Đừng nói lời thô tục, nhảm nhí, cợt nhả: đó là
những điều không nên; trái lại, phải tạ ơn Thiên Chúa thì hơn. 5 Anh
em phải biết rõ điều này: không một kẻ gian dâm, ô uế hay tham lam nào-mà tham
lam cũng là thờ ngẫu tượng- được thừa hưởng cơ nghiệp trong Nước của Đức Ki-tô
và của Thiên Chúa. 6 Đừng để ai lấy lời hão huyền mà lừa dối anh em,
chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống những kẻ
không vâng phục. 7 Vậy anh em đừng thông đồng với họ. 8 Xưa
anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh
em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; 9 mà ánh sáng đem lại tất cả những
gì là lương thiện, công chính và chân thật. 10 Anh em hãy xem điều
gì đẹp lòng Chúa. 11 Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái
bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng. 12 Vì những việc
chúng làm lén lút, thì nói đến đã là nhục rồi. 13 Nhưng tất cả những
gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; 14 mà bất cứ điều gì lộ
ra, thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng:
Tỉnh
giấc đi, hỡi người còn đang ngủ!
Từ
chốn tử vong, trỗi dậy đi nào!
Đức
Ki-tô sẽ chiếu sáng ngươi!
15
Anh
em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng
hãy sống như người khôn ngoan, 16 biết tận dụng thời buổi hiện tại,
vì chúng ta đang sống những ngày đen tối. 17 Vì thế, anh em đừng hoá
ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là ý Chúa. 18 Chớ say sưa rượu
chè, vì rượu chè đưa tới truỵ lạc, nhưng hãy thấm nhuần Thần Khí. 19 Hãy
cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh
hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. 20 Trong mọi hoàn
cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên
Chúa là Cha.
Gia
đình sống đạo
21
Vì
lòng kính sợ Đức Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. 22 Người làm
vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, 23 vì chồng là đầu của vợ
cũng như Đức Ki-tô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội
Thánh, thân thể của Người. 24 Và như Hội Thánh tùng phục Đức Ki-tô
thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy.
25
Người
làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến
mình vì Hội Thánh; 26 như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội
Thánh bằng nước và lời hằng sống, 27 để trước mặt Người, có một Hội
Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm
nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. 28 Cũng thế, chồng phải yêu vợ
như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. 29 Quả vậy,
có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân
xác mình, cũng như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, 30 vì
chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. 31 Sách Thánh có lời
chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và
cả hai sẽ thành một xương một thịt. 32 Mầu nhiệm này thật là cao cả.
Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh. 33 Vậy mỗi người trong anh
em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng.
Chương 6
1
Kẻ
làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. 2
Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: 3 để
ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. 4 Những bậc làm
cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa
bằng cách khuyên răn và sửa dạy.
5
Kẻ
làm nô lệ, hãy vâng lời những người chủ ở đời này với thái độ run rẩy và sợ
sệt, với lòng đơn sơ, như vâng lời Đức Ki-tô. 6 Đừng chỉ vâng lời
trước mặt, như muốn làm đẹp lòng người ta, nhưng như nô lệ của Đức Ki-tô, đem
cả tâm hồn thi hành ý Thiên Chúa. 7 Hãy vui lòng phục vụ, như thể
phục vụ Chúa, chứ không phải người ta. 8 Anh em biết đấy: ai làm
việc tốt, sẽ được Chúa trả công, bất luận nô lệ hay tự do. 9 Người
làm chủ cũng hãy đối xử như thế với nô lệ. Đừng doạ nạt nữa: anh em biết rằng
Chúa của họ cũng là Chúa của anh em, Người ngự trên trời và không thiên vị ai.
Cuộc
chiến đấu thiêng liêng
10
Sau
cùng, anh em hãy tìm sức mạnh trong Chúa và trong uy lực toàn năng của Người. 11
Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững
trước những mưu chước của ma quỷ. 12 Vì chúng ta chiến đấu không
phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc
thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. 13
Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa; như
thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen
tối.
14
Vậy
hãy đứng vững: lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, 15
chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; 16 hãy
luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác
thần. 17 Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của
Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa.
18
Theo
Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu
nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin
cho toàn thể dân thánh. 19 Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để
khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo
mầu nhiệm của Tin Mừng; 20 tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi
đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng tôi
nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi phải nói.
Tin
tức. Lời chào cuối thư
21
Anh
Ty-khi-cô, người anh em yêu quý của tôi và là người trung thành phục vụ Chúa,
sẽ cho anh em mọi tin tức, để cả anh em nữa cũng biết tôi ra sao, và tôi đang
làm gì. 22 Tôi phái anh đến với anh em vì mục đích ấy, để anh em
được biết hiện tình của chúng tôi, và để anh khích lệ tâm hồn anh em.
23
Nguyện
xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ơn bình an
và lòng mến cùng với lòng tin. 24 Xin Thiên Chúa ban ân sủng cho tất
cả những ai yêu mến Đức Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta bằng một tình yêu bất diệt.
Phi-líp-phê
Chương 1
Lời
chào thăm
1
Chúng
tôi, Phao-lô và Ti-mô-thê, là những tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su, kính gửi mọi
người trong dân thánh kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su ở Phi-líp-phê, cùng kính gửi
các vị giám quản và trợ tá. 2 Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và Chúa
Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.
Tạ
ơn và cầu nguyện
3
Tôi
cảm tạ Thiên Chúa của tôi, mỗi lần nhớ đến anh em. 4 Tôi luôn vui
sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, 5 vì từ buổi đầu cho
đến nay, anh em đã góp phần vào việc rao giảng Tin Mừng. 6 Tôi tin
chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế,
cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Ki-tô Giê-su quang
lâm. 7 Tôi có những tâm tình như thế đối với tất cả anh em, đó là
điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi. Khi tôi bị xiềng xích, cũng
như lúc tôi bênh vực và củng cố Tin Mừng, anh em đều thông phần vào ân sủng tôi
đã nhận được. 8 Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu
quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Ki-tô Giê-su. 9 Điều tôi
khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào, khiến anh em
được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, 10 để nhận ra cái gì
là tốt hơn. Tôi cũng xin cho anh em được nên tinh tuyền và không làm gì đáng
trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Ki-tô quang lâm. 11 Như thế, anh
em sẽ đem lại hoa trái dồi dào là sống một đời công chính nhờ Đức Giê-su Ki-tô,
để tôn vinh và ngợi khen Thiên Chúa.
Hoàn
cảnh của thánh Phao-lô
12
Thưa
anh em, tôi muốn anh em biết là những gì xảy đến cho tôi thật ra đã giúp cho
Tin Mừng được tiến triển, 13 đến nỗi tại dinh vua quan cũng như ở
mọi nơi khác, người ta đều hiểu rõ là chính vì Đức Ki-tô mà tôi mang xiềng xích.
14 Vì thấy tôi bị xiềng xích, phần đông các anh em có lòng tin cậy
vào Chúa đã tỏ ra bạo dạn hơn để rao giảng lời Thiên Chúa mà không chút sợ hãi.
15 Đã hẳn, có những kẻ rao giảng về Đức Ki-tô vì lòng ganh tị và
tranh chấp, song những người khác lại làm công việc đó vì ý ngay lành. 16 Những
người này làm vì bác ái, bởi họ biết rằng tôi được chỉ định để lo bênh vực Tin
Mừng. 17 Còn những người kia thì loan báo Đức Ki-tô vì tính ưa tranh
giành, họ không có lòng ngay, tưởng làm như thế là gây thêm khổ cho tôi, trong
lúc tôi bị xiềng xích. 18 Nhưng không sao đâu! Dù thế nào đi nữa với
ý lành hay ý xấu, cuối cùng Đức Ki-tô được rao giảng là tôi mừng. Và tôi sẽ còn
mừng nữa, 19 bởi vì tôi biết rằng điều ấy sẽ giúp cho tôi đạt được
ơn cứu độ, nhờ lời cầu nguyện của anh em, và nhờ Thần Khí của Đức Giê-su Ki-tô
phù trợ. 20 Đó là điều tôi đợi chờ và hy vọng. Sẽ không có gì làm
cho tôi phải hổ thẹn, trái lại tôi hoàn toàn vững tin. Bây giờ cũng như mọi
lúc, Đức Ki-tô sẽ tỏ bày quyền uy cao cả của Người nơi thân xác tôi, dù tôi
sống hay tôi chết: 21 vì đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là
một mối lợi. 22 Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh
hoa kết quả, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. 23 Vì tôi bị
giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều
này tốt hơn bội phần: 24 nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì
anh em. 25 Và tôi biết chắc rằng tôi sẽ ở lại và ở bên cạnh tất cả
anh em để giúp anh em tấn tới và được hưởng niềm vui đức tin mang lại cho anh
em. 26 Như thế, trong Đức Ki-tô Giê-su, anh em càng có lý do để hãnh
diện về tôi, khi tôi lại đến gặp anh em.
Chiến
đấu cho đức tin
27
Chỉ
có một điều là anh em phải ăn ở làm sao cho xứng với Tin Mừng của Đức Ki-tô.
Như thế, dù tôi có đến thăm anh em hay vắng mặt đi nữa, tôi vẫn muốn được nghe
người ta nói về anh em là anh em luôn đứng vững, cùng chung một tinh thần, một
lòng một dạ cùng nhau chiến đấu vì đức tin mà Tin Mừng mang lại cho anh em. 28
Về bất cứ điều gì, đừng sợ những kẻ chống đối anh em: đó là dấu chỉ cho
thấy họ sẽ bị hư vong, còn đối với anh em, thì lại là dấu chỉ ơn cứu độ. Điều
ấy là ân huệ Thiên Chúa ban. 29 Quả thế, nhờ Đức Ki-tô, anh em đã
được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. 30
Nhờ vậy, anh em được tham dự cùng một cuộc chiến mà anh em đã thấy tôi
phải đương đầu trước kia, và nay anh em nghe biết là tôi vẫn còn tiếp tục.
Chương 2
Duy
trì sự hợp nhất trong tinh thần khiêm nhường
1
Nếu
quả thật sự liên kết với Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu
tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu
chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, 2 thì xin anh em
hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng
một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. 3 Đừng
làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người
khác hơn mình. 4 Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng
hãy tìm lợi ích cho người khác. 5 Giữa anh em với nhau, anh em hãy
có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su.
6
Đức
Giê-su Ki-tô
vốn
dĩ là Thiên Chúa
mà
không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa
vị ngang hàng với Thiên Chúa,
7
nhưng
đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc
lấy thân nô lệ,
trở
nên giống phàm nhân
sống
như người trần thế.
8
Người
lại còn hạ mình,
vâng
lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết
trên cây thập tự.
9
Chính
vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người
và
tặng ban danh hiệu
trổi
vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
10
Như
vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su,
cả
trên trời dưới đất
và
trong nơi âm phủ,
muôn
vật phải bái quỳ;
11
và
để tôn vinh Thiên Chúa Cha,
mọi
loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:
"Đức
Giê-su Ki-tô là Chúa".
Lo
sao cho được ơn cứu độ
12
Ấy
vậy, anh em thân mến, anh em là những người luôn luôn vâng phục không những khi
tôi có mặt, mà nhất là bây giờ, khi tôi vắng mặt, anh em hãy biết run sợ mà
gắng sức lo sao cho mình được cứu độ. 13 Vì chính Thiên Chúa tác
động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của Người. 14
Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. 15 Như
thế, anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở
nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà, sa đoạ.
Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, 16 là
làm sáng tỏ Lời ban sự sống, để tôi được hiên ngang hãnh diện trong ngày Đức
Ki-tô quang lâm, vì tôi đã không chạy uổng công và đã không lao nhọc vô ích. 17
Nhưng nếu tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin
dâng lên Chúa, thì tôi vui mừng và cùng chia sẻ niềm vui với tất cả anh em. 18
Anh em cũng vậy, anh em hãy vui lên và cùng chia sẻ niềm vui với tôi.
Sứ
mạng của ông Ti-mô-thê và ông Ê-páp-rô-đi-tô
19
Nhờ
Chúa Giê-su, tôi hy vọng có thể sớm cử anh Ti-mô-thê đến với anh em, để chính
tôi cũng được an tâm vì được biết tin tức về anh em. 20 Chẳng có ai
khác cùng chia sẻ một tâm tình với tôi và tận tâm lo lắng cho anh em. 21 Thật
vậy, ai nấy đều tìm lợi ích cho mình, chứ không tìm lợi ích cho Đức Ki-tô
Giê-su. 22 Anh em biết: anh Ti-mô-thê đã chứng tỏ mình là người có
giá trị, bởi vì anh ấy đã cùng với tôi phục vụ Tin Mừng, như con với cha. 23
Vậy, tôi hy vọng sẽ cử anh ấy đi, ngay khi thấy rõ số phận tôi ra sao. 24
Vả lại, nhờ ơn Chúa, tôi tin tưởng sắp được đích thân đến thăm anh em.
25
Tôi
nghĩ cần phải trả anh Ê-páp-rô-đi-tô về cho anh em. Anh ấy đã từng là một người
anh em, một cộng sự viên, một chiến hữu của tôi, người mà anh em đã gửi đến giúp
tôi trong lúc túng cực. 26 Anh ấy rất mong mỏi gặp lại tất cả anh
em, lo âu vì anh em đã biết tin anh lâm bệnh. 27 Thật vậy, anh ấy ốm
nặng gần chết; nhưng Thiên Chúa đã thương xót anh, không những thương xót anh
mà còn thương xót cả tôi nữa, để tôi khỏi buồn phiền vì hết chuyện này đến
chuyện khác. 28 Do đó, tôi vội cho anh ấy trở về, để anh em được vui
khi gặp lại anh, và chính tôi cũng bớt buồn phiền. 29 Vì Chúa, anh
em hãy hết sức vui mừng đón tiếp anh. Anh em hãy quý trọng những người như thế;
30 chính vì làm việc cho Đức Ki-tô mà anh đã suýt chết, đã liều mạng
sống để thay thế anh em, khi anh em không đến giúp tôi được.
Chương 3
Con
đường cứu độ
1
Vả
lại, thưa anh em, anh em hãy vui mừng vì Chúa. Viết đi viết lại cho anh em cũng
bấy nhiêu điều, đối với tôi không phải là một gánh nặng, còn đối với anh em thì
đó lại là một bảo đảm. 2 Anh em hãy coi chừng quân chó má! Hãy coi
chừng bọn thợ xấu! Hãy coi chừng những kẻ giả danh cắt bì! 3 Vì chúng ta mới
thật là những người được cắt bì, những người thờ phượng Thiên Chúa nhờ Thần Khí
của Người, những người hiên ngang hãnh diện vì Đức Ki-tô Giê-su, chứ không cậy
vào xác thịt, 4 mặc dầu tôi đây, tôi có lý do để cậy vào xác thịt.
Nếu ai khác có lý do để cậy vào xác thịt, thì tôi càng có lý do hơn: 5 tôi
chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người
Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-sêu; 6
nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề
Luật, thì chẳng ai trách được tôi. 7 Nhưng, những gì xưa kia tôi cho
là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. 8 Hơn nữa,
tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức
Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như
rác, để được Đức Ki-tô9 và được kết hợp với Người. Được như vậy, không phải nhờ
sự công chính của tôi, sự công chính do luật Mô-sê đem lại, nhưng nhờ sự công
chính do lòng tin vào Đức Ki-tô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa
trên lòng tin. 10 Vấn đề là được biết chính Đức Ki-tô, nhất là biết
Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ
của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, 11
với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết. 12 Nói
thế, không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang
cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Ki-tô Giê-su
chiếm đoạt. 13 Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi.
Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía
trước. 14 Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời
cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Ki-tô Giê-su. 15 Vậy
tất cả chúng ta là những người hoàn thiện, chúng ta hãy nghĩ như vậy; và giả
như có điểm nào anh em nghĩ khác, thì Thiên Chúa sẽ mặc khải cho anh em. 16
Song, dù đạt tới đâu đi nữa, chúng ta cũng cứ theo hướng ấy mà đi.
17
Thưa
anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống
theo gương chúng tôi để lại cho anh em. 18 Vì, như tôi đã nói với
anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối
nghịch với thập giá Đức Ki-tô: 19 chung cục là họ sẽ phải hư vong.
Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn.
Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. 20 Còn chúng ta,
quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô
từ trời đến cứu chúng ta. 21 Người có quyền năng khắc phục muôn
loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên
giống thân xác vinh hiển của Người.
Chương 4
1
Bởi
vậy, hỡi anh em thân mến lòng tôi hằng tưởng nhớ, anh em là niềm vui, là vinh
dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng
như vậy.
Lời
khuyên cuối cùng
2
Tôi
khuyên chị Ê-vô-đi-a và khuyên cả chị Xin-ti-khe nữa: xin hai chị sống hoà
thuận với nhau trong Chúa. 3 Tôi xin cả anh Xi-di-gô nữa, người bạn
chân thành đã đồng lao cộng khổ với tôi, xin anh giúp đỡ các chị ấy. Các chị đã
giúp tôi chiến đấu cho Tin Mừng, cũng như anh Cơ-lê-men-tê và các cộng sự viên
khác mà tên tuổi đã được ghi trong Sổ Trường Sinh.
4
Anh
em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! 5 Sao
cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. 6 Anh
em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn,
van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh
nguyện. 7 Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu
biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su. 8 Ngoài
ra, thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh
tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức
hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý. 9 Những gì anh em đã học
hỏi, đã lãnh nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành, và
Thiên Chúa là nguồn bình an sẽ ở với anh em.
Cám
ơn vì được cứu trợ
10
Nhờ
Chúa, tôi rất vui mừng vì cuối cùng thấy tình cảm của anh em đối với tôi lại
thắm thiết. Tình cảm đó vẫn sống động, nhưng anh em chỉ thiếu dịp tỏ ra. 11
Không phải vì thiếu thốn mà tôi nói thế, bởi lẽ tôi đã học sống tự lập
trong bất cứ hoàn cảnh nào. 12 Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà
sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn,
tôi đã tập quen cả. 13 Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được
hết. 14 Tuy nhiên, anh em đã chia sẻ với tôi, khi tôi gặp cơn quẫn
bách, như thế là phải. 15 Chính anh em, những người thành Phi-líp-phê,
anh em biết là trong giai đoạn tôi bắt đầu rao giảng Tin Mừng, lúc rời khỏi
Ma-kê-đô-ni-a, không một Hội Thánh nào đã đóng góp vào các khoản chi thu của
tôi, chỉ có anh em thôi; 16 bởi vì ngay khi tôi còn ở
Thê-xa-lô-ni-ca, đôi lần anh em đã gửi cho tôi những gì tôi cần dùng. 17 Điều
tôi tìm kiếm không phải là quà tặng, mà là những gì sinh hoa kết quả dồi dào
cho anh em. 18 Tôi có đủ mọi thứ cần dùng, lại còn dư dật nữa là
khác. Tôi rất đầy đủ, kể từ khi nhận được những gì anh em gửi đến tôi qua tay
anh Ê-páp-rô-đi-tô. Quà anh em tặng cho tôi đó, chẳng khác nào hương thơm, lễ
vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận. 19 Thiên Chúa của
tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang
của Người trong Đức Ki-tô Giê-su. 20 Xin tôn vinh Thiên Chúa là Cha
chúng ta, đến muôn thuở muôn đời! A-men.
Những
lời thăm hỏi và cầu chúc cuối cùng
21
Cho
tôi gửi lời chào từng người một thuộc dân thánh trong Đức Ki-tô Giê-su. Các anh
em đang ở với tôi gửi lời chào anh em. 22 Mọi người thuộc dân thánh,
nhất là những người phục vụ trong cung điện hoàng đế Xê-da, cũng gửi lời chào
anh em.
23
Cầu
chúc cho tâm hồn anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô.
Cô-lô-xê
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Tôi
là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được làm Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, và anh
Ti-mô-thê là người anh em, 2 kính gửi dân thánh tại Cô-lô-xê, là
những anh em tín hữu trong Đức Ki-tô. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta ban cho
anh em ân sủng và bình an.
Tạ
ơn và cầu xin
3
Chúng
tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta,
khi cầu nguyện cho anh em. 4 Thật vậy, chúng tôi đã được nghe nói về
lòng tin của anh em vào Đức Ki-tô Giê-su, và về lòng mến của anh em đối với
toàn thể dân thánh; 5 lòng tin và lòng mến đó phát xuất từ niềm trông
cậy dành cho anh em trên trời, niềm trông cậy anh em đã được nghe loan báo khi
lời chân lý là Tin Mừng6 đến với anh em; Tin Mừng này đang sinh hoa trái và lớn
lên trên toàn thế giới như thế nào, thì nơi anh em cũng vậy, từ ngày anh em
được nghe nói và nhận biết ân sủng của Thiên Chúa thực sự là gì. 7 Anh
em đã học hỏi điều này với anh Ê-páp-ra là người đồng sự yêu quý của chúng tôi
và là người thay thế chúng tôi với tư cách là người phục vụ trung thành của Đức
Ki-tô. 8 Chính anh đã cho chúng tôi hay về lòng mến mà Thần Khí ban
cho anh em.
9
Vì
thế, từ ngày chúng tôi nghe biết như vậy, chúng tôi cũng không ngừng cầu nguyện
và kêu xin Thiên Chúa cho anh em được am tường thánh ý Người, với tất cả sự
khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khí ban cho. 10 Như vậy, anh em sẽ
sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Người về mọi phương diện, sẽ sinh
hoa trái là mọi thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn. 11
Nhờ sức mạnh vạn năng của Thiên Chúa vinh quang, anh em sẽ nên mạnh mẽ để
kiên trì chịu đựng tất cả.
12
Anh
em hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho anh em trở nên xứng đáng chung
hưởng phần gia nghiệp của dân thánh trong cõi đầy ánh sáng.
13
Người
đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử
chí ái; 14 trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha tội
lỗi.
I.
PHẦN GIÁO THUYẾT
Đức
Ki-tô đứng hàng đầu
15
Thánh
Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình,
là
trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo,
16
vì
trong Người, muôn vật được tạo thành
trên
trời cùng dưới đất,
hữu
hình với vô hình.
Dẫu
là hàng dũng lực thần thiêng
hay
là bậc quyền năng thượng giới,
tất
cả đều do Thiên Chúa tạo dựng
nhờ
Người và cho Người.
17
Người
có trước muôn loài muôn vật,
tất
cả đều tồn tại trong Người.
18
Người
cũng là đầu của thân thể,
nghĩa
là đầu của Hội Thánh;
Người
là khởi nguyên,
là
trưởng tử
trong
số những người từ cõi chết sống lại,
để
trong mọi sự Người đứng hàng đầu.
19
Vì
Thiên Chúa đã muốn
làm
cho tất cả sự viên mãn
hiện
diện ở nơi Người,
20
cũng
như muốn nhờ Người
mà
làm cho muôn vật
được
hoà giải với mình.
Nhờ
máu Người đổ ra trên thập giá,
Thiên
Chúa đã đem lại bình an
cho
mọi loài dưới đất
và
muôn vật trên trời.
Người
Cô-lô-xê được chung hưởng ơn cứu độ
21
Cả
anh em nữa, xưa kia anh em là những người xa lạ, là thù địch của Thiên Chúa vì
những tư tưởng và hành động xấu xa của anh em. 22 Nhưng nay nhờ Đức
Giê-su là con người bằng xương bằng thịt đã chịu chết, Thiên Chúa cho anh em
được hoà giải với Người, để anh em trở nên thánh thiện tinh tuyền và không có
gì đáng trách trước mặt Người. 23 Anh em chỉ cần giữ vững đức tin,
cần được xây dựng vững chắc, kiên quyết và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy
vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin Mừng. Tin Mừng này đã được rao
giảng cho khắp thiên hạ, và tôi, Phao-lô, tôi đã được trở nên người phục vụ Tin
Mừng.
Ông
Phao-lô vất vả phục vụ dân ngoại
24
Giờ
đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức
Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân
thể Người là Hội Thánh. 25 Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh,
theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi
phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn, 26 rao giảng mầu nhiệm đã
được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân
thánh của Thiên Chúa. 27 Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm
này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Ki-tô
đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang. 28
Chính Người là Đấng chúng tôi rao giảng, khi khuyên bảo mỗi người và dạy
dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong
Đức Ki-tô. 29 Chính vì mục đích ấy mà tôi phải vất vả chiến đấu, nhờ
sức lực của Người hoạt động mạnh mẽ trong tôi.
Chương 2
Ông
Phao-lô lo lắng cho đức tin của người Cô-lô-xê
1
Quả
thế, tôi muốn anh em biết tôi phải chiến đấu gay go thế nào vì anh em, vì những
người Lao-đi-ki-a, và vì bao người khác chưa thấy tôi tận mắt; 2 như
vậy là để họ được phấn khởi trong tâm hồn, và nhờ được liên kết chặt chẽ với
nhau trong tình thương, họ đạt tới sự thông hiểu phong phú và đầy đủ, khiến họ
nhận biết mầu nhiệm của Thiên Chúa, tức là Đức Ki-tô, 3 trong Người
có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết.
4
Tôi
nói điều đó để đừng có ai dùng lời lẽ hấp dẫn mà mê hoặc anh em. 5 Tuy
xa cách về thể xác, nhưng tôi vẫn ở với anh em về tinh thần, và vui mừng thấy
anh em giữ hàng ngũ và vững tin vào Đức Ki-tô.
II.
ĐỀ PHÒNG GIÁO LÝ SAI LẠC
Sống
theo đức tin chân chính chứ không theo những tư tưởng sai lạc
6
Vậy
như anh em đã nhận Đức Ki-tô Giê-su làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với
Người. 7 Anh em hãy bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là
Đức Ki-tô Giê-su, hãy dựa vào đức tin mà anh em đã được thụ huấn, và để cho
lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ.
8
Hãy
coi chừng chớ để ai gài bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối
rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ
không theo Đức Ki-tô.
Đức
Ki-tô, Thủ Lãnh duy nhất của thiên thần và loài người
9
Thật
vậy, nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể, 10
và trong Người, anh em được sung mãn: Người vốn là đầu mọi quyền lực thần
thiêng.
11
Trong
Người, anh em đã được chịu phép cắt bì, không phải phép cắt bì do tay người phàm,
nhưng là phép cắt bì của Đức Ki-tô, có sức lột bỏ con người tội lỗi của anh em.
12 Anh em đã cùng được mai táng với Đức Ki-tô khi chịu phép rửa, lại
cùng được trỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm
cho Người trỗi dậy từ cõi chết. 13 Trước kia, anh em là những kẻ
chết vì anh em đã sa ngã, và vì thân xác anh em không được cắt bì, nay Thiên
Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Ki-tô: Thiên Chúa đã ban ơn tha thứ
mọi sa ngã lỗi lầm của chúng ta.
14
Người
đã xoá sổ nợ bất lợi cho chúng ta, sổ nợ mà các giới luật đã đưa ra chống lại
chúng ta. Người đã huỷ bỏ nó đi, bằng cách đóng đinh nó vào thập giá. 15 Người
đã truất phế các quyền lực thần thiêng, đã công khai bêu xấu chúng, đã điệu
chúng đi trong đám rước khải hoàn của Người.
Đề
phòng lối sống khắc khổ theo thuyết”các quyền lực vũ trụ"
16
Vậy
đừng ai xét đoán anh em về chuyện đồ ăn thức uống, hay về mục ngày lễ, ngày đầu
tháng, ngày sa-bát. 17 Tất cả những cái đó chỉ là hình bóng những
điều sắp tới, nhưng thực tại là thân thể Đức Ki-tô. 18 Đừng ai viện
cớ”khiêm nhường" và “sùng kính các thiên thần" mà làm cho anh em mất
phần thưởng chiến thắng; họ chìm đắm trong những thị kiến của mình, vênh váo vì
những suy tưởng theo lối người phàm. 19 Họ không gắn chặt với Đức
Ki-tô là Đầu; chính Người làm cho toàn thân được nuôi dưỡng, được kết cấu chặt
chẽ nhờ mọi thứ gân mạch và dây chằng, và được lớn lên nhờ sức Thiên Chúa ban.
20
Anh
em đã chết cùng Đức Ki-tô và được giải thoát khỏi các yếu tố của vũ trụ, tại
sao lại rập theo những quy luật, như thể anh em còn sống lệ thuộc vào thế gian?
Chẳng hạn: 21 “Đừng ăn cái này, đừng nếm cái kia, đừng đụng vào cái
nọ", 22 toàn những cấm đoán về những cái dùng đến là hư. Đó chỉ
là những giới luật và giáo huấn của người phàm. 23 Những điều ấy có
vẻ khôn ngoan: nào là “sùng đạo tự ý", nào là “khiêm nhường", nào là
“khổ hạnh", nhưng không có giá trị gì đối với tính xác thịt lăng loàn.
Chương 3
Nguyên
lý của đời sống mới: kết hợp với Đức Ki-tô phục sinh
1
Anh
em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng
giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. 2 Anh em hãy hướng
lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ
giới. 3 Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện
đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. 4 Khi Đức Ki-tô, nguồn
sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người
hưởng phúc vinh quang.
III.
PHẦN KHUYÊN NHỦ
Chỉ
thị chung cho các tín hữu
5
Vậy
anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em: ấy là
gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam; mà tham lam cũng là thờ ngẫu
tượng. 6 Chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng
xuống trên những kẻ không vâng phục. 7 Chính anh em xưa kia cũng ăn
ở như thế, khi anh em còn sống giữa những người ấy. 8 Nhưng nay, cả
anh em nữa, hãy từ bỏ tất cả những cái đó: nào là giận dữ, nóng nảy, độc ác,
nào là thoá mạ, ăn nói thô tục.
9
Anh
em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó
rồi, 10 và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi
mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá, để được ơn thông hiểu. 11 Vậy không
còn phải phân biệt Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ,
nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Ki-tô là tất cả và ở trong mọi người.
12
Anh
em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế,
anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. 13
Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì
phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh
em phải tha thứ cho nhau. 14 Trên hết mọi đức tính, anh em phải có
lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. 15 Ước gì ơn bình an
của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em
đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.
16
Ước
chi lời Đức Ki-tô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ
khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả
tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do
Thần Khí linh hứng. 17 Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói
nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.
Chỉ
thị riêng cho đời sống gia đình
18
Người
làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. 19
Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. 20 Kẻ
làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. 21 Những
bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.
22
Kẻ
làm nô lệ hãy vâng lời những người chủ ở đời này trong mọi sự. Đừng chỉ vâng
lời trước mặt, như muốn làm đẹp lòng người ta, nhưng với lòng đơn sơ, vì kính
sợ Chúa. 23 Bất cứ làm việc gì, hãy làm tận tâm như thể làm cho
Chúa, chứ không phải cho người đời 24 vì biết rằng anh em sẽ nhận được phần
thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người. Đức Ki-tô là Chủ, anh em hãy
phục vụ Người. 25 Ai ăn ở bất công sẽ được trả theo điều bất công
mình làm; không có chuyện thiên vị.
Chương 4
1
Người
làm chủ hãy đối xử công bằng và đồng đều với các nô lệ, vì biết rằng cả anh em
nữa cũng có một Chủ ở trên trời.
Tinh
thần tông đồ
2
Anh
em hãy siêng năng cầu nguyện; hãy tỉnh thức mà cầu nguyện và tạ ơn. 3 Đồng
thời, cũng hãy cầu nguyện cho chúng tôi nữa, xin Thiên Chúa mở cửa cho chúng
tôi rao giảng lời Người, để chúng tôi loan báo mầu nhiệm Đức Ki-tô; chính vì
mầu nhiệm này mà tôi bị giam giữ. 4 Xin cho tôi biết công bố rõ ràng
mầu nhiệm ấy, như bổn phận tôi phải loan báo.
5
Anh
em hãy ăn ở khôn ngoan với người ngoài; hãy tận dụng thời buổi hiện tại. 6
Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương, để anh em biết đối
đáp sao cho phải với mỗi người.
Tin
tức
7
Mọi
tin tức về tôi, anh Ty-khi-cô sẽ cho anh em biết; anh là người anh em yêu quý
của tôi, người trung thành phục vụ, và người đồng sự với tôi trong công việc
Chúa. 8 Tôi phái anh đến với anh em vì mục đích ấy, để anh em được
biết hiện tình của chúng tôi, và để anh khích lệ tâm hồn anh em. 9 Cùng
đi có anh Ô-nê-xi-mô, người anh em trung thành và yêu quý của tôi, người đồng
hương với anh em. Cả hai sẽ cho anh em biết tất cả những gì xảy ra ở đây.
Lời
chào và lời chúc cuối thư
10
Anh
A-rít-ta-khô, bạn tù với tôi, gửi lời chào anh em. Anh Mác-cô, em họ ông
Ba-na-ba, cũng gửi lời chào anh em; anh em đã nhận được những chỉ thị về anh
ấy; nếu anh ấy đến với anh em, thì hãy tiếp đón anh ấy. 11 Anh
Giê-su, gọi là Giút-tô, cũng gửi lời chào anh em. Trong số những người cắt bì,
chỉ có ba anh ấy cùng làm việc với tôi cho Nước Thiên Chúa; các anh đã là niềm
an ủi của tôi. 12 Anh Ê-páp-ra, người đồng hương với anh em và là
tôi tớ của Đức Ki-tô Giê-su, gửi lời chào anh em; anh không ngừng chiến đấu cho
anh em bằng lời cầu nguyện, để một khi đã trưởng thành và hoàn toàn vâng theo
thánh ý Thiên Chúa trong mọi sự, anh em được đứng vững. 13 Tôi làm
chứng cho anh rằng anh vất vả nhiều vì anh em, những người ở Lao-đi-ki-a và
Hi-ê-ra-pô-li. 14 Anh Lu-ca, thầy thuốc yêu quý, và anh Đê-ma gửi
lời chào anh em.
15
Xin
cho tôi gửi lời chào các anh em ở Lao-đi-ki-a, chị Nym-pha và Hội Thánh vẫn họp
tại nhà chị ấy. 16 Sau khi anh em đọc thư này, xin liệu sao cho Hội
Thánh Lao-đi-ki-a cũng được đọc nữa. Xin anh em cũng đọc thư của tôi gửi cho
Hội Thánh Lao-đi-ki-a. 17 Sau cùng, xin nhắn với anh Ác-khíp-pô:
”Hãy lưu tâm đến chức vụ Chúa đã giao cho anh, và lo chu toàn.”
18
Lời
chào này do chính tay tôi, Phao-lô, viết. Anh em đừng quên rằng tôi đang phải
mang xiềng xích! Chúc anh em được ân sủng.
Thê-xa-lô-ni-ca
1
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Chúng
tôi là Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê, kính gửi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca ở
trong Thiên Chúa Cha, và trong Chúa Giê-su Ki-tô. Chúc anh em được ân sủng và
bình an.
Tạ
ơn Thiên Chúa và khen ngợi cộng đoàn
2
Chúng
tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em. Chúng tôi nhắc đến anh em trong lời
cầu nguyện, 3 và trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, chúng tôi
không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh
em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi
Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô.
4
Thưa
anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên
Chúa đã chọn anh em, 5 vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh
em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh
Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã
sống thế nào để mưu ích cho anh em; 6 còn anh em, anh em đã bắt
chước chúng tôi và noi gương Chúa, khi đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian
truân với niềm vui do Thánh Thần ban: 7 bởi vậy anh em đã nên gương
cho mọi tín hữu ở miền Ma-kê-đô-ni-a và miền A-khai-a. 8 Quả thế, từ
nơi anh em, lời Chúa đã vang ra, không những ở Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a, mà
đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa, khiến chúng
tôi không cần phải nói gì thêm nữa. 9 Khi nói về chúng tôi, người ta
kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng
mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa
thật, 10 và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, người Con mà
Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Đức Giê-su, Đấng cứu chúng ta thoát
cơn thịnh nộ đang đến.
Chương 2
Thái
độ của ông Phao-lô khi ở Thê-xa-lô-ni-ca
1
Thật
vậy, thưa anh em, chính anh em biết rằng việc anh em đón tiếp chúng tôi không
phải vô ích.
2
Như
anh em biết, chúng tôi đã đau khổ và bị làm nhục tại Phi-líp-phê; nhưng vì tin
tưởng vào Thiên Chúa chúng ta mà chúng tôi đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng của
Thiên Chúa cho anh em, qua những cuộc chiến đấu gay go. 3 Lời giảng
của chúng tôi không do sự sai lầm, không có dụng ý xấu, không nhằm lừa dối ai, 4
nhưng vì Thiên Chúa đã thử luyện chúng tôi và giao phó Tin Mừng cho chúng
tôi, thì chúng tôi cứ vậy mà rao giảng, không phải để làm vừa lòng người phàm,
mà để làm đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng thử luyện tâm hồn chúng tôi. 5 Không
bao giờ chúng tôi đã dùng lời xu nịnh, như anh em biết; không bao giờ chúng tôi
đã viện cớ để che đậy lòng tham, có Thiên Chúa chứng giám; 6 không
bao giờ chúng tôi đã tìm cách để được một người phàm nào tôn vinh, dù là anh em
hay người khác, 7 trong khi chúng tôi có thể đòi anh em phải trọng
đãi, với tư cách là Tông Đồ Đức Ki-tô.
8
Chúng
tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng
của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những
người thân yêu của chúng tôi. 9 Thưa anh em, hẳn anh em còn nhớ nỗi
khó nhọc vất vả của chúng tôi: đêm ngày chúng tôi đã làm việc để khỏi thành
gánh nặng cho một người nào trong anh em, suốt thời gian chúng tôi loan báo Tin
Mừng của Thiên Chúa cho anh em. 10 Anh em làm chứng, và Thiên Chúa
cũng chứng giám, rằng với anh em là những tín hữu, chúng tôi đã cư xử một cách
thánh thiện, công minh, không chê trách được. 11 Anh em biết: chúng
tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con; 12 chúng
tôi đã khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa, Đấng
kêu gọi anh em vào Nước của Người và chia sẻ vinh quang với Người.
Đức
tin và lòng kiên nhẫn của người Thê-xa-lô-ni-ca
13
Bởi
thế, về phần chúng tôi, chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, vì khi chúng
tôi nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời
người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác
động nơi anh em là những tín hữu. 14 Thật vậy, thưa anh em, anh em
đã noi gương các Hội Thánh của Thiên Chúa ở miền Giu-đê là những Hội Thánh của
Đức Ki-tô Giê-su, vì anh em cũng đã phải chịu những nỗi đau khổ do đồng bào của
anh em gây ra, như các Hội Thánh đó đã phải chịu do người Do-thái. 15 Những
người này đã giết Chúa Giê-su và các ngôn sứ, đã bắt bớ chúng tôi, họ không đẹp
lòng Thiên Chúa và chống lại tất cả mọi người; 16 họ ngăn cản khi
chúng tôi rao giảng cho người ngoại để những người này được ơn cứu độ. Như vậy
họ luôn luôn chất đầy thêm tội lỗi; nhưng cuối cùng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa
đã giáng xuống trên họ.
Ông
Phao-lô lo lắng về cộng đoàn
17
Phần
chúng tôi, thưa anh em, phải xa cách anh em một thời gian ngắn, xa mặt chứ
không cách lòng, chúng tôi càng cố gắng hơn để lại thấy mặt anh em, vì chúng
tôi rất ước ao điều đó. 18 Bởi vậy chúng tôi đã muốn đến thăm anh
em-chính tôi, Phao-lô, đã nhiều lần định đi- nhưng Xa-tan đã cản trở chúng tôi.
19 Quả thế, ai là niềm hy vọng, là niềm vui của chúng tôi, ai là
triều thiên làm cho chúng tôi hãnh diện trước nhan Đức Giê-su, Chúa chúng ta,
khi Người quang lâm, nếu không phải là anh em? 20 Phải, chính anh em là vinh
quang và là niềm vui của chúng tôi.
Chương 3
Phái
ông Ti-mô-thê đi Thê-xa-lô-ni-ca
1
Vì
vậy, không chịu nổi nữa, chúng tôi đã quyết định ở lại A-thê-na một mình, 2
và chúng tôi đã phái anh Ti-mô-thê, người anh em của chúng tôi và cộng sự
viên của Thiên Chúa trong việc loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô; anh đến để làm cho
anh em được vững mạnh, và khích lệ đức tin của anh em, 3 khiến không
ai bị nao núng vì các nỗi gian truân ấy. Hẳn anh em biết đó là số phận dành cho
chúng ta. 4 Thật thế, khi còn ở với anh em, chúng tôi đã nói trước
cho anh em rằng chúng ta sẽ gặp gian truân, điều đó đã xảy ra như anh em biết. 5
Chính vì vậy mà không chịu nổi nữa, tôi đã sai người đi hỏi cho biết lòng
tin của anh em ra sao, sợ rằng tên cám dỗ đã cám dỗ anh em, và công lao khó
nhọc của chúng tôi trở nên vô ích.
Tạ
ơn Chúa vì các tin tức nhận được
6
Giờ
đây, sau khi thăm anh em, anh Ti-mô-thê đã trở lại với chúng tôi và đưa tin
mừng cho chúng tôi về lòng tin và lòng mến của anh em; anh ấy nói rằng anh em
vẫn luôn luôn giữ kỷ niệm tốt về chúng tôi, và ao ước gặp lại chúng tôi, cũng
như chúng tôi ao ước gặp lại anh em. 7 Như vậy, thưa anh em, vì anh
em có lòng tin, nên khi nghĩ đến anh em, chúng tôi được an ủi giữa mọi thống
khổ gian truân chúng tôi phải chịu. 8 Phải, chúng tôi sống được đến
giờ này là nhờ anh em đứng vững trong Chúa. 9 Chúng tôi biết nói gì
để tạ ơn Thiên Chúa về anh em, vì tất cả niềm vui mà nhờ anh em, tôi có được
trước nhan Thiên Chúa chúng ta? 10 Đêm ngày chúng tôi tha thiết nài xin Chúa
cho được thấy mặt anh em và bổ túc những gì còn thiếu trong đức tin của anh em.
11
Xin
chính Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa chúng ta là Đức Giê-su san phẳng
con đường dẫn chúng tôi đến với anh em. 12 Xin Chúa cho tình thương
của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết,
cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy. 13 Như thế,
Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, được trở nên thánh thiện, không có gì
đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giê-su,
Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.
Chương 4
Khuyên
cộng đoàn sống thánh thiện và bác ái
1
Vả
lại, thưa anh em, anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng
Thiên Chúa, và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giê-su, chúng
tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em hãy tấn tới nhiều hơn nữa. 2 Hẳn
anh em rõ chúng tôi đã lấy quyền Chúa Giê-su mà ra những chỉ thị nào cho anh
em.
3
Ý
muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh, tức là xa lánh gian dâm, 4 mỗi
người hãy biết lấy cho mình một người vợ để sống cách thánh thiện và trong danh
dự, 5 chứ không buông theo đam mê dục vọng như dân ngoại, là những
người không biết Thiên Chúa. 6 Về điểm này, đừng ai làm tổn thương
hay lừa dối người anh em mình, vì Chúa là Đấng trừng phạt tất cả những cái đó,
như chúng tôi đã từng báo trước và cảnh cáo anh em. 7 Thật vậy,
Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện. 8 Vậy
ai khinh thường những lời dạy trên, thì không phải khinh thường một người phàm,
nhưng khinh thường Thiên Chúa; Đấng hằng ban cho anh em Thánh Thần của Người.
9
Còn
về tình huynh đệ, anh em không cần ai viết cho anh em, vì chính anh em đã được
Thiên Chúa dạy phải thương yêu nhau, 10 và anh em cũng đang làm như
vậy cho tất cả các anh em trong toàn miền Ma-kê-đô-ni-a. Nhưng thưa anh em, tôi
khuyên nhủ anh em hãy tiến tới nhiều hơn nữa. 11 Hãy gắng giữ hoà
khí, ai lo việc nấy và lao động bằng chính bàn tay của mình, như chính tôi đã
truyền cho anh em. 12 Như vậy, lối sống của anh em sẽ được người
ngoài cảm phục, và anh em sẽ không cần nhờ đến ai.
Người
sống và kẻ chết trong ngày Chúa quang lâm
13
Thưa
anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng
hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người
không có niềm hy vọng. 14 Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giê-su đã
chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong
Đức Giê-su, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giê-su. 15 Dựa vào
lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang
sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước
những người đã an giấc ngàn thu đâu. 16 Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi
tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa
sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Ki-tô sẽ sống lại trước
tiên; 17 rồi đến chúng ta, là những người đang sống, những người còn
lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên
không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. 18 Vậy
anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau.
Chương 5
Tỉnh
thức chờ ngày Chúa quang lâm
1
Thưa
anh em, về ngày giờ và thời kỳ Chúa đến, anh em không cần ai viết cho anh em. 2
Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. 3
Khi người ta nói: ”Bình an biết bao, yên ổn biết bao!”, thì lúc ấy tai
hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có
thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được.
4
Thưa
anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. 5
Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta
không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. 6 Vậy chúng ta
đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ. 7 Ai
ngủ, thì ngủ ban đêm; ai say sưa, thì say sưa ban đêm. 8 Nhưng chúng
ta, chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và
đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ. 9 Vì Thiên Chúa đã
không định cho chúng ta phải chịu cơn thịnh nộ, nhưng được hưởng ơn cứu độ, nhờ
Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, 10 Đấng đã chết vì chúng ta, để dầu
thức hay ngủ, chúng ta cũng sống với Người. 11 Vì thế, anh em hãy an
ủi nhau và xây dựng cho nhau, như anh em vẫn làm.
Một
vài đòi hỏi của đời sống cộng đoàn
12
Thưa
anh em, chúng tôi xin anh em hãy quý trọng những ai đang vất vả vì anh em, để
lãnh đạo anh em nhân danh Chúa và khuyên bảo anh em. 13 Hãy lấy tình
bác ái mà hết lòng tôn kính những người ấy, vì công việc họ làm. Hãy sống hoà
thuận với nhau.
14
Thưa
anh em, chúng tôi khuyên nhủ anh em: hãy khuyên bảo người vô kỷ luật, khích lệ
kẻ nhút nhát, nâng đỡ người yếu đuối, và kiên nhẫn với mọi người. 15 Hãy
coi chừng: đừng có ai lấy ác báo ác, nhưng hãy luôn luôn cố gắng làm điều thiện
cho nhau cũng như cho mọi người.
16
Anh
em hãy vui mừng luôn mãi 17 và cầu nguyện không ngừng. 18 Hãy tạ ơn
trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong
Đức Ki-tô Giê-su.
19
Anh
em đừng dập tắt Thần Khí. 20 Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. 21
Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; 22 còn điều xấu dưới
bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa.
Lời
cầu nguyện và lời chào cuối thư
23
Nguyện
chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em,
để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em, được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng
trách, trong ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm. 24 Đấng
kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó.
25
Thưa
anh em, xin anh em cũng cầu nguyện cho chúng tôi nữa. 26 Tất cả anh
em hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện. 27 Nhân danh Chúa, tôi
yêu cầu đọc thư này cho tất cả các anh em.
28
Chúc
anh em được đầy ân sủng của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
Thê-xa-lô-ni-ca
2
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Chúng
tôi là Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê, kính gửi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca ở
trong Thiên Chúa là Cha chúng ta, và trong Chúa Giê-su Ki-tô. 2 Xin
Thiên Chúa là Cha và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.
Tạ
ơn và khuyến khích. Thiên Chúa thưởng phạt ngày sau hết
3
Thưa
anh em, chúng tôi phải luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa về anh em: đó là điều phải
lẽ, vì lòng tin của anh em đang phát triển mạnh, và nơi tất cả anh em, lòng yêu
thương của mỗi người đối với người khác cũng gia tăng. 4 Bởi thế,
chúng tôi hãnh diện về anh em trước mặt các Hội Thánh của Thiên Chúa, vì anh em
kiên nhẫn và có lòng tin mỗi khi bị bắt bớ hay gặp cảnh gian truân. 5 Đó
là dấu cho thấy Thiên Chúa xét xử công minh: anh em sẽ được coi là xứng đáng
tham dự Nước Thiên Chúa, chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ.
6
Quả
là điều công minh, nếu Thiên Chúa trả báo, nghĩa là bắt những kẻ gây gian truân
cho anh em phải chịu gian truân, 7 và cho anh em, những kẻ gặp gian
truân, được nghỉ ngơi với chúng tôi. Việc ấy sẽ xảy ra, khi Chúa Giê-su từ trời
xuất hiện cùng với các thiên thần hùng mạnh của Người, 8 trong ngọn
lửa cháy bừng, để báo oán những kẻ không chịu nhận biết Thiên Chúa và những kẻ
không vâng theo Tin Mừng của Chúa chúng ta là Đức Giê-su. 9 Những kẻ
ấy sẽ lãnh án diệt vong muôn đời, xa thánh nhan Chúa và quyền năng vinh hiển
của Người, 10 khi Người đến, trong ngày ấy, để được tôn vinh giữa
các thần thánh của Người, và được ngưỡng mộ giữa mọi kẻ đã tin, mà anh em cũng
đã tin lời chứng của chúng tôi.
11
Vì
thế, lúc nào chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh em: xin Thiên Chúa chúng ta làm
cho anh em được xứng đáng với ơn gọi, và xin Người dùng quyền năng mà hoàn
thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin. 12
Như vậy, danh của Chúa chúng ta là Đức Giê-su, sẽ được tôn vinh nơi anh
em, và anh em được tôn vinh nơi Người, chiếu theo ân sủng của Thiên Chúa chúng
ta và của Chúa Giê-su Ki-tô.
Chương 2
Ngày
Chúa quang lâm và những gì xảy ra trước đó
1
Thưa
anh em, về ngày Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, quang lâm và tập hợp chúng ta
về với Người, tôi xin anh em điều này: 2 nếu có ai bảo rằng chúng
tôi đã được thần khí mặc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của
Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hoảng sợ.
3 Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào.
4
Tên
đối thủ tôn mình lên trên tất cả những gì được gọi là thần và được sùng bái,
thậm chí nó còn ngồi trong Đền Thờ Thiên Chúa và tự xưng là Thiên Chúa. 5 Khi
tôi còn ở với anh em, tôi đã từng nói những điều ấy, anh em không nhớ sao? 6
Anh em biết cái gì hiện đang cầm giữ nó, khiến nó sẽ chỉ xuất hiện được vào
thời của nó. 7 Thật vậy, mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành.
Chỉ đợi người cầm giữ nó bị gạt ra một bên, 8 bấy giờ tên gian ác sẽ
xuất hiện, kẻ mà Chúa Giê-su sẽ giết chết bằng hơi thở từ miệng Người, và sẽ
tiêu diệt bằng ánh huy hoàng, khi Người quang lâm.
9
Còn
việc tên gian ác xuất hiện là do tác động của Xa-tan, có kèm theo đủ thứ phép
mầu, dấu lạ, điềm thiêng, 10 và đủ mọi mưu gian chước dối, nhằm hại
những kẻ phải hư mất, vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu độ.
11 Vì thế Thiên Chúa gửi đến một sức mạnh mê hoặc làm cho chúng tin
theo sự dối trá; 12 như vậy, tất cả những kẻ không tin sự thật,
nhưng ưa thích sự gian ác, thì sẽ bị kết án.
Khuyên
nhủ kiên trì
13
Hỡi
anh em là những kẻ được Chúa yêu mến, chúng tôi phải luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa
về anh em, vì Thiên Chúa đã chọn anh em ngay từ lúc khởi đầu, để cứu độ anh em
nhờ Thần Khí thánh hoá và nhờ lòng tin vào chân lý. 14 Chính vì thế
mà Người đã dùng Tin Mừng chúng tôi loan báo mà kêu gọi anh em, để anh em được
hưởng vinh quang của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô. 15 Vậy, thưa
anh em, anh em hãy đứng vững và nắm giữ các truyền thống chúng tôi đã dạy cho
anh em, bằng lời nói hay bằng thư từ. 16 Xin chính Chúa chúng ta là
Đức Giê-su Ki-tô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và
đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt
đẹp, 17 xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được vững mạnh, để
làm và nói tất cả những gì tốt lành.
Chương 3
1
Sau
cùng, thưa anh em, xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi, để lời Chúa được phổ
biến mau chóng và được tôn vinh, như đã thấy nơi anh em. 2 Xin cũng
cầu nguyện cho chúng tôi được thoát khỏi tay người độc ác xấu xa, bởi vì không
phải ai cũng có đức tin. 3 Nhưng Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ
làm cho anh em được vững mạnh, và bảo vệ anh em khỏi ác thần. 4 Trong
Chúa, chúng tôi tin tưởng vào anh em: anh em đang làm và sẽ làm những gì chúng
tôi truyền. 5 Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em, để anh em biết yêu
mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Ki-tô.
Đề
phòng lối sống vô kỷ luật: cơn sốt quang lâm!
6
Thưa
anh em, nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền cho anh em phải xa lánh
mọi người anh em sống vô kỷ luật, không theo truyền thống anh em đã nhận được
từ nơi tôi.
7
Chính
anh em thừa biết là anh em phải bắt chước chúng tôi thế nào. Khi ở giữa anh em,
chúng tôi đã không sống vô kỷ luật. 8 Chúng tôi đã chẳng ăn bám ai,
trái lại đêm ngày đã làm lụng khó nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người
nào trong anh em. 9 Không phải là vì chúng tôi không có quyền hưởng
sự giúp đỡ, nhưng là để nêu gương cho anh em bắt chước.
10
Thật
vậy, khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: ai không chịu làm
thì cũng đừng ăn! 11 Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người
sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. 12 Nhân
danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở
yên mà làm việc, để có của nuôi thân.
13
Phần
anh em, hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí! 14 Nếu có ai không vâng theo
lời chúng tôi nói trong thư này, anh em hãy ghi lấy tên và đừng giao du với
người ấy, để họ biết xấu hổ. 15 Nhưng đừng coi họ như thù địch, trái
lại hãy khuyên bảo như người anh em.
Lời
cầu nguyện và lời chào cuối thư
16
Chúa
là nguồn mạch bình an, xin Người ban cho anh em được bình an mọi lúc và về mọi
phương diện. Xin Chúa ở cùng tất cả anh em.
17
Chính
tôi, Phao-lô, tự tay viết lời chào này. Đó là chữ ký trong tất cả các thư của
tôi. Tôi viết như thế đó. Chúc tất cả anh em được đầy ân sủng của Đức Giê-su
Ki-tô, Chúa chúng ta.
Ti-mô-thê 1
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Tôi
là Phao-lô, Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su theo lệnh Thiên Chúa, Đấng cứu độ
chúng ta, và theo lệnh Đức Ki-tô Giê-su, niềm hy vọng của chúng ta, 2 gửi
anh Ti-mô-thê, người con tôi đã sinh ra trong đức tin. Xin Thiên Chúa là Cha và
xin Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, ban cho anh ân sủng, lòng thương xót và sự
bình an.
Đề
phòng giáo lý sai lạc
3
Khi
đi Ma-kê-đô-ni-a, tôi đã khuyên anh ở lại Ê-phê-xô để anh truyền cho một số
người đừng dạy một giáo lý khác, 4 cũng đừng chú ý đến những chuyện
hoang đường và những gia phả dài dòng; những cái đó chỉ gây ra tranh luận, chứ
không đóng góp vào kế hoạch của Thiên Chúa mà đức tin cho chúng ta biết. 5
Lời truyền dạy đó phải nhằm đưa tới đức mến phát xuất từ tâm hồn trong
sạch, lương tâm ngay thẳng và đức tin không giả hình. 6 Vì đi trệch
đường lối ấy, một số người đã sa vào tật nói rỗng tuếch. 7 Họ muốn
làm thầy dạy luật, nhưng lại không hiểu cả điều mình nói lẫn điều mình xác
quyết.
Vai
trò của Lề Luật
8
Chúng
ta biết rằng Lề Luật là tốt, nếu người ta sử dụng cho đúng cách. 9 Thật
vậy, Lề Luật có đó, không phải cho người công chính, mà là cho hạng người sống
ngoài lề luật và bất phục tùng, vô luân và tội lỗi, phạm thánh phạm thượng,
giết cha giết mẹ, sát nhân, 10 dâm dật, kê gian, buôn người, nói
dối, bội thề, và những kẻ sống ngược với giáo lý lành mạnh. 11 Đó là
giáo lý phù hợp với Tin Mừng đã được giao phó cho tôi, Tin Mừng về vinh quang
của Thiên Chúa chí tôn.
Ông
Phao-lô suy nghĩ về ơn gọi của mình
12
Tôi
tạ ơn Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, Đấng đã ban sức mạnh cho tôi, vì Người
đã tín nhiệm mà gọi tôi đến phục vụ Người. 13 Trước kia, tôi là kẻ
nói lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì
tôi đã hành động một cách vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin. 14 Đức
Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, đã ban cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin
và đức mến của một kẻ được kết hợp với Người. 15 Đây là lời đáng tin
cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Ki-tô Giê-su đã đến thế gian, để cứu những
người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi. 16 Sở dĩ tôi được thương xót,
là vì Đức Giê-su Ki-tô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Người nơi tôi là
kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống
muôn đời. 17 Kính dâng Vua muôn thuở là Thiên Chúa bất diệt, vô hình
và duy nhất, kính dâng Người danh dự và vinh quang đến muôn thuở muôn đời.
A-men.
Trách
nhiệm của ông Ti-mô-thê
18
Anh
Ti-mô-thê, đó là chỉ thị tôi trao cho anh là người con của tôi, chiếu theo các
lời ngôn sứ trước đây đã nói về anh, để anh dựa vào đó mà chiến đấu trong cuộc
chiến cao đẹp này, 19 với đức tin và lương tâm ngay thẳng. Một số
người đã vứt bỏ lương tâm ngay thẳng đó, nên đức tin của họ đã bị chết chìm. 20
Trong số đó có Hy-mê-nê và A-lê-xan-đê; tôi đã trao nộp họ cho Xa-tan để
họ được dạy cho biết đừng nói lộng ngôn nữa.
Chương 2
Lời
kinh phụng vụ
1
Trước
hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả
mọi người, 2 cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng
ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. 3 Đó
là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, 4 Đấng
muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. 5 Thật vậy, chỉ
có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó
là một con người, Đức Ki-tô Giê-su, 6 Đấng đã tự hiến làm giá chuộc
mọi người.
Điều
này đã được chứng thực vào đúng thời đúng buổi.
7
Và
để làm chứng về điều này, tôi được đặt làm người rao giảng và làm Tông Đồ-tôi
nói thật chứ không nói dối- nghĩa là làm thầy dạy các dân ngoại về đức tin và
chân lý. 8 Vậy tôi muốn rằng người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ
nơi nào, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung
khắc.
Khi
họp cộng đoàn, người phụ nữ phải như thế nào?
9
Cũng
thế, tôi muốn người đàn bà phải ăn mặc đoan trang, đồ trang điểm phải kín đáo,
giản dị: không phải là những kiểu tóc cầu kỳ, vàng bạc, ngọc trai hay quần áo
đắt tiền, 10 nhưng là những việc lành; như thế mới thích hợp với
những người đàn bà xưng mình có lòng đạo đức. 11 Khi nghe lời dạy
dỗ, đàn bà phải thinh lặng và hết lòng phục tùng. 12 Tôi không cho
phép đàn bà giảng dạy, hay thống trị đàn ông, trái lại họ phải thinh lặng, 13
vì A-đam được tạo dựng trước, rồi mới đến E-và. 14 Cũng không
phải A-đam đã bị dụ dỗ, nhưng là người đàn bà đã phạm tội, khi bị dụ dỗ. 15
Tuy nhiên, người đàn bà sẽ được cứu nhờ sinh con cái, nếu kiên trì giữ
đức tin, đức mến và sự thánh thiện, với lòng đơn sơ giản dị.
Chương 3
Các
giám quản
1
Đây
là lời đáng tin cậy: ai mong được làm giám quản, người ấy ước muốn một nhiệm vụ
cao đẹp. 2 Vậy giám quản phải là người không ai chê trách được, chỉ
có một đời vợ, tiết độ, chừng mực, nhã nhặn, hiếu khách, có khả năng giảng dạy;
3 người ấy không được nghiện rượu, không được hiếu chiến, nhưng phải
hiền hoà, không hay gây sự, không ham tiền, 4 biết điều khiển tốt
gia đình mình, biết dạy con cái phục tùng cách rất nghiêm chỉnh, 5 vì
ai không biết điều khiển gia đình mình, thì làm sao có thể lo cho Hội Thánh của
Thiên Chúa được? 6 Người ấy không được là tân tòng, kẻo lên mặt kiêu căng mà bị
kết án như ma quỷ. 7 Người ấy còn phải được người ngoài chứng nhận
là tốt, kẻo bị sỉ nhục và sa vào cạm bẫy ma quỷ.
Các
trợ tá
8
Các
trợ tá cũng vậy, phải là người đàng hoàng, biết giữ lời hứa, không rượu chè say
sưa, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn; 9 họ phải bảo toàn mầu nhiệm
đức tin trong một lương tâm trong sạch. 10 Họ phải được thử thách
trước đã, rồi mới được thi hành chức vụ trợ tá, nếu không bị ai khiếu nại. 11
Các bà cũng vậy, phải là người đàng hoàng, không nói xấu, nhưng tiết độ,
đáng tin cậy mọi bề. 12 Các trợ tá phải là người chỉ có một đời vợ,
biết điều khiển con cái và gia đình cho tốt. 13 Những ai thi hành
chức vụ trợ tá cách tốt đẹp, thì được một chỗ danh dự, và được mạnh dạn nhiều
nhờ lòng tin vào Đức Ki-tô Giê-su.
Mầu
nhiệm của đạo thánh
14
Tôi
viết cho anh thư này, dù vẫn hy vọng sớm đến với anh. 15 Nhưng nếu
tôi chậm trễ, thì thư này sẽ cho anh biết phải ăn ở thế nào trong nhà của Thiên
Chúa, tức là Hội Thánh của Thiên Chúa hằng sống, cột trụ và điểm tựa của chân
lý. 16 Phải công nhận rằng: mầu nhiệm của đạo thánh thật là cao cả,
đó là:
Đức
Ki-tô xuất hiện trong thân phận người phàm,
được
Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính;
Người
được các thiên thần chiêm ngưỡng,
và
được loan truyền giữa muôn dân;
Người
được cả hoàn cầu tin kính,
được
siêu thăng cõi trời vinh hiển.
Chương 4
Các
người dạy giáo lý sai lạc
1
Thần
khí phán rõ ràng: vào những thời cuối cùng, một số người sẽ bỏ đức tin mà theo
những thần khí lừa dối và những giáo huấn của ma quỷ; 2 đó là vì trò
giả hình của những tên nói dối mà lương tâm như bị thích dấu sắt nung. 3 Họ
cấm không được kết hôn và bắt phải kiêng một số thức ăn; thật ra, những thức ăn
này là những thứ Thiên Chúa đã tạo dựng để các tín hữu, những kẻ đã nhận biết
chân lý, được dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ. 4 Thật vậy, tất cả
những gì Thiên Chúa tạo dựng đều tốt, và không có gì phải loại bỏ, nếu biết
dùng trong tâm tình tri ân cảm tạ, 5 vì lời Thiên Chúa và lời cầu
nguyện thánh hoá những thứ đó. 6 Nếu anh trình bày cho anh em những
điều ấy, thì anh sẽ là một người phục vụ tốt của Đức Ki-tô Giê-su, một người
thấm nhuần lời đức tin và giáo lý cao đẹp mà anh đã trung thành noi theo. 7
Còn những chuyện hoang đường nhảm nhí của bà già, thì hãy loại bỏ. Hãy
luyện tập sống đạo đức; 8 vì luyện tập thân thể thì lợi ích chẳng là
bao, còn lòng đạo đức thì lợi ích mọi bề, bởi Chúa hứa ban sự sống hiện tại
cũng như tương lai cho người có lòng đạo đức. 9 Đó là lời đáng tin
cậy và đáng mọi người đón nhận. 10 Thật vậy, chính vì mục đích ấy mà
chúng ta phải vất vả, phải chiến đấu, bởi đã đặt hy vọng vào Thiên Chúa hằng
sống, Đấng cứu độ mọi người, nhất là các tín hữu. 11 Anh hãy truyền,
hãy dạy những điều đó.
12
Chớ
gì đừng có ai coi thường anh vì anh còn trẻ. Trái lại, anh hãy nên gương mẫu
cho các tín hữu về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng
trong sạch. 13 Trong khi chờ tôi đến, hãy chuyên cần đọc Sách Thánh
trong các buổi họp, chuyên cần khuyên nhủ và dạy dỗ. 14 Đừng thờ ơ
với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh nhờ lời ngôn
sứ, khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh. 15 Anh hãy tha thiết với những
điều đó, chuyên chú vào đó, để mọi người nhận thấy những tiến bộ của anh. 16
Anh hãy thận trọng trong cách ăn nết ở và trong lời giảng dạy. Hãy kiên
trì trong việc đó. Vì làm như vậy, anh sẽ cứu được chính mình, lại còn cứu được
những người nghe anh giảng dạy.
Chương 5
Cách
cư xử với các hạng người tín hữu nói chung
1
Đừng
nặng lời với cụ già, nhưng khi khuyên nhủ, hãy coi cụ như cha; hãy coi các thanh
niên như anh em, 2 các cụ bà như mẹ, các thiếu nữ như chị em, với
tấm lòng hoàn toàn trong sạch.
Các
bà goá
3
Anh
hãy kính trọng các bà goá, những bà goá đích thực. 4 Nếu một bà goá
có con có cháu, thì trước tiên con cháu phải học cho biết ăn ở hiếu thảo đối
với gia đình mình, và đền ơn đáp nghĩa các bậc sinh thành. Đó là điều đẹp lòng
Thiên Chúa. 5 Còn các bà goá đích thực, sống một thân một mình, thì
đã đặt hy vọng vào Thiên Chúa và ngày đêm kiên trì đọc kinh cầu nguyện. 6 Trái
lại, bà goá ham vui thì sống cũng như chết. 7 Anh cũng phải truyền
dạy những điều ấy, để không ai chê trách được họ. 8 Ai không chăm
sóc người thân, nhất là người sống trong cùng một nhà, thì đã chối bỏ đức tin,
và còn tệ hơn người không có đức tin.
9
Muốn
được ghi tên vào sổ các bà goá, phải có những điều kiện sau: ít nhất sáu mươi
tuổi, chỉ có một đời chồng, 10 được chứng nhận là đã làm việc thiện,
nghĩa là đã nuôi nấng dạy dỗ con cái, đã tỏ ra hiếu khách, đã rửa chân cho các
người trong dân thánh, giúp đỡ người gặp gian truân, siêng năng làm mọi việc
lành. 11 Còn các bà goá trẻ, anh đừng ghi vào sổ; vì khi dục vọng
làm cho họ xa lìa Đức Ki-tô, thì họ muốn tái giá, 12 và như vậy là
mang lấy án phạt, bởi đã không giữ lời cam kết ban đầu với Đức Ki-tô. 13 Đồng
thời, vì ăn không ngồi rồi, họ học thói la cà hết nhà nọ đến nhà kia. Đâu phải
chỉ ăn không ngồi rồi, họ còn nhiều chuyện, lăng xăng, nói năng bừa bãi. 14
Vậy tôi muốn các bà goá trẻ hãy tái giá, sinh con cái, lo việc cửa nhà;
đừng để cho đối phương có dịp bới móc. 15 Thật vậy, đã có kẻ lạc
đường đi theo Xa-tan. 16 Nếu nữ tín hữu nào có người trong họ hàng
là bà goá, thì hãy giúp đỡ họ, đừng để cho Hội Thánh phải mang gánh nặng, và
như thế Hội Thánh có thể giúp đỡ những bà goá đích thực.
Các
kỳ mục
17
Những
kỳ mục thi hành chức vụ chủ toạ cách tốt đẹp, thì đáng được đãi ngộ gấp đôi,
nhất là những người vất vả phục vụ lời Chúa và giảng dạy. 18 Quả
vậy, Kinh Thánh có nói: Đừng bịt mõm con bò đang đạp lúa, và làm thợ thì đáng
được trả công. 19 Lời tố cáo một kỳ mục, anh đừng chấp nhận, trừ phi
có hai hoặc ba nhân chứng. 20 Những ai phạm tội, anh hãy khiển trách
trước mặt mọi người, để những kẻ khác phải sợ. 21 Trước mặt Thiên
Chúa, trước mặt Đức Ki-tô Giê-su và các thiên thần được tuyển chọn, tôi tha
thiết khuyên anh giữ các điều ấy cách vô tư, không làm gì vì thiên vị. 22 Anh
đừng vội đặt tay trên ai, đừng cộng tác vào tội lỗi của người khác. Hãy giữ
mình trong sạch.
23
Từ
nay anh đừng chỉ uống nước lã, nhưng hãy dùng thêm chút rượu, vì anh đau dạ dày
và ốm yếu luôn.
24
Có
những người thì tội đã rành rành, ngay trước khi xét xử; người khác thì xét xử
rồi mới thấy rõ. 25 Cũng thế, những việc tốt thì đã rành rành; mà cả
những việc không tốt cũng chẳng che giấu được.
Chương 6
Các
nô lệ
1
Những
ai đang ở dưới ách nô lệ, hãy coi chủ mình là đáng kính về mọi mặt, để danh
Thiên Chúa và đạo lý khỏi bị người ta xúc phạm. 2 Còn những ai có
chủ là người tín hữu, thì đừng lấy cớ họ là người anh em mà coi thường; trái
lại phải hầu hạ chủ tốt hơn nữa, bởi lẽ người được mình phục vụ là tín hữu và
là anh em yêu quý.
Người
dạy giáo lý: ai chân chính, ai không
3
Nếu
có ai dạy một giáo lý khác, không theo sát các lời lành mạnh, tức là các lời
của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, và không theo sát giáo lý phù hợp với đạo
thánh, 4 thì người ấy lên mặt kiêu căng, không biết gì cả, nhưng mắc
bệnh ham tranh luận và thích cãi chữ. Do đó sinh ra ganh tị, tranh chấp, lộng
ngôn, nghĩ xấu, 5 đấu khẩu liên miên giữa những người đầu óc lệch
lạc, mất cả chân lý và coi việc giữ đạo là một nguồn lợi. 6 Đã hẳn,
việc giữ đạo là nguồn lợi lớn đối với ai lấy cái mình có làm đủ. 7 Quả
vậy, chúng ta đã không mang gì vào trần gian, thì cũng chẳng mang gì ra được. 8
Vậy nếu có cơm ăn áo mặc, ta hãy lấy thế làm đủ. 9 Còn những
kẻ muốn làm giàu, thì sa chước cám dỗ, sa vào cạm bẫy và nhiều ước muốn ngu
xuẩn độc hại; đó là những thứ làm cho con người chìm đắm trong cảnh huỷ diệt
tiêu vong. 10 Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn
tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và
chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.
Lời
khuyên nhủ thiết tha
11
Phần
anh, hỡi người của Thiên Chúa, hãy tránh xa những điều đó; hãy gắng trở nên
người công chính, đạo đức, giàu lòng tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và
hiền hoà. 12 Anh hãy thi đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp vì đức tin,
giành cho được sự sống đời đời; chính vì sự sống ấy, anh đã được Thiên Chúa kêu
gọi, và anh đã nói lên lời tuyên xưng cao đẹp trước mặt nhiều nhân chứng. 13
Trước mặt Thiên Chúa là Đấng ban sức sống cho mọi loài, và trước mặt Đức
Ki-tô Giê-su là Đấng đã làm chứng trước toà tổng trấn Phong-xi-ô Phi-la-tô bằng
một lời tuyên xưng cao đẹp, tôi truyền cho anh: 14 hãy tuân giữ điều
răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày Đức
Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, xuất hiện. 15 Đấng sẽ cho Đức Ki-tô tỏ
hiện vào đúng thời đúng buổi,
là
Chúa Tể vạn phúc vô song,
là
Vua các vua, Chúa các chúa.
16
Chỉ
mình Người là Đấng trường sinh bất tử,
ngự
trong ánh sáng siêu phàm,
Đấng
không một người nào đã thấy hay có thể thấy.
Kính
dâng Người danh dự
và
uy quyền đến muôn đời. A-men.
Lời
khuyên người giàu
17
Những
người giàu ở trần gian này, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng
đặt hy vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào
mọi sự cho chúng ta hưởng dùng. 18 Họ phải làm việc thiện và trở nên
giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. 19 Như
vậy họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống
thật.
Lời
nhắn nhủ cuối cùng
20
Anh
Ti-mô-thê, hãy bảo toàn giáo lý đã được giao phó cho anh, tránh những chuyện
nhảm nhí, trống rỗng, và những vấn đề của tri thức giả hiệu. 21 Có
những kẻ, vì chủ trương cái tri thức đó, nên đã lạc mất đức tin. Chúc anh em
được ân sủng.
Ti-mô-thê 2
Chương 1
Lời
mở đầu và tạ ơn
1
Tôi
là Phao-lô, Tông Đồ của Đức Ki-tô Giê-su, do ý muốn của Thiên Chúa, chiếu theo
lời Thiên Chúa hứa ban sự sống vốn có trong Đức Ki-tô Giê-su, 2 gửi
anh Ti-mô-thê, người con yêu dấu. Xin Thiên Chúa là Cha và xin Đức Giê-su
Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh được ân sủng, lòng thương xót và sự bình an.
3
Tôi
tạ ơn Thiên Chúa, Đấng tôi phụng thờ với lương tâm trong sạch, theo gót tổ
tiên; tôi tạ ơn Người khi tôi không ngừng nhắc nhở đến anh, trong các lời cầu
nguyện của tôi, đêm cũng như ngày. 4 Nhớ đến những giọt nước mắt của
anh, tôi ước ao gặp lại anh để được chan chứa niềm vui. 5 Tôi hồi
tưởng lại lòng tin không giả hình của anh, lòng tin đã có nơi cụ Lô-ít, bà
ngoại anh, nơi bà Êu-ni-kê, mẹ anh, cũng như chính nơi anh, tôi xác tín như
vậy.
Những
ơn ông Ti-mô-thê đã nhận được
6
Vì
lý do đó, tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã
nhận được khi tôi đặt tay trên anh. 7 Vì Thiên Chúa đã chẳng ban cho
chúng ta một thần khí làm cho chúng ta trở nên nhút nhát, nhưng là một Thần Khí
khiến chúng ta được đầy sức mạnh, tình thương, và biết tự chủ. 8 Vậy
anh đừng hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi,
người tù của Chúa; nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng
khổ với tôi để loan báo Tin Mừng. 9 Người đã cứu độ và kêu gọi chúng
ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm,
nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng
ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su, 10 nhưng giờ đây mới được
biểu lộ, vì Đấng cứu độ chúng ta là Đức Ki-tô Giê-su đã xuất hiện. Chính Đức
Ki-tô đã tiêu diệt thần chết, và đã dùng Tin Mừng mà làm sáng tỏ phúc trường
sinh bất tử. 11 Thiên Chúa đã đặt tôi làm người rao giảng Tin Mừng
đó, làm tông đồ và thầy dạy.
12
Chính
vì lý do ấy mà tôi phải chịu những đau khổ này; nhưng tôi không hổ thẹn, vì tôi
biết tôi tin vào ai, và xác tín rằng: Người có đủ quyền năng bảo toàn giáo lý
đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới Ngày đó.
13
Với
đức tin và đức mến của một người được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su, anh hãy lấy
làm mẫu mực những lời lành mạnh anh đã nghe tôi dạy. 14 Giáo lý tốt
đẹp đã giao phó cho anh, anh hãy bảo toàn, nhờ có Thánh Thần ngự trong chúng
ta.
15
Anh
biết rằng mọi người ở A-xi-a đã bỏ tôi; Phy-ghê-lô và Héc-mô-ghê-nê cũng ở
trong số ấy. 16 Xin Chúa tỏ lòng thương xót gia đình anh
Ô-nê-xi-phô-rô, vì đã nhiều lần anh làm cho tôi lên tinh thần, và đã không hổ
thẹn vì tôi phải mang xiềng xích; 17 trái lại, vừa đến Rô-ma, anh
vội vã đi tìm và đã thấy tôi. 18 Xin Chúa ban cho anh tìm thấy nơi
Chúa lòng thương xót, trong Ngày đó. Về công việc phục vụ của anh ấy ở
Ê-phê-xô, thì anh đã quá rõ.
Chương 2
Ý
nghĩa các đau khổ của người tông đồ
1
Vậy
hỡi anh, người con của tôi, anh hãy nên mạnh mẽ trong ân sủng của Đức Ki-tô
Giê-su. 2 Những gì anh đã nghe tôi nói trước mặt nhiều nhân chứng,
thì hãy trao lại cho những người tin cẩn, những người sẽ có khả năng dạy cho
người khác.
3
Anh
hãy đồng lao cộng khổ như một người lính giỏi của Đức Ki-tô Giê-su. 4 Trong
nghề binh, không ai vướng mắc vào những việc thuộc đời sống dân sự; có thế mới
đẹp lòng người đã tuyển mộ. 5 Người tham dự điền kinh cũng vậy,
không đoạt giải nếu không thi đấu theo luật lệ. 6 Còn người nông dân
làm việc vất vả, thì phải là người đầu tiên được hưởng phần hoa lợi. 7 Anh
hãy hiểu điều tôi nói, vì Chúa sẽ ban cho anh ơn thông hiểu mọi sự.
8
Anh
hãy nhớ đến Đức Giê-su Ki-tô,
Đấng
đã sống lại từ cõi chết,
Đấng
xuất thân từ dòng dõi Đa-vít,
9
Vì
Tin Mừng ấy, tôi chịu khổ, tôi còn phải mang cả xiềng xích như một tên gian
phi. Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích! 10 Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự,
để mưu ích cho những người Thiên Chúa đã chọn, để họ cũng đạt tới ơn cứu độ
trong Đức Ki-tô Giê-su, và được hưởng vinh quang muôn đời.
11
Đây
là lời đáng tin cậy:
Nếu
ta cùng chết với Người,
ta
sẽ cùng sống với Người.
12
Nếu
ta kiên tâm chịu đựng,
ta
sẽ cùng hiển trị với Người.
Nếu
ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta.
13
Nếu
ta không trung tín,
Người
vẫn một lòng trung tín,
vì
Người không thể nào chối bỏ chính mình.
Chống
lại những người dạy giáo lý sai lạc
14
Anh
hãy nhắc nhở lại những điều đó, trước mặt Thiên Chúa, hãy tha thiết khuyên
người ta đừng cãi chữ: chuyện không có ích lợi gì, chỉ làm cho người nghe phải
diệt vong. 15 Hãy cố gắng ra trước mặt Thiên Chúa như một người đã
được thử luyện, một người thợ không có gì phải xấu hổ, một người thẳng thắn dạy
lời chân lý. 16 Còn những chuyện nhảm nhí, trống rỗng, anh hãy tránh
xa, vì những kẻ nói những chuyện ấy sẽ tiến sâu vào con đường vô luân. 17 Lời
họ như một thứ ung nhọt cứ loét thêm ra. Trong số những người đó có Hy-mê-nê và
Phi-lê-tô. 18 Hai người này đã đi trệch đường chân lý, khi nói rằng
sự phục sinh đã xảy ra rồi và như vậy họ phá đổ đức tin của một số người. 19
Tuy nhiên, nền móng vững chắc Thiên Chúa đã đặt thì tồn tại; trên đó có
ghi tạc lời này: Chúa biết những kẻ thuộc về Người, và Phàm ai kêu cầu danh
Chúa phải tránh xa điều bất chính.
20
Trong
một ngôi nhà lớn, không phải chỉ có những đồ vật bằng vàng bằng bạc, nhưng cũng
có những đồ vật bằng gỗ bằng sành; thứ thì dùng vào việc cao quý, thứ thì dùng
vào việc thấp hèn. 21 Vậy ai thanh tẩy mình cho sạch những điều xấu
nói trên, người đó sẽ là một đồ vật dùng vào việc cao quý, một đồ vật được
thánh hiến, có ích cho chủ, sẵn sàng làm mọi việc lành.
22
Anh
hãy tránh xa các đam mê của tuổi trẻ, cố gắng trở nên người công chính, giàu
lòng tin và lòng mến, ăn ở thuận hoà cùng những ai kêu cầu Chúa với tấm lòng
trong sạch. 23 Còn những tranh luận điên rồ và ngu xuẩn, anh hãy gạt
ra một bên, vì biết rằng những thứ ấy sinh ra cãi cọ. 24 Thế mà
người tôi tớ Chúa thì không được cãi cọ, nhưng phải dịu dàng với mọi người, có
khả năng giảng dạy, biết chịu đựng gian khổ. 25 Người ấy phải lấy
lòng hiền hoà mà giáo dục những kẻ chống đối: biết đâu Thiên Chúa lại chẳng ban
cho họ ơn sám hối để nhận biết chân lý, 26 và họ sẽ tỉnh ngộ, thoát
khỏi cạm bẫy ma quỷ đã dùng để bắt giữ họ và khiến họ làm theo ý nó?
Chương 3
Đề
phòng các nguy hiểm của những thời cuối cùng
1
Anh
hãy biết điều này: vào những ngày sau hết sẽ có những lúc gay go. 2 Quả
thế, người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn,
không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, 3 vô tâm vô
tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, 4 phản
trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa; 5 hình
thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ. Anh hãy
xa lánh cả những người ấy.
6
Thuộc
bọn đó là những kẻ lẻn vào nhà người ta chinh phục thứ đàn bà nhẹ dạ, đầy những
tội lỗi và bị đủ thứ đam mê lôi cuốn, 7 học mãi mà chẳng bao giờ
nhận biết được chân lý. 8 Cũng như Gian-nê và Giam-rê xưa chống lại
ông Mô-sê, thì nay họ cũng chống lại chân lý; họ là hạng người đầu óc lệch lạc,
lòng tin không có gì vững chắc. 9 Nhưng họ sẽ không đi xa hơn được,
vì như trường hợp hai tên kia, mọi người sẽ thấy rõ là họ điên khùng.
10
Phần
anh, anh đã theo sát đạo lý, cách sống, dự định của tôi; anh đã thấy lòng tin,
sự nhẫn nại, lòng yêu mến, sự kiên trì của tôi; 11 anh đã biết những
cơn bắt bớ, những sự đau khổ tôi đã gặp ở An-ti-ô-khi-a, I-cô-ni-ô, Lýt-ra, đã
biết tôi chịu bắt bớ như thế nào. Nhưng Chúa đã giải thoát tôi khỏi tất cả. 12
Vả lại, những ai muốn sống đạo đức trong Đức Ki-tô Giê-su, đều sẽ bị bắt
bớ. 13 Còn hạng người xấu xa và bịp bợm sẽ ngày càng xấu hơn, họ vừa
lừa dối, vừa bị lừa dối.
14
Phần
anh, hãy giữ vững những gì anh đã học được và đã tin chắc. Anh biết anh đã học
với những ai. 15 Và từ thời thơ ấu, anh đã biết Sách Thánh, sách có
thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Ki-tô
Giê-su. 16 Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa
linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên
công chính. 17 Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được
trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành.
Chương 4
Lời
khuyên nhủ thiết tha
1
Trước
mặt Thiên Chúa và Đức Ki-tô Giê-su, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng
sẽ xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh: 2 hãy rao
giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện;
hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. 3
Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh,
nhưng theo những dục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa
tai muốn nghe. 4 Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng
về những chuyện hoang đường. 5 Phần anh, hãy thận trọng trong mọi
sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu
toàn chức vụ của anh.
Ông
Phao-lô vào cuối đời
6
Còn
tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. 7 Tôi
đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm
tin. 8 Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính;
Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và
không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người
xuất hiện. 9 Anh hãy mau mau đến với tôi, 10 vì anh Đê-ma
đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian này; anh ta đã đi Thê-xa-lô-ni-ca. Anh
Cơ-rét-xen đã đi sang miền Ga-lát, anh Ti-tô đi sang miền Đan-ma-ti-a. 11 Chỉ
còn một mình anh Lu-ca ở với tôi. Anh hãy đem anh Mác-cô đi với anh, vì anh ấy
rất hữu ích cho công việc phục vụ của tôi. 12 Anh Ty-khi-cô thì tôi
đã sai đi Ê-phê-xô. 13 Cái áo choàng tôi đã để lại nhà anh Các-pô ở
Trô-a, thì khi đến, xin anh đem theo, cũng như các sách vở, nhất là những cuộn
giấy da. 14 A-lê-xan-đê, người thợ rèn, đã gây cho tôi nhiều khốn
khổ; Chúa sẽ cứ việc anh ta làm mà trả báo. 15 Cả anh nữa, cũng hãy
đề phòng anh ta, vì anh ta mạnh mẽ chống lại lời chúng ta rao giảng.
16
Khi
tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã
bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ. 17 Nhưng có Chúa đứng bên cạnh,
Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và
tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. 18 Và tôi đã thoát
khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ
cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển
đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Lời
chào và lời chúc cuối thư
19
Xin
gửi lời thăm chị Pơ-rít-ca và anh A-qui-la, và gia đình anh Ô-nê-xi-phô-rô. 20
Anh Ê-rát-tô đã ở lại Cô-rin-tô. Còn anh Trô-phi-mô đang đau, tôi đã để
anh ấy ở lại Mi-lê-tô. 21 Anh hãy mau đến trước mùa đông.
Các
anh Êu-bu-lô, Pu-đê, Li-nô, chị Cơ-lau-đi-a và toàn thể anh em gửi lời thăm
anh.
22
Chúa
ở cùng thần trí anh. Chúc anh em được ân sủng.
Ti-tô
Chương 1
Lời
mở đầu và lời chào
1
Tôi
là Phao-lô, tôi tớ của Thiên Chúa và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, có nhiệm vụ
đưa những kẻ Thiên Chúa chọn đến đức tin và sự nhận biết chân lý phù hợp với
đạo thánh, 2 với niềm hy vọng được sự sống đời đời mà Thiên Chúa,
Đấng không hề nói dối đã hứa từ thuở đời đời. 3 Vào đúng thời đúng
buổi, Người đã biểu lộ lời Người trong lời rao giảng đã được giao phó cho tôi,
theo lệnh của Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta. 4 Tôi gửi lời thăm
anh Ti-tô, người con tôi thực sự sinh ra trong cùng một đức tin chung. Xin
Thiên Chúa là Cha và xin Đức Ki-tô Giê-su, Đấng cứu độ chúng ta, ban cho anh ân
sủng và bình an.
Đặt
các kỳ mục
5
Tôi
đã để anh ở lại đảo Cơ-rê-ta, chính là để anh hoàn thành công việc tổ chức, và
đặt những kỳ mục trong mỗi thành, như tôi đã truyền cho anh. 6 Kỳ
mục phải là người không chê trách được, chỉ có một đời vợ, con cái cũng tin đạo
và không mang tiếng là sống phóng đãng hay bất phục tùng. 7 Thật
vậy, giám quản, với tư cách là quản lý của Thiên Chúa, phải là người không chê
trách được, không ngạo mạn, không nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu
chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn; 8 trái lại, phải hiếu khách,
yêu chuộng điều thiện, chừng mực, công chính, thánh thiện, biết tự chủ; 9 người
ấy phải gắn bó với lời đáng tin cậy và đúng đạo lý, để vừa có khả năng dùng
giáo lý lành mạnh mà khuyên nhủ, vừa có khả năng bẻ lại những kẻ chống đối.
Chống
lại những người dạy giáo lý sai lạc
10
Thật
vậy, có nhiều kẻ bất phục tùng, nói năng rỗng tuếch, lường gạt, mà đa số là
những kẻ được cắt bì. 11 Cần phải khoá miệng họ lại. Hạng người đó
làm đảo lộn nhiều gia đình từ trên xuống dưới; vì lợi lộc thấp hèn, họ dạy
những điều không được phép. 12 Một người trong số đó, một ngôn sứ
của chính họ, đã nói: Người Cơ-rê-ta nói dối luôn, họ là thú dữ, ham ăn lại
lười. 13 Lời chứng đó là thật. Vì lý do ấy, anh hãy nghiêm khắc sửa
dạy họ, để họ có một đức tin lành mạnh, 14 không còn chú ý đến những
chuyện hoang đường của người Do-thái và những điều răn dạy của những con người
đã quay lưng lại với chân lý.
15
Mọi
sự đều trong sạch với những người trong sạch. Nhưng với những kẻ nhiễm uế và
không có đức tin, thì không có gì là trong sạch cả; trái lại, trí khôn và lương
tâm của họ đã bị nhiễm uế. 16 Họ tuyên bố là biết Thiên Chúa, nhưng
trong hành động họ lại chối Người. Họ là đồ ghê tởm, không vâng lời, và không
có khả năng làm việc gì tốt.
Chương 2
Bổn
phận của các hạng tín hữu
1
Phần
anh, hãy dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh. 2 Hãy khuyên
các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức
mến và đức nhẫn nại. 3 Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là
người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều
lành.
4
Như
vậy, họ sẽ dạy cho người vợ trẻ biết yêu chồng, thương con, 5 biết
sống chừng mực, trong sạch, chăm lo việc nhà, phục tùng chồng, để lời Thiên
Chúa khỏi bị người ta xúc phạm. 6 Anh cũng hãy khuyên các thanh niên
phải giữ chừng mực trong mọi sự. 7 Chính anh hãy làm gương về mặt
đức hạnh. Khi anh giảng dạy thì đạo lý phải tinh tuyền, thái độ phải đàng hoàng,
8 lời lẽ phải lành mạnh, không ai bắt bẻ được, khiến đối phương phải
bẽ mặt, vì không thể nói xấu chúng ta được điều gì. 9 Các nô lệ phải
phục tùng chủ mình trong mọi sự, làm đẹp lòng chủ và đừng cãi lại, 10 đừng
ăn cắp, nhưng tỏ lòng trung tín hoàn toàn; như vậy là họ làm cho đạo lý của
Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, được rạng rỡ mọi bề.
Nền
tảng thần học của những đòi hỏi trên
11
Quả
thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. 12
Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần
tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. 13 Sở
dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức
Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh
quang. 14 Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho
thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành
Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.
15
Đó
là những điều anh phải nói, phải khuyên, phải sửa dạy với tất cả uy quyền. Chớ
gì đừng có ai coi thường anh.
Chương 3
Bổn
phận chung của các tín hữu
1
Anh
hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các
người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, 2 và đừng chửi bới
ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi
người. 3 Thật vậy, cả chúng ta nữa, xưa kia chúng ta cũng ngu xuẩn,
không vâng lời, lầm lạc, làm nô lệ cho đủ thứ đam mê và khoái lạc, sống trong
gian ác và ganh tị, đáng ghét và ghen ghét lẫn nhau.
4
Nhưng
Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương
của Người đối với nhân loại. 5 Không phải vì tự sức mình chúng ta đã
làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu
chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. 6
Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức
Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng ta. 7 Như vậy, một khi nên công
chính nhờ ân sủng của Đức Ki-tô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như
chúng ta vẫn hy vọng.
Khuyên
riêng ông Ti-tô
8
Đó
là lời đáng tin cậy, và tôi muốn anh đặc biệt nhấn mạnh các điểm ấy, để những
kẻ đã đặt niềm tin vào Thiên Chúa ra sức trổi vượt về những việc tốt đẹp. Đó là
điều tốt đẹp và hữu ích cho người ta.
9
Còn
những cuộc tranh luận điên rồ, những chuyện gia phả, những vụ cãi cọ, xung đột
về Lề Luật, anh hãy tránh xa: những cái đó vô ích và rỗng tuếch. 10 Người
theo bè phái, thì sau khi cảnh cáo lần thứ nhất và lần thứ hai, anh hãy loại đi,
11 vì biết rằng một người như thế đã ra hư đốn, người ấy phạm tội và
tự kết án mình.
Dặn
dò. Lời chào và lời chúc cuối thư
12
Khi
nào tôi sai anh Ác-tê-ma hay anh Ty-khi-cô đến với anh, thì hãy liệu mau đến
với tôi ở Ni-cô-pô-li, vì tôi đã quyết định ở lại đó suốt mùa đông. 13 Anh
hãy lo tiễn đưa luật gia Dê-na và anh A-pô-lô cho chu đáo, đừng để họ phải
thiếu thốn gì. 14 Các anh em của chúng ta cũng phải học cho biết
trổi vượt về những việc tốt đẹp, để đáp ứng những nhu cầu cấp bách; như vậy họ
không phải là không sinh hoa kết quả.
15
Tất
cả những anh em ở với tôi gửi lời thăm anh. Xin gửi lời thăm các bạn hữu cùng
một đức tin như chúng ta. Chúc tất cả anh em được ân sủng.
Phi-lê-mon
Chương 1
Lời
chào thăm
1
Phao-lô,
kẻ bị tù vì Đức Ki-tô Giê-su, cùng với người anh em là Ti-mô-thê, gửi anh
Phi-lê-môn, cộng sự viên thân mến của chúng tôi, 2 cùng chị Áp-phi-a
và anh Ác-khíp-pô, chiến hữu của chúng tôi, đồng thời kính gửi Hội Thánh họp
tại nhà anh. 3 Chúc anh chị em được đầy tràn ân sủng và bình an của
Thiên Chúa, Cha chúng ta, và của Chúa Giê-su Ki-tô.
Tạ
ơn và cầu nguyện
4
Tôi
luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa, khi nhớ đến anh trong lời cầu nguyện, 5 bởi
được nghe nói về lòng mến và lòng tin của anh đối với Chúa Giê-su: lòng mến và
lòng tin ấy có ích cho mọi người trong dân thánh. 6 Chớ gì lòng tin
mà anh chia sẻ với chúng tôi trở nên hữu hiệu, giúp anh hiểu biết tất cả những
gì tốt chúng ta có thể làm để phục vụ Đức Ki-tô. 7 Thật thế, tôi rất
vui mừng và lấy làm an ủi, khi thấy đức bác ái của anh, bởi vì, thưa anh, anh
đã làm cho lòng trí các người trong dân thánh được phấn khởi.
Can
thiệp cho Ô-nê-xi-mô
8
Vì
thế, mặc dầu nhờ kết hợp với Đức Ki-tô, tôi có đủ mạnh dạn để truyền cho anh
làm điều anh phải làm. 9 Nhưng tôi thích kêu gọi lòng bác ái của anh
hơn, để xin anh làm điều đó. Tôi, Phao-lô, một người đã già và hơn nữa, một
người đang bị tù vì Đức Ki-tô Giê-su, 10 tôi van xin anh cho đứa con
của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ô-nê-xi-mô, 11
kẻ xưa kia đối với anh là vô dụng, thì nay đã thành người hữu ích cho cả
anh lẫn tôi, 12 tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó
như người ruột thịt của tôi. 13 Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại
với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng.
14 Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh,
kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tự nguyện. 15 Nó
đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, 16 không
phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một
người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng
thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. 17
Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón
nhận chính tôi. 18 Nếu nó đã làm thiệt hại anh hoặc mắc nợ anh điều
gì, thì xin để tôi nhận cả. . . 19 Chính tôi, Phao-lô, tự tay viết
điều này: tôi sẽ hoàn trả lại. Tôi khỏi cần nói với anh là anh còn mắc nợ tôi:
món nợ đó là chính anh. 20 Phải, thưa anh, xin anh cho tôi được
hưởng niềm vui đó trong Chúa. Anh hãy làm cho lòng trí tôi được phấn khởi trong
Đức Ki-tô. 21 Tôi viết thư này cho anh với niềm tin tưởng là anh sẽ
nghe theo. Tôi biết rằng anh sẽ còn làm hơn những gì tôi xin nữa.
Những
lời dặn dò, thăm hỏi
22
Đồng
thời, xin anh dọn cho tôi một chỗ ở, bởi vì tôi hy vọng là nhờ lời anh em cầu
nguyện, tôi sẽ được trở về với anh em.
23
Anh
Ê-páp-ra, người bạn tù với tôi trong Đức Ki-tô Giê-su, gửi lời chào anh, 24
cùng với các cộng sự viên của tôi là Mác-cô, A-rít-ta-khô, Đê-ma và
Lu-ca.
25
Cầu
chúc anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô. A-men.
Do Thái
Chương 1
LỜI
TỰA
Địa
vị cao trọng của Con Thiên Chúa làm người
1
Thuở
xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn
sứ; 2 nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta
qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng
thừa hưởng muôn vật muôn loài. 3 Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là
hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng
của mình mà duy trì vạn vật. Sau khi đã tẩy trừ tội lỗi, Người lên ngự bên hữu
Đấng Cao Cả trên trời. 4 Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn
danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu.
I.
CON THIÊN CHÚA CAO TRỌNG HƠN CÁC THIÊN THẦN
Bằng
chứng Kinh Thánh
5
Thật
vậy, có bao giờ Thiên Chúa đã phán cùng vị thiên thần nào: Con là Con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con hoặc là: Ta sẽ là Cha Người, và chính Người sẽ
là Con Ta. 6 Khi đưa Trưởng Tử vào thế giới loài người, Thiên Chúa
lại nói: Mọi thiên thần của Thiên Chúa, phải thờ lạy Người. 7 Về các
thiên thần, thì có lời chép: Người làm cho thiên thần của Người nên những luồng
gió, và thuộc hạ của Người thành những ngọn lửa. 8 Nhưng về Người
Con, thì Kinh Thánh lại nói: Lạy Thiên Chúa, ngôi báu Ngài sẽ trường tồn vạn
kỷ! Vương trượng Ngài, vương trượng công minh. 9 Ngài ưa điều chính
trực, ghét điều gian ác. Chính vì vậy, Thiên Chúa là Thiên Chúa của Ngài đã tôn
phong Ngài vượt trổi các đồng liêu, mà xức cho dầu thơm hoan lạc. 10 Và
có lời khác: Lạy Chúa, lúc khởi đầu, Chúa đã đặt nền trái đất, chính tay Ngài
tạo tác vòm trời. 11 Chúng tiêu tan, Chúa vẫn còn hoài; chúng đều sẽ
cũ đi như chiếc áo. 12 Chúa sẽ cuốn chúng lại như cuốn áo choàng,
chúng sẽ bị thay như người ta thay áo. Nhưng chính Chúa vẫn tiền hậu y nguyên,
và năm tháng của Ngài sẽ không chấm dứt. 13 Và có bao giờ Thiên Chúa
đã phán với một thiên thần nào rằng: Bên hữu Cha đây, Con lên ngự trị, để rồi
bao địch thù, Cha sẽ đặt làm bệ dưới chân Con? 14 Nào tất cả các vị đó không
phải là những bậc thiêng liêng chuyên lo phụng thờ Chúa, được sai đi phục vụ để
mưu ích cho những kẻ sẽ được thừa hưởng ơn cứu độ sao?
Chương 2
Lời
khuyên nhủ
1
Vì
thế, chúng ta càng phải chú tâm hơn nữa vào những lời đã nghe, kẻo bị cuốn trôi
đi mất. 2 Quả vậy, nếu lời được các thiên thần loan báo đã có hiệu
lực, và nếu mọi vi phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, 3 thì
làm sao chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ ơ với ơn cứu độ cao quý như thế?
Ơn cứu độ đó, đầu tiên đã được Chúa rao giảng, rồi được những kẻ nghe cho chúng
ta thấy là có hiệu lực, 4 đồng thời được Thiên Chúa chứng thực bằng
những dấu lạ điềm thiêng, bằng nhiều quyền năng khác nhau và bằng các ân huệ
của Thánh Thần mà Người phân phát tuỳ ý muốn của Người.
Đức
Ki-tô thực hiện công trình cứu chuộc, chứ không phải các thiên thần
5
Thật
vậy, Thiên Chúa đã không trao cho các thiên thần quyền làm chủ thế giới tương
lai, thế giới mà chúng ta đang nói đến. 6 Nhưng trong một đoạn Kinh
Thánh kia, có người đã làm chứng rằng: Phàm nhân là chi mà Chúa cần nhớ đến?
Con người là gì mà Chúa phải thăm nom? 7 Chúa đã làm cho con người thua kém các
thiên thần trong một thời gian ngắn, ban vinh quang, danh dự làm mũ triều thiên,
8 đặt muôn loài, muôn sự dưới chân con người, bắt chúng phải phục
quyền con người. Khi bắt muôn loài muôn sự phải phục quyền con người, Thiên
Chúa không để cho một sự gì không phục quyền con người. Thật ra, hiện nay chúng
ta chưa thấy muôn loài muôn sự phục quyền con người. 9 Nhưng con
người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, thì chúng ta lại
thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam
chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giê-su. Thật vậy, Đức Giê-su đã phải
nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa.
10
Quả
thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn
con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giê-su
trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn
cứu độ. 11 Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giê-su, và những ai được
thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em,
12 khi nói: Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả
được hay, và trong đại hội Dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương.
13
Người
lại nói: Phần tôi, tôi sẽ tin cậy Thiên Chúa. Người lại nói: Này tôi đây, cùng
với những con cái mà Thiên Chúa đã ban cho tôi.
14
Như
thế, vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giê-su đã cùng mang lấy
huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh
chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, 15 và đã giải thoát những ai vì
sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ. 16 Vì những kẻ được
Người giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu Áp-ra-ham. 17 Bởi
thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một
vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội
cho dân. 18 Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên
Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách.
Chương 3
II.
ĐỨC GIÊ-SU, VỊ THƯỢNG TẾ TRUNG THÀNH VÀ BIẾT CẢM THƯƠNG
Đức
Ki-tô cao trọng hơn ông Mô-sê
1
Do
đó, thưa anh em là những người trong dân thánh, những người được hưởng chung ơn
gọi bởi trời, anh em hãy ngắm nhìn Đức Giê-su là Sứ Giả, là Thượng Tế, là Trung
Gian cho chúng ta tuyên xưng đức tin. 2 Người trung thành với Đấng
đã đặt Người lên chức vụ đó, cũng như ông Mô-sê đã trung thành khi thi hành
chức vụ đối với toàn thể nhà Thiên Chúa. 3 Như người làm nhà đáng
tôn vinh hơn chính ngôi nhà, thì Đức Giê-su cũng được coi là đáng tôn vinh hơn
ông Mô-sê. 4 Quả thật, nhà nào cũng phải có người làm ra, và Đấng
làm ra mọi sự là Thiên Chúa. 5 Ông Mô-sê đã trung thành khi thi hành
chức vụ đối với toàn thể nhà Thiên Chúa, với tư cách là tôi tớ để làm chứng về
các điều Thiên Chúa sẽ phán truyền. 6 Còn Đức Ki-tô thì trung thành
với tư cách là người Con đứng đầu nhà Thiên Chúa. Mà nhà Thiên Chúa là chính
chúng ta, miễn là chúng ta giữ vững đến cùng lòng tin tưởng và thái độ hiên
ngang về niềm hy vọng của chúng ta.
Đức
tin dẫn vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa
7
Vì
thế, như lời Thánh Thần phán: Ngày hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, 8
thì chớ cứng lòng như hồi chúng nổi loạn, như ngày chúng thử thách Ta
trong sa mạc, 9 nơi cha ông các ngươi đã từng dò xét mà thử thách Ta
và đã thấy các việc Ta làm 10 suốt bốn mươi năm. Vì thế, Ta đã nổi giận với
dòng giống này, Ta đã nói: Tâm hồn chúng cứ lầm lạc mãi, chúng nào biết đến
đường lối của Ta. 11 Nên Ta mới thịnh nộ thề rằng: chúng sẽ không
được vào chốn yên nghỉ của Ta! 12 Thưa anh em, hãy đề phòng, đừng để người nào
trong anh em có lòng dạ xấu xa chối bỏ đức tin mà lìa xa Thiên Chúa hằng sống. 13
Trái lại, ngày ngày anh em hãy khuyên bảo nhau bao lâu còn được gọi là
ngày hôm nay, kẻo có ai trong anh em ra cứng lòng vì bị tội lỗi lừa gạt. 14
Quả thế, chúng ta đã được thông phần Đức Ki-tô, miễn là chúng ta cứ giữ
vững cho đến cùng căn bản của lòng tin đã có từ ban đầu. 15 Trong
câu: Ngày hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, thì chớ cứng lòng như hồi
chúng nổi loạn, 16 ai là những kẻ đã nghe tiếng Chúa, rồi nổi loạn?
Chẳng phải là những người đã được ông Mô-sê đưa ra khỏi Ai-cập sao? 17 Thiên
Chúa đã nổi giận với ai suốt bốn mươi năm? Chẳng phải là với những người đã
phạm tội và đã ngã gục, bỏ xác trong sa mạc sao? 18 Nhưng Người thề với ai: Sẽ
không được vào chốn yên nghỉ của Người, nếu không phải là với những kẻ bất
tuân? 19 Và chúng ta thấy rằng họ đã không thể vào được đó, bởi vì họ chối bỏ đức
tin.
Chương 4
1
Vậy
chúng ta phải sợ rằng trong khi lời hứa được vào chốn yên nghỉ của Người vẫn
còn đó, mà có ai trong anh em bị coi đã mất cơ hội. 2 Quả thế, chúng
ta đã được nghe loan báo Tin Mừng như những người kia. Nhưng lời họ đã nghe
không sinh ích gì cho họ, bởi vì những kẻ đã nghe không lấy đức tin đáp lại lời
giảng. 3 Còn chúng ta là những người tin, chúng ta đang vào chốn yên
nghỉ đó, như lời Thiên Chúa đã phán: Nên Ta mới thịnh nộ thề rằng: chúng sẽ
không được vào chốn yên nghỉ của Ta. Công việc của Thiên Chúa đã hoàn thành từ
tạo thiên lập địa, 4 như có chỗ Thiên Chúa phán về ngày thứ bảy
rằng: Khi đã làm xong mọi công việc, thì ngày thứ bảy Thiên Chúa nghỉ. 5 Trong
đoạn thánh vịnh nói trên, lại cũng có lời chép rằng: Chúng sẽ không được vào chốn
yên nghỉ của Ta. 6 Vậy vì phải có một số người được vào chốn yên
nghỉ, và vì những người đầu tiên được nghe loan báo Tin Mừng đã không được vào
bởi họ bất tuân, 7 nên Thiên Chúa lại ấn định một ngày khác, tức là
ngày hôm nay, khi Người dùng vua Đa-vít mà phán, sau một thời gian rất lâu dài,
như đã nói ở trên: Ngày hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, thì chớ cứng
lòng. 8 Thật vậy, nếu ông Giô-suê đã cho họ được yên nghỉ, thì sau
đó, Thiên Chúa đã chẳng nói đến một ngày khác nữa. 9 Như thế, Dân
Thiên Chúa còn có thể được nghỉ như Thiên Chúa nghỉ ngày thứ bảy, 10 vì
ai đã vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa, thì cũng đã nghỉ sau khi làm xong công
việc của mình, như Thiên Chúa đã nghỉ sau khi làm xong công việc của Người. 11
Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ này, kẻo có ai cũng theo
gương bất tuân đó mà sa ngã. 12 Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu
hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh,
cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. 13
Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất
cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.
Đức
Giê-su, vị Thượng Tế biết cảm thương
14
Chúng
ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giê-su, Con
Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. 15 Vị
Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu
hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng
không phạm tội. 16 Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên
Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.
Chương 5
1
Quả
vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên
làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng
lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. 2 Vị ấy có khả năng cảm thông với
những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối; 3
mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng
phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy. 4 Không ai tự gán cho
mình vinh dự ấy, nhưng phải được Thiên Chúa gọi, như ông A-ha-ron đã được gọi. 5
Cũng vậy, không phải Đức Ki-tô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là
Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, 6
như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo
phẩm trật Men-ki-xê-đê. 7 Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã
lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền
năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. 8 Dầu
là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là
vâng phục; 9 và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở
nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, 10 vì
Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê.
III.
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ, VỊ THƯỢNG TẾ ĐÍCH THỰC
Đời
sống Ki-tô hữu và vấn đề đạo lý
11
Về
vấn đề này, chúng tôi còn có nhiều điều phải nói, nhưng khó mà cắt nghĩa, vì
anh em đã trở nên uể oải không muốn nghe. 12 Quả thật, với thời
gian, đáng lẽ anh em đã phải là những bậc thầy, thế mà anh em lại cần phải để
cho người ta dạy anh em những điều sơ đẳng về các sấm ngôn của Thiên Chúa: thay
vì thức ăn đặc, anh em lại phải cần dùng sữa. 13 Thật vậy, phàm ai
còn phải dùng đến sữa, thì không hiểu gì về đạo lý liên quan đến sự công chính,
vì người ấy vẫn là trẻ con. 14 Thức ăn đặc thì dành cho những người
đã trưởng thành, những người nhờ thực hành mà rèn luyện được khả năng phân biệt
điều lành điều dữ.
Chương 6
Ý
định của tác giả
1
Vì
thế, gác một bên giáo huấn sơ đẳng về Đức Ki-tô, chúng ta hãy vươn tới trình độ
giáo huấn trưởng thành mà không trở lại những điều căn bản, là lòng sám hối ăn
năn vì những việc đưa tới sự chết, là niềm tin vào Thiên Chúa, 2 là
giáo lý về mấy loại phép rửa; là nghi thức đặt tay, là vấn đề kẻ chết sống lại
và cuộc phán xét cuối cùng. 3 Đó là điều chúng ta sắp làm, nếu Thiên
Chúa cho phép.
4
Quả
thật, những kẻ đã một lần được chiếu sáng, đã được nếm thử ân huệ bởi trời, đã
được thông chia Thánh Thần, 5 đã được thưởng thức Lời tốt đẹp của
Thiên Chúa và được cảm nghiệm những sức mạnh của thế giới tương lai, 6 những
kẻ ấy mà sa ngã, thì không thể được đổi mới một lần nữa để sám hối ăn năn, vì
họ đã tự tay đóng đinh Con Thiên Chúa vào thập giá một lần nữa và đã công khai
sỉ nhục Người. 7 Khi mảnh đất nào được thấm mưa thường xuyên đổ
xuống và sinh ra những loại cây có ích cho người canh tác, thì mảnh đất ấy nhận
được phúc lành của Thiên Chúa. 8 Nhưng nếu chỉ sinh ra những gai
cùng góc, thì đó là mảnh đất bỏ đi, bị nguyền rủa đến nơi rồi, và rốt cuộc sẽ
bị đốt cháy.
Lời
mang lại hy vọng và khích lệ
9
Anh
em thân mến, mặc dầu nói như thế, chúng tôi tin chắc rằng anh em ở trong một
tình trạng tốt đẹp hơn và thuận lợi để được ơn cứu độ. 10 Quả thế,
Thiên Chúa không bất công đến nỗi quên việc anh em đã làm và lòng yêu mến anh
em đã tỏ ra đối với danh Người, khi trước đấy anh em phục vụ các người trong
dân thánh, và hiện nay vẫn còn đang phục vụ. 11 Nhưng chúng tôi ao
ước cho mỗi người trong anh em cũng tỏ ra nhiệt thành như thế, để niềm hy vọng
của anh em được thực hiện đầy đủ cho đến cùng. 12 Anh em đừng trở
nên uể oải, nhưng hãy bắt chước những người nhờ có đức tin và lòng kiên nhẫn mà
được thừa hưởng các lời hứa.
13
Quả
thế, khi Thiên Chúa hứa với ông Áp-ra-ham, Người đã không thể lấy danh ai cao
trọng hơn mình mà thề, nên đã lấy chính danh mình mà thề 14 rằng: Ta sẽ ban
phúc dư dật cho ngươi và sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông vô số. 15 Như
thế, vì nhẫn nại đợi chờ, ông Áp-ra-ham đã nhận được lời hứa. 16 Người
ta thường lấy danh một người cao trọng hơn mình mà thề, và lời thề là một bảo
đảm chấm dứt mọi tranh chấp giữa người ta với nhau. 17 Do đó, vì
Thiên Chúa muốn chứng minh rõ hơn cho những người thừa hưởng lời hứa được biết
về ý định bất di bất dịch của Người, nên Người đã dùng lời thề mà bảo đảm điều
Người đã hứa. 18 Như vậy, cả lời hứa lẫn lời thề đều bất di bất
dịch, và khi thề hứa, Thiên Chúa không thể nói dối được. Do đó, chúng ta là
những kẻ ẩn náu bên Thiên Chúa, chúng ta được mạnh mẽ khuyến khích nắm giữ niềm
hy vọng dành cho chúng ta. 19 Chúng ta có niềm hy vọng đó cũng tựa
như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, chìm sâu vào bên trong bức màn
cung thánh. 20 Đó là nơi Đức Giê-su đã vào như người tiền phong mở
đường cho chúng ta, sau khi trở thành vị Thượng Tế đời đời theo phẩm trật
Men-ki-xê-đê.
Chương 7
1.
ĐỨC KI-TÔ CAO TRỌNG HƠN CÁC TƯ TẾ LÊ-VI
Ông
Men-ki-xê-đê
1
Quả
vậy, ông Men-ki-xê-đê là vua Sa-lem, là tư tế của Thiên Chúa Tối Cao, đã đón
gặp và chúc lành cho ông Áp-ra-ham, lúc ông này đang trên đường về sau khi đánh
bại các vua. 2 Ông Áp-ra-ham đã chia cho ông Men-ki-xê-đê một phần
mười chiến lợi phẩm. Trước hết, ông tên là Men-ki-xê-đê, nghĩa là “vua công
chính"; rồi ông lại là vua Sa-lem, nghĩa là “vua bình an". 3 Ông
không có cha, không có mẹ, không có gia phả, cuộc đời không có khởi đầu, cũng
không có kết thúc. Như thế là ông giống Con Thiên Chúa: mãi mãi ông vẫn là tư
tế.
Ông
Men-ki-xê-đê nhận một phần mười chiến lợi phẩm của ông Áp-ra-ham
4
Anh
em hãy coi xem: ông Men-ki-xê-đê cao trọng biết bao! Ông Áp-ra-ham là tổ phụ,
mà cũng đã dâng cho ông một phần mười chiến lợi phẩm tốt nhất. 5 Trong
hàng con cháu ông Lê-vi, những ai lãnh chức tư tế, thì theo Lề Luật, được lệnh
thu một phần mười hoa lợi của dân, tức là của anh em mình, mặc dù những người
này cũng từ lòng ông Áp-ra-ham mà sinh ra. 6 Còn ông Men-ki-xê-đê,
tuy không thuộc dòng tộc Lê-vi, lại thu một phần mười chiến lợi phẩm của ông
Áp-ra-ham và chúc lành cho ông là người đã nhận được lời hứa. 7 Điều
không ai chối cãi được là chỉ người dưới mới nhận lời chúc lành của người trên.
8 Hơn nữa, một đàng các tư tế Lê-vi thu một phần mười hoa lợi là
những người phàm phải chết; một đàng ông Men-ki-xê-đê, người thu một phần mười
chiến lợi phẩm, lại là nhân vật đang sống, như lời Kinh Thánh chứng nhận. 9
Có thể nói rằng: chính ông Lê-vi, người thu một phần mười hoa lợi, cũng
đã nộp một phần mười chiến lợi phẩm qua ông Áp-ra-ham, 10 vì ông còn
ở trong lòng ông tổ Áp-ra-ham, khi ông Men-ki-xê-đê ra đón gặp ông này.
Từ
chức tư tế Lê-vi đến chức tư tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê
11
Chức
vụ tư tế Lê-vi là nền tảng của Lề Luật Thiên Chúa đã ban cho Dân. Vậy giả như
người ta đạt được sự hoàn thiện nhờ chức vụ tư tế đó rồi, thì còn cần chi phải
đặt lên một tư tế khác theo phẩm trật Men-ki-xê-đê, thay vì theo phẩm trật
A-ha-ron? 12 Quả thế, một khi chức tư tế thay đổi, thì nhất thiết phải thay đổi
Lề Luật. 13 Thật ra những điều nói trên nhắm đến một người thuộc một
chi tộc khác, chi tộc này chưa hề có ai đã phục vụ bàn thờ. 14 Hiển
nhiên là Chúa chúng ta đã xuất thân từ chi tộc Giu-đa, một chi tộc không được
ông Mô-sê nói gì đến, khi bàn về các tư tế.
Bãi
bỏ Lề Luật cũ
15
Điều
ấy lại còn hiển nhiên hơn nữa, khi một vị tư tế khác tương tự như ông
Men-ki-xê-đê xuất hiện; 16 vị này đã trở nên tư tế không phải do Lề
Luật quy định việc cha truyền con nối, nhưng do sức mạnh của một đời sống bất
diệt. 17 Quả thật, có lời chứng nhận rằng: Muôn thuở, Con là Thượng
Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê. 18 Như vậy, một đàng, quy luật cũ đã
bị bãi bỏ, vì có nhược điểm và vô ích, 19-thật thế, Lề Luật đã chẳng làm cho
cái gì nên hoàn hảo-; đàng khác, một niềm hy vọng tốt đẹp hơn đã được đưa vào
thay thế, nhờ đó chúng ta đến gần Thiên Chúa.
Đức
Ki-tô là Thượng Tế đời đời
20
Hơn
nữa, điều ấy đã xảy ra không phải là không có lời thề. Một đàng, các tư tế
Lê-vi đã trở nên tư tế mà không có lời thề; 21 còn Đức Giê-su khi
trở nên tư tế, thì lại có lời thề của Đấng nói với Người: Đức Chúa đã thề ước,
Người sẽ chẳng rút lời, rằng: Muôn thuở, Con là Thượng Tế. 22 Do đó,
Đức Giê-su đã trở nên Đấng bảo đảm cho một giao ước tốt đẹp hơn. 23 Lại
nữa, trong dòng tộc Lê-vi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ
phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó. 24 Còn Đức Giê-su, chính vì
Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. 25 Do
đó, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần
Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ.
Vị
Thượng Tế thập toàn
26
Phải,
đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn
toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời. 27
Đức Giê-su không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy
sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người,
Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. 28 Vì Luật Mô-sê
thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có
sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời.
Chương 8
2.
PHỤNG TỰ, THÁNH ĐIỆN VÀ ĐỊA VỊ TRUNG GIAN CỦA ĐỨC KI-TÔ CAO TRỌNG HƠN
Chức
tư tế mới và thánh điện mới
1
Điểm
chủ yếu trong những điều đang nói ở đây là điểm này: chúng ta có một vị Thượng
Tế cao cả như thế ngự bên hữu ngai Đấng uy linh ở trên trời. 2 Vị đó
lo việc tế tự trong cung thánh, trong lều trại thật, do Thiên Chúa chứ không
phải do người phàm dựng lên. 3 Quả vậy, bất cứ ai được phong làm
thượng tế cũng là để dâng lễ vật và tế phẩm; vì thế, vị này cũng cần phải có
cái gì để dâng. 4 Vậy, giả như Đức Giê-su ở dưới thế, thì Người
chẳng phải là tư tế, bởi vì đã có những người dâng lễ vật như Luật truyền. 5
Những người này lo việc phụng tự trong một thánh điện, mà thánh điện này
chỉ là hình ảnh lu mờ mô phỏng thánh điện trên trời. Quả vậy, khi ông Mô-sê sắp
dựng lều trại, thì ông được Thiên Chúa phán dạy rằng: Hãy nhìn xem và làm tất
cả theo mẫu đã chỉ cho ngươi trên núi.
Đức
Ki-tô, trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn
6
Nhưng
hiện nay, Đức Giê-su được một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian
của một giao ước tốt đẹp hơn; giao ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn.
7 Thật vậy, giả như giao ước thứ nhất đã hoàn hảo rồi, thì chẳng cần
phải tìm giao ước thứ hai để thay thế. 8 Quả thật, Thiên Chúa khiển
trách Dân rằng: Đức Chúa phán: Này sắp đến những ngày Ta hoàn thành một Giao
Ước Mới với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa. 9 Giao ước đó sẽ không như
giao ước Ta đã thiết lập với cha ông của chúng, trong ngày Ta cầm tay dẫn chúng
ra khỏi Ai-cập. Bởi vì chúng đã không trung thành với giao ước của Ta, nên Ta
cũng đã bỏ mặc chúng, Đức Chúa phán: 10 Đây là giao ước Ta sẽ lập
với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó, Đức Chúa phán: Ta sẽ ghi vào lòng trí
chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của Ta; Ta sẽ là Thiên Chúa của
chúng, còn chúng sẽ là Dân của Ta. 11 Không ai còn phải dạy đồng bào
mình, không ai còn phải dạy anh em mình rằng: ”Hãy học cho biết Đức Chúa",
vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. 12 Ta sẽ
dung thứ những điều gian ác chúng làm, sẽ không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng
nữa.
13
Khi
Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra giao
ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi thời, thì sắp tan biến đi.
Chương 9
Đức
Ki-tô tiến vào thánh điện trên trời
1
Vậy,
giao ước thứ nhất đã có những quy luật phụng tự và có thánh điện dưới đất. 2
Quả thật, một cái lều, cái lều thứ nhất, đã được dựng lên; lều này được
gọi là Nơi Thánh, có cây đèn bảy ngọn, có bàn và bánh dâng tiến. 3 Đằng
sau bức màn thứ hai, có một cái lều gọi là Nơi Cực Thánh. 4 Trong
đó, có hương án bằng vàng và Hòm Bia Giao Ước hoàn toàn bọc vàng; Hòm Bia này
chứa bình vàng đựng man-na, cây gậy trổ hoa của ông A-ha-ron và các tấm bia
Giao Ước. 5 Trên Hòm Bia, có hai tượng kê-ru-bim rạng ngời vinh
quang Thiên Chúa, dang cánh che phủ nắp xá tội. Bây giờ không phải là lúc nói
tỉ mỉ về các điều đó.
6
Mọi
sự xếp đặt như thế rồi, các tư tế thường xuyên vào lều thứ nhất để cử hành việc
phụng tự. 7 Còn lều thứ hai, thì chỉ một mình vị thượng tế mới được
vào mỗi năm một lần, đem theo máu để dâng làm của lễ đền tội cho chính mình và
cho dân. 8 Như thế, Thánh Thần tỏ cho biết là lối vào Nơi Cực Thánh
chưa được mở, bao lâu lều thứ nhất vẫn còn đó. 9 Điều ấy là hình ảnh
ám chỉ thời hiện tại, cho thấy những lễ vật và hy lễ dâng tiến Thiên Chúa không
thể làm cho lương tâm người cử hành việc phụng tự trở nên hoàn thiện. 10 Những
cái đó chỉ liên quan đến của ăn thức uống cùng các loại nghi thức tẩy rửa, và
là những quy luật chỉ có hiệu lực bên ngoài, buộc phải giữ cho đến thời Thiên
Chúa chấn chỉnh mọi sự.
11
Nhưng
Đức Ki-tô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai. Để vào cung
thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo hơn, không do bàn tay
con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo này. 12 Người
đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu
của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn
cho chúng ta. 13 Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của
xác bò cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là
cho thân xác họ trở nên trong sạch, 14 thì máu của Đức Ki-tô càng
hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến
tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm
chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên
Chúa hằng sống.
Đức
Ki-tô lấy máu mình lập Giao Ước Mới
15
Bởi
vậy, Người là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc
tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được
Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa. 16
Ở đâu có chúc thư, thì cần phải chứng minh rằng người làm chúc thư đã
chết. 17 Thật vậy, chúc thư chỉ có giá trị khi người làm chúc thư đã
chết, bởi vì chúc thư không bao giờ có hiệu lực bao lâu người làm chúc thư còn
sống. 18 Do đó, nếu không có máu, thì đã không khai mạc giao ước thứ
nhất. 19 Quả thế, sau khi ông Mô-sê công bố cho toàn dân mọi điều
răn như đã ghi chép trong Sách Luật, thì ông lấy máu các con bê, con dê hoà lẫn
với nước, rồi dùng len đỏ thắm và cành hương thảo mà rảy trên chính cuốn Sách
Luật cũng như trên toàn dân và 20 nói: Đây là máu giao ước, Thiên Chúa đã
truyền cho anh em tuân giữ. 21 Rồi, cũng theo cách thức đó, ông rảy
máu vào lều thánh và mọi đồ phụng tự. 22 Chiếu theo Lề Luật, hầu hết
mọi sự đều được thanh tẩy bằng máu. Không có máu đổ ra, thì không có ơn tha thứ.
23 Vậy, nếu các hình ảnh mô phỏng những thực tại trên trời còn cần
phải được thanh tẩy như thế, thì chính những thực tại trên trời đó lại càng
phải được thanh tẩy bằng những hy lễ cao trọng hơn biết mấy. 24 Quả
thế, Đức Ki-tô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung
thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Người đã vào chính cõi
trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta. 25 Người
vào đó, không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị thượng tế
mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh. 26 Chẳng
vậy, Người đã phải chịu khổ hình nhiều lần, từ khi thế giới được tạo thành.
Nhưng nay, vào kỳ kết thúc thời gian, Người đã xuất hiện chỉ một lần, để tiêu
diệt tội lỗi bằng việc hiến tế chính mình. 27 Phận con người là phải
chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét. 28 Cũng vậy, Đức Ki-tô đã tự
hiến tế chỉ một lần, để xoá bỏ tội lỗi muôn người. Người sẽ xuất hiện lần thứ
hai, nhưng lần này không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà để cứu độ những ai trông
đợi Người.
Chương 10
TÓM
LƯỢC: HY LỄ CỦA ĐỨC KI-TÔ CAO TRỌNG HƠN HY LỄ THEO LuẬT MÔ-SÊ
Hy
lễ theo luật cũ thì vô hiệu
1
Lề
Luật chỉ phác hoạ lờ mờ những phúc lộc của thế giới tương lai, chứ không phản
ánh chính xác những thực tại đó. Cho nên, Lề Luật không bao giờ có thể làm cho
những người tiến lại gần Thiên Chúa được nên hoàn thiện, nhờ những ngần ấy thứ
hy lễ người ta cứ dâng mãi năm này qua năm khác. 2 Chẳng vậy, người
ta đã thôi không còn dâng hy lễ, vì giả như những kẻ làm việc thờ phượng đã
được thanh tẩy dứt khoát rồi, thì họ đâu còn ý thức mình có tội nữa? 3 Trái lại,
năm này qua năm khác, chính những hy lễ đó nhắc cho người ta nhớ mình có tội. 4
Thật thế, máu các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. 5 Vì
vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng
đã tạo cho con một thân thể. 6 Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu
và lễ xá tội. 7 Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây,
con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.
8
Trước
hết, Đức Ki-tô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng
ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật
truyền. 9 Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài.
Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới. 10 Theo ý
đó, chúng ta được thánh hoá nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ
tế, chỉ một lần là đủ.
Hy
lễ của Đức Ki-tô thì hữu hiệu
11
Vị
tư tế nào cũng phải đứng trong Đền Thờ lo việc phụng tự mỗi ngày và dâng đi
dâng lại cũng ngần ấy thứ lễ tế; mà những lễ tế đó chẳng bao giờ xoá bỏ được
tội lỗi. 12 Còn Đức Ki-tô, sau khi dâng lễ tế duy nhất để đền tội
cho nhân loại, Người đã lên ngự bên hữu Thiên Chúa đến muôn đời. 13 Và
từ khi đó, Người chờ đợi ngày các kẻ thù bị đặt làm bệ dưới chân. 14 Quả
thật, Người chỉ dâng hiến lễ một lần, mà vĩnh viễn làm cho những kẻ Người đã
thánh hoá được nên hoàn hảo. 15 Điều đó cả Thánh Thần cũng làm chứng
cho chúng ta thấy. Quả thật, sau khi phán: 16 Đây là giao ước Ta sẽ
lập với chúng sau những ngày đó, thì Đức Chúa phán: Ta sẽ ghi vào tâm khảm
chúng, sẽ khắc vào lòng trí chúng lề luật của Ta. 17 Ta sẽ không còn
nhớ đến lỗi lầm và việc gian ác của chúng nữa. 18 Mà nơi nào đã có
ơn tha tội, thì đâu cần lễ đền tội nữa.
IV.
ĐỨC TIN KIÊN TRÌ
Chuyển
tiếp
19
Vậy,
thưa anh em, nhờ máu Đức Giê-su đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung
thánh. 20 Người đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động
qua bức màn, tức là chính thân xác của Người. 21 Chúng ta lại có một
vị tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa. 22 Vì thế, chúng ta hãy
tiến lại gần Thiên Chúa với một lòng chân thành và một đức tin trọn vẹn, vì
trong lòng thì đã được tẩy sạch mọi vết nhơ của lương tâm, còn ngoài xác thì đã
được tắm rửa bằng nước tinh tuyền. 23 Chúng ta hãy tiếp tục tuyên
xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín.
24 Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người
kia sống yêu thương và làm những việc tốt. 25 Chúng ta đừng bỏ các
buổi hội họp, như vài người quen làm; trái lại, phải khuyến khích nhau, nhất là
khi anh em thấy Ngày Chúa đến đã gần.
Nguy
cơ chối đạo
26
Thật
vậy, nếu chúng ta cố tình phạm tội sau khi đã học biết sự thật, thì không còn
hy lễ nào đền tội được nữa, 27 mà chỉ còn phải sợ hãi đợi chờ cuộc
phán xét và ngọn lửa nóng bừng thiêu huỷ các đối tượng của Thiên Chúa. 28 Ai
khinh thường luật Mô-sê, theo lời chứng của hai hay ba người, thì sẽ bị xử tử
thẳng tay. 29 Phương chi kẻ đã chà đạp Con Thiên Chúa, đã xúc phạm
đến Máu Giao Ước đã thánh hiến mình và nhục mạ Thần Khí ban ân sủng, thì anh em
thử nghĩ xem, kẻ ấy đáng chịu hình phạt ghê gớm hơn biết mấy! 30 Vì chúng ta
biết Đấng đã nói: Chính Ta sẽ báo oán, chính Ta sẽ đáp trả. Lại có lời rằng:
Chúa sẽ xét xử Dân Người. 31 Thật là khủng khiếp, khi phải rơi vào
tay Thiên Chúa hằng sống!
Lý
do để kiên trì
32
Xin
anh em nhớ lại những ngày đầu: lúc vừa được ơn chiếu sáng, anh em đã phải đối
phó với bao nỗi đau khổ dồn dập. 33 Khi thì anh em bị sỉ nhục và
hành hạ trước mặt mọi người, khi thì phải liên đới với những người cùng cảnh
ngộ. 34 Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người bị tù
tội, và đã vui mừng để cho người ta tước đoạt của cải, bởi biết rằng mình có
những của vừa quý giá hơn lại vừa bền vững. 35 Vậy, anh em đừng đánh
mất lòng tin tưởng mạnh dạn của anh em; lòng tin tưởng đó sẽ mang lại một phần
thưởng lớn lao. 36 Anh em cần phải kiên nhẫn, để sau khi thi hành ý
Thiên Chúa, anh em được hưởng điều Người đã hứa. 37 Vì chỉ còn ít
lâu nữa, một ít thôi, Đấng phải đến sẽ đến, Người sẽ không trì hoãn. 38 Người
công chính của Ta nhờ lòng tin sẽ được sống; nhưng nếu người ấy bỏ cuộc, thì Ta
không hài lòng về người ấy.
39
Phần
chúng ta, chúng ta không phải là những người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là
những người có lòng tin để bảo toàn sự sống.
Chương 11
Đức
tin gương mẫu của các tổ phụ
1
Đức
tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không
thấy. 2 Nhờ đức tin ấy, các tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng giám.
3
Nhờ
đức tin, chúng ta hiểu rằng vũ trụ đã được hình thành bởi lời của Thiên Chúa;
vì thế, những cái hữu hình là do những cái vô hình mà có. 4 Nhờ đức
tin, ông A-ben đã dâng lên Thiên Chúa một hy lễ cao quý hơn hy lễ của ông
Ca-in: nhờ tin như vậy, ông A-ben đã được chứng nhận là người công chính, bởi
vì Thiên Chúa đã chấp nhận những lễ phẩm ông dâng. Và cũng nhờ tin như thế, mà tuy
đã chết rồi, ông vẫn còn lên tiếng.
5
Nhờ
đức tin, ông Kha-nốc được đem đi nơi khác để khỏi chết, và người ta không tìm
thấy ông nữa, bởi vì Thiên Chúa đã đem ông đi. Quả thật, Kinh Thánh chứng nhận
rằng: trước khi được đem đi, ông đã làm đẹp lòng Thiên Chúa. 6 Mà
không có đức tin, thì không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa, vì ai đến gần Thiên
Chúa, thì phải tin là có Thiên Chúa và tin Người là Đấng ban phần thưởng cho
những ai tìm kiếm Người.
7
Nhờ
đức tin, ông Nô-ê được Thiên Chúa báo cho biết những gì người ta chưa thấy; vì
có lòng kính sợ Thiên Chúa, ông đã đóng một chiếc tàu để cứu gia đình ông. Tin
như thế là ông đã lên án thế gian, và được phần gia nghiệp là sự công chính nhờ
đức tin.
8
Nhờ
đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ
được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. 9
Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông
sống trong lều cũng như ông I-xa-ác và ông Gia-cóp là những người đồng thừa kế
cũng một lời hứa, 10 vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính
Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. 11 Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm
muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà
tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín. 12 Vì thế, do một người duy
nhất, một người kể như chết rồi mà đã sinh ra một dòng dõi nhiều như sao trời
cát biển, không tài nào đếm được. 13 Tất cả các ngài đã chết, lúc
vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa; nhưng từ
xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là
lữ khách trên mặt đất. 14 Những người nói như vậy cho thấy là họ
đang đi tìm một quê hương. 15 Và nếu quả thật họ còn nhớ tới quê
hương mình đã bỏ ra đi, thì họ vẫn có cơ hội trở về. 16 Nhưng thực
ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi
vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các
ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài.
17
Nhờ
đức tin, khi bị thử thách, ông Áp-ra-ham đã hiến tế I-xa-ác; dù đã nhận được
lời hứa, ông vẫn hiến tế người con một. 18 Về người con này, Thiên
Chúa đã phán bảo: Chính do I-xa-ác mà sẽ có một dòng dõi mang tên ngươi. 19
Quả thật, ông Áp-ra-ham nghĩ rằng Thiên Chúa có quyền năng cho người chết
trỗi dậy. Rốt cuộc, ông đã nhận lại người con ấy như là một biểu tượng.
20
Nhờ
đức tin, khi nhìn về tương lai, ông I-xa-ác đã chúc phúc cho Gia-cóp và Ê-xau. 21
Nhờ đức tin, ông Gia-cóp, khi sắp chết, đã chúc phúc cho mỗi người con
ông Giu-se; ông dựa vào đầu gậy, cúi mình xuống sụp lạy. 22 Nhờ đức
tin, ông Giu-se, khi sắp lìa đời, đã nhắc lại cuộc xuất hành của con cái
Ít-ra-en và ra chỉ thị liên quan đến hài cốt của ông.
23
Nhờ
đức tin, lúc chào đời, ông Mô-sê đã được cha mẹ giấu đi ba tháng, bởi vì ông bà
thấy đứa trẻ khôi ngô, và không sợ sắc chỉ nhà vua. 24 Nhờ đức tin,
ông Mô-sê, khi lớn lên đã từ chối không chịu cho người ta gọi là con của công
chúa Pha-ra-ô; 25 ông thà cùng chịu ngược đãi với Dân Thiên Chúa còn
hơn là được hưởng cái sung sướng chóng qua do tội lỗi mang lại; 26 ông
coi sự ô nhục của người được xức dầu là của cải quý báu hơn các kho tàng của
người Ai-cập, vì mắt ông vẫn đăm đăm nhìn phần thưởng mai sau. 27 Nhờ
đức tin, ông bỏ Ai-cập mà không sợ cơn thịnh nộ của nhà vua; ông vững vàng không
nao núng, như thể xem thấy Đấng vô hình. 28 Nhờ đức tin, ông đã cử
hành lễ Vượt Qua và rảy máu để Thần tiêu diệt khỏi đụng đến các con đầu lòng. 29
Nhờ đức tin, người Do-thái đã băng qua Biển Đỏ như đi trên đất khô, còn
người Ai-cập lại bị chết chìm trong khi tìm cách rượt theo.
30
Nhờ
đức tin, tường thành Giê-ri-khô đã sụp đổ, sau khi dân Ít-ra-en đi vòng quanh
trong bảy ngày. 31 Nhờ đức tin, cô kỹ nữ Ra-kháp đã không phải chết
cùng với quân phản nghịch, vì cô đã hoà nhã tiếp đón những người do thám.
32
Tôi
còn phải nói gì nữa đây? Tôi sợ không có đủ thời giờ để kể truyện các ông
Ghít-ôn, Ba-rắc, Sam-sôn, Gíp-tác, Đa-vít, Sa-mu-en và các ngôn sứ. 33 Nhờ
đức tin, các vị này đã chinh phục các nước, thực hành công lý, đạt được những
gì Thiên Chúa đã hứa; các ngài đã khoá miệng sư tử, 34 dập tắt lửa
hồng mãnh liệt, thoát khỏi lưỡi gươm. Các ngài đã lướt thắng bệnh tật mà trở
nên mạnh mẽ, đã tỏ ra dũng cảm tại chiến trường, và đẩy lui được quân ngoại xâm.
35 Có những phụ nữ đã thấy thân phận mình chết nay sống lại. Có
những người bị tra tấn mà không muốn được giải thoát, để được hưởng một sự sống
lại tốt đẹp hơn. 36 Có những người phải chịu nhạo cười và roi vọt,
hơn nữa còn bị xiềng xích và bỏ tù; 37 họ bị ném đá, bị cưa đôi, bị
chết vì gươm; họ phải lưu lạc, mặc áo da cừu da dê, chịu thiếu thốn, bị áp bức
và hành hạ. 38 Thế gian chẳng xứng với họ! Họ đi lang thang trong
hoang địa, trên núi đồi, trong hang hốc và hầm hố. 39 Nhờ đức tin,
tất cả các nhân vật đó đã được chứng giám, thế mà họ không đạt được những điều
Thiên Chúa đã hứa. 40 Quả thật, Thiên Chúa đã trù liệu cho chúng ta
một phần phúc tốt hơn, nên không muốn cho họ đạt tới hạnh phúc trọn vẹn mà
không có chúng ta.
Chương 12
Gương
sáng của Đức Ki-tô
1
Như
thế, phần chúng ta, được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh,
chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên
trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, 2 mắt hướng về Đức Giê-su là
Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho
mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên
hữu ngai Thiên Chúa. 3 Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho
những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí. 4
Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức
đổ máu đâu.
Thiên
Chúa lấy tình cha mà giáo dục
5
Anh
em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi,
đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. 6 Vì
Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho
roi cho vọt. 7 Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người
đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người
cha không sửa dạy? 8 Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì
khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. 9 Vả
lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta
lại càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. 10 Cha trần thế
sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình; còn Thiên
Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta, để chúng ta được thông phần vào sự
thánh thiện của Người. 11 Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm
vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như
thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính. 12 Bởi vậy, hãy
làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ. 13 Hãy
sửa đường cho thẳng mà đi, để người què khỏi trật bước và hơn nữa, còn được
chữa lành.
Trừng
phạt tội bất trung
14
Anh
em phải cố ăn ở hoà thuận với mọi người, phải gắng trở nên thánh thiện; vì
không có sự thánh thiện, thì không ai sẽ được thấy Chúa. 15 Anh em
phải coi chừng, kẻo có ai lừng khừng mà mất ân sủng của Thiên Chúa, kẻo có ai
trở nên rễ đắng nảy mầm, gây xáo trộn và do đó làm hư hỏng nhiều người. 16
Đừng có ai gian dâm hoặc phàm tục như Ê-xau, kẻ đã vì một món ăn mà bán
quyền trưởng nam. 17 Anh em quá biết: sau này, cho dù muốn được thừa
hưởng lời chúc phúc, anh ta cũng không thể làm thay đổi tình thế, mặc dù đã
khóc lóc van xin.
Hai
giao ước
18
Anh
em đã chẳng tới một quả núi sờ thấy được, có lửa đang cháy, mây mù, bóng tối và
giông tố, 19 có tiếng kèn vang dậy, và tiếng nói thét gầm, khiến
những kẻ nghe phải van xin đừng để lời ấy thốt ra với họ nữa, 20 vì
họ không chịu nổi mệnh lệnh sau đây: Ngay cả thú vật đụng đến núi, cũng phải bị
ném đá. 21 Cảnh tượng hãi hùng đến mức ông Mô-sê phải nói: Tôi kinh
hoàng và run rẩy! 22 Nhưng anh em đã tới núi Xi-on, tới thành đô Thiên Chúa
hằng sống, là Giê-ru-sa-lem trên trời, với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã
tới dự hội vui, 23 dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa,
là những kẻ đã được ghi tên trên trời. Anh em đã tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét
xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện. 24
Anh em đã tới cùng vị Trung Gian giao ước mới là Đức Giê-su và được máu
của Người rảy xuống, máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu A-ben. 25
Anh em phải coi chừng, chớ từ chối không nghe Đấng phán dạy. Quả thật,
những ai từ chối không nghe Đấng tuyên sấm ở dưới đất đã không thoát khỏi hình
phạt; huống hồ là chúng ta, làm sao chúng ta thoát được, nếu chúng ta quay lưng
lại không chịu nghe Đấng tuyên sấm từ trời! 26 Xưa tiếng Người phán đã làm cho
đất rung chuyển, thì nay Người lại đưa ra lời hứa sau đây: Một lần nữa, Ta sẽ
lay chuyển không những trái đất, mà cả các tầng trời! 27 Những tiếng một lần
nữa cho thấy rằng những sự vật bị rung chuyển sẽ phải thay đổi, bởi vì đã được
làm ra, để những gì không bị rung chuyển được tồn tại. 28 Cho nên,
bởi vì chúng ta được lãnh nhận một vương quốc vững bền không lay chuyển, chúng
ta phải biết ơn Thiên Chúa. Với lòng biết ơn đó, chúng ta hãy kính sợ mà phụng
thờ Thiên Chúa cho đẹp lòng Người. 29 Quả thật, Thiên Chúa chúng ta
là một ngọn lửa thiêu.
Chương 13
DẶN
BẢO THÊM
Lời
nhắn nhủ cuối cùng
1
Anh
em hãy giữ mãi tình huynh đệ. 2 Anh em đừng quên tỏ lòng hiếu khách,
vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên thần mà không biết. 3
Anh em hãy nhớ đến các người bị xiềng xích, chẳng khác gì anh em cũng bị
xiềng xích với họ; anh em hãy nhớ đến những người bị hành hạ, chẳng khác gì
mình với họ chỉ là một thân thể. 4 Ai nấy phải tôn trọng hôn nhân,
chớ làm cho loan phòng ra ô uế, vì Thiên Chúa sẽ xét xử các kẻ gian dâm và
ngoại tình. 5 Trong cách ăn nết ở, anh em đừng có ham tiền, hãy coi
những gì mình đang có là đủ, vì Thiên Chúa đã phán: Ta sẽ không bỏ rơi ngươi,
Ta sẽ không ruồng bỏ ngươi!, 6 đến nỗi chúng ta có thể tin tưởng mà
nói: Có Chúa ở cùng tôi mà bênh đỡ, tôi chẳng sợ gì. Hỏi người đời làm chi tôi
được?
Về
lòng trung thành
7
Anh
em hãy nhớ đến những người lãnh đạo đã giảng lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem
cuộc đời họ kết thúc thế nào mà noi theo lòng tin của họ. 8 Đức
Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.
9 Đừng để cho đủ thứ học thuyết xa lạ mê hoặc anh em. Điều tốt là
củng cố tâm hồn bằng ân sủng, chứ không phải bằng đồ ăn thức uống, là những thứ
chẳng sinh ích gì cho những người giữ luật Mô-sê về chuyện ăn uống. 10 Chúng
ta có một bàn thờ; những gì dâng trên đó, các người lo việc phụng tự trong Lều
không có quyền ăn. 11 Vị thượng tế mang máu thú vật vào cung thánh
để dâng làm của lễ đền tội; nhưng thây các thú vật đó đều bị thiêu ở ngoài trại.
12 Vì thế, Đức Giê-su đã chịu khổ hình ngoài cửa thành, lấy máu mình
mà thánh hoá toàn dân. 13 Vậy ta hãy ra khỏi trại mà đến với Người,
cam lòng gánh vác nỗi khổ nhục Người đã chịu. 14 Vì trên đời này,
chúng ta không có thành trì bền vững, nhưng đang tìm kiếm thành trì tương lai. 15
Vậy nhờ Người, chúng ta hãy luôn luôn dùng lời ngợi khen làm lễ tế dâng
lên Thiên Chúa, tức là dùng miệng lưỡi mà ca tụng Danh Thánh. 16 Anh
em chớ quên làm việc từ thiện, giúp đỡ lẫn nhau, vì Thiên Chúa ưa thích những
hy lễ như thế.
Vâng
phục các vị lãnh đạo tinh thần
17
Anh
em hãy vâng lời những người lãnh đạo anh em và hãy phục tùng họ, vì họ chăm sóc
linh hồn anh em như những người sẽ phải trả lẽ với Thiên Chúa. Như thế, họ sẽ
vui vẻ thi hành phận sự của mình mà không than thở, bởi vì điều đó chẳng ích gì
cho anh em. 18 Xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi. Chúng tôi tin
rằng chúng tôi có lương tâm ngay lành, muốn ăn ở tốt trong mọi hoàn cảnh. 19
Tôi tha thiết khuyên anh em làm như thế, để tôi được sớm trở về với anh
em.
Tin
tức. Lời chào cuối thư
20
Thiên
Chúa là nguồn mạch bình an đã đưa Đức Giê-su, Chúa chúng ta ra khỏi cái chết.
Đức Giê-su là vị Mục Tử cao cả của đoàn chiên, là Đấng đã đổ máu mình ra để
thiết lập giao ước vĩnh cửu. 21 Xin Thiên Chúa ban cho anh em mọi ơn
lành để có sức thi hành thánh ý Người. Xin Người thực hiện nơi anh em điều đẹp
lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. Kính dâng Đức Ki-tô vinh quang đến muôn thuở
muôn đời. A-men.
22
Thưa
anh em, tôi xin anh em chịu khó nghe lời khuyên này. Vả lại, tôi chỉ viết cho
anh em vắn tắt thôi. 23 Xin báo cho anh em biết: Ti-mô-thê, người
anh em của chúng ta, đã được thả rồi. Nếu anh ấy đến đây sớm, thì tôi sẽ cùng
với anh đến gặp anh em. 24 Xin gửi lời chào các vị lãnh đạo anh em
và mọi người trong dân thánh. Những người từ I-ta-li-a gửi lời chào anh em. 25
Chúc tất cả anh em được đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa!
Gia-cô-bê
Chương 1
Lời
chào thăm
1
Tôi
là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô, kính gửi mười hai
chi tộc đang sống tản mác khắp nơi. Chúc anh em được an vui mạnh khoẻ!
Ích
lợi của thử thách
2
Thưa
anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách
trăm chiều. 3 Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới
sinh ra lòng kiên nhẫn. 4 Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó
ra bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách,
không thiếu sót điều gì.
Cầu
xin với lòng tin
5
Nếu
ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan, thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban
cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách. 6 Nhưng
người ấy phải cầu xin với lòng tin không chút do dự, vì kẻ do dự thì giống như
sóng biển bị gió đẩy lên vật xuống. 7 Người ấy đừng tưởng mình sẽ
nhận được cái gì của Chúa: 8 họ là kẻ hai lòng, hay thay đổi trong
mọi việc họ làm.
Số
phận người giàu
9
Người
anh em phận hèn hãy tự hào khi được Chúa nâng lên; 10 còn người giàu
có hãy tự hào khi bị Chúa hạ xuống, vì họ sẽ qua đi như hoa cỏ. 11 Quả
thế, mặt trời mọc lên toả ra sức nóng làm cho cỏ khô, khiến hoa rụng xuống, vẻ
đẹp tiêu tan. Người giàu có cũng sẽ héo tàn như vậy trong các việc họ làm.
Thử
thách
12
Phúc
thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện,
họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người.
13
Khi
bị cám dỗ, đừng ai nói: ”Tôi bị Thiên Chúa cám dỗ", vì Thiên Chúa không
thể bị cám dỗ làm điều xấu, và chính Người cũng không cám dỗ ai. 14 Nhưng
mỗi người có bị cám dỗ, là do dục vọng của mình lôi cuốn và dùng mồi mà bắt. 15
Rồi một khi dục vọng đã cưu mang thì đẻ ra tội; còn tội khi đã phạm rồi,
thì sinh ra cái chết.
Lãnh
nhận và thực hành Lời Chúa
16
Anh
em thân mến của tôi, anh em đừng có lầm lẫn. 17 Mọi ơn lành và mọi
phúc lộc hoàn hảo đều do từ trên, đều tuôn xuống từ Cha là Đấng dựng nên muôn
tinh tú; nơi Người không hề có sự thay đổi, cũng không hề có sự chuyển vần khi
tối khi sáng. 18 Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta,
để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người.
19
Anh
em thân mến của tôi, anh em nên biết rằng: mỗi người phải mau nghe, đừng vội
nói, và khoan giận, 20 vì khi nóng giận, con người không thực thi
đường lối công chính của Thiên Chúa. 21 Vì vậy, anh em hãy giũ sạch
mọi điều ô uế và mọi thứ độc ác còn lan tràn; hãy khiêm tốn đón nhận lời đã
được gieo vào lòng anh em; lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em.
22
Anh
em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. 23
Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì giống như người
soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. 24 Người ấy soi gương
rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào. 25 Ai thiết tha và
trung thành tuân giữ luật trọn hảo-luật mang lại tự do-, ai thi hành luật Chúa,
chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm.
26
Ai
cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ
là thứ đạo đức hão. 27 Có lòng đạo đức tinh tuyền và không tỳ ố
trước mặt Thiên Chúa Cha, là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và
giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian.
Chương 2
Phải
kính trọng người nghèo
1
Thưa
anh em, anh em đã tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang,
thì đừng đối xử thiên tư. 2 Quả vậy, giả như có một người bước vào
nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người
nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, 3 mà anh em kính cẩn nhìn
người ăn mặc lộng lẫy và nói: ”Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này", còn
với người nghèo, anh em lại nói: ”Đứng đó!” hoặc: ”Ngồi dưới bệ chân tôi đây!”,
4 thì anh em đã chẳng tỏ ra kỳ thị và trở thành những thẩm phán đầy
tà tâm đó sao?
5
Anh
em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã chẳng chọn những kẻ
nghèo khó trước mặt người đời, để họ trở nên người giàu đức tin và thừa hưởng
vương quốc Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao? 6 Thế mà anh em,
anh em lại khinh dể người nghèo! Chẳng phải những người giàu áp bức anh em đó
sao? Chẳng phải họ lôi anh em ra toà đó sao? 7 Chẳng phải họ nói xúc phạm đến
Danh Thánh cao đẹp mà anh em được mang đó sao? 8 Đã hẳn, anh em làm điều tốt,
nếu anh em chu toàn luật Kinh Thánh đưa lên hàng đầu: Ngươi phải yêu người thân
cận như chính mình. 9 Nhưng nếu anh em đối xử thiên tư, thì anh em
phạm một tội và bị Lề Luật kết án là kẻ vi phạm.
10
Quả
thế, ai tuân giữ tất cả Lề Luật, mà chỉ sa ngã về một điểm thôi, thì cũng thành
người có tội về hết mọi điểm. 11 Thật vậy, Đấng đã phán: Ngươi không
được ngoại tình, cũng đã phán: Ngươi không được giết người. Vậy nếu bạn không
ngoại tình, nhưng lại giết người, thì bạn cũng thành kẻ vi phạm Lề Luật. 12
Anh em hãy nói năng và hành động như những người sẽ bị xét xử theo luật
tự do. 13 Vì Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết
thương xót. Còn ai thương xót, thì chẳng quan tâm đến việc xét xử.
Đức
tin và hành động
14
Thưa
anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có
ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? 15 Giả như có người anh em
hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, 16 mà
có ai trong anh em lại nói với họ: ”Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho
no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích
lợi gì?
17
Cũng
vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. 18 Đàng
khác, có người sẽ bảo: ”Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử
cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để
cho bạn thấy thế nào là tin. 19 Bạn tin rằng chỉ có một Thiên Chúa
duy nhất. Bạn làm phải. Cả ma quỷ cũng tin như thế, và chúng run sợ.” 20 Hỡi
người đầu óc rỗng tuếch, bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành động là vô
dụng không? 21 Ông Áp-ra-ham tổ phụ chúng ta, đã chẳng được nên công chính nhờ
hành động, khi ông hiến dâng con mình là I-xa-ác trên bàn thờ đó sao? 22 Bạn
thấy đó: đức tin hợp tác với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức tin nên
hoàn hảo. 23 Như thế ứng nghiệm lời Kinh Thánh đã chép: Ông
Áp-ra-ham tin Thiên Chúa, và vì thế Thiên Chúa kể ông là người công chính và
ông được gọi là bạn của Thiên Chúa.
24
Anh
em thấy đó, nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ
nhờ đức tin mà thôi. 25 Ra-kháp, cô gái điếm cũng vậy: há chẳng phải
nhờ hành động mà đã được nên công chính, vì đã đón tiếp các sứ giả và đưa họ đi
lối khác sao? 26 Thật thế, một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng
vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.
Chương 3
Kiềm
chế miệng lưỡi
1
Thưa
anh em, đừng có nhiều người trong anh em ham làm thầy thiên hạ, vì anh em biết
rằng chúng ta sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn. 2 Thật vậy, tất cả chúng
ta thường hay vấp ngã.
3
Nếu
ta tra hàm thiếc vào miệng ngựa để bắt chúng vâng lời, thì ta điều khiển được
toàn thân chúng. 4 Anh em cũng hãy nhìn xem tàu bè: dù nó có to lớn,
và có bị cuồng phong đẩy mạnh thế nào đi nữa, thì cũng chỉ cần một bánh lái rất
nhỏ để điều khiển theo ý của người lái. 5 Cái lưỡi cũng vậy: nó là
một bộ phận nhỏ bé của thân thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to
lớn. Cứ xem tia lửa nhỏ bé dường nào, mà làm bốc cháy đám rừng to lớn biết bao!
6 Cái lưỡi cũng là một ngọn lửa, là cả một thế giới của sự ác. Cái lưỡi có một
vị trí giữa các bộ phận của thân thể chúng ta, nó làm cho toàn thân bị ô nhiễm,
đốt cháy bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hoả ngục đốt cháy. 7 Thật
thế, mọi loài thú vật và chim chóc, loài bò sát và cá biển, thì loài người đều
có thể chế ngự và đã chế ngự được. 8 Nhưng cái lưỡi thì không ai chế
ngự được: nó là một sự dữ không bao giờ ở yên, vì nó chứa đầy nọc độc giết
người. 9 Ta dùng lưỡi mà chúc tụng Chúa là Cha chúng ta, ta cũng
dùng lưỡi mà nguyền rủa những con người đã được làm ra theo hình ảnh Thiên Chúa.
10 Từ cùng một cái miệng, phát xuất lời chúc tụng và lời nguyền rủa.
Thưa anh em, như vậy thì không được. 11 Chẳng lẽ một mạch nước lại
có thể phun ra, từ một nguồn, cả nước ngọt lẫn nước chua sao? 12 Thưa anh em,
làm sao cây vả lại có thể sinh ra trái ô-liu, hoặc cây nho sinh trái vả? Nước
mặn cũng không thể sinh ra nước ngọt.
Khôn
ngoan thật và khôn ngoan giả
13
Trong
anh em, ai là người khôn ngoan hiểu biết? Người ấy hãy dùng lối sống tốt đẹp mà
chứng tỏ rằng: những hành động của họ phát xuất từ lòng hiền hậu và đức khôn
ngoan. 14 Nhưng nếu trong lòng anh em có sự ghen tương, chua chát và
tranh chấp, thì anh em đừng có tự cao tự đại mà nói dối, trái với sự thật. 15
Sự khôn ngoan đó không phải từ trời cao ban xuống, nhưng là sự khôn ngoan
của thế gian, của con người tự nhiên, của ma quỷ. 16 Thật vậy, ở đâu
có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa. 17
Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết,
sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái
tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình. 18 Người xây dựng hoà bình
thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính.
Chương 4
Tránh
những mối bất hoà
1
Bởi
đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính
những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? 2 Thật
vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng
chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau. Anh em không
có, là vì anh em không xin; 3 anh em xin mà không được, là vì anh em
xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc.
4
Hỡi
những kẻ ngoại tình, các người không biết rằng: yêu thế gian là ghét Thiên Chúa
sao? Vậy ai muốn là bạn của thế gian thì tự coi mình là thù địch của Thiên Chúa.
5 Hay các người nghĩ rằng lời Kinh Thánh sau đây là vô nghĩa: Thần
Khí mà Thiên Chúa đã đặt trong chúng ta, ước muốn đến phát ghen lên? 6 Nhưng ân
sủng Người ban còn mạnh hơn; vì thế, có lời Kinh Thánh nói: Thiên Chúa chống
lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường. 7 Anh em hãy
phục tùng Thiên Chúa. Hãy chống lại ma quỷ; chúng sẽ chạy xa anh em. 8 Hãy
đến gần Thiên Chúa, Người sẽ đến gần anh em. Hỡi tội nhân, hãy rửa tay cho
sạch; hỡi kẻ hai lòng, hãy tẩy luyện tâm can. 9 Hãy cảm cho thấu nỗi
khốn cùng của anh em, hãy khóc lóc than van. Chớ gì tiếng cười của anh em biến
thành tiếng khóc, niềm vui của anh em đổi ra nỗi buồn. 10 Anh em hãy
hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhắc anh em lên.
11
Thưa
anh em, anh em đừng nói xấu nhau. Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình là nói
xấu và xét đoán Lề Luật. Nếu anh xét đoán Lề Luật, thì anh không còn là kẻ vâng
giữ, mà là kẻ xét đoán Lề Luật. 12 Chỉ có một Đấng ra Lề Luật và xét
xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn anh là ai mà dám xét đoán
người thân cận?
Cảnh
cáo người giàu
13
Bây
giờ, hãy nghe tôi, những kẻ nói: ”Hôm nay hoặc ngày mai, chúng ta sẽ đi đến
thành nọ thành kia, sẽ ở lại đó một năm và buôn bán kiếm lời". 14 Trong
khi các người không biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, các người
chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi. 15 Thay
vì nói: ”Nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ sống và làm điều nọ điều kia", 16
thì các người lại tự phụ vì những chuyện khoác lác của mình. Mọi thứ tự
phụ như thế đều xấu. 17 Vậy kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu
làm thì mắc tội.
Chương 5
1
Giờ
đây, hỡi những kẻ giàu có, các người hãy than van rên rỉ về những tai hoạ sắp
đổ xuống trên đầu các người. 2 Tài sản của các người đã hư nát, quần
áo của các người đã bị mối ăn. 3 Vàng bạc của các người đã bị rỉ
sét; và chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người; nó sẽ như lửa thiêu
huỷ xác thịt các người. Các người đã lo tích trữ trong những ngày sau hết này. 4
Các người đã gian lận mà giữ lại tiền lương của những thợ đi cắt lúa
trong ruộng của các người. Kìa, tiền lương ấy đang kêu lên oán trách các người,
và tiếng kêu của những thợ gặt ấy đã thấu đến tai Chúa các đạo binh. 5 Trên
cõi đất này, các người đã sống xa hoa, đã buông theo khoái lạc, lòng các người
đã được no đầy thoả mãn trong ngày sát hại. 6 Các người đã kết án,
đã giết hại người công chính, và họ đã chẳng cưỡng lại các người.
Ngày
Chúa quang lâm
7
Thưa
anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông,
họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu
mùa lẫn mưa cuối mùa. 8 Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm
vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới. 9 Thưa anh em, anh em
đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang đứng
ngoài cửa. 10 Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh
em hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa. 11 Kìa
xem: chúng ta tuyên bố: phúc thay những kẻ đã có lòng kiên trì! Anh em đã nghe
nói đến lòng kiên trì của ông Gióp và đã thấy mục đích Chúa nhắm, vì Chúa là
Đấng từ bi nhân hậu.
Những
lời khuyên cuối cùng
12
Nhưng,
thưa anh em, trước hết, đừng có thề, dù là lấy trời, lấy đất, hay lấy cái gì
khác mà thề. Nhưng hễ”có" thì phải nói”có",”không" thì phải
nói”không", như thế, anh em sẽ không bị xét xử.
13
Ai
trong anh em đau khổ ư? Người ấy hãy cầu nguyện. Ai vui vẻ chăng? Người ấy hãy
hát thánh ca. 14 Ai trong anh em đau yếu ư? Người ấy hãy mời các kỳ
mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh
Chúa. 15 Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được
Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha. 16 Anh
em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được cứu thoát. Vì lời cầu
xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực. 17 Ông Ê-li-a
xưa cũng là người cùng chung một thân phận như chúng ta; ông đã tha thiết cầu
xin cho đừng có mưa, thì đã không có mưa xuống trên mặt đất suốt ba năm sáu
tháng. 18 Rồi ông lại cầu xin, thì trời liền mưa xuống và đất đã trổ
sinh hoa trái.
19
Thưa
anh em, nếu có người nào trong anh em lạc xa chân lý và có ai đưa người ấy trở
về, 20 thì anh em hãy biết rằng: kẻ nào làm cho một tội nhân bỏ
đường lầm lạc mà trở về, thì cứu được linh hồn ấy khỏi chết và che lấp được
muôn vàn tội lỗi của mình.
Phê-rô 1
Chương 1
Lời
mở đầu và lời chào
1
Tôi
là Phê-rô, Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, kính gửi những người được Thiên Chúa
kén chọn, những khách lữ hành đang sống tản mác trong các xứ: Pon-tô, Ga-lát,
Cáp-pa-đô-ki-a, A-xi-a và Bi-thy-ni-a, 2 những người được Thiên Chúa
Cha biết trước và kén chọn, những người được Thần Khí thánh hoá để vâng phục
Đức Giê-su Ki-tô và được máu Người tưới rảy. Chúc anh em được đầy tràn ân sủng
và bình an.
Nhập
đề. Gia tài Thiên Chúa ban
3
Chúc
tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà,
Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức
Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, 4 để được hưởng gia tài không
thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho
anh em, 5 là những người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa quyền năng
gìn giữ, hầu được hưởng ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra trong thời
sau hết.
Tình
thương và lòng trung tín đối với Đức Ki-tô
6
Trong
thời ấy, anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu
giữa trăm chiều thử thách. 7 Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức
tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội,- vàng là của phù vân, mà còn phải
chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện
đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự. 8 Tuy
không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính
tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, 9
bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người.
Thần
Khí dùng ngôn sứ mà mặc khải
10
Các
ngôn sứ đã nghiên cứu tìm hiểu ơn cứu độ này, và đã tuyên sấm về ân sủng dành
cho anh em. 11 Thần Khí Đức Ki-tô ở nơi các ngài, đã báo trước những
đau khổ dành cho Đức Ki-tô, và vinh quang đến sau những đau khổ đó, nên các
ngài đã tìm hiểu xem Thần Khí muốn cho thấy việc đó xảy ra vào thời nào, trong
hoàn cảnh nào. 12 Thiên Chúa đã mặc khải cho các ngài biết là các
ngài có phận sự truyền đạt thông điệp ấy, không phải cho chính mình, mà là cho
anh em. Đó là thông điệp mà nay các người giảng Tin Mừng đã loan báo cho anh
em, nhờ tác động của Thánh Thần là Đấng đã được cử đến từ trời. Chính các thiên
thần cũng ước mong được tìm hiểu kỹ lưỡng thông điệp ấy.
Những
đòi hỏi của đời sống mới. Sự thánh thiện của người tân tòng
13
Vì
thế, anh em hãy chuẩn bị lòng trí, hãy tỉnh thức, hãy hoàn toàn đặt niềm trông
cậy vào ân sủng sẽ được mang đến cho anh em trong ngày Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện.
14 Như những người con biết vâng phục, anh em đừng chiều theo những
đam mê trước kia, lúc anh em còn mê muội. 15 Anh em hãy sống thánh
thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, 16 vì
có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh.
17
Thiên
Chúa là Đấng không vị nể ai, nhưng cứ theo công việc mỗi người mà xét xử. Vậy
nếu anh em gọi Người là Cha, thì anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời
lữ khách này. 18 Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng
hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do
cha ông anh em truyền lại. 19 Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu
huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô. 20 Người là
Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã
xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. 21 Nhờ Người, anh em
tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người
được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa.
Anh
em được tái sinh nhờ Lời Chúa
22
Nhờ
vâng phục sự thật, anh em đã thanh luyện tâm hồn để thực thi tình huynh đệ chân
thành. Anh em hãy tha thiết yêu mến nhau với tất cả tâm hồn. 23 Vì
anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất
diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi, 24 vì mọi
phàm nhân đều như cỏ và tất cả vinh quang của họ cũng đều như hoa cỏ; cỏ thì
khô, hoa thì rụng; 25 Lời Chúa vẫn tồn tại đến muôn thuở muôn đời.
Đó chính là Lời đã được loan báo cho anh em như một Tin Mừng.
Chương 2
1
Vậy,
anh em hãy từ bỏ mọi thứ gian ác, mọi điều xảo trá, giả hình và ghen tương cùng
mọi lời nói xấu gièm pha. 2 Như trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát
sữa tinh tuyền là Lời Chúa, nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ, 3
nếu anh em đã nghiệm thấy Chúa tốt lành.
Hàng
tư tế mới
4
Anh
em hãy tiến lại gần Đức Ki-tô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã
được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. 5 Hãy để Thiên Chúa dùng
anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy
để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng
đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. 6 Quả thật, có lời Kinh Thánh
chép: Này đây Ta đặt tại Xi-on một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc
tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng.
7
Vậy
vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin, thì viên
đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, 8 và cũng là viên
đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa.
Số phận của họ là như vậy.
9
Còn
anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân
thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã
gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền. 10 Xưa
anh em chưa phải là một dân, nay anh em đã là Dân của Thiên Chúa; xưa anh em
chưa được hưởng lòng thương xót, nay anh em đã được xót thương.
Nhiệm
vụ của tín hữu Chúa Ki-tô. Cách đối xử với dân ngoại
11
Anh
em thân mến, anh em là khách lạ và lữ hành, tôi khuyên anh em hãy tránh xa
những đam mê xác thịt, vốn gây chiến với linh hồn. 12 Anh em hãy ăn
ở ngay lành giữa dân ngoại, để ngay cả khi họ vu khống, coi anh em là người
gian ác, họ cũng thấy các việc lành anh em làm mà tôn vinh Thiên Chúa trong
ngày Người đến viếng thăm.
Bổn
phận đối với các nhà hữu trách
13
Vì
Chúa, anh em hãy tuân phục mọi thể chế do loài người đặt ra: dù là vua, người
nắm quyền tối cao, 14 dù là quan, sứ giả của nhà vua để trừng phạt
kẻ làm điều ác và khen thưởng người làm điều thiện, 15 vì ý muốn của
Thiên Chúa là anh em hãy làm điều thiện để bịt miệng những kẻ ngu xuẩn vô tri. 16
Anh em hãy hành động như những người tự do, không phải như những người
lấy sự tự do làm màn che sự gian ác, nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa. 17
Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên Chúa,
hãy tôn trọng nhà vua.
Bổn
phận đối với chủ
18
Là
gia nhân, anh em hãy tuân phục chủ với tất cả lòng kính sợ, không phải chỉ
những người chủ tốt lành và khoan dung, mà cả những người chủ khắc nghiệt. 19
Thật vậy, chấp nhận những nỗi khổ phải chịu một cách bất công vì lòng tôn
kính Thiên Chúa, thì đó là một ân huệ. 20 Vì nếu có tội mà anh em bị
đánh đập và đành chịu, thì nào có vẻ vang gì? Nếu làm việc lành và phải khổ mà
anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban. 21 Anh
em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì
anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. 22 Người
không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. 23 Bị
nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng
một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. 24 Tội lỗi của chúng ta,
chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết
đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết
thương mà anh em đã được chữa lành. 25 Quả thật, trước kia anh em
chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng
chăm sóc linh hồn anh em.
Chương 3
Bổn
phận trong đời sống hôn nhân
1
Chị
em là những người vợ, chị em hãy phục tùng chồng, như vậy, dù có những người
chồng không tin Lời Chúa, thì họ cũng sẽ được chinh phục nhờ cách ăn nết ở của
chị em mà không cần chị em phải nói lời nào, 2 vì họ thấy cách ăn
nết ở trinh tiết và cung kính của chị em. 3 Ước chi vẻ duyên dáng
của chị em không hệ tại cái mã bên ngoài như kết tóc, đeo vòng vàng, hay ăn mặc
xa hoa; 4 nhưng là con người nội tâm thầm kín, với đồ trang sức
không bao giờ hư hỏng là tính thuỳ mị, hiền hoà: đó chính là điều quý giá trước
mặt Thiên Chúa. 5 Xưa kia, các phụ nữ thánh thiện là những người
trông cậy vào Thiên Chúa, cũng đã trang điểm như thế; họ đã phục tùng chồng. 6
Như bà Xa-ra, bà đã vâng phục ông Áp-ra-ham, và gọi ông là “ông
chủ". Chị em là con cái của bà, nếu chị em làm điều thiện và không sợ hãi
trước bất cứ nỗi kinh hoàng nào.
7
Cũng
vậy, anh em là những người chồng, trong cuộc sống chung, anh em nên hiểu rằng
đàn bà thuộc phái yếu; hãy tỏ lòng quý trọng vì họ cũng được hưởng sự sống là
hồng ân Chúa ban. Như thế, việc cầu nguyện của anh chị em sẽ không bị ngăn trở.
Bổn
phận của anh em đối với nhau
8
Sau
hết, tất cả anh chị em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu
thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn. 9 Đừng lấy
ác báo ác, đừng lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa, nhưng trái lại, hãy
chúc phúc, vì anh chị em được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời
chúc phúc. 10 Thật thế, ai là người thiết tha được sống và ước ao
hưởng chuỗi ngày hạnh phúc, thì phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác
điêu ngoa; 11 người ấy phải làm lành lánh dữ, tìm kiếm và theo đuổi
bình an, 12 vì Chúa để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe
tiếng họ kêu xin, nhưng Người ngoảnh mặt đi, không nhìn kẻ làm điều ác.
Bổn
phận của các tín hữu trong cơn bách hại
13
Ai
làm hại được anh em, nếu anh em nhiệt thành làm điều thiện? 14 Mà nếu anh em
chịu khổ vì sống công chính, thì anh em thật có phúc! Đừng sợ những kẻ làm hại anh
em và đừng xao xuyến. 15 Đức Ki-tô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm
Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai
chất vấn về niềm hy vọng của anh em. 16 Nhưng phải trả lời cách hiền
hoà và với sự kính trọng. Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng
anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Ki-tô, thì chính họ phải xấu hổ vì
những điều họ vu khống, 17 bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành, nếu
đó là ý của Thiên Chúa, còn hơn là vì làm điều ác.
Đức
Ki-tô sống lại và xuống âm phủ
18
Chính
Đức Ki-tô đã chịu chết một lần vì tội lỗi-Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất
lương- hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết
chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh. 19 Người đã đến
rao giảng cho các vong linh bị giam cầm, 20 tức là những người xưa
đã không vâng phục Thiên Chúa, trong thời Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi, nghĩa
là thời ông Nô-ê đóng tàu. Trong con tàu ấy, một số ít, cả thảy là tám người,
được cứu thoát nhờ nước. 21 Nước đó là hình bóng phép rửa nay cứu
thoát anh em. Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác,
mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của
Đức Giê-su Ki-tô, 22 Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên
trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền.
Chương 4
Đoạn
tuyệt với tội lỗi
1
Vậy,
chính vì Đức Ki-tô đã chịu đau khổ trong thân xác, nên anh em cũng phải lấy tư
tưởng này làm khí giới: ai chịu đau khổ trong thân xác thì đoạn tuyệt với tội
lỗi, 2 để bao lâu còn sống trong thân xác, người ấy không theo những
đam mê của con người nữa, mà theo ý muốn của Thiên Chúa. 3 Thật thế,
trong quá khứ anh em đã sống theo sở thích dân ngoại: dâm ô, mê đắm, nhậu nhẹt,
say sưa, chè chén, tin vơ thờ quấy, như vậy là quá đủ rồi. 4 Về điều
đó, họ kinh ngạc vì thấy anh em không cùng chạy ùa theo cuộc sống truỵ lạc ồ ạt
như dòng thác lũ, và họ nói xấu anh em. 5 Họ sẽ phải trả lẽ với Đấng
sắp sửa phán xét người sống và kẻ chết. 6 Quả thật, chính vì thế mà
Tin Mừng đã được loan báo ngay cho cả những kẻ chết, để tuy bị phán xét về phần
xác theo cách nhìn của loài người, họ được sống về phần hồn theo ý định của
Thiên Chúa.
Đợi
chờ ngày Đức Ki-tô quang lâm
7
Thời
cùng tận của vạn vật gần đến rồi. Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có
thể cầu nguyện được. 8 Trước hết, anh em hãy hết tình yêu thương
nhau, vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi. 9 Hãy tiếp đón
nhau mà không lẩm bẩm kêu ca. 10 Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi
người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những
người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. 11 Ai
có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên
Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su
Ki-tô. Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Phúc
thay ai cùng chịu đau khổ với Đức Ki-tô
12
Anh
em thân mến, anh em đang bị lửa thử thách: đừng ngạc nhiên mà coi đó như một
cái gì khác thường xảy đến cho anh em. 13 Được chia sẻ những đau khổ
của Đức Ki-tô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người
tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ. 14 Nếu bị sỉ nhục vì
danh Đức Ki-tô, anh em thật có phúc, bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền, là
Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em. 15 Đừng có ai trong anh em
phải chịu khổ vì tội giết người, trộm cắp, làm điều gian ác hoặc dây mình vào
việc người khác; 16 mà nếu có ai phải chịu khổ vì danh hiệu Ki-tô
hữu, thì đừng xấu hổ, nhưng hãy tôn vinh Thiên Chúa vì được mang danh hiệu đó. 17
Bởi lẽ thời phán xét đã đến, bắt đầu từ nhà của Thiên Chúa. Nếu việc đó
bắt đầu từ chúng ta, thì cuối cùng số phận của những kẻ từ chối không chịu tin
vào Tin Mừng của Thiên Chúa sẽ ra sao? 18 Nếu người công chính còn khó được cứu
độ, thì người vô đạo, kẻ tội lỗi sẽ ở đâu? 19 Vì vậy, những ai chịu khổ theo ý
của Thiên Chúa, hãy phó mạng sống mình cho Đấng Tạo Hoá trung thành, và cứ làm
điều thiện.
Chương 5
Những
lời khuyên nhủ bậc kỳ mục
1
Cùng
các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc
hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Ki-tô và được dự phần vinh
quang sắp tỏ hiện trong tương lai. 2 Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên
mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng,
nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc
thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ. 3 Đừng lấy quyền mà
thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương
sáng cho đoàn chiên. 4 Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh
em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát.
Những
lời khuyên nhủ các tín hữu
5
Cũng
vậy, những người trẻ hãy vâng phục các kỳ mục: anh em hãy lấy đức khiêm nhường
mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ
khiêm nhường. 6 Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền
của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định. 7 Mọi
âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. 8 Anh em hãy
sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét,
rảo quanh tìm mồi cắn xé. 9 Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà
chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một
loại thống khổ như thế. 10 Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng, cũng là
Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Ki-tô. Phần
anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được
nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường. 11 Kính dâng Người
vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men.
Lời
khuyên cuối cùng. Lời chào
12
Nhờ
tay anh Xin-va-nô mà tôi coi là một người anh em trung tín, tôi viết ít lời để
khuyên nhủ anh em và làm chứng rằng đó thật là ân sủng của Thiên Chúa: anh em
hãy sống vững vàng trong ân sủng đó.
13
Hội
Thánh ở Ba-by-lon, cũng được chọn như anh em, và Mác-cô, con tôi, gửi lời chào
anh em.
14
Anh
em hãy hôn chào nhau trong tình yêu thương.
Chúc
tất cả anh em, những người đang sống trong Đức Ki-tô, được bình an.
Phê-rô 3
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Tôi
là Si-mê-ôn Phê-rô, tôi tớ và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô, kính gửi những
người, nhờ sự công chính của Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ
chúng ta, cũng đã lãnh nhận một đức tin quý giá như chúng tôi. 2 Chúc
anh em được đầy tràn ân sủng và bình an, nhờ được biết Thiên Chúa và Đức
Giê-su, Chúa chúng ta.
Lòng
rộng rãi của Thiên Chúa
3
Thật
vậy, Đức Ki-tô đã lấy thần lực của Người mà ban tặng chúng ta tất cả những gì
giúp chúng ta được sống và sống đạo đức, khi Người cho chúng ta biết Đấng đã
dùng vinh quang và sức mạnh của mình mà kêu gọi chúng ta. 4 Nhờ vinh
quang và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và
trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa,
sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian.
5
Chính
vì thế, anh em hãy đem tất cả nhiệt tình, làm sao để khi đã có lòng tin thì có
thêm đức độ, có đức độ lại thêm hiểu biết, 6 có hiểu biết lại thêm
tiết độ, có tiết độ lại thêm kiên nhẫn, có kiên nhẫn lại thêm đạo đức, 7 có
đạo đức lại thêm tình huynh đệ, có tình huynh đệ lại thêm bác ái. 8 Thật
vậy, nếu anh em có những đức tính ấy và có dồi dào, thì anh em sẽ không trở nên
những người chẳng làm gì và chẳng làm gì được để biết Đức Giê-su Ki-tô, Chúa
chúng ta. 9 Ai không có những đức tính ấy thì là người đui mù, người
cận thị: kẻ ấy quên rằng mình đã được tẩy sạch các tội xưa đã phạm. 10 Vì
vậy, thưa anh em, anh em đã được Thiên Chúa tuyển chọn và mời gọi, thì hãy cố
gắng hết mình, để làm cho các ơn đó nên vững mạnh. Có thế, anh em sẽ không bao
giờ vấp ngã, 11 và nhờ đó, con đường rộng mở để đón nhận anh em vào
Nước vĩnh cửu của Đức Giê-su Ki-tô là Chúa và là Đấng cứu độ chúng ta.
Lời
chứng của các Tông Đồ
12
Vì
thế, tôi sẽ luôn nhắc cho anh em nhớ lại những điều trên, mặc dầu anh em đã
biết rồi và đang sống vững vàng theo sự thật anh em hiện nắm giữ. 13 Tôi
thiết nghĩ: bao lâu tôi còn sống cuộc đời chóng qua này, tôi phải nhắc nhở để
thức tỉnh anh em, đó là điều phải lẽ, 14 vì biết rằng sắp đến thời
tôi phải bỏ lều này, như Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, cũng đã tỏ cho tôi
biết. 15 Nhưng tôi sẽ cố gắng, để trong mọi trường hợp, sau khi tôi
ra đi, anh em có thể nhớ lại các điều ấy.
16
Thật
vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức
Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện
hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy
phong lẫm liệt của Người. 17 Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha
ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán
với Người: ”Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến". 18 Tiếng
đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi
thánh với Người.
Lời
ngôn sứ
19
Như
vậy chúng tôi lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào
đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm, cho đến khi ngày
bừng sáng và sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em. 20 Nhất là
anh em phải biết điều này: không ai được tự tiện giải thích một lời ngôn sứ nào
trong Sách Thánh. 21 Quả vậy, lời ngôn sứ không bao giờ lại do ý
muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đã nói
theo lệnh của Thiên Chúa.
Chương 2
Các
thầy dạy giả hiệu
1
Trong
dân cũng đã từng xuất hiện những ngôn sứ giả; giữa anh em cũng vậy, sẽ có những
thầy dạy giả hiệu, đó là những kẻ sẽ lén lút đưa vào những tà thuyết dẫn tới
diệt vong. Vì chối bỏ vị Chúa Tể đã chuộc họ về, họ sẽ mau chóng chuốc lấy hoạ
diệt vong. 2 Nhiều người sẽ học đòi các trò dâm đãng của họ, và vì
họ, con đường sự thật sẽ bị phỉ báng. 3 Vì tham lam, họ dùng lời lẽ
gạt gẫm anh em để trục lợi. Án phạt họ đã sẵn sàng từ lâu, và hoạ diệt vong đã
gần kề.
Bài
học của quá khứ
4
Thật
vậy, Thiên Chúa không dung thứ cho các thiên thần có tội, nhưng đã đẩy họ vào
hố Địa Ngục tối tăm, giữ họ để chờ cuộc phán xét. 5 Người không dung
thứ cho thế giới cũ, nhưng khi trút hồng thủy xuống trên thế giới của những kẻ
vô luân, Người đã cứu sống tám mạng, trong số đó có ông Nô-ê, kẻ rao giảng sự
công chính. 6 Người thiêu ra tro các thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra, lên
án huỷ diệt hai thành đó để làm gương cho những kẻ vô luân thời sau; 7 Người
cứu ông Lót, kẻ công chính, đang phải ưu phiền vì nếp sống dâm đãng của những
người phạm pháp. 8 Quả vậy, người công chính đó sống ở giữa họ, mắt
thấy tai nghe những hành vi phi pháp ngày ngày xâu xé tâm hồn công chính của
ông. 9 Như thế Chúa biết cứu những người đạo đức khỏi cơn thử thách,
và giữ những kẻ bất chính để trừng phạt vào ngày phán xét, 10 nhất
là những kẻ vì ham muốn những điều ô uế mà sống theo xác thịt, những kẻ khinh
dể chủ quyền của Chúa.
Hình
phạt tương lai
11
trong
khi các thiên thần, tuy mạnh mẽ và quyền thế hơn, cũng không đưa ra một phán
quyết nào phạm đến các vị đó trước toà Chúa. 12 Còn họ, khác nào
loài vật vô tri vốn sinh ra để bị săn bắt và tiêu diệt, lại nói phạm đến những
điều họ không biết; những loài vật kia bị tiêu diệt làm sao, thì họ cũng sẽ bị
tiêu diệt như vậy: 13 họ đã ăn ở bất chính thì được trả công bằng sự
bất chính. Họ coi việc sống phóng đãng giữa ban ngày như một khoái lạc, họ là
những người đầy khuyết điểm và tỳ ố, thích thú vì những chuyện lừa gạt của
mình, trong lúc vui vẻ với anh em. 14 Nhìn thấy phụ nữ là họ ao ước
ngoại tình, họ phạm tội mãi không chán; họ nhử mồi các tâm hồn nông nổi; lòng
họ đã quen thói tham lam. Thật là những kẻ đáng bị nguyền rủa! 15 Bỏ đường ngay
nẻo chính, họ đã lạc bước theo đường của con ông Bo-xo là Bi-lơ-am, kẻ ưa thích
tiền công bất chính. 16 Nhưng Bi-lơ-am đã bị khiển trách vì hành
động sai trái của mình: một thú vật chở đồ, không biết nói, đã lên tiếng như
người, để ngăn cản cách xử sự điên rồ của ngôn sứ ấy. 17 Họ là suối
không có nước, là mây bị bão cuốn đi; u ám tối tăm là nơi dành cho họ. 18 Miệng
nói những lời huyênh hoang rỗng tuếch, họ dùng những ham muốn xác thịt dâm ô mà
nhử những người vừa thoát tay các kẻ sống trong lầm lạc. 19 Họ hứa
cho những kẻ đó được tự do, nhưng chính họ lại làm nô lệ cho lối sống dẫn đến
hư vong, vì đã thua ai thì phải làm nô lệ người ấy. 20 Thật vậy,
những kẻ đã thoát khỏi những vết nhơ của thế gian, nhờ được biết Chúa Giê-su
Ki-tô, Đấng Cứu Độ, mà lại vướng mắc vào đó một lần nữa và bị thua, thì tình
trạng sau này của họ còn tệ hơn trước. 21 Quả thật, thà họ không
biết đường công chính, còn hơn là khi đã biết rồi, lại lìa bỏ điều răn thánh đã
được truyền cho họ. 22 Điều xảy ra cho họ thật đúng với câu ngạn ngữ
sau đây: Chó mửa ra, chó liền ăn lại; heo tắm xong, heo nhảy vào bùn.
Chương 3
Ngày
của Chúa: các ngôn sứ và Tông Đồ
1
Anh
em thân mến, đây đã là thư thứ hai tôi viết cho anh em; trong cả hai thư, tôi
đều nhắc nhở anh em để gợi lên nơi anh em sự hiểu biết chân thành. 2 Anh
em hãy nhớ lại những điều các thánh ngôn sứ đã nói trước kia, và điều răn của
Chúa, Đấng Cứu Độ, mà các Tông Đồ của anh em đã truyền lại.
Các
thầy dạy giả hiệu
3
Trước
tiên, anh em hãy biết điều này: trong những ngày sau hết, sẽ xuất hiện những kẻ
nhạo báng chê cười, sống theo những đam mê riêng của họ. 4 Họ nói:
”Đâu rồi lời Người hứa sẽ quang lâm? Vì từ ngày các bậc cha ông an nghỉ, mọi sự
vẫn y nguyên như khi trời đất mới được tạo thành.” 5 Thật vậy, họ
không muốn biết rằng từ lâu đã có trời và đất, và đất từ nước mà ra và nhờ nước
mà đứng vững do lời của Thiên Chúa. 6 Cũng vì các nguyên cớ ấy, thế
gian thời đó đã tiêu vong trong cơn hồng thuỷ. 7 Còn trời và đất
hiện nay, cũng chính lời ấy giữ lại, dành cho lửa trong ngày phán xét, ngày
những kẻ vô luân phải diệt vong.
8
Anh
em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên: đối với Chúa, một ngày ví
thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. 9 Chúa không chậm trễ thực
hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên nhẫn đối với
anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi
tới chỗ ăn năn hối cải. 10 Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm.
Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và
các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ.
Lời
kêu gọi sống thánh thiện. Vinh tụng ca
11
Muôn
vật phải tiêu tan như thế, thì anh em phải là những người tốt dường nào, phải
sống đạo đức và thánh thiện biết bao, 12 trong khi mong đợi ngày của
Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ bị thiêu huỷ và
ngũ hành sẽ chảy tan ra trong lửa hồng. 13 Nhưng, theo lời Thiên
Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị.
14
Vì
thế, anh em thân mến, trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho
Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an. 15 Và
anh em hãy biết rằng Chúa chúng ta tỏ lòng kiên nhẫn chính là để anh em được
cứu độ, như ông Phao-lô, người anh em thân mến của chúng ta, đã viết cho anh
em, theo ơn khôn ngoan Thiên Chúa đã ban cho ông. 16 Ông cũng nói
như vậy trong tất cả các thư của ông, khi bàn đến các vấn đề này. Trong các thư
ấy, có những chỗ khó hiểu; những chỗ ấy cũng như những chỗ khác trong Kinh
Thánh, bị những kẻ vô học và nông nổi xuyên tạc, khiến chúng phải chuốc lấy hoạ
diệt vong.
17
Vậy,
anh em thân mến, biết trước như thế, anh em hãy coi chừng kẻo bị những kẻ phạm
pháp và lầm lạc lôi cuốn, mà không còn đứng vững nữa chăng. 18 Nhưng
anh em hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đức Giê-su Ki-tô là Chúa
và là Đấng Cứu Độ chúng ta. Xin kính dâng Người vinh quang, bây giờ và cho đến
muôn đời. A-men.
Gio-an 1
Chương 1
LỜI
DẪN NHẬP
Ngôi
Lời nhập thể và sự hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con
1
Điều
vẫn có ngay từ lúc khởi đầu,
điều
chúng tôi đã nghe,
điều
chúng tôi đã thấy tận mắt,
điều
chúng tôi đã chiêm ngưỡng,
và
tay chúng tôi đã chạm đến,
đó
là Lời sự sống.
2
Quả
vậy, sự sống đã được tỏ bày,
chúng
tôi đã thấy và làm chứng,
chúng
tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời:
sự
sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha
và
nay đã được tỏ bày cho chúng tôi.
3
Điều
chúng tôi đã thấy và đã nghe,
chúng
tôi loan báo cho cả anh em nữa,
để
chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi,
mà
chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha
và
với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người.
4
Những
điều này, chúng tôi viết ra
để
niềm vui của chúng ta được nên trọn vẹn.
I.
BƯỚC ĐI TRONG ÁNH SÁNG
5
Đây
là lời loan báo của Đức Giê-su Ki-tô mà chúng tôi đã nghe,
và
nay chúng tôi loan báo cho anh em: Thiên Chúa là ánh sáng;
nơi
Người, không có một chút bóng tối nào.
6
Nếu
chúng ta nói là chúng ta hiệp thông với Người
mà
lại đi trong bóng tối, thì chúng ta nói dối
và
không hành động theo sự thật.
7
Nhưng
nếu chúng ta đi trong ánh sáng
cũng
như Thiên Chúa hằng ngự trong ánh sáng,
thì
chúng ta được hiệp thông với nhau,
và
máu Đức Giê-su, Con của Người,
thanh
tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi.
Điều
kiện thứ nhất: đoạn tuyệt với tội lỗi
8
Nếu
chúng ta nói là chúng ta không có tội,
chúng
ta tự lừa dối mình,
và
sự thật không ở trong chúng ta.
9
Nếu
chúng ta thú nhận tội lỗi,
Thiên
Chúa là Đấng trung thành và công chính
sẽ
tha tội cho chúng ta,
và
sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính.
10
Nếu
chúng ta nói là chúng ta đã không phạm tội,
thì
chúng ta coi Người là kẻ nói dối,
và
lời của Người không ở trong chúng ta.
Chương 2
1
Hỡi
anh em là những người con bé nhỏ của tôi,
tôi
viết cho anh em những điều này,
để
anh em đừng phạm tội.
Nhưng
nếu ai phạm tội,
thì
chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha:
đó
là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính.
2
Chính
Đức Giê-su Ki-tô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta,
không
những tội lỗi chúng ta mà thôi,
nhưng
còn tội lỗi cả thế gian nữa.
Điều
kiện thứ hai: tuân giữ các điều răn, nhất là điều răn bác ái
3
Căn
cứ vào điều này,
chúng
ta nhận ra rằng chúng ta biết Thiên Chúa:
là
chúng ta tuân giữ các điều răn của Người.
4
Ai
nói rằng mình biết Người
mà
không tuân giữ các điều răn của Người,
đó
là kẻ nói dối, và sự thật không ở nơi người ấy.
5
Còn
hễ ai giữ lời Người dạy,
nơi
kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo.
Căn
cứ vào đó,
chúng
ta biết được mình đang ở trong Thiên Chúa.
6
Ai
nói rằng mình ở lại trong Người,
thì
phải đi trên con đường Đức Giê-su đã đi.
7
Anh
em thân mến, đây không phải là một điều răn mới
tôi
viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ
mà
anh em đã có ngay từ lúc khởi đầu.
Điều
răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe.
8
Nhưng
đó cũng là một điều răn mới
tôi
viết cho anh em,-điều ấy thật là thế
nơi
Đức Giê-su và nơi anh em-,
bởi
vì bóng tối đang qua đi và ánh sáng thật đã tỏ rạng.
9
Ai
nói rằng mình ở trong ánh sáng
mà
lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối.
10
Ai
yêu thương anh em mình thì ở lại trong ánh sáng,
và
nơi người ấy không có gì nên cớ vấp phạm.
11
Nhưng
ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối
và
đi trong bóng tối mà chẳng biết mình đi đâu,
vì
bóng tối đã làm cho mắt người ấy ra mù quáng.
Điều
kiện thứ ba: coi chừng thế gian
12
Hỡi
anh em là những người con bé nhỏ,
tôi
viết cho anh em:
anh
em đã được tha tội nhờ danh Đức Giê-su Ki-tô.
13
Hỡi
các bậc phụ huynh, tôi viết cho anh em:
anh
em biết Đấng vẫn có từ lúc khởi đầu.
Hỡi
các bạn trẻ, tôi viết cho anh em:
anh
em đã thắng ác thần.
14
Hỡi
anh em là những người con thơ bé,
tôi
đã viết cho anh em: anh em biết Chúa Cha.
Hỡi
các bậc phụ huynh, tôi đã viết cho anh em:
anh
em biết Đấng vẫn có từ lúc khởi đầu.
Hỡi
các bạn trẻ, tôi đã viết cho anh em:
anh
em là những người mạnh mẽ;
lời
Thiên Chúa ở lại trong anh em
và
anh em đã thắng ác thần.
15
Anh
em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian.
Kẻ
nào yêu thế gian
thì
nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha,
16
vì
mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt,
dục
vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của,
tất
cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha,
nhưng
phát xuất từ thế gian;
17mà
thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó.
Còn
ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi.
Điều
kiện thứ bốn: đề phòng những kẻ Phản Ki-tô
18
Hỡi
anh em là những người con thơ bé,
đây
là giờ cuối cùng.
Anh
em đã nghe biết là tên Phản Ki-tô sẽ đến;
thế
mà giờ đây nhiều tên Phản Ki-tô đã xuất hiện.
Do
đó, chúng ta biết được rằng đây là giờ cuối cùng.
19
Chúng
xuất thân từ hàng ngũ chúng ta,
nhưng
không phải là người của chúng ta;
vì
nếu là người của chúng ta, chúng đã ở lại với chúng ta.
Nhưng
như thế mới rõ:
không
phải ai ai cũng là người của chúng ta.
20
Phần
anh em, anh em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh,
và
tất cả anh em đều được ơn hiểu biết.
21
Tôi
đã viết cho anh em,
không
phải vì anh em không biết sự thật,
nhưng
vì anh em biết sự thật,
và
vì không có sự dối trá nào phát xuất từ sự thật.
22
Ai
là kẻ dối trá, nếu không phải là kẻ chối rằng
Đức
Giê-su là Đấng Ki-tô?
Kẻ
ấy là tên Phản Ki-tô,
là
kẻ chối Chúa Cha và Chúa Con.
23
Ai
chối Chúa Con thì cũng không có Chúa Cha;
kẻ
tuyên xưng Chúa Con thì cũng có Chúa Cha.
24
Phần
anh em,
ước
chi điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu
ở
lại trong anh em.
Nếu
điều anh em đã nghe từ lúc khởi đầu
ở
lại trong anh em,
thì
chính anh em sẽ ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha.
25
Và
đây là điều
mà
chính Đức Ki-tô đã hứa ban cho chúng ta:
sự
sống đời đời.
26
Tôi
viết cho anh em những điều ấy
để
nói về những kẻ tìm cách
làm
cho anh em đi lạc đường.
27
Phần
anh em,
dầu
mà anh em đã lãnh nhận từ Đức Ki-tô
ở
lại trong anh em,
và
anh em chẳng cần ai dạy dỗ nữa.
Nhưng
vì dầu của Người dạy dỗ anh em mọi sự
-mà
dầu ấy dạy sự thật chứ không phải sự dối trá-,
thì
theo như dầu ấy đã dạy anh em,
anh
em hãy ở lại trong Người.
28
Giờ
đây, hỡi anh em là những người con bé nhỏ,
anh
em hãy ở lại trong Người,
để
khi Người xuất hiện,
chúng
ta được mạnh dạn, chứ không bị xấu hổ,
vì
phải xa cách Người trong ngày Người quang lâm.
II.
SỐNG XỨNG ĐÁNG LÀ CON CÁI THIÊN CHÚA
29
Nếu
anh em biết Thiên Chúa là Đấng Công Chính,
anh
em cũng phải biết rằng: phàm ai sống công chính
thì
đã được Thiên Chúa sinh ra.
Chương 3
1
Anh
em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào:
Người
yêu đến nỗi
cho
chúng ta được gọi là con Thiên Chúa
-mà
thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.
Sở
dĩ thế gian không nhận biết chúng ta,
là
vì thế gian đã không biết Người.
2
Anh
em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa;
nhưng
chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ.
Chúng
ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện,
chúng
ta sẽ nên giống như Người,
vì
Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.
Điều
kiện thứ nhất: đoạn tuyệt với tội lỗi
3
Phàm
ai đặt hy vọng như thế vào Đức Ki-tô
thì
làm cho mình nên thanh sạch
như
Người là Đấng thanh sạch.
4
Phàm
ai phạm tội thì cũng chống lại luật Thiên Chúa,
vì
tội lỗi chống lại luật Thiên Chúa.
5
Thế
mà anh em biết: Đức Giê-su đã xuất hiện
để
xoá bỏ tội lỗi, và nơi Người không có tội lỗi.
6
Phàm
ai ở lại trong Người thì không phạm tội.
Còn
ai phạm tội
thì
đã không thấy Người, và cũng chẳng biết Người.
7
Hỡi
anh em là những người con bé nhỏ,
đừng
để ai làm cho anh em đi lạc đường.
Ai
sống công chính, kẻ ấy là người công chính,
như
Đức Giê-su là Đấng Công Chính.
8
Ai
phạm tội, kẻ ấy là người của ma quỷ,
vì
ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu.
Sở
dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện,
là
để phá huỷ công việc của ma quỷ.
9
Phàm
ai đã được Thiên Chúa sinh ra thì không phạm tội,
vì
mầm sống của Thiên Chúa ở lại trong người ấy,
và
người ấy không thể phạm tội,
vì
đã được Thiên Chúa sinh ra.
10
Căn
cứ vào điều này mà người ta phân biệt
con
cái Thiên Chúa với con cái ma quỷ:
phàm
ai không sống công chính
thì
không thuộc về Thiên Chúa;
ai
không yêu thương anh em mình, thì cũng vậy.
Điều
kiện thứ hai: tuân giữ các điều răn, nhất là điều răn bác ái
11
Quả
thế, đây là lời loan báo
anh
em đã nghe từ lúc khởi đầu:
chúng
ta hãy yêu thương nhau;
12
chúng
ta đừng bắt chước Ca-in:
nó
là người của Ác thần, nên đã giết em mình.
Tại
sao nó đã giết em?
Bởi
vì các việc nó làm thì xấu xa,
còn
các việc em nó làm thì công chính.
13
Thưa
anh em, anh em đừng ngạc nhiên,
nếu
thế gian ghét anh em.
14
Chúng
ta biết rằng:
chúng
ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống,
vì
chúng ta yêu thương anh em.
Kẻ
không yêu thương, thì ở lại trong sự chết.
15
Phàm
ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân.
Và
anh em biết: không kẻ sát nhân nào
có
sự sống đời đời ở lại trong nó.
16
Căn
cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì:
đó
là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta.
Như
vậy, cả chúng ta nữa,
chúng
ta cũng phải thí mạng vì anh em.
17
Nếu
ai có của cải thế gian
và
thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu,
mà
chẳng động lòng thương,
thì
làm sao tình yêu Thiên Chúa
ở
lại trong người ấy được?
18
Hỡi
anh em là những người con bé nhỏ,
chúng
ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi,
nhưng
phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.
19
Căn
cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng
chúng
ta đứng về phía sự thật,
và
chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa.
20
Vì
nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta,
Thiên
Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta,
và
Người biết hết mọi sự.
21
Anh
em thân mến,
nếu
lòng chúng ta không cáo tội chúng ta,
chúng
ta được mạnh dạn đến cùng Thiên Chúa.
22
Và
bất cứ điều gì chúng ta xin, chúng ta được Người ban cho,
bởi
vì chúng ta tuân giữ các điều răn của Người
và
làm những gì đẹp ý Người.
23
Đây
là điều răn của Người: chúng ta phải tin
vào
danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người,
và
phải yêu thương nhau,
theo
điều răn Người đã ban cho chúng ta.
24
Ai
tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa
thì
ở lại trong Thiên Chúa
và
Thiên Chúa ở lại trong người ấy.
Căn
cứ vào điều này, chúng ta biết được
Thiên
Chúa ở lại trong chúng ta,
đó
là nhờ Thần Khí,
Thần
Khí Người đã ban cho chúng ta.
Chương 4
Điều
kiện thứ ba: đề phòng thế gian và những ngôn sứ giả
1
Anh
em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin,
nhưng
hãy cân nhắc các thần khí
xem
có phải bởi Thiên Chúa hay không,
vì
đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian.
2
Căn
cứ vào điều này,
anh
em nhận ra thần khí của Thiên Chúa:
thần
khí nào tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô
là
Đấng đã đến và trở nên người phàm,
thì
thần khí ấy bởi Thiên Chúa;
3
còn
thần khí nào không tuyên xưng Đức Giê-su,
thì
không bởi Thiên Chúa;
đó
là thần khí của tên phản Ki-tô.
Anh
em đã nghe nói là nó đang tới,
và
hiện nay nó ở trong thế gian rồi.
4
Hỡi
anh em là những người con bé nhỏ,
anh
em thuộc về Thiên Chúa,
và
anh em đã thắng được các ngôn sứ giả đó,
vì
Đấng ở trong anh em mạnh hơn kẻ ở trong thế gian.
5
Các
ngôn sứ giả đó thuộc về thế gian;
vì
thế, chúng nói theo thế gian, và thế gian nghe chúng.
6
Còn
chúng ta, chúng ta thuộc về Thiên Chúa.
Ai
biết Thiên Chúa thì nghe chúng ta.
Ai
không thuộc về Thiên Chúa thì không nghe chúng ta.
Chúng
ta cứ dựa vào đó mà nhận ra
thần
khí dẫn đến sự thật và thần khí làm cho sai lầm.
III.
NGUỒN MẠCH ĐỨC ÁI VÀ ĐỨC TIN
Nguồn
mạch đức ái
7
Anh
em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau,
vì
tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Phàm
ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra,
và
người ấy biết Thiên Chúa.
8
Ai
không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa,
vì
Thiên Chúa là tình yêu.
9
Tình
yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta
được
biểu lộ như thế này:
Thiên
Chúa đã sai Con Một đến thế gian
để
nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống.
10
Tình
yêu cốt ở điều này:
không
phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa,
nhưng
chính Người đã yêu thương chúng ta,
và
sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.
11
Anh
em thân mến,
nếu
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế,
chúng
ta cũng phải yêu thương nhau.
12
Thiên
Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ.
Nếu
chúng ta yêu thương nhau,
thì
Thiên Chúa ở lại trong chúng ta,
và
tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo.
13
Căn
cứ vào điều này, chúng ta biết được rằng
chúng
ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta:
đó
là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta.
14
Phần
chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng
và
làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến
làm
Đấng cứu độ thế gian.
15
Hễ
ai tuyên xưng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa,
thì
Thiên Chúa ở lại trong người ấy
và
người ấy ở lại trong Thiên Chúa.
16
Còn
chúng ta, chúng ta đã biết
tình
yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó.
Thiên
Chúa là tình yêu:
ai
ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa,
và
Thiên Chúa ở lại trong người ấy.
17
Căn
cứ vào điều này
mà
tình yêu đã nên hoàn hảo với chúng ta:
đó
là chúng ta được mạnh dạn trong ngày phán xét,
vì
Đức Giê-su thế nào
thì
chúng ta cũng như vậy ở thế gian này.
18
Tình
yêu không biết đến sợ hãi;
trái
lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi,
vì
sợ hãi gắn liền với hình phạt
và
ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo.
19
Phần
chúng ta, chúng ta hãy yêu thương,
vì
Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước.
20
Nếu
ai nói: ”Tôi yêu mến Thiên Chúa"
mà
lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối;
vì
ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên
Chúa mà họ không trông thấy.
21
Đây
là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người:
ai
yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình.
Chương 5
1
Phàm
ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô,
kẻ
ấy đã được Thiên Chúa sinh ra.
Và
ai yêu mến Đấng sinh thành,
thì
cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra.
2
Căn
cứ vào điều này, chúng ta biết được
mình
yêu thương con cái Thiên Chúa:
đó
là chúng ta yêu mến Thiên Chúa
và
thi hành các điều răn của Người.
3
Quả
thật, yêu mến Thiên Chúa
là
tuân giữ các điều răn của Người.
Mà
các điều răn của Người có nặng nề gì đâu,
4vì
mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian.
Và
điều làm cho chúng ta thắng được thế gian,
đó
là lòng tin của chúng ta.
Nguồn
mạch đức tin
5
Ai
là kẻ thắng được thế gian,
nếu
không phải là người tin rằng
Đức
Giê-su là Con Thiên Chúa?
6
Chính
Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến, nhờ nước và máu;
không
phải chỉ trong nước mà thôi,
nhưng
trong nước và trong máu.
Chính
Thần Khí là chứng nhân,
và
Thần Khí là sự thật.
7
Có
ba chứng nhân:
8
Thần
Khí, nước và máu.
Cả
ba cùng làm chứng một điều.
9
Chúng
ta vẫn nhận lời chứng của người phàm,
thế
mà lời chứng của Thiên Chúa còn cao trọng hơn,
vì
đó là lời chứng của Thiên Chúa,
lời
Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người.
10
Ai
tin vào Con Thiên Chúa,
người
đó có lời chứng ấy nơi mình.
Ai
không tin Thiên Chúa,
thì
coi Thiên Chúa là kẻ nói dối,
vì
kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa
đã
làm chứng về Con của Người.
11
Lời
chứng đó là thế này:
Thiên
Chúa đã ban cho chúng ta sự sống đời đời,
và
sự sống ấy ở trong Con của Người.
12
Ai
có Chúa Con thì có sự sống;
ai
không có Con Thiên Chúa thì không có sự sống.
13
Tôi
đã viết những điều đó cho anh em
là
những người tin vào danh Con Thiên Chúa,
để
anh em biết rằng anh em có sự sống đời đời.
BỔ
TÚC
Cầu
nguyện cho người tội lỗi
14
Lý
do khiến chúng ta được mạnh dạn
trước
mặt Thiên Chúa, đó là:
Người
nhậm lời chúng ta, khi chúng ta xin điều gì hợp ý Người.
15
Nếu
chúng ta biết rằng Người nhậm mọi lời chúng ta xin,
thì
chúng ta cũng biết rằng
chúng
ta sẽ được những gì chúng ta đã xin Người.
16
Nếu
ai biết anh em mình phạm thứ tội
không
đưa đến cái chết, thì hãy cầu xin,
và
Thiên Chúa sẽ ban sự sống cho người anh em ấy;
đó
là nói về những ai phạm thứ tội không đưa đến cái chết.
Có
một thứ tội đưa đến cái chết,
tôi
không bảo phải cầu xin cho thứ tội ấy.
17
Mọi
điều bất chính đều là tội,
nhưng
có một thứ tội không đưa đến cái chết.
Tóm
lược bức thư
18
Chúng
ta biết rằng phàm ai đã được Thiên Chúa sinh ra,
người
đó không phạm tội;
nhưng
có Đấng Thiên Chúa đã sinh ra giữ gìn người ấy,
và
Ác thần không đụng đến người ấy được.
19
Chúng
ta biết rằng chúng ta thuộc về Thiên Chúa,
còn
tất cả thế gian đều nằm dưới ách thống trị của Ác thần.
20
Chúng
ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến
và
ban cho chúng ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật.
Chúng
ta ở trong Thiên Chúa thật,
ở
trong Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô.
Đức
Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là sự sống đời đời.
21
Hỡi
anh em là những người con bé nhỏ,
hãy
tránh xa các tà thần!
Gio-an 2
Chương 1
Lời
chào
1
Tôi
là kỳ mục, kính gửi Bà đã được Thiên Chúa tuyển chọn, và con cái Bà là những
người mà tôi thực sự quý mến; không phải chỉ một mình tôi, mà là tất cả những
ai đã biết sự thật cũng đều quý mến, 2 bởi vì sự thật ở lại trong
chúng ta và sẽ ở với chúng ta mãi mãi. 3 Thiên Chúa là Cha và Đức
Giê-su Ki-tô là Con Chúa Cha sẽ cho chúng ta được hưởng ân sủng, lòng thương
xót và bình an, trong sự thật và tình thương.
Điều
răn yêu thương
4
Tôi
rất vui mừng vì đã gặp thấy trong số con cái của Bà, những người sống trong sự
thật, đúng như điều răn chúng ta đã nhận được từ Chúa Cha. 5 Thưa
Bà, bây giờ tôi xin Bà điều này-đây không phải là một điều răn mới tôi viết ra,
nhưng là điều răn chúng ta đã có từ lúc khởi đầu- đó là: chúng ta phải yêu
thương nhau. 6 Yêu thương là sống theo các điều răn của Thiên Chúa.
Như anh em đã được nghe từ lúc khởi đầu, điều răn này là: anh em phải sống
trong tình thương.
Những
kẻ phản Ki-tô
7
Vì
có nhiều người mê hoặc đã lan tràn khắp thế gian, họ là những kẻ không tuyên
xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến và trở nên người phàm. Đó là kẻ mê hoặc và
là tên Phản Ki-tô. 8 Anh em phải coi chừng để khỏi đánh mất những gì
anh em đã làm được, nhưng để lãnh đầy đủ phần thưởng. 9 Phàm ai đi
quá xa, không ở lại trong giáo huấn của Đức Ki-tô, thì không có Thiên Chúa. Còn
ai ở lại trong giáo huấn, thì người ấy có Chúa Cha và Chúa Con. 10 Nếu
ai đến với anh em mà không đem theo giáo huấn ấy, anh em đừng đón vào nhà và
cũng đừng chào hỏi người ấy. 11 Quả thật, ai chào hỏi là cộng tác
vào những việc xấu xa của người ấy.
Kết
luận
12
Tôi
còn có nhiều điều phải viết cho anh em, tôi không muốn dùng giấy mực. Nhưng tôi
hy vọng có thể đến với anh em và nói chuyện trực tiếp, để niềm vui của chúng ta
được nên trọn vẹn. 13 Các con của người chị em Bà, người chị em đã
được Thiên Chúa tuyển chọn, gửi lời kính chào Bà.
Gio-an 3
Chương 1
Lời
chào
1
Tôi
là kỳ mục, gửi anh Gai-ô thân mến, người mà tôi thực sự quý mến. 2 Anh
thân mến, tôi cầu chúc anh được mọi bề thịnh đạt: thể xác mạnh khoẻ và tinh
thần phấn chấn.
Ca
tụng ông Gai-ô
3
Quả
thật, tôi rất vui mừng bởi có những anh em đến đây và làm chứng là anh gắn bó
với sự thật, như anh vẫn sống trong sự thật. 4 Không có gì làm tôi
vui sướng bằng khi nghe biết con cái tôi sống sự thật.
5
Anh
thân mến, anh hành động theo đức tin trong mọi việc anh làm cho các người anh
em, dù họ là những người xa lạ. 6 Họ đã làm chứng về đức bác ái của
anh trước mặt Hội Thánh. Anh sẽ làm một việc nghĩa, nếu anh giúp đỡ cho chuyến
đi của họ cách xứng đáng trước mặt Thiên Chúa. 7 Quả thật, chính vì
danh Chúa, họ đã ra đi mà không nhận gì của người ngoại. 8 Vậy,
chúng ta phải tiếp đón những con người như thế, để cộng tác vào việc truyền bá
sự thật.
Hành
vi của ông Đi-ốt-rê-phét
9
Tôi
viết đôi lời cho Hội Thánh, nhưng Đi-ốt-rê-phét, một con người thích ăn trên
ngồi trước, không chịu nhận quyền của chúng tôi. 10 Vì thế, nếu tôi
đến, tôi sẽ nhắc lại cho anh ta những việc anh ta đã làm: anh ta cứ rêu rao
những lời độc địa chống chúng tôi. Chưa lấy thế làm đủ, anh ta còn không tiếp
đón các người anh em, và ai muốn tiếp đón thì anh ta ngăn cản và trục xuất khỏi
Hội Thánh. 11 Anh thân mến, anh đừng bắt chước làm điều dữ, nhưng
hãy bắt chước làm điều lành. Ai làm điều lành thì thuộc về Thiên Chúa; kẻ làm
điều dữ thì đã không thấy Thiên Chúa.
Làm
chứng cho ông Đê-mết-ri-ô
12
Mọi
người đều làm chứng tốt cho anh Đê-mết-ri-ô, và chính sự thật cũng làm chứng
như vậy. Cả chúng tôi nữa, chúng tôi cũng làm chứng cho anh ấy, và anh biết
rằng lời chứng của chúng tôi là xác thực.
Lời
kết thúc
13
Tôi
còn có nhiều điều đáng lẽ phải viết cho anh, nhưng tôi không muốn dùng bút mực
mà viết cho anh. 14 Tôi hy vọng sắp được gặp anh, và chúng ta sẽ nói
chuyện trực tiếp. 15 Chúc anh được bình an! Các bạn hữu gửi lời chào
anh. Cho tôi gửi lời chào các bạn hữu, đích danh từng người một.
Giu-đa
Chương 1
Lời
mở đầu
1
Tôi
là Giu-đa, tôi tớ của Đức Giê-su Ki-tô, anh em với ông Gia-cô-bê, xin gửi lời
thăm những người được kêu gọi, được Thiên Chúa là Cha yêu mến, và được dành
riêng cho Đức Giê-su Ki-tô. 2 Chúc anh em được đầy tràn lòng thương
xót, sự bình an và tình thương.
Lý
do viết thư
3
Anh
em thân mến, tôi vẫn ước mong viết thư cho anh em về ơn cứu độ chung của chúng
ta, thì nay lại bó buộc phải viết cho anh em, để khuyên nhủ anh em chiến đấu
cho đức tin đã được truyền lại cho dân thánh chỉ một lần là đủ. 4 Thật
vậy, có những người đã len lỏi vào, những người từ lâu đã bị ghi trước vào danh
sách những kẻ bị lên án, những kẻ vô luân này đã biến ân sủng của Thiên Chúa
chúng ta thành lý do biện minh cho lối sống dâm ô, họ chối bỏ Chúa chúng ta là
Đức Giê-su Ki-tô, vị Chúa Tể duy nhất.
Các
thầy dạy giả hiệu. Hình phạt dành cho họ
5
Cho
dù anh em đã biết mọi sự chỉ một lần là đủ, tôi cũng muốn nhắc cho anh em nhớ
lại rằng: Chúa đã cứu dân ra khỏi đất Ai-cập, sau đó lại tiêu diệt những kẻ
không chịu tin. 6 Những thiên thần đã không giữ địa vị của mình,
nhưng rời bỏ nơi mình ở, thì Người dùng xiềng xích mà giam giữ họ đời đời trong
nơi tối tăm, để chờ phán xét trong Ngày lớn lao. 7 Còn Xơ-đôm,
Gô-mô-ra và các thành lân cận làm chuyện gian dâm như họ và chạy theo những thú
vui xác thịt trái tự nhiên, thì đã phải chịu lửa đời đời làm hình phạt để nêu
gương.
Họ
nói lộng ngôn
8
Cả
những người mê sảng kia cũng vậy, họ làm cho thân xác ra ô uế, khinh dể chủ
quyền của Chúa, nói phạm đến các Bậc uy linh. 9 Khi bàn cãi và tranh
luận với quỷ về thi hài ông Mô-sê, ngay cả tổng lãnh thiên thần Mi-ca-en cũng
không dám đưa ra một phán quyết nào phạm đến nó, mà chỉ nói: Xin Chúa trừng
phạt ngươi! 10 Nhưng họ, họ lại nói phạm đến những điều họ không biết; còn
những điều họ biết được một cách tự nhiên như loài vật vô tri, thì chỉ làm cho
họ phải tiêu diệt.
Họ
là những kẻ gian tà
11
Khốn
cho họ, bởi họ đi vào con đường của Ca-in; vì chút tiền công, họ đã ngã theo sự
lầm lạc của Bi-lơ-am, và bị diệt vong vì làm loạn như Cô-rắc. 12 Họ
làm cho những bữa tiệc thân ái của anh em ra nhơ nhuốc; họ chè chén mà không
biết xấu hổ, họ chỉ lo cho chính mình. Họ là mây không có nước, cuốn theo chiều
gió. Họ là cây cuối mùa thu, không trái, chết hai lần, bị nhổ tận rễ. 13 Họ
là sóng biển hung dữ, tung bọt là những hành vi bỉ ổi của họ. Họ là những vì
sao lạc, u ám tối tăm là nơi dành cho họ đến muôn đời. 14 Ông
Kha-nốc, tổ phụ thứ bảy sau ông A-đam đã tuyên sấm về họ rằng: Này Chúa đến
giữa muôn vàn thần thánh của Người, 15 để xét xử mọi người, và kết
án mọi kẻ vô luân về tất cả các việc vô luân của họ, về tất cả những lời hỗn
xược quân tội lỗi vô luân đã nói phạm đến Người. 16 Họ là những
người hay lẩm bẩm, phàn nàn, đi theo các dục vọng của mình, miệng nói lời huênh
hoang, tâng bốc người ta để trục lợi.
Lời
khuyên nhủ các tín hữu. Giáo huấn của các Tông Đồ
17
Anh
em thân mến, phần anh em hãy nhớ lại những lời các Tông Đồ của Đức Giê-su
Ki-tô, Chúa chúng ta, đã nói trước kia. 18 Các ngài đã nói với anh
em: ”Vào thời cuối cùng sẽ có những kẻ nhạo báng, sống theo những dục vọng vô
luân của mình.” 19 Họ là những kẻ gây chia rẽ, sống theo tính tự
nhiên, không có Thần Khí.
Nhiệm
vụ của đức bác ái
20
Nhưng
anh em, hỡi anh em thân mến, hãy xây dựng đời mình trên nền tảng đức tin rất
thánh của anh em, hãy cầu nguyện nhờ Thánh Thần, 21 hãy cố gắng sống
mãi trong tình thương của Thiên Chúa, hãy chờ đợi lòng thương xót của Đức
Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, để được sống đời đời. 22 Những người do
dự thì anh em phải thương xót; 23 hãy lo cứu họ, kéo họ ra khỏi lửa
thiêu. Còn những người khác, thì anh em phải vừa thương xót, vừa sợ hãi, gớm
ghét ngay cả chiếc áo đã bị thân xác họ làm cho ra ô uế.
Vinh
tụng ca
24
Xin
kính dâng Đấng có quyền phép gìn giữ anh em khỏi sa ngã và cho anh em đứng
vững, tinh tuyền, trước vinh quang của Người, trong niềm hoan lạc, 25 xin
kính dâng Thiên Chúa duy nhất, Đấng Cứu Độ chúng ta, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa
chúng ta, kính dâng Người vinh quang, oai phong, sức mạnh và quyền năng, trước
mọi thời, bây giờ và cho đến muôn đời! A-men.
Khải Huyền
Chương 1
Lời
tựa
1
Mặc
khải của Đức Giê-su Ki-tô, mặc khải mà Thiên Chúa đã ban cho Người, để Người tỏ
cho các tôi tớ Người biết những việc sắp phải xảy đến. Người đã sai thiên thần
của Người đến báo cho ông Gio-an là tôi tớ của Người biết mặc khải đó. 2 Ông
Gio-an đã làm chứng về lời của Thiên Chúa và về lời chứng của Đức Giê-su Ki-tô,
về những gì ông đã thấy. 3 Phúc thay người đọc, phúc thay những ai
nghe những sấm ngôn đó và tuân giữ các điều chép trong đó, vì thời giờ đã gần
đến!
I.
THƯ GỬI CÁC HỘI THÁNH A-XI-A
Lời
mở đầu
4
Tôi
là Gio-an kính gửi bảy Hội Thánh A-xi-a. Xin Đấng hiện có, đã có và đang đến,
xin bảy thần khí hiện diện trước ngai của Người, 5 xin Đức Giê-su
Ki-tô là vị Chứng Nhân trung thành, là Trưởng Tử trong số những người từ cõi
chết chỗi dậy, là Thủ Lãnh mọi vương đế trần gian, ban cho anh em ân sủng và
bình an. Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, 6
làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế để phụng sự Thiên
Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở
muôn đời. A-men! 7 Kìa, Người ngự đến giữa đám mây. Ai nấy sẽ thấy Người, cả
những kẻ đã đâm Người. Mọi dân trên mặt đất sẽ đấm ngực than khóc khi thấy
Người. Đúng thế! A-men!
8
Đức
Chúa là Thiên Chúa phán: ”Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đấng hiện có, đã có và
đang đến, là Đấng Toàn Năng.”
Thị
kiến mở đầu
9
Tôi
là Gio-an, một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng
hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Đức Giê-su. Lúc
ấy, tôi đang ở đảo gọi là Pát-mô, vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng
của Đức Giê-su. 10 Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng
sau tôi có một tiếng lớn như thể tiếng kèn 11 nói rằng: ”Điều ngươi thấy, hãy
ghi vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh: Ê-phê-xô, Xi-miếc-na, Péc-ga-mô,
Thy-a-ti-ra, Xác-đê, Phi-la-đen-phi-a và Lao-đi-ki-a.” 12 Tôi quay
lại để xem tiếng ai nói với tôi. Khi quay lại, tôi thấy bảy cây đèn vàng. 13
Ở giữa các cây đèn, có ai giống như Con Người mình mặc áo chùng và ngang
ngực có thắt đai bằng vàng. 14 Đầu Người tóc trắng như len trắng,
như tuyết; mắt Người như ngọn lửa hồng; 15 chân Người giống như đồng
đỏ được tôi luyện trong lò; và tiếng Người như tiếng nước lũ. 16
17
Lúc
thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy. Người đặt tay hữu
lên tôi và nói: ”Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. 18 Ta là Đấng Hằng
Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của
Tử thần và Âm phủ. 19 Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì
đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này. 20 Đây là ý nghĩa mầu
nhiệm của bảy ngôi sao ngươi đã thấy trên tay hữu Ta, và của bảy cây đèn vàng:
bảy ngôi sao là các thiên thần của bảy Hội Thánh, và bảy cây đèn là bảy Hội
Thánh.
Chương 2
I.
Ê-phê-xô
1
Hãy
viết cho thiên thần của Hội Thánh Ê-phê-xô: Đây là lời của Đấng cầm trong tay
hữu bảy vì sao, Đấng đi giữa bảy cây đèn vàng: 2 Ta biết các việc
ngươi làm, nỗi vất vả và lòng kiên nhẫn của ngươi; Ta biết ngươi không thể chịu
đựng kẻ ác. Ngươi đã thử thách những kẻ xưng mình là tông đồ, mà thực ra không
phải, và ngươi đã thấy rằng chúng là những kẻ nói dối. 3 Ngươi có
lòng kiên nhẫn và đã chịu khổ vì danh Ta mà không mệt mỏi. 4 Nhưng
Ta trách ngươi điều này: ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. 5 Vậy
hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi
đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi
ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải. 6 Nhưng ngươi được điều
này: ngươi ghét các việc của bè Ni-cô-la, như chính Ta cũng ghét. 7 Ai
có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng, Ta sẽ cho
ăn quả cây sự sống trồng nơi ngự uyển của Thiên Chúa.
II.
Xi-miếc-na
8
Hãy
viết cho thiên thần của Hội Thánh Xi-miếc-na: Đây là lời của Đấng là Đầu và là
Cuối, Đấng đã chết và đã sống lại: 9 Ta biết nỗi gian truân, và cảnh
nghèo khó của ngươi- nhưng thực ra ngươi giàu có- cũng như Ta biết lời vu khống
của những kẻ xưng mình là Do-thái, mà thực ra không phải: chúng chỉ là thành
viên thuộc hội đường của Xa-tan. 10 Đừng sợ các nỗi đau khổ ngươi
sắp phải chịu: này ma quỷ sắp tống một số người trong các ngươi vào ngục để thử
thách các ngươi; các ngươi sẽ phải lâm cảnh gian truân trong vòng mười ngày.
Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống. 11
Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng sẽ
không hề bị cái chết thứ hai làm hại.
III.
Péc-ga-mô
12
Hãy
viết cho thiên thần của Hội Thánh Péc-ga-mô: Đây là lời của Đấng mang thanh
gươm hai lưỡi sắc bén: 13 Ta biết ngươi ở đâu: ở nơi đặt ngai của
Xa-tan. Nhưng ngươi gắn bó với danh Ta và không chối bỏ lòng tin vào Ta, ngay
cả trong thời An-ti-pa. Ông này là chứng nhân trung thành của Ta, ông đã bị
giết trong thành của các ngươi, nơi Xa-tan ở. 14 Nhưng Ta có ít điều
trách ngươi: ở đó ngươi có những kẻ nắm giữ đạo lý của Bi-lơ-am. Ông này đã dạy
Ba-lác gây cớ vấp ngã cho con cái Ít-ra-en, khiến chúng ăn đồ cúng và làm
chuyện gian dâm. 15 Cả ngươi nữa, ngươi cũng có những kẻ nắm giữ đạo
lý bè Ni-cô-la. 16 Vậy hãy hối cải; bằng không, Ta đến với ngươi
ngay tức khắc và sẽ dùng lưỡi gươm từ miệng Ta mà giao chiến với chúng. 17
Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng, Ta
sẽ ban cho man-na đã được giấu kỹ; Ta cũng sẽ ban cho nó một viên sỏi trắng,
trên sỏi đó có khắc một tên mới; chẳng ai biết được tên ấy, ngoài kẻ lãnh nhận.
IV.
Thy-a-ti-ra
18
Hãy
viết cho thiên thần của Hội Thánh Thy-a-ti-ra: Đây là lời của Con Thiên Chúa,
Đấng có mắt như ngọn lửa hồng và chân giống như đồng đỏ: 19 Ta biết
các việc ngươi làm, biết đức ái, đức tin, công việc phục vụ và lòng kiên nhẫn
của ngươi; Ta cũng biết rằng những việc của ngươi bây giờ thì nhiều hơn trước
kia. 20 Nhưng Ta trách ngươi điều này: ngươi dung túng I-de-ven,
người đàn bà xưng mình là nữ ngôn sứ; nó mê hoặc các tôi tớ của Ta, dạy chúng
làm chuyện gian dâm và ăn đồ cúng. 21 Ta đã cho nó có thời giờ hối
cải, nhưng nó không muốn hối cải mà từ bỏ thói gian dâm. 22 Này đây,
Ta bắt nó phải liệt giường, và làm cho những kẻ ngoại tình với nó phải lâm cảnh
gian truân khốn khổ, nếu chúng không hối cải mà từ bỏ những việc chúng làm. 23
Ta sẽ giết chết con cái của nó. Tất cả các Hội Thánh sẽ biết rằng Ta là
Đấng dò thấu lòng dạ, và Ta sẽ tuỳ theo việc các ngươi làm mà thưởng phạt mỗi
người. 24 Còn các ngươi, những người khác ở Thy-a-ti-ra, những kẻ
không theo đạo lý ấy, không biết đến cái mà chúng gọi là “các bí mật thâm sâu
của Xa-tan", thì Ta bảo các ngươi: Ta không bắt các ngươi phải mang gánh
nặng nào khác. 25 Nhưng cái gì các ngươi đang có, hãy nắm chắc cho
tới khi Ta đến. 26 Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền,
Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các dân: 27 Người ấy sẽ dùng
trượng sắt mà chăn dắt chúng, sẽ nghiền nát chúng như đồ sành đồ gốm. 28 Đó
là quyền mà chính Ta đã được Cha Ta trao cho. Ta sẽ ban Sao Mai cho người ấy. 29
Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh.
Chương 3
V.
Xác-đê
1
Hãy
viết cho thiên thần của Hội Thánh Xác-đê. Đây là lời của Đấng có bảy Thần Khí
Thiên Chúa và bảy ngôi sao: Ta biết các việc ngươi làm, biết ngươi được tiếng
là đang sống, mà thực ra đã chết. 2 Hãy tỉnh thức! Hãy củng cố chút
sức còn lại đang suy tàn, vì Ta nhận thấy các việc của ngươi không được hoàn
hảo trước mặt Thiên Chúa của Ta. 3 Vậy hãy nhớ lại: ngươi đã lãnh
nhận và nghe Lời Chúa thế nào; hãy tuân giữ và hối cải! Vậy nếu ngươi không
tỉnh thức, thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biết giờ nào Ta sẽ đến bắt
chợt ngươi. 4 Nhưng tại Xác-đê, ngươi có một ít người đã không làm
nhơ bẩn áo mình; họ sẽ mặc áo trắng cùng đi với Ta, vì họ xứng đáng. 5 Như
thế, ai thắng sẽ được mặc áo trắng; Ta sẽ không xoá tên người ấy khỏi Sổ Trường
Sinh; Ta sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Ta và trước mặt các thiên thần của
Người. 6 Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội
Thánh.
VI.
Phi-la-đen-phi-a
7
Hãy
viết cho thiên thần của Hội Thánh Phi-la-đen-phi-a: Đây là lời của Đấng Thánh,
Đấng Chân Thật, Đấng giữ chìa khoá vua Đa-vít, Người mở ra thì không ai đóng
lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được. 8 Ta biết các việc
ngươi làm: này Ta để một cửa mở trước mặt ngươi, không ai có thể đóng lại được,
bởi vì tuy ngươi ít thế lực, ngươi cũng đã giữ lời Ta và đã không chối bỏ danh
Ta. 9 Này Ta sẽ ban cho ngươi một số người thuộc hội đường của
Xa-tan, những kẻ xưng mình là Do-thái, mà thực ra không phải, vì chúng nói dối.
Này Ta sẽ bắt chúng đến phủ phục dưới chân ngươi và nhận biết rằng Ta đã yêu
mến ngươi. 10 Vì ngươi đã giữ lời Ta dạy phải kiên nhẫn chịu đựng,
nên Ta cũng giữ gìn ngươi cho khỏi giờ thử thách sắp xảy đến trên toàn cõi địa
cầu, để thử thách những người sống trên mặt đất. 11 Chẳng bao lâu
nữa Ta sẽ đến; cái gì ngươi đang có, hãy nắm chắc, đừng để ai lấy mất triều thiên
dành cho ngươi. 12 Ai thắng, Ta sẽ cho làm cột trụ trong Đền Thờ
Thiên Chúa của Ta, người ấy sẽ không hề ra khỏi đó nữa. Ta sẽ ghi trên người ấy
danh thánh Thiên Chúa của Ta, và tên thành đô Thiên Chúa của Ta, là
Giê-ru-sa-lem mới từ trời, từ nơi Thiên Chúa của Ta mà xuống. Ta cũng sẽ ghi
trên người ấy tên mới của Ta. 13 Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần
Khí nói với các Hội Thánh.
VII.
Lao-đi-ki-a
14
Hãy
viết cho thiên thần của Hội Thánh Lao-đi-ki-a: Đây là lời của Đấng A-men, là
Chứng Nhân trung thành và chân thật, là Khởi Nguyên của mọi loài Thiên Chúa tạo
dựng. 15 Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng
nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! 16 Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng
nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta. 17 Ngươi
nói: ”Tôi giàu có, tôi đã làm giàu, tôi chẳng thiếu thốn chi"; nhưng ngươi
không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần
truồng. 18 Vì thế, Ta khuyên ngươi đến với Ta mà mua vàng đã thử lửa
để làm giàu, mua áo trắng để mặc khiến ngươi khỏi xấu hổ vì để lộ thân thể trần
truồng, mua thuốc để xức mắt cho ngươi nhìn thấy được. 19 Phần Ta,
mọi kẻ Ta yêu mến, thì Ta răn bảo dạy dỗ. Vậy hãy nhiệt thành và hối cải ăn
năn! 20 Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ
vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta. 21
Ai thắng, Ta sẽ cho ngự bên Ta trên ngai của Ta, cũng như Ta đã thắng và
ngự bên Cha Ta trên ngai của Người. 22 Ai có tai, thì hãy nghe điều
Thần Khí nói với các Hội Thánh.”
Chương 4
II.
CÁC THỊ KIẾN
1.
CHUẨN BỊ”NGÀY LỚN LAO" CỦA THIÊN CHÚA
Thiên
Chúa trao vận mệnh thế giới cho Con Chiên
1
Sau
đó, tôi được một thị kiến. Kìa một cái cửa mở ra ở trên trời, và tiếng mà trước
đây tôi nghe nói với tôi như thể tiếng kèn, bảo tôi rằng: ”Lên đây, Ta sẽ chỉ
cho ngươi thấy những điều phải xảy ra sau đó.” 2 Lập tức tôi xuất
thần. Kìa một cái ngai đặt ở trên trời và có một Đấng ngự trên ngai. 3 Đấng
ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não. Chung quanh ngai có cầu vồng
trông giống như bích ngọc. 4 Chung quanh ngai có hai mươi bốn ngai
khác, và trên những ngai đó có hai mươi bốn vị Kỳ Mục; các vị đang ngồi, mình
mặc áo trắng, đầu đội triều thiên vàng. 5 Từ ngai phát ra ánh chớp,
tiếng sấm tiếng sét. Bảy ngọn đuốc, tức là bảy thần khí của Thiên Chúa cháy
sáng trước ngai. 6 Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha
lê. Ở giữa ngai và chung quanh ngai có bốn Con Vật, đằng trước và đằng sau đầy
những mắt. 7 Con Vật thứ nhất giống như sư tử, Con Vật thứ hai giống
như bò tơ, Con Vật thứ ba có mặt như mặt người, Con Vật thứ bốn giống như đại
bàng đang bay. 8 Bốn Con Vật ấy, mỗi con có sáu cánh, chung quanh và
bên trong đầy những mắt. Ngày đêm chúng không ngừng hô lên rằng:
Thánh!
Thánh! Chí Thánh!
Đức
Chúa, Thiên Chúa toàn năng,
Đấng
đã có, hiện có và đang đến!
9
Mỗi
khi những Con Vật ấy kính dâng vinh quang, danh dự và lời tạ ơn lên Đấng ngự
trên ngai, Đấng hằng sống đến muôn thuở muôn đời, 10 thì hai mươi
bốn vị Kỳ Mục phủ phục xuống trước mặt Đấng ngự trên ngai mà thờ lạy Người,
Đấng hằng sống đến muôn thuở muôn đời, rồi đặt triều thiên của mình xuống trước
ngai mà nói:
11 “Lạy Chúa là Thiên
Chúa chúng con,
Ngài
xứng đáng lãnh nhận
vinh
quang, danh dự và uy quyền,
vì
Ngài đã dựng nên muôn vật,
và
do ý Ngài muốn,
mọi
loài liền có và được dựng nên.”
Chương 5
1
Tôi
thấy trong tay hữu Đấng ngự trên ngai một cuốn sách viết cả trong lẫn ngoài,
niêm bảy ấn. 2 Rồi tôi thấy một thiên thần dũng mãnh lớn tiếng công
bố: ”Ai xứng đáng mở cuốn sách và tháo ấn niêm phong?” 3 Nhưng không
ai ở trên trời, dưới đất hay trong lòng đất, có thể mở cuốn sách và nhìn vào đó.
4 Tôi khóc nức nở, vì không ai được coi là xứng đáng mở cuốn sách và
nhìn vào đó. 5 Một trong các vị Kỳ Mục bảo tôi: ”Đừng khóc nữa! Này
đây, Sư Tử xuất thân từ chi tộc Giu-đa, Chồi Non của Đa-vít đã chiến thắng,
Người sẽ mở cuốn sách và bảy ấn niêm phong.”
6
Bấy
giờ tôi thấy đứng ở giữa ngai và bốn Con Vật, giữa các vị Kỳ Mục, một Con
Chiên, trông như thể đã bị giết; Chiên đó có bảy sừng và bảy mắt, tức là bảy
thần khí của Thiên Chúa đã được sai đi khắp mặt đất. 7 Con Chiên đến
lãnh cuốn sách từ tay hữu Đấng ngự trên ngai. 8 Khi Con Chiên đã
lãnh cuốn sách, thì bốn Con Vật và hai mươi bốn vị Kỳ Mục phủ phục xuống trước
mặt Con Chiên, mỗi vị tay cầm đàn, tay nâng chén vàng đầy hương thơm, tức là
những lời cầu nguyện của dân thánh. 9 Các vị hát một bài ca mới
rằng:
"Ngài
xứng đáng lãnh nhận cuốn sách
và
mở ấn niêm phong, vì Ngài đã bị giết
và
đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa
muôn
người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ,
thuộc
mọi nước, mọi dân.
10
Ngài
cũng làm cho họ
thành
một vương quốc, thành những tư tế,
để
phụng thờ Thiên Chúa chúng ta,
và
họ sẽ làm chủ mặt đất này.”
11
Tôi
thấy, và tôi nghe tiếng muôn vàn thiên thần ở chung quanh ngai, các Con Vật và
các Kỳ Mục. Số các thiên thần có tới ức ức triệu triệu. 12 Các vị
lớn tiếng hô:
"Con
Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận
phú
quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh,
danh
dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc.”
13
Tôi
lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi
và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô:
"Xin
kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên
lời
chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng
đến
muôn thuở muôn đời!”
14
Bốn
Con Vật thưa: ”A-men.” Và các Kỳ Mục phủ phục xuống thờ lạy.
Chương 6
Con
Chiên mở ấn
1
Tôi
lại thấy: khi Con Chiên mở ấn thứ nhất trong bảy ấn, thì tôi nghe một trong bốn
Con Vật hô lên, tiếng vang như sấm: ”Hãy đến!”2 Tôi thấy: kìa một con ngựa
trắng, và người cỡi ngựa mang cung. Người ấy được tặng một triều thiên và ra đi
như người thắng trận, để chiến thắng.
3
Khi
Con Chiên mở ấn thứ hai, thì tôi nghe Con Vật thứ hai hô: ”Hãy đến!”4 Một con
ngựa khác đi ra, đỏ như lửa, người cỡi ngựa nhận được quyền cất hoà bình khỏi
mặt đất, để cho người ta giết nhau; người ấy được ban một thanh gươm lớn.
5
Khi
Con Chiên mở ấn thứ ba, thì tôi nghe Con Vật thứ ba hô: ”Hãy đến!” Tôi thấy:
kìa một con ngựa ô, và người cỡi ngựa cầm cân trong tay. 6 Tôi lại
nghe như có tiếng nói từ giữa bốn Con Vật vang lên: ”Một cân lúa mì, một quan
tiền! Ba cân lúa mạch, một quan tiền! Còn dầu và rượu, thì chớ đụng đến!”
7
Khi
Con Chiên mở ấn thứ bốn, thì tôi nghe tiếng Con Vật thứ bốn hô: ”Hãy đến!”8 Tôi
thấy: kìa một con ngựa xanh nhạt, và người cỡi ngựa mang tên là Tử thần, có Âm
phủ theo sau.
Chúng
nhận được quyền hành trên một phần tư mặt đất, để giết bằng gươm giáo, đói kém,
ôn dịch và thú dữ sống trên đất.
9
Khi
Con Chiên mở ấn thứ năm, thì tôi thấy dưới bàn thờ, linh hồn của những người đã
bị giết vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và đã làm chứng. 10 Họ lớn
tiếng kêu: ”Lạy Chúa chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn,
không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất phải đền nợ máu chúng
con?” 11 Bấy giờ mỗi người trong số họ được lãnh một áo trắng; và có
lời phán bảo họ cứ nghỉ yên một thời gian ngắn nữa, chờ cho đủ số những người
cũng là tôi tớ Thiên Chúa và là anh em của họ, sắp bị giết như họ.
12
Tôi
thấy: khi Con Chiên mở ấn thứ sáu, có động đất mạnh. Mặt trời tối đen như vải
thợ dệt bằng lông, mặt trăng hoàn toàn ra như máu. 13 Sao trên trời
sa xuống đất, tựa những trái vả xanh rụng xuống từ cây vả bị gió lớn lay mạnh. 14
Trời bị cuốn đi như một cuốn sách cuộn lại, mọi núi non và hải đảo bị dời
đi nơi khác. 15 Vua chúa trần gian, vương hầu khanh tướng, người
giàu sang, kẻ quyền thế, và mọi người, nô lệ hay tự do, tất cả đều phải trốn
vào hang hốc và núi đá. 16 Họ bảo núi và đá: ”Đổ xuống đè ta đi và
che giấu ta cho khuất mắt Đấng ngự trên ngai, cho khỏi cơn thịnh nộ của Con
Chiên; 17 vì Ngày lớn lao, Ngày thịnh nộ của các Ngài đã tới, và ai
có thể đứng vững được?”
Chương 7
Các
tôi tớ Thiên Chúa sẽ được bảo vệ
1
Sau
đó, tôi thấy có bốn thiên thần đứng ở bốn phương của mặt đất, giữ bốn ngọn gió
của đất lại, không cho ngọn gió nào thổi trên đất liền, trên biển cả cũng như
trên mọi cây cối. 2 Tôi lại thấy một thiên thần khác, mang ấn của
Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên. Thiên thần ấy lớn tiếng bảo
bốn thiên thần khác, là những vị được quyền phá hại đất liền và biển cả, 3
rằng: ”Xin đừng phá hại đất liền, biển cả và cây cối, trước khi chúng tôi
đóng ấn trên trán các tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta". 4 Rồi
tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn
người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái Ít-ra-en.
5
Chi
tộc Giu-đa có mười hai ngàn người được đóng ấn; chi tộc Rưu-vên: mười hai ngàn;
chi tộc Gát: mười hai ngàn; 6 chi tộc A-se: mười hai ngàn; chi tộc
Náp-ta-li: mười hai ngàn; chi tộc Mơ-na-se: mười hai ngàn; 7 chi tộc
Si-mê-ôn: mười hai ngàn; chi tộc Lê-vi: mười hai ngàn; chi tộc Ít-xa-kha: mười
hai ngàn; 8 chi tộc Dơ-vu-lun: mười hai ngàn; chi tộc Giu-se: mười
hai ngàn; chi tộc Ben-gia-min có mười hai ngàn người được đóng ấn.
Cuộc
khải hoàn trên thiên quốc
9
Sau
đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi
dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con
Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. 10 Họ lớn
tiếng tung hô: ”Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con
Chiên đã cứu độ chúng ta.” 11 Tất cả các thiên thần đều đứng chung
quanh ngai, chung quanh các Kỳ Mục và bốn Con Vật. Họ đều sấp mặt xuống, phủ
phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô 12 rằng:
"A-men!
Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta
lời
chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn,
danh
dự, uy quyền và sức mạnh,
đến
muôn thuở muôn đời! A-men!”
13
Một
trong các Kỳ Mục lên tiếng hỏi tôi: ”Những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ
từ đâu đến?” 14 Tôi trả lời: ”Thưa Ngài, Ngài biết đó.” Vị ấy bảo
tôi: ”Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã
giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. 15 Vì thế, họ
được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người;
Đấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn. 16 Họ sẽ
không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí
nóng hành hạ nữa. 17 Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt
và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt
họ.”
Chương 8
Mở
ấn thứ bảy
1
Khi
Con Chiên mở ấn thứ bảy, thì cả trời yên lặng chừng nửa giờ. . .
Lời
cầu nguyện của dân thánh
2
Rồi
tôi thấy bảy thiên thần đứng chầu trước nhan Thiên Chúa; các vị ấy lãnh nhận
bảy chiếc kèn. 3 Một thiên thần khác đến đứng trước bàn thờ, tay cầm
bình hương vàng. Thiên thần lãnh nhận nhiều hương thơm, để dâng trên bàn thờ
bằng vàng trước ngai Thiên Chúa, cùng với những lời cầu nguyện của toàn thể dân
thánh. 4 Từ tay thiên thần, khói hương quyện theo lời cầu nguyện của
dân thánh, bay lên trước nhan Thiên Chúa. 5 Rồi thiên thần cầm bình
hương, lấy lửa trên bàn thờ bỏ đầy vào và ném xuống đất. Liền có tiếng sấm,
tiếng sét, ánh chớp và động đất.
Bốn
tiếng kèn đầu tiên
6
Bảy
thiên thần cầm bảy kèn sửa soạn thổi. 7 Tiếng kèn của vị thứ nhất nổi
lên. Mưa đá và lửa, hoà với máu, trút xuống đất. Một phần ba mặt đất bị thiêu
huỷ, một phần ba cây cối bị thiêu huỷ, và tất cả cỏ xanh bị thiêu huỷ.
8
Tiếng
kèn của thiên thần thứ hai nổi lên. Có cái gì như quả núi lớn rực lửa bị ném
xuống biển. Một phần ba biển hoá thành máu. 9 Một phần ba các loài
thụ tạo sống dưới biển bị chết, và một phần ba tàu bè bị phá huỷ.
10
Tiếng
kèn của thiên thần thứ ba nổi lên. Từ trời rơi xuống một ngôi sao lớn cháy như
đuốc. Sao rơi xuống một phần ba sông ngòi và xuống các nguồn nước. 11 Tên
ngôi sao là Ngải Đắng. Một phần ba nước hoá thành ngải đắng, và có nhiều người
chết vì thứ nước đã hoá đắng ấy.
12
Tiếng
kèn của thiên thần thứ bốn nổi lên. Một phần ba mặt trời, một phần ba mặt trăng
và một phần ba các ngôi sao bị đánh trúng, khiến chúng tối đi một phần ba, ngày
mất sáng một phần ba và đêm cũng thế.
13
Tôi
thấy, và tôi nghe một con đại bàng bay trên đỉnh vòm trời, kêu lớn tiếng: ”Khốn
thay! Khốn thay! Khốn thay những người sống trên mặt đất, vì sắp nổi lên những
tiếng kèn còn lại của ba thiên thần!”
Chương 9
Tiếng
kèn thứ năm
1
Tiếng
kèn của thiên thần thứ năm nổi lên. Tôi thấy một ngôi sao từ trời sa xuống đất;
ngôi sao ấy nhận được chìa khoá của giếng vực thẳm. 2 Ngôi sao mở
giếng vực thẳm, và một đám khói từ giếng bốc lên, giống như khói một cái lò
lớn, khiến mặt trời và không khí tối sầm lại vì khói của giếng ấy. 3 Từ
đám khói ấy, châu chấu bay ra khắp mặt đất. Chúng nhận được quyền phép như
quyền phép của bọ cạp trên mặt đất. 4 Chúng bị cấm không được phá
hại cỏ trên mặt đất, mọi loài xanh tươi và mọi cây cối, mà chỉ được phá hại
những người không mang ấn của Thiên Chúa trên trán. 5 Chúng không
được phép giết họ, mà chỉ được gây khổ hình cho họ trong vòng năm tháng. Khổ
hình chúng gây ra không khác gì khổ hình của người bị bọ cạp đốt. 6 Trong
những ngày ấy, người ta sẽ tìm cái chết mà không thấy, họ mong chết mà cái chết
lại trốn họ.
7
Hình
dạng châu chấu giống như ngựa sẵn sàng vào trận; trên đầu chúng có cái gì như
thể triều thiên bằng vàng, còn mặt chúng thì như mặt người. 8 Chúng
có tóc như tóc đàn bà, có răng tựa răng sư tử. 9 Ngực chúng khác nào
áo giáp sắt, và tiếng cánh chúng đập, như tiếng xe nhiều ngựa kéo đang xông vào
trận. 10 Chúng có đuôi như đuôi bọ cạp, mang nọc; đuôi chúng có
quyền phép làm hại người ta trong vòng năm tháng. 11 Vua cai trị
chúng là thần sứ của vực thẳm, tên Híp-ri là “A-vát-đôn", còn tên Hy-lạp là
“A-pô-ly-on".
12
Cái
Khốn thứ nhất đã qua, nhưng này còn hai cái Khốn nữa theo sau.
Tiếng
kèn thứ sáu
13
Tiếng
kèn của thiên thần thứ sáu nổi lên. Tôi nghe có một tiếng phát ra từ bốn sừng
của bàn thờ bằng vàng ở trước nhan Thiên Chúa. 14 Tiếng ấy bảo thiên
thần thứ sáu đang cầm kèn: ”Hãy thả bốn vị thiên thần đang bị trói ở sông cả
Êu-phơ-rát.” 15 Bốn thiên thần được thả ra, các vị sẵn sàng để đúng
vào năm, tháng, ngày, giờ ấy thì giết một phần ba loài người. 16 Số
các đạo quân là hai trăm triệu kỵ binh; tôi được nghe biết con số ấy. 17 Trong
thị kiến, tôi thấy ngựa và người cỡi ngựa như thế này: chúng mặc áo giáp màu
lửa, màu huỳnh ngọc và diêm sinh; đầu ngựa như đầu sư tử, và mõm chúng phun ra
lửa, khói và diêm sinh. 18 Một phần ba loài người bị ba tai ương ấy
giết, tức là lửa, khói và diêm sinh từ mõm ngựa phun ra. 19 Quả thế,
quyền phép của ngựa thì ở mõm và ở đuôi chúng, vì đuôi chúng như rắn, có đầu,
và chúng dùng đầu ấy mà làm hại. 20 Những người còn lại, những người
không bị các tai ương ấy giết, vẫn không chịu hối cải mà từ bỏ các sản phẩm tay
chúng làm ra, vẫn cứ thờ lạy ma quỷ và các tượng thần bằng vàng, bạc, đồng, đá,
gỗ, là những tượng không thấy, không nghe và không đi được. 21 Họ
không chịu hối cải mà từ bỏ những tội giết người, phù phép, gian dâm, trộm cắp
của họ.
Chương 10
Hình
phạt cuối cùng đang tới
1
Sau
đó, tôi thấy một thiên thần dũng mãnh khác từ trời xuống, có mây bao phủ, có
hào quang trên đầu; mặt thiên thần tựa mặt trời, còn chân thì như những cột lửa.
2 Người cầm trong tay một cuốn sách nhỏ mở sẵn, Người đặt chân phải
lên biển, chân trái lên đất, 3 và kêu lớn tiếng như sư tử gầm. Người
kêu xong, thì bảy hồi sấm lên tiếng nói. 4 Bảy hồi sấm nói xong, tôi
sắp sửa viết thì nghe tiếng từ trời phán: ”Hãy niêm phong lại những gì bảy hồi
sấm đã nói, đừng có viết.” 5 Bấy giờ thiên thần tôi đã thấy đứng
trên biển và đất, giơ tay hữu lên trời6 mà thề nhân danh Đấng Hằng Sống đến muôn
thuở muôn đời, Đấng đã sáng tạo trời và muôn vật trên trời, đất và muôn vật
dưới đất, biển và muôn vật trong biển. Người thề: ”Sẽ không trì hoãn nữa! 7
Nhưng trong những ngày tiếng kèn của thiên thần thứ bảy bắt đầu nổi lên, thì
mầu nhiệm của Thiên Chúa sẽ hoàn tất, như Người đã loan báo cho các tôi tớ của
Người là các ngôn sứ.”
Nuốt
cuốn sách nhỏ
8
Rồi
tiếng tôi đã nghe từ trời, lại nói với tôi và bảo: ”Hãy đi lấy cuốn sách mở sẵn
trong tay thiên thần đang đứng trên biển và đất.” 9 Tôi đến gặp
thiên thần và xin người cho tôi cuốn sách nhỏ. Người bảo tôi: ”Cầm lấy mà nuốt
đi! Nó sẽ làm cho bụng dạ ông phải cay đắng, nhưng trong miệng ông, nó sẽ ngọt
ngào như mật ong.” 10 Tôi cầm lấy cuốn sách nhỏ từ tay thiên thần và
nuốt đi. Trong miệng tôi nó ngọt ngào như mật ong, nhưng khi tôi nuốt rồi, thì
bụng dạ tôi cay đắng. 11 Và có tiếng bảo tôi: ”Một lần nữa, ông phải
tuyên sấm về nhiều nước, nhiều dân, nhiều ngôn ngữ và vua chúa.”
Chương 11
Hai
chứng nhân
1
Bấy
giờ tôi nhận được một cây sậy, giống như một cái gậy, và nghe bảo: ”Hãy đứng
dậy mà đo Đền Thờ Thiên Chúa và bàn thờ cùng với những người đang thờ phượng
trong đó. 2 Nhưng tiền đình phía ngoài của Đền Thờ, thì bỏ đi, đừng
đo, vì chỗ ấy đã được phó mặc cho dân ngoại, chúng sẽ chà đạp Thành Thánh trong
vòng bốn mươi hai tháng. 3 Trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi
ngày ấy, Ta sẽ cho hai chứng nhân của Ta đến tuyên sấm, mình mặc áo vải thô.” 4
Đó là hai cây ô-liu và hai cây đèn đứng trước nhan Chúa Tể cõi đất. 5
Nếu ai muốn làm hại các ngài, thì lửa sẽ từ miệng các ngài phát ra và
thiêu huỷ thù địch của các ngài. Ai muốn làm hại các ngài, sẽ bị giết như thế. 6
Các ngài có quyền đóng cửa trời lại, khiến mưa không rơi xuống trong
những ngày các ngài làm ngôn sứ. Các ngài cũng có quyền biến nước thành máu và
gieo tai giáng hoạ xuống mặt đất, bao nhiêu lần tuỳ ý. 7 Khi các
ngài đã hoàn thành nhiệm vụ làm chứng, thì Con Thú từ vực thẳm sẽ lên tấn công
các ngài, nó sẽ thắng và giết các ngài. 8 Thi hài của các ngài sẽ
nằm ở quảng trường của thành phố vĩ đại; thành phố ấy mang tên tượng trưng là
Xơ-đôm và Ai-cập, ở chính nơi Chúa của các ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá.
9 Từ các dân, các nước, các ngôn ngữ và các chi tộc, người ta sẽ đến
nhìn xem thi hài các ngài trong ba ngày rưỡi và không cho phép chôn các ngài trong
mộ. 10 Những người sống trên mặt đất hân hoan vì các ngài đã chết,
họ sẽ ăn mừng và tặng quà nhau, vì hai ngôn sứ này đã làm khổ họ. 11 Sau
ba ngày rưỡi, sinh khí từ Thiên Chúa đến nhập vào các ngài, và các ngài đứng
dậy được. Những kẻ đang nhìn các ngài đều kinh hãi. 12 Rồi các ngài
nghe một tiếng lớn từ trời bảo: ”Hãy lên đây!” Và các ngài lên trời trong đám
mây, trước mắt thù địch của các ngài. 13 Ngay giờ ấy, xảy ra một
trận động đất mạnh; một phần mười thành phố bị sụp đổ và bảy ngàn người bị giết
trong cơn động đất. Những người còn lại thì sợ hãi và tôn vinh Thiên Chúa trên
trời.
Tiếng
kèn thứ bảy
14
Cái
Khốn thứ hai đã qua, thì này cái Khốn thứ ba lại sắp đến.
15
Tiếng
kèn của thiên thần thứ bảy nổi lên. Trên trời có những tiếng lớn nói rằng: ”Vương
quyền trên thế gian nay đã thuộc về Chúa chúng ta và Đức Ki-tô của Người; Người
sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời.” 16 Hai mươi bốn vị Kỳ Mục ngồi
trên ngai trước nhan Thiên Chúa, liền sấp mặt xuống, phủ phục mà thờ lạy Thiên
Chúa. 17 Các vị ấy nói:
"Lạy
Chúa là Thiên Chúa toàn năng
Đấng
hiện có và đã có,
chúng
con xin cảm tạ Ngài
đã
sử dụng quyền năng mạnh mẽ
và
lên ngôi hiển trị.
18
Chư
dân đã nổi trận lôi đình,
nhưng
cơn lôi đình Ngài ập tới,
và
đã đến thời xét xử các vong nhân,
thời
ân thưởng các ngôn sứ, bề tôi của Chúa,
cũng
như muôn kẻ thuộc về Ngài,
và
những ai lớn nhỏ hằng kính sợ Thánh Danh;
đã
đến thời huỷ diệt những kẻ nào huỷ hoại mặt đất.”
19
Đền
Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và Hòm Bia Giao Ước xuất hiện trong Đền Thờ.
Và có ánh chớp, tiếng sấm tiếng sét, động đất và mưa đá lớn.
Chương 12
Người
Phụ Nữ và Con Mãng Xà
1
Rồi
có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân
đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. 2 Bà có
thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. 3 Lại có
điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và
mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. 4 Đuôi nó quét hết một
phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực
sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay
con bà. 5 Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người
con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên
Chúa, lên tận ngai của Người. 6 Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa
mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó,
trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.
7
Bấy
giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Mi-ca-en và các thiên thần của người
giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao
chiến. 8 Nhưng nó không đủ sức thắng được, và cả bọn không còn chỗ
trên trời nữa. 9 Con Mãng Xà bị tống ra, đó là Con Rắn xưa, mà người
ta gọi là ma quỷ hay Xa-tan, tên chuyên mê hoặc toàn thể thiên hạ; nó bị tống
xuống đất, và các thiên thần của nó cũng bị tống xuống với nó. 10 Và
tôi nghe có tiếng hô to trên trời:
"Thiên
Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ,
giờ
đây biểu dương uy lực với vương quyền,
và
Đức Ki-tô của Người
giờ
đây cũng biểu dương quyền bính,
vì
kẻ tố cáo anh em của ta,
ngày
đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa,
nay
bị tống ra ngoài.
11
Họ
đã thắng được nó nhờ máu Con Chiên
và
nhờ lời họ làm chứng về Đức Ki-tô:
họ
coi thường tính mạng, sẵn sàng chịu chết.
12
Nào
thiên quốc cùng chư vị ở chốn thiên đình,
hãy
vì đó mà mừng vui hoan hỷ!
Khốn
cho đất và biển, vì ma quỷ đã xuống với các ngươi,
nó
giận điên lên vì biết rằng nó chỉ còn một ít thời gian.”
13
Khi
Con Mãng Xà thấy mình đã bị tống xuống đất, nó liền đuổi bắt người Phụ Nữ đã
sinh con trai. 14 Bà được ban cho đôi cánh đại bàng, để bay vào sa
mạc, vào nơi dành cho bà, tại đó bà được nuôi dưỡng một thời, hai thời và nửa
thời, ở xa Con Rắn. 15 Từ miệng, Con Rắn phun nước ra đằng sau bà
như một dòng sông, để cuốn bà đi. 16 Nhưng đất cứu giúp bà: đất há
miệng ra uống cạn dòng sông từ miệng Con Mãng Xà phun ra. 17 Con
Mãng Xà nổi giận với người Phụ Nữ và đi giao chiến với những người còn lại
trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ
lời chứng của Đức Giê-su. 18 Rồi nó đứng trên bãi cát ngoài biển.
Chương 13
Con
Mãng Xà ban quyền cho Con Thú
1
Bấy
giờ tôi thấy một Con Thú từ dưới biển đi lên; nó có mười sừng và bảy đầu; trên
mười sừng đều có vương miện, và trên các đầu có danh hiệu xúc phạm đến Thiên
Chúa. 2 Con Thú tôi trông thấy thì giống như con báo, chân nó như
chân gấu, mõm như mõm sư tử. Con Mãng Xà ban cho nó quyền năng và ngai báu của
mình cũng như một quyền hành lớn lao. 3 Một trong các đầu của nó
dường như đã bị giết chết, nhưng vết tử thương của nó đã được chữa lành. Bấy
giờ toàn thể cõi đất thán phục đi theo Con Thú. 4 Họ thờ lạy Con
Mãng Xà vì nó đã ban quyền hành cho Con Thú, và họ cũng thờ lạy Con Thú mà
rằng: ”Ai sánh được với Con Thú và ai có thể giao chiến với Con Thú?” 5 Nó
đã được ban cho một cái mồm ăn nói huênh hoang và phạm thượng, và được ban cho
quyền hành động trong vòng bốn mươi hai tháng. 6 Nó mở miệng nói
phạm đến Thiên Chúa, đến danh Người, đến lều thánh của Người, và những đấng ở
trên trời. 7 Nó được phép giao chiến với dân thánh và thắng họ, và
nó được ban quyền trên mọi chi tộc, mọi nước, mọi ngôn ngữ và mọi dân. 8 Mọi
người sống trên mặt đất sẽ thờ lạy nó; đó là những người từ thuở tạo thiên lập
địa không được ghi tên trong Sổ Trường Sinh của Con Chiên đã bị giết. 9 Ai
có tai thì hãy nghe. 10 Ai phải đi đày thì đi đày, ai phải chết vì
gươm thì sẽ chết vì gươm. Đây là lúc dân thánh cần phải có lòng kiên nhẫn và
đức tin.
Ngôn
sứ giả phục vụ Con Thú
11
Tôi
thấy một Con Thú khác từ đất đi lên. Nó có hai sừng giống như sừng chiên, và
nói năng như một Con Mãng Xà. 12 Nó thi hành tất cả quyền bính của
Con Thú thứ nhất, trước mặt Con Thú ấy, và làm cho đất, cũng như những người
sống trên mặt đất, thờ lạy Con Thú thứ nhất, mà vết tử thương đã được chữa lành.
13 Nó làm những dấu lạ lớn lao, khiến cho ngay cả lửa từ trời cũng
rơi xuống đất trước mặt người ta. 14 Nhờ các dấu lạ mà nó được quyền
làm trước mặt Con Thú, nó mê hoặc những người sống trên mặt đất, bảo họ tạc
tượng thờ Con Thú mang vết thương gươm đâm mà nay đã hồi sinh. 15 Nó
được quyền thổi thần khí vào tượng Con Thú, khiến tượng Con Thú cũng nói được
và ra lệnh giết những ai không thờ lạy mình. 16 Nó bắt mọi người,
không phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo, tự do hay nô lệ, phải thích dấu trên tay
hữu hoặc trên trán. 17 Không ai có thể mua bán, nếu không mang dấu
thích đó, tức là tên Con Thú hoặc con số tương đương với tên nó.
18
Đây
là lúc cần phải có sự khôn ngoan. Ai có trí thông minh hãy tính ra số của tên
Con Thú, vì đó là số của tên một người, và số của tên người ấy là sáu trăm sáu
mươi sáu.
Chương 14
Các
người tháp tùng Con Chiên
1
Tôi
thấy: kìa Con Chiên đứng trên núi Xi-on; cùng với Con Chiên, có một trăm bốn
mươi bốn ngàn người, mang danh của Con Chiên và của Cha Con Chiên ghi trên trán.
2 Và tôi nghe thấy tiếng từ trời như tiếng nước lũ, như tiếng sấm
lớn. Tiếng tôi nghe thấy tựa hồ tiếng những nhạc sĩ vừa gảy đàn vừa hát. 3
Họ hát một bài ca mới trước ngai Thiên Chúa, trước bốn Con Vật và các vị
Kỳ Mục. Không ai có thể học được bài ca này, ngoài một trăm bốn mươi bốn ngàn
người ấy, là những người đã được chuộc về từ mặt đất. 4 Những người
ấy đã không ra ô uế bởi phụ nữ, vì họ còn tân. Con Chiên đi đâu, họ cũng đi
theo đó. Họ đã được chuộc về từ giữa loài người, làm của đầu mùa dâng lên Thiên
Chúa và Con Chiên. 5 Chẳng ai thấy miệng họ nói dối: không ai chê
trách họ được.
Ba
thiên thần báo giờ phán xét
6
Rồi
tôi thấy một thiên thần khác bay trên đỉnh vòm trời, mang một tin mừng vĩnh cửu
để loan báo cho các người ở trên mặt đất, cho mọi dân, mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ
và mọi nước. 7 Người lớn tiếng hô: ”Hãy kính sợ Thiên Chúa và tôn
vinh Người, vì đã đến giờ Người phán xét. Hãy thờ lạy Đấng đã tạo thành trời
đất, biển khơi và mọi nguồn nước.” 8 Một thiên thần khác, vị thứ
hai, theo sau và nói: ”Sụp đổ rồi, sụp đổ rồi, thành Ba-by-lon vĩ đại, thành đã
từng cho mọi nước uống thứ rượu là sự gian dâm cuồng loạn của nó.” 9 Một
thiên thần khác, vị thứ ba, theo sau hai vị kia và lớn tiếng nói: ”Ai thờ lạy
Con Thú và tượng của nó, và chịu thích dấu của nó trên trán hoặc trên tay, 10
thì người ấy sẽ phải uống thứ rượu, là cơn lôi đình của Thiên Chúa, rượu
nguyên chất rót vào chén thịnh nộ của Người; người ấy sẽ bị làm khổ trong lửa
và diêm sinh trước mặt các thánh thiên thần và trước mặt Con Chiên. 11 Khói
từ chốn khổ hình của chúng cứ bốc lên đời đời kiếp kiếp. Kẻ nào thờ lạy Con Thú
và tượng của nó, và nhận dấu thích tên nó, thì ngày đêm không được nghỉ ngơi.” 12
Đây là lúc dân thánh, là những người tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa
và sống theo niềm tin vào Đức Giê-su, cần phải có lòng kiên nhẫn. 13 Và
tôi nghe có tiếng từ trời phán rằng: ”Ngươi hãy viết: Ngay từ bây giờ, phúc
thay những người đã chết, mà được chết trong Chúa!” Thần Khí phán: ”Phải, họ sẽ
được nghỉ ngơi, không còn vất vả nhọc nhằn nữa, vì các việc họ làm vẫn theo
họ.”
Mùa
gặt cánh chung
14
Tôi
thấy: kìa một đám mây trắng, và có Đấng ngự trên mây, giống như một Con Người,
đầu đội triều thiên vàng và tay cầm liềm sắc bén. 15 Một thiên thần
khác từ Đền Thờ đi ra, lớn tiếng thưa với Đấng ngự trên mây: ”Xin tra liềm của
Ngài mà gặt, vì đã đến giờ gặt: mùa màng trên đất đã chín rồi!”16 Đấng ngự trên
mây quăng liềm của mình xuống đất và đất bị gặt.
17
Rồi
một thiên thần khác từ Đền Thờ ở trên trời đi ra, cũng cầm liềm sắc bén. 18
Một thiên thần khác từ bàn thờ đi ra, vị này có quyền trên lửa, lớn tiếng
nói với vị cầm liềm sắc: ”Xin tra liềm sắc bén của ngài mà hái các chùm nho
trong vườn nho dưới đất, vì các trái nho của đất đã chín rồi!”19 Thiên thần kia
quăng liềm của mình xuống đất mà hái nho trong vườn nho dưới đất, rồi đổ cả vào
bồn đạp nho lớn, tức là cơn lôi đình của Thiên Chúa. 20 Người ta đạp
nho trong bồn đặt ở ngoài thành, máu tự bồn trào ra ngập đến hàm thiếc ngựa và
lan đến một ngàn sáu trăm dặm.
Chương 15
Bài
ca của ông Mô-sê và của Con Chiên
1
Rồi
tôi thấy một điềm khác trên trời, một điềm lớn lao và kỳ diệu: bảy thiên thần
mang bảy tai ương, đó là những tai ương cuối cùng, vì với những tai ương này,
cơn lôi đình của Thiên Chúa đã hoàn tất. 2 Tôi thấy có cái gì như
biển trong vắt pha ánh lửa, và những người thắng Con Thú, thắng tượng của nó và
con số tương đương với tên nó; tôi thấy họ đứng trên biển trong vắt ấy, họ cầm
những cây đàn của Thiên Chúa 3 và hát bài ca của ông Mô-sê, tôi tớ Thiên Chúa,
và bài ca của Con Chiên; họ hát rằng:
"Lạy
Chúa là Thiên Chúa toàn năng,
sự
nghiệp Ngài thật lớn lao kỳ diệu!
Lạy
Đức Vua trị vì muôn nước,
đường
lối Ngài quả chân thật công minh!
4
Lạy
Chúa, nào có ai không kính sợ Chúa?
Ai
mà chẳng tôn vinh danh Ngài?
Vì
chỉ có Ngài chí thánh chí tôn.
Người
muôn nước sẽ về phủ phục trước Tôn Nhan,
vì
ai ai cũng đều thấy rõ
những
phán quyết công minh của Ngài.”
Bảy
chén tai ương
5
Sau
đó tôi thấy Đền Thờ là Lều Chứng Ước mở ra ở trên trời. 6 Bảy thiên
thần mang bảy tai ương từ Đền Thờ đi ra, mình mặc áo vải gai tinh khiết sáng chói,
ngang ngực có thắt đai bằng vàng. 7 Một trong bốn Con Vật đưa cho
bảy thiên thần bảy chén vàng, đầy cơn lôi đình của Thiên Chúa, Đấng hằng sống
đến muôn thuở muôn đời. 8 Đền Thờ đầy khói từ vinh quang Thiên Chúa
và từ quyền năng của Người toả ra. Không ai có thể vào trong Đền Thờ, bao lâu
bảy tai ương do bảy thiên thần mang đến chưa hoàn tất.
Chương 16
1
Bấy
giờ tôi nghe một tiếng lớn từ Đền Thờ bảo bảy thiên thần: ”Hãy đi trút bảy chén
lôi đình của Thiên Chúa xuống mặt đất.” 2 Vị thứ nhất đi trút chén của
mình xuống mặt đất. Những người mang dấu thích của Con Thú và thờ lạy tượng nó
liền bị một ung nhọt ác tính và đau đớn.
3
Vị
thứ hai trút chén của mình xuống biển. Biển liền hoá ra máu như máu người chết,
và mọi sinh vật dưới biển đều chết.
4
Vị
thứ ba trút chén của mình xuống sông ngòi và các nguồn nước. Nước liền hoá ra
máu. 5 Tôi nghe thiên thần có quyền trên nước nói: ”Lạy Đức Thánh,
Đấng hiện có và đã có, Ngài thật công minh vì đã xét xử như vậy. 6 Chúng
đã đổ máu dân thánh và các ngôn sứ, nên Ngài đã cho chúng uống máu: thật là
đích đáng!”7 Tôi lại nghe bàn thờ nói: ”Vâng, lạy Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng,
những lời Ngài phán quyết đều chân thật công minh!”
8
Vị
thứ tư trút chén của mình xuống mặt trời. Mặt trời liền được phép dùng lửa mà
thiêu đốt người ta. 9 Người ta bị khí nóng dữ dội thiêu đốt, họ nói
phạm đến danh Thiên Chúa, Đấng có quyền trên các tai ương đó, nhưng họ không
chịu hối cải mà tôn vinh Người.
10
Vị
thứ năm trút chén của mình xuống ngai Con Thú. Vương quốc của nó liền ra tối
tăm; người ta cắn lưỡi vì đau đớn; 11 họ nói phạm đến Thiên Chúa
trên trời, vì quá đau đớn và bị ung nhọt, nhưng họ không chịu hối cải mà từ bỏ
các việc mình làm.
12
Vị
thứ sáu trút chén của mình xuống sông cả Êu-phơ-rát. Nước sông ấy liền khô cạn,
để dọn đường cho các vua từ phương Đông tới. 13 Bấy giờ từ miệng Con
Mãng Xà, từ miệng Con Thú và từ miệng ngôn sứ giả, tôi thấy ba thần ô uế nhảy
ra như những con ếch. 14 Chúng quả là những thần khí của ma quỷ,
chúng làm những dấu lạ và đi đến với vua chúa trên khắp cả thiên hạ, nhằm tập
hợp họ lại để giao chiến trong Ngày lớn lao của Thiên Chúa Toàn Năng. -15
“Đây, Ta đến như kẻ trộm. Phúc thay kẻ canh thức và giữ áo mình, kẻo phải đi
đứng trần truồng và bị người ta nhìn thấy sự loã lồ của mình!”-16 Chúng quy tụ
họ tại một nơi, tiếng Híp-ri gọi là Hác-mơ-ghít-đô.
17
Vị
thứ bảy trút chén của mình xuống không khí. Từ Đền Thờ, từ ngai liền có tiếng
lớn phát ra: ”Xong cả rồi!”18 Lúc ấy có ánh chớp, tiếng sấm tiếng sét và động
đất lớn như chưa hề có động đất lớn như vậy bao giờ, từ khi con người xuất hiện
trên mặt đất. 19 Thành vĩ đại vỡ ra làm ba phần và các thành thị của
các nước bị sụp đổ. Thiên Chúa đã nhớ đến thành Ba-by-lon vĩ đại mà cho nó uống
chén rượu là cơn lôi đình thịnh nộ của Người. 20 Mọi hải đảo biến
đi, núi non không còn nữa. 21 Những hạt mưa đá lớn, nặng chừng nửa
tạ, từ trời giáng xuống người ta, và người ta nói phạm đến Thiên Chúa vì bị tai
ương mưa đá, bởi lẽ tai ương đó lớn quá chừng.
Chương 17
2.
BA-BY-LON BỊ TRỪNG PHẠT
Con
Điếm khét tiếng
1
Bấy
giờ, trong số bảy thiên thần mang bảy chén, một vị đến bảo tôi: ”Lại đây, tôi
sẽ chỉ cho ông thấy Con Điếm khét tiếng, đang ngồi bên những làn nước mênh
mông, bị xét xử như thế nào. 2 Vua chúa trần gian đã làm chuyện gian
dâm với nó, và những người sống trên mặt đất đã say vì thứ rượu là sự gian dâm
của nó.” 3 Rồi đang khi tôi xuất thần thì thiên thần đem tôi vào sa
mạc. Ở đó tôi thấy một người đàn bà, ngồi trên một Con Thú đỏ thẫm, con Thú ấy
mang đầy những danh hiệu xúc phạm đến Thiên Chúa, và có bảy đầu mười sừng. 4
Người đàn bà mặc áo đỏ tía và đỏ thẫm, trang sức toàn bằng vàng, đá quý
và ngọc trai, tay cầm một chén vàng đầy những thứ ghê tởm và ô uế, tức là sự
gian dâm của nó. 5 Trên trán nó, có viết một tên mang ý nghĩa huyền
bí: ”Ba-by-lon vĩ đại, mẹ đẻ ra các gái điếm và các thứ ghê tởm trên trần gian.”
6 Tôi thấy người đàn bà ấy say máu dân thánh và máu các chứng nhân
của Đức Giê-su. Thấy nó, tôi rất đỗi ngạc nhiên.
Ý
nghĩa tượng trưng của Con Thú và Con Điếm
7
Bấy
giờ thiên thần bảo tôi: ”Sao lại ngạc nhiên? Tôi sẽ nói cho ông hay ý nghĩa
huyền bí của người đàn bà và của Con Thú nó đang cỡi, là Con Thú bảy đầu mười
sừng. 8 Con Thú ông vừa thấy, nó đã có nhưng không còn nữa. Nó sắp
từ Vực thẳm đi lên và đang tới chỗ diệt vong. Các người sống trên mặt đất, mà
từ thuở tạo thiên lập địa không được ghi tên trong Sổ Trường Sinh, sẽ ngạc
nhiên khi thấy Con Thú, vì nó đã có, nó không còn nữa, nhưng sẽ trở lại. 9
Đây là lúc cần phải có trí thông minh cùng với sự khôn ngoan. Bảy đầu là
bảy quả núi trên đó người đàn bà ngồi.
10
năm
vua đã đổ, một vua hiện còn, một vua khác chưa đến, và khi vua này đến thì phải
ở lại ít thời gian thôi. 11 Còn Con Thú đã có và không còn nữa, nó
là vua thứ tám, nó cũng thuộc số bảy vua và đang tới chỗ diệt vong. 12 Mười
sừng ông đã thấy, là mười vua; chúng chưa nhận được vương quyền, và sẽ nhận
được quyền làm vua với Con Thú, trong vòng một giờ. 13 Chúng chỉ có
một ý định duy nhất là trao thế lực và quyền bính của mình cho Con Thú. 14
Chúng sẽ giao chiến với Con Chiên, và Con Chiên sẽ thắng chúng, vì Con
Chiên là Chúa các chúa, Vua các vua; những kẻ đi theo Người, tức là những kẻ
được kêu gọi, được tuyển chọn, và luôn trung thành, cũng sẽ thắng.”
15
Thiên
thần lại nói với tôi: ”Những làn nước ông đã thấy, nơi Con Điếm ngồi, là những
dân, những đám đông, những nước và những ngôn ngữ. 16 Mười sừng ông
đã thấy và Con Thú, chúng sẽ ghét Con Điếm, sẽ bắt nó phải đơn độc và trần
truồng, sẽ ăn thịt nó và dùng lửa thiêu huỷ nó. 17 Quả vậy, Thiên
Chúa đã khiến chúng quyết tâm thực hiện ý định của Người, thực hiện một ý định
duy nhất là trao vương quyền của chúng cho Con Thú, cho đến khi các lời Thiên
Chúa được hoàn tất. 18 Người đàn bà ông đã thấy, là Thành vĩ đại nắm
vương quyền thống trị vua chúa trần gian.”
Chương 18
Thiên
thần báo tin Ba-by-lon sụp đổ
1
Sau
đó, tôi thấy một thiên thần khác từ trời xuống, với quyền hành rộng lớn, và
vinh quang người làm cho mặt đất rực sáng. 2 Người lên tiếng hô mạnh
mẽ: ”Sụp đổ rồi, sụp đổ rồi, thành Ba-by-lon vĩ đại! Nó đã trở nên sào huyệt
của ma quỷ, hang ổ của mọi thứ thần ô uế, hang ổ của mọi thứ chim chóc ô uế và
đáng ghét, 3 bởi vì mọi nước đã uống thứ rượu là sự gian dâm cuồng
loạn của nó, vua chúa trần gian đã làm chuyện gian dâm với nó, và các con buôn
trên trần gian đã làm giàu nhờ sự xa hoa vô độ của nó!”
Dân
Thiên Chúa phải lánh đi
4
Rồi
tôi nghe một tiếng khác từ trời bảo: ”Hỡi dân Ta, hãy ra khỏi thành ấy đi, để
khỏi thông đồng với tội lỗi của nó và hứng lấy những tai ương dành cho nó! 5
Thật vậy, tội lỗi của nó đã chồng chất lên đến tận trời, và Thiên Chúa đã nhớ
đến các việc gian ác của nó. 6 Nó đã xử làm sao, hãy xử lại với nó
như vậy. Hãy trả lại cho nó gấp đôi những việc nó làm. Chén rượu nó đã rót, hãy
rót trả gấp đôi. 7 Nó đã phô trương vinh quang và sống xa hoa bao
nhiêu, thì hãy giáng khổ hình và tang tóc cho nó bấy nhiêu. Nó đã tự nhủ: ”Ta
ngự trên ngai nữ hoàng, ta không goá bụa, và ta sẽ không hề lâm cảnh tang tóc!
8 Vì thế, nội trong một ngày, những tai ương dành cho nó sẽ ập đến: nào là ôn
dịch, nào là tang tóc, nào là đói kém; nó sẽ bị lửa thiêu huỷ, vì Đức Chúa,
Thiên Chúa, Đấng đã xét xử nó, là Đấng oai hùng!
Than
khóc Ba-by-lon
9
Vua
chúa trần gian đã làm chuyện gian dâm và sống xa hoa với nó, sẽ đấm ngực khóc
than nó, khi thấy khói từ đám cháy thiêu huỷ nó. 10 Vì sợ khổ hình
của nó, chúng sẽ đứng xa xa mà than rằng:
"Khốn
thay! Khốn thay! Hỡi thành vĩ đại,
hỡi
Ba-by-lon, thành phố hùng cường,
vì
nội trong một giờ, ngươi đã bị xét xử!”
11
Các
con buôn trên mặt đất khóc lóc để tang nó, vì không còn ai mua hàng hoá của
chúng nữa. 12 Hàng hoá đó là: vàng, bạc, đá quý, ngọc trai; vải gai
mịn, vải đỏ tía, tơ lụa, vải đỏ thẫm; gỗ trầm, đồ bằng ngà, đồ bằng gỗ quý,
bằng đồng, bằng sắt, bằng cẩm thạch; 13 quế, sa nhân, hương thơm,
mộc dược, nhũ hương; rượu, dầu, tinh bột, lúa mì, súc vật, chiên cừu, ngựa, xe,
thân xác, và cả linh hồn người ta nữa.
14
Hoa
quả lòng ngươi ao ước đã biến xa ngươi; mọi thứ loè loẹt, hào nhoáng, ngươi
không còn nữa, và người ta sẽ chẳng bao giờ tìm thấy nữa!
15
Những
kẻ buôn các hàng hoá ấy, những kẻ đã nhờ thành ấy mà làm giàu, sẽ đứng xa xa vì
sợ khổ hình của nó, sẽ khóc lóc, để tang và than rằng:
16 “Khốn thay! Khốn
thay! Thành vĩ đại
đã
mặc vải gai mịn, vải đỏ tía và đỏ thẫm,
trang
sức toàn bằng vàng, đá quý và ngọc trai,
17
vì
nội trong một giờ, bấy nhiêu của cải đã bị phá tan hoang!”
18
và
khi thấy khói từ đám cháy thiêu huỷ nó, họ kêu lên: ”Thành nào sánh được với
thành vĩ đại?” 19 Chúng rắc tro bụi lên đầu, kêu la, khóc lóc, để
tang và than rằng:
"Khốn
thay! Khốn thay! Thành vĩ đại
đã
lấy sự phong phú của mình
mà
làm giàu cho các chủ tàu biển,
vì
nội trong một giờ, nó đã bị phá tan hoang!”
20
Hỡi
thiên quốc, hãy mừng vui hoan hỷ, vì nó đã bị phá tan hoang. Hỡi dân thánh, các
tông đồ và các ngôn sứ, hãy mừng vui hoan hỷ, vì Thiên Chúa đã xử công minh cho
các ngươi, khi lên án nó! 21 Bấy giờ một thiên thần dũng mãnh nhắc một tảng đá
to như chiếc cối xay lớn mà ném xuống biển và nói:
"Ba-by-lon,
thành vĩ đại, sẽ bị thẳng tay ném đi như thế đó,
và
người ta sẽ chẳng bao giờ còn tìm thấy nó nữa!
22
Trong
thành ngươi, sẽ chẳng bao giờ còn nghe
tiếng
nhạc sĩ gảy đàn, ca hát, thổi sáo và thổi kèn.
Trong
thành ngươi, sẽ chẳng bao giờ còn thấy
thợ
thủ công thuộc mọi ngành nghề.
Trong
thành ngươi, sẽ chẳng bao giờ còn nghe
tiếng
cối xay bột nữa.
23
Trong
thành ngươi, sẽ chẳng bao giờ còn thấy
ánh
sáng đèn chiếu rọi.
Trong
thành ngươi, sẽ chẳng bao giờ còn nghe
tiếng
cô dâu chú rể.
Bởi
vì các con buôn của ngươi
từng
là kẻ quyền thế trên mặt đất,
bởi
vì ngươi đã dùng phù phép
mà
làm cho muôn nước mê hoặc,
24
và
trong thành ngươi,
đã
tìm thấy máu của các ngôn sứ, của dân thánh
và
của mọi người đã bị giết trên mặt đất.”
Chương 19
Khải
hoàn ca trên thiên quốc
1
Sau
đó, tôi nghe như có tiếng hô lớn của đoàn người đông đảo ở trên trời vang lên:
"Ha-lê-lui-a!
Thiên
Chúa ta thờ là Đấng cứu độ,
Đấng
vinh hiển uy quyền!
2
Những
lời Người phán quyết
đều
chân thật công minh!
Vì
Người đã xét xử Con Điếm khét tiếng
từng
dùng chuyện gian dâm
mà
làm cho mặt đất ra hư hỏng,
và
Người đã bắt nó
phải
đền nợ máu các tôi tớ của Người
mà
chính tay nó đã giết.”
3
Lần
thứ hai họ lại hô: ”Ha-lê-lui-a! Khói lửa thiêu nó cứ bốc lên đời đời kiếp
kiếp!”4 Bấy giờ, hai mươi bốn vị Kỳ Mục và bốn Con Vật phủ phục xuống thờ lạy
Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai, mà tung hô: ”A-men! Ha-lê-lui-a!”
5
Rồi
từ ngai có tiếng phát ra:
"Nào
ca ngợi Thiên Chúa chúng ta,
hỡi
tất cả tôi trung của Chúa,
hỡi
những ai lớn nhỏ hằng kính sợ Người!”
6
Tôi
lại nghe như có tiếng hô của đoàn người đông đảo, nghe như tiếng nước lũ, như
tiếng sấm vang dữ dội:
"Ha-lê-lui-a!
Đức
Chúa là Thiên Chúa Toàn Năng
đã
lên ngôi hiển trị.
7
Nào
ta hãy vui mừng hoan hỷ
dâng
Chúa lời tôn vinh,
8
vì
nay đã tới ngày cử hành hôn lễ Con Chiên,
và
Hiền Thê của Người đã trang điểm sẵn sàng,
nàng
đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền.”
9
Thiên
thần bảo tôi: ”Hãy viết: Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con
Chiên!” Người lại bảo tôi: ”Đó là những lời chân thật của chính Thiên Chúa.” 10
Tôi phủ phục xuống dưới chân người mà thờ lạy, nhưng người nói: ”Đừng,
đừng! Tôi cũng là một tôi tớ như ông và như các anh em của ông, những người giữ
lời chứng của Đức Giê-su. Hãy thờ lạy Thiên Chúa.” Lời chứng của Đức Giê-su, là
thần khí linh hứng cho ngôn sứ.
3.
CÁC DÂN NGOẠI BỊ TIÊU DIỆT
Cuộc
chiến cánh chung thứ nhất
11
Bấy
giờ tôi thấy trời rộng mở: kìa một con ngựa trắng, và người cỡi ngựa mang tên là
“Trung thành và Chân thật", Người theo công lý mà xét xử và giao chiến. 12
Mắt Người như ngọn lửa hồng, đầu Người đội nhiều vương miện, Người mang
một danh hiệu viết trên mình, mà ngoài Người ra chẳng ai biết được. 13 Người
khoác một áo choàng đẫm máu, và danh hiệu của Người là: ”Lời của Thiên Chúa.” 14
Các đạo quân thiên quốc đi theo Người, họ cỡi ngựa trắng, mặc áo vải gai
mịn trắng tinh. 15 Từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén để
chém muôn nước. Chính Người sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt chúng. Người đạp
trong bồn đạp nho chứa thứ rượu là cơn lôi đình thịnh nộ của Thiên Chúa Toàn
Năng. 16 Người mang một danh hiệu viết trên áo choàng và trên vế:
”Vua các vua, Chúa các chúa.”
17
Rồi
tôi thấy một thiên thần đứng trên mặt trời; người lớn tiếng bảo mọi loài chim
đang bay trên đỉnh vòm trời: ”Đến đây, tề tựu cả về mà dự đại tiệc của Thiên
Chúa, 18 để ăn thịt vua chúa, thịt dũng tướng hùng binh, thịt chiến
mã và kỵ binh, thịt mọi người, tự do cũng như nô lệ, trẻ nhỏ cũng như người
lớn!”
19
Tôi
lại thấy Con Thú và vua chúa trên mặt đất, cùng với các đạo quân của chúng, tụ
tập lại để giao chiến với Đấng cỡi ngựa và đạo quân của Người. 20 Con
Thú bị bắt, cùng với tên ngôn sứ giả từng dùng các dấu lạ hắn làm trước mặt nó,
mà mê hoặc những kẻ nhận dấu thích của nó và những kẻ thờ lạy tượng của nó. Cả
hai bị quăng sống vào hồ lửa có diêm sinh đang cháy ngùn ngụt. 21 Những
người còn lại bị thanh gươm phóng ra từ miệng Đấng cỡi ngựa giết chết, và mọi
loài chim được ăn no thịt của chúng.
Chương 20
Triều
đại một ngàn năm
1
Bấy
giờ tôi thấy một thiên thần từ trời xuống, tay cầm chìa khoá vực thẳm và một
dây xích lớn. 2 Người bắt lấy Con Mãng Xà, tức là Con Rắn xưa, cũng
là ma quỷ hay Xa-tan, và xích nó lại một ngàn năm. 3 Người quăng nó
vào Vực thẳm, rồi đóng cửa và niêm phong lại, để nó không còn mê hoặc các nước,
cho đến khi hết một ngàn năm ấy. Sau đó, nó phải được thả ra trong một thời
gian ngắn.
4
Rồi
tôi thấy những chiếc ngai, có người ngồi trên đó, và họ được ban quyền xét xử.
Tôi cũng thấy linh hồn những người đã bị chém đầu vì đã rao giảng lời chứng của
Đức Giê-su và lời của Thiên Chúa; họ là những kẻ đã không thờ lạy Con Thú và
tượng của nó, và không nhận thích dấu của nó trên trán và trên tay. Họ sống lại
và hiển trị với Đức Ki-tô một ngàn năm. 5 Những người khác trong số
kẻ chết thì không được sống lại trước khi hết một ngàn năm ấy. Đó là lần phục
sinh thứ nhất. 6 Hạnh phúc thay và thánh thiện dường nào kẻ được dự
phần vào cuộc phục sinh thứ nhất này! Cái chết thứ hai không có quyền gì trên
họ; nhưng họ sẽ là tư tế của Thiên Chúa và của Đức Ki-tô, họ sẽ hiển trị với
Đức Ki-tô một ngàn năm ấy.
Cuộc
chiến cánh chung thứ hai
7
Hết
một ngàn năm ấy, Xa-tan sẽ được thả ra khỏi ngục. 8 Nó sẽ ra đi mê
hoặc các nước ở khắp bốn phương thiên hạ là Gốc và Ma-gốc, và tập hợp chúng lại
để giao chiến; số chúng nhiều như cát biển. 9 Chúng tiến lên lan
tràn khắp mặt đất, bao vây doanh trại dân thánh và Thành Đô được Thiên Chúa yêu
chuộng. Nhưng có lửa từ trời rơi xuống thiêu huỷ chúng. 10 Ma quỷ,
tên mê hoặc chúng, bị quăng vào hồ lửa và diêm sinh, ở đó đã có Con Thú và tên
ngôn sứ giả; và chúng sẽ bị làm khổ ngày đêm đời đời kiếp kiếp.
Các
dân bị xét xử
11
Bấy
giờ tôi thấy một ngai lớn màu trắng và thấy Đấng ngự trên đó. Đất và trời biến mất
trước mặt Người, không để lại dấu vết. 12 Rồi tôi thấy những người
chết, lớn cũng như nhỏ, đứng trước ngai. Sổ sách đã mở sẵn; rồi một cuốn khác
cũng đã mở ra: đó là Sổ Trường Sinh. Các người chết được xét xử tuỳ theo việc
họ đã làm, chiếu theo những gì đã được ghi chép trong sổ sách.
13
Biển
trả lại những người chết nó đang giữ; Tử thần và Âm phủ trả lại những người
chết chúng đang giữ, và mỗi người chịu xét xử tuỳ theo các việc đã làm. 14
Tử thần và Âm phủ bị quăng vào hồ lửa. Hồ lửa này là cái chết thứ hai. 15
Ai không có tên ghi trong Sổ trường sinh thì bị quăng vào hồ lửa.
Chương 21
4.
GIÊ-RU-SA-LEM TƯƠNG LAI
Trời
mới đất mới
1
Bấy
giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến mất, và biển cũng
không còn nữa. 2 Và tôi thấy Thành Thánh là Giê-ru-sa-lem mới, từ
trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để đón tân
lang. 3 Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: ”Đây là nhà tạm
Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của
Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. 4 Thiên Chúa sẽ
lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than
và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất.”
5
Đấng
ngự trên ngai phán: ”Này đây Ta đổi mới mọi sự.” Rồi Người phán: ”Ngươi hãy
viết: Đây là những lời đáng tin cậy và chân thật.” 6 Người lại phán
với tôi: ”Xong cả rồi! Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Khởi Nguyên và Tận Cùng.
Chính Ta sẽ ban cho ai khát được uống nơi nguồn nước trường sinh, mà không phải
trả tiền. 7 Ai thắng sẽ được thừa hưởng hồng ân đó. Ta sẽ là Thiên
Chúa của người ấy, và người ấy sẽ là con của Ta. 8 Còn những kẻ hèn
nhát, bất trung, đáng ghê tởm, sát nhân, gian dâm, làm phù phép, thờ ngẫu
tượng, và mọi kẻ nói dối, thì phần dành cho chúng là hồ lửa và diêm sinh cháy
ngùn ngụt: đó là cái chết thứ hai.”
Giê-ru-sa-lem
mới
9
Bấy
giờ, trong số bảy thiên thần mang bảy chén đầy bảy tai ương cuối cùng, một vị
đến bảo tôi: ”Lại đây, tôi sẽ chỉ cho ông thấy Tân Nương, Hiền Thê của Con
Chiên.” 10 Rồi đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một
ngọn núi cao hùng vĩ, và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Giê-ru-sa-lem, từ
trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, 11 chói lọi vinh quang Thiên Chúa.
Thành rực sáng tựa đá quý tuyệt vời, như ngọc thạch trong suốt tựa pha lê. 12
Thành có tường rộng và cao, với mười hai cửa do mười hai thiên thần canh
giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ít-ra-en. 13 Phía
đông có ba cửa, phía bắc ba cửa, phía nam ba cửa và phía tây ba cửa. 14 Tường
thành xây trên mười hai nền móng, trên đó có tên mười hai Tông Đồ của Con
Chiên.
15
Thiên
thần đang nói với tôi cầm cái thước đo là một cây sậy bằng vàng, để đo thành,
các cửa và tường thành. 16 Thành hình vuông: chiều dài cũng bằng
chiều rộng. Rồi người lấy cây sậy đo thành, được mười hai ngàn dặm: chiều dài,
chiều rộng và chiều cao đều bằng nhau. 17 Người đo tường thành được
một trăm bốn mươi bốn thước, theo thước đo của loài người cũng là của vị thiên
thần. 18 Tường xây bằng ngọc thạch, thành thì bằng vàng y, giống như
thủy tinh trong sáng. 19 Nền móng tường thành được trang trí bằng
mọi thứ đá quý. Nền móng thứ nhất bằng ngọc thạch, nền móng thứ hai bằng lam
ngọc, nền móng thứ ba bằng lục ngọc, nền móng thứ tư bằng bích ngọc, 20 nền
móng thứ năm bằng mã não, nền móng thứ sáu bằng xích não, nền móng thứ bảy bằng
kim châu, nền móng thứ tám bằng lục châu, nền móng thứ chín bằng hoàng ngọc,
nền móng thứ mười bằng kim lục, nền móng thứ mười một bằng huỳnh ngọc, nền móng
thứ mười hai bằng tử ngọc. 21 Mười hai cửa là mười hai khối ngọc
trai; mỗi cửa là một khối ngọc duy nhất.”Quảng trường của thành bằng vàng y như
thủy tinh trong suốt.” 22 Trong thành, tôi không thấy có Đền Thờ, vì
Đức Chúa, Thiên Chúa Toàn Năng, và Con Chiên là Đền Thờ của thành. 23 Thành
chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả
rạng, và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi. 24 Các dân ngoại sẽ tiến
bước theo ánh sáng của thành, và vua chúa trần gian đem kho tàng vinh quang tới
đó. 25 Ngày nọ qua ngày kia, cửa thành không bao giờ đóng, vì ở đấy
sẽ chẳng có đêm. 26 Thiên hạ sẽ đem tới đó kho tàng vinh quang và sự
giàu sang của các dân ngoại. 27 Tất cả những gì ô uế cũng như bất cứ
ai làm điều ghê tởm và ăn gian nói dối, đều không được vào thành, mà chỉ có
những người có tên ghi trong Sổ trường sinh của Con Chiên mới được vào.
Chương 22
1
Rồi
thiên thần chỉ cho tôi thấy một con sông có nước trường sinh, sáng chói như pha
lê, chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên. 2 Ở giữa quảng
trường của thành, giữa hai nhánh sông, có cây Sự Sống sinh trái mười hai lần,
mỗi tháng một lần; lá cây dùng làm thuốc chữa lành các dân ngoại.
3
Sẽ
không còn lời nguyền rủa nào nữa. Ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên sẽ đặt
trong thành, và các tôi tớ Người sẽ thờ phượng Người. 4 Họ sẽ được
nhìn thấy tôn nhan Người, và thánh danh Người ghi trên trán họ. 5 Sẽ
không còn đêm tối nữa, họ sẽ không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh
sáng mặt trời, vì Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển
trị đến muôn thuở muôn đời.
6
Thiên
thần nói với tôi: ”Đây là những lời đáng tin cậy và chân thật; và Đức Chúa là
Thiên Chúa ban Thần Khí linh hứng cho các ngôn sứ, đã sai thiên thần của Người
đến tỏ cho các tôi tớ Người biết những việc sắp phải xảy đến.” 7-”Đây, chẳng
bao lâu nữa Ta sẽ đến! Phúc thay kẻ tuân giữ các sấm ngôn trong sách này!”-8
Tôi là Gio-an, đã được nghe và thấy những điều đó. Nghe và thấy xong, tôi phủ
phục xuống dưới chân vị thiên thần đã chỉ cho tôi thấy các điều ấy, mà thờ lạy
người. 9 Nhưng người nói: ”Đừng, đừng! Tôi cũng là một tôi tớ như
ông và như các anh em của ông là các ngôn sứ và những người tuân giữ các lời
trong sách này. Hãy thờ lạy Thiên Chúa.”
10
Rồi
người bảo tôi: ”Đừng niêm phong những sấm ngôn trong sách này, vì thời giờ đã
gần đến. 11 Kẻ gian ác cứ làm điều gian ác nữa đi, kẻ ô uế cứ ra ô
uế nữa đi, người công chính cứ hành động công chính nữa đi, và người thánh
thiện cứ sống thánh thiện nữa đi!”12-”Đây, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến, và Ta
đem theo lương bổng để trả cho mỗi người tuỳ theo việc mình làm. 13 Ta
là An-pha và Ô-mê-ga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng. 14 Phúc
thay những kẻ giặt sạch áo mình, để được quyền hưởng dùng cây Sự Sống và qua
cửa mà vào Thành! 15 Những quân chó má, làm phù phép, gian dâm, sát nhân, thờ
ngẫu tượng, cùng với mọi kẻ thích điều gian dối và ăn gian nói dối, hãy xéo ra
ngoài.
KẾT
16 “Ta là Giê-su, Ta đã
sai thiên thần của Ta đến với các ngươi để làm chứng về những điều trên đây,
liên quan đến các Hội Thánh. Chính Ta là Chồi Non và Dòng Dõi Đa-vít, là Sao
Mai sáng ngời.”
17
Thần
Khí và Tân Nương nói: ”Xin Ngài ngự đến!” Ai nghe, hãy nói: ”Xin Ngài ngự đến!”
Ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh mà không phải trả
tiền.
18
Với
bất cứ ai nghe những sấm ngôn trong sách này, tôi xin chứng thực: ”Ai mà thêm
điều gì vào đó, thì Thiên Chúa sẽ thêm cho người ấy những tai ương mô tả trong
sách này! 19 Ai mà bớt điều gì trong các lời của sách sấm ngôn này, thì Thiên
Chúa sẽ bớt phần người ấy được hưởng nơi cây Sự Sống và Thành Thánh, là cây và
thành mô tả trong sách này!”
20
Đấng
làm chứng về những điều đó phán rằng: ”Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến.”
A-men,
lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến!
21
Chúc
mọi người được đầy ân sủng của Chúa Giê-su.
Ngũ Thư
Sáng Thế Ký
Chương 01
I.
Nguồn Gốc Vũ Trụ Và Nhân Loại
1.
Thiên Chúa Sáng Tạo. Con Người Sa Ngã
Thiên
Chúa sáng tạo trời đất
1
Lúc
khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. 2 Ðất còn trống rỗng, chưa
có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên
mặt nước.
3
Thiên
Chúa phán: "Phải có ánh sáng." Liền có ánh sáng. 4 Thiên
Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. 5
Thiên Chúa gọi ánh sáng là "ngày", bóng tối là "đêm".
Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ nhất.
6
Thiên
Chúa phán: "Phải có một cái vòm ở giữa khối nước, để phân rẽ nước với
nước.” 7 Thiên Chúa làm ra cái vòm đó và phân rẽ nước phía dưới vòm
với nước phía trên. Liền có như vậy. 8 Thiên Chúa gọi vòm đó là
"trời". Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ hai.
9
Thiên
Chúa phán: "Nước phía dưới trời phải tụ lại một nơi, để chỗ cạn lộ
ra." Liền có như vậy. 10 Thiên Chúa gọi chỗ cạn là
"đất", khối nước tụ lại là "biển". Thiên Chúa thấy thế là
tốt đẹp.
11
Thiên
Chúa phán: "Ðất phải sinh thảo mộc xanh tươi, cỏ mang hạt giống, và cây
trên mặt đất có trái, ra trái tuỳ theo loại, trong có hạt giống." Liền có
như vậy. 12 Ðất trổ sinh thảo mộc, cỏ mang hạt giống tuỳ theo loại,
và cây ra trái, trong trái có hạt giống tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là
tốt đẹp. 13 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ ba.
14
Thiên
Chúa phán: "Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với
đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. 15 Ðó sẽ là
những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất." Liền có như vậy. 16
Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển
ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. 17
Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, 18 để
điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy
thế là tốt đẹp. 19 Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày
thứ tư.
20
Thiên
Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc, và loài
chim phải bay lượn trên mặt đất, dưới vòm trời.” 21 Thiên Chúa sáng
tạo các thủy quái khổng lồ, cùng mọi sinh vật vẫy vùng lúc nhúc dưới nước tuỳ
theo loại, và mọi giống chim bay tuỳ theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
22 Thiên Chúa chúc phúc cho chúng rằng: "Hãy sinh sôi nảy nở
thật nhiều, cho đầy biển; và chim phải sinh sản cho nhiều trên mặt đất.” 23
Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ năm.
24
Thiên
Chúa phán: "Ðất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò
sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy. 25 Thiên Chúa
làm ra dã thú tuỳ theo loại, gia súc tuỳ theo loại và loài bò sát dưới đất tuỳ
theo loại. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp.
26
Thiên
Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống
như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất
cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất."
27
Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình,
Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa,
Thiên
Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.
28
Thiên
Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: "Hãy sinh sôi nảy nở
thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim
trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” 29 Thiên Chúa phán:
"Ðây Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và
mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi. 30 Còn
đối với mọi dã thú, chim trời và mọi vật bò dưới đất mà có sinh khí, thì Ta ban
cho chúng mọi thứ cỏ xanh tươi để làm lương thực. Liền có như vậy.” 31 Thiên
Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp! Qua một buổi chiều và một
buổi sáng: đó là ngày thứ sáu.
Chương 02
1 Thế là trời đất cùng với mọi
thành phần đã hoàn tất. 2 Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành
công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên
Chúa nghỉ ngơi.
3
Thiên
Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó Người đã
nghỉ, ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Người.
4
Ðó
là gốc tích trời đất khi được sáng tạo.
Vườn
địa đàng. Thử thách.
5
Ngày
Ðức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên
mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Ðức Chúa là Thiên Chúa chưa
cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai. 6 Nhưng có
một dòng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt đất. 7 Ðức Chúa là
Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con
người trở nên một sinh vật. 8 Rồi Ðức Chúa là Thiên Chúa trồng một
vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra.
9
Ðức
Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì
ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác. 10
Một con sông từ Ê-đen chảy ra tưới khu vườn, và từ đó chia thành bốn
nhánh.11 Tên nhánh thứ nhất là Pi-sôn, nó bao quanh tất cả đất Kha-vi-la là nơi
có vàng; 12 vàng ở đất này tốt, tại đó có nhũ hương và đá ngọc. 13
Tên nhánh thứ hai là Ghi-khôn; nhánh này bao quanh tất cả đất Cút. 14
Tên nhánh thứ ba là Tích-ra; nhánh này chảy ở phía đông Át-sua. Còn nhánh
thứ bốn là Êu-phơ-rát. 15 Ðức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt
vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai. 16 Ðức Chúa là Thiên
Chúa truyền lệnh cho con người rằng: "Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi
cứ ăn; 17 nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi
không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết."
18
Ðức
Chúa là Thiên Chúa phán: "Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm
cho nó một trợ tá tương xứng với nó. 19 Ðức Chúa là Thiên Chúa lấy
đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người
gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. 20
Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con
người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. 21 Ðức Chúa là
Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi.
Rồi Chúa rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. 22 Ðức
Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một
người đàn bà và dẫn đến với con người.
23
Con
người nói:
"Phen
này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!
Nàng
sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra."
24
Bởi
thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương
một thịt.
25
Con
người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau.
Chương 03
Sa
ngã
1
Rắn
là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng, mà Ðức Chúa là Thiên
Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo:
"Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không? 2 Người đàn bà
nói với con rắn: "Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. 3 Còn
trái trên cây ở giữa vườn, Thiên Chúa đã bảo: "Các ngươi không được ăn,
không được động tới, kẻo phải chết.” 4 Rắn nói với người đàn bà:
"Chẳng chết chóc gì đâu! 5 Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái
cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện
điều ác.” 6 Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp
mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn,
rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn. 7 Bấy giờ mắt
hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che
thân.
8
Nghe
thấy tiếng Ðức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày,
con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Ðức
Chúa là Thiên Chúa. 9 Ðức Chúa là Thiên Chúa gọi con người và hỏi:
"Ngươi ở đâu? “ 10 Con người thưa: "Con nghe thấy tiếng
Ngài trong vườn, con sợ hãi vì con trần truồng, nên con lẩn trốn.” 11 Ðức
Chúa là Thiên Chúa hỏi: "Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có
phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không? “ 12 Con
người thưa: "Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên
con ăn.” 13 Ðức Chúa là Thiên Chúa hỏi người đàn bà: "Ngươi đã
làm gì thế? " Người đàn bà thưa: "Con rắn đã lừa dối con, nên con ăn.”
14 Ðức Chúa là Thiên Chúa phán với con rắn:
"Mi
đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất
trong
mọi loài súc vật và mọi loài dã thú.
Mi
phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi.
15
Ta
sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,
giữa
dòng giống mi và dòng giống người ấy;
dòng
giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó."
16
Với
người đàn bà, Chúa phán:
"Ta
sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén;
ngươi
sẽ phải cực nhọc lúc sinh con.
Ngươi
sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi."
17
Với
con người, Chúa phán: "Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã
truyền cho ngươi rằng: "Ngươi đừng ăn nó",
nên
đất đai bị nguyền rủa vì ngươi;
ngươi
sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi,
mới
kiếm được miếng ăn từ đất mà ra.
18
Ðất
đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng.
19
Ngươi
sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn,
cho
đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra.
Ngươi
là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất."
20
Con
người đặt tên cho vợ là E-và, vì bà là mẹ của chúng sinh. 21 Ðức
Chúa là Thiên Chúa làm cho con người và vợ con người những chiếc áo bằng da và
mặc cho họ. 22 Ðức Chúa là Thiên Chúa nói: "Này con người đã
trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để
nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi.” 23 Ðức
Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đen để cày cấy đất đai, từ đó
con người đã được lấy ra. 24 Người trục xuất con người, và ở phía
đông vườn Ê-đen, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, để canh giữ
đường đến cây trường sinh.
Chương 04
Ca-in
và A-ben
1
Con
người ăn ở với E-và, vợ mình. Bà thụ thai và sinh ra Ca-in. Bà nói: "Nhờ
Ðức Chúa, tôi đã được một người.” 2 Bà lại sinh ra A-ben, em ông.
A-ben làm nghề chăn chiên, còn Ca-in làm nghề cày cấy đất đai. 3 Sau
một thời gian, Ca-in lấy hoa màu của đất đai làm lễ vật dâng lên Ðức Chúa. 4
A-ben cũng dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng.
Ðức Chúa đoái nhìn đến A-ben và lễ vật của ông, 5 nhưng Ca-in và lễ
vật của ông thì Người không đoái nhìn. Ca-in giận lắm, sa sầm nét mặt. 6 Ðức
Chúa phán với Ca-in: "Tại sao ngươi giận dữ? Tại sao ngươi sa sầm nét mặt?
7 Nếu ngươi hành động tốt, có phải là ngươi sẽ ngẩng mặt lên không? Nếu ngươi
hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi; nhưng
ngươi phải chế ngự nó.” 8 Ca-in nói với em là A-ben: "Chúng
mình ra ngoài đồng đi! " Và khi hai người đang ở ngoài đồng thì Ca-in xông
đến giết A-ben, em mình.
9
Ðức
Chúa phán với Ca-in: "A-ben em ngươi đâu rồi? " Ca-in thưa: "Con
không biết. Con là người giữ em con hay sao? “ 10 Ðức Chúa phán:
"Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta!
11 Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em
ngươi, do tay ngươi đổ ra. 12 Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng
không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt
đất.” 13 Ca-in thưa với Ðức Chúa: "Hình phạt dành cho con quá
nặng không thể mang nổi. 14 Ðây, hôm nay Ngài xua đuổi con khỏi mặt
đất. Con sẽ phải trốn tránh để khỏi giáp mặt Ngài, sẽ phải lang thang phiêu bạt
trên mặt đất, và bất cứ ai gặp con sẽ giết con.” 15 Ðức Chúa phán
với ông: "Không đâu! Bất cứ ai giết Ca-in sẽ bị trả thù gấp bảy." Ðức
Chúa ghi dấu trên Ca-in, để bất cứ ai gặp ông khỏi giết ông. 16 Ông
Ca-in đi xa khuất mặt Ðức Chúa và ở tại xứ Nốt, về phía đông Ê-đen.
Dòng
dõi ông Ca-in
17
Ông
Ca-in ăn ở với vợ. Bà thụ thai và sinh ra Kha-nốc. Ông xây một thành, và lấy
tên con mình là Kha-nốc mà đặt cho thành ấy. 18 Kha-nốc sinh I-rát;
I-rát sinh Mơ-khu-gia-ên; Mơ-khu-gia-ên sinh Mơ-thu-sa-ên; Mơ-thu-sa-ên sinh
La-méc. 19 La-méc lấy hai vợ, một bà tên là A-đa, bà thứ hai tên là
Xi-la. 20 Bà A-đa sinh Gia-van; ông này là ông tổ các người ở lều và
nuôi súc vật. 21 Em ông này tên là Giu-van; ông này là ông tổ các
người chơi đàn thổi sáo. 22 Còn bà Xi-la thì sinh Tu-van Ca-in; ông này
là ông tổ các người thợ rèn đồng và sắt. Em gái Tu-van Ca-in là Na-a-ma.
23
Ông
La-méc nói với các bà vợ:
"A-đa
và Xi-la, hãy nghe tiếng ta!
Thê
thiếp của La-méc, hãy lắng tai nghe lời ta!
Vì
một vết thương, ta đã giết một người,
vì
một chút sây sát, ta đã giết một đứa trẻ.
24
Ca-in
sẽ được báo thù gấp bảy,
nhưng
La-méc thì gấp bảy mươi bảy!"
Ông
Sết và dòng dõi
25
Ông
A-đam lại ăn ở với vợ. Bà sinh một con trai và đặt tên là Sết; bà nói:
"Thiên Chúa đã sắp đặt cho tôi một dòng dõi khác thay cho A-ben, vì Ca-in
đã giết nó.” 26 Ông Sết cũng sinh được một con trai và đặt tên là
E-nốt. Bấy giờ, người ta bắt đầu kêu cầu danh Ðức Chúa.
Chương 05
Các
tổ phụ trước Hồng Thuỷ (1 Sb 1:1-4)
1
Ðây
là gia phả ông A-đam: Ngày Thiên Chúa sáng tạo con người, Chúa làm ra con người
giống như Thiên Chúa. 2 Chúa sáng tạo con người có nam có nữ, Chúa
ban phúc lành cho họ và đặt tên cho họ là "người", ngày họ được sáng
tạo.
3
Khi
ông A-đam được một trăm ba mươi tuổi, thì ông sinh ra một người con trai giống
như ông, theo hình ảnh ông, và đặt tên là Sết. 4 Sau khi sinh ông
Sết, ông A-đam sống tám trăm năm và sinh ra con trai con gái. 5 Tổng
cộng ông A-đam sống được chín trăm ba mươi năm, rồi qua đời.
6
Khi
ông Sết được một trăm lẻ năm tuổi, thì sinh ra E-nốt. 7 Sau khi sinh
E-nốt, ông Sết sống tám trăm lẻ bảy năm và sinh ra con trai con gái. 8 Tổng
cộng ông Sết sống được chín trăm mười hai năm, rồi qua đời.
9
Khi
ông E-nốt được chín mươi tuổi, thì sinh ra Kê-nan. 10 Sau khi sinh
Kê-nan, ông E-nốt sống tám trăm mười lăm năm và sinh ra con trai con gái. 11
Tổng cộng ông E-nốt sống được chín trăm lẻ năm năm, rồi qua đời.
12
Khi
ông Kê-nan được bảy mươi tuổi, thì sinh ra Ma-ha-lan-ên. 13 Sau khi
sinh Ma-ha-lan-ên, ông Kê-nan sống tám trăm bốn mươi năm và sinh ra con trai
con gái. 14 Tổng cộng ông Kê-nan sống được chín trăm mười năm, rồi
qua đời.
15
Khi
ông Ma-ha-lan-ên được sáu mươi lăm tuổi, thì sinh ra Gie-rét. 16 Sau
khi sinh Gie-rét, ông Ma-ha-lan-ên sống tám trăm ba mươi năm và sinh ra con
trai con gái. 17 Tổng cộng ông Ma-ha-lan-ên sống được tám trăm chín
mươi lăm năm, rồi qua đời.
18
Khi
ông Gie-rét được một trăm sáu mươi hai tuổi, thì sinh ra Kha-nốc. 19 Sau
khi sinh Kha-nốc, ông Gie-rét sống tám trăm năm và sinh ra con trai con gái. 20
Tổng cộng ông Gie-rét sống được chín trăm sáu mươi hai năm, rồi qua đời.
21
Khi
ông Kha-nốc được sáu mươi lăm tuổi, thì sinh ra Mơ-thu-se-lác. 22 Sau
khi sinh Mơ-thu-se-lác, ông Kha-nốc đi với Thiên Chúa ba trăm năm và sinh ra
con trai con gái. 23 Tổng cộng ông Kha-nốc sống được ba trăm sáu
mươi lăm năm. 24 Sau khi đi với Thiên Chúa, ông không còn nữa, vì
Thiên Chúa đã đem ông đi.
25
Khi
ông Mơ-thu-se-lác được một trăm tám mươi bảy tuổi, thì sinh ra La-méc. 26 Sau
khi sinh La-méc, ông Mơ-thu-se-lác sống bảy trăm tám mươi hai năm và sinh ra
con trai con gái. 27 Tổng cộng ông Mơ-thu-se-lác sống được chín trăm
sáu mươi chín năm, rồi qua đời.
28
Khi
ông La-méc sống được một trăm tám mươi hai tuổi, thì sinh ra một người con trai.
29 Ông đặt tên cho con là Nô-ê; ông nói: "Khi tay chúng ta phải
làm lụng cực nhọc, thì trẻ này sẽ đem lại cho chúng ta niềm an ủi phát xuất từ
đất đai Ðức Chúa đã nguyền rủa.” 30 Sau khi sinh ông Nô-ê, ông
La-méc sống năm trăm chín mươi lăm năm và sinh ra con trai con gái. 31 Tổng
cộng ông La-méc sống được bảy trăm bảy mươi bảy năm, rồi qua đời.
32
Khi
ông Nô-ê được năm trăm tuổi, thì sinh ra Sêm, Kham và Gia-phét.
Chương 06
Con
trai Thiên Chúa và con gái loài người
1
Vậy
khi loài người bắt đầu thêm đông trên mặt đất, và sinh ra những con gái, 2
thì các con trai Thiên Chúa thấy con gái loài người xinh đẹp; những cô họ
ưng ý thì họ lấy làm vợ. 3 Ðức Chúa phán: "Thần khí của Ta sẽ
không ở lại mãi mãi trong con người, vì con người chỉ là xác phàm, tuổi đời của
nó sẽ là một trăm hai mươi năm.” 4 Có những người khổng lồ trên mặt
đất vào thời bấy giờ và cả sau đó nữa, khi các con trai Thiên Chúa đi lại với
con gái loài người, và các cô này sinh cho họ những người con. Ðó là những anh
hùng thuở xưa, những người có tên tuổi.
2.
Hồng Thủy
Loài
người sa đọa
5
Ðức
Chúa thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó
chỉ toan tính những ý định xấu suốt ngày. 6 Ðức Chúa hối hận vì đã
làm ra con người trên mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng. 7 Ðức
Chúa phán: "Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con
người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và chim trời, vì Ta hối hận đã làm
ra chúng.” 8 Nhưng ông Nô-ê được đẹp lòng Ðức Chúa.
9
Ðây
là gia đình ông Nô-ê: Ông Nô-ê là người công chính, hoàn hảo giữa những người
đồng thời, và ông đi với Thiên Chúa. 10 Ông Nô-ê sinh ba con trai là
Sêm, Kham và Gia-phét. 11 Ðất đã ra hư hỏng trước nhan Thiên Chúa và
đầy bạo lực. 12 Thiên Chúa nhìn đất và thấy nó đã ra hư hỏng, vì mọi
xác phàm đã theo nếp sống hư hỏng trên mặt đất.
Chuẩn
bị
13
Thiên
Chúa phán với ông Nô-ê: "Ta đã quyết định giờ tận số của mọi xác phàm, vì
tại chúng mà đất đầy bạo lực: này Ta sắp tiêu diệt chúng cùng với đất. 14 Ngươi
hãy làm cho mình một chiếc tàu bằng gỗ bách. Ngươi sẽ làm tàu có những ngăn và
lấy nhựa đen mà trám cả trong lẫn ngoài. 15 Ngươi sẽ làm tàu thế
này: chiều dài một trăm năm mươi thước, chiều rộng hai mươi lăm thước, chiều
cao mười lăm thước. 16 Ngươi sẽ làm một cái mui che tàu, và đặt mui
cách phía trên tàu nửa thước. Cửa tàu, ngươi sẽ đặt ở bên hông; ngươi sẽ làm
tầng dưới, tầng giữa rồi tầng trên. 17 Phần Ta, Ta sắp cho hồng
thuỷ, nghĩa là nước lụt, xuống trên đất, để tiêu diệt mọi xác phàm có sinh khí
dưới gầm trời; mọi loài trên mặt đất sẽ tắt thở. 18 Nhưng Ta sẽ lập
giao ước của Ta với ngươi; ngươi hãy vào tàu, ngươi cùng với các con trai
ngươi, vợ ngươi và vợ của các con trai ngươi. 19 Trong mọi sinh vật,
mọi xác phàm, ngươi sẽ đưa vào tàu mỗi loại một đôi, để giữ cho chúng sống với
ngươi; phải có một con đực và một con cái. 20 Trong mỗi loại chim,
mỗi loại gia súc, mỗi loại vật bò dưới đất, mỗi loại một đôi sẽ đến với ngươi,
để ngươi giữ cho chúng sống. 21 Phần ngươi, hãy lấy mọi thứ ăn được
và tích trữ cho mình; đó sẽ là lương thực của ngươi và của chúng.” 22 Ông
Nô-ê đã làm như vậy; ông làm đúng như Thiên Chúa đã truyền cho ông.
Chương 07
1
Ðức
Chúa phán bảo ông Nô-ê: "Ngươi hãy vào tàu, ngươi và cả nhà ngươi, vì Ta
chỉ thấy ngươi là người công chính trước nhan Ta trong thế hệ này. 2 Trong
mọi loài vật thanh sạch, ngươi sẽ lấy bảy đôi, con đực và con cái, còn trong
các loài vật không thanh sạch, thì một đôi, con đực và con cái, 3 trong
các loài chim trời cũng lấy bảy đôi, trống và mái, để giữ giống trên khắp mặt
đất. 4 Vì bảy ngày nữa Ta sẽ đổ mưa xuống đất trong vòng bốn mươi
ngày bốn mươi đêm, và Ta sẽ xoá bỏ khỏi mặt đất mọi loài Ta đã làm ra.” 5 Ông
Nô-ê làm đúng như Ðức Chúa đã truyền.
6
Ông
Nô-ê được sáu trăm tuổi khi hồng thuỷ, nghĩa là nước lụt, xảy đến trên mặt đất.
7
Ðể
tránh nước hồng thuỷ, ông Nô-ê vào tàu cùng với các con trai ông, vợ ông và vợ
của các con trai ông. 8 Trong các loài vật thanh sạch và các loài
vật không thanh sạch, trong các loài chim và mọi loài vật bò dưới đất, 9 cứ
từng đôi, đực và cái, đến với ông Nô-ê mà vào tàu, như Thiên Chúa đã truyền cho
ông Nô-ê. 10 Bảy ngày sau, nước hồng thủy tràn trên mặt đất.
11
Năm
sáu trăm đời ông Nô-ê, tháng hai, ngày mười bảy tháng ấy, vào ngày đó, tất cả
các mạch nước của vực thẳm vĩ đại bật tung, các cống trời mở toang. 12 Mưa
đổ xuống đất bốn mươi ngày bốn mươi đêm.
13
Chính
ngày đó, ông Nô-ê vào tàu với các con trai ông là Sêm, Kham, Gia-phét, cùng với
họ có vợ ông và ba người vợ của các con trai ông, 14 cũng như mọi
loài vật, mọi loài gia súc, mọi loài vật bò dưới đất, mọi loài chim chóc, mọi
vật có cánh. 15 Chúng đến với ông Nô-ê trên tàu, cứ từng đôi một,
thuộc mọi xác phàm có sinh khí. 16 Chúng đi vào, một đực một cái
thuộc mọi xác phàm; chúng đi vào, theo như Thiên Chúa đã truyền cho ông Nô-ê.
Rồi Ðức Chúa đóng cửa lại sau khi ông vào.
17
Cơn
hồng thủy kéo dài bốn mươi ngày trên mặt đất. Nước tăng thêm và nâng tàu lên,
khiến tàu ở cao hơn mặt đất. 18 Nước dâng và tăng thêm nhiều trên
mặt đất, và tàu lênh đênh trên mặt nước. 19 Nước dâng lên ngày càng
nhiều trên mặt đất, và mọi núi cao khắp nơi dưới gầm trời đều bị phủ lấp. 20
Nước dâng lên cao hơn núi bảy thước khiến núi bị phủ lấp. 21 Mỗi
xác phàm di động trên mặt đất đều tắt thở: chim chóc, gia súc, thú vật, mọi vật
lúc nhúc trên mặt đất, và mọi người. 22 Mọi loài có sinh khí trong
lỗ mũi, mọi loài ở trên cạn đều chết hết. 23 Ðức Chúa xoá bỏ mọi
loài có trên mặt đất, từ con người cho đến gia súc, giống vật bò dưới đất và
chim trời; chúng bị xoá bỏ khỏi mặt đất, chỉ còn lại ông Nô-ê và những gì ở
trong tàu với ông. 24 Nước dâng lên trên mặt đất suốt một trăm năm
mươi ngày.
Chương 08
Nước
rút
1
Thiên
Chúa nhớ đến ông Nô-ê, mọi thú vật và mọi gia súc ở trong tàu với ông. Thiên
Chúa cho gió thổi ngang qua đất, và nước hạ xuống. 2 Các mạch nước
của vực thẳm và các cống trời đóng lại; trời tạnh mưa. 3 Nước từ từ
rút khỏi mặt đất; hết một trăm năm mươi ngày thì nước xuống. 4 Vào
tháng bảy, ngày mười bảy tháng ấy, tàu đậu lại trên vùng núi A-ra-rát. 5 Nước
tiếp tục xuống cho đến tháng mười; và ngày mồng một tháng mười, các đỉnh núi
xuất hiện.
6
Hết
bốn mươi ngày, ông Nô-ê mở cửa sổ ông đã làm trên tàu, 7 và ông thả
con quạ ra. Nó bay ra, lượn đi lượn lại cho đến khi nước khô trên mặt đất. 8
Rồi từ trong tàu ông lại thả con bồ câu, để xem nước đã giảm trên mặt đất
chưa. 9 Nhưng con bồ câu không tìm được chỗ đậu chân, nên trở về tàu
với ông, vì còn nước trên khắp mặt đất. Ông bèn giơ tay bắt lấy nó mà đưa vào
trong tàu với ông. 10 Ông đợi thêm bảy ngày, rồi thả con bồ câu ra
khỏi tàu một lần nữa. 11 Vào buổi chiều, con bồ câu trở về với ông,
và kìa trong mỏ nó có một nhành lá ô-liu tươi! Ông Nô-ê biết là nước đã giảm
trên mặt đất. 12 Ông lại đợi thêm bảy ngày, rồi thả con bồ câu ra,
nhưng nó không trở về với ông nữa.
13
Năm
sáu trăm lẻ một đời ông Nô-ê, tháng giêng, ngày mồng một tháng ấy, nước đã khô
ráo trên mặt đất. Ông Nô-ê dỡ mái tàu ra và thấy mặt đất đã khô ráo. 14 Tháng
hai, ngày hai mươi bảy tháng ấy, đất đã khô.
Ra
khỏi tàu
15
Thiên
Chúa phán với ông Nô-ê rằng: 16 "Ngươi hãy ra khỏi tàu cùng với
vợ ngươi, các con trai ngươi và vợ của các con trai ngươi. 17 Mọi
loài vật ở với ngươi, tất cả những gì là xác phàm: chim chóc, gia súc, mọi
giống vật bò dưới đất, ngươi hãy đưa chúng ra với ngươi; chúng phải lúc nhúc
trên mặt đất, phải sinh sôi nảy nở thật nhiều trên mặt đất.” 18 Ông
Nô-ê ra khỏi tàu cùng với các con trai ông, vợ ông và vợ của các con trai ông. 19
Mọi loài vật, mọi gia súc, mọi chim chóc, mọi vật bò dưới đất ra khỏi
tàu, theo từng giống.
20
Ông
Nô-ê dựng một bàn thờ để kính Ðức Chúa. Ông đã lấy một số trong các gia súc
thanh sạch và các loài chim thanh sạch mà dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ. 21
Ðức Chúa ngửi mùi thơm ngon, và Ðức Chúa tự nhủ: "Ta sẽ không bao
giờ nguyền rủa đất đai vì con người nữa. Lòng con người toan tính điều xấu từ
khi còn trẻ, nhưng Ta sẽ không bao giờ còn sát hại mọi sinh vật như Ta đã làm!
22
Bao
lâu đất này còn, thì mùa gieo mùa gặt,
trời
lạnh và trời nóng, tiết hạ và tiết đông,
ban
ngày và ban đêm, sẽ không ngừng đắp đổi."
Chương 09
Trật
tự mới của thế giới
1
Thiên
Chúa ban phúc lành cho ông Nô-ê và các con ông, và Người phán với họ: "Hãy
sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất. 2 Mọi dã thú, mọi chim
trời, mọi giống vật bò dưới đất, và mọi cá biển sẽ phải kinh hãi khiếp sợ các
ngươi: chúng được trao vào tay các ngươi. 3 Mọi loài di động và có
sự sống sẽ là lương thực cho các ngươi; Ta ban cho các ngươi tất cả những thứ
đó, cũng như đã ban cỏ xanh tươi. 4 Tuy nhiên các ngươi không được
ăn thịt với mạng sống của nó, tức là máu. 5 Nhưng Ta sẽ đòi mỗi con
vật phải đền nợ máu các ngươi, tức là mạng sống của các ngươi; Ta sẽ đòi con
người phải đền nợ máu, Ta sẽ đòi mỗi người phải đền mạng sống của người anh em
mình.
6
Ai
đổ máu con người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra,
vì
Thiên Chúa đã làm ra con người theo hình ảnh Thiên Chúa.
7
Về
phần các ngươi, hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, hãy lan tràn và nảy nở thật
nhiều trên mặt đất."
8
Thiên
Chúa phán với ông Nô-ê và các con ông đang ở với ông rằng: 9 "Ðây
Ta lập giao ước của Ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này, 10 và
tất cả mọi sinh vật ở với các ngươi: chim chóc, gia súc, dã thú ở với các
ngươi, nghĩa là mọi vật ở trong tàu đi ra, kể cả dã thú. 11 Ta lập
giao ước của Ta với các ngươi: mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy huỷ
diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa."
12
Thiên
Chúa phán: "Ðây là dấu hiệu giao ước Ta đặt giữa Ta với các ngươi, và với
mọi sinh vật ở với các ngươi, cho đến muôn thế hệ mai sau: 13 Ta gác
cây cung của Ta lên mây, và đó sẽ là dấu hiệu giao ước giữa Ta với cõi đất.14
Khi Ta cho mây kéo đến trên mặt đất và cây cung xuất hiện trong mây, 15 Ta
sẽ nhớ lại giao ước giữa Ta với các ngươi, và với mọi sinh vật, nghĩa là với
mọi xác phàm; và nước sẽ không còn trở thành hồng thủy để tiêu diệt mọi xác
phàm nữa. 16 Cây cung sẽ ở trong mây. Ta sẽ nhìn nó để nhớ lại giao
ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với mọi sinh vật, nghĩa là với mọi xác phàm ở trên
mặt đất."
17
Thiên
Chúa phán với ông Nô-ê: "Ðó là dấu của giao ước Ta đã lập giữa Ta với mọi
xác phàm ở trên mặt đất."
3.
Từ Hồng Thủy Ðến Ông Áp-Ram
Ông
Nô-ê và các con
18
Các
con trai ông Nô-ê ra khỏi tàu là: Sêm, Kham và Gia-phét; ông Kham là cha của
ông Ca-na-an. 19 Ba ông này là con trai ông Nô-ê, và con cháu họ
phân tán ra khắp mặt đất.
20
Ông
Nô-ê làm nghề nông, ông là người thứ nhất trồng nho. 21 Ông uống
rượu say và nằm trần truồng giữa lều. 22 Ông Kham, cha ông Ca-na-an,
thấy chỗ kín của cha mình và báo cho hai anh ở ngoài biết. 23 Ông
Sêm và ông Gia-phét lấy cái áo choàng, cả hai đặt áo lên vai mình, rồi đi giật
lùi mà che chỗ kín của cha. Mặt họ quay về phía sau, nên họ không trông thấy
chỗ kín của cha. 24 Khi tỉnh rượu, ông Nô-ê hay biết điều mà đứa con
nhỏ nhất của ông đã làm đối với ông; 25 ông liền nói:
"Ca-na-an
đáng bị nguyền rủa!
Nó
phải là đầy tớ các đầy tớ của các anh em nó! "
26
Rồi
ông nói:
"Chúc
tụng Ðức Chúa, là Thiên Chúa của Sêm;
Ca-na-an
phải là đầy tớ nó!
27
Xin
Thiên Chúa mở rộng Gia-phét,
nó
hãy ở trong lều của Sêm, và Ca-na-an phải là đầy tớ nó!"
28
Sau
hồng thuỷ, ông Nô-ê sống được ba trăm năm mươi năm. 29 Tổng cộng ông
Nô-ê sống được chín trăm năm mươi năm, rồi ông qua đời.
Chương 10
Các
dân trên mặt đất (1 Sb 1:5-23)
1
Ðây
là gia đình các con trai ông Nô-ê là Sêm, Kham và Gia-phét; sau hồng thuỷ, họ
đã sinh được những người con.
2
Con
của ông Gia-phét là: Gô-me, Ma-gốc, Mê-đi, Gia-van, Tu-van, Me-séc, Ti-rát. 3
Con của ông Gô-me là:
6
Con
của ông Kham là: Cút, Mít-ra-gim, Pút, Ca-na-an. 7 Con của ông Cút
là: Xơ-va, Kha-vi-la, Xáp-ta, Ra-ơ-ma, Xáp-tơ-kha. Con của ông Ra-ơ-ma là:
Sơ-va, Ðơ-đan.
8
Ông
Cút sinh ra ông Nim-rốt; ông này là người anh hùng đầu tiên trên mặt đất. 9
Ông là thợ săn dũng cảm trước mặt Ðức Chúa. Vì thế có câu: "Như
Nim-rốt, thợ săn anh hùng trước mặt Ðức Chúa.” 10 Khởi điểm vương
quốc ông là Ba-ben, E-réc, Ác-cát, Can-nê, trong đất Sin-a. 11 Từ
đất ấy, ông rời đến Át-sua và xây các thành Ni-ni-vê, Rơ-khô-vốt, Ia, Ca-lác, 12
và Re-xen, giữa Ni-ni-vê và Ca-lác, thành phố lớn. 13 Mít-ra-gim
sinh ra các người ở Lút, A-nam, Lơ-háp, Náp-tu-khin, 14 Pát-rốt,
Cát-lúc và Cáp-to; từ dân này mới có dân Phi-li-tinh.
15
Ca-na-an
sinh ra Xi-đôn, là con đầu lòng, rồi sinh Khết, 16 người Giơ-vút,
E-mô-ri, Ghia-ga-si, 17 Khi-vi, Ác-ki, Xi-ni, 18 Ác-vát,
Xơ-ma-ri, Kha-mát; sau đó các dòng họ người Ca-na-an phân tán đi. 19 Biên
giới của người Ca-na-an đi từ Xi-đôn, về phía Gơ-ra thì đến tận Ga-da, về phía
Xơ-đôm, Gô-mô-ra, Át-ma và Xơ-vô-gim thì đến Le-sa.
20
Ðó
là các con ông Kham, theo dòng họ, tiếng nói, theo đất nước, dân tộc của họ.
21
Cả
ông Sêm cũng sinh được những người con, ông là ông tổ của mọi người con của ông
Ê-ve và là anh cả của ông Gia-phét.
22
Con
của ông Sêm là: Ê-lam, Át-sua, Ác-pắc-sát, Lút, A-ram. 23 Con của
ông A-ram là Út, Khun, Ghe-the, Ma-sơ.
24
Ác-pắc-sát
sinh Se-lác, Se-lác sinh Ê-ve. 25 Ê-ve sinh được hai con trai; người
thứ nhất tên là Pe-léc, vì thời ông đất được phân chia, người em tên là
Gióc-tan. 26 Gióc-tan sinh An-mô-đát, Se-lép, Kha-xa-ma-vét, Gie-rác,
27 Ha-đô-ram, U-dan, Ðích-la, 28 Ô-van, A-vi-ma-ên, Sơ-va,
29 Ô-phia, Kha-vi-la, Giô-váp. Tất cả những người đó là con ông
Gióc-tan. 30 Vùng họ ở trải rộng từ Mê-sa cho đến Xơ-pha, ngọn núi
phía đông.
31
Ðó
là các con ông Sêm, theo dòng họ, tiếng nói, theo đất nước, dân tộc của họ.
32
Ðó
là các dòng họ của con cái ông Nô-ê, theo gia đình, theo dân tộc của họ. Con
cháu họ đã phân tán thành các dân tộc trên mặt đất, sau hồng thuỷ.
Chương 11
Tháp
Ba-ben
1
Thuở
ấy, mọi người đều nói một thứ tiếng và dùng những từ như nhau. 2 Trong
khi di chuyển ở phía đông, họ tìm thấy một đồng bằng ở đất Sin-a và định cư tại
đó. 3 Họ bảo nhau: "Nào! Ta đúc gạch và lấy lửa mà nung!"
Họ dùng gạch thay vì đá và lấy nhựa đen làm hồ. 4 Họ nói: "Nào!
Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải
làm cho danh ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất."
5
Ðức
Chúa xuống xem thành và tháp con cái loài người đang xây. 6 Ðức Chúa
phán: "Ðây, tất cả chúng nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng. Chúng
mới khởi công mà đã như thế thì từ nay, chẳng có gì chúng định làm mà không làm
được. 7 Nào! Ta xuống và làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn,
khiến chúng không ai hiểu ai nữa.” 8 Thế là Ðức Chúa phân tán họ từ
chỗ đó ra khắp nơi trên mặt đất, và họ phải thôi không xây thành phố nữa. 9
Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Ba-ben, vì tại đó, Ðức Chúa đã
làm xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, Ðức Chúa
đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất.
Các
tổ phụ sau Hồng Thuỷ (1 Sb 1:24 -27 )
10
Ðây
là gia đình ông Sêm: Khi ông Sêm được một trăm tuổi, thì ông sinh ra
Ác-pắc-sát, hai năm sau hồng thuỷ. 11 Sau khi sinh Ác-pắc-sát, ông
Sêm sống năm trăm năm và sinh ra con trai con gái.
12
Khi
ông Ác-pắc-sát được ba mươi lăm tuổi, thì sinh ra Se-lác. 13 Sau khi
sinh Se-lác, ông Ác-pắc-sát sống bốn trăm lẻ ba năm và sinh ra con trai con
gái.
14
Khi
ông Se-lác được ba mươi tuổi, thì sinh ra Ê-ve. 15 Sau khi sinh ra
Ê-ve, ông Se-lác sống bốn trăm lẻ ba năm và sinh ra con trai con gái.
16
Khi
ông Ê-ve được ba mươi bốn tuổi, thì sinh ra Pe-léc. 17 Sau khi sinh
Pe-léc, ông Ê-ve sống bốn trăm ba mươi năm và sinh ra con trai con gái.
18
Khi
ông Pe-léc được ba mươi tuổi, thì sinh ra Rơ-u. 19 Sau khi sinh
Rơ-u, ông Pe-léc sống hai trăm lẻ chín năm và sinh ra con trai con gái.
20
Khi
ông Rơ-u được ba mươi hai tuổi, thì sinh Xơ-rúc. 21 Sau khi sinh
Xơ-rúc, ông Rơ-u sống hai trăm lẻ bảy năm và sinh ra con trai con gái.
22
Khi
ông Xơ-rúc được ba mươi tuổi, thì sinh ra Na-kho. 23 Sau khi sinh
Na-kho, ông Xơ-rúc sống hai trăm năm và sinh ra con trai con gái.
24
Khi
ông Na-kho được hai mươi chín tuổi, thì sinh ra Te-ra. 25 Sau khi
sinh Te-ra, ông Na-kho sống một trăm mười chín năm và sinh ra con trai con gái.
26
Khi
ông Te-ra được bảy mươi tuổi, thì sinh ra Áp-ram, Na-kho và Ha-ran.
Dòng
dõi ông Te-ra
27
Ðây
là gia đình ông Te-ra: Ông Te-ra sinh ra Áp-ram, Na-kho và Ha-ran. Ha-ran sinh
ra Lót. 28 Ha-ran chết trước mặt cha mình là Te-ra, tại thành Ua của
người Can-đê, quê hương ông. 29 Ông Áp-ram và ông Na-kho lấy vợ; vợ
ông Áp-ram tên là Xa-rai, vợ ông Na-kho tên là Min-ca, con gái ông Ha-ran; ông
này là cha của bà Min-ca và bà Gít-ca. 30 Bà Xa-rai hiếm hoi, không
có con.
31
Ông
Te-ra đem theo con trai là Áp-ram, cháu nội là Lót, con ông Ha-ran, con dâu là
Xa-rai, vợ ông Áp-ram, con của ông; họ cùng với ông ra khỏi Ua của người
Can-đê, để đi tới đất Ca-na-an. Họ đến Kha-ran và ở lại đó.
32
Ông
Te-ra sống được hai trăm lẻ năm năm, rồi qua đời tại Kha-ran.
Chương 12
II.-
Sự Tích Ông Áp-Ra-Ham
Thiên
Chúa gọi ông Áp-ram
1
Ðức
Chúa phán với ông Áp-ram: "Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà
đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. 2 Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân
lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi
sẽ là một mối phúc lành.
3
Ta
sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi;
Ai
nhục mạ ngươi, Ta sẽ nguyền rủa.
Nhờ
ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc."
4
Ông
Áp-ram ra đi, như Ðức Chúa đã phán với ông. Ông Áp-ram được bảy mươi lăm tuổi
khi ông rời Kha-ran. 5 Ông Áp-ram đem theo vợ là bà Xa-rai, cháu là
ông Lót, và mọi tài sản họ đã gầy dựng được, cùng với gia nhân họ đã có tại
Kha-ran. Họ ra đi về phía đất Ca-na-an và đã tới đất đó.
6
Ông
Áp-ram đi qua đất ấy, đến nơi gọi là Si-khem, đến cây Sồi Mô-re. Thời bấy giờ, người
Ca-na-an đang ở trong đất ấy. 7 Ðức Chúa hiện ra với ông Áp-ram và
phán: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi." Tại đây ông dựng một
bàn thờ để kính Ðức Chúa, Ðấng đã hiện ra với ông. 8 Từ chỗ ấy, ông
sang miền núi, ở phía đông Bết Ên. Ông cắm lều giữa Bết Ên ở phía tây và Ai ở
phía đông. Tại đây ông dựng một bàn thờ để kính Ðức Chúa và ông kêu cầu danh
Ðức Chúa. 9 Rồi ông đi từ chặng nọ qua chặng kia đến miền Ne-ghép.
Ông
Áp-ram ở bên Ai-cập
10
Một
nạn đói xảy ra trong xứ ấy, và ông Áp-ram xuống trú ngụ ở Ai-cập, vì nạn đói
hoành hành trong xứ. 11 Vậy khi gần vào Ai-cập, ông nói với vợ là bà
Xa-rai: "Bà coi, tôi biết bà là một người phụ nữ có nhan sắc. 12 Khi
người Ai-cập thấy bà, họ sẽ nói: "Vợ hắn đấy!", họ sẽ giết tôi và để
cho bà sống. 13 Vậy xin bà cứ nói bà là em tôi, để vì bà, người ta
xử tốt với tôi, và nhờ bà, tôi được sống.” 14 Khi ông Áp-ram đến
Ai-cập, người Ai-cập thấy vợ ông rất xinh đẹp. 15 Quan lại của
Pha-ra-ô thấy bà thì ca tụng bà trước mặt Pha-ra-ô, và bà bị đưa vào đền
Pha-ra-ô. 16 Vì bà, người ta xử tốt với ông Áp-ram; ông được chiên,
dê, bò, lừa, tôi trai tớ gái, lừa cái, lạc đà. 17 Tại vì bà Xa-rai,
vợ ông Áp-ram, Ðức Chúa giáng những tai ương lớn xuống Pha-ra-ô và gia đình vua.
18 Pha-ra-ô bèn cho gọi ông Áp-ram đến và nói: "Ngươi làm gì ta
thế? Tại sao ngươi đã không khai với ta rằng: nàng là vợ ngươi? 19 Tại sao
ngươi lại nói với ta: "Nàng là em tôi", khiến ta đã lấy nàng làm vợ?
Bây giờ, vợ ngươi đấy, hãy nhận lấy và đi đi!” 20 Pha-ra-ô ra lệnh
cho người của vua tống ông Áp-ram đi, cùng với vợ ông và tất cả những gì ông
có.
Chương 13
Ông
Áp-ram và ông Lót chia tay
1
Ông
Áp-ram từ Ai-cập lên miền Ne-ghép, cùng với vợ và tất cả những gì ông có; ông
Lót cũng đi với ông. 2 Ông Áp-ram rất giàu, ông có nhiều súc vật và
vàng bạc. 3 Ông đi từng chặng từ miền Ne-ghép đến Bết Ên, đến nơi
lần trước ông đã cắm lều giữa Bết Ên và Ai. 4 Ở nơi có bàn thờ ông
đã làm trước kia, ông Áp-ram kêu cầu danh Ðức Chúa.
5
Ông
Lót, người cùng đi với ông Áp-ram, cũng có chiên bò và những chiếc lều. 6 Ðất
ấy không đủ chỗ cho họ ở chung: họ có quá nhiều tài sản nên không thể ở chung
với nhau được. 7 Một cuộc tranh chấp xảy ra giữa những người chăn
súc vật của ông Áp-ram và những người chăn súc vật của ông Lót. Thời bấy giờ
người Ca-na-an và người Pơ-rít-di đang ở trong miền ấy. 8 Ông Áp-ram
bảo ông Lót: "Sao cho đừng có chuyện tranh chấp giữa bác và cháu, giữa
người chăn súc vật của bác và người chăn súc vật của cháu. Vì chúng ta là anh
em họ hàng với nhau! 9 Tất cả xứ chẳng ở trước mặt cháu đó sao? Cháu hãy xa bác
đi. Nếu cháu đi về bên trái thì bác sẽ đi về bên phải; nếu cháu đi về bên phải
thì bác sẽ đi về bên trái."
10
Ông
Lót ngước mắt lên và nhìn cả Vùng sông Gio-đan: chỗ nào cũng có nước. Trước khi
Ðức Chúa tiêu diệt thành Xơ-đôm và thành Gô-mô-ra, thì vùng đó, cho đến tận
Xô-a, giống như vườn của Ðức Chúa, giống như đất Ai-cập. 11 Ông Lót
chọn cho mình cả Vùng sông Gio-đan và đi về hướng đông. Thế là họ xa nhau. 12
Ông Áp-ram ở đất Ca-na-an, còn ông Lót ở trong các thành Vùng sông
Gio-đan, và di chuyển lều đến tận Xơ-đôm. 13 Người Xơ-đôm xấu xa và
mắc tội nặng đối với Ðức Chúa.
14
Ðức
Chúa phán với ông Áp-ram sau khi ông Lót xa ông: "Ngước mắt lên, từ chỗ
ngươi đang đứng, hãy nhìn về phía bắc, phía nam, phía đông, phía tây, 15 vì
tất cả miền đất ngươi đang thấy đó, Ta sẽ ban cho ngươi và cho dòng dõi ngươi
mãi mãi. 16 Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi nhiều như bụi trên mặt đất;
nếu người ta đếm được bụi trên mặt đất, thì mới đếm được dòng dõi ngươi! 17
Ðứng lên! Hãy đi ngang dọc khắp miền đất này, vì Ta sẽ ban nó cho ngươi.” 18
Ông di chuyển lều và đến ở cụm sồi Mam-rê, tại Khép-rôn. Tại đây, ông
dựng một bàn thờ để kính Ðức Chúa.
Chương 14
Cuộc
viễn chinh của bốn vua
1
Thời
Am-ra-phen làm vua Sin-a, A-ri-ốc làm vua En-la-xa, Cơ-đo-la-ô-me làm vua Ê-lam
và Tít-an làm vua Gô-gim, 2 các vua này đánh nhau với Be-ra vua
Xơ-đôm, Bia-sa vua Gô-mô-ra, Sin-áp vua Át-ma, Sem-ê-ve vua Xơ-vô-gim, và vua
thành Be-la, tức là thành Xô-a.
3
Tất
cả các vua vừa nói tập trung về thung lũng Xít-đim, tức là Biển Muối. 4 Trong
vòng mười hai năm, họ đã làm tôi vua Cơ-đo-la-ô-me, nhưng đến năm thứ mười ba
thì họ nổi loạn. 5 Năm thứ mười bốn, vua Cơ-đo-la-ô-me đến, cùng với
các vua về phe ông. Họ đánh bại người Ra-pha tại Át-ta-rốt Các-na-gim, người
Du-dim tại Ham, người Ê-mim tại Sa-vê Kia-gia-tha-gim 6 và người Khô-ri ở vùng
núi của họ tại Xê-ia, đến tận En Pa-ran, gần sa mạc. 7 Rồi họ quay
lại, đến Ên Mít-pát, tức là Ca-đê, và tàn phá toàn thể lãnh thổ người A-ma-lếch
và cả người E-mô-ri lập cư ở Khát-xôn Ta-ma. 8 Bấy giờ vua Xơ-đôm,
vua Gô-mô-ra, vua Át-ma, vua Xơ-vô-gim và vua Be-la, tức là Xô-a, tiến ra và
dàn trận tại thung lũng Xít-đim chống lại các vua kia: 9 Cơ-đo-la-ô-me
vua Ê-lam, Tít-an vua Gô-gim, Am-ra-phen vua Sin-a và A-ri-ốc vua En-la-xa, bốn
vua chống lại năm vua. 10 Thung lũng Xít-đim đầy những giếng nhựa
đen; trong khi chạy trốn, vua Xơ-đôm và vua Gô-mô-ra rơi xuống đó, những người
còn lại thì trốn lên núi. 11 Những kẻ thắng trận chiếm đoạt tất cả
tài sản của Xơ-đôm và Gô-mô-ra, cũng như tất cả lương thực của họ, rồi đi.
12
Họ
bắt ông Lót, cháu ông Áp-ram, cùng với tài sản của ông, rồi đi; bấy giờ ông Lót
đang ở Xơ-đôm. 13 Một người thoát được đến báo tin cho ông Áp-ram,
người Híp-ri, bấy giờ đang ở cụm sồi của ông Mam-rê, người E-mô-ri, anh em của
ông Ét-côn và ông A-ne; họ là đồng minh của ông Áp-ram. 14 Khi nghe
tin người anh em họ hàng của mình bị bắt, ông Áp-ram liền huy động những người
đã được tập luyện, là các tôi tớ sinh ra trong nhà ông, đến ba trăm mười tám
người, và đuổi theo đến tận Ðan. 15 Ông và các tôi tớ của ông chia
nhau ra tấn công họ vào ban đêm, đánh bại họ và đuổi theo đến tận Khô-va ở phía
bắc Ða-mát. 16 Ông đưa tất cả tài sản về; ông đưa cả ông Lót, người
anh em họ hàng của ông, và tài sản của ông ấy về, cũng như các phụ nữ và dân
chúng.
Ông
Men-ki-xê-đê
17
Sau
khi đánh bại vua Cơ-đo-la-ô-me và các vua cùng phe, ông Áp-ram trở về. Bấy giờ
vua thành Xơ-đôm ra đón ông tại thung lũng Sa-vê, tức là thung lũng Nhà Vua. 18
Ông Men-ki-xê-đê, vua thành Sa-lem, mang bánh và rượu ra; ông là tư tế
của Thiên Chúa Tối Cao. 19 Ông chúc phúc cho ông Áp-ram và nói:
"Xin
Thiên Chúa Tối Cao, Ðấng dựng nên trời đất,
chúc
phúc cho Áp-ram!
20
Chúc
tụng Thiên Chúa Tối Cao,
Ðấng
đã trao vào tay ông những thù địch của ông! "
Rồi
ông Áp-ram biếu ông Men-ki-xê-đê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm.
21
Vua
Xơ-đôm nói với ông Áp-ram: "Người, thì xin ông cho lại tôi; còn tài sản,
ông cứ lấy.” 22 Ông Áp-ram nói với vua Xơ-đôm: "Tôi xin giơ tay
lên Ðức Chúa, Thiên Chúa Tối Cao, Ðấng dựng nên trời đất, mà thề: 23 "Dù
một sợi chỉ, dù một quai dép, bất cứ cái gì của ông, tôi cũng không lấy. Ông sẽ
không có thể nói: "Tôi đã làm giàu cho ông Áp-ram.” 24 Tôi
không lấy gì cả, chỉ trừ những gì các người trai tráng của tôi đã ăn. Còn những
người đã đi với tôi, là A-ne, Ét-côn và Mam-rê, họ sẽ lấy phần của họ."
Chương 15
Lời
hứa và giao ước của Thiên Chúa
1
Sau
các việc đó, có lời Ðức Chúa phán với ông Áp-ram trong một thị kiến rằng:
"Hỡi Áp-ram, đừng sợ, Ta là khiên che thuẫn đỡ cho ngươi; phần thưởng của
ngươi sẽ rất lớn.” 2 Ông Áp-ram thưa: "Lạy Ðức Chúa là Chúa
Thượng, Chúa sẽ ban cho con cái gì? Con ra đi mà không con cái, và người thừa
tự gia đình con là Ê-li-e-de, một người Ða-mát.” 3 Ông Áp-ram thưa:
"Chúa coi, Chúa không ban cho con một dòng dõi, và một gia nhân của con sẽ
thừa kế con.” 4 Và đây có lời Ðức Chúa phán với ông rằng: "Kẻ
đó sẽ không thừa kế ngươi, nhưng một kẻ do chính ngươi sinh ra mới thừa kế
ngươi.” 5 Rồi Người đưa ông ra ngoài và phán: "Hãy ngước mắt
lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không." Người lại phán:
"Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó! “ 6 Ông tin Ðức Chúa, và vì thế,
Ðức Chúa kể ông là người công chính.
7
Người
phán với ông: "Ta là Ðức Chúa, Ðấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của
người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu.” 8 Ông thưa:
"Lạy Ðức Chúa, làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” 9 Người
phán với ông: "Ði kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba
tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non.” 10 Ông
kiếm cho Người tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với
nửa kia; còn chim thì ông không xẻ. 11 Mãnh cầm sà xuống trên các
con vật bị giết, nhưng ông Áp-ram đuổi chúng đi.
12
Lúc
mặt trời gần lặn, thì một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ram; một nỗi kinh
hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông. 13 Người phán
với ông: "Ngươi phải biết rằng: dòng dõi ngươi sẽ trú ngụ trong một đất
không phải của chúng. Chúng sẽ làm tôi người ta và người ta sẽ hành hạ chúng
bốn trăm năm. 14 Nhưng Ta sẽ xét xử dân tộc chúng phải làm tôi, và
sau đó chúng sẽ ra đi với nhiều tài sản. 15 Còn ngươi sẽ về với cha
ông ngươi bình an, và sẽ được chôn cất sau khi hưởng tuổi già hạnh phúc. 16
Ðến đời thứ bốn, chúng sẽ trở về đây, vì sự gian ác của người E-mô-ri
chưa đủ mức."
17
Khi
mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, thì bỗng có một lò nghi ngút khói và một
ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. 18 Hôm đó,
Ðức Chúa lập giao ước với ông Áp-ram như sau:
"Ta
ban cho dòng dõi ngươi đất này,
từ
sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát,
19
đất
của những người Kê-ni, Cơ-nát, Cát-môn, 20 Khết, Pơ-rít-di, Ra-pha, 21
E-mô-ri, Ca-na-an, Ghia-ga-si và Giơ-vút.
Chương 16
Ông
Ít-ma-ên chào đời
1
Bà
Xa-rai, vợ ông Áp-ram, đã không sinh được cho ông một người con nào. Bà có một
người nữ tỳ Ai-cập, tên là Ha-ga. 2 Bà Xa-rai nói với ông Áp-ram:
"Ông coi: Ðức Chúa đã không cho phép tôi sinh con. Vậy xin ông đi lại với
nữ tỳ của tôi; may ra nhờ nó mà tôi sẽ có con." Ông Áp-ram nghe lời bà
Xa-rai.
3
Mười
năm sau khi ông Áp-ram lập nghiệp tại đất Ca-na-an, bà Xa-rai, vợ ông, đem nữ
tỳ của bà là Ha-ga, người Ai-cập, hiến cho ông Áp-ram, chồng bà, để nàng làm vợ
ông. 4 Ông đi lại với Ha-ga và nàng có thai. Khi thấy mình có thai,
thì nàng coi khinh bà chủ. 5 Bà Xa-rai nói với ông Áp-ram: "Tôi
bị sỉ nhục là tại ông đấy! Chính tôi đã đặt nữ tỳ của tôi vào lòng ông. Thế mà
từ khi nó thấy mình có thai, nó coi khinh tôi. Xin Ðức Chúa phân xử giữa ông và
tôi.” 6 Ông Áp-ram nói với bà Xa-rai: "Nữ tỳ của bà ở trong tay
bà đấy; đối với nó, cái gì tốt cho bà thì bà cứ làm!" Bà Xa-rai hành hạ
Ha-ga khiến nàng phải trốn bà.
7
Sứ
thần của Ðức Chúa gặp thấy nàng gần một suối nước trong sa mạc, suối ở trên
đường đi Sua. 8 Người hỏi: "Ha-ga, nữ tỳ của Xa-rai, ngươi từ
đâu đến và đi đâu?" Nàng đáp: "Con đang trốn bà Xa-rai, chủ con.” 9
Sứ thần của Ðức Chúa bảo nàng: "Cứ về với bà chủ ngươi, và chịu luỵ
bà ấy."10 Sứ thần của Ðức Chúa nói với nàng: "Ta sẽ làm cho dòng dõi
ngươi ra thật nhiều đến mức không thể đếm được vì quá đông.” 11 Sứ
thần của Ðức Chúa nói với nàng:
"Này
đây ngươi đang có thai, sắp sinh hạ con trai
và
sẽ đặt tên là Ít-ma-ên,
vì
Ðức Chúa đã nghe thấu nỗi khổ của ngươi.
12
Con
người đó đúng là một con lừa hoang,
nó
giơ tay chống mọi người, mọi người giơ tay chống nó,
nó
sẽ luôn đối đầu với tất cả anh em nó."
13
Nàng
gọi tên Ðức Chúa, Ðấng phán với nàng, là: "Ngài là Thiên Chúa, Ðấng thấy
tôi", vì nàng nói: "Phải chăng nơi đây tôi đã nhìn thấy, sau khi
Người nhìn thấy tôi?” 14 Vì vậy người ta gọi giếng đó là giếng
La-khai Rô-i. Giếng ấy ở giữa Ca-đê và Be-rét.
15
Ha-ga
sinh cho ông Áp-ram một con trai; ông đặt tên cho đứa con mà Ha-ga đã sinh cho
ông là Ít-ma-ên. 16 Ông Áp-ram được tám mươi sáu tuổi khi Ha-ga sinh
Ít-ma-ên cho ông.
Chương 17
Giao
ước và phép cắt bì
1
Khi
ông Áp-ram được chín mươi chín tuổi, Ðức Chúa hiện ra với ông và phán: "Ta
là Thiên Chúa Toàn Năng. Ngươi hãy bước đi trước mặt Ta và hãy sống hoàn hảo. 2
Ta sẽ đặt giao ước của Ta giữa Ta với ngươi, và Ta sẽ cho ngươi trở nên
đông, thật đông.” 3 Ông Áp-ram cúi rạp xuống.
Thiên
Chúa phán với ông rằng:
4
"Phần
Ta, đây là giao ước của Ta với ngươi: ngươi sẽ làm cha của vô số dân tộc. 5
Người ta sẽ không còn gọi tên ngươi là Áp-ram nữa, nhưng là Áp-ra-ham, vì
Ta đặt ngươi làm cha của vô số dân tộc. 6 Ta sẽ cho ngươi sinh ra
nhiều, thật nhiều: Ta sẽ làm cho ngươi thành những dân tộc, và vua chúa sẽ phát
xuất từ ngươi. 7 Ta sẽ lập giao ước của Ta giữa Ta với ngươi và với
dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Ðây sẽ là giao ước vĩnh
cửu, do đó Ta sẽ là Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi sau này. 8 Ta
sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi sau này miền đất ngươi đang trú ngụ, tức là
tất cả đất Ca-na-an, làm sở hữu vĩnh viễn; và Ta sẽ là Thiên Chúa của
chúng."
9
Thiên
Chúa phán với ông Áp-ra-ham: "Phần ngươi, hãy giữ giao ước của Ta, ngươi và
dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. 10 Ðây là
giao ước của Ta mà các ngươi phải giữ, giao ước giữa Ta với các ngươi, với dòng
dõi ngươi sau này: mọi đàn ông con trai của các ngươi sẽ phải chịu cắt bì. 11
Các ngươi phải chịu cắt bì nơi bao quy đầu: đó sẽ là dấu hiệu giao ước
giữa Ta với các ngươi. 12 Sinh được tám ngày, mọi con trai của các
ngươi sẽ phải chịu cắt bì, từ thế hệ này qua thế hệ khác, kể cả nô lệ sinh
trong nhà, hay nô lệ các ngươi dùng bạc mà mua của bất cứ người ngoại bang nào
không thuộc dòng dõi các ngươi. 13 Buộc phải cắt bì nô lệ sinh trong
nhà cũng như nô lệ mua bằng bạc. Giao ước của Ta ghi dấu trong xác thịt các
ngươi, sẽ thành giao ước vĩnh cửu. 14 Kẻ không được cắt bì, người
đàn ông con trai không được cắt bì nơi bao quy đầu, sẽ bị khai trừ khỏi dòng
họ: nó đã phá vỡ giao ước của Ta."
15
Thiên
Chúa phán với ông Áp-ra-ham: "Xa-rai, vợ ngươi, ngươi không được gọi tên
là Xa-rai nữa, nhưng tên nó sẽ là Xa-ra. 16 Ta sẽ chúc phúc cho nó,
Ta còn cho nó sinh cho ngươi một con trai. Ta sẽ chúc phúc cho nó, nó sẽ trở
thành những dân tộc; vua chúa các dân sẽ phát xuất từ nó. 17 Ông
Áp-ra-ham cúi rạp xuống; ông cười và nghĩ bụng: "Ðàn ông trăm tuổi mà có
con được sao? Còn bà Xa-ra đã chín mươi tuổi mà sinh đẻ được sao? “ 18 Ông
Áp-ra-ham thưa với Thiên Chúa: "Ước chi Ít-ma-ên được sống trước nhan
Ngài! “ 19 Nhưng Thiên Chúa phán: "Không đâu! Chính Xa-ra, vợ
ngươi, sắp sinh cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ đặt tên cho nó là I-xa-ác.
Ta sẽ lập giao ước của Ta với nó; đây sẽ là giao ước vĩnh cửu cho dòng dõi nó
sau này. 20 Còn về Ít-ma-ên, Ta nghe lời ngươi xin: Này Ta chúc phúc
cho nó, Ta sẽ cho nó sinh sôi nảy nở ra nhiều, thật nhiều. Nó sẽ sinh ra mười
hai đầu mục, Ta sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn. 21 Nhưng giao
ước của Ta thì Ta lập với I-xa-ác, đứa con mà Xa-ra sẽ sinh cho ngươi vào độ
này sang năm.” 22 Sau khi phán với ông Áp-ra-ham, Thiên Chúa từ giã
ông mà đi lên.
23
Ông
Áp-ra-ham dẫn Ít-ma-ên con ông, mọi nô lệ sinh trong nhà ông và nô lệ mua bằng
bạc, mọi đàn ông con trai trong số người nhà của ông, đem đi cắt bì nơi bao quy
đầu của họ trong chính ngày ấy, như Thiên Chúa đã phán với ông. 24 Ông
Áp-ra-ham được chín mươi chín tuổi khi chịu cắt bì nơi bao quy đầu. 25 Ít-ma-ên,
con ông, được mười ba tuổi khi chịu cắt bì nơi bao quy đầu. 26 Trong
chính ngày ấy, ông Áp-ra-ham và Ít-ma-ên, con ông, chịu cắt bì; 27 mọi
người nhà của ông, những nô lệ sinh trong nhà hoặc nô lệ ông dùng bạc mà mua
của người ngoại bang, đều chịu cắt bì với ông.
Chương 18
Thiên
Chúa hiện ra tại Mam-rê
1
Ðức
Chúa hiện ra với ông Áp-ra-ham tại cụm sồi Mam-rê, khi ông đang ngồi ở cửa lều,
vào lúc nóng nực nhất trong ngày. 2 Ông ngước mắt lên thì thấy có ba
người đứng gần ông. Vừa thấy, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống
đất lạy 3 và nói: "Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài
đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. 4 Ðể tôi cho lấy chút
nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. 5 Tôi xin đi
lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài
đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!" Khách trả lời: "Xin cứ làm như ông
vừa nói!"
6
Ông
Áp-ra-ham vội vã vào lều tìm bà Xa-ra mà bảo: "Bà mau mau lấy ba thúng
tinh bột mà nhồi, rồi làm bánh.” 7 Ông chạy lại đàn vật, bắt một con
bê mềm và ngon, giao cho người đầy tớ, và anh này vội vã làm thịt. 8 Ông
lấy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm, mà đãi khách; rồi ông đứng hầu dưới
gốc cây, đang khi khách dùng bữa.
9
Khách
nói với ông: "Bà Xa-ra vợ ông đâu?" Ông đáp: "Thưa nhà tôi ở
trong lều.” 10 Người nói: "Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông,
và khi đó bà Xa-ra vợ ông sẽ có một con trai." Bà Xa-ra bấy giờ đang nghe
ở cửa lều, phía sau. 11 Ông Áp-ra-ham và bà Xa-ra đã già nua tuổi
tác, và bà Xa-ra không còn điều thường xảy đến cho đàn bà. 12 Bà
Xa-ra cười thầm tự bảo: "Mình đã cằn cỗi rồi, còn hưởng được vui thú nữa
sao? Ông nhà mình lại là một ông lão!” 13 Ðức Chúa phán với ông
Áp-ra-ham: "Tại sao Xa-ra lại cười và nói: "Có thật tôi già thế này
mà còn sinh đẻ được chăng? 14 Nào có điều gì kỳ diệu vượt sức Ðức Chúa? Vào độ
này sang năm, Ta sẽ trở lại thăm ngươi, và Xa-ra sẽ có một con trai.” 15 Bà
Xa-ra chối và nói: "Con đâu có cười! " Vì bà sợ. Nhưng Người bảo:
"Có, ngươi đã cười!"
Ông
Áp-ra-ham can thiệp cho thành Xơ-đôm
16
Từ
nơi đó ba người kia đứng dậy và nhìn xuống phía Xơ-đôm. Ông Áp-ra-ham cùng đi
để tiễn khách. 17 Ðức Chúa phán: "Ta có nên giấu Áp-ra-ham điều
Ta sắp làm chăng? 18 Áp-ra-ham sẽ trở thành một dân tộc lớn mạnh và mọi dân tộc
sẽ được chúc phúc nhờ nó. 19 Thật vậy, Ta đã chọn nó, để nó truyền
cho con cái nó và gia tộc nó sau này phải giữ đường lối của Ðức Chúa mà thực
hiện điều công minh chính trực; như thế Ðức Chúa sẽ làm cho Áp-ra-ham điều
Người đã phán về nó.” 20 Ðức Chúa phán: "Tiếng kêu trách Xơ-đôm
và Gô-mô-ra thật quá lớn! Tội lỗi của chúng quá nặng nề! 21 Ta phải xuống xem
thật sự chúng có làm như tiếng kêu trách đã thấu đến Ta không. Có hay không, Ta
sẽ biết."
22
Hai
người kia bỏ nơi đó mà đi về phía Xơ-đôm, nhưng Ðức Chúa còn đứng lại với ông
Áp-ra-ham. 23 Ông lại gần và thưa: "Chẳng lẽ Ngài tiêu diệt
người lành một trật với kẻ dữ sao? 24 Giả như trong thành có năm mươi người
lành, chẳng lẽ Ngài tiêu diệt họ thật sao? Chẳng lẽ Ngài không dung thứ cho
thành đó, vì năm mươi người lành trong đó sao? 25 Ngài làm như vậy, chắc không
được đâu! Giết chết người lành một trật với kẻ dữ, coi người lành cũng như kẻ
dữ, chắc không được đâu! Ðấng xét xử cả trần gian lại không xét xử công minh
sao? “ 26 Ðức Chúa đáp: "Nếu Ta tìm được trong thành Xơ-đôm năm
mươi người lành, thì vì họ, Ta sẽ dung thứ cho tất cả thành đó."
27
Ông
Áp-ra-ham lại nói: "Mặc dầu con chỉ là thân tro bụi, con cũng xin mạn phép
thưa với Chúa: 28 Giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất
năm, vì năm người đó, Ngài sẽ phá huỷ cả thành sao?" Chúa đáp:
"Không! Ta sẽ không phá huỷ, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người.” 29 Ông
lại thưa một lần nữa: "Giả như trong thành tìm được bốn mươi người thì
sao?" Chúa đáp: "Vì bốn mươi người đó, Ta sẽ không làm."
30
Ông
nói: "Xin Chúa đừng giận, cho con nói tiếp: Giả như ở đó có ba mươi người
thì sao?" Chúa đáp: "Nếu Ta tìm được ba mươi người, Ta sẽ không làm.”
31 Ông nói: Con xin mạn phép thưa với Chúa: "Giả như tìm được
hai mươi người thì sao?" Chúa đáp: "Vì hai mươi người đó, Ta sẽ không
phá huỷ.” 32 Ông nói: "Xin Chúa đừng giận, cho con nói một lần
này nữa thôi: Giả như tìm được mười người thì sao?" Chúa đáp: "Vì
mười người đó, Ta sẽ không phá huỷ Xơ-đôm."
33
Sau
khi phán với ông Áp-ra-ham, Ðức Chúa đi, còn ông Áp-ra-ham thì trở về nhà.
Chương 19
Thành
Xơ-đôm bị phá huỷ
1
Hai
sứ thần đến thành Xơ-đôm vào buổi chiều; ông Lót lúc ấy đang ngồi ở cửa thành
Xơ-đôm. Vừa thấy các ngài, ông Lót đứng lên ra đón các ngài và cúi sấp mặt
xuống đất. 2 Ông nói: "Thưa các ngài, kính xin các ngài ghé lại
nhà tôi tớ các ngài đây để nghỉ đêm và rửa chân, rồi sớm mai các ngài tiếp tục
đi đường." Họ đáp: "Không! Chúng tôi sẽ nghỉ đêm ngoài đường phố.” 3
Nhưng ông nài nỉ các ngài mãi nên các ngài ghé lại và vào nhà ông. Ông
làm tiệc đãi các ngài, nướng bánh không men, và các ngài đã dùng bữa. 4 Các
ngài chưa đi nằm thì dân trong thành, tức là người Xơ-đôm, bao vây nhà, từ trẻ
đến già, toàn dân không trừ ai. 5 Chúng gọi ông Lót và bảo:
"Những người vào nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đưa họ ra cho chúng tôi
chơi."
6
Ông
Lót ra trước cửa gặp chúng, đóng cửa lại sau lưng, 7 rồi nói:
"Thưa anh em, tôi van anh em đừng làm bậy. 8 Ðây tôi có hai đứa
con gái chưa ăn ở với đàn ông, tôi sẽ đưa chúng ra cho anh em; anh em muốn làm
gì chúng thì làm, nhưng còn hai người này, xin anh em đừng làm gì họ, vì họ đã
vào trọ dưới mái nhà tôi.” 9 Chúng đáp: "Xê ra! Tên này là một
ngoại kiều đến đây trú ngụ mà lại đòi xét xử à! Chúng tao sẽ làm dữ với mày hơn
là với những tên kia!" Họ xô mạnh ông Lót và xông vào để phá cửa. 10 Nhưng
hai người khách đưa tay kéo ông Lót vào nhà với mình, rồi đóng cửa lại. 11
Còn những người đứng ngoài cửa, thì các ngài làm cho chúng ra mù, từ
người nhỏ nhất đến người lớn nhất, khiến chúng không sao tìm ra cửa.
12
Hai
người khách nói với ông Lót: "Ông còn ai ở đây nữa không? Con rể, con
trai, con gái, và tất cả những gì ông có trong thành, hãy đưa ra khỏi nơi này.”
13 Chúng tôi sắp phá huỷ nơi này, vì tiếng kêu trách dân thành quá
lớn trước nhan Ðức Chúa, và Ðức Chúa đã sai chúng tôi đến huỷ diệt chúng.” 14
Ông Lót đi ra nói với các con rể, tức là những người sắp cưới các con gái
ông: "Ðứng lên! Ra khỏi nơi đây, vì Ðức Chúa sắp phá huỷ thành này."
Nhưng các con rể ông cho là ông nói đùa.
15
Khi
hừng đông ló rạng, các sứ thần giục ông Lót rằng: "Ðứng lên! Ðưa vợ và hai
con gái ông đang ở đây đi đi, kẻo ông phải chết lây khi thành bị phạt.” 16
Ông còn đang chần chừ thì hai người khách nắm lấy tay ông, tay vợ ông và
tay hai người con gái ông, vì Ðức Chúa muốn cứu ông; các ngài đưa ông ra và để
bên ngoài thành.
17
Khi
đưa ông ra ngoài rồi, một vị nói: "Ông hãy trốn đi để cứu mạng sống mình!
Ðừng ngoái lại đằng sau, đừng dừng lại chỗ nào cả trong cả Vùng. Hãy trốn lên
núi kẻo bị chết lây.” 18 Ông Lót nói với hai người khách: "Thưa
ngài, xin miễn cho! 19 Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã
tỏ lòng thương lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi
không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất! 20 Kìa, có
một thành khá gần, có thể trốn vào đấy được, thành ấy lại nhỏ. Xin cho tôi trốn
vào đó - thành đó nhỏ mà - để tôi được sống.” 21 Người nói với ông:
"Ðược, vì nể ông một lần nữa, tôi sẽ không phá đổ thành mà ông nói. 22
Ông hãy mau trốn vào đó, vì tôi không thể làm gì trước khi ông vào
đó." Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Xô-a.
23
Khi
mặt trời mọc lên trên mặt đất thì ông Lót vào Xô-a. 24 Ðức Chúa làm
mưa diêm sinh và lửa từ Ðức Chúa, từ trời, xuống Xơ-đôm và Gô-mô-ra. 25 Người
phá đổ các thành ấy và cả Vùng, cùng với toàn thể dân cư các thành ấy và cây cỏ
trên đất. 26 Bà vợ ông Lót ngoái lại đằng sau và hoá thành cột muối.
27
Sáng
hôm sau ông Áp-ra-ham dậy sớm, đến chỗ ông đã đứng trước mặt Ðức Chúa. 28 Ông
nhìn xuống phía Xơ-đôm, Gô-mô-ra và cả Vùng, ông thấy khói từ đất bốc lên như
khói một lò lửa!
29
Như
vậy, khi Thiên Chúa phá huỷ các thành trong cả Vùng, Thiên Chúa đã nhớ đến ông
Áp-ra-ham và đã cứu ông Lót khỏi cuộc tàn phá, khi Người phá đổ các thành nơi
ông Lót ở.
Nguồn
gốc người Mô-áp và người Am-mon
30
Ông
Lót bỏ Xô-a, lên ở trên núi cùng với hai con gái ông, vì ông sợ không dám ở
Xô-a. Ông ở trong một cái hang cùng với hai con gái. 31 Cô chị bảo
cô em: "Cha đã già; trong miền lại không có người đàn ông nào để đến với
chúng mình theo thói thường trong thiên hạ. 32 Nào! Chúng mình hãy
cho cha uống rượu và nằm với cha; như thế, chúng mình sẽ bảo tồn dòng giống cho
cha.” 33 Ðêm ấy, các cô cho cha mình uống rượu, rồi cô chị đến nằm
với cha, mà ông không hay biết khi nào cô nằm, khi nào cô dậy. 34 Hôm
sau, cô chị bảo cô em: "Ðấy, đêm qua chị đã nằm với cha. Ðêm nay nữa,
chúng mình lại cho cha uống rượu, rồi em đến nằm với cha; như thế, chúng mình
sẽ bảo tồn dòng giống cho cha.” 35 Ðêm ấy nữa, hai cô lại cho cha
uống rượu, rồi cô em đứng dậy đến nằm với cha, mà ông không hay biết khi nào cô
nằm, khi nào cô dậy. 36 Thế là hai cô con gái ông Lót đã có thai với
cha mình. 37 Cô chị sinh một con trai và đặt tên là Mô-áp; đó là ông
tổ người Mô-áp ngày nay. 38 Cô em cũng sinh một con trai và đặt tên
là Ben Am-mi; đó là ông tổ người Am-mon ngày nay.
Chương 20
Ông
Áp-ra-ham tại Gơ-ra
1
Ông
Áp-ra-ham rời chỗ đó, đến miền Ne-ghép. Ông ở giữa Can-đê và Sua, rồi ông trú
ngụ tại Gơ-ra. 2 Ông Áp-ra-ham nói về bà Xa-ra, vợ ông: "Nàng
là em tôi", và A-vi-me-léc, vua Gơ-ra, đã sai người đến bắt bà Xa-ra. 3
Nhưng ban đêm Thiên Chúa đến báo mộng cho vua A-vi-me-léc rằng: "Này
ngươi sắp phải chết vì người đàn bà mà ngươi đã bắt, bởi người ấy có chồng.” 4
Vua A-vi-me-léc đã không gần gũi bà ấy, vua thưa: "Lạy Chúa, một dân
công chính mà Ngài cũng giết sao? 5 Ông ấy đã chẳng bảo tôi rằng: "Nàng là
em tôi" đó sao? Và ngay cả bà ấy cũng đã nói rằng: "Ông ấy là anh
tôi. Tôi đã làm điều đó với tấm lòng thuần khiết và bàn tay vô tội.” 6 Thiên
Chúa báo mộng cho vua rằng: "Ta cũng biết là ngươi đã làm điều đó với tấm
lòng thuần khiết, và cũng chính Ta đã ngăn cản ngươi khỏi mắc tội đối với Ta.
Vì thế, Ta đã không để cho ngươi động đến người ấy. 7 Bây giờ hãy
trả vợ của người ấy về, vì người ấy là một ngôn sứ: người ấy sẽ cầu nguyện cho
ngươi và ngươi sẽ được sống. Còn nếu ngươi không trả về, thì hãy biết rằng chắc
chắn ngươi phải chết, ngươi cũng như mọi kẻ thuộc về ngươi."
8
Sáng
hôm sau, vua A-vi-me-léc dậy sớm, gọi tất cả các đầy tớ đến và thuật lại cho họ
nghe tất cả những điều ấy; những người này sợ lắm! 9 Vua A-vi-me-léc cho gọi
ông Áp-ra-ham đến và nói với ông: "Ông đã làm gì chúng tôi thế? Tôi mắc
tội gì đối với ông, mà ông lại làm cho tôi và nước tôi phải vương vào một tội
lớn như thế? Ông đã làm cho tôi những điều không nên làm! “ 10 Vua
A-vi-me-léc nói với ông Áp-ra-ham: "Ông nhắm mục đích gì khi làm điều ấy? “
11 Ông Áp-ra-ham trả lời: "Tôi nghĩ bụng: "Ở nơi này người
ta chẳng kính sợ gì Thiên Chúa, và vì vợ tôi họ sẽ giết tôi.” 12 Vả
lại, nàng đúng là em gái tôi, con cùng cha khác mẹ, và nàng đã trở thành vợ tôi.
13 Khi Thiên Chúa bắt tôi đi lang thang xa nhà cha tôi, thì tôi đã bảo
nàng: "Xin bà làm cho tôi ơn này là bất cứ nơi nào chúng ta đến, bà cứ
nói: "Ông ấy là anh tôi."
14
Vua
A-vi-me-léc lấy chiên bò, tôi trai tớ gái tặng ông Áp-ra-ham và trả lại cho ông
bà Xa-ra, vợ ông. 15 Vua A-vi-me-léc nói với ông Áp-ra-ham:
"Này đất của tôi ở trước mặt ông; ông muốn ở đâu tuỳ thích.” 16 Rồi
vua nói với bà Xa-ra: "Ðây tôi cho anh bà một ngàn đồng tiền bạc. Ðối với
bà, đó sẽ là bức màn che mắt mọi người ở với bà, và bà sẽ được hoàn toàn minh
oan.” 17 Ông Áp-ra-ham cầu nguyện với Thiên Chúa và Thiên Chúa chữa
lành vua A-vi-me-léc, vợ vua và các nữ tỳ của vua, cho họ có thể sinh con, 18
bởi trước đấy Ðức Chúa đã làm cho mọi phụ nữ trong gia đình vua
A-vi-me-léc không sinh đẻ được, vì chuyện bà Xa-ra, vợ ông Áp-ra-ham.
Chương 21
Ông
I-xa-ác chào đời
1
Ðức
Chúa viếng thăm bà Xa-ra như Người đã phán, và Người đã làm cho bà như Người đã
hứa. 2 Bà Xa-ra có thai và sinh cho ông Áp-ra-ham một con trai khi
ông đã già, vào thời kỳ Thiên Chúa đã hứa. 3 Ông Áp-ra-ham đặt tên
cho đứa con sinh ra cho ông là I-xa-ác, đứa con mà bà Xa-ra sinh ra cho ông. 4
Ông Áp-ra-ham cắt bì cho I-xa-ác, con ông, lúc nó được tám ngày, như
Thiên Chúa đã truyền cho ông. 5 Ông Áp-ra-ham được một trăm tuổi khi
sinh được người con là I-xa-ác. 6 Bà Xa-ra nói:
"Thiên
Chúa đã làm cho tôi cười;
tất
cả những ai nghe biết sẽ cười tôi."
7
Bà
còn nói:
"Ai
dám báo trước cho ông Áp-ra-ham rằng Xa-ra sẽ cho con bú?
Thế
mà tôi đã sinh cho ông một con trai, khi ông đã về già!"
Ha-ga
và Ít-ma-ên bị đuổi
8
Ðứa
trẻ lớn lên và cai sữa. Ông Áp-ra-ham làm tiệc lớn ngày I-xa-ác cai sữa. 9
Bà Xa-ra thấy đứa con mà Ha-ga, người Ai-cập, đã sinh ra cho ông
Áp-ra-ham, đang cười giỡn, 10 liền nói với ông Áp-ra-ham: "Ông
hãy đuổi hai mẹ con đứa nữ tỳ này đi, vì con trai đứa nữ tỳ không được thừa kế
cùng với I-xa-ác, con trai tôi.” 11 Ông Áp-ra-ham rất bực mình vì
lời ấy, bởi đó là con ông. 12 Nhưng Thiên Chúa phán với ông
Áp-ra-ham: "Ðừng bực mình vì chuyện đứa trẻ và người nữ tỳ của ngươi. Tất
cả những gì Xa-ra nói với ngươi, cứ nghe, bởi vì chính nhờ I-xa-ác mà ngươi sẽ
có một dòng dõi mang tên ngươi. 13 Còn con trai của người nữ tỳ, Ta
cũng sẽ làm cho nó thành một dân tộc lớn, vì nó là dòng dõi ngươi.” 14 Sáng
hôm sau, ông Áp-ra-ham dậy sớm, lấy bánh và một bầu da đựng nước đưa cho Ha-ga.
Ông đặt đứa bé lên vai nàng và bắt nàng phải đi.
15
Khi
nước trong bầu da đã cạn, nàng vất đứa bé dưới một bụi cây, 16 rồi
đi ngồi đối diện, cách xa khoảng tầm cung bắn. Nàng nói: "Sao cho tôi đừng
nhìn thấy đứa bé chết!" Nàng ngồi đối diện và bật tiếng khóc. 17 Thiên
Chúa nghe thấy tiếng đứa trẻ và từ trời sứ thần Thiên Chúa gọi Ha-ga và nói:
"Sao thế, Ha-ga? Ðừng sợ, vì Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng đứa trẻ, ở chỗ
nó nằm. 18 Ðứng lên! Ðỡ đứa trẻ dậy và ôm nó trong tay, vì Ta sẽ làm
cho nó thành một dân tộc lớn.” 19 Thiên Chúa mở mắt cho nàng, và
nàng thấy một giếng nước. Nàng đi đổ nước đầy bầu da, rồi cho đứa trẻ uống. 20
Thiên Chúa ở với đứa trẻ, nó lớn lên, sống trong sa mạc, và trở thành
người bắn cung. 21 Nó sống trong sa mạc Pa-ran, và mẹ nó cưới cho nó
một cô vợ người đất Ai-cập.
Ông
Áp-ra-ham và vua A-vi-me-léc ở Bơ-e Se-va
22
Thời
ấy, vua A-vi-me-léc cùng với ông Pi-khôn, tướng chỉ huy quân đội của vua, đến
nói với ông Áp-ra-ham: "Thiên Chúa ở với ông trong tất cả những gì ông làm.
23 Vậy bây giờ ông hãy lấy Thiên Chúa mà thề tại đây với tôi là ông
sẽ không lừa dối tôi và con cái cháu chắt tôi; tôi đã lấy tình mà đối xử với
ông thế nào, thì ông cũng phải đối xử với tôi và với đất ông đang trú ngụ như
vậy."
24
Ông
Áp-ra-ham nói: "Tôi xin thề."
25
Ông
Áp-ra-ham trách vua A-vi-me-léc về chuyện giếng nước mà những đầy tớ vua
A-vi-me-léc đã chiếm đoạt. 26 Vua A-vi-me-léc nói: "Tôi không
biết ai đã làm điều đó. Chính ông đã không thông báo cho tôi; và chính tôi mãi
tới hôm nay cũng chẳng nghe biết gì.” 27 Ông Áp-ra-ham lấy chiên bò
biếu vua A-vi-me-léc, và cả hai lập một giao ước. 28 Ông Áp-ra-ham
tách riêng bảy con chiên cái còn non trong đàn ra. 29 Vua
A-vi-me-léc nói với ông Áp-ra-ham: "Bảy con chiên cái còn non ông tách
riêng ra đó là để làm gì?” 30 Ông trả lời: "Bảy chiên cái còn
non ấy, xin ông nhận từ tay tôi; đó sẽ là bằng chứng tỏ ra chính tôi đã đào cái
giếng ấy.” 31 Bởi vậy, người ta gọi nơi ấy là Bơ-e Se-va, vì tại đó
hai người đã thề.
32
Họ
đã lập giao ước tại Bơ-e Se-va, rồi vua A-vi-me-léc đứng dậy cùng với ông
Pi-khôn, người chỉ huy quân đội của vua, và trở về đất người Phi-li-tinh. 33
Ông Áp-ra-ham trồng một cây liễu bách tại Bơ-e Se-va, ở đó ông kêu cầu
danh Ðức Chúa, Thiên Chúa vĩnh cửu. 34 Ông Áp-ra-ham trú ngụ lâu dài
trong đất người Phi-li-tinh.
Chương 22
Ông
Áp-ra-ham dâng I-xa-ác làm lễ tế
1
Sau
các việc đó, Thiên Chúa thử lòng ông Áp-ra-ham. Người gọi ông:
"Áp-ra-ham!" Ông thưa: "Dạ, con đây!” 2 Người phán:
"Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là I-xa-ác, hãy đi
đến xứ Mô-ri-gia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ
chỉ cho."
3
Sáng
hôm sau, ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là
I-xa-ác, ông bổ củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường đi tới nơi Thiên
Chúa bảo. 4 Sang ngày thứ ba, ông Áp-ra-ham ngước mắt lên, thấy nơi
đó ở đàng xa. 5 Ông Áp-ra-ham bảo đầy tớ: "Các anh ở lại đây
với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia; chúng tôi làm việc thờ
phượng, rồi sẽ trở lại với các anh."
6
Ông
Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt lễ toàn thiêu đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông
cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng đi. 7 I-xa-ác thưa với cha
là ông Áp-ra-ham: "Cha!” 8 Ông Áp-ra-ham đáp: "Cha đây
con!" Cậu nói: "Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu
đâu?" Ông Áp-ra-ham đáp: "Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa
sẽ liệu, con ạ." Rồi cả hai cùng đi.
9
Tới
nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Áp-ra-ham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói
I-xa-ác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. 10 Rồi ông
Áp-ra-ham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình.
11
Nhưng
sứ thần của Ðức Chúa từ trời gọi ông: "Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!" Ông
thưa: "Dạ, con đây!” 12 Người nói: "Ðừng giơ tay hại đứa
trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với
Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!” 13 Ông
Áp-ra-ham ngước mắt lên nhìn, thì thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng
trong bụi cây. Ông Áp-ra-ham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu
thay cho con mình. 14 Ông Áp-ra-ham đặt tên cho nơi này là "Ðức
Chúa sẽ liệu." Bởi đó, bây giờ có câu: "Trên núi Ðức Chúa sẽ
liệu."
15
Sứ
thần của Ðức Chúa từ trời gọi ông Áp-ra-ham một lần nữa16 và nói: "Ðây là
sấm ngôn của Ðức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: bởi vì ngươi đã làm điều
đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, 17 nên Ta sẽ thi
ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao
trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Dòng dõi ngươi sẽ chiếm được thành trì
của địch. 18 Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc
như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta."
19
Ông
Áp-ra-ham trở lại với các đầy tớ của ông; họ đứng dậy và cùng nhau đi đến Bơ-e
Se-va. Ông Áp-ra-ham sống ở Bơ-e Se-va.
Dòng
dõi ông Na-kho
20
Sau
các việc đó, người ta báo cho ông Áp-ra-ham rằng: "Này cả bà Min-ca cũng
đã sinh cho ông Na-kho, em ông, những người con trai, đó là: 21 Út,
con cả, Bút, con thứ, Cơ-mu-ên, cha của A-ram, 22 Ke-xét, Kha-dô,
Pin-đát, Gít-láp, Bơ-thu-ên.” 23 Ông Bơ-thu-ên sinh bà Rê-bê-ca. Ðó
là tám người bà Min-ca đã sinh cho ông Na-kho, em ông Áp-ra-ham. 24 Vợ
lẽ của ông Na-kho tên là Rưu-ma, cũng sinh con là
Chương 23
Mồ
mả của các tổ phụ
1
Bà
Xa-ra sống được một trăm hai mươi bảy tuổi: đó là những năm bà Xa-ra đã sống. 2
Bà Xa-ra qua đời tại Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn, trong đất Ca-na-an.
Ông Áp-ra-ham đến làm lễ chôn cất bà và than khóc bà.
3
Ông
đứng dậy, để người chết đó và nói với con cái ông Khết rằng: 4 "Tôi
là ngoại kiều và là người khách ở giữa các ông. Xin các ông nhượng cho tôi một
miếng đất riêng làm phần mộ ở giữa các ông, để tôi đem người chết của tôi đi
chôn.” 5 Ðáp lời ông Áp-ra-ham, con cái ông Khết nói rằng: 6 "Thưa
ngài, xin nghe chúng tôi nói. Ngài là một vị đầu mục của Thiên Chúa ở giữa chúng
tôi, xin cứ chôn người chết của ngài trong ngôi mộ tốt nhất của chúng tôi.
Không ai trong chúng tôi sẽ từ chối không cho ngài chôn người chết của ngài
trong mộ của chúng tôi đâu!” 7 Ông Áp-ra-ham đứng lên, sụp xuống lạy
dân trong đất ấy, tức là con cái ông Khết, 8 và nói với họ rằng:
"Nếu quả thật các ông đồng ý cho tôi đem người chết của tôi đi chôn, thì
xin nghe tôi nói và can thiệp với ông Ép-rôn, con ông Xô-kha cho tôi, 9 để
ông ấy nhượng cho tôi cái hang Mác-pê-la của ông, ở đầu cánh đồng của ông. Xin
ông ấy nhượng lại cho tôi theo đúng giá, để tôi có một miếng đất riêng làm phần
mộ ở giữa các ông.” 10 Ông Ép-rôn, người Khết, bấy giờ đang ngồi
giữa con cái ông Khết, trả lời cho ông Áp-ra-ham, có con cái ông Khết, tức là
tất cả những người đến họp ở cửa thành ông ấy, đều nghe; ông nói: 11 "Không,
thưa ngài, xin nghe tôi nói: cánh đồng ấy, tôi xin tặng ngài; cái hang ở đó,
tôi cũng xin tặng ngài. Trước mặt con cái dân tôi, tôi xin tặng ngài; ngài cứ
chôn người chết của ngài."
12
Ông
Áp-ra-ham sụp xuống lạy dân trong đất ấy 13 và nói với ông Ép-rôn, có dân trong
xứ nghe thấy: "Xin ông vui lòng nghe tôi nói: tôi trả ông giá tiền cánh
đồng, xin ông nhận lấy cho tôi, để tôi chôn người chết của tôi ở đó.” 14 Ông
Ép-rôn trả lời ông Áp-ra-ham rằng: 15 "Thưa ngài, xin nghe tôi
nói: một thửa đất giá bốn ký bạc, giữa tôi và ngài có là gì đâu? Người chết của
ngài, xin ngài cứ chôn!” 16 Ông Áp-ra-ham nghe ông Ép-rôn; ông
Áp-ra-ham cân cho ông Ép-rôn số bạc mà con cái ông Khết đã nghe thấy ông này
nói, là bốn ký bạc đang lưu hành trong giới con buôn.
17
Thế
là cánh đồng của ông Ép-rôn tại Mác-pê-la, đối diện với Mam-rê, cánh đồng và
cái hang ở đó, mọi cây cối trong cánh đồng, đã trở thành 18 sở hữu của ông
Áp-ra-ham, có con cái ông Khết, tức là mọi kẻ đến họp ở cửa thành ông ấy, chứng
kiến. 19 Sau đó, ông Áp-ra-ham chôn bà Xa-ra, vợ ông, trong hang của
cánh đồng Mác-pê-la, đối diện với Mam-rê, tức là Khép-rôn, tại đất Ca-na-an. 20
Thế là cánh đồng của con cái ông Khết, và cái hang ở đó đã trở thành
miếng đất riêng của ông Áp-ra-ham để làm phần mộ.
Chương 24
Ông
I-xa-ác lấy bà Rê-bê-ca
1
Ông
Áp-ra-ham đã già nua tuổi tác, và Ðức Chúa đã chúc phúc cho ông Áp-ra-ham trong
mọi sự. 2 Ông Áp-ra-ham bảo người lão bộc sống lâu năm nhất trong
nhà ông, và cũng là người quản lý mọi tài sản của ông: "Chú hãy đặt tay
dưới đùi tôi, 3 và tôi xin chú nhân danh Ðức Chúa là Chúa trời đất,
mà thề rằng chú sẽ không cưới cho con trai tôi một người vợ trong số con gái xứ
Ca-na-an, nơi tôi đang sống. 4 Nhưng chú sẽ về quê tôi, đến với họ
hàng tôi, mà cưới vợ cho con tôi là I-xa-ác.” 5 Người lão bộc thưa
với ông: "Có thể người đàn bà ấy không chịu đi theo tôi về đất này; vậy
tôi có phải đưa cậu con trai ông về đất mà từ đó ông đã ra đi không?” 6 Ông
Áp-ra-ham bảo người ấy: "Coi chừng, đừng có đưa con trai tôi về đó! 7 Ðức
Chúa là Chúa Trời, Ðấng đã đưa tôi ra khỏi nhà cha tôi, khỏi quê hương tôi,
Ðấng đã phán với tôi và thề với tôi rằng: "Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi
đất này", chính Người sẽ sai sứ thần Người đi trước mặt chú, để từ nơi đó
chú cưới vợ về cho con tôi. 8 Nếu người đàn bà không chịu đi theo
chú, thì chú không còn buộc phải giữ lời thề với tôi nữa. Nhưng dù sao, cũng
đừng đưa con tôi về đó.” 9 Người lão bộc đặt tay dưới đùi ông
Áp-ra-ham, chủ mình, và thề với ông điều ấy.
10
Người
lão bộc lấy mười con lạc đà trong số lạc đà của chủ và ra đi. Ông lên đường đi
về miền A-ram Na-ha-ra-gim, về thành của ông Na-kho, đem theo tất cả những gì
quý báu của chủ, mà lên đường đi đến A-ram Na-ha-ra-im, đến thành Na-khor.
11
Ông
cho lạc đà nằm phục ở ngoài thành, gần giếng nước, vào buổi chiều lúc đàn bà
con gái ra múc nước. 12 Ông khấn: "Lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa
của ông Áp-ra-ham, chủ con, xin cho con hôm nay gặp được may mắn, và xin tỏ
tình thương đối với ông Áp-ra-ham, chủ con. 13 Ðây con đứng gần suối
nước, con gái của người trong thành đang ra múc nước. 14 Cô nào con
nói: "Cô làm ơn nghiêng vò cho tôi uống", mà cô ấy trả lời: "Xin
mời ông, con sẽ cho cả lạc đà của ông uống nữa", thì đó là người Chúa đã
xe duyên cho tôi tớ Chúa là I-xa-ác; cứ đó, con sẽ biết rằng Chúa đã tỏ tình
thương đối với chủ con."
15
Ông
chưa khấn xong, thì này cô Rê-bê-ca vai mang vò đi ra; cô là con gái ông
Bơ-thu-ên, ông này là con trai bà Min-ca, vợ ông Na-kho; ông Na-kho là em ông
Áp-ra-ham. 16 Cô gái nhan sắc tuyệt vời; cô còn trinh, chưa người
đàn ông nào ăn ở với cô. Cô xuống suối, múc đầy nước, rồi đi lên. 17 Người
lão bộc chạy lại đón cô và nói: "Cô làm ơn cho tôi uống chút nước trong vò
của cô.” 18 Cô thưa: "Thưa ngài, mời ngài uống", rồi cô
vội vã hạ vò xuống tay và mời ông uống. 19 Mời ông uống xong, cô
nói: "Con cũng sẽ múc cho lạc đà của ngài nữa, cho đến khi chúng uống
xong.” 20 Cô vội đổ hết vò vào máng, lại chạy đến giếng để múc, và
múc cho tất cả lạc đà của ông. 21 Ðang khi đó, ông già cứ lặng lẽ
ngắm cô, tự hỏi xem Ðức Chúa có cho chuyến đi của mình thành công hay không.
22
Vậy
khi lạc đà uống xong, ông lấy một chiếc khuyên vàng hai chỉ và một đôi xuyến
vàng ba lượng đeo vào tay cô. 23 Rồi ông hỏi: "Cô là con ai?
Xin làm ơn cho biết. Nhà cha cô có chỗ cho chúng tôi trọ đêm không?” 24 Cô
trả lời ông: "Con là con gái ông Bơ-thu-ên, ông Bơ-thu-ên là người con
trai mà bà Min-ca đã sinh cho ông Na-kho.” 25 Cô tiếp: "Nhà con
có nhiều rơm, nhiều cỏ, có cả chỗ trọ đêm nữa.” 26 Ông già phủ phục
xuống thờ lạy Ðức Chúa 27 và nói: "Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa của
ông Áp-ra-ham, chủ tôi, đã không ngừng tỏ tình thương và lòng thành tín của
Người đối với chủ tôi; còn tôi, Ðức Chúa đã dẫn dắt tôi trên đường đến nhà anh
em họ hàng của chủ tôi."
28
Cô
gái chạy về nhà mẹ cô, báo cho biết những việc ấy. 29 Cô Rê-bê-ca có
một người anh tên là La-ban. Ông La-ban chạy ra ngoài, đến với ông già, ở bên
suối. 30 Khi ông thấy chiếc khuyên và đôi xuyến ở tay em gái, và khi
nghe những lời của cô Rê-bê-ca, em gái ông, nói rằng: "Người ấy đã nói với
em như thế!", thì ông đến gặp ông già, lúc đó đang đứng cạnh các con lạc
đà, ở bên suối. 31 Ông nói: "Xin mời ông vào, hỡi người được
Ðức Chúa chúc phúc, sao lại đứng ở ngoài? Tôi đã dọn dẹp nhà cửa và cả chỗ cho
lạc đà.” 32 Ông già vào nhà. Người ta tháo yên cho lạc đà, lấy rơm
và cỏ cho lạc đà ăn, và đem nước cho ông già và những người cùng đi với ông rửa
chân.
33
Người
ta dọn cho ông ăn, nhưng ông nói: "Tôi sẽ không ăn gì trước khi nói những
điều tôi cần phải nói." Ông La-ban thưa: "Xin ông cứ nói.” 34 Ông
nói: "Tôi là đầy tớ ông Áp-ra-ham. 35 Ðức Chúa đã đổ muôn vàn
phúc lộc xuống cho chủ tôi. Ông đã trở nên một phú hào; Ðức Chúa đã ban cho ông
chiên bò, bạc vàng, tôi trai tớ gái, lạc đà và lừa. 36 Bà Xa-ra, vợ
của chủ tôi, lúc tuổi già đã sinh cho ông một con trai. Ông đã cho cậu mọi tài
sản của ông. 37 Chủ tôi đã bắt tôi thề, ông nói: "Chú sẽ không
cưới cho con trai tôi một người vợ trong số con gái xứ Ca-na-an, nơi tôi đang
sống. 38 Nhưng chú sẽ đi về nhà cha tôi, về gia tộc tôi, cưới vợ cho
con trai tôi.” 39 Tôi thưa với chủ tôi: "Có thể người đàn bà ấy
sẽ không đi theo tôi.” 40 Ông nói: "Tôi đã bước đi trước tôn
nhan Ðức Chúa, thì chính Người sẽ sai sứ thần của Người ở với chú và Người sẽ
cho chuyến đi của chú thành công. Chú sẽ cưới cho con trai tôi một người vợ
thuộc gia tộc tôi và nhà cha tôi. 41 Chú sẽ không còn buộc phải giữ
lời tôi đã bắt chú thề, nếu chú đến với gia tộc tôi; nếu họ không chịu gả, thì
chú sẽ không còn buộc phải giữ lời tôi đã bắt chú thề.” 42 Vậy hôm
nay tôi đã đến suối và khấn: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham,
chủ con, nếu Ngài thương cho chuyến đi con đang thực hiện được thành công, 43
thì này con đứng gần suối nước: hễ thiếu nữ nào ra múc nước và con nói
với cô ấy: Cô làm ơn cho tôi uống chút nước, 44 mà cô ấy trả lời:
Xin mời ông cứ uống, con sẽ múc cho cả lạc đà của ông nữa, thì đó là người vợ
mà Ðức Chúa đã xe duyên cho con trai chủ con.” 45 Tôi thầm khấn chưa
xong, thì này cô Rê-bê-ca vai mang vò đi ra. Cô xuống suối và múc nước. Tôi nói
với cô: "Cô làm ơn cho tôi uống.” 46 Cô vội vã hạ vò xuống, và
nói: "Xin mời ông, con sẽ cho cả lạc đà của ông uống nữa." Tôi uống
và cô cho cả lạc đà uống nữa. 47 Tôi hỏi cô rằng: "Cô là con
ai? " Cô trả lời: "Con là con gái ông Bơ-thu-ên; ông Bơ-thu-ên là con
trai ông Na-kho mà bà Min-kha đã sinh cho ông ấy." Tôi đã xỏ khuyên vào
mũi và đeo xuyến vào tay cô ấy. 48 Tôi đã phủ phục xuống thờ lạy Ðức
Chúa và đã chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham, chủ tôi, đã dẫn
dắt tôi đi đúng đường, để cưới con gái người anh em họ hàng của chủ tôi cho con
trai ông ấy. 49 Vậy bây giờ, nếu quý ông muốn tỏ ra có tình có nghĩa
với chủ tôi, thì xin cho tôi biết. Bằng không, thì xin cũng cho tôi biết để tôi
còn liệu cách này cách khác."
50
Ông
La-ban và ông Bơ-thu-ên trả lời: "Việc này Ðức Chúa đã xe định, chúng tôi
không thể nói thuận hay nghịch nữa. 51 Rê-bê-ca đang ở trước mặt ông
đây: Ông cứ đưa nó về. Nó sẽ thành vợ của con trai chủ ông, như Ðức Chúa đã
phán.” 52 Khi người lão bộc của ông Áp-ra-ham nghe những lời họ nói,
thì phủ phục xuống đất thờ lạy Ðức Chúa. 53 Rồi người lão bộc đưa ra
những đồ bạc, đồ vàng và quần áo tặng cô Rê-bê-ca, và biếu anh và mẹ cô những
món quà quý giá. 54 Ông và những người đi với ông ăn uống rồi nghỉ
đêm.
55
Anh
và mẹ cô trả lời: "Xin cho con bé ở lại với chúng tôi ít bữa, khoảng mươi
ngày thôi, sau đó nó sẽ đi.” 56 Ông nói với họ: "Xin đừng giữ
tôi lại. Ðức Chúa đã cho chuyến đi của tôi thành công, xin cho tôi đi, để tôi
trở về với chủ tôi.” 57 Họ đáp: "Chúng ta hãy gọi con bé ra và
hỏi xem ý nó thế nào.” 58 Họ gọi cô Rê-bê-ca ra và hỏi:
"Rê-bê-ca, có muốn đi với ông này không?" Cô trả lời: "Có.” 59
Thế rồi họ tiễn cô Rê-bê-ca, người em của họ, đi cùng với người vú nuôi
của cô, người lão bộc của ông Áp-ra-ham và những người đi theo ông. 60 Họ
chúc phúc cho cô Rê-bê-ca rằng:
"Chúc
em sinh vạn sinh ngàn.
Giống
dòng chiếm cứ cửa thành địch quân."
61
Cô
Rê-bê-ca cùng với các tớ gái đứng dậy, cỡi lên lạc đà mà đi theo người lão bộc.
Ông nhận cô Rê-bê-ca và ra đi.
62
Khi
ấy cậu I-xa-ác đã bỏ vùng giếng La-khai Rô-i, và đang ở trong miền Ne-ghép. 63
Cậu I-xa-ác ra ngoài đồng dạo mát lúc chiều tà. 64 Ngước mắt
lên, cậu thấy một bầy lạc đà đang tiến đến. Ngước mắt lên, cô Rê-bê-ca thấy cậu
I-xa-ác, cô bèn từ trên lưng lạc đà nhảy xuống 65 và hỏi người lão bộc:
"Người đang đi ngoài đồng tiến về phía chúng ta là ai đó?" Người lão
bộc trả lời: "Chủ tôi đấy!" Cô bèn lấy chiếc khăn che mặt.
66
Người
lão bộc thưa lại với cậu I-xa-ác tất cả những gì ông đã làm. 67 Cậu
I-xa-ác đưa cô Rê-bê-ca vào lều của bà Xa-ra mẹ cậu; cậu lấy cô làm vợ, cậu yêu
thương cô và khuây khoả được nỗi buồn mất mẹ.
Chương 25
Dòng
dõi bà Cơ-tu-ra (1 Sb 1:32 -33)
1
Ông
Áp-ra-ham lấy thêm một bà vợ nữa, tên là Cơ-tu-ra. 2 Bà sinh cho
ông: Dim-ran, Gióc-san, Mơ-đan, Ma-đi-an, Gít-bắc và Su-ác. 3 Ông
Gióc-san sinh Sơ-va và Ðơ-đan; các con của ông Ðơ-đan là người Át-su-ri,
Lơ-tu-sim và Lơ-um-mim. 4 Các con của ông Ma-đi-an là: Ê-pha, Ê-phe,
Kha-nốc, A-vi-đa, En-đa-a. Tất cả những người ấy là con cháu bà Cơ-tu-ra.
5
Ông
Áp-ra-ham đã cho ông I-xa-ác tất cả những gì ông có. 6 Còn những
người con của các bà vợ lẽ ông, thì ông Áp-ra-ham đã tặng họ quà, và ngay khi
còn sống, ông cho họ đi xa ông I-xa-ác, con ông, về hướng đông, về đất Phương
Ðông.
Ông
Áp-ra-ham qua đời
7
Ông
Áp-ra-ham sống thọ một trăm bảy mươi lăm tuổi 8 rồi tắt thở. Ông qua đời khi đã
cao niên, đã sống tuổi già hạnh phúc và được mãn nguyện; và ông được về sum họp
với gia tiên. 9 Các con ông I-xa-ác và Ít-ma-ên chôn cất ông trong
hang Mác-pê-la, trong cánh đồng của ông Ép-rôn, con ông Xô-kha, người Khết, đối
diện với Mam-rê. 10 Ðó là cánh đồng ông Áp-ra-ham đã tậu của con cái
ông Khết. Ông Áp-ra-ham được chôn ở đó, cũng như bà Xa-ra, vợ ông. 11 Sau
khi ông Áp-ra-ham qua đời, Thiên Chúa chúc phúc cho ông I-xa-ác, con ông. Ông
I-xa-ác ở gần giếng La-khai Rô-i.
Dòng
dõi ông Ít-ma-ên (1 Sb 1:28 -31)
12
Ðây
là gia đình ông Ít-ma-ên, con ông Áp-ra-ham, mà bà Ha-ga, người Ai-cập, nữ tỳ
của bà Xa-ra, đã sinh cho ông Áp-ra-ham. 13 Ðây là tên các con trai
ông Ít-ma-ên, tên xếp theo gia đình của họ: Nơ-va-giốt, con đầu lòng của ông
Ít-ma-ên, rồi đến Kê-đa, Át-bơ-ên, Mít-xam, 14 Mít-ma, Ðu-ma, Ma-xa,
15 Kha-đát, Tê-ma, Giơ-tua, Na-phít, Kết-ma. 16 Ðó là các
con ông Ít-ma-ên, và đó là tên của họ, theo các làng và trại của họ: mười hai
đầu mục cho bấy nhiêu bộ lạc.
17
Ðây
là số năm ông Ít-ma-ên đã sống: một trăm ba mươi bảy năm. Rồi ông tắt thở, qua
đời và được về sum họp với gia tiên. 18 Ông đã ở từ Kha-vi-la đến
Sua, đối diện với Ai-cập, về phía Át-sua. Ông định cư đối diện với tất cả anh
em của ông.
III.
Sự Tích Ông I-Xa-Ác Và Ông Gia-Cóp
Ông
Ê-xau và ông Gia-cóp chào đời
19
Ðây
là gia đình ông I-xa-ác, con ông Áp-ra-ham. Ông Áp-ra-ham sinh ra ông I-xa-ác. 20
Ông I-xa-ác được bốn mươi tuổi, khi ông lấy bà Rê-bê-ca làm vợ; bà này là
con ông Bơ-thu-ên, người A-ram ở Pát-đan A-ram, và là em ông La-ban, người
A-ram. 21 Ông I-xa-ác khẩn cầu Ðức Chúa cho vợ ông, vì bà hiếm hoi.
Ðức Chúa nhậm lời ông, và bà Rê-bê-ca vợ ông có thai. 22 Các đứa con
đụng nhau trong lòng bà, nên bà kêu lên: "Nếu vậy thì tại sao tôi thế
này?" Bà thỉnh ý Ðức Chúa. 23 Ðức Chúa phán với bà:
"Có
hai dân tộc trong lòng ngươi,
hai
dân từ dạ ngươi sinh ra và sẽ chia rẽ nhau.
Dân
này sẽ mạnh hơn dân kia, đứa lớn sẽ làm tôi đứa bé."
24
Khi
đến ngày sinh nở thì quả là bà đã mang hai đứa con trong lòng. 25 Ðứa
ra trước đỏ hoe, toàn thân như một chiếc áo choàng bằng lông: người ta đặt tên
cho nó là Ê-xau. 26 Sau đó, đứa em ra, tay nắm gót chân của Ê-xau:
người ta đặt tên cho nó là Gia-cóp. Ông I-xa-ác được sáu mươi tuổi khi chúng
sinh ra.
27
Hai
đứa trẻ lớn lên. Ê-xau là người thạo nghề săn bắn, chuyên rong ruổi ngoài đồng;
còn Gia-cóp thì trầm tĩnh, chỉ sống ở lều. 28 Ông I-xa-ác thương
Ê-xau vì ông thích ăn thịt rừng, còn bà Rê-bê-ca thì thương Gia-cóp.
Ông
Ê-xau nhượng quyền trưởng nam
29
Lần
kia, Gia-cóp đang nấu cháo, thì Ê-xau từ ngoài đồng về, mệt lả. 30 Ê-xau
nói với Gia-cóp: "Cho anh ăn món đo đỏ kia với, vì anh đang mệt lả."
Vì thế người ta đặt tên cho nó là Ê-đôm. 31 Gia-cóp nói: "Anh
hãy bán quyền trưởng nam của anh cho em trước đã!” 32 Ê-xau nói:
"Anh đang sắp chết, thì quyền trưởng nam có ích gì cho anh?” 33 Gia-cóp
nói: "Vậy anh thề ngay với em đi." Ê-xau liền thề và bán quyền trưởng
nam của mình cho Gia-cóp. 34 Bấy giờ Gia-cóp cho Ê-xau bánh và cháo
đậu. Ê-xau ăn uống, rồi đứng dậy đi. Ê-xau đã coi thường quyền trưởng nam.
Chương 26
Ông
I-xa-ác tại Gơ-ra
1
Bấy
giờ trong xứ xảy ra một nạn đói, không phải nạn đói đã xảy ra trước kia thời
ông Áp-ra-ham. Ông I-xa-ác đi Gơ-ra, đến với A-vi-me-léc, vua người Phi-li-tinh.
2 Ðức Chúa hiện ra với ông và phán: "Ðừng xuống Ai-cập, hãy ở
trong đất Ta sẽ chỉ cho. 3 Hãy trú ngụ trong đất này; Ta sẽ ở với
ngươi và sẽ chúc phúc cho ngươi, vì Ta sẽ ban tất cả những miền đất này cho
ngươi và dòng dõi ngươi, và Ta sẽ giữ lời Ta đã thề với Áp-ra-ham, cha ngươi. 4
Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi ra nhiều như sao trên trời, sẽ ban cho dòng
dõi ngươi tất cả những miền đất này; và nhờ dòng dõi ngươi, mọi dân tộc trên
mặt đất sẽ được chúc phúc, 5 bởi vì Áp-ra-ham đã vâng lời Ta, đã giữ
điều Ta truyền, cũng như các mệnh lệnh, thánh chỉ và luật điều của Ta.” 6 Vậy
ông I-xa-ác sống ở Gơ-ra.
7
Người
địa phương hỏi về vợ ông, thì ông trả lời: "Nàng là em tôi." Ông
không dám nói: "Nàng là vợ tôi", sợ người địa phương giết ông vì bà
Rê-bê-ca, bởi lẽ bà có nhan sắc. 8 Khi ông đã ở đó lâu ngày, thì
A-vi-me-léc, vua người Phi-li-tinh, nhìn xuống qua cửa sổ thì thấy ông I-xa-ác
đang cười giỡn với bà Rê-bê-ca, vợ ông. 9 Vua A-vi-me-léc cho gọi
ông I-xa-ác đến và nói: "Ðúng là vợ ông! Sao ông lại nói: Nàng là em
tôi?" Ông I-xa-ác trả lời vua: "Tôi đã nói như thế vì sợ phải chết vì
nàng."10 Vua A-vi-me-léc nói: "Ông đã làm gì chúng tôi thế? Thiếu
chút nữa là một người trong dân sẽ nằm với vợ ông, và ông làm cho chúng tôi
phải vương vào một tội!” 11 Vua A-vi-me-léc truyền cho toàn dân
rằng: "Ai mà động đến ông này và vợ ông, sẽ bị xử tử."
12
Ông
I-xa-ác đã gieo vãi trong đất ấy, và năm đó ông thu hoạch gấp trăm lần. Ðức
Chúa chúc phúc cho ông 13 và ông trở nên giàu có, mỗi ngày một giàu thêm, giàu
vô kể. 14 Ông có những đàn chiên, đàn bò, có nhiều đầy tớ, khiến
người Phi-li-tinh phải ghen.
Những
giếng nước giữa Gơ-ra và Bơ-e Se-va
15
Tất
cả những giếng mà đầy tớ của cha ông đã đào dưới thời ông Áp-ra-ham, cha ông,
thì người Phi-li-tinh đã bít lại và lấp đầy đất. 16 Vua A-vi-me-léc
nói với ông I-xa-ác: "Ông hãy đi khỏi xứ chúng tôi, vì ông đã trở nên quá
mạnh so với chúng tôi.” 17 Ông I-xa-ác đi khỏi đó, cắm lều trong
thung lũng Gơ-ra và ở lại đây. 18 Ông I-xa-ác đào lại những giếng
nước mà người ta đã đào thời ông Áp-ra-ham, cha ông, và người Phi-li-tinh đã
bít đi sau khi ông Áp-ra-ham qua đời. Ông lấy chính những tên cha ông đã đặt mà
đặt cho các giếng ấy.
19
Ðầy
tớ ông I-xa-ác đào trong thung lũng và tìm thấy ở đó một giếng nước mạch. 20
Những người chăn súc vật ở Gơ-ra tranh chấp với những người chăn súc vật
của ông I-xa-ác, chúng nói: "Nước của chúng tôi!" Ông đã đặt tên
giếng là Ê-xéc, bởi vì chúng đã gây gỗ với ông. 21 Họ đào một giếng
khác và người ta lại tranh chấp về giếng đó; ông đặt tên giếng là Xít-na. 22
Ông bỏ chỗ ấy ra đi đào một giếng khác; người ta không tranh chấp về
giếng này, và ông đặt tên giếng là Rơ-khô-vốt; ông nói: "Vì giờ đây Ðức
Chúa đã cho chúng ta được thênh thang, và chúng ta sẽ sinh sôi trong đất
này."
23
Từ
chỗ ấy, ông lên Bơ-e Se-va. 24 Ðêm ấy, Ðức Chúa hiện ra với ông và
phán:
"Ta
là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, cha ngươi.
Ðừng
sợ, vì Ta ở với ngươi.
Vì
Áp-ra-ham, tôi tớ của Ta, Ta sẽ chúc phúc cho ngươi,
sẽ
làm cho dòng dõi ngươi ra nhiều."
25
Tại
đây ông dựng một bàn thờ và kêu cầu danh Ðức Chúa. Cũng tại đây ông cắm lều, và
các đầy tớ ông I-xa-ác đã khơi một cái giếng.
Giao
ước với vua A-vi-me-léc
26
Từ
Gơ-ra, vua A-vi-me-léc cùng với ông A-khu-dát, bạn của vua, và ông Pi-khôn,
người chỉ huy quân đội của vua, đến gặp ông I-xa-ác. 27 Ông I-xa-ác
nói với họ: "Các ông ghét tôi và đã đuổi tôi đi khỏi xứ các ông, thì các
ông còn đến gặp tôi làm gì?” 28 Họ trả lời: "Chúng tôi đã thấy
rõ là Ðức Chúa ở với ông và chúng tôi nói: phải có một lời thề nguyền giữa
chúng ta, giữa chúng tôi và ông. Chúng tôi muốn lập giao ước với ông: 29 Ông
sẽ không làm hại chúng tôi, cũng như chúng tôi đã không động đến ông, mà đã chỉ
làm điều tốt cho ông và đã để cho ông đi bình an. Giờ đây ông là người được Ðức
Chúa chúc phúc.” 30 Ông làm tiệc đãi họ, và họ ăn uống.
31
Sáng
hôm sau, họ dậy sớm, hai bên thề với nhau, rồi ông I-xa-ác để họ đi và họ từ
giã ông ra đi bình an. 32 Chính ngày hôm ấy, các đầy tớ ông I-xa-ác
đến báo tin cho ông về cái giếng họ đã đào; họ nói với ông: "Chúng tôi đã
tìm thấy nước.” 33 Ông gọi giếng ấy là Síp-a; vì thế tên thành ấy là
Bơ-e Se-va; cho đến ngày nay.
Các
bà vợ người Khết của ông Ê-xau
34
Khi
Ê-xau được bốn mươi tuổi thì lấy hai người vợ là Giu-đi-tha, con gái ông
Bơ-ê-ri người Khết, và Ba-xơ-mát, con gái ông Ê-lôn người Khết. 35 Hai
người phụ nữ này làm cho ông I-xa-ác và bà Rê-bê-ca phải cay đắng trong lòng.
Chương 27
Ông
Gia-cóp đoạt lời chúc phúc của ông I-xa-ác
1
Ông
I-xa-ác đã già, mắt ông loà không trông thấy nữa. Ông bèn gọi Ê-xau, con trai
lớn của ông, ông nói: "Con ơi! " Cậu thưa: "Dạ, con đây.” 2
Ông nói: "Con thấy không, cha già rồi, không biết chết ngày nào. 3
Bây giờ con hãy lấy khí giới của con, ống tên và cây cung của con, ra
đồng săn thú cho cha. 4 Con hãy làm cho cha một món ăn ngon như cha
thích, rồi đem đến cho cha ăn, để cha đích thân chúc phúc cho con trước khi
chết.” 5 Ðang khi ông I-xa-ác nói với Ê-xau, con trai ông, thì bà
Rê-bê-ca nghe được. Ê-xau đi ra đồng để săn thú mang về.
6
Bà
Rê-bê-ca nói với ông Gia-cóp, con trai bà: "Này, mẹ vừa nghe cha con nói
với anh con rằng: 7 "Con hãy đem thịt rừng về cho cha và làm
cho cha một món ăn ngon, để cha ăn và chúc phúc cho con trước mặt Ðức Chúa,
trước khi cha chết.” 8 Giờ đây, con ơi, hãy nghe lời mẹ mà làm như
mẹ dạy con. 9 Con đến bầy súc vật bắt cho mẹ hai con dê đực non và
mập; mẹ sẽ làm thành một món ăn ngon cho cha con như cha con thích. 10 Con
sẽ đem đến cho cha con và cha con sẽ ăn, để người chúc phúc cho con trước khi
chết."
11
Gia-cóp
nói với mẹ: "Mẹ coi, anh Ê-xau con thì lông lá, còn con thì nhẵn nhụi. 12
Biết đâu cha con sẽ rờ con; con sẽ bị cha coi như một tên lừa gạt, và sẽ
phải chuốc lấy lời nguyền rủa, thay vì được chúc phúc.” 13 Mẹ cậu
bảo: "Con ơi, nếu con bị nguyền rủa, mẹ sẽ gánh cho; cứ nghe lời mẹ và đi
bắt dê cho mẹ.” 14 Cậu đi bắt, đem lại cho mẹ, và mẹ cậu đã làm
thành món ăn ngon như cha cậu thích. 15 Bà Rê-bê-ca lấy áo của
Ê-xau, con trai lớn của bà, áo sang nhất mà bà có ở nhà, và mặc cho Gia-cóp,
con trai nhỏ của bà. 16 Bà lấy da dê non mà bọc lấy tay và phần cổ
nhẵn nhụi của cậu. 17 Rồi bà đặt món ăn ngon và bánh đã làm vào tay
Gia-cóp, con bà.
18
Cậu
vào với cha và thưa: "Cha ơi!" Ông đáp: "Cha đây! Con là đứa nào
đấy con?” 19 Gia-cóp thưa với cha: "Con là Ê-xau, con trưởng
của cha; con đã làm như cha bảo. Mời cha ngồi dậy xơi món thịt rừng của con, để
cha đích thân chúc phúc cho con.” 20 Ông I-xa-ác hỏi con: "Con
ơi! sao con tìm được mau thế?" Cậu thưa: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của
cha, đã cho con gặp được may mắn.” 21 Ông I-xa-ác bảo Gia-cóp:
"Con ơi, lại gần đây, để cha rờ con, xem con có đúng là Ê-xau, con cha,
hay không.” 22 Gia-cóp lại gần ông I-xa-ác, cha ông; ông rờ cậu và
nói: "Tiếng thì tiếng Gia-cóp, mà tay là tay Ê-xau.” 23 Ông
không nhận ra cậu, vì tay cậu lông lá như tay Ê-xau, anh cậu; thế là ông chúc
lành cho cậu. 24 Ông hỏi: "Con có đúng là Ê-xau, con cha
không?" Cậu thưa: "Vâng, chính con.” 25 Ông nói: "Con
ơi, bưng lại cho cha ăn món thịt rừng, để cha đích thân chúc phúc cho
con." Cậu bưng lại cho ông, ông ăn; rồi cậu đem rượu đến, ông uống.26 Ông
I-xa-ác, cha cậu, bảo: "Con ơi, lại gần đây và hôn cha đi!” 27 Cậu
lại gần và hôn ông. Ông hít mùi áo cậu và chúc phúc cho cậu rằng:
"Kìa,
mùi thơm con tôi
như
mùi thơm cánh đồng Ðức Chúa đã chúc phúc.
28
Xin
Thiên Chúa ban cho con,
sương
trời với đất đai màu mỡ, và lúa mì rượu mới dồi dào.
29
Các
dân phải làm tôi con, các nước phải sụp xuống lạy con.
Con
hãy làm chủ các anh em con,
và
các con của mẹ con phải sụp xuống lạy con.
Kẻ
nguyền rủa con sẽ bị nguyền rủa,
kẻ
chúc phúc cho con sẽ được chúc phúc."
30
Khi
ông I-xa-ác chúc phúc cho Gia-cóp xong, và Gia-cóp vừa từ chỗ cha cậu là ông
I-xa-ác mà đi ra, thì Ê-xau, anh cậu, đi săn về. 31 Ê-xau cũng làm
một món ăn ngon, đem lại cho cha và thưa với cha: "Mời cha dậy xơi món
thịt rừng của con cha, để cha đích thân chúc phúc cho con.” 32 Ông
I-xa-ác, cha cậu, nói với cậu: "Con là đứa nào đây?" Cậu thưa:
"Con là Ê-xau, con trai cha, con trưởng của cha!” 33 Ông
I-xa-ác run lên, run bắn người lên và hỏi: "Vậy ai là người đã săn thịt
rừng và đem lại cho cha? Cha đã ăn tất cả trước khi con vào. Cha đã chúc phúc
cho nó, và dù sao nó vẫn được chúc phúc.” 34 Khi Ê-xau nghe những
lời của cha, cậu kêu lên một tiếng lớn và cay đắng vô cùng. Cậu thưa với cha:
"Cha ơi, xin cha chúc phúc cho cả con nữa.” 35 Ông nói:
"Em con đã dùng mưu gian mà đến, và đoạt lời chúc của con.” 36 Cậu
nói: "Có phải vì nó tên là Gia-cóp, mà nó đã hất cẳng con đến hai lần? Nó
đã đoạt quyền trưởng nam của con, bây giờ đây nó lại đoạt lời chúc phúc của
con!" Rồi cậu thêm: "Cha chẳng dành cho con một lời chúc phúc sao?” 37
Ông I-xa-ác đáp lại Ê-xau: "Con xem, cha đã đặt nó làm chủ con và đã
khiến tất cả các anh em nó làm tôi nó. Cha đã liệu cho nó có lúa mì rượu mới.
Vậy cha làm gì được cho con, con ơi!” 38 Ê-xau thưa với cha:
"Cha chỉ có một lời chúc phúc ấy thôi sao? Xin cha cũng chúc phúc cho cả con
nữa, cha ơi!" Rồi Ê-xau oà lên khóc. 39 Bấy giờ, ông I-xa-ác,
cha cậu, lên tiếng nói:
"Kìa,
nơi ở của con sẽ cách xa đất đai màu mỡ
và
không được sương từ trời cao gieo xuống.
40
Con
sẽ sống nhờ thanh gươm của con, sẽ làm tôi em con.
Nhưng
khi còn nay đây mai đó,
con
sẽ giũ được ách em con ra khỏi cổ con."
41
Ê-xau
hận với Gia-cóp vì lời chúc phúc cậu này đã được cha ban cho. Ê-xau tự nhủ:
"Sắp đến ngày lo đám tang cho cha ta rồi; bấy giờ ta sẽ giết Gia-cóp, em
ta!” 42 Người ta báo cho bà Rê-bê-ca biết những lời của Ê-xau, con
trai lớn của bà. Bà liền cho gọi Gia-cóp, con trai nhỏ của bà đến và bảo:
"Ê-xau, anh con, đang muốn giết con để trả thù. 43 Giờ đây, con
ơi, hãy nghe lời mẹ, đứng lên và trốn sang bên bác La-ban, anh của mẹ ở
Kha-ran.44 Con sẽ ở với bác một thời gian, cho đến khi anh con nguôi giận. 45
Chừng nào anh con không còn giận con nữa và quên đi điều con đã làm cho
anh, thì mẹ sẽ sai người đưa con từ đó về. Lẽ nào trong một ngày mẹ phải mất cả
hai con?"
Ông
I-xa-ác sai ông Gia-cóp đến nhà ông La-ban
46
Bà
Rê-bê-ca nói với ông I-xa-ác: "Tôi chán không muốn sống nữa, vì các con
gái ông Khết. Nếu Gia-cóp cưới ai trong số con gái ông Khết như những cô này,
đám con gái xứ này, thì tôi còn sống làm gì nữa?"
Chương 28
1
Ông
I-xa-ác gọi ông Gia-cóp đến, chúc phúc cho cậu và truyền rằng: "Con không
được cưới ai trong số con gái Ca-na-an. 2 Ðứng lên! Ði về Pát-đan
A-ram, đến nhà ông Bơ-thu-ên, ông ngoại con, và ở đó con lấy con gái ông
La-ban, bác con, làm vợ. 3 Xin Thiên Chúa toàn năng chúc phúc cho con,
xin Người làm cho con sinh sôi nảy nở thật nhiều, để con trở nên một cộng đồng
nhiều dân nước. 4 Xin Người ban cho con và dòng dõi con phúc lành
của ông Áp-ra-ham, để con chiếm hữu miền đất con đang trú ngụ, là miền đất
Thiên Chúa đã ban cho ông Áp-ra-ham.” 5 Ông I-xa-ác sai ông Gia-cóp
đi về Pát-đan A-ram, đến nhà ông La-ban là con trai ông Bơ-thu-ên, người A-ram,
và là anh bà Rê-bê-ca, mẹ của Gia-cóp và Ê-xau.
Ông
Ê-xau lấy vợ lần nữa
6
Ê-xau
thấy rằng ông I-xa-ác đã chúc phúc cho Gia-cóp và sai về Pát-đan A-ram để lấy
vợ ở đó, và thấy rằng khi Gia-cóp đi, thì ông đã truyền: "Con không được
cưới ai trong số con gái Ca-na-an.” 7 Gia-cóp vâng lời cha mẹ mà đi
Pát-đan A-ram. 8 Ê-xau thấy rằng những người con gái Ca-na-an không
vừa ý ông I-xa-ác, cha cậu. 9 Vậy Ê-xau đến nhà ông Ít-ma-ên, và
ngoài những người vợ đã có, cậu lại cưới thêm cô Ma-kha-lát là con gái ông
Ít-ma-ên, con ông Áp-ra-ham, và là em gái ông Nơ-va-giốt.
Giấc
mộng của ông Gia-cóp
10
Gia-cóp
ra khỏi Bơ-e Se-va và đi về Kha-ran. 11 Cậu đến một nơi kia và nghỉ
đêm tại đó vì mặt trời đã lặn. Cậu lấy một hòn đá ở nơi đó để gối đầu và nằm
ngủ ở đó. 12 Cậu chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu
thang chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống.
13 Và kìa Ðức Chúa đứng bên trên thang mà phán: "Ta là Ðức
Chúa, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, tổ phụ ngươi, và là Thiên Chúa của I-xa-ác. Ðất
ngươi đang nằm, Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi. 14 Dòng dõi
ngươi sẽ nhiều như bụi trên đất; ngươi sẽ lan tràn ra khắp đông tây nam bắc.
Nhờ ngươi và dòng dõi ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc. 15
Này Ta ở với ngươi; ngươi đi bất cứ nơi nào, Ta sẽ giữ gìn ngươi, và Ta
sẽ đưa ngươi về đất này, vì Ta sẽ không bỏ ngươi cho đến khi Ta hoàn thành điều
Ta đã phán với ngươi.” 16 Gia-cóp tỉnh giấc và nói: "Quả thật,
có Ðức Chúa ở nơi này mà tôi không biết!” 17 Cậu phát sợ và nói:
"Nơi này đáng sợ thay! Ðây là nhà của Thiên Chúa, là cửa trời, chứ không
phải là gì khác.” 18 Sáng hôm sau, Gia-cóp dậy sớm, lấy hòn đá cậu
đã gối đầu, dựng lên làm trụ và đổ dầu lên đầu trụ. 19 Cậu đặt tên
cho nơi đó là Bết Ên; trước đó, tên thành ấy là Lút.
20
Gia-cóp
khấn rằng: "Nếu Thiên Chúa ở với tôi và giữ gìn tôi trong chuyến đi tôi
đang thực hiện, nếu Người ban cho tôi bánh ăn áo mặc, 21 nếu tôi
được trở về nhà cha tôi bình an, thì Ðức Chúa sẽ là Thiên Chúa của tôi, 22
hòn đá này là hòn đá tôi đã dựng lên làm trụ sẽ là nhà của Thiên Chúa, và
lạy Chúa, mọi sự Ngài ban cho con, con sẽ dâng cho Ngài một phần mười."
Chương 29
Gia-cóp
đến nhà ông La-ban
1
Gia-cóp
cất bước đi về đất con cái Phương Ðông. 2 Cậu nhìn và thấy một cái
giếng ở ngoài đồng. Ở đó có ba đàn chiên đang nằm gần giếng, vì người ta cho
các đàn vật uống nước giếng này. Trên miệng giếng, có một tảng đá lớn. 3 Khi
các đàn vật đã tụ tập đông đủ, thì người ta lăn tảng đá ra khỏi miệng giếng và
cho chiên uống, rồi lại đưa tảng đá về chỗ cũ trên miệng giếng. 4 Gia-cóp
hỏi họ: "Anh em ở đâu đến?" Họ đáp: "Chúng tôi từ Kha-ran đến.” 5
Cậu hỏi: "Anh em có biết ông La-ban, con cháu ông Na-kho
không?" Họ trả lời: "Chúng tôi biết.” 6 Cậu lại hỏi:
"Ông ấy có được bình an không?" Họ trả lời: "Ông ấy được bình
an; cô Ra-khen, con gái ông ấy, đang đến cùng với chiên dê kia kìa.” 7 Cậu
nói: "Trời còn sáng thế này, chưa phải là lúc tụ tập đàn vật, anh em cho
chiên dê uống rồi đi chăn đi!” 8 Họ đáp: "Chúng tôi không được
làm như vậy, trước khi các đàn vật tụ tập đông đủ; bấy giờ người ta mới lăn
tảng đá khỏi miệng giếng, và chúng tôi sẽ cho chiên dê uống."
9
Ông
còn đang nói chuyện với họ, thì cô Ra-khen đến cùng với chiên dê của cha cô, vì
cô là người chăn súc vật. 10 Gia-cóp vừa nhìn thấy cô Ra-khen, con
gái ông La-ban, anh của mẹ cậu, và chiên dê của ông La-ban, anh của mẹ cậu, thì
cậu lăn tảng đá ra khỏi miệng giếng, và cho chiên dê của ông La-ban, anh của mẹ
cậu, uống. 11 Gia-cóp hôn cô Ra-khen rồi oà lên khóc. 12 Gia-cóp
nói cho cô Ra-khen biết cậu là anh em họ hàng với cha cô và là con trai bà
Rê-bê-ca; cô liền chạy về báo tin cho cha. 13 Ông La-ban vừa nghe
nói đến Gia-cóp, con của em gái ông, liền chạy ra đón, ôm cậu mà hôn, rồi đưa
vào nhà. Cậu kể lại cho ông La-ban hết mọi việc. 14 Ông La-ban nói:
"Cháu đúng là cốt nhục của bác." Cậu ở lại với ông trọn một tháng.
Ông
Gia-cóp lấy hai vợ
15
Ông
La-ban nói với Gia-cóp: "Vì cháu là anh em họ hàng với bác, mà cháu phục
vụ bác không công hay sao? Cháu cứ cho bác biết công xá của cháu thế nào.” 16
Ông La-ban có hai con gái, cô chị tên là Lê-a, cô em tên là Ra-khen. 17
Cô Lê-a mắt lờ đờ, còn cô Ra-khen thì duyên dáng và có nhan sắc. 18 Gia-cóp
yêu cô Ra-khen, nên cậu nói: "Cháu sẽ phục vụ bác bảy năm để được Ra-khen,
con gái út của bác.” 19 Ông La-ban nói: "Bác gả nó cho cháu thì
hơn là gả cho người khác. Cháu cứ ở lại với bác.” 20 Vì cô Ra-khen,
Gia-cóp đã phục vụ bảy năm, nhưng đối với cậu chỉ như vài ngày vì cậu quá yêu
cô. 21 Gia-cóp nói với ông La-ban: "Xin bác giao vợ cháu cho
cháu, vì cháu đã mãn hạn, và cháu muốn lui tới với nàng.” 22 Ông
La-ban mời mọi người nơi ấy đến và làm tiệc. 23 Chiều tối, ông dẫn
cô Lê-a, con gái ông, đến cho cậu, và cậu ăn nằm với cô. 24 Ông
La-ban cho con gái ông là Lê-a, người nữ tỳ của ông là Din-pa, để làm nữ tỳ cho
cô. 25 Sáng ngày ra, mới thấy là cô Lê-a! Cậu nói với ông La-ban:
"Cha đã làm gì con thế? Con đã chẳng phục vụ cha để được Ra-khen sao? Sao
cha lại đánh lừa con?” 26 Ông La-ban trả lời cậu: "Trong miền
chúng tôi không có lệ gả em trước khi gả chị. 27 Con cứ qua trọn
tuần lễ cưới với đứa này đã, rồi cha sẽ gả cho con cả đứa kia, để bù lại công
con phục vụ ở nhà cha thêm bảy năm nữa.” 28 Gia-cóp đã làm như vậy:
cậu đã qua trọn tuần lễ cưới với cô Lê-a, rồi ông gả cho cậu cô Ra-khen, con
gái ông, làm vợ. 29 Ông La-ban cho con gái ông là Ra-khen, người nữ
tỳ của ông là Bin-ha, để làm nữ tỳ cho cô. 30 Gia-cóp cũng ăn nằm
với cô Ra-khen, cậu còn yêu cô Ra-khen hơn cô Lê-a, và cậu phục vụ ở nhà ông
La-ban thêm bảy năm nữa.
Các
con ông Gia-cóp
31
Ðức
Chúa thấy rằng bà Lê-a không được yêu, nên Người cho bà sinh đẻ, còn bà Ra-khen
thì hiếm hoi. 32 Bà Lê-a có thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là
Rưu-vên, vì bà nói: "Ðức Chúa đã thấy cảnh khổ cực của tôi, bây giờ chồng
tôi sẽ yêu tôi.” 33 Bà lại có thai và sinh con trai. Bà nói:
"Ðức Chúa đã nghe biết là tôi không được yêu, và Người đã cho tôi đứa này
nữa", và bà đặt tên cho nó là Si-mê-ôn. 34 Bà lại có thai và
sinh con trai. Bà nói: "Phen này, chồng tôi sẽ gắn bó với tôi, vì tôi đã
sinh cho ông ba đứa con trai", vì thế bà đặt tên cho nó là Lê-vi. 35 Bà
lại có thai và sinh con trai. Bà nói: "Phen này, tôi sẽ tạ ơn Ðức
Chúa", vì thế bà đặt tên cho nó là Giu-đa. Rồi bà thôi không sinh đẻ nữa.
Chương 30
1
Khi
bà Ra-khen thấy mình không sinh con cho ông Gia-cóp, thì ghen với chị và nói
với ông Gia-cóp: "Cho tôi có con đi, không thì tôi chết mất!” 2 Ông
Gia-cóp nổi nóng với bà Ra-khen và nói: "Tôi đâu có thay quyền Thiên Chúa
là Ðấng đã không cho bà sinh đẻ!” 3 Bà nói: "Ðây Bin-ha, nữ tỳ
của tôi, ông hãy đi lại với nó, để nó sinh con trên đầu gối tôi, và nhờ nó mà
cả tôi nữa, cũng có con.” 4 Bà hiến nữ tỳ của bà là Bin-ha cho ông,
để nàng làm vợ ông, và ông Gia-cóp đi lại với nàng. 5 Bin-ha có thai
và sinh cho ông Gia-cóp một đứa con trai. 6 Bà Ra-khen nói:
"Thiên Chúa đã xét xử cho tôi; Người cũng đã nghe tiếng tôi và đã cho tôi
một đứa con trai"; vì thế bà đặt tên cho nó là Ðan. 7 Bin-ha,
nữ tỳ của bà Ra-khen, lại có thai và sinh một người con trai thứ hai cho ông
Gia-cóp. 8 Bà Ra-khen nói: "Tôi đã chiến đấu với chị tôi những
cuộc chiến thần thánh, và tôi đã thắng"; và bà đặt tên cho nó là
Náp-ta-li.
9
Khi
bà Lê-a thấy mình thôi không sinh đẻ nữa, thì bà đem nữ tỳ của bà là Din-pa
hiến cho ông Gia-cóp, để nàng làm vợ ông. 10 Din-pa, nữ tỳ của bà
Lê-a, sinh cho ông Gia-cóp một đứa con trai. 11 Bà Lê-a nói:
"May quá!"; và bà đặt tên cho nó là Gát. 12 Din-pa, nữ tỳ
của bà Lê-a, sinh một người con trai thứ hai cho ông Gia-cóp. 13 Bà
Lê-a nói: "Tôi hạnh phúc biết bao! Vì các cô gái sẽ khen ngợi tôi có
phúc"; và bà đặt tên cho nó là A-se.
14
Vào
mùa gặt lúa mì, Rưu-vên đi ra, tìm thấy ở ngoài đồng những quả ngải sâm, và
mang về cho bà Lê-a, mẹ mình. Bà Ra-khen nói với bà Lê-a: "Xin chị cho em
mấy quả ngải sâm của con chị.” 15 Bà Lê-a nói với em: "Ðoạt
chồng của tôi, đối với cô còn chưa đủ hay sao, mà cô lại muốn lấy cả quả ngải
sâm của con tôi nữa?" Bà Ra-khen nói: "Thế thì ông ấy cứ nằm với chị
đêm nay, để đổi lấy mấy quả ngải sâm của con chị.” 16 Ðến chiều, khi
ông Gia-cóp từ ngoài đồng về, bà Lê-a ra đón ông và bảo: "Ông phải đến với
tôi, vì tôi đã bỏ ra mấy quả ngải sâm của con tôi để đổi lấy ông." Và ông
đã nằm với bà đêm ấy. 17 Thiên Chúa đã nhận lời bà Lê-a. Bà có thai
và sinh một người con trai thứ năm cho ông Gia-cóp. 18 Bà Lê-a nói:
"Thiên Chúa đã trả công cho tôi, vì tôi đã hiến nữ tỳ của tôi cho chồng
tôi"; và bà đặt tên cho nó là Ít-xa-kha. 19 Bà Lê-a lại có thai
và sinh một người con trai thứ sáu cho ông Gia-cóp. 20 Bà Lê-a nói:
"Thiên Chúa đã tặng tôi một món quà quý. Phen này, chồng tôi sẽ ở với tôi,
vì tôi đã sinh cho ông sáu đứa con trai"; và bà đặt tên cho nó là
Dơ-vu-lun. 21 Sau đó, bà sinh một đứa con gái và đặt tên cho nó là
Ði-na.
22
Thiên
Chúa đã nhớ đến bà Ra-khen, Thiên Chúa đã nhận lời bà và đã cho bà sinh đẻ được.
23 Bà có thai và sinh một đứa con trai. Bà nói: "Thiên Chúa đã
cất nỗi hổ nhục của tôi"; 24 và bà đặt tên cho nó là Giu-se, bà
nói: "Xin Ðức Chúa thêm cho tôi một đứa con trai khác."
Ông
Gia-cóp làm giàu
25
Khi
bà Ra-khen sinh được Giu-se, thì ông Gia-cóp nói với ông La-ban: "Xin cho
con đi, để con về quê hương xứ sở của con. 26 Xin cho con vợ con của
con; vì những người vợ ấy, con đã phục vụ cha. Xin để con đi. Cha biết con đã
làm lụng thế nào để phục vụ cha. 27 Ông La-ban nói với ông:
"Nếu cha được đẹp lòng con... nhờ bói toán, cha biết được là ÐỨC CHÚA đã
vì con mà chúc phúc cho cha.” 28 Rồi ông nói: "Con hãy ấn định
cho cha mức công xá của con, và cha sẽ trả.” 29 Ông Gia-cóp nói với
ông: "Cha biết con đã phục vụ cha thế nào, và nhờ con mà đàn súc vật của
cha đã ra sao. 30 Trước khi con đến, tài sản cha chẳng có bao nhiêu,
mà nay đã tăng lên rất nhiều. Con bước đi tới đâu là Ðức Chúa chúc phúc cho cha
tới đó. Bây giờ, khi nào con mới được lo cho gia đình con?” 31 Ông
nói: "Cha phải trả cho con cái gì đây?" Ông Gia-cóp thưa: "Cha
không phải trả gì cho con cả. Nếu cha làm cho con điều sau đây, thì con sẽ lại
chăn giữ đàn chiên dê của cha.
32
Hôm
nay con sẽ đi qua tất cả đàn chiên dê của cha, cha hãy để riêng ra mọi chiên
con lốm đốm và lấm chấm, mọi chiên con đen tuyền trong số chiên, và con nào lấm
chấm và lốm đốm trong số dê cái: đó sẽ là công xá của con. 33 Mai
ngày, khi cha đến kiểm soát công xá của con, thì sự lương thiện của con sẽ làm
chứng cho con: Tất cả những con dê không lấm chấm và lốm đốm, những con chiên
không đen tuyền trong đàn vật của con, sẽ là của ăn cắp. 34 Ông
La-ban nói: "Ðược, thì cứ như con nói!” 35 Ngày hôm ấy, ông để
riêng ra các dê đực vằn và lấm chấm, mọi dê cái lốm đốm và lấm chấm, mọi con
vật có vệt trắng, và mọi con chiên đen tuyền; và ông giao chúng cho các con
trai ông. 36 Rồi ông để khoảng cách ba ngày đường giữa ông và ông
Gia-cóp. Ông Gia-cóp thì chăn những chiên dê còn lại của ông La-ban. 37 Ông
Gia-cóp kiếm những cành cây bạch dương, hạnh đào và tiêu huyền còn tươi. Ông
bóc vỏ cho lộ ra phần lõi trắng trên cành, để làm thành những vệt trắng. 38
Rồi ông đặt các cành cây đã bóc vỏ vào các máng uống nước, nơi chiên dê
đến uống, cho chúng thấy; chúng động đực khi đến uống. 39 Các con
vật giao nhau trước các cành cây và đẻ ra những con vằn, lốm đốm và lấm chấm. 40
Còn những con chiên thì ông Gia-cóp tách riêng ra, và cho chúng quay về
những con vằn và tất cả những con lốm đốm trong đàn vật của ông La-ban. Bằng
cách đó, ông gây cho mình những đàn vật riêng và không đặt chung với đàn vật
của ông La-ban. 41 Mỗi khi các con vật khoẻ giao nhau, thì ông
Gia-cóp đặt các cành vào trong máng, trước mắt chúng, để chúng giao nhau trước
các cành đó. 42 Nếu là các con vật yếu thì ông không đặt, thành ra
các con yếu thuộc về ông La-ban, còn những con khoẻ thuộc về ông Gia-cóp. 43
Thế là ông trở nên giàu, thật giàu; ông có chiên dê đầy đàn, có tôi trai
tớ gái, lạc đà và lừa.
Chương 31
Ông
Gia-cóp trốn đi
1
Ông
Gia-cóp nghe được những lời của các con trai ông La-ban nói rằng: "Gia-cóp
đã lấy tất cả tài sản của cha chúng ta, và nhờ tài sản của cha chúng ta mà làm
nên cơ đồ ấy.” 2 Ông Gia-cóp nhìn nét mặt ông La-ban và thấy rằng,
đối với mình, cha không còn như xưa nữa. 3 Ðức Chúa phán với ông Gia-cóp:
"Hãy trở về quê cha đất tổ, về với họ hàng ngươi: Ta sẽ ở với ngươi.” 4
Ông Gia-cóp sai người đi gọi bà Ra-khen và bà Lê-a ra ngoài đồng, đến chỗ
đàn chiên dê của ông. 5 Ông nói với họ: "Tôi thấy rằng nét mặt
của cha các bà đối với tôi không còn như xưa nữa; nhưng Thiên Chúa của cha tôi
đã ở với tôi. 6 Chính các bà biết rằng tôi đã phục vụ cha các bà
bằng tất cả sức lực của tôi. 7 Cha các bà đã đánh lừa tôi, và đã đổi
công xá của tôi mười lần, nhưng Thiên Chúa đã không để cho ông ấy làm hại tôi. 8
Mỗi khi ông nói: "Những con lốm đốm sẽ là công xá của con", thì
tất cả chiên dê đẻ ra những con lốm đốm; mỗi khi ông nói: "Những con vằn
sẽ là công xá của con", thì tất cả chiên dê đẻ ra những con vằn. 9 Thiên
Chúa đã lấy đàn vật của cha các bà mà cho tôi. 10 Vào thời chiên dê
giao nhau, tôi ngước mắt lên và chiêm bao thấy rằng: những con dê đực phủ những
con cái thì vằn, lốm đốm và khoang. 11 Sứ thần của Thiên Chúa nói
với tôi trong giấc chiêm bao: "Gia-cóp!" Tôi thưa: "Dạ, con đây!”
12 Người phán: "Ngước mắt lên mà nhìn: mọi con dê đực phủ những
con cái thì vằn, lốm đốm và khoang, vì La-ban đối xử với ngươi thế nào, Ta đã
thấy hết. 13 Ta là Thiên Chúa, Ðấng đã hiện ra với ngươi ở Bết Ên,
nơi ngươi đã xức dầu một trụ đá, nơi ngươi đã khấn hứa với Ta. Giờ đây, đứng
lên! Ra khỏi đất này mà trở về quê hương ngươi."
14
Bà
Ra-khen và Lê-a trả lời ông rằng: "Nào chúng tôi còn được chung phần và
hưởng cơ nghiệp trong nhà cha chúng tôi nữa đâu? 15 Chúng tôi chẳng bị cha coi
là người xa lạ đó sao? Vì cha đã bán chúng tôi đi, lại còn nuốt ngon tiền bạc
của chúng tôi. 16 Vâng, tất cả tài sản Thiên Chúa đã lấy của cha
chúng tôi thì thuộc về chúng ta và con cái chúng ta. Giờ đây mọi điều Thiên
Chúa đã phán với ông, ông cứ làm."
17
Ông
Gia-cóp đứng lên, đưa các con và các bà vợ lên lạc đà. 18 Ông đưa
tất cả đàn vật và mọi tài sản ông đã gây được, đàn vật riêng của ông mà ông đã
gây được ở Pát-đan A-ram, để đi về với ông I-xa-ác, cha ông, ở đất Ca-na-an. 19
Trong lúc ông La-ban đi xén lông chiên, thì bà Ra-khen lấy trộm các tượng
thần của cha bà. 20 Ông Gia-cóp đánh lừa ông La-ban, người A-ram,
không cho ông ấy biết mình đi trốn. 21 Ông trốn đi với tất cả những
gì thuộc về ông; ông đứng lên, sang Sông Cả và hướng thẳng về núi Ga-la-át.
Ông
La-ban đuổi theo ông Gia-cóp
22
Sang
ngày thứ ba, người ta báo cho ông La-ban biết ông Gia-cóp đã trốn đi. 23 Ông
đem anh em họ hàng đi với mình, rượt theo ông Gia-cóp bảy ngày đường, và đuổi
kịp ông này ở núi Ga-la-át. 24 Ban đêm Thiên Chúa đến báo mộng cho
ông La-ban, người A-ram, rằng: "Coi chừng, đừng nói bất cứ điều gì với
Gia-cóp.” 25 Ông La-ban theo kịp ông Gia-cóp. Ông Gia-cóp đã cắm lều
trên núi; ông La-ban với các anh em họ hàng cũng cắm lều trên núi Ga-la-át.
26
Ông
La-ban nói với ông Gia-cóp: "Con đã làm gì thế? Con đã đánh lừa cha mà đem
các con gái cha đi như thể tù chiến tranh. 27 Tại sao con đã lén lút
trốn đi và đã lừa cha, không cho cha biết, để cha còn tiễn đưa con trong niềm
vui tiếng hát, trong tiếng trống tiếng đàn? 28 Con đã không để cho cha hôn con
hôn cháu cha. Thật con đã hành động ngu xuẩn! 29 Cha có đủ khả năng làm hại các
con, nhưng đêm qua Thiên Chúa của cha các con đã phán với cha rằng: "Coi
chừng, đừng nói bất cứ điều gì với Gia-cóp.” 30 Bây giờ thì con đi
vì quá nhớ nhà cha con, nhưng tại sao con lại lấy trộm các thần của cha?” 31
Ông Gia-cóp đáp lại ông La-ban: "Vì con sợ, và con tự bảo: có khi
cha sẽ dùng sức mạnh mà đoạt lại các con gái của cha. 32 Còn nếu cha
tìm được các thần của cha nơi người nào, thì người ấy không được sống nữa. Có
anh em họ hàng của cha con ta chứng kiến, xin cha nhận ra cái gì là của cha
trong những thứ con có ở đây, và cứ lấy lại." Ông Gia-cóp không biết rằng
bà Ra-khen đã lấy trộm các tượng ấy. 33 Ông La-ban vào lều ông
Gia-cóp, rồi vào lều bà Lê-a và lều hai người nữ tỳ, nhưng không tìm thấy gì.
Ông ra khỏi lều bà Lê-a và vào lều bà Ra-khen. 34 Bà Ra-khen đã lấy
các tượng thần, để trong yên lạc đà rồi ngồi lên trên. Ông La-ban lục lọi khắp
cả lều mà không tìm thấy. 35 Bà thưa với cha: "Xin ngài đừng
nổi nóng nếu con không thể đứng lên trước mặt ngài, vì con đang có điều thường
xảy đến cho đàn bà." Ông tìm tòi nhưng không thấy các tượng thần.
36
Bấy
giờ ông Gia-cóp nổi nóng và trách móc ông La-ban; ông lên tiếng nói với ông
La-ban: "Con có tội có lỗi gì mà cha cứ theo con gắt gao như vậy? 37 Lục
lọi tất cả đồ đạc của con, cha có tìm được đồ đạc gì của nhà cha không? Cha cứ
đưa ra đây trước mặt anh em họ hàng của con và anh em họ hàng của cha, để họ
phân xử cho đôi bên. 38 Suốt hai mươi năm con đã ở với cha, chiên
cái dê cái của cha không hề sẩy thai, con không hề ăn con chiên đực nào trong
đàn vật của cha. 39 Con vật bị cắn xé, con không đưa về cho cha,
chính con chịu đền; con bị mất trộm con nào ban ngày hay ban đêm, cha đều đòi
con phải trả. 40 Ban ngày con bị nắng thiêu, ban đêm con bị lạnh
buốt, không sao chợp mắt ngủ được. 41 Con ở nhà cha đã được hai mươi
năm, con đã phục vụ cha được mười bốn năm để được hai cô con gái của cha, sáu
năm để được chiên của cha, cha đã đổi công xá của con mười lần. 42 Giả
như Thiên Chúa của cha con, là Thiên Chúa ông Áp-ra-ham thờ và là Ðấng ông
I-xa-ác khiếp sợ, đã không ở với con, thì bây giờ hẳn cha đã để con về tay
không. Thiên Chúa đã thấy cảnh khổ cực và công lao vất vả của con, và đêm qua
Người đã phân xử."
Thoả
hiệp giữa ông Gia-cóp và ông La-ban
43
Ông
La-ban đáp lại ông Gia-cóp: "Các cô này là con gái của cha, các cháu này
là cháu của cha, chiên dê này là chiên dê của cha, tất cả những gì con thấy đều
là của cha. Hôm nay cha có thể làm gì cho các con gái của cha, hoặc cho những
đứa con chúng đã sinh ra? 44 Bây giờ, nào cha con ta hãy lập giao ước, giao ước
đó sẽ làm chứng giữa cha con ta."
45
Ông
Gia-cóp lấy một tảng đá dựng lên làm trụ. 46 Ông Gia-cóp nói với anh
em họ hàng mình: "Hãy nhặt đá." Họ lấy đá làm thành một đống. Họ ăn
tại đó, trên đống đá ấy. 47 Ông La-ban gọi chỗ đó là Giơ-ga
Xa-ha-đu-tha, còn ông Gia-cóp thì gọi là Ga-lơ-ét. 48 Ông La-ban
nói: "Ðống đá này hôm nay làm chứng giữa cha con ta." Vì thế người ta
gọi nó là Ga-lơ-ét 49 và cũng gọi là Mít-pa, vì ông nói: "Xin Ðức Chúa
canh giữ giữa cha con ta, khi chúng ta khuất mặt nhau. 50 Nếu con
hành hạ các con gái cha, và nếu ngoài các con gái cha, con còn lấy thêm vợ
khác, thì dù không có ai ở với chúng ta, con hãy coi chừng: Thiên Chúa làm
chứng giữa cha con ta.” 51 Ông La-ban nói với ông Gia-cóp: "Ðây
đống đá này, và đây trụ đá cha đã đặt giữa cha và con. 52 Ðống đá
này làm chứng và trụ đá này cũng làm chứng rằng cha không được vượt qua đống đá
này sang bên con, và con cũng không được vượt qua đống đá này và trụ đá này
sang bên cha với ý đồ xấu. 53 Xin Thiên Chúa của ông Áp-ra-ham và
Thiên Chúa của ông Na-kho -Thiên Chúa của cha các ngài- xét xử giữa chúng
ta." Ông Gia-cóp đã thề nhân danh Ðấng mà cha ông là I-xa-ác khiếp sợ. 54
Ông dâng lễ tế trên núi và mời anh em họ hàng đến dùng bữa. Họ dùng bữa
và nghỉ đêm trên núi.
Chương 32
1
Sáng
hôm sau, ông La-ban dậy sớm, hôn các con gái và các cháu ông, chúc phúc cho
chúng, rồi lên đường về nhà. 2 Ông Gia-cóp đang đi đường thì có
những sứ thần của Thiên Chúa gặp ông. 3 Vừa thấy các sứ thần, ông
Gia-cóp nói: "Ðây là trại của Thiên Chúa", và ông đặt tên cho nơi ấy
là Ma-kha-na-gim.
Ông
Gia-cóp chuẩn bị gặp ông Ê-xau
4
Ông
Gia-cóp sai sứ giả đi trước ông đến với ông Ê-xau tại đất Xê-ia, trong lãnh thổ
Ê-đôm. 5 Ông ra lệnh cho họ rằng: "Các anh sẽ nói với ông
Ê-xau, chủ tôi, thế này: "Tôi tớ ngài là ông Gia-cóp nói như sau: Tôi đã
trú ngụ tại nhà ông La-ban và đã ở lại mãi đến bây giờ. 6 Tôi có bò
lừa, chiên dê, tôi trai tớ gái, và tôi sai người báo tin cho ngài để được đẹp
lòng ngài."
7
Sứ
giả trở về với ông Gia-cóp và nói: "Chúng tôi đã đến với ông Ê-xau, anh
ông. Ông ấy cũng đang tiến về phía ông, và có bốn trăm người đi cùng."
8
Ông
Gia-cóp sợ hãi kinh hoàng. Ông chia những người đi với ông, cũng như chiên dê,
bò và lạc đà, đóng ở hai trại. 9 Ông tự nhủ: "Nếu ông Ê-xau đến
đánh phá một trại, thì trại còn lại có thể thoát.” 10 Ông Gia-cóp
cầu nguyện: "Lạy Thiên Chúa của tổ phụ con là ông Áp-ra-ham, Thiên Chúa
của cha con là ông I-xa-ác, lạy Ðức Chúa, Ðấng đã phán bảo con: "Hãy trở
về xứ sở, về với họ hàng ngươi, và Ta sẽ đối xử nhân hậu với ngươi", 11
con bé nhỏ, đâu xứng với tất cả mọi ân huệ và tất cả lòng thành tín mà
Ngài đã tỏ cho tôi tớ Ngài đây. Thật vậy, khi qua sông Gio-đan, con chỉ có cây
gậy, thế mà giờ đây đã thành ra hai trại. 12 Xin giải thoát con khỏi
tay anh con, khỏi tay anh Ê-xau, vì con sợ anh ấy, sợ anh ấy đến đánh chúng
con, đánh cả mẹ lẫn con. 13 Chính Ngài đã phán với con: "Ta sẽ
đối xử rất nhân hậu với ngươi, và sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên nhiều như cát
ngoài biển, không thể đếm được vì quá đông.” 14 Ông nghỉ đêm tại đó.
15
hai
trăm dê cái và hai mươi dê đực, hai trăm chiên cái và hai mươi chiên đực 16 ba
mươi lạc đà cái đang cho bú và con của chúng, bốn mươi bò cái và mười bò đực,
hai mươi lừa cái và mười lừa con. 17 Ông giao từng đàn vật riêng rẽ
cho các đầy tớ và bảo họ: "Các anh hãy đi trước tôi và để một khoảng cách
giữa mỗi đàn vật.” 18 Ông truyền cho người đầy tớ thứ nhất rằng:
"Khi ông Ê-xau, anh tôi, gặp anh và hỏi: "Anh là người của ai? Anh đi
đâu? Ðàn vật đi trước anh là của ai?” 19 thì anh trả lời: "Của
tôi tớ ngài là ông Gia-cóp. Ðây là tặng phẩm ông ấy gửi biếu ngài Ê-xau, còn
chính ông thì đang đi đàng sau chúng tôi.” 20 Ông cũng truyền cho
người thứ hai, người thứ ba, rồi cho tất cả những người đi sau các đàn vật,
rằng: "Các anh hãy dùng những lời lẽ ấy mà thưa với ông Ê-xau, khi các anh
gặp ông; 21 các anh hãy nói: "Tôi tớ ngài là ông Gia-cóp cũng
đi đàng sau chúng tôi." Thật vậy, ông tự nhủ: "Ta cho tặng phẩm này
đi trước để làm cho anh ấy nguôi giận; sau đó ta sẽ giáp mặt anh ấy và may ra
anh ấy sẽ nể ta.” 22 Tặng phẩm đi trước, còn chính ông nghỉ lại đêm
ấy trong trại.
Vật
lộn với Thiên Chúa
23
Ðêm
đó, ông Gia-cóp dậy, đem theo hai bà vợ, hai người nữ tỳ và mười một đứa con,
và ông lội qua sông Giáp-bốc.24 Ông đem họ theo, đưa họ qua sông, rồi đưa tài
sản của ông qua.25 Ông Gia-cóp ở lại một mình.
26
Thấy
không thắng được ông, người đó bèn đánh vào khớp xương hông của ông, và khớp
xương hông của ông Gia-cóp bị trật đang khi ông vật lộn với người đó.27 Người
đó nói: "Buông ta ra, vì đã rạng đông rồi." Nhưng ông đáp: "Tôi
sẽ không buông ngài ra, nếu ngài không chúc phúc cho tôi."28 Người đó hỏi
ông: "Tên ngươi là gì? " Ông đáp: "Tên tôi là Gia-cóp."29
Người đó nói: "Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Gia-cóp nữa, nhưng là
Ít-ra-en, vì ngươi đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã
thắng."30 Ông Gia-cóp hỏi: "Xin cho tôi biết tên ngài." Người đó
nói: "Sao ngươi lại hỏi tên ta? " Và người đó chúc phúc cho ông tại
đấy.
31
Ông
Gia-cóp đặt tên cho nơi đó là Pơ-nu-ên, "vì -ông nói- tôi đã thấy Thiên
Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã được tha mạng."32 Khi mặt trời mọc, ông đi qua
Pơ-nu-ên; ông đi khập khiễng vì bị trật xương hông.33 Bởi thế, con cái
Ít-ra-en, cho đến nay, không ăn cái gân đùi ở khớp xương hông, vì người đó đã
đánh vào khớp xương hông của ông Gia-cóp, vào gân đùi.
Chương 33
Ông
Gia-cóp gặp ông Ê-xau
1
Ông
Gia-cóp ngước mắt lên, thấy ông Ê-xau đang tiến đến, có bốn trăm người đi cùng.
Ông Gia-cóp bèn chia các con cho bà Lê-a, bà Ra-khen và hai người nữ tỳ. 2
Ông xếp các nữ tỳ với con của họ đi đầu, bà Lê-a với con bà đi sau, bà
Ra-khen với Giu-se đi sau chót. 3 Còn ông thì vượt lên phía trước họ
và sụp xuống đất lạy bảy lần trước khi đến gần anh mình. 4 Ông Ê-xau
chạy lại đón em, ôm chầm lấy, bá cổ mà hôn, rồi cả hai cùng khóc. 5 Ngước
mắt lên, ông Ê-xau thấy đám đàn bà con trẻ thì hỏi: "Những người kia là ai
đối với chú?" Ông Gia-cóp trả lời: "Ðó là những đứa con Thiên Chúa đã
thương ban cho tôi tớ ngài.” 6 Bấy giờ hai người nữ tỳ cùng với các
con của họ đến gần và sụp xuống lạy. 7 Ðến lượt bà Lê-a cùng với các
con của bà đến gần và sụp xuống lạy. Sau đó Giu-se và bà Ra-khen cũng đến gần
và sụp xuống lạy.
8
Ông
Ê-xau hỏi: "Tất cả trại tôi vừa gặp kia, chú tính để làm gì đó?" Ông
Gia-cóp trả lời: "Là để tôi được đẹp lòng ngài.” 9 Ông Ê-xau
nói: "Tôi có nhiều rồi, chú ạ! Cái gì của chú, chú cứ giữ lấy.” 10 Ông
Gia-cóp nói: "Không đâu! Nếu tôi được đẹp lòng ngài, thì xin ngài nhận
tặng phẩm tự tay tôi biếu. Thật vậy, tôi đã nhìn thấy mặt ngài như nhìn thấy
mặt Thiên Chúa, và ngài đã tỏ lòng thương đối với tôi. 11 Xin ngài
nhận lấy món quà đưa đến để cầu phúc cho ngài, vì Thiên Chúa đã thương ban cho
tôi và tôi có đủ mọi sự." Ông nài ép, và ông Ê-xau đã nhận.
Ông
Gia-cóp và ông Ê-xau chia tay
12
Ông
Ê-xau nói: "Nào chúng ta lên đường, tôi sẽ đi trước chú.” 13 Ông
Gia-cóp trả lời: "Ngài biết là lũ trẻ thì yếu ớt, còn tôi phải lo cho đám
chiên và bò đang cho con bú; nếu hối thúc chúng, dù một ngày thôi, thì chiên dê
sẽ chết hết. 14 Vậy xin ngài cứ vượt lên phía trước tôi tớ ngài;
phần tôi, tôi sẽ đi chậm chậm, theo chân đàn vật đi trước và theo chân lũ trẻ,
cho tới khi đến với ngài tại Xê-ia.” 15 Ông Ê-xau nói: "Tôi
muốn để ít người trong số người đi với tôi ở lại với chú." Ông Gia-cóp trả
lời: "Như thế để làm gì? Tôi chỉ mong được đẹp lòng ngài thôi!” 16 Ngày
đó, ông Ê-xau trở về Xê-ia. 17 Phần ông Gia-cóp thì lên đường đi
Xúc-cốt. Ở đó ông dựng nhà và làm những lều bằng cành cây cho súc vật, bởi thế,
ông đặt tên cho nơi này là Xúc-cốt.
Ông
Gia-cóp đi Si-khem
18
Khi
ở Pát-đan A-ram về, ông Gia-cóp đến thành Si-khem, trong đất Ca-na-an, bình an
vô sự, và ông cắm trại đối diện với thành. 19 Ông tậu của con cái
ông Kha-mo, cha của Si-khem, một thửa đất, nơi ông đã căng lều, với giá một
trăm đồng bạc. 20 Tại đây, ông dựng một bàn thờ mà ông gọi là
"En, Thiên Chúa của Ít-ra-en."
Vật
lộn với Thiên Chúa
23
Ðêm
đó, ông Gia-cóp dậy, đem theo hai bà vợ, hai người nữ tỳ và mười một đứa con,
và ông lội qua sông Giáp-bốc. 24 Ông đem họ theo, đưa họ qua sông,
rồi đưa tài sản của ông qua. 25 Ông Gia-cóp ở lại một mình.
26
Thấy
không thắng được ông, người đó bèn đánh vào khớp xương hông của ông, và khớp
xương hông của ông Gia-cóp bị trật đang khi ông vật lộn với người đó. 27 Người
đó nói: "Buông ta ra, vì đã rạng đông rồi." Nhưng ông đáp: "Tôi
sẽ không buông ngài ra, nếu ngài không chúc phúc cho tôi.” 28 Người
đó hỏi ông: "Tên ngươi là gì?" Ông đáp: "Tên tôi là Gia-cóp.” 29
Người đó nói: "Người ta sẽ không gọi tên ngươi là Gia-cóp nữa, nhưng
là Ít-ra-en, vì ngươi đã đấu với Thiên Chúa và với người ta, và ngươi đã thắng.”
30 Ông Gia-cóp hỏi: "Xin cho tôi biết tên ngài." Người đó
nói: "Sao ngươi lại hỏi tên ta?" Và người đó chúc phúc cho ông tại
đấy.
31
Ông
Gia-cóp đặt tên cho nơi đó là Pơ-nu-ên, "vì - ông nói - tôi đã thấy Thiên
Chúa mặt đối mặt, mà tôi đã được tha mạng.” 32 Khi mặt trời mọc, ông
đi qua Pơ-nu-ên; ông đi khập khiễng vì bị trật xương hông. 33 Bởi
thế, con cái Ít-ra-en, cho đến nay, không ăn cái gân đùi ở khớp xương hông, vì
người đó đã đánh vào khớp xương hông của ông Gia-cóp, vào gân đùi.
Chương 34
Cô
Ði-na bị làm nhục
1
Ði-na,
người con gái bà Lê-a đã sinh cho ông Gia-cóp, đi ra xem các con gái xứ ấy. 2
Si-khem, con trai ông Kha-mo, người Khi-vi, đầu mục xứ ấy, trông thấy thì
bắt cô, rồi cưỡng ép cô ăn nằm với mình. 3 Rồi lòng cậu quyến luyến
Ði-na, con gái ông Gia-cóp; cậu yêu cô gái và âu yếm dỗ dành cô. 4 Si-khem
thưa với ông Kha-mo, cha cậu, rằng: "Xin cha cưới cô bé ấy cho con.” 5
Ông Gia-cóp nghe biết Si-khem đã xâm phạm tiết hạnh của Ði-na, con gái
ông, nhưng vì các con trai ông còn đang ở ngoài đồng với đàn vật của ông, nên
ông làm thinh cho đến lúc họ về.
Thoả
thuận về hôn nhân với dân thành Si-khem
6
Ông
Kha-mo, cha của Si-khem, ra gặp ông Gia-cóp để nói chuyện với ông. 7 Các
con trai ông Gia-cóp ở ngoài đồng về. Vừa nghe biết chuyện, những người này bực
tức và giận dữ lắm, vì Si-khem đã làm điều đồi bại trong Ít-ra-en, khi ăn nằm
với con gái ông Gia-cóp, một điều không được phép làm. 8 Ông Kha-mo
nói với họ rằng: "Si-khem, con trai tôi, phải lòng con gái các ông, xin
các ông gả cô ấy cho nó. 9 Các ông hãy kết nghĩa thông gia với chúng
tôi: các ông sẽ gả các con gái của các ông cho chúng tôi và sẽ cưới các con gái
của chúng tôi về. 10 Các ông sẽ ở với chúng tôi, và xứ này sẽ mở ra
trước mặt các ông: các ông cứ ở đây, đi lại buôn bán ở đây và tậu đất đai ở đây
làm sở hữu.” 11 Si-khem nói với cha và anh em cô gái: "Cháu chỉ
mong được đẹp lòng bác và các anh, rồi bác và các anh đòi gì, cháu cũng xin nộp.
12 Bác và các anh thách sính lễ quà cáp bao nhiêu, cháu cũng xin nộp
như bác và các anh đòi, chỉ xin gả cô gái cho cháu."
13
Khi
trả lời cho Si-khem và ông Kha-mo, cha cậu, các con trai ông Gia-cóp đã dùng
mưu mà nói, vì cậu đã xâm phạm tiết hạnh của Ði-na, em gái họ. 14 Họ
nói với những người kia: "Chúng tôi không thể làm điều này là gả em gái
chúng tôi cho một người không được cắt bì, vì đối với chúng tôi, đó là một điều
sỉ nhục. 15 Chúng tôi chỉ đồng ý với điều kiện là các ông trở nên
như chúng tôi, nghĩa là cắt bì mọi đàn ông con trai. 16 Bấy giờ
chúng tôi sẽ gả các con gái của chúng tôi cho các ông và sẽ cưới các con gái
của các ông về, chúng tôi sẽ ở với các ông và chúng ta sẽ thành một dân duy
nhất. 17 Còn nếu các ông không nghe chúng tôi mà chịu cắt bì, thì
chúng tôi sẽ bắt con gái chúng tôi về, và chúng tôi sẽ ra đi.” 18 Lời
lẽ của họ vừa lòng ông Kha-mo và Si-khem, con ông Kha-mo. 19 Chàng
trai làm ngay điều đó, không chậm trễ, vì cậu mê con gái ông Gia-cóp; cậu lại
là người có uy tín nhất trong gia đình.
20
Ông
Kha-mo và ông Si-khem, con ông, ra cửa thành nói với dân rằng: 21 "Những
người ấy hiền hoà với chúng ta. Cứ để họ ở trong xứ, đi lại buôn bán ở đây; xứ
này có đủ chỗ cho họ. Chúng ta sẽ cưới các con gái của họ về, và sẽ gả các con
gái của chúng ta cho họ. 22 Nhưng những người ấy chỉ đồng ý ở với
chúng ta để thành một dân duy nhất, với điều kiện là mọi đàn ông con trai của
chúng ta phải chịu cắt bì như họ. 23 Các đàn vật của họ, tài sản của
họ, gia súc của họ sẽ chẳng thuộc về chúng ta sao? Chúng ta chỉ cần đồng ý với
họ là họ sẽ ở với chúng ta.” 24 Tất cả những người ra họp ở cửa
thành ông Kha-mo đều nghe lời ông và Si-khem, con trai ông; mọi đàn ông con
trai, mọi người ra họp ở cửa thành đều chịu cắt bì.
Ông
Si-mê-ôn và ông Lê-vi bội ước và báo thù
25
Sang
ngày thứ ba, khi họ còn đang đau, thì hai con trai ông Gia-cóp là Si-mê-ôn và
Lê-vi, anh của Ði-na, mỗi người xách một thanh gươm, vào thành lúc không ai
ngờ, và giết mọi đàn ông con trai. 26 Các cậu đã dùng gươm giết ông
Kha-mo và Si-khem, con trai ông Kha-mo, đem Ði-na ra khỏi nhà Si-khem, rồi đi. 27
Các con trai ông Gia-cóp còn đạp lên các xác chết và cướp phá thành, bởi
vì người ta đã xâm phạm tiết hạnh em gái các cậu. 28 Chiên dê, bò
lừa của họ, những gì ở trong thành và ngoài đồng, các cậu đều lấy đi. 29 Các
cậu mang theo mọi tài sản cũng như mọi đàn bà con trẻ của họ, và cướp phá mọi
thứ trong nhà.
30
Ông
Gia-cóp nói với Si-mê-ôn và Lê-vi: "Các con đã mang hoạ đến cho cha, làm
cho cha trở nên đáng ghét đối với dân cư xứ này, tức là người Ca-na-an và người
Pơ-rít-di. Cha chỉ có một dúm người, chúng sẽ hợp nhau lại chống cha và sẽ đánh
cha, cha và gia đình sẽ bị tiêu diệt.” 31 Họ đáp: "Chẳng lẽ nó
được phép xử với em gái chúng con như với một gái điếm sao?"
Chương 35
Ông
Gia-cóp tại Bết Ên
1
Thiên
Chúa phán bảo ông Gia-cóp: "Ðứng dậy! Hãy lên Bết Ên và ở đó. Hãy làm ở đó
một bàn thờ để kính Thiên Chúa, Ðấng đã hiện ra với ngươi khi ngươi đang trốn
Ê-xau, anh ngươi.” 2 Ông Gia-cóp bảo gia đình ông và tất cả những
người cùng đi với ông: "Hãy loại bỏ các thần ngoại bang ở giữa các người,
hãy tẩy uế mình và thay áo. 3 Nào ta hãy đứng dậy và lên Bết Ên! Tại
đó tôi sẽ làm một bàn thờ để kính Thiên Chúa, Ðấng đã đáp lời tôi ngày tôi gặp
bước gian truân, và đã ở với tôi trong chuyến đi tôi đã thực hiện.” 4 Họ
nộp cho ông Gia-cóp hết các thần ngoại bang họ đang giữ và các khuyên họ đeo ở
tai, và ông Gia-cóp chôn những thứ ấy dưới gốc cây vân hương ở gần Si-khem. 5
Họ lên đường, và Thiên Chúa gieo kinh hãi xuống các thành chung quanh,
khiến người ta không đuổi theo con cái ông Gia-cóp.
6
Ông
Gia-cóp đến Lút, tức là Bết Ên, trong đất Ca-na-an, ông và những người cùng đi
với ông. 7 Tại đây, ông dựng một bàn thờ và đặt tên cho nơi ấy là Ên
Bết Ên, vì tại đây thần minh đã tỏ mình ra cho ông, đang khi ông trốn anh. 8
Bấy giờ bà Ðơ-vô-ra, vú nuôi bà Rê-bê-ca, qua đời và được chôn ở phía
dưới Bết Ên, dưới gốc cây sồi, và ông Gia-cóp đặt tên cho cây ấy là Cây Sồi
Than Khóc.
9
Thiên
Chúa lại hiện ra với ông Gia-cóp khi ông từ Pát-đan A-ram về, và Người chúc
phúc cho ông. 10 Thiên Chúa phán với ông: "Tên ngươi là Gia-cóp
nhưng người ta sẽ không gọi ngươi là Gia-cóp nữa, mà tên ngươi sẽ là
Ít-ra-en." Và Người đặt tên cho ông là Ít-ra-en.
11
Thiên
Chúa phán với ông: "Ta là Thiên Chúa toàn năng. Ngươi hãy sinh sôi nảy nở
thật nhiều. Một dân tộc và một cộng đồng nhiều dân tộc sẽ từ ngươi mà ra, và
vua chúa sẽ phát xuất từ lòng ngươi. 12 Ðất Ta đã ban cho Áp-ra-ham
và I-xa-ác, thì Ta sẽ ban cho ngươi; Ta sẽ ban đất ấy cho dòng dõi ngươi sau
này.” 13 Rồi Thiên Chúa từ giã ông mà đi lên, từ chỗ Người đã phán
với ông.
14
Ông
Gia-cóp dựng một cái trụ tại chỗ Thiên Chúa đã phán với ông, một trụ đá; ông
rưới rượu và đổ dầu lên đó. 15 Ông Gia-cóp đặt tên cho nơi Thiên
Chúa đã phán với ông là Bết Ên.
Ông
Ben-gia-min chào đời. Bà Ra-khen từ trần.
16
Cả
đoàn rời Bết Ên lên đường. Khi họ còn cách Ép-ra-tha một quãng đường, thì bà
Ra-khen đến ngày sinh, nhưng lại gặp khó khăn. 17 Trong lúc bà khó
sinh, cô đỡ nói với bà: "Bà đừng sợ, bà lại được một con trai nữa!” 18
Khi bà thở hắt ra, vì đang hấp hối, thì đặt tên cho con là Ben Ô-ni,
nhưng cha nó lại đặt tên là Ben-gia-min. 19 Bà Ra-khen qua đời và
được chôn trên con đường đi Ép-ra-tha, tức là Bê-lem. 20 Ông Gia-cóp
dựng một bia đá trên mộ bà, đó là bia mộ bà Ra-khen, vẫn còn cho đến ngày nay.
Ông
Rưu-vên loạn luân
21
Ông
Ít-ra-en lên đường và cắm lều ở xa hơn Mích-đan Ê-đe. 22 Trong khi
ông Ít-ra-en ở xứ ấy, thì Rưu-vên đến nằm với Bin-ha, vợ lẽ của cha cậu, và ông
Ít-ra-en nghe biết chuyện này.
23
Con
trai bà Lê-a: Rưu-vên, con đầu lòng của ông Gia-cóp, rồi đến Si-mê-ôn, Lê-vi,
Giu-đa, Ít-xa-kha và Dơ-vu-lun. 24 Con trai bà Ra-khen: Giu-se và
Ben-gia-min. 25 Con trai bà Bin-ha, nữ tỳ của bà Ra-khen: Ðan và
Náp-ta-li. 26 Con trai bà Din-pa, nữ tỳ của bà Lê-a: Gát và A-se. Ðó
là những con trai ông Gia-cóp sinh được tại Pát-đan A-ram.
Ông
I-xa-ác qua đời
27
Ông
Gia-cóp về với ông I-xa-ác, cha ông, ở Mam-rê, tại Kia-giát Ác-ba, tức là
Khép-rôn, nơi ông Áp-ra-ham và ông I-xa-ác đã từng trú ngụ. 28 Ông
I-xa-ác sống được một trăm tám mươi năm. 29 Rồi ông I-xa-ác tắt thở.
Ông qua đời và được về sum họp với gia tiên, khi đã cao niên và no đầy tuổi
tác. Các con ông là Ê-xau và Gia-cóp chôn cất ông.
Chương 36
Ông
Ê-xau tại Ê-đôm
1
Sau
đây là gia đình ông Ê-xau, tức là ông Ê-đôm. 2 Ông Ê-xau cưới vợ
trong số con gái Ca-na-an, đó là: A-đa, con gái ông Ê-lôn, người Khết;
O-ho-li-va-ma, con gái ông A-na, ông này là con trai ông Xíp-ôn, người Khi-vi; 3
và Ba-xơ-mát, con gái ông Ít-ma-ên, em gái ông Nơ-va-giốt. 4 Bà
A-đa sinh Ê-li-phát cho ông Ê-xau, bà Ba-xơ-mát sinh Rơ-u-ên. 5 Bà
O-ho-li-va-ma sinh Giơ-út, Gia-lam và Cô-rắc. Ðó là những con trai ông Ê-xau
sinh được tại đất Ca-na-an.
Ông
Ê-xau di cư
6
Ông
Ê-xau đem các bà vợ, các con trai con gái, mọi người nhà, tất cả đàn vật, gia
súc và tất cả của cải ông đã gây được tại đất Ca-na-an, và đi đến một xứ, cách
xa ông Gia-cóp, em ông. 7 Thật vậy, họ quá nhiều tài sản không ở
chung được, và đất họ đang trú ngụ không thể đủ chỗ cho họ chăn những đàn vật
của họ. 8 Ông Ê-xau sống ở vùng núi Xê-ia. Ông Ê-xau chính là ông
Ê-đôm.
Dòng
dõi ông Ê-xau tại Xê-ia (1 Sb 1:35 -37)
9
Sau
đây là gia đình ông Ê-xau, cha dân Ê-đôm, ở vùng núi Xê-ia.
10
Ðây
là tên các con trai ông Ê-xau: Ê-li-phát, con trai bà A-đa, vợ ông Ê-xau, và
Rơ-u-ên, con trai bà Ba-xơ-mát, vợ ông Ê-xau.
11
Các
con trai ông Ê-li-phát là: Tê-man, Ô-ma, Xơ-phô, Ga-ơ-tam và Cơ-nát. 12 Bà
Tim-na là vợ lẽ ông Ê-li-phát, con trai ông Ê-xau; bà sinh A-ma-lếch cho ông
Ê-li-phát. Ðó là các con cháu bà A-đa, vợ ông Ê-xau.
13
Sau
đây là các con trai ông Rơ-u-ên: Na-khắt, De-rác, Sam-ma và Mít-da. Ðó là các
con cháu bà Ba-xơ-mát, vợ ông Ê-xau.
14
Còn
đây là các con trai của vợ ông Ê-xau là bà O-ho-li-va-ma, con gái ông A-na; ông
A-na là con trai ông Xíp-ôn: bà sinh Giơ-út, Gia-lam và Cô-rắc cho ông Ê-xau.
Các
tộc trưởng dân Ê-đôm
15
Sau
đây là các tộc trưởng của con cái Ê-xau. Các con trai ông Ê-li-phát, con đầu
lòng của ông Ê-xau, là: tộc trưởng Tê-man, tộc trưởng Ô-ma, tộc trưởng Xơ-phô,
tộc trưởng Cơ-nát, 16 tộc trưởng Cô-rắc, tộc trưởng Ga-ơ-tam, tộc
trưởng A-ma-lếch. Ðó là các tộc trưởng phát xuất từ ông Ê-li-phát ở đất Ê-đôm,
đó là các con cháu bà A-đa.
17
Sau
đây là các con trai ông Rơ-u-ên, con trai ông Ê-xau: tộc trưởng Na-khắt, tộc
trưởng De-rác, tộc trưởng Sam-ma, tộc trưởng Mít-da. Ðó là các tộc trưởng phát
xuất từ ông Rơ-u-ên ở đất Ê-đôm, đó là các con cháu bà Ba-xơ-mát, vợ ông Ê-xau.
18
Sau
đây là các con trai bà O-ho-li-va-ma, vợ ông Ê-xau: tộc trưởng Giơ-út, tộc
trưởng Gia-lam, tộc trưởng Cô-rắc. Ðó là các tộc trưởng phát xuất từ bà
O-ho-li-va-ma, con gái ông A-na, vợ ông Ê-xau.
19
Ðó
là các con trai ông Ê-xau, đó là các tộc trưởng của họ. Ðó là Ê-đôm.
Dòng
dõi ông Xê-ia, người Khô-ri (1 Sb 1:38 -42)
20
Sau
đây là các con trai ông Xê-ia, người Khô-ri, là dân bản xứ: Lô-tan, Sô-van,
Xíp-ôn, A-na, 21 Ði-sôn, Ê-xe, Ði-san. Ðó là các tộc trưởng người
Khô-ri, là các con trai ông Xê-ia, ở đất Ê-đôm. 22 Các con trai ông
Lô-tan là: Khô-ri và Hê-mam; em gái ông Lô-tan là Tim-na. 23 Ðây là
các con trai ông Sô-van: An-van, Ma-na-khát, Ê-van, Sơ-phô và Ô-nam. 24 Ðây
là các con trai ông Xíp-ôn: Ai-gia và A-na. Ông A-na này là người đã tìm thấy
suối nước nóng trong sa mạc khi chăn lừa cho cha mình là ông Xíp-ôn. 25 Ðây
là các con ông A-na: Ði-sôn và O-ho-li-va-ma, con gái ông A-na. 26 Ðây
là các con trai ông Ði-sôn: Khem-đan, Ét-ban, Gít-ran và Cơ-ran. 27 Ðây
là các con trai ông Ê-xe: Bin-han, Da-a-van và A-can. 28 Ðây là các
con trai ông Ði-san: Út và A-ran.
29
Sau
đây là các tộc trưởng người Khô-ri: tộc trưởng Lô-tan, tộc trưởng Sô-van, tộc
trưởng Xíp-ôn, tộc trưởng A-na, 30 tộc trưởng Ði-sôn, tộc trưởng
Ê-xe, tộc trưởng Ði-san. Ðó là các tộc trưởng người Khô-ri theo các thị tộc của
họ, ở đất Xê-ia.
Các
vua Ê-đôm (1 Sb 1:43 -50)
31
Sau
đây là các vua đã trị vì đất Ê-đôm trước khi có một vua trị vì con cái Ít-ra-en.
32 Vua Be-la, con ông Bơ-o, trị vì Ê-đôm; thành của vua tên là
Ðin-ha-va. 33 Vua Be-la qua đời, ông Giô-váp, con ông De-rác, người
thành Bót-ra, lên kế vị. 34 Vua Giô-váp qua đời, ông Khu-sam, người
gốc xứ Tê-man, lên kế vị. 35 Vua Khu-sam qua đời, ông Ha-đát, con
ông Bơ-đát, lên kế vị. Vua này đánh bại người Ma-đi-an trong cánh đồng Mô-áp;
thành của vua tên là A-vít. 36 Vua Ha-đát qua đời, ông Xam-la, người
thành Mát-rê-ca, lên kế vị. 37 Vua Xam-la qua đời, vua Sa-un, người
thành Rơ-khô-vốt Ha Na-ha lên kế vị. 38 Vua Sa-un qua đời, ông Ba-an
Kha-nan, con ông Ác-bo, lên kế vị. 39 Vua Ba-an Kha-nan, con ông
Ác-bo, qua đời, ông Ha-đa lên kế vị; thành của vua tên là Pa-u, vợ vua tên là
Mơ-hê-táp-ên, con gái ông Mát-rết, người thành Mê Da-háp.
Lại
nói về các tộc trưởng Ê-đôm (1 Sb 1:51 -54)
40
Sau
đây là tên các tộc trưởng phát xuất từ ông Ê-xau, theo dòng họ và địa phương
của họ, theo tên của họ: tộc trưởng Tim-ma, tộc trưởng An-va, tộc trưởng
Giơ-thết, 41 tộc trưởng O-ho-li-va-ma, tộc trưởng Ê-la, tộc trưởng
Pi-nôn, 42 tộc trưởng Cơ-nát, tộc trưởng Tê-man, tộc trưởng Míp-xa, 43
tộc trưởng Mác-đi-ên, tộc trưởng I-ram. Ðó là các tộc trưởng Ê-đôm, theo
nơi ở của họ trong đất thuộc quyền sở hữu của họ. Chính ông Ê-xau là cha của
dân Ê-đôm.
Chương 37
1
Ông
Gia-cóp sống trong đất mà cha của ông đã trú ngụ, là đất Ca-an-an.
IV.-
Sự Tích Ông Giu-Se
Ông
Giu-se và các anh
2
Sau
đây là gia đình ông Gia-cóp. Giu-se được mười bảy tuổi thì đi chăn chiên dê với
các anh. Khi ấy cậu còn trẻ, cậu đi với các con trai bà Bin-ha và các con trai
bà Din-pa, là các bà vợ của cha cậu. Cậu mách cha tiếng đồn không hay về họ.
3
Ông
Ít-ra-en yêu Giu-se hơn tất cả các con, vì ông đã già mới sinh được cậu, và ông
may cho cậu một áo chùng dài tay. 4 Các anh cậu thấy cha yêu cậu hơn
tất cả các anh, thì sinh lòng ghét cậu và không thể nói năng tử tế với cậu.
5
Giu-se
chiêm bao, cậu thuật lại cho các anh, khiến họ càng ghét cậu thêm. 6 Cậu
nói với họ: "Xin nghe em kể giấc chiêm bao của em. 7 Em thấy
chúng ta đang bó những bó lúa ở giữa đồng, thì bó lúa của em vươn dậy, đứng
thẳng lên, còn những bó lúa của các anh bao quanh và sụp xuống lạy bó lúa của
em.” 8 Các anh bảo cậu: "Mày muốn làm vua làm chúa thống trị
chúng tao sao?" Và họ càng ghét cậu thêm vì những chiêm bao và những lời
nói của cậu. 9 Một lần khác cậu lại chiêm bao và kể cho các anh. Cậu
nói: "Em lại chiêm bao. Em thấy mặt trời, mặt trăng và mười một ngôi sao
đang sụp xuống lạy em.” 10 Cậu kể lại cho cha và các anh, nhưng cha
cậu mắng cậu và nói: "Giấc chiêm bao mày đã thấy là gì? Tao, mẹ mày và các
anh mày lại phải đến sụp xuống đất lạy mày sao?” 11 Các anh ghen với
cậu, còn cha cậu thì ghi nhớ điều ấy.
Ông
Giu-se bị các anh bán
12
Các
anh cậu đã đi chăn chiên dê của cha họ ở Si-khem. 13 Ông Ít-ra-en
bảo Giu-se: "Các anh con đang chăn chiên dê ở Si-khem phải không? Lại đây,
cha sai con đến với các anh." Cậu thưa: "Dạ, con đây!” 14 Ông
bảo cậu: "Con hãy đi xem các anh con có được yên lành không, xem chiên dê
có được yên lành không, rồi đem tin về cho cha." Rồi ông sai cậu đi từ
thung lũng Khép-rôn, và cậu đến Si-khem.
15
Có
người gặp thấy cậu đi lang thang ngoài đồng; người đó hỏi cậu rằng: "Anh
tìm gì đấy?” 16 Cậu đáp: "Tôi đang tìm các anh tôi. Xin làm ơn
chỉ cho tôi biết họ đang chăn ở đâu.” 17 Người đó nói: "Họ đã
lên đường đi khỏi đây, vì tôi có nghe họ nói: "Chúng ta đi Ðô-than
nào!" Giu-se theo các anh và tìm thấy họ ở Ðô-than.
18
Họ
thấy cậu từ xa, và trước khi cậu tới gần họ thì họ lập mưu giết chết cậu. 19
Họ bảo nhau: "Thằng tướng chiêm bao đang đến kia! 20 Bây giờ, nào ta
giết và ném nó xuống một cái giếng. Ta sẽ nói là một thú dữ đã ăn thịt nó. Rồi
ta sẽ thấy các chiêm bao của nó đi tới đâu!"
21
Nghe
thấy thế, Rưu-vên tìm cách cứu em khỏi tay họ; cậu nói: "Ta đừng đụng tới
mạng sống nó.” 22 Rưu-vên bảo họ: "Ðừng đổ máu! Cứ ném nó xuống
cái giếng kia trong sa mạc, nhưng đừng giơ tay hại nó." Cậu có ý cứu em
khỏi tay họ và đưa về cho cha. 23 Vậy khi Giu-se đến chỗ các anh,
thì họ lột áo chùng của cậu, chiếc áo chùng dài tay cậu đang mặc. 24 Họ
túm lấy cậu và ném xuống cái giếng; giếng đó cạn, không có nước. 25 Rồi
họ ngồi xuống dùng bữa.
26
Giu-đa
nói với các anh em: "Ta giết em và phủ lấp máu nó, nào có ích lợi gì? 27
Thôi, ta hãy bán nó cho người Ít-ma-ên, nhưng đừng động tay tới nó, vì nó là em
ta, là ruột thịt của ta." Các anh em nghe cậu.
28
Những
lái buôn người Ma-đi-an đi qua đó kéo Giu-se lên khỏi giếng, rồi bán cậu cho
người Ít-ma-ên hai mươi đồng bạc. Những người này đưa Giu-se sang Ai-cập. 29
Khi Rưu-vên trở lại giếng thì thấy Giu-se không còn ở dưới giếng nữa. Cậu
liền xé áo mình ra. 30 Cậu đến nói với các em: "Thằng bé không
còn nữa! Còn tôi, tôi biết đi đâu bây giờ!"
31
Họ
lấy áo chùng của Giu-se, giết một con dê đực, rồi nhúng áo chùng vào máu. 32
Họ gửi người mang cái áo chùng dài tay về cho cha họ và nói: "Chúng
con đã thấy cái này. Xin cha nhận ra xem có phải là áo của con cha hay không.” 33
Ông nhận ra cái áo và kêu lên: "Áo chùng của con tôi đây! Thú dữ đã
ăn thịt nó! Giu-se đã bị xé xác rồi!” 34 Ông Gia-cóp xé áo mình ra,
quấn áo vải thô ngang lưng và để tang Giu-se lâu ngày. 35 Tất cả các
con trai con gái ông đến an ủi ông, nhưng ông không chịu cho người ta an ủi;
ông nói: "Cha sẽ để tang mà xuống với con cha ở âm phủ." Và cha cậu
khóc thương cậu.
36
Người
Ma-đi-an đem bán cậu tại Ai-cập cho ông Pô-ti-pha là thái giám của Pha-ra-ô và
là chỉ huy thị vệ.
Chương 38
Ông
Giu-đa và bà Ta-ma
1
Thời
ấy, ông Giu-đa rời bỏ anh em, xuống thăm một người thành A-đu-lam tên là Khi-ra.
2 Tại đó ông Giu-đa thấy con gái một người Ca-na-an, tên ông này là
Su-a. Ông lấy nàng và ăn ở với nàng. 3 Nàng có thai, sinh con trai,
và ông đặt tên cho nó là Er. 4 Nàng lại có thai, sinh con trai, và
ông đặt tên cho nó là Ô-nan. 5 Một lần nữa, nàng lại sinh con trai,
và ông đặt tên cho nó là Sê-la. Ông đang ở Cơ-díp khi nàng sinh nó.
6
Ông
Giu-đa cưới cho Er, con trai đầu lòng của ông, một người vợ tên là Ta-ma. 7
Er, con đầu lòng ông Giu-đa, làm mất lòng Ðức Chúa, nên Ðức Chúa khiến
cậu chết. 8 Ông Giu-đa bảo Ô-nan: "Con hãy ăn ở với chị dâu
con, hãy chu toàn nhiệm vụ của một người em chồng, và làm cho anh con có người
nối dõi.” 9 Ô-nan biết rằng dòng dõi sinh ra sẽ không phải là của
mình, nên khi ăn ở với chị dâu, thì cậu lại cho tinh rơi xuống đất, để không
cho anh cậu có người nối dõi. 10 Hành động của cậu không đẹp lòng
Ðức Chúa, nên Người cũng khiến cậu chết. 11 Ông Giu-đa nói với
Ta-ma, con dâu ông: "Con cứ ở goá bên nhà cha con, chờ khi Sê-la, con cha,
lớn đã." Thật vậy, ông tự nhủ: "Lỡ ra cả thằng này nữa cũng phải chết
như các anh nó!" Vậy Ta-ma về ở bên nhà cha mình.
12
Ngày
tháng trôi qua, người con gái ông Su-a, là vợ ông Giu-đa, qua đời. Mãn tang vợ,
ông Giu-đa, cùng với bạn là ông Khi-ra, người A-đu-lam, lên Tim-na gặp các thợ
xén lông chiên của ông. 13 Người ta báo cho Ta-ma hay rằng:
"Này, cha chồng của chị đang lên Tim-na xén lông chiên của ông ấy!” 14
Nàng liền bỏ áo bà goá, lấy khăn trùm lên, phủ kín mình, rồi ngồi ở lối
vào Ê-na-gim, một thành nằm trên đường đi Tim-na. Nàng làm thế vì thấy rằng
Sê-la đã lớn mà người ta không cho nàng làm vợ cậu.
15
Ông
Giu-đa trông thấy nàng, tưởng là một gái điếm, vì nàng đã che mặt. 16 Ông
rẽ qua phía nàng bên lề đường và nói: "Cho tôi đến với cô." Ông không
biết nàng là con dâu ông. Nàng hỏi: "Ông cho em gì để đến với em?” 17
Ông đáp: "Tôi sẽ bắt một con dê con trong đàn gửi đến cho cô."
Nàng lại nói: "Vậy xin ông cho em một vật làm tin, cho tới khi ông gửi
đến.” 18 Ông hỏi: "Tôi phải cho cô vật gì làm tin?" Nàng
đáp: "Chiếc ấn của ông, sợi dây đeo ấn và cây gậy ông cầm ở tay." Ông
đưa cho nàng những thứ đó, rồi đến với nàng, và nàng có thai với ông. 19 Nàng
đứng lên, đi khỏi, bỏ khăn trùm và mặc lại áo bà goá.
20
Ông
Giu-đa nhờ người bạn ở A-đu-lam mang dê con đến, để lấy lại vật làm tin từ tay
người đàn bà, nhưng ông này không tìm thấy nàng. 21 Ông này hỏi
người địa phương: "Cô điếm thần ở Ê-na-gim, vẫn ngồi trên đường, đâu
rồi?" Họ đã trả lời: "Ở đây chẳng hề có điếm thần.” 22 Ông
về nói với ông Giu-đa: "Tôi không tìm thấy cô ta. Người địa phương còn nói
là ở đấy chẳng hề có điếm thần.” 23 Ông Giu-đa nói: "Cô ta cứ
việc giữ những thứ ấy! Miễn sao chúng ta đừng bị chê cười. Tôi quả đã gửi con
dê con này, còn anh lại không tìm thấy cô ấy!"
24
Khoảng
ba tháng sau, người ta báo cho ông Giu-đa rằng: "Ta-ma, con dâu ông, đã đi
làm điếm; nó còn có thai vì làm điếm nữa!" Ông Giu-đa nói: "Lôi nó ra
mà thiêu sống!” 25 Khi bị lôi ra, nàng nhờ người nói với cha chồng
rằng: "Chính chủ những vật này đã làm cho con có thai!" Nàng còn nói:
"Xin cha nhận ra xem chiếc ấn, sợi dây đeo ấn và cây gậy này là của ai.” 26
Ông Giu-đa nhận ra và nói: "Nó công chính hơn tôi. Quả thực tôi đã
không cho nó làm vợ Sê-la, con trai tôi." Rồi ông không ăn ở với nàng nữa.
27
Ðến
ngày sinh, nàng sinh đôi. 28 Khi nàng sinh thì một đứa thò tay ra,
bà đỡ cầm lấy tay, buộc sợi chỉ đỏ vào và nói: "Ðứa này ra trước.” 29
Rồi nó rụt tay vào, và đứa kia ra. Bà đỡ nói: "Thật mày đã xé
rào!" Người ta bèn đặt tên cho nó là Pe-rét. 30 Sau đó, đứa
trước mới ra, có sợi chỉ đỏ ở tay; người ta đặt tên cho nó là De-rác.
Chương 39
Thời
đầu của ông Giu-se bên Ai-cập
1
Giu-se
bị đưa xuống Ai-cập. Ông Pô-ti-pha thái giám của Pha-ra-ô và chỉ huy thị vệ,
một người Ai-cập, đã mua cậu từ tay người Ít-ma-ên là những người đã đưa cậu
xuống đó. 2 Ðức Chúa ở với Giu-se và cậu là một con người thành
công; cậu ở trong nhà chủ cậu, người Ai-cập. 3 Chủ cậu thấy rằng Ðức
Chúa ở với cậu và mọi việc cậu làm thì Ðức Chúa cho thành công. 4 Giu-se
được đẹp lòng chủ, cậu là người phụ tá cho ông. Ông đặt cậu làm quản gia và
giao phó cho cậu mọi tài sản của ông. 5 Từ khi ông đặt cậu làm quản
gia coi sóc mọi tài sản của ông, thì vì Giu-se, Ðức Chúa chúc phúc cho nhà
người Ai-cập; phúc lành của Ðức Chúa xuống trên mọi tài sản của ông, trong nhà
cũng như ngoài đồng. 6 Tài sản của ông, ông phó mặc tất cả trong tay
Giu-se, và có Giu-se thì ông không còn lo gì cả, chỉ biết đến bữa là ăn.
Giu-se
lại có duyên và đẹp trai.
Ông
Giu-se bị quyến rũ
7
Sau
các việc đó, bà vợ ông chủ để mắt tới Giu-se; bà nói với cậu: "Nằm với tôi
đi!"
8
Nhưng
cậu từ chối và nói với bà vợ ông chủ: "Bà coi, có tôi thì ông chủ tôi
không còn phải lo gì đến việc nhà. Tài sản của ông, ông đã giao phó tất cả
trong tay tôi. 9 Trong nhà này, chính ông cũng không lớn hơn tôi, và
ông không giữ lại thứ gì mà không trao cho tôi, trừ bà ra, vì bà là vợ ông. Vậy
sao tôi có thể làm điều ác tày đình như thế và phạm đến Thiên Chúa?” 10 Ngày
ngày bà cứ nói với Giu-se, nhưng cậu không chịu nghe mà nằm cạnh bà để ngủ với
bà.
11
Một
ngày kia, cậu vào trong nhà để làm phận sự và không có gia nhân nào trong nhà, 12
thì bà níu áo cậu mà nói: "Nằm với tôi đi!" Cậu bỏ áo lại trong
tay bà, chạy trốn và ra ngoài. 13 Khi bà thấy rằng cậu đã bỏ áo lại
trong tay bà và chạy trốn ra ngoài, 14 thì bà gọi người nhà và nói
với họ: "Các người xem đấy: người ta đã đưa về cho chúng ta một tên Híp-ri
để đú đởn với chúng ta. Hắn đã đến với tôi để nằm với tôi, nhưng tôi đã lớn
tiếng kêu. 15 Khi nghe tôi cất tiếng kêu, thì hắn bỏ áo lại bên cạnh
tôi, chạy trốn và ra ngoài."
16
Bà
để áo cậu bên cạnh mình cho đến khi ông chủ của cậu về nhà. 17 Bà
cũng dùng những lời lẽ như trên và nói với ông: "Tên nô lệ Híp-ri ông đã
đưa về cho chúng ta, đã đến với tôi để đú đởn với tôi. 18 Khi tôi
cất tiếng kêu, thì hắn bỏ áo lại bên cạnh tôi và chạy trốn ra ngoài.” 19 Khi
ông chủ của cậu nghe những lời bà vợ nói với ông: "Tên nô lệ của ông đối
xử với tôi như thế đó!" thì ông đùng đùng nổi giận. 20 Ông chủ
của Giu-se bắt cậu và tống vào nhà tù, nơi các tù nhân của nhà vua bị giam giữ.
Ông
Giu-se trong tù
21
Nhưng
có Ðức Chúa ở với ông. Người tỏ lòng yêu thương ông và cho ông được cảm tình
của viên quản đốc nhà tù. 22 Viên quản đốc nhà tù giao phó cho
Giu-se hết mọi tù nhân trong nhà tù, và tất cả những gì họ làm, đều do cậu cho
làm. 23 Viên quản đốc nhà tù chẳng ngó ngàng chi đến tất cả những
việc đã giao phó cho Giu-se, vì Ðức Chúa ở với cậu, và điều gì cậu làm, thì Ðức
Chúa cho thành công.
Chương 40
Ông
Giu-se giải mộng cho các quan của Pha-ra-ô
1
Sau
các việc đó, quan chước tửu và quan ngự thiện của vua Ai-cập lỗi phạm cùng chủ
mình là vua Ai-cập. 2 Nhà vua nổi giận với hai viên thái giám của
mình, là quan chánh chước tửu và quan chánh ngự thiện. 3 Vua cho
giam họ trong nhà viên chỉ huy thị vệ, trong nhà tù nơi Giu-se đang bị giữ. 4
Viên chỉ huy thị vệ cắt đặt Giu-se ở với họ và phục vụ họ. Họ bị giam giữ
một thời gian. 5 Cả hai người, quan chước tửu và quan ngự thiện của
vua Ai-cập đang bị giam giữ tại nhà tù, đều cùng chiêm bao trong một đêm; mỗi
người có giấc chiêm bao riêng, và mỗi giấc chiêm bao có một ý nghĩa khác. 6
Sáng ngày ra, Giu-se đến với họ và thấy họ ủ rũ. 7 Cậu hỏi hai
viên thái giám của Pha-ra-ô đang bị giam giữ tại nhà của chủ cậu rằng:
"Tại sao hôm nay mặt mày các ông buồn bã thế?” 8 Họ trả lời
cậu: "Chúng tôi đã chiêm bao, mà không có ai giải thích cả!" Giu-se
nói với họ: "Giải thích chẳng phải là việc của Thiên Chúa sao? Nhưng xin
hai ông cứ kể lại cho tôi.” 9 Quan chánh chước tửu kể lại giấc chiêm
bao của mình cho Giu-se, ông nói: "Trong giấc chiêm bao, tôi thấy trước
mặt tôi có một cây nho, 10 trên cây nho có ba ngành. Khi cây đâm
chồi thì hoa nở ra và các chùm nho chín. 11 Trong tay tôi có chén
của Pha-ra-ô. Tôi hái nho, ép nước đổ vào chén của Pha-ra-ô, rồi đặt chén vào
lòng bàn tay Pha-ra-ô.” 12 Giu-se nói với ông ấy: "Ðây là lời
giải thích giấc chiêm bao. Ba ngành là ba ngày. 13 Còn ba ngày nữa,
Pha-ra-ô sẽ nâng đầu ông lên. Vua sẽ phục hồi chức vụ cho ông, và ông sẽ đặt
chén của Pha-ra-ô vào tay vua, như ông quen làm trước đây, khi còn là quan
chước tửu của vua. 14 Nhưng nếu ông nhớ tôi đã ở với ông, thì khi
người ta xử tốt với ông, xin ông tỏ tình thương đối với tôi và tâu với Pha-ra-ô
về tôi, để vua đưa tôi ra khỏi nhà này. 15 Thật vậy, tôi đã bị bắt
cóc đưa ra khỏi đất người Híp-ri, và ngay ở đây, tôi cũng không làm gì để người
ta giam tôi trong hầm."
16
Quan
chánh ngự thiện thấy Giu-se đã giải thích theo chiều hướng thuận lợi, nên nói
với ông: "Cả tôi nữa, trong giấc chiêm bao, tôi thấy ba giỏ bánh trên đầu
tôi. 17 Trong giỏ trên cùng, có đủ thứ bánh ngọt để cho Pha-ra-ô ăn.
Chim chóc rỉa những thứ đó trong cái giỏ trên đầu tôi.” 18 Giu-se
trả lời rằng: "Ðây là lời giải thích giấc chiêm bao. Ba giỏ là ba ngày. 19
Còn ba ngày nữa, Pha-ra-ô sẽ nâng đầu ông lên khỏi thân ông. Vua sẽ treo
ông lên cây, và chim chóc sẽ rỉa thịt ông."
20
Sang
ngày thứ ba, là ngày sinh nhật của Pha-ra-ô, vua mở tiệc thết đãi triều thần và
nâng đầu quan chánh chước tửu và quan chánh ngự thiện lên giữa triều thần. 21
Vua phục hồi chức vụ cho quan chánh chước tửu, và ông đặt chén vào lòng
bàn tay Pha-ra-ô. 22 Còn quan chánh ngự thiện, thì vua treo lên, như
Giu-se đã giải thích cho họ. 23 Nhưng quan chánh chước tửu không nhớ
đến Giu-se, ông đã quên mất cậu.
Chương 41
Các
giấc chiêm bao của Pha-ra-ô
1
Hai
năm sau, Pha-ra-ô chiêm bao. Vua thấy mình đang đứng trên bờ sông Nin, 2 và
từ sông Nin có bảy con bò cái đi lên, hình dáng đẹp đẽ và da thịt béo tốt;
chúng gặm cỏ trong đám sậy. 3 Rồi sau những con ấy, có bảy con bò
cái khác từ sông Nin đi lên, hình dáng xấu xí và da thịt gầy còm, chúng đứng
bên cạnh những con bò kia, trên bờ sông Nin. 4 Bảy con bò cái hình
dáng xấu xí và da thịt gầy còm ăn thịt bảy con bò cái hình dáng đẹp đẽ và béo
tốt. Bấy giờ Pha-ra-ô tỉnh dậy.
5
Vua
ngủ lại và chiêm bao một lần thứ hai; vua thấy bảy bông lúa đâm lên trên cùng
một cọng, mẩy và tốt. 6 Rồi có bảy bông lúa lép và nám cháy vì gió
đông, mọc lên sau chúng. 7 Bảy bông lúa lép nuốt chửng bảy bông lúa
mẩy và chắc. Bấy giờ Pha-ra-ô tỉnh dậy, thì thấy rằng đó là một giấc chiêm bao!
8
Sáng
ngày ra, tâm thần vua xao xuyến, vua vời tất cả các phù thủy và hiền sĩ Ai-cập
đến: Pha-ra-ô kể lại cho họ các giấc chiêm bao của mình, nhưng không có ai giải
thích được cho vua. 9 Bấy giờ quan chánh chước tửu mới thưa Pha-ra-ô
rằng: "Hôm nay tôi xin nhắc lại những lầm lỗi của tôi. 10 Pha-ra-ô
đã nổi giận với bề tôi mình và cho giam tôi trong nhà viên chỉ huy thị vệ, tôi
và quan chánh ngự thiện. 11 Tôi và ông ấy, chúng tôi chiêm bao trong
cùng một đêm; chúng tôi chiêm bao, và mỗi giấc chiêm bao có một ý nghĩa khác. 12
Cùng ở với chúng tôi có một thanh niên Híp-ri, nô lệ của viên chỉ huy thị
vệ. Chúng tôi đã kể lại cho anh ta, và anh ta đã giải thích cho chúng tôi các
chiêm bao của chúng tôi; anh ta giải thích chiêm bao của mỗi người. 13 Sự
việc đã xảy ra như anh ta đã giải thích cho chúng tôi: tôi thì được phục hồi
chức vụ, còn ông kia thì bị treo cổ."
14
Pha-ra-ô
vời ông Giu-se đến. Người ta vội đưa cậu ra khỏi hầm. Cậu cạo râu cắt tóc, thay
quần áo và vào chầu Pha-ra-ô. 15 Pha-ra-ô nói với Giu-se: "Ta đã
chiêm bao mà không ai có thể giải thích. Ta đã nghe nói rằng ngươi chỉ cần nghe
kể lại chiêm bao là giải thích được.” 16 Giu-se thưa Pha-ra-ô rằng:
"Không phải tôi, mà là Thiên Chúa sẽ cho câu trả lời đem lại bình an cho
Pha-ra-ô."
17
Pha-ra-ô
nói với Giu-se: "Trong chiêm bao của ta, ta thấy mình đang đứng trên bờ
sông Nin. 18 Từ sông có bảy con bò cái đi lên, da thịt béo tốt, thân
hình đẹp đẽ; chúng gặm cỏ trong đám sậy. 19 Rồi sau những con ấy, có
bảy con bò cái khác đi lên, gầy guộc, thân hình rất xấu xí, da thịt ốm nhom; ta
chưa thấy bò nào xấu như chúng trong toàn cõi Ai-cập. 20 Các con bò
cái ốm nhom và xấu xí ăn thịt bảy con bò cái trước, những con béo tốt. 21 Các
con béo tốt vào bụng các con ốm nhom, mà người ta không biết rằng chúng đã vào
bụng các con ốm nhom, vì hình dáng các con này vẫn xấu xí như trước. Bấy giờ ta
tỉnh dậy. 22 Ta lại thấy trong chiêm bao của ta có bảy bông lúa đâm
lên trên cùng một cọng, chắc và tốt. 23 Rồi có bảy bông lúa đẹt, lép
và nám cháy vì gió đông, mọc lên sau chúng. 24 Bảy bông lúa lép nuốt
chửng bảy bông lúa tốt. Ta đã nói cho các phù thuỷ, nhưng không ai có thể cắt
nghĩa cho ta."
25
Giu-se
thưa Pha-ra-ô: "Giấc chiêm bao của Pha-ra-ô chỉ là một. Ðiều Thiên Chúa
sắp làm thì Người đã báo cho Pha-ra-ô biết. 26 Bảy con bò cái tốt là
bảy năm, bảy bông lúa tốt là bảy năm: đó là một chiêm bao duy nhất. 27 Bảy
con bò cái ốm nhom và xấu xí đi lên sau chúng là bảy năm, và bảy bông lúa còi
và nám cháy vì gió đông là bảy năm đói kém. 28 Ðó là điều tôi đã
thưa với Pha-ra-ô: "Ðiều Thiên Chúa sắp làm thì Người đã cho Pha-ra-ô
thấy.” 29 Sắp tới là bảy năm rất sung túc trong toàn cõi Ai-cập. 30
Tiếp sau những năm đó là bảy năm đói kém; trong xứ Ai-cập người ta sẽ
quên đi tất cả sự sung túc, và nạn đói sẽ làm cho xứ kiệt quệ. 31 Trong
xứ người ta sẽ không còn biết sự sung túc là gì, do nạn đói tiếp theo đó, một
nạn đói trầm trọng. 32 Giấc chiêm bao của Pha-ra-ô được lặp lại hai
lần, nghĩa là sự việc đã được Thiên Chúa quyết định và Thiên Chúa sẽ mau thực
hiện.
33
Vậy
bây giờ xin Pha-ra-ô xem có người nào thông minh và khôn ngoan, thì đặt người
ấy cai quản xứ Ai-cập. 34 Xin Pha-ra-ô hành động và đặt những quản
đốc lo việc trong xứ, và vua sẽ đánh thuế một phần năm trên thóc lúa xứ Ai-cập
trong bảy năm sung túc. 35 Họ sẽ thu mọi lương thực của những năm
được mùa sắp tới này. Họ sẽ chất chứa lúa mì làm lương thực trong các thành, và
sẽ giữ lại, để Pha-ra-ô tuỳ quyền sử dụng. 36 Số lương thực ấy sẽ là
dự trữ trong xứ, phòng bảy năm đói kém sẽ xảy đến trong xứ Ai-cập, và xứ sẽ
không bị huỷ diệt vì nạn đói."
Ông
Giu-se làm quan
37
Lời
đó vừa lòng Pha-ra-ô và triều thần. 38 Vua nói với triều thần:
"Chúng ta tìm đâu được một người như người này, một người có Thần Khí
Thiên Chúa?” 39 Pha-ra-ô nói với ông Giu-se: "Sau khi Thiên
Chúa đã cho ông biết tất cả những điều ấy, không ai thông minh và khôn ngoan
như ông. 40 Ông sẽ là tể tướng triều đình của ta, toàn thể dân ta sẽ
phục tùng mệnh lệnh của ông; ta lớn hơn ông chỉ vì ngai vua mà thôi.” 41 Pha-ra-ô
nói với ông Giu-se: "Coi đây, ta đặt ông cai quản toàn cõi Ai-cập.” 42
Pha-ra-ô rút nhẫn ra khỏi tay mình và xỏ vào tay ông Giu-se, mặc cho ông
y phục vải gai mịn, và đeo vào cổ ông chiếc vòng vàng. 43 Vua cho
ông lên xa giá thứ hai của vua, và người ta hô trước mặt ông: "Quỳ
xuống!" Như vậy, vua đặt ông cai quản toàn cõi Ai-cập.
44
Pha-ra-ô
nói với ông Giu-se: "Ta là Pha-ra-ô. Không có lệnh của ông, không ai được
cử động tay chân trong toàn cõi Ai-cập.” 45 Pha-ra-ô đặt tên cho ông
Giu-se là Xóp-nát Pa-nê-ác và gả cô Át-nát cho ông, cô là con gái ông Pô-ti Phê-ra,
tư tế thành Ôn. Ông Giu-se đi kinh lý xứ Ai-cập.
46
Ông
Giu-se được ba mươi tuổi khi ra trình diện Pha-ra-ô, vua Ai-cập. Ông cáo biệt
Pha-ra-ô và rảo qua khắp xứ Ai-cập. 47 Trong bảy năm sung túc, đất
đã sinh ra mùa màng dư dật. 48 Ông thu tất cả lương thực của bảy năm
liên tiếp trong xứ Ai-cập và chứa trong các thành; ông chứa trong mỗi thành
lương thực sản xuất trong đồng ruộng chung quanh thành đó. 49 Ông
Giu-se chất chứa lúa mì rất nhiều, như cát biển, đến mức ông thôi không đong
lường nữa, vì không thể đong lường được.
Các
con ông Giu-se
50
Ông
Giu-se được hai con trai sinh ra trước năm đói; đó là hai người con mà bà
Át-nát, con gái ông Pô-ti Phê-ra, tư tế thành Ôn, đã sinh cho ông. 51 Ông
Giu-se đặt tên cho con đầu lòng là Mơ-na-se, ông nói: "Vì Thiên Chúa đã
làm cho tôi quên đi mọi gian khổ của tôi và tất cả nhà cha tôi.” 52 Ông
đặt tên cho con thứ hai là Ép-ra-im, ông nói: "Vì Thiên Chúa đã cho tôi
sinh sôi nảy nở trong xứ tôi phải chịu khổ cực."
53
Khi
bảy năm sung túc tại xứ Ai-cập chấm dứt, 54 thì bảy năm đói kém bắt
đầu, như ông Giu-se đã nói. Mọi xứ khác đều bị đói kém, nhưng trong toàn xứ
Ai-cập thì có bánh ăn. 55 Rồi toàn xứ Ai-cập bị đói và dân chúng kêu
lên Pha-ra-ô xin bánh ăn. Pha-ra-ô nói với mọi người Ai-cập: "Cứ đến với
ông Giu-se; ông bảo gì, các ngươi hãy làm theo.” 56 Khắp nơi trong
xứ bị đói kém. Ông Giu-se mở hết các kho lúa mì và bán cho người Ai-cập. Nạn
đói hoành hành trong đất Ai-cập. 57 Từ mọi xứ, người ta đến Ai-cập
để mua lúa mì của ông Giu-se, vì nạn đói hoành hành trên khắp mặt đất."
Chương 42
Ông
Giu-se gặp các anh lần đầu tiên
1
Ông
Gia-cóp thấy bên Ai-cập có lúa bán, liền nói với các con trai: "Sao các
con cứ ngồi nhìn nhau?” 2 Rồi ông nói: "Cha nghe nói bên Ai-cập
có lúa bán; các con hãy xuống đó mua lúa về, để chúng ta sống chứ không phải
chết.” 3 Mười người anh ông Giu-se bèn xuống mua lúa mì ở Ai-cập. 4
Nhưng Ben-gia-min, em của ông Giu-se, thì ông Gia-cóp không sai đi với
các anh, vì ông nói: "Lỡ ra nó gặp tai hoạ."
5
Giữa
đám người đến mua lúa, cũng có mặt các con ông Ít-ra-en, vì đất Ca-na-an bị đói
kém. 6 Ông Giu-se bấy giờ có toàn quyền trong xứ, và ông bán lúa cho
toàn dân trong xứ. Các anh ông Giu-se đến và cúi sấp mặt xuống đất lạy ông. 7
Vừa nhìn thấy các anh mình, ông Giu-se nhận ra họ, nhưng làm như người xa
lạ đối với họ, và nói với họ cách cứng cỏi. Ông hỏi họ: "Các người từ đâu
đến?" Họ đáp: "Thưa từ đất Ca-na-an, để mua lương thực."
8
Ông
Giu-se nhận ra các anh, nhưng họ không nhận ra ông. 9 Ông Giu-se nhớ
lại những giấc chiêm bao của ông liên quan đến họ, nên nói với họ: "Các
người là bọn do thám. Các người đến để dò xét những chỗ sơ hở của xứ này.” 10
Họ nói: "Thưa ngài, không phải đâu! Các tôi tớ ngài đến để mua lương
thực. 11 Chúng tôi đều là con cùng một cha, chúng tôi là người lương
thiện; các tôi tớ ngài không phải là bọn do thám.” 12 Ông nói với
họ: "Không! Các người đến để dò xét những chỗ sơ hở của xứ này.” 13 Họ
nói: "Các tôi tớ ngài là mười hai anh em, chúng tôi là con cùng một cha, ở
đất Ca-na-an. Ðứa út hiện đang ở với cha chúng tôi, còn một đứa thì không còn
nữa.” 14 Ông Giu-se bảo họ: "Ðúng như ta đã nói với các người:
các người là bọn do thám! 15 Ta sẽ thử thách các người như thế này: Ta lấy mạng
sống Pha-ra-ô mà thề rằng: các người sẽ không được ra khỏi đây, trước khi đứa
em út của các người đến. 16 Hãy cho một anh em về tìm đứa em, còn
các người thì phải ở tù. Ta sẽ thử xem lời các người nói có đúng sự thật hay
không. Bằng không, ta lấy mạng sống Pha-ra-ô mà thề rằng: các người là bọn do
thám.” 17 Rồi ông giam giữ họ ba ngày.
18
Ðến
ngày thứ ba, ông Giu-se bảo họ: "Các người muốn sống thì hãy làm thế này,
vì ta kính sợ Thiên Chúa. 19 Nếu các người là những kẻ lương thiện,
thì một anh em cứ phải chịu giam trong nhà tù này, còn các người khác thì hãy
ra đi, đem lúa về cho gia đình khỏi đói. 20 Rồi các người hãy đem
đứa em út đến cho ta. Bấy giờ sẽ rõ là các người nói đúng, và các người sẽ
không phải chết." Họ đã làm như vậy. 21 Họ bảo nhau: "Than
ôi! Chúng ta có lỗi với em chúng ta: chúng ta đã thấy nó phải ngặt nghèo. Nó đã
năn nỉ chúng ta, nhưng chúng ta chẳng nghe. Chính vì thế mà chúng ta gặp cảnh
ngặt nghèo này.” 22 Ông Rưu-vên trả lời họ rằng: "Tôi đã chẳng
bảo các chú thế này sao: "Ðừng phạm tội hại đến thằng bé!" nhưng các
chú đã không chịu nghe. Bây giờ thì phải đền nợ máu nó!” 23 Họ không
biết rằng ông Giu-se hiểu được, vì giữa ông và họ có người phiên dịch. 24 Bấy
giờ ông lánh ra chỗ khác mà khóc, sau đó mới trở lại nói chuyện với họ. Trong
số họ, ông bắt ông Si-mê-ôn và cho trói trước mặt họ.
Các
con ông Gia-cóp trở về xứ Ca-na-an
25
Rồi
ông Giu-se truyền đổ đầy lúa mì vào bao bị của họ, và truyền trả lại bạc: của
ai thì để vào bao người ấy, đồng thời cho họ lương thực ăn đường. Ông đã xử sự
với họ như thế. 26 Họ chất lúa của mình lên lưng lừa và đi khỏi đó. 27
Tại nơi họ dừng lại nghỉ đêm, một người trong bọn họ mở bao của mình để
cho lừa ăn, thì thấy bạc của mình: bạc ấy ở miệng bao lúa mì. 28 Người
ấy nói với anh em mình: "Người ta đã trả lại bạc của tôi! Nó ở trong bao
lúa mì của tôi đây này!" Họ hết hồn hết vía, kinh hoàng nói với nhau:
"Thiên Chúa làm gì cho chúng ta thế này!"
29
Khi
trở về với ông Gia-cóp, cha họ, ở đất Ca-na-an, họ thuật lại cho ông mọi việc
đã xảy đến với họ; họ nói: 30 "Ông chúa xứ ấy đã ăn nói với
chúng con cách cứng cỏi, và coi chúng con là bọn người đến do thám xứ ấy. 31
Chúng con nói với ông ta: "Chúng tôi là người lương thiện, không
phải là bọn do thám. 32 Chúng tôi là mười hai anh em, con cùng một
cha. Một đứa không còn nữa, đứa út thì hiện đang ở với cha chúng tôi tại đất
Ca-na-an.” 33 Nhưng ông chúa xứ ấy bảo chúng con: "Căn cứ vào
điều này, ta sẽ biết các người là những kẻ lương thiện: các người hãy để một
anh em ở lại với ta, hãy lãnh phần lương thực cứu đói cho gia đình và ra đi. 34
Các người hãy đem đứa em út đến cho ta; như vậy ta sẽ biết các người
không phải là bọn do thám, nhưng là người lương thiện. Ta sẽ trả lại người anh
em kia, và các người sẽ có thể đi lại mua bán trong xứ."
35
Khi
họ đổ bao ra, thì mỗi người thấy trong bao có túi bạc của mình. Thấy những túi
bạc, họ và cha họ phát sợ. 36 Ông Gia-cóp, cha họ, bảo: "Chúng
mày cướp con tao! Giu-se không còn nữa, Si-mê-ôn không còn nữa, mà Ben-gia-min,
chúng mày cũng muốn bắt đem đi! Mọi chuyện đổ lên đầu tao!” 37 Ông
Rưu-vên nói với cha: "Cha cứ giết hai đứa con trai của con đi, nếu con
không đưa em về cho cha! Cha cứ giao em cho con, và chính con sẽ đem nó về cho
cha.” 38 Nhưng ông đáp: "Con tao sẽ không xuống đó với chúng
mày, vì anh nó đã chết, chỉ còn lại một mình nó thôi. Nó mà gặp tai hoạ trong
chuyến đi chúng mày sắp thực hiện, thì chúng mày sẽ làm cho kẻ bạc đầu này phải
buồn sầu mà xuống âm phủ."
Chương 43
Các
con ông Gia-cóp đem Ben-gia-min đi theo
1
Nạn
đói trong xứ trở nên trầm trọng. 2 Khi họ ăn hết lúa đưa từ Ai-cập
về, thì cha họ bảo: "Hãy trở lại mua ít lương thực về.” 3 Ông
Giu-đa thưa với cha: "Ông ấy đã tuyên bố rõ với chúng con: "Các người
sẽ không được gặp mặt ta, nếu em các người không cùng đến với các người.” 4
Nếu cha sai em đi với chúng con, thì chúng con mới xuống mua lương thực
cho cha được; 5 còn nếu cha không sai nó đi, thì chúng con sẽ không
xuống, vì ông ấy đã bảo chúng con: "Các người sẽ không được gặp mặt ta,
nếu em các người không cùng đến với các người.” 6 Ông Ít-ra-en nói:
"Sao các con lại làm hại cha mà đi khai với ông ấy rằng các con còn một
đứa em?” 7 Họ trả lời: "Ông ấy hỏi đi hỏi lại về chúng con và
họ hàng chúng con; ông ấy nói: "Cha các người còn sống không? Các người có
em không?" Chúng con cứ theo các câu hỏi ấy mà khai với ông ta. Có ngờ đâu
là ông ấy sẽ bảo chúng con: "Ðưa em các người xuống đây!” 8 Ông
Giu-đa thưa với ông Ít-ra-en, cha mình: "Xin cha sai thằng bé đi với con;
chúng con sẽ chỗi dậy lên đường, và chúng ta sẽ sống chứ không chết cả đám, cha
cũng như chúng con và lũ trẻ. 9 Chính con xin bảo lãnh cho nó; cha
cứ bắt con chịu trách nhiệm; nếu con không đưa nó về cho cha và đặt nó trước
mặt cha, thì con sẽ đắc tội với cha suốt đời. 10 Giả như không chần
chừ thế này, thì bây giờ chúng con đã đi được hai chuyến rồi!"
11
Ông
Ít-ra-en, cha họ, bảo: "Nếu vậy thì các con cứ làm thế này: hãy đem trong
bao bị một số đặc sản địa phương và đưa xuống làm quà cho ông ấy: ít nhũ hương,
ít mật ong, nhựa thơm và mộc dược, đào lạc và hạnh nhân. 12 Hãy đem
theo số bạc gấp đôi, vì chúng con phải giao lại số bạc mà có khi vì lầm lẫn
người ta đã đặt lại vào miệng bao. 13 Hãy đưa em các con đi theo và
lên đường trở lại với ông ấy. 14 Xin Thiên Chúa toàn năng làm cho
ông ấy chạnh lòng thương các con, mà để cho người anh em kia và Ben-gia-min
cùng về với các con. Còn cha, nếu phải mất con, thì cha đành chịu mất
vậy!"
Cuộc
gặp gỡ tại nhà ông Giu-se
15
Những
người này lấy những món quà đó, mang theo số bạc gấp đôi, và đem Ben-gia-min
theo. Họ đứng lên, xuống Ai-cập và vào trình diện ông Giu-se. 16 Khi
ông Giu-se thấy Ben-gia-min cùng đến với họ, thì nói với người quản gia của
ông: "Anh đưa những người này về nhà, giết một con vật, và làm các món ăn,
vì những người này sẽ dùng bữa với tôi trưa nay.” 17 Người này làm
như ông Giu-se truyền, ông ta đưa họ về nhà ông Giu-se.
18
Họ
sợ hãi khi bị đưa về nhà ông Giu-se, họ nói: "Chúng ta bị đưa đi vì chuyện
số bạc đã được trả lại trong bao lúa của chúng ta lần trước. Người ta sắp xông
tới, nhảy bổ vào chúng ta, bắt chúng ta làm nô lệ, và lấy lừa của chúng ta.” 19
Họ lại gần người quản gia của ông Giu-se và nói với ông ở lối vào nhà: 20
"Thưa ngài, xin xá lỗi, lần trước chúng tôi đã xuống mua lương thực.
21 Nhưng khi chúng tôi tới nơi dừng lại nghỉ đêm và mở các bao lúa
của chúng tôi, thì mỗi người thấy số bạc của mình ở miệng bao lúa của mình,
chính số bạc chúng tôi đã cân; chúng tôi lại đem đến đây. 22 Chúng
tôi cũng đem theo số bạc khác xuống để mua lương thực. Chúng tôi không biết ai
đã để số bạc của chúng tôi vào bao lúa chúng tôi.” 23 Người quản gia
nói: "Các ông cứ an tâm, đừng sợ. Chính Thiên Chúa của các ông, Thiên Chúa
của cha các ông, đã đặt cho các ông một kho tàng trong các bao lúa của các ông.
Số bạc của các ông đã đến tay tôi rồi." Sau đó ông dẫn ông Si-mê-ôn ra cho
họ.
24
Ông
đưa họ vào nhà ông Giu-se, đem nước cho họ rửa chân và lấy cỏ cho lừa của họ ăn.
25 Họ bày quà ra, trong khi chờ ông Giu-se về vào buổi trưa, vì họ
nghe rằng họ sẽ dùng bữa ở đó.
26
Khi
ông Giu-se vào nhà, họ dâng ông quà họ đã mang theo vào nhà đó, và sụp xuống
đất lạy ông. 27 Ông vấn an họ và nói: "Các người đã nói đến cha
già của các người, ông cụ có được bình an không? Ông cụ còn sống không?” 28
Họ đáp: "Tôi tớ ngài, là cha của chúng tôi, vẫn được bình an, người
vẫn còn sống." Rồi họ quỳ sụp xuống lạy. 29 Ngước mắt lên, ông
thấy Ben-gia-min, người em cùng mẹ với ông, ông liền hỏi: "Ðây là đứa em út
mà các người đã nói với ta, có phải không?", đoạn ông nói: "Con ơi,
xin Thiên Chúa đoái thương con.” 30 Trông thấy em, ông xúc động
nghẹn ngào, rồi đi vội vào phòng riêng mà khóc. 31 Sau đó, ông rửa
mặt và đi ra; ông cầm lòng mà nói: "Dọn bữa lên!” 32 Người ta
dọn riêng cho ông, riêng cho họ và riêng cho những người Ai-cập cùng ăn với
ông, vì người Ai-cập không thể dùng bữa với người Híp-ri: đó là điều ghê tởm
đối với người Ai-cập. 33 Các anh em ngồi đối diện với ông, anh cả
ngồi vào chỗ anh cả, em út ngồi vào chỗ em út, và họ nhìn nhau kinh ngạc. 34
Ông truyền đem cho họ những phần thức ăn dọn trước mặt ông, nhưng phần
của Ben-gia-min thì nhiều gấp năm phần của tất cả những người khác. Họ cùng với
ông ăn uống say sưa.
Chương 44
Chén
bạc của ông Giu-se trong bao của ông Ben-gia-min
1
Ông
Giu-se truyền cho người quản gia của ông: "Anh hãy đổ đầy bao lúa của mấy
người này; họ mang được bao nhiêu thì đổ cho họ bấy nhiêu, rồi bạc của người
nào thì đặt vào miệng bao của người ấy. 2 Chén của tôi cái chén bạc,
thì anh đặt vào miệng bao lúa của đứa út, cùng với số bạc mua lúa của nó."
Người quản gia làm như lời ông dặn.
3
Khi
trời sáng, người ta để cho các anh em ra đi, cùng với lừa của họ. 4 Họ
vừa ra khỏi thành, chưa được bao xa, thì ông Giu-se bảo người quản gia của ông:
"Ðứng lên! hãy rượt theo những người kia, và khi đuổi kịp thì bảo họ:
"Sao các ông lại lấy oán đền ơn? 5 Ðó chẳng phải là đồ vật chủ tôi dùng để
uống và để bói toán sao? Các ông làm như vậy là xấu!"
6
Người
ấy đuổi kịp họ và nói với họ những lời trên. 7 Họ đáp: "Sao
ngài lại nói những lời lẽ như vậy? Không đời nào các tôi tớ ngài lại làm một
chuyện như thế! 8 Ngài coi: số bạc chúng tôi đã tìm thấy ở miệng các bao lúa
của chúng tôi, chúng tôi đã đem từ đất Ca-na-an đến trả lại cho ngài. Làm sao
chúng tôi lại có thể lấy trộm bạc hay vàng trong nhà ông chủ ngài được? 9 Hễ
tìm thấy đồ vật đó nơi ai, thì người ấy phải chết; còn chúng tôi sẽ làm nô lệ
cho ngài.” 10 Người quản gia nói: "Thôi được, cứ như lời các
ông. Hễ tìm thấy đồ vật đó nơi ai, thì người ấy phải làm nô lệ cho tôi còn các
ông sẽ vô can.” 11 Ai nấy vội vàng hạ bao lúa của mình xuống đất,
rồi mở bao ra. 12 Người quản gia lục soát, bắt đầu từ người anh cả
và kết thúc nơi người em út. Cái chén được tìm thấy trong bao lúa của
Ben-gia-min. 13 Họ xé áo mình ra, rồi mỗi người chất đồ lên lưng lừa
của mình và trở về thành.
14
Khi
ông Giu-đa và các anh em vào nhà ông Giu-se, thì ông còn đang ở đó, và họ cúi
rạp xuống đất, trước mặt ông. 15 Ông Giu-se nói với họ: "Các
người làm gì vậy? Các người không biết rằng một người như ta phải có tài bói
toán sao?” 16 Ông Giu-đa nói: "Chúng tôi biết thưa gì với ngài,
nói năng làm sao, tự biện hộ thế nào? Thiên Chúa đã phơi bày tội của các tôi tớ
ngài ra. Chúng tôi xin làm nô lệ cho ngài, cả chúng tôi lẫn người bị tìm thấy
đang giữ cái chén.” 17 Ông Giu-se nói: "Không đời nào ta làm
điều ấy! Người bị tìm thấy đang giữ cái chén, thì sẽ phải làm nô lệ cho ta, còn
các người thì cứ về bình an với cha các người."
Ông
Giu-đa can thiệp
18
Bấy
giờ, ông Giu-đa lại gần ông và nói: "Thưa ngài, xin xá lỗi. Xin cho tôi tớ
ngài được nói một lời thấu đến tai ngài. Xin ngài đừng trút cơn thịnh nộ xuống
tôi tớ ngài: quả thật, ngài ngang hàng với Pha-ra-ô. 19 Ngài đã hỏi
các tôi tớ ngài rằng: "Các người còn cha hay anh em nào không?” 20 Chúng
tôi đã thưa với ngài: "Chúng tôi có cha già và một đứa em út, sinh ra lúc
người đã già; thằng anh cùng mẹ với nó đã chết, chỉ còn lại mình nó, nên người
thương nó. 21 Ngài đã bảo các tôi tớ ngài: "Các người đưa nó
xuống cho ta, để ta nhìn thấy nó tận mắt.” 22 Chúng tôi đã thưa với
ngài: "Thằng bé không thể rời cha, nếu nó rời cha, thì người sẽ chết mất!”
23 Nhưng ngài đã bảo các tôi tớ ngài: "Nếu em út các người
không cùng xuống với các người, thì các người sẽ không được gặp mặt ta nữa.” 24
Vậy khi chúng tôi về với tôi tớ ngài, là cha của tôi, thì chúng tôi đã
nói lại với người những lời của ngài. 25 Cha chúng tôi bảo:
"Hãy trở lại mua ít lương thực về.” 26 Chúng tôi trả lời:
"Chúng con không thể xuống đó được. Nếu có em út cùng đi với chúng con, thì
chúng con mới xuống; vì chúng con không thể gặp mặt ông ấy, nếu em út không
cùng đi với chúng con.” 27 Tôi tớ ngài, là cha của tôi, nói với
chúng tôi: "Các con biết rằng vợ của cha đã sinh cho cha hai đứa. 28 Một
đứa đã lìa cha, và cha đã nói: Ðúng là nó đã bị xé xác, và cho đến nay cha
chẳng được nhìn lại nó. 29 Nếu các con đem cả đứa này đi xa cha, và
nó gặp tai hoạ, thì các con sẽ làm cho kẻ bạc đầu này phải đau khổ mà xuống âm
phủ.” 30 Vậy bây giờ nếu tôi về với tôi tớ ngài, là cha của tôi, mà
không có thằng bé cùng về với chúng tôi, bởi vì người chỉ sống khi nó sống, 31
thì khi thấy là không có thằng bé, người sẽ chết mất. Các tôi tớ ngài sẽ
làm cho kẻ bạc đầu, là tôi tớ ngài và là cha của chúng tôi, phải buồn sầu mà
xuống âm phủ. 32 Trước mặt cha tôi, tôi tớ ngài đã bảo lãnh cho
thằng bé và nói: "Nếu con không đưa nó về cho cha, thì con sẽ đắc tội với
cha suốt đời.” 33 Vậy bây giờ, tôi tớ ngài xin ở lại làm nô lệ ngài
thế cho thằng bé, còn thằng bé thì xin cho về với các anh nó. 34 Thật
vậy, tôi về với cha tôi thế nào được, nếu thằng bé không cùng đi với tôi? Tôi
không thể nào chứng kiến tai hoạ sẽ giáng xuống cha tôi!"
Chương 45
Ông
Giu-se tỏ cho anh em nhận ra mình
1
Ông
Giu-se không thể cầm lòng trước mặt tất cả những người đứng bên ông, nên ông kêu
lên: "Bảo mọi người ra khỏi đây!" Khi không còn người nào ở với ông,
ông Giu-se mới tỏ cho anh em nhận ra mình. 2 Ông oà lên khóc và
người Ai-cập nghe được, triều đình Pha-ra-ô cũng nghe thấy.
3
Ông
Giu-se nói với anh em: "Tôi là Giu-se đây! Cha tôi còn sống không?"
Nhưng anh em không thể trả lời: thấy mình đối diện với ông, họ bàng hoàng. 4
Ông Giu-se nói với anh em: "Hãy lại gần tôi." Họ lại gần. Ông
nói: "Tôi là Giu-se, đứa em mà các anh đã bán sang Ai-cập. 5 Nhưng
bây giờ, các anh đừng buồn phiền, đừng hối hận vì đã bán tôi sang đây: chính là
để duy trì sự sống mà Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em. 6 Thật
vậy, đây là năm thứ hai có nạn đói trong xứ, và sẽ còn năm năm nữa không cày
không gặt. 7 Thiên Chúa đã gửi tôi đi trước anh em, để giữ cho anh em
một số người sống sót trong xứ, và để cứu sống anh em, nhằm thực hiện cuộc giải
thoát vĩ đại. 8 Vậy không phải các anh đã gửi tôi đến đây, nhưng là
Thiên Chúa. Người đã đặt tôi làm cha của Pha-ra-ô, làm chúa tất cả triều đình,
và làm tể tướng trên khắp cõi Ai-cập.
9
"Anh
em hãy mau về với cha tôi và thưa người rằng: "Con trai cha là Giu-se nói
thế này: Thiên Chúa đã đặt con làm chúa toàn cõi Ai-cập; xin cha xuống đây với
con, đừng trì hoãn. 10 Cha sẽ ở đất Gô-sen và sẽ ở gần con, cha và
các con cháu, chiên bò và tất cả những gì cha có. 11 Tại đó con sẽ
cấp dưỡng cho cha, để cha khỏi bị thiếu thốn, cha, gia đình cha và mọi người
thuộc về cha, vì còn năm năm đói kém nữa. 12 Các anh và em tôi là
Ben-gia-min cũng thấy tận mắt là chính tôi đang mở miệng nói với anh em. 13
Các anh hãy kể lại cho cha tôi biết tất cả vinh hoa của tôi ở Ai-cập, và
tất cả những gì các anh đã thấy; rồi mau đưa cha xuống đây."
14
Bấy
giờ, ông bá cổ Ben-gia-min, em ông, mà khóc; Ben-gia-min cũng gục vào cổ ông mà
khóc. 15 Rồi ông hôn tất cả các anh và ôm họ mà khóc, sau đó anh em
ông nói chuyện với ông.
Pha-ra-ô
mời gia đình ông Gia-cóp sang Ai-cập
16
Tiếng
đồn lan ra trong triều đình Pha-ra-ô rằng: "Anh em ông Giu-se đã
đến!" Ðiều đó làm hài lòng Pha-ra-ô cũng như triều thần. 17 Pha-ra-ô
nói với ông Giu-se: "Ông hãy nói với anh em ông: Các ông làm thế này: Hãy
chất đồ lên lưng súc vật của các ông và đi về đất Ca-na-an. 18 Hãy
đón cha các ông và gia đình các ông đến với ta. Ta sẽ cho các ông cái gì tốt
nhất trong xứ Ai-cập, và các ông sẽ được hưởng màu mỡ của xứ này. 19 Còn
ông, hãy chuyển lệnh này cho họ: Các ông làm thế này: Hãy đem xe từ Ai-cập về
chở đàn bà con trẻ của các ông, rước cha các ông, và đến đây. 20 Các
ông đừng luyến tiếc những đồ đạc các ông bỏ lại, bởi vì những gì tốt nhất của
toàn xứ Ai-cập sẽ thuộc về các ông."
Anh
em ông Giu-se trở về đất Ca-na-an
21
Các
con trai ông Ít-ra-en đã làm như thế. Theo lệnh Pha-ra-ô, ông Giu-se đã cấp cho
họ những chiếc xe; ông cũng cho họ lương thực ăn đường. 22 Ông tặng
mỗi người một bộ quần áo, còn Ben-gia-min thì ông tặng ba trăm đồng tiền bạc và
năm bộ quần áo. 23 Cũng vậy, ông gửi cho cha ông mười con lừa chở
những thứ tốt nhất của Ai-cập, và mười con lừa cái chở lúa mì, bánh và lương
thực để cha dùng khi đi đường. 24 Rồi ông tiễn anh em đi và họ lên
đường; ông bảo họ: "Ðừng cãi cọ dọc đường."
25
Họ
từ Ai-cập lên và về với ông Gia-cóp, cha họ, ở đất Ca-na-an. 26 Họ
báo cho ông: "Giu-se còn sống, và hiện làm tể tướng trên khắp cõi
Ai-cập!" Nhưng lòng ông không hề xúc động, vì ông không tin họ. 27 Khi
họ thưa lại với ông tất cả những lời ông Giu-se đã nói với họ, và ông thấy xe
cộ ông Giu-se đã cho về rước ông, thì tâm thần ông Gia-cóp, cha họ, mới hồi
sinh. 28 Ông Ít-ra-en nói: "Thế là đủ! Giu-se, con cha, vẫn còn
sống! Cha sẽ đi để nhìn thấy nó trước khi chết!"
Chương 46
Ông
Gia-cóp lên đường đi Ai-cập
1
Ông
Ít-ra-en lên đường, đem theo tất cả những gì ông có. Ông đến Bơ-e Se-va và ông
dâng những lễ tế lên Thiên Chúa của cha ông là I-xa-ác. 2 Thiên Chúa
phán với ông Ít-ra-en trong thị kiến ban đêm, Người phán: "Gia-cóp!
Gia-cóp!" Ông thưa: "Dạ, con đây!” 3 Người phán: "Ta
là En, Thiên Chúa của cha ngươi. Ðừng sợ xuống Ai-cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho
ngươi thành một dân lớn. 4 Chính Ta sẽ xuống Ai-cập với ngươi và
chính Ta cũng sẽ đưa ngươi lên. Giu-se sẽ vuốt mắt cho ngươi.” 5 Ông
Gia-cóp rời Bơ-e Se-va. Các con trai ông Ít-ra-en đã chở ông Gia-cóp, cha họ,
và đàn bà con trẻ của họ trên những chiếc xe Pha-ra-ô đã gửi đến để rước ông
đi.
6
Họ
đem theo các đàn vật của họ và các tài sản họ đã gây được ở đất Ca-na-an, và họ
đến Ai-cập, ông Gia-cóp và tất cả dòng dõi ông cùng với ông: 7 các
con trai, cháu nội trai, con gái, cháu nội gái của ông. Ông đưa tất cả dòng dõi
ông vào Ai-cập với ông.
Gia
đình ông Gia-cóp
8
Sau
đây là tên con cái Ít-ra-en đã đến Ai-cập: Ông Gia-cóp và các con trai ông. Con
đầu lòng của ông Gia-cóp: Rưu-vên. 9 Các con trai ông Rưu-vên:
16
Các
con trai ông Gát: Xíp-giôn, Khác-ghi, Su-ni, Ét-bôn, Ê-ri, A-rô-đi, Ác-ê-li. 17
Các con trai ông A-se: Gim-na, Gít-va, Gít-vi, Bơ-ri-a, và em gái họ là
Xe-rác. Các con trai ông Bơ-ri-a: Khe-ve, Man-ki-ên. 18 Ðó là các
con trai bà Din-pa, người mà ông La-ban đã cho bà Lê-a, con gái ông. Bà đã sinh
cho ông Gia-cóp những người ấy: mười sáu người.
19
Các
con trai bà Ra-khen, vợ ông Gia-cóp: Giu-se và Ben-gia-min. 20 Ở xứ
Ai-cập, ông Giu-se có thêm Mơ-na-se và Ép-ra-im, mà bà Át-nát, con gái ông
Pô-ti Phê-ra, tư tế thành Ôn, đã sinh cho ông. 21 Các con trai ông
Ben-gia-min: Be-la, Be-khe, Át-bên, Ghê-ra, Na-a-man, Ê-khi, Rốt, Múp-pim,
Khúp-pim, Ác-đơ. 22 Ðó là các con trai mà bà Ra-khen đã sinh cho ông
Gia-cóp, tổng cộng là mười bốn người.
23
Con
trai ông Ðan: Khu-sim. 24 Các con trai ông Náp-ta-li: Giác-xơ-ên,
Gu-ni, Giê-xe, Si-lêm. 25 Ðó là các con trai bà Bin-ha, người mà ông
La-ban đã cho bà Ra-khen, con gái ông. Bà đã sinh cho ông Gia-cóp những người
ấy: tổng cộng là bảy người.
26
Tất
cả những người thuộc về ông Gia-cóp, tức là dòng giống của ông, đã đến Ai-cập,
không kể các con dâu ông Gia-cóp, tổng cộng là sáu mươi sáu người. 27 Con
trai ông Giu-se sinh được tại Ai-cập: hai người. Những người thuộc gia đình ông
Gia-cóp đã đến Ai-cập: tổng cộng là bảy mươi người.
Ông
Giu-se đón tiếp cha
28
Ông
Gia-cóp đã sai ông Giu-đa đi trước, đến với ông Giu-se, để ông Giu-se tới
Gô-sen gặp ông. Khi họ đến đất Gô-sen, 29 thì ông Giu-se cho thắng
xe riêng và lên Gô-sen đón ông Ít-ra-en, cha ông. Khi hai cha con vừa thấy
nhau, thì ông Giu-se bá cổ cha và gục đầu vào cổ cha mà khóc hồi lâu. 30 Ông
Ít-ra-en nói với ông Giu-se: "Phen này, cha chết cũng được, sau khi đã
thấy mặt con, và thấy con còn sống."
31
Ông
Giu-se nói với anh em ông và gia đình cha ông: "Tôi sẽ lên báo tin cho
Pha-ra-ô và tâu vua rằng: "Anh em tôi và gia đình cha tôi ở đất Ca-na-an
đã đến với tôi. 32 Những người này làm nghề chăn chiên, vì họ chuyên
nuôi súc vật; họ đã đem chiên bò và tất cả những gì họ có đến đây.” 33 Vậy
khi Pha-ra-ô triệu anh em đến và hỏi: "Các ông làm nghề gì?", 34
anh em sẽ thưa: "Từ thuở bé đến giờ, các tôi tớ ngài chuyên nuôi súc
vật, chúng tôi cũng như cha ông chúng tôi." Như vậy anh em sẽ có thể ở đất
Gô-sen; bởi vì người Ai-cập ghê tởm mọi người làm nghề chăn chiên."
Chương 47
Vào
chầu Pha-ra-ô
1
Ông
Giu-se vào báo tin cho Pha-ra-ô, ông nói: "Cha tôi, anh em tôi, cùng với
chiên bò và tất cả những gì họ có, đã từ đất Ca-na-an đến, và họ đang ở đất
Gô-sen.” 2 Ông chọn năm người trong số các anh em và dẫn vào yết
kiến Pha-ra-ô. 3 Pha-ra-ô hỏi anh em ông: "Các ông làm nghề
gì?" Họ thưa với Pha-ra-ô: "Các tôi tớ ngài làm nghề chăn chiên,
chúng tôi cũng như cha ông chúng tôi.” 4 Họ thưa với Pha-ra-ô:
"Chúng tôi đến trú ngụ trong đất này, vì ở đất Ca-na-an không còn cỏ ngoài
đồng cho chiên dê của các tôi tớ ngài ăn, và nạn đói trở nên trầm trọng. Vậy
bây giờ, xin cho các tôi tớ ngài được ở đất Gô-sen."
5
Pha-ra-ô
nói với ông Giu-se rằng: "Cha và anh em ông đã đến với ông. 6 Ðất
Ai-cập mở ra trước mặt ông, ông hãy cho cha và anh em ông ở chỗ tốt nhất trong
xứ. Họ cứ việc ở đất Gô-sen. Nếu ông biết trong số những người ấy có ai tài
giỏi, thì ông hãy đặt họ làm người trông coi những đàn vật của ta."
7
Ông
Giu-se đưa ông Gia-cóp, cha ông, vào trình diện Pha-ra-ô. Ông Gia-cóp chúc phúc
cho Pha-ra-ô. 8 Pha-ra-ô hỏi ông Gia-cóp: "Cụ được bao nhiêu
tuổi rồi?” 9 Ông Gia-cóp trả lời Pha-ra-ô: "Cuộc đời phiêu bạt
của tôi mới được một trăm ba mươi năm, đó là những năm tháng ngắn ngủi và khổ
cực, không được như cuộc đời của cha ông tôi, những người cũng sống phiêu bạt.”
10 Ông Gia-cóp chúc phúc cho Pha-ra-ô và cáo biệt Pha-ra-ô. 11 Ông
Giu-se cho cha và anh em ông định cư, cấp cho họ đất đai làm sở hữu trong xứ
Ai-cập, ở chỗ tốt nhất trong xứ, tại đất Ram-xết, như Pha-ra-ô đã truyền.
12
Ông
Giu-se cấp dưỡng cho cha ông, anh em ông và tất cả gia đình cha ông, ít nhiều
tuỳ theo số con cái họ.
Chính
sách điền địa của ông Giu-se
13
Trong
khắp xứ không còn bánh ăn, vì nạn đói trở nên rất trầm trọng. Xứ Ai-cập và xứ
Ca-na-an bị nạn đói làm cho kiệt quệ. 14 Ông Giu-se thu tất cả bạc có
ở xứ Ai-cập và xứ Ca-na-an, tức là bạc người ta dùng để mua lúa, và ông đưa vào
triều đình Pha-ra-ô.
15
Khi
xứ Ai-cập và xứ Ca-na-an hết bạc, thì mọi người Ai-cập đến nói với ông Giu-se
rằng: "Xin ngài cho chúng tôi bánh ăn! Sao chúng tôi lại phải chết trước
mặt ngài vì không còn bạc?” 16 Ông Giu-se đáp: "Nếu không còn
bạc, thì các người hãy nộp các đàn vật của các người, và ta sẽ cho các người
bánh, đổi lấy đàn vật của các người.” 17 Vậy họ đưa các đàn vật của
họ đến cho ông Giu-se, và ông đã cho họ bánh, đổi lấy ngựa, lấy đàn chiên dê,
đàn bò và lấy lừa. Năm đó, ông cung cấp bánh cho họ, đổi lấy tất cả những đàn
vật của họ.
18
Năm
ấy qua đi, năm sau họ lại đến với ông và nói: "Thưa ngài, chúng tôi chẳng
dám giấu gì ngài: bạc đã hết, và đàn gia súc đã thuộc về ngài. Trước mặt ngài
chỉ còn thân xác chúng tôi và đất đai chúng tôi. 19 Lẽ nào chúng tôi
phải chết trước mặt ngài, cả chúng tôi, cả đất đai chúng tôi? Xin ngài lấy bánh
mà mua chúng tôi và đất đai chúng tôi; chúng tôi cùng với đất đai chúng tôi sẽ
làm nô lệ cho Pha-ra-ô. Xin ngài cho chúng tôi hạt giống, để chúng tôi sống chứ
không phải chết, và đất đai khỏi bị bỏ hoang."
20
Ông
Giu-se đã mua cho Pha-ra-ô tất cả đất đai của Ai-cập: mọi người Ai-cập bán thửa
đất của mình, vì bị nạn đói thúc bách. Và đất về tay Pha-ra-ô. 21 Còn
dân thì ông đưa vào các thành, từ đầu đến cuối lãnh thổ Ai-cập. 22 Chỉ
có đất của các tư tế là ông không mua, vì các tư tế được trợ cấp nhất định của
Pha-ra-ô, và họ sống nhờ trợ cấp nhất định Pha-ra-ô ban; do đó họ không phải bán
đất đai của họ.
23
Ông
Giu-se bảo dân: "Hôm nay tôi đã mua các người và đất các người cho
Pha-ra-ô. Ðây là hạt giống cho các người, để các người gieo xuống đất. 24 Nhưng
đến mùa, các người sẽ nộp một phần năm cho Pha-ra-ô, còn bốn phần kia sẽ là của
các người, để làm hạt giống gieo vào đồng ruộng, để làm lương thực cho các
người, cho những người trong nhà và cho trẻ nhỏ.” 25 Họ nói:
"Ngài đã cứu sống chúng tôi. Chúng tôi mong được đẹp lòng ngài, và sẽ làm
nô lệ cho Pha-ra-ô.” 26 Ông Giu-se đặt điều ấy thành luật vẫn còn
giá trị cho đến ngày nay đối với đất đai của Ai-cập, là phải nộp một phần năm
cho Pha-ra-ô. Chỉ có đất đai của các tư tế là không thuộc về Pha-ra-ô.
Những
lời trối trăng của ông Gia-cóp
27
Ông
Ít-ra-en ở xứ Ai-cập, trong đất Gô-sen. Con cháu ông tậu đất đai ở đó làm sở
hữu, họ sinh sôi nảy nở thật nhiều. 28 Ông Gia-cóp sống ở xứ Ai-cập
mười bảy năm. Tuổi đời của ông là một trăm bốn mươi bảy năm. 29 Khi
gần đến ngày ông Ít-ra-en qua đời, ông gọi con là Giu-se đến và bảo: "Nếu
cha được đẹp lòng con, thì con hãy đặt tay dưới đùi cha và hãy tỏ ra có tình có
nghĩa với cha: đừng chôn cha tại Ai-cập. 30 Khi cha đã nằm xuống với
cha ông, con hãy đưa cha ra khỏi Ai-cập và chôn cha trong phần mộ của các
ngài." Ông Giu-se thưa: "Con sẽ làm như lời cha dạy.” 31 Ông
Ít-ra-en nói: "Con thề với cha đi!" Ông Giu-se thề với cha và ông
Ít-ra-en sụp xuống lạy ở đầu giường.
Chương 48
Ông
Gia-cóp nhận hai người con ông Giu-se làm con và chúc phúc cho chúng
1
Sau
các việc đó, người ta nói với ông Giu-se: "Cha ông bị bệnh." Ông đưa
hai con trai là Mơ-na-se và Ép-ra-im đến. 2 Người ta báo cho ông
Gia-cóp rằng: "Có ông Giu-se, con cụ, đến thăm cụ." Ông Ít-ra-en cố
gượng dậy ngồi trên giường. 3 Ông Gia-cóp nói với ông Giu-se:
"Thiên Chúa toàn năng đã hiện ra với cha ở Lút trong đất Ca-na-an và chúc
phúc cho cha. 4 Người đã phán với cha: "Ðây Ta làm cho ngươi
sinh sôi nảy nở thật nhiều. Ta sẽ làm cho ngươi thành một cộng đồng nhiều dân
nước, và sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi về sau làm sở hữu vĩnh viễn. 5 Bây
giờ hai đứa con trai con đã sinh được tại xứ Ai-cập trước khi cha đến Ai-cập
với con, sẽ là của cha: Ép-ra-im và Mơ-na-se sẽ là của cha như Rưu-vên và
Si-mê-ôn. 6 Còn những đứa con mà con sinh ra sau hai đứa ấy sẽ là
của con; chúng sẽ được gọi bằng tên hai anh chúng để được hưởng gia tài.
7
"Phần
cha, khi từ Pát-đan về, cha đã mất bà Ra-khen, trong đất Ca-na-an, khi còn cách
Ép-ra-tha một quãng đường; cha đã chôn người tại đó, trên đường đi Ép-ra-tha,
tức là Bê-lem."
8
Khi
ông Ít-ra-en thấy các con trai ông Giu-se, thì hỏi: "Những đứa này là ai?”
9 Ông Giu-se thưa cha: "Chúng là những con trai mà Thiên Chúa
đã ban cho con ở đây." Ông Ít-ra-en nói tiếp: "Ðem chúng đến cho cha,
để cha chúc phúc cho chúng.” 10 Mắt ông Ít-ra-en đã mờ vì tuổi già,
ông không thể nhìn thấy nữa. Ông Giu-se đưa chúng lại gần ông, ông hôn và ôm
chúng. 11 Ông Ít-ra-en nói với ông Giu-se: "Cha không nghĩ rằng
lại nhìn thấy mặt con, thế mà Thiên Chúa lại cho cha nhìn thấy cả dòng dõi con
nữa!” 12 Ông Giu-se kéo chúng ra khỏi đầu gối ông Ít-ra-en và cúi
sấp mặt xuống đất.
13
Ông
Giu-se nắm lấy cả hai đứa, Ép-ra-im ở tay phải ông, tức là tay trái ông
Ít-ra-en, Mơ-na-se ở tay trái ông, tức là tay phải ông Ít-ra-en, và đưa chúng
đến gần ông Ít-ra-en. 14 Ông Ít-ra-en đưa tay phải ra, đặt lên đầu
Ép-ra-im là em, và đặt tay trái lên đầu Mơ-na-se; ông bắt tréo tay, vì Mơ-na-se
là con cả. 15 Ông chúc phúc cho ông Giu-se rằng:
16
"Xin
Sứ thần là Ðấng đã giải thoát cha khỏi mọi tai hoạ, chúc phúc cho những đứa trẻ
này.
Ước
gì nhờ chúng, tên tuổi của cha và của cha ông cha là Áp-ra-ham và I-xa-ác được
nhắc tới, và ước gì chúng lan tràn khắp xứ!"
17
Ông
Giu-se thấy cha đặt tay phải lên đầu Ép-ra-im thì không bằng lòng, nên ông cầm
tay cha kéo ra khỏi đầu Ép-ra-im mà đưa lên đầu Mơ-na-se. 18 Ông
Giu-se nói với cha: "Thưa cha, xin đừng làm thế, vì thằng này mới là con
đầu lòng, xin cha đặt tay phải lên đầu nó.” 19 Nhưng cha ông từ chối
và nói: "Cha biết, con ơi, cha biết: nó cũng sẽ trở thành một dân, và nó
cũng sẽ lớn. Nhưng em nó sẽ lớn hơn nó và dòng dõi của em nó sẽ thành rất nhiều
dân tộc."
20
Ngày
đó, ông chúc phúc cho chúng rằng: "Ước gì Ít-ra-en lấy tên con mà chúc
phúc và nói: Xin Thiên Chúa làm cho bạn nên như Ép-ra-im và như Mơ-na-se!"
21
Rồi
ông Ít-ra-en nói với ông Giu-se: "Này cha sắp chết, nhưng Thiên Chúa sẽ ở
với các con và sẽ đưa các con về quê cha đất tổ. 22 Còn cha, cha cho
con thêm một phần hơn các anh em con, là thành Si-khem cha đã dùng gươm và cung
của cha mà chiếm được từ tay người E-mô-ri."
Chương 49
Những
lời chúc phúc của ông Gia-cóp
1
Ông
Gia-cóp gọi các con trai lại và nói: "Hãy tập họp lại để cha báo cho các
con điều sẽ xảy đến cho các con sau này.
2
Hỡi
các con của Gia-cóp, hãy tụ tập lại mà nghe,
hãy
nghe Ít-ra-en, cha các con.
3
Rưu-vên,
con là con đầu lòng của cha,
là
sức mạnh của cha, là tinh hoa của sinh lực cha,
địa
vị con trổi vượt, thế lực con trổi vượt.
4
Dù
mạnh như nước cuốn, con sẽ không trổi vượt,
vì
con đã trèo lên chỗ cha con nằm,
khi
ấy con đã xúc phạm đến nơi chăn gối của cha con.
5
Si-mê-ôn
và Lê-vi là hai anh em;
chúng
đã dùng gươm mà bạo động.
6
Tôi
sẽ không đồng lòng với phe nhóm chúng,
không
nhất trí với bè lũ chúng,
vì
trong cơn giận, chúng đã giết người,
trong
lúc hung hăng, chúng đã cắt gân bò mộng.
7
Ðáng
nguyền rủa thay cơn giận dữ của chúng, vì nó vũ phu,
đáng
nguyền rủa thay cơn lôi đình của chúng, vì nó tàn bạo!
Tôi
sẽ phân tán chúng trong nhà Gia-cóp,
sẽ
làm chúng tản mác trong dân Ít-ra-en.
8
Giu-đa,
con sẽ được anh em con ca tụng,
tay
con sẽ đặt trên ót các địch thù,
anh
em cùng cha với con sẽ sụp xuống lạy con.
9
Giu-đa
là sư tử con. Con ơi, săn mồi xong con lại trở về.
Nó
quỳ xuống, nằm phục như sư tử
và
như sư tử cái: ai sẽ làm cho nó đứng dậy?
10
Vương
trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa,
gậy
chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó,
cho
tới khi người làm chủ vương trượng đến,
người
mà muôn dân phải vâng phục.
11
Người
buộc con lừa của mình vào gốc nho,
buộc
lừa con của mình vào cây nho quý.
Người
lấy rượu giặt áo, lấy máu trái nho giặt áo choàng.
12
Mắt
người sẫm hơn rượu, răng người trắng hơn sữa.
13
Dơ-vu-lun
ở trên bờ biển, nơi tàu bè ghé bến,
sườn
của nó đụng tới Xi-đôn.
14
Ít-xa-kha
là con lừa xương cốt mạnh mẽ,
nằm
giữa chuồng súc vật:
15
Nó
thấy rằng nghỉ ngơi là tốt, và xứ sở tươi xinh.
Nó
khòm lưng chở nặng, nó phải làm việc khổ sai như tôi đòi.
16
Ðan
xét xử dân nó, như một trong các chi tộc Ít-ra-en.
17
Ước
gì Ðan là một con rắn trên đường, một con rắn lục ở lối đi,
cắn
gót chân ngựa, khiến người cưỡi phải ngã ngửa.
18
Lạy
Ðức Chúa, con trông chờ ơn Ngài cứu độ!
19
Gát
bị một bọn cướp cướp nó, nhưng nó đuổi theo cướp lại.
20
A-se
làm bánh có nhiều chất béo,
nó
cung cấp cao lương mỹ vị cho vua.
21
Náp-ta-li
là nai cái thả rong,
đẻ
ra những nai con xinh đẹp.
22
Giu-se
là cây sai quả, cây sai quả bên suối;
các
cành nó vượt qua tường.
23
Những
người bắn cung đã khiêu khích,
đã
bắn tên và tấn công nó.
24
Nhưng
cây cung của nó vẫn vững vàng,
và
những cánh tay của nó vẫn lanh lẹ,
nhờ
tay Ðấng Vạn Năng của Gia-cóp,
nhờ
danh Vị Mục Tử, Tảng đá của Ít-ra-en.
25
Xin
Thiên Chúa của cha con phù trợ con,
Xin
Thiên Chúa toàn năng chúc phúc cho con!
Phúc
lành của trời ở trên cao,
phúc
lành của vực thẳm ở phía dưới,
phúc
lành của nhũ hoa và tử cung!
26
Phúc
lành của cha con trổi vượt,
hơn
cả phúc lành của núi non vạn đại,
và
ước nguyện của gò nổng thiên thu.
Ước
chi những phúc lành ấy xuống trên đầu Giu-se,
trên
đỉnh đầu người được thánh hiến giữa anh em mình.
27
Ben-gia-min
là chó sói hay cắn xé,
buổi
sáng nó ăn mồi, buổi chiều nó chia phần cướp được."
28
Ðó
là tất cả mười hai chi tộc Ít-ra-en, và đó là điều mà cha họ đã nói với họ; ông
chúc phúc cho họ, chúc cho mỗi người một lời chúc phúc riêng.
Ông
Gia-cóp qua đời
29
Ông
truyền cho họ rằng: "Cha sắp được về sum họp với gia tiên. Hãy chôn cất
cha bên cạnh cha ông của cha, trong cái hang ở cánh đồng của ông Ép-rôn, người
Khết, 30 trong cái hang ở cánh đồng Mác-pê-la, đối diện với Mam-rê,
tại đất Ca-na-an, cánh đồng ông Áp-ra-ham đã tậu của ông Ép-rôn, người Khết,
làm miếng đất riêng dành cho phần mộ. 31 Ở đó đã chôn ông Áp-ra-ham
và vợ ông là bà Xa-ra; ở đó đã chôn ông I-xa-ác và vợ ông là bà Rê-bê-ca; ở đó
cha đã chôn bà Lê-a. 32 Cánh đồng và cái hang ở đó đã tậu của con
cái ông Khết."
33
Khi
truyền lệnh cho các con trai ông xong, thì ông Gia-cóp rút chân lên giường; ông
tắt thở và được về sum họp với gia tiên.
Chương 50
Ðám
tang ông Gia-cóp
1
Ông
Giu-se gục vào mặt cha mà khóc và hôn cha. 2 Rồi ông Giu-se truyền
cho các thầy thuốc vẫn giúp việc ông, ướp xác cha ông. Các thầy thuốc ướp xác
ông Ít-ra-en. 3 Việc đó kéo dài bốn mươi ngày, vì việc ướp xác phải
kéo dài bấy nhiêu ngày.
4
Khi
thời gian khóc ông đã qua, ông Giu-se nói với triều đình Pha-ra-ô rằng:
"Nếu tôi được đẹp lòng các ông, thì xin các ông nói thấu tai Pha-ra-ô như
sau: 5 "Cha tôi đã bắt tôi thề, người nói: Này cha sắp chết.
Trong ngôi mộ cha đã đào cho cha ở đất Ca-na-an, con hãy chôn cất cha ở
đó." Bây giờ tôi xin được lên đó chôn cất cha tôi, rồi tôi sẽ trở lại.” 6
Pha-ra-ô nói: "Cứ lên mà chôn cất cha ông, như cụ đã bắt ông
thề."
7
Ông
Giu-se lên chôn cất cha. Toàn thể triều thần Pha-ra-ô, các quan lớn trong triều
đình, và toàn thể kỳ mục xứ Ai-cập cùng lên với ông, 8 cũng như gia
đình ông Giu-se, các anh em ông và gia đình cha ông. Họ chỉ để lại ở đất Gô-sen
trẻ con và chiên bò của họ. 9 Cùng lên với ông có cả chiến xa và kỵ
binh: đó là một đoàn người đông đảo.
10
Khi
đến Gô-ren Ha-a-tát ở bên kia sông Gio-đan, họ cử hành tang lễ lớn và rất long
trọng. Ông Giu-se làm lễ chôn cất cha trong bảy ngày. 11 Dân bản xứ,
tức là người Ca-na-an, thấy đám ma ở Gô-ren Ha-a-tát thì nói: "Ðó là một
đám ma long trọng của người Ai-cập." Vì vậy người ta đặt tên cho nơi ấy là
A-vên Mít-ra-gim, một nơi ở bên kia sông Gio-đan.
12
Các
con trai ông Gia-cóp làm cho ông như ông đã truyền cho họ. 13 Các
con trai ông đưa ông về đất Ca-na-an và chôn cất ông trong cái hang ở cánh đồng
Mác-pê-la, cánh đồng ông Áp-ra-ham đã tậu của ông Ép-rôn, người Khết, làm miếng
đất riêng dành cho phần mộ, đối diện với Mam-rê.
14
Sau
khi chôn cất cha, ông Giu-se trở lại Ai-cập, ông, các anh em ông và tất cả
những người đã cùng lên với ông để chôn cất cha ông.
Từ
khi ông Gia-cóp qua đời đến khi ông Giu-se qua đời
15
Các
anh ông Giu-se thấy cha mình đã chết thì bảo nhau: "Không khéo Giu-se còn
hận chúng ta và trả lại cho chúng ta tất cả điều ác chúng ta đã gây ra cho nó!”
16 Họ sai người đến nói với ông: "Cha của chú trước khi chết đã
truyền rằng: 17 Các con hãy nói thế này với Giu-se: "Thôi! Xin
con tha tội tha lỗi cho các anh con, vì họ đã gây ra điều ác cho con." Bây
giờ xin chú tha tội cho các kẻ làm tôi Thiên Chúa của cha chú!" Ông Giu-se
khóc, khi họ nói với ông như thế.
18
Các
anh ông đích thân đến cúi rạp xuống trước mặt ông và nói: "Này chúng tôi
là nô lệ của chú.” 19 Ông Giu-se nói với họ: "Ðừng sợ! Tôi đâu
có thay quyền Thiên Chúa! 20 Các anh đã định làm điều ác cho tôi, nhưng Thiên
Chúa lại định cho nó thành điều tốt, để thực hiện điều xảy ra hôm nay, là cứu
sống một dân đông đảo. 21 Bây giờ các anh đừng sợ, tôi sẽ cấp dưỡng
cho các anh và con cái các anh." Ông an ủi và chuyện trò thân mật với họ.
22
Ông
Giu-se, ông và gia đình cha ông ở bên Ai-cập. Ông Giu-se sống được một trăm
mười tuổi. 23 Ông được thấy con cháu của Ép-ra-im đến ba đời. Cả các
con của Ma-khia - ông này là con của Mơ-na-se -, cũng sinh ra trên đầu gối ông
Giu-se. 24 Ông Giu-se nói với các anh em: "Tôi sắp chết, nhưng
thế nào Thiên Chúa cũng sẽ viếng thăm anh em và đưa anh em từ đất này lên đất
mà Người đã thề hứa với ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp.” 25 Ông
Giu-se bắt con cái Ít-ra-en thề, ông nói: "Thế nào Thiên Chúa cũng sẽ
viếng thăm anh em, bấy giờ anh em sẽ đưa hài cốt tôi lên khỏi đây."
26
Ông
Giu-se qua đời, thọ một trăm mười tuổi. Người ta ướp xác ông và đặt ông vào một
quan tài ở Ai-cập.
Xuất Hành
Chương 01
I.
Công Cuộc Giải Thoát Khỏi Ai-Cập
1.
Dân Ít-Ra-En Bên Ai-Cập
Cảnh
sống thịnh vượng của người Híp-ri ở Ai-cập
1
Sau
đây là tên những con cái Ít-ra-en đã đến Ai-cập với ông Gia-cóp, mỗi người đem
theo gia đình mình: 2 Rưu-vên, Si-mê-ôn, Lê-vi và Giu-đa, 3 Ít-xa-kha,
Dơ-vu-lun và Ben-gia-min, 4 Ðan và Náp-ta-li, Gát và A-se. 5 Dòng
giống ông Gia-cóp tính tất cả là bảy mươi người; ông Giu-se thì đang ở bên
Ai-cập. 6 Rồi ông Giu-se qua đời, cũng như anh em ông và tất cả thế
hệ đó. 7 Con cái Ít-ra-en sinh sôi nảy nở, nên đông đúc và ngày càng
hùng mạnh: họ lan tràn khắp xứ.
Dân
Híp-ri bị áp bức
8
Thời
ấy có một vua mới lên trị vì nước Ai-cập, vua này không biết ông Giu-se. 9
Vua nói với dân mình: "Này đám dân con cái Ít-ra-en đông đúc và hùng
mạnh hơn chúng ta. 10 Chúng ta hãy dùng những biện pháp khôn ngoan
đối với dân đó, đừng để chúng nên đông đúc, kẻo khi có chiến tranh, chúng hùa
với địch mà đánh lại chúng ta, rồi ra khỏi xứ.” 11 Người ta bèn đặt
lên đầu lên cổ họ những viên đốc công, để hành hạ họ bằng những việc khổ sai;
họ phải xây cho Pha-ra-ô các thành làm kho lương thực là Pi-thôm và Ram-xết. 12
Nhưng chúng càng hành hạ họ, thì họ càng nên đông đúc và lan tràn, khiến
chúng đâm ra sợ con cái Ít-ra-en. 13 Người Ai-cập cưỡng bách con cái
Ít-ra-en lao động cực nhọc. 14 Chúng làm cho đời sống họ ra cay đắng
vì phải lao động cực nhọc: phải trộn hồ làm gạch, phải làm đủ thứ công việc
đồng áng; tóm lại, tất cả những việc lao động cực nhọc, chúng đều cưỡng bách họ
làm.
15
Vua
Ai-cập nói với những bà đỡ đi giúp sản phụ Híp-ri, một bà tên là Síp-ra, một bà
tên là Pu-a: 16 "Khi đỡ cho sản phụ Híp-ri, các người hãy xem
đứa trẻ là trai hay gái. Nếu là trai thì giết đi, nếu là gái thì để cho sống.” 17
Nhưng các bà đỡ có lòng kính sợ Thiên Chúa, nên không làm như vua Ai-cập
đã truyền, và cứ để cho con trai sống. 18 Vua Ai-cập bèn gọi các bà
đỡ đến và hỏi: "Tại sao các ngươi làm thế và cứ để cho con trai sống?” 19
Các bà đỡ thưa với Pha-ra-ô: "Ðàn bà Híp-ri không như đàn bà Ai-cập,
họ khoẻ lắm: bà đỡ chưa kịp đến thì họ đã sinh rồi.” 20 Thiên Chúa
ban ơn lành cho các bà đỡ; còn dân thì trở nên đông đúc và rất hùng mạnh. 21
Vậy, vì các bà đỡ có lòng kính sợ Thiên Chúa, nên Người đã cho họ có con
để nối dòng.
22
Pha-ra-ô
ra lệnh cho toàn dân của mình: "Mọi con trai Híp-ri sinh ra, hãy ném xuống
sông Nin; mọi con gái thì để cho sống."
Chương 02
2.
Thời Niên Thiếu Và Ơn Gọi Của Ông Mô-Sê
Ông
Mô-sê chào đời
1
Có
một người thuộc dòng họ Lê-vi đi lấy một người con gái cũng thuộc họ Lê-vi. 2
Người đàn bà ấy thụ thai và sinh một con trai. Thấy đứa bé kháu khỉnh,
nàng giấu nó ba tháng trời. 3 Khi không thể giấu lâu hơn được nữa,
nàng lấy một cái thúng cói, trét hắc ín và nhựa chai, bỏ đứa bé vào, rồi đặt
thúng trong đám sậy ở bờ sông Nin. 4 Chị đứa bé đứng đàng xa để xem
cho biết cái gì sẽ xảy ra cho em nó. 5 Có nàng công chúa của
Pha-ra-ô xuống tắm dưới sông, trong khi các thị nữ đi đi lại lại trên bờ. Nàng
thấy chiếc thúng ở giữa đám sậy, thì sai con hầu đi lấy. 6 Mở thúng
ra, nàng thấy đứa trẻ: thì ra là một bé trai đang khóc. Nàng động lòng thương
nó và nói: "Thằng này là một trong những đứa trẻ Híp-ri.” 7 Chị
đứa bé thưa với công chúa của Pha-ra-ô: "Bà có muốn con đi gọi cho bà một
vú nuôi người Híp-ri, để nuôi đứa bé cho bà không?” 8 Công chúa của
Pha-ra-ô trả lời: "Cứ đi đi!" Người con gái liền đi gọi mẹ đứa bé. 9
Công chúa của Pha-ra-ô bảo bà ấy: "Chị đem đứa bé này về nuôi cho
tôi. Chính tôi sẽ trả công cho chị." Người đàn bà mang ngay đứa bé về nuôi.
10 Khi đứa bé lớn lên, bà đưa nó đến cho công chúa của Pha-ra-ô.
Nàng coi nó như con và đặt tên là Mô-sê; nàng nói: "Ðó là vì ta đã vớt nó
lên khỏi nước."
Ông
Mô-sê trốn sang Ma-đi-an
11
Hồi
đó, ông Mô-sê đã lớn, ông ra ngoài thăm anh em đồng bào và thấy những việc khổ
sai họ phải làm. Ông thấy một người Ai-cập đang đánh một người Híp-ri, anh em
đồng bào của ông. 12 Nhìn trước nhìn sau không thấy có ai, ông liền
giết người Ai-cập, rồi vùi dưới cát. 13 Hôm sau, ông lại đi ra, gặp
hai người Híp-ri đang xô xát nhau, ông nói với người có lỗi: "Tại sao anh
lại đánh người đồng chủng?” 14 Người đó trả lời: "Ai đã đặt ông
lên làm người lãnh đạo và xét xử chúng tôi? Hay là ông tính giết tôi như đã
giết tên Ai-cập?" Ông Mô-sê phát sợ và tự bảo: "Vậy ra người ta đã
biết chuyện rồi!” 15 Nghe biết chuyện này, Pha-ra-ô tìm cách giết
ông Mô-sê. Ông Mô-sê liền đi trốn Pha-ra-ô và ở lại miền Ma-đi-an. Ông ngồi bên
bờ giếng.
16
Thầy
tư tế Ma-đi-an có bảy người con gái. Các cô đến múc nước và đổ đầy máng cho
chiên của cha mình uống. 17 Bấy giờ, có những người chăn chiên đến
và đuổi các cô đi. Ông Mô-sê liền đứng lên bênh vực các cô và cho chiên uống. 18
Các cô về với cha là ông Rơ-u-ên. Ông hỏi: "Sao hôm nay các con về
sớm thế?” 19 Các cô thưa: "Có một người Ai-cập đã cứu chúng con
khỏi tay bọn chăn chiên, lại còn múc nước giùm chúng con và cho chiên uống nữa.”
20 Người cha hỏi các con: "Thế người đó đâu rồi? Sao lại bỏ
người ta ở đấy? Mời người ta đến dùng bữa đi!” 21 Ông Mô-sê bằng
lòng ở lại với thầy tư tế, và ông này gả con gái là Xíp-pô-ra cho ông. 22 Nàng
sinh một con trai và ông đặt tên cho nó là Ghéc-sôm, vì ông nói: "Tôi là
ngoại kiều nơi đất khách quê người."
Thiên
Chúa nhớ tới dân Ít-ra-en
23
Sau
những năm dài ấy, vua Ai-cập qua đời. Con cái Ít-ra-en rên siết trong cảnh nô
lệ. Họ ta thán, và tiếng họ kêu từ cảnh nô lệ đã thấu tới Thiên Chúa. 24 Thiên
Chúa đã nghe tiếng họ than van và Thiên Chúa nhớ lại giao ước của Người với các
tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. 25 Thiên Chúa đã nhìn thấy con
cái Ít-ra-en và Thiên Chúa đã biết.
Chương 03
Thiên
Chúa gọi ông Mô-sê từ bụi cây bốc cháy
1
Bấy
giờ ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn
chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp. 2 Thiên
sứ của Ðức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn
thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. 3 Ông
tự bảo: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây
lại không cháy rụi?” 4 Ðức Chúa thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi
cây Thiên Chúa gọi ông: "Mô-sê! Mô-sê!" Ông thưa: "Dạ, tôi đây!”
5 Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi
đang đứng là đất thánh.” 6 Người lại phán: "Ta là Thiên Chúa
của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của
Gia-cóp." Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.
Sứ
mạng của ông Mô-sê
7
Ðức
Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe
tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của
chúng. 8 Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa
chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và
mật, xứ sở của người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút. 9
Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta; Ta cũng đã
thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Ai-cập. 10 Bây giờ, ngươi
hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi
Ai-cập."
11
Ông
Mô-sê thưa với Thiên Chúa: "Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ô và đưa con
cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập?” 12 Người phán: "Ta sẽ ở với
ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi: khi ngươi đưa dân ra
khỏi Ai-cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này."
Mặc
khải danh Thiên Chúa
13
Ông
Mô-sê thưa với Thiên Chúa: "Bây giờ, con đến gặp con cái Ít-ra-en và nói
với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi
con: Tên Ðấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?” 14 Thiên
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ta là Ðấng Hiện Hữu." Người phán:
"Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: "Ðấng Hiện Hữu sai tôi đến
với anh em.” 15 Thiên Chúa lại phán với ông Mô-sê: "Ngươi sẽ
nói với con cái Ít-ra-en thế này: Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em,
Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai
tôi đến với anh em. Ðó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi
sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia."
Chỉ
thị về sứ mạng của ông Mô-sê
16
"Ngươi
hãy đi triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en và nói với họ: Ðức Chúa, Thiên Chúa của
cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, của I-xa-ác, của Gia-cóp, đã hiện ra
với tôi và phán: Ta đã thật sự quan tâm đến các ngươi và cách người ta đối xử
với các ngươi bên Ai-cập. 17 Ta đã phán: Ta sẽ cho các ngươi thoát
cảnh khổ cực bên Ai-cập mà lên miền đất người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri,
Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút, lên miền đất tràn trề sữa và mật. 18 Họ
sẽ nghe tiếng ngươi, rồi ngươi sẽ đi với các kỳ mục Ít-ra-en đến cùng vua
Ai-cập, các ngươi sẽ nói với vua ấy rằng: Ðức Chúa, Thiên Chúa của người
Híp-ri, đã cho chúng tôi được gặp Người. Giờ đây, xin cho chúng tôi đi ba ngày
đường vào sa mạc để tế lễ Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi. 19 Ta thừa
biết rằng vua Ai-cập sẽ không cho các ngươi đi, trừ phi là có một bàn tay mạnh
mẽ can thiệp. 20 Ta sẽ ra tay, sẽ làm mọi thứ phép lạ giữa dân
Ai-cập để đánh nó, và sau đó vua ấy sẽ cho các ngươi đi.
Tước
đoạt của cải người Ai-cập
21
"Ta
sẽ cho dân này được lòng người Ai-cập; nên khi ra đi, các ngươi sẽ chẳng ra đi
tay không. 22 Mỗi người đàn bà sẽ xin đàn bà láng giềng và người ở
chung một nhà những đồ bạc, đồ vàng, và áo xống. Các ngươi sẽ cho con trai con
gái các ngươi mang những thứ đó. Như vậy là các ngươi tước đoạt của cải người
Ai-cập."
Chương 04
Ông
Mô-sê làm dấu lạ
1
Ông
Mô-sê đáp: "Họ sẽ không tin con đâu, họ sẽ không nghe lời con, vì họ sẽ
nói: Ðức Chúa chẳng có hiện ra với ông.” 2 Ðức Chúa phán với ông:
"
6
Ðức
Chúa còn phán với ông: "Hãy luồn tay vào ngực ngươi!" Ông luồn tay
vào ngực, rồi rút tay ra. Và này tay ông bị phong cùi, trắng như tuyết. 7 Người
phán: "Hãy lại cho tay vào ngực ngươi!" - Ông lại cho tay vào ngực,
rồi rút ra khỏi ngực. Thì này tay ông trở lại như da thịt của ông. - 8
"Như thế, nếu họ không tin ngươi và không hiểu ý nghĩa của dấu thứ nhất,
thì họ sẽ tin dấu thứ hai. 9 Mà nếu họ cũng không tin cả hai dấu ấy
và không nghe tiếng ngươi, thì ngươi sẽ lấy nước sông Nin mà đổ trên đất khô.
Nước ngươi đã lấy dưới sông Nin sẽ hoá thành máu trên đất khô."
Ông
A-ha-ron, phát ngôn viên của ông Mô-sê
10
Ông
Mô-sê thưa với Ðức Chúa: "Lạy Chúa, xin xá lỗi cho con, từ hồi nào đến
giờ, ngay cả từ lúc Chúa ban lời cho tôi tớ Ngài, con không phải là kẻ có tài
ăn nói, vì con cứng miệng cứng lưỡi.” 11 Ðức Chúa phán: "Ai cho
con người có mồm có miệng? Ai làm cho nó phải câm phải điếc, cho mắt nó sáng
hay phải mù loà? Há chẳng phải là Ta, Ðức Chúa, đó sao? 12 Vậy bây giờ ngươi
hãy đi, chính Ta sẽ ngự nơi miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi phải nói những
gì."
13
Ông
thưa: "Lạy Chúa, xin xá lỗi cho con, xin Chúa sai ai làm môi giới thì sai.”
14 Ðức Chúa nổi giận với ông Mô-sê; Người phán: "Nào chẳng có
A-ha-ron, anh ngươi, là người Lê-vi đó sao? Ta biết: nó ăn nói được lắm; hơn
nữa, kìa nó ra đón ngươi, và khi thấy ngươi, lòng nó sẽ hoan hỷ. 15 Ngươi
sẽ nói với anh ngươi và đặt lời lẽ vào miệng nó. Chính Ta sẽ ngự nơi miệng
ngươi và nơi miệng nó. Ta sẽ chỉ cho các ngươi những gì các ngươi phải làm. 16
Chính anh ngươi sẽ thay ngươi mà nói với dân. Chính nó sẽ là miệng của
ngươi; còn ngươi, ngươi sẽ là một vị thần đối với nó. 17 Cây gậy này,
ngươi hãy cầm lấy trong tay; ngươi sẽ dùng nó mà làm các dấu lạ."
Ông
Mô-sê rời Ma-đi-an trở về Ai-cập
18
Ông
Mô-sê ra đi, trở về với bố vợ là ông Gít-rô và nói: "Xin để con đi về với
anh em con bên Ai-cập xem họ còn sống hay không." Ông Gít-rô trả lời ông
Mô-sê: "Anh đi bình an!"
19
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê ở Ma-đi-an: "Ði đi, hãy trở về Ai-cập, bởi vì mọi
kẻ tìm cách làm hại mạng sống ngươi đã chết cả rồi.” 20 Ông Mô-sê
đem vợ và con cái đi theo, cho họ cỡi lừa và trở về đất Ai-cập. Ông Mô-sê cầm cây
gậy của Thiên Chúa trong tay. 21 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê:
"Khi ngươi ra đi để trở về Ai-cập, ngươi hãy nhìn xem: mọi điều lạ lùng Ta
đã ban cho ngươi có quyền làm, thì ngươi sẽ làm trước mặt Pha-ra-ô. Nhưng Ta,
Ta sẽ làm cho nó cứng lòng và nó sẽ không thả cho dân đi!” 22 Bấy
giờ, ngươi sẽ nói với Pha-ra-ô: "Ðức Chúa phán thế này: Con đầu lòng của
Ta là Ít-ra-en. 23 Ta đã phán với ngươi: Hãy thả con Ta ra để nó đi
thờ phượng Ta. Nhưng ngươi đã từ chối không thả nó đi, thì này chính Ta sẽ giết
chết con đầu lòng của ngươi."
Con
ông Mô-sê được cắt bì
24
Vậy
dọc đường, tại nơi ông dừng lại nghỉ đêm, Ðức Chúa bắt gặp ông và tìm cách giết
ông. 25 Bấy giờ, bà Xíp-pô-ra lấy mảnh đá sắc cắt bì cho con, đụng
vào chân ông, rồi nói: "Nhờ máu, ông đã kết nghĩa vợ chồng với tôi.” 26
Và Ðức Chúa tha cho ông. Bà nói: "Nhờ máu, ông đã kết nghĩa vợ chồng
với tôi" là vì phép cắt bì.
Ông
Mô-sê gặp ông A-ha-ron
27
Ðức
Chúa phán với ông A-ha-ron: "Ngươi hãy đi vào sa mạc đón Mô-sê." Ông
đi và gặp ông Mô-sê trên núi của Thiên Chúa; ông đã ôm hôn ông Mô-sê. 28 Ông
Mô-sê cho ông A-ha-ron biết mọi lời Ðức Chúa đã sai ông nói, và mọi dấu lạ
Người đã truyền cho ông làm. 29 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron đi triệu
tập mọi kỳ mục của con cái Ít-ra-en. 30 Ông A-ha-ron nói tất cả
những lời Ðức Chúa đã ngỏ cùng ông Mô-sê và làm những dấu lạ trước mắt dân. 31
Và dân đã tin. Họ đã hiểu là Ðức Chúa đến viếng thăm con cái Ít-ra-en và
nhìn thấy cảnh khổ cực của họ. Và họ đã phủ phục mà thờ lạy.
Chương 05
Cuộc
hội kiến đầu tiên với Pha-ra-ô
1
Sau
đó, ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến nói với Pha-ra-ô: "Ðức Chúa, Thiên Chúa
của Ít-ra-en, phán thế này: Hãy thả cho dân Ta đi, để chúng mở lễ kính Ta trong
sa mạc.” 2 Pha-ra-ô đáp: "Ðức Chúa là ai, khiến ta phải nghe
lời mà thả cho Ít-ra-en đi? Ta chẳng biết Ðức Chúa, cũng sẽ không thả cho
Ít-ra-en đi.” 3 Hai ông nói: "Thiên Chúa của người Híp-ri đã
hiện ra với chúng tôi. Xin cho chúng tôi đi ba ngày đường vào sa mạc để tế lễ
Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi; nếu không, Người sẽ dùng dịch hạch hay gươm
giáo mà giết chết chúng tôi.” 4 Vua Ai-cập nói với các ông:
"Mô-sê và A-ha-ron, sao các ngươi lại muốn xúi dân bỏ việc? Ði lao động
đi!” 5 Pha-ra-ô nói: "Bây giờ dân trong nước thì đông, mà các
ngươi lại muốn cho chúng nghỉ lao động!"
Chỉ
thị cho các ông cai
6
Ngày
hôm đó, Pha-ra-ô ra lệnh cho các ông cai và ký lục: 7 "Ðừng
cung cấp rơm cho dân để làm gạch như trước nữa. Chúng phải tự mình đi lượm rơm
mà làm. 8 Cứ bắt chúng phải nộp đủ số gạch như chúng vẫn làm trước
đây, đừng giảm bớt chi cả. Chúng là quân lười biếng, vì thế mà chúng hô lên:
Nào chúng ta đi tế lễ Thiên Chúa chúng ta! 9 Phải giao cho bọn người ấy những
công việc thật nặng nhọc để chúng lo làm, mà khỏi chú ý vào những lời dối
trá."
10
Các
ông cai và ký lục ra ngoài nói với dân: "Pha-ra-ô phán thế này: Ta không
cung cấp rơm cho các ngươi nữa. 11 Các ngươi thấy rơm ở đâu thì phải
tự mình đi kiếm lấy. Nhưng công việc thì không được giảm bớt chút nào.” 12
Dân liền đi tản mác khắp nước Ai-cập, để lượm rạ thay rơm. 13 Các
ông cai thúc họ: "Làm cho xong việc đi! Mỗi ngày phải đủ số, y như khi có
rơm!” 14 Người ta đánh đập và hạch sách các ký lục của con cái
Ít-ra-en, mà các ông cai của Pha-ra-ô đã đặt lên trông coi dân: "Tại sao
hôm qua và hôm nay, các anh đã không làm đủ số gạch ấn định như trước
kia?"
Các
ký lục của người Ít-ra-en than phiền
15
Các
ký lục của con cái Ít-ra-en đến kêu với Pha-ra-ô: "Tại sao bệ hạ lại xử
với các bề tôi như thế? 16 Rơm thì người ta không cung cấp cho bề tôi nữa, mà
lại bảo: Sản xuất gạch đi! Bệ hạ coi: người ta đánh bề tôi, như thể dân của bệ
hạ đây có lỗi.” 17 Vua đáp: "Các ngươi là quân lười biếng, quân
lười biếng! Vì thế, các ngươi mới nói: chúng ta hãy đi tế lễ Ðức Chúa. 18 Bây
giờ đi làm việc đi! Sẽ không cung cấp rơm cho các ngươi nữa, nhưng gạch thì các
ngươi vẫn phải nộp cho đủ số."
Dân
than trách. Ông Mô-sê kêu cầu.
19
Các
ký lục của con cái Ít-ra-en thấy mình ở trong hoàn cảnh khó xử, khi người ta
bảo họ: "Không được bớt số gạch phải làm. Ngày nào phải đủ số ngày đó!” 20
Ra khỏi đền Pha-ra-ô, họ gặp ngay ông Mô-sê và ông A-ha-ron đang đứng chờ
họ. 21 Họ nói với hai ông: "Xin Ðức Chúa chứng giám và xét xử
cho: các ông đã làm cho chúng tôi trở nên đáng ghét trước mắt Pha-ra-ô và bề
tôi của vua; thật các ông đã trao gươm vào tay họ để giết chúng tôi.” 22 Ông
Mô-sê hướng về Ðức Chúa và thưa: "Lạy Chúa, tại sao Ngài đã làm khổ dân
này? Tại sao Ngài đã sai con đi? 23 Từ khi con đến với Pha-ra-ô để nhân danh
Ngài mà nói, thì vua ấy làm khổ dân này, và Ngài chẳng giải thoát dân Ngài gì
cả!"
Chương 06
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Giờ đây ngươi sắp thấy điều Ta làm cho Pha-ra-ô:
Bị áp lực của một bàn tay mạnh mẽ, vua ấy sẽ phải thả cho họ đi; bị áp lực của
một bàn tay mạnh mẽ, vua ấy sẽ đuổi họ ra khỏi nước."
Trình
thuật khác về việc Thiên Chúa gọi ông Mô-sê
2
Thiên
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ta là Ðức Chúa. 3 Ta đã hiện ra với
Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp với tư cách là Thiên Chúa Toàn Năng, nhưng Ta đã
không cho họ biết danh của Ta là Ðức Chúa. 4 Ta lại còn lập giao ước
của Ta với họ để ban cho họ đất Ca-na-an, là đất khách quê người, nơi họ sống
như những khách lạ. 5 Chính Ta đã nghe thấy tiếng rên siết của con
cái Ít-ra-en đang bị người Ai-cập bắt làm nô lệ, và Ta đã nhớ lại giao ước của
Ta. 6 Vì vậy, ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en: Ta là Ðức Chúa. Ta
sẽ cứu các ngươi khỏi phải làm việc khổ sai cho người Ai-cập, sẽ giải thoát các
ngươi khỏi làm nô lệ chúng. Ta sẽ giơ cánh tay, dùng uy quyền mà chuộc các
ngươi lại. 7 Ta sẽ nhận các ngươi làm dân riêng của Ta, và đối với
các ngươi, Ta sẽ là Thiên Chúa. Các ngươi sẽ biết rằng Ta, Ðức Chúa, là Thiên
Chúa các ngươi, Ðấng cứu các ngươi khỏi phải làm việc khổ sai cho người Ai-cập.
8 Ta sẽ đưa các ngươi vào miền đất mà Ta đã giơ tay thề sẽ ban cho
Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Ta sẽ ban đất ấy cho các ngươi làm sở hữu. Ta là
Ðức Chúa.” 9 Ông Mô-sê nói thế với con cái Ít-ra-en, nhưng họ không
nghe ông Mô-sê, vì ách nô lệ quá nặng nề làm cho họ kiệt sức.
10
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 11 "Hãy đi nói với Pha-ra-ô, vua
Ai-cập, để vua ấy thả con cái Ít-ra-en ra khỏi nước.” 12 Nhưng ông
Mô-sê thưa trước nhan Ðức Chúa: "Chúa coi: con cái Ít-ra-en đã không nghe
con; làm sao Pha-ra-ô lại nghe con, một người ăn nói không được dễ dàng?” 13
Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron, truyền cho hai ông đến gặp
con cái Ít-ra-en và gặp Pha-ra-ô, vua Ai-cập, để đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi
nước Ai-cập.
Gia
phả ông Mô-sê và ông A-ha-ron
14
Ðây
là những người làm đầu các gia tộc của họ: con cái ông Rưu-vên, trưởng nam của
Ít-ra-en:
15
Con
cái ông Si-mê-ôn: Giơ-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-khin, Xô-kha, Sa-un, con của
người đàn bà Ca-na-an. Ðó là các thị tộc của ông Si-mê-ôn.
16
Ðây
là tên con cái ông Lê-vi, theo thứ tự trước sau: Ghéc-sôn, Cơ-hát, Mơ-ra-ri.
Ông Lê-vi sống được một trăm ba mươi bảy tuổi. 17 Con cái của
Ghéc-sôn: Líp-ni và Sim-y, với các thị tộc của họ.
18
Con
cái ông Cơ-hát: Am-ram, Gít-ha, Khép-rôn và Út-di-ên. Ông Cơ-hát sống được một
trăm ba mươi ba tuổi.
19
Con
cái ông Mơ-ra-ri: Mác-li và Mu-si. Ðó là các thị tộc của ông Lê-vi theo thứ tự
trước sau.
20
Ông
Am-ram lấy cô mình là bà Giô-khe-vét làm vợ. Bà đã sinh được cho ông hai người
con là ông A-ha-ron và ông Mô-sê. Ông Am-ram sống được một trăm ba mươi bảy
tuổi.
21
Con
cái ông Gít-ha: Cô-rắc, Ne-phéc và Dích-ri.
22
Con
cái ông Út-di-ên: Mi-sa-ên, En-xa-phan và Xít-ri.
23
Ông
A-ha-ron lấy bà Ê-li-se-va làm vợ. Bà là con gái ông Am-mi-na-đáp và là em gái
của ông Nác-sôn. Bà đã sinh được cho ông mấy người con: Na-đáp, A-vi-hu,
E-la-da và I-tha-ma.
24
Con
cái ông Cô-rắc: Át-xia, En-ca-na, A-vi-a-xáp. Ðó là các thị tộc của dòng họ
Cô-rắc.
25
Ông
E-la-da, con ông A-ha-ron, lấy một trong những người con gái của ông Pu-ti-ên
làm vợ. Bà đã sinh được cho ông một người con là Pin-khát.
Ðó
là những người làm đầu các gia tộc Lê-vi, với các thị tộc của họ.
26
Chính
các ông A-ha-ron và Mô-sê đã được nghe Ðức Chúa phán bảo: "Hãy đem con cái
Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập theo binh ngũ của chúng.” 27 Chính các
ông Mô-sê và A-ha-ron đã nói với Pha-ra-ô, vua Ai-cập, để đem con cái Ít-ra-en
ra khỏi Ai-cập.
Trình
thuật tiếp về việc Thiên Chúa gọi ông Mô-sê
28
Vào
ngày Ðức Chúa phán với ông Mô-sê ở đất Ai-cập, 29 Ðức Chúa phán với
ông Mô-sê: "Ta là Ðức Chúa. Ngươi hãy nói lại với Pha-ra-ô, vua Ai-cập,
tất cả những gì Ta nói với ngươi.” 30 Ông Mô-sê thưa trước nhan Ðức
Chúa: "Chúa coi: con là người ăn nói không được dễ dàng, làm sao vua
Pha-ra-ô nghe con?"
Chương 07
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Coi này, Ta làm cho ngươi nên một vị thần đối
với Pha-ra-ô, còn A-ha-ron, anh ngươi, sẽ là ngôn sứ của ngươi. 2 Chính
ngươi sẽ nói tất cả những gì Ta truyền cho ngươi, và A-ha-ron, anh ngươi, sẽ
nói lại với Pha-ra-ô để vua ấy thả con cái Ít-ra-en ra khỏi nước của vua. 3
Nhưng Ta, Ta sẽ làm cho Pha-ra-ô ra cứng lòng. Ta sẽ tăng thêm nhiều dấu
lạ điềm thiêng tại nước Ai-cập. 4 Pha-ra-ô sẽ không nghe các ngươi
đâu. Ta sẽ ra tay giáng phạt Ai-cập và sẽ dùng uy quyền mà đưa các binh ngũ của
Ta, là dân Ta, con cái Ít-ra-en, ra khỏi nước Ai-cập. 5 Bấy giờ
người Ai-cập sẽ biết rằng Ta là Ðức Chúa, khi Ta giương cánh tay chống lại
người Ai-cập và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi nước chúng."
6
Ông
Mô-sê và ông A-ha-ron làm như Ðức Chúa đã truyền cho các ông; các ông đã làm
như vậy. 7 Ông Mô-sê được tám mươi tuổi, còn ông A-ha-ron tám mươi
ba, khi các ông đến nói với Pha-ra-ô.
3.
Các Tai Ướng Ở Ai-Cập. Lễ Vượt Qua.
Cây
gậy biến thành con rắn
8
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: 9 "Nếu Pha-ra-ô bảo
các ngươi: Hãy làm một phép lạ xem, thì ngươi hãy nói với A-ha-ron: Anh cầm cây
gậy của anh, ném xuống trước mặt Pha-ra-ô, và gậy sẽ hoá thành một con rắn to.”
10 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron liền đến với Pha-ra-ô và làm như Ðức
Chúa đã truyền. Ông A-ha-ron ném cây gậy của mình xuống trước mặt Pha-ra-ô và
bề tôi của vua: gậy hoá thành một con rắn to. 11 Pha-ra-ô cũng triệu
các hiền sĩ và pháp sư đến; và các phù thủy Ai-cập cũng dùng phù phép của mình
mà làm như vậy: 12 mỗi người ném cây gậy của mình và gậy hoá thành
một con rắn to. Nhưng gậy của ông A-ha-ron nuốt gậy của họ. 13 Dù
vậy, Pha-ra-ô vẫn cứng lòng, không nghe ông Mô-sê và ông A-ha-ron, như Ðức Chúa
đã nói trước.
(1)
Nước biến thành máu
14
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Lòng Pha-ra-ô nặng nề cứng cỏi, vua không chịu
thả cho dân đi. 15 Ngươi hãy đến nói với Pha-ra-ô lúc sáng sớm, khi
nhà vua ra mé nước. Hãy đứng chờ để đón vua ở bên bờ sông Nin. Hãy cầm trong
tay cây gậy đã biến thành rắn. 16 Ngươi sẽ nói với vua ấy: Ðức Chúa,
Thiên Chúa của người Híp-ri, đã sai tôi nói với bệ hạ: Hãy thả dân Ta ra, để
chúng đi thờ phượng Ta trong sa mạc. Nhưng cho đến bây giờ bệ hạ đã không nghe.
17 Ðức Chúa phán thế này: Cứ dấu này các ngươi sẽ biết Ta là Ðức
Chúa. Tôi sẽ dùng cây gậy đang cầm trong tay mà đập nước sông, và nước sẽ hoá
thành máu. 18 Cá dưới sông sẽ chết, sông sẽ ra hôi thối, và người
Ai-cập sẽ không thể uống nước sông được nữa."
19
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron: Anh cầm lấy gậy của anh và
giơ tay trên mặt nước của Ai-cập, trên các sông ngòi, kinh rạch, hồ ao của nó,
trên tất cả những chỗ có nước, và nước sẽ hoá thành máu; trong cả nước Ai-cập
chỗ nào cũng có máu, trong thùng gỗ cũng như vại đá.” 20 Ông Mô-sê
và ông A-ha-ron làm như Ðức Chúa đã truyền. Ông A-ha-ron giơ gậy lên và đập
nước sông, trước mặt Pha-ra-ô và bề tôi của nhà vua. Tất cả nước sông liền biến
thành máu. 21 Cá dưới sông bị chết, sông ra hôi thối, và người
Ai-cập không thể uống nước sông được nữa; trong cả nước Ai-cập, chỗ nào cũng có
máu.
22
Nhưng
các phù thủy Ai-cập cũng dùng phù phép của mình mà làm như vậy. Lòng Pha-ra-ô
vẫn chai đá, vua không nghe hai ông, như Ðức Chúa đã nói trước. 23 Pha-ra-ô
trở về cung điện và cả đến chuyện đó vua cũng không thèm bận tâm. 24 Tất
cả người Ai-cập đào đất ở gần sông để tìm nước uống, vì không thể uống nước
sông. 25 Bảy ngày đã trôi qua sau khi Ðức Chúa giáng hoạ trên sông
Nin.
(2)
Ếch nhái
26
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đến gặp Pha-ra-ô và nói với vua ấy: Ðức Chúa
phán thế này: Hãy thả dân Ta ra, để họ đi thờ phượng Ta. 27 Nếu
ngươi không chịu thả cho họ đi, thì này Ta sẽ dùng nạn ếch nhái mà đánh phạt
toàn thể lãnh thổ ngươi. 28 Sông Nin sẽ nhung nhúc ếch nhái; chúng
sẽ ngoi lên, nhảy vào cung điện ngươi, vào phòng ngủ của ngươi, nhảy lên giường
ngươi, vào nhà bề tôi của ngươi và nhà dân ngươi, nhảy vào lò, vào cối nhồi bột
của ngươi. 29 Ếch nhái sẽ leo lên thân thể ngươi, thân thể dân ngươi
và mọi bề tôi của ngươi."
Chương 08
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron: Anh hãy cầm gậy giơ tay
trên sông ngòi và hồ ao, làm cho ếch nhái ngoi lên trên đất Ai-cập.” 2 Ông
A-ha-ron giơ tay trên mặt nước của Ai-cập và ếch nhái ngoi lên, lan tràn khắp
đất Ai-cập. 3 Các phù thủy dùng phù phép của mình cũng làm được như
thế: họ làm cho ếch nhái ngoi lên trên đất Ai-cập.
4
Pha-ra-ô
mới triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và bảo: "Hãy cầu xin Ðức Chúa đuổi
ếch nhái đi xa ta và dân ta, rồi ta sẽ thả dân ra để chúng đi tế lễ Ðức Chúa.” 5
Ông Mô-sê thưa với Pha-ra-ô: "Xin cho tôi được hân hạnh biết khi nào
tôi phải cầu xin cho bệ hạ, cho bề tôi và dân của bệ hạ, để ếch nhái rời khỏi
bệ hạ và cung điện, mà chỉ còn ở lại trong sông Nin.” 6 Vua trả lời:
"Ngày mai." Ông Mô-sê nói: "Sẽ xảy ra như lời bệ hạ xin, để bệ
hạ biết là chẳng có ai bằng Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi. 7 Ếch
nhái sẽ đi xa bệ hạ và cung điện, xa bề tôi và dân của bệ hạ, và sẽ chỉ còn ở
lại trong sông Nin.” 8 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron ra khỏi cung điện
vua Pha-ra-ô. Ông Mô-sê kêu lên Ðức Chúa về nạn ếch nhái Người đã gây ra để hại
Pha-ra-ô. 9 Ðức Chúa đã làm như lời ông Mô-sê xin, và ếch nhái chết
trong nhà, ngoài sân và ngoài đồng. 10 Người ta thu lại từng đống và
cả xứ nặc mùi hôi thối. 11 Thấy tạm yên, lòng Pha-ra-ô lại ra nặng
nề cứng cỏi, vua không nghe lời các ông, như Ðức Chúa đã nói trước.
(3)
Muỗi
12
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron: Anh hãy giơ gậy lên, rồi
đập xuống bụi dưới đất cho nó biến thành muỗi trong khắp đất Ai-cập.” 13 Hai
ông đã làm như thế: ông A-ha-ron giơ tay cầm gậy lên, rồi đập xuống bụi dưới
đất; liền có muỗi trên thân thể người ta và thú vật; tất cả bụi dưới đất biến
thành muỗi trong khắp đất Ai-cập. 14 Các phù thủy dùng phù phép của
mình cũng làm như thế để bắt muỗi phải ra khỏi đất Ai-cập, nhưng không được.
Muỗi cứ ở lại trên thân thể người ta và thú vật. 15 Các phù thủy
thưa với Pha-ra-ô: "Ðó là ngón tay của Thiên Chúa!" Nhưng lòng
Pha-ra-ô vẫn chai đá và vua không nghe hai ông, như Ðức Chúa đã nói trước.
(4)
Ruồi nhặng
16
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Sáng mai, hãy dậy sớm và đến đứng trước mặt
Pha-ra-ô; này vua ấy sẽ ra mé nước. Ngươi sẽ nói với vua: Ðức Chúa phán thế
này: Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ phượng Ta. 17 Nếu ngươi không
thả cho dân Ta đi, thì này Ta sẽ thả ruồi nhặng xuống trên ngươi và bề tôi
ngươi, trên dân và cung điện của ngươi. Nhà cửa Ai-cập sẽ đầy ruồi nhặng, ngay
cả đất đai nơi chúng ở cũng thế. 18 Nhưng trong ngày ấy, Ta sẽ chừa
ra đất Gô-sen là nơi dân Ta đang ở, để nơi đó không có ruồi nhặng, và để ngươi
biết rằng Ta là Ðức Chúa, Ta ngự giữa đất này. 19 Ta sẽ phân biệt
dân của Ta với dân của ngươi, nội ngày mai sẽ có dấu lạ đó.” 20 Và
Ðức Chúa đã làm như thế: một đám ruồi nhặng đen nghịt kéo vào cung điện Pha-ra-ô,
vào nhà cửa bề tôi của vua và toàn cõi đất Ai-cập; cả đất ấy bị ruồi nhặng tàn
phá.
21
Pha-ra-ô
liền triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và bảo: "Các ngươi cứ việc đi tế
lễ Thiên Chúa của các ngươi ngay trong đất này!” 22 Ông Mô-sê trả
lời: "Không nên làm như thế: những gì chúng tôi tế dâng Ðức Chúa, Thiên
Chúa chúng tôi, đều ghê tởm đối với người Ai-cập. Vậy nếu chúng tôi tế dâng
trước mắt người Ai-cập những gì là ghê tởm trước mắt họ, thì làm sao họ lại
không ném đá chúng tôi được? 23 Chúng tôi sẽ đi ba ngày đường để vào sa mạc tế
lễ Ðức Chúa là Thiên Chúa của chúng tôi, như Người phán với chúng tôi.” 24
Pha-ra-ô nói: "Ta, ta sẽ thả các ngươi ra, để các ngươi đi tế lễ Ðức
Chúa là Thiên Chúa của các ngươi, trong sa mạc; chỉ có điều là không được đi xa
quá. Các ngươi hãy cầu cho ta.” 25 Ông Mô-sê thưa: "Khi ra khỏi
nơi đây, tôi sẽ cầu Ðức Chúa. Ngày mai, ruồi nhặng sẽ rời khỏi bệ hạ, khỏi bề
tôi và dân của bệ hạ. Có điều là xin bệ hạ đừng phỉnh gạt hoài, không chịu thả
dân ra để họ đi tế lễ Ðức Chúa.” 26 Ông Mô-sê ra khỏi cung điện
Pha-ra-ô và khẩn cầu Ðức Chúa. 27 Ðức Chúa đã làm theo lời ông Mô-sê
xin: Người khiến ruồi nhặng rời khỏi Pha-ra-ô, khỏi bề tôi và dân của vua,
không sót lại con nào. 28 Nhưng cả lần này nữa, lòng Pha-ra-ô vẫn
nặng nề cứng cỏi; vua không thả cho dân đi.
Chương 09
(5)
Ôn dịch
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đến với Pha-ra-ô và nói với vua: Ðức Chúa,
Thiên Chúa của người Híp-ri, phán thế này: Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ
phượng Ta. 2 Nếu ngươi không chịu thả cho chúng đi, mà cứ cầm giữ
lại, 3 thì này tay của Ðức Chúa sẽ giáng ôn dịch rất nặng xuống trên
súc vật của ngươi ở ngoài đồng, trên ngựa, lừa, lạc đà, bò bê và chiên cừu. 4
Ðức Chúa sẽ đối xử với súc vật của Ít-ra-en khác súc vật của Ai-cập, và
không có gì thuộc về con cái Ít-ra-en sẽ phải chết.” 5 Và Ðức Chúa
ấn định thời gian, Người phán: "Ngày mai, Ðức Chúa sẽ làm điều ấy trong
xứ.” 6 Ngay hôm sau, Ðức Chúa làm điều ấy: tất cả súc vật của người
Ai-cập đều chết, còn trong đàn súc vật của con cái Ít-ra-en, thì không con nào
chết cả. 7 Pha-ra-ô sai người đi xem, thì này trong đàn súc vật của
Ít-ra-en, không con nào chết cả. Nhưng lòng Pha-ra-ô đã ra nặng nề cứng cỏi;
vua không thả cho dân đi.
(6)
Ung nhọt
8
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: "Hãy bốc hai nắm mồ hóng trong
lò, rồi Mô-sê hãy tung lên trời trước mắt Pha-ra-ô. 9 Mồ hóng đó sẽ
biến thành bụi trên khắp đất Ai-cập; trên khắp đất Ai-cập, nơi thân thể người
ta và thú vật, sẽ có ung nhọt mọc lên và mưng mủ.” 10 Các ông lấy mồ
hóng trong lò, rồi đến đứng trước mặt Pha-ra-ô. Ông Mô-sê tung lên trời và mồ
hóng biến thành ung nhọt rồi mưng mủ nơi thân thể người ta và thú vật. 11 Các
phù thủy không đứng nổi trước mặt ông Mô-sê được, vì ung nhọt mọc đầy mình các
phù thủy cũng như mọi người Ai-cập. 12 Nhưng Ðức Chúa làm cho lòng
Pha-ra-ô ra chai đá, nên vua ấy không nghe lời các ông như Ðức Chúa đã nói
trước với ông Mô-sê.
(7)
Mưa đá
13
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Sáng mai, ngươi hãy dậy sớm, và đến đứng trước
mặt Pha-ra-ô. Ngươi sẽ nói với vua ấy: Ðức Chúa, Thiên Chúa của người Híp-ri,
phán thế này: Hãy thả dân Ta ra để chúng đi thờ phượng Ta. 14 Vì lần
này chính Ta sẽ giáng mọi tai ương xuống trên ngươi, trên bề tôi và dân ngươi,
để ngươi biết rằng trên khắp mặt đất không có ai bằng Ta. 15 Nếu bây
giờ Ta ra tay, dùng dịch hạch mà đánh phạt ngươi và dân ngươi, thì dân ngươi sẽ
biến khỏi mặt đất. 16 Nhưng sở dĩ Ta còn cho ngươi sống, là để ngươi
nhìn thấy sức mạnh của Ta, và để thiên hạ loan truyền danh Ta trên khắp mặt đất.
17 Nếu ngươi cứ chống lại dân Ta, không thả cho chúng đi, 18 thì
đây, ngày mai, vào giờ này, Ta sẽ cho mưa đá rất nặng, như chưa từng có ở
Ai-cập từ ngày dựng nước cho đến bây giờ. 19 Vậy ngay bây giờ, ngươi
hãy sai người dẫn vào nơi trú ẩn: súc vật của ngươi và tất cả những gì thuộc về
ngươi đang ở ngoài đồng. Bất cứ người hay thú vật nào ở ngoài đồng mà không đem
vào nhà, thì mưa đá rơi xuống, người ấy, vật ấy sẽ chết.” 20 Trong
số các bề tôi của Pha-ra-ô, ai kính sợ lời Ðức Chúa thì đưa tôi tớ và súc vật
vào nhà để trú ẩn; 21 còn kẻ không quan tâm đến lời Ðức Chúa, thì để
tôi tớ và súc vật ở lại ngoài đồng.
22
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay lên trời và làm cho mưa đá rơi xuống
trên khắp đất Ai-cập, trên người ta, trên thú vật và mọi cỏ cây ngoài đồng tại
đất Ai-cập.” 23 Ông Mô-sê giơ gậy lên trời, và Ðức Chúa làm cho sấm
vang lên và mưa đá rơi xuống; sét đánh xuống mặt đất, và Ðức Chúa làm cho mưa
đá rơi xuống trên đất Ai-cập. 24 Ðã có mưa đá và lửa loé ra giữa mưa
đá; mưa đá rất nặng, như chưa từng có trên khắp đất Ai-cập, kể từ khi chúng
thành một dân. 25 Trên khắp đất Ai-cập, mưa đá đã tàn phá tất cả
những gì đang ở ngoài đồng, từ người cho đến thú vật; mưa đá cũng tàn phá mọi
cỏ cây ngoài đồng và bẻ gãy mọi cây cối ngoài đồng. 26 Chỉ có đất
Gô-sen, nơi con cái Ít-ra-en ở, là không có mưa đá.
27
Pha-ra-ô
sai người triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và nói với các ông: "Lần
này, chính ta có tội. Ðức Chúa là Ðấng công chính, còn ta và dân ta đều lầm lỗi.
28 Hãy khẩn cầu Ðức Chúa đi! Sấm sét và mưa đá như thế đủ rồi! Ta sẽ
thả các ngươi ra và các ngươi sẽ không còn phải ở lại lâu hơn nữa.” 29 Ông
Mô-sê nói với vua: "Khi ra khỏi thành, tôi sẽ giơ tay lên khẩn cầu Ðức
Chúa. Sấm sẽ ngưng và mưa đá sẽ tạnh, để bệ hạ biết là cõi đất thuộc về Ðức
Chúa. 30 Nhưng tôi biết rằng cả bệ hạ lẫn bề tôi của bệ hạ vẫn chưa
kính sợ Ðức Chúa là Thiên Chúa.” 31 Cây gai, lúa mạch bị tàn phá, vì
lúa mạch đã lên gié, cây gai đã trổ bông. 32 Còn lúa mì, lúa miến
không bị tàn phá vì mọc muộn hơn.
33
Ông
Mô-sê ra khỏi cung điện Pha-ra-ô và rời bỏ thành. Ông giơ tay lên khẩn cầu Ðức
Chúa; sấm và mưa đá ngưng, còn mưa cũng đã tạnh trên mặt đất. 34 Pha-ra-ô
thấy mưa đã tạnh và mưa đá cũng như sấm đã ngưng, thì lại phạm tội: lòng vua và
lòng bề tôi của vua lại ra nặng nề cứng cỏi. 35 Lòng Pha-ra-ô vẫn
chai đá và vua không thả cho con cái Ít-ra-en đi, như Ðức Chúa đã dùng ông
Mô-sê mà nói trước.
Chương 10
(8)
Châu chấu
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đến với Pha-ra-ô, vì chính Ta đã làm cho
lòng vua ấy và lòng bề tôi của vua ấy ra nặng nề cứng cỏi, để Ta thực hiện các
dấu lạ này giữa dân, 2 và để ngươi thuật lại cho con cháu ngươi nghe
Ta đã giáng hoạ xuống Ai-cập làm sao, và Ta đã thực hiện những dấu lạ nào giữa
họ, khiến các ngươi biết Ta đây là Ðức Chúa.” 3 Ông Mô-sê và ông
A-ha-ron đến với Pha-ra-ô và nói với vua: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của người
Híp-ri, phán thế này: cho đến bao giờ ngươi vẫn không chịu hạ mình xuống trước
nhan Ta? Hãy thả dân Ta ra, để chúng đi thờ phượng Ta. 4 Nếu ngươi
không chịu thả cho dân Ta đi, thì đây ngày mai Ta sẽ cho châu chấu vào lãnh thổ
ngươi. 5 Chúng sẽ che kín cả mặt đất, khiến người ta không thể thấy
mặt đất nữa. Chúng sẽ ăn sạch những gì còn lại sau khi thoát tai ương, những gì
trận mưa đá còn để sót lại cho các ngươi: chúng sẽ ăn sạch mọi cây cối của các
ngươi mọc ngoài đồng. 6 Cung điện của ngươi, nhà của mọi bề tôi
ngươi, nhà của mọi người Ai-cập sẽ tràn ngập châu chấu; đó là điều mà cha ông
ngươi, cũng như cha ông của cha ông ngươi chưa từng thấy từ ngày có họ trên mặt
đất cho đến ngày hôm nay." Rồi ông Mô-sê quay gót, ra khỏi cung điện
Pha-ra-ô. 7 Bề tôi Pha-ra-ô thưa với vua: "Tên ấy còn gieo hoạ
cho chúng ta đến bao giờ nữa đây? Xin bệ hạ thả bọn người ấy ra, để họ đi thờ
phượng Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ. Bệ hạ chưa biết Ai-cập đang đi tới chỗ diệt
vong hay sao?"
8
Người
ta bảo ông Mô-sê và ông A-ha-ron trở lại với Pha-ra-ô, và vua nói với các ông:
"Các ngươi hãy đi thờ phượng Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. Nhưng ai
sẽ đi?” 9 Ông Mô-sê trả lời: "Chúng tôi sẽ cùng đi với người
trẻ, người già, chúng tôi sẽ cùng đi với con trai, con gái chúng tôi, với chiên
cừu, bò bê của chúng tôi, bởi vì đối với chúng tôi, đây là một lễ kính Ðức
Chúa.” 10 Vua nói với các ông: "Thì Ðức Chúa cứ việc ở với các
ngươi, xem ta có thả các ngươi và con cái các ngươi đi không! Các ngươi coi:
các ngươi có những ý định xấu xa! 11 Không như thế được đâu! Bọn đàn ông các
ngươi hãy đi mà thờ phượng Ðức Chúa, vì đó chính là điều các ngươi yêu
cầu." Rồi người ta đuổi các ông đi cho khuất mắt Pha-ra-ô.
12
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay lên trên đất Ai-cập cho châu chấu
kéo đến: chúng sẽ bay lên trên đất Ai-cập mà ăn sạch cỏ cây trong xứ, tất cả
những gì trận mưa đá còn để sót lại.” 13 Ông Mô-sê giơ gậy lên trên
đất Ai-cập, và Ðức Chúa cho một luồng gió đông thổi vào đất này suốt ngày hôm
đó và suốt đêm; đến sáng, thì gió đông đã đưa châu chấu vào rồi.
14
Châu
chấu bay lên trên khắp đất Ai-cập; chúng đậu trên khắp cả lãnh thổ Ai-cập, đông
vô kể. Trước kia chưa bao giờ có nhiều châu chấu như thế, và sau này cũng chẳng
có như vậy. 15 Chúng che kín cả mặt đất, làm đen nghịt cả mặt đất.
Châu chấu ăn sạch cỏ cây trong xứ và mọi trái cây mà mưa đá còn để sót lại;
không còn một chút xanh tươi nào trên cây, trên cỏ ngoài đồng, trong khắp đất
Ai-cập.
16
Pha-ra-ô
vội triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và nói: "Ta đắc tội với Ðức Chúa,
Thiên Chúa của các ngươi, và với các ngươi. 17 Vậy giờ đây, xin xá
tội cho ta lần này nữa thôi, và hãy khẩn nài Ðức Chúa, Thiên Chúa của các
ngươi, ít ra là đẩy xa ta cái tai hoạ chết người này.” 18 Ông Mô-sê
ra khỏi cung điện Pha-ra-ô và khẩn nài Ðức Chúa. 19 Ðức Chúa cho gió
biển nổi lên rất mạnh, cuốn châu chấu đi và đẩy xuống Biển Sậy; không còn sót
một con châu chấu nào trên toàn lãnh thổ Ai-cập nữa. 20 Nhưng Ðức
Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá, và vua không thả cho con cái Ít-ra-en
đi.
(9)
Cảnh tối tăm
21
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay lên trời, cho bóng tối bao trùm đất
Ai-cập, bóng tối như sờ thấy được.” 22 Ông Mô-sê giơ tay lên trời,
và bóng tối dày đặc bao trùm cả đất Ai-cập trong ba ngày. 23 Trong
ba ngày, người ta không nhìn thấy nhau và không ai rời chỗ mình được. Nhưng tất
cả con cái Ít-ra-en đều có ánh sáng tại nơi họ ở.
24
Pha-ra-ô
triệu ông Mô-sê đến và bảo: "Các ngươi hãy đi thờ phượng Ðức Chúa; chỉ có
chiên cừu, bò dê của các ngươi phải ở lại, còn trẻ con có thể cùng đi với các
ngươi.” 25 Ông Mô-sê nói: "Vậy xin bệ hạ cấp cho chúng tôi
những tế phẩm và của lễ toàn thiêu để chúng tôi dâng lên Ðức Chúa, Thiên Chúa
chúng tôi. 26 Cả những đàn súc vật của chúng tôi cũng sẽ đi với
chúng tôi, không để sót lại một móng chân nào, vì chúng tôi phải lấy một số
trong những con vật đó mà dùng vào việc thờ phượng Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng
tôi. Chính chúng tôi cũng không biết phải dâng gì cho Ðức Chúa, bao lâu chưa
đến đó."
27
Nhưng
Ðức Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá và vua không chịu thả cho họ đi. 28
Pha-ra-ô nói với ông Mô-sê: "Ra khỏi đây! Liệu hồn, đừng có đến
trước mặt ta nữa, vì ngày nào ngươi đến trước mặt ta thì ngươi sẽ phải chết!” 29
Ông Mô-sê đáp: "Ðúng như bệ hạ nói! Tôi sẽ không bao giờ đến trước
mặt bệ hạ nữa!"
Chương 11
Báo
tin các con đầu lòng sẽ phải chết
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ta sẽ giáng một tai ương nữa xuống Pha-ra-ô và
Ai-cập. Sau đó, vua ấy sẽ thả các ngươi ra khỏi đây. Hơn nữa, thay vì thả các
ngươi, vua ấy lại còn đuổi hẳn các ngươi đi là đàng khác. 2 Vậy
ngươi hãy nói cho dân nghe: Ðàn ông thì hỏi anh hàng xóm, đàn bà thì hỏi chị
láng giềng, lấy những đồ bạc và đồ vàng.” 3 Ðức Chúa cho dân được
cảm tình của người Ai-cập. Hơn nữa, trong đất Ai-cập, chính ông Mô-sê là một
nhân vật rất quan trọng đối với các bề tôi của Pha-ra-ô và đối với dân.
4
Ông
Mô-sê nói: "Ðức Chúa phán thế này: vào quãng nửa đêm, Ta sẽ rảo khắp
Ai-cập. 5 Mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập sẽ phải chết, từ con đầu
lòng của vị Pha-ra-ô đang ngồi trên ngai báu, đến con đầu lòng của đứa đầy tớ
gái ngồi sau cối xay, đến mọi con đầu lòng của loài vật. 6 Trong
khắp đất Ai-cập, sẽ vang lên tiếng kêu la như chưa từng có và không bao giờ có
nữa. 7 Còn nơi mọi con cái Ít-ra-en, sẽ không có một con chó nào sủa,
dù sủa người hay sủa thú vật; như thế, các ngươi sẽ biết rằng Ðức Chúa phân
biệt Ít-ra-en với Ai-cập. 8 Bấy giờ tất cả các bề tôi của bệ hạ sẽ
xuống tìm tôi, phục xuống lạy tôi và thưa: xin ông và toàn dân theo ông ra khỏi
nước cho. Sau đó tôi sẽ đi ra." Ông Mô-sê nổi giận bừng bừng, ra khỏi cung
điện Pha-ra-ô.
9
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Pha-ra-ô sẽ không nghe các ngươi, là để Ta làm
thêm nhiều phép lạ trong đất Ai-cập.” 10 Ông Mô-sê và ông A-ha-ron
làm mọi phép lạ đó trước mặt Pha-ra-ô; nhưng Ðức Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô ra
chai đá, và vua không thả con cái Ít-ra-en ra khỏi đất ấy.
Chương 12
Lễ
Vượt Qua
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron trên đất Ai-cập: 2 "Tháng
này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. 3
Hãy nói với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en: Mồng mười tháng này, ai nấy phải
bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. 4 Nếu nhà ít
người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất,
tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà
chọn con chiên. 5 Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không
quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. 6 Phải nhốt nó
cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem
sát tế vào lúc xế chiều, 7 lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn
thịt chiên. 8 Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh
không men và rau đắng. 9 Các ngươi không được ăn sống hay luộc,
nhưng chỉ được ăn nướng, với cả đầu, chân và lòng. 10 Không được để
lại gì đến sáng; cái gì còn lại đến sáng, phải đốt đi. 11 Các ngươi
phải ăn thế này: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Các ngươi phải ăn vội
vã: đó là lễ Vượt Qua mừng Ðức Chúa. 12 Ðêm ấy Ta sẽ rảo khắp đất
Ai-cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ loài người cho đến
loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai-cập: vì Ta là Ðức Chúa. 13 Còn
vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu,
Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng hoạ
trên đất Ai-cập. 14 Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm,
ngày đại lễ mừng Ðức Chúa. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này: đó
là luật quy định cho đến muôn đời.
Lễ
Bánh Không Men
15
"Trong
bảy ngày, các ngươi phải ăn Bánh Không Men. Ngay từ ngày thứ nhất, các ngươi
phải loại men ra khỏi nhà, vì phàm ai ăn bánh có men, từ ngày thứ nhất đến ngày
thứ bảy, người đó sẽ bị khai trừ khỏi Ít-ra-en. 16 Ngày thứ nhất,
các ngươi phải họp nhau thờ phượng Ta, ngày thứ bảy cũng họp nhau thờ phượng
Ta. Những ngày đó không được làm công việc nào cả, chỉ được dọn bữa cho ai nấy
ăn mà thôi. 17 Các ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Bánh Không Men, vì
vào chính ngày đó, Ta đã đưa các đạo binh của các ngươi ra khỏi đất Ai-cập. Qua
mọi thế hệ, các ngươi phải giữ tục lệ mừng ngày lễ ấy: đó là điều luật vĩnh
viễn. 18 Tháng Giêng, ngày mười bốn trong tháng, từ buổi chiều, các
ngươi sẽ ăn bánh không men, cho đến buổi chiều ngày hai mươi mốt. 19 Trong
bảy ngày, không được giữ men trong nhà các ngươi, vì phàm ai ăn bánh có men,
người đó sẽ bị khai trừ khỏi cộng đoàn Ít-ra-en, bất luận là ngoại kiều hay
người bản xứ. 20 Các ngươi không được ăn các thứ bánh có men; dù ở
đâu, các ngươi cũng phải ăn bánh không men."
Chỉ
thị về lễ Vượt Qua
21
Ông
Mô-sê triệu tập tất cả các kỳ mục Ít-ra-en và nói với họ: "Hãy đi bắt
chiên cừu về cho gia đình anh em, và sát tế làm lễ Vượt Qua. 22 Anh
em sẽ lấy một bó hương thảo, nhúng vào máu trong chậu và lấy máu từ trong chậu
bôi lên khung cửa; và không ai trong anh em sẽ ra khỏi cửa nhà mình cho đến
sáng. 23 Ðức Chúa sẽ rảo khắp Ai-cập để đánh phạt, và khi thấy máu
trên khung cửa, Ðức Chúa sẽ vượt qua trước cửa và không để cho Thần Tru Diệt
vào nhà anh em mà đánh phạt. 24 Anh em phải giữ điều đó như điều
luật vĩnh viễn cho mình và cho con cháu. 25 Khi được vào đất mà Ðức
Chúa ban cho anh em như Người đã phán, anh em sẽ giữ nghi lễ đó. 26 Khi
con cháu anh em hỏi anh em: "Nghi lễ này có ý nghĩa gì đối với quý vị?, 27
anh em sẽ trả lời: Ðó là lễ tế Vượt Qua mừng Ðức Chúa, Ðấng đã vượt qua
các nhà của con cái Ít-ra-en tại Ai-cập, khi Người đánh phạt Ai-cập và cho các
nhà chúng ta thoát nạn." Dân quỳ xuống và phủ phục. 28 Con cái
Ít-ra-en ra đi và làm y như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê và ông A-ha-ron.
Tai
ương thứ mười: các con đầu lòng bị giết
29
Vào
nửa đêm, Ðức Chúa sát hại mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ con đầu lòng
của vị Pha-ra-ô đang ngồi trên ngai báu, đến con đầu lòng của người tù đang ở
trong ngục và mọi con đầu lòng của loài vật. 30 Ðêm ấy, Pha-ra-ô
thức dậy, cùng với tất cả bề tôi và mọi người Ai-cập, và tại Ai-cập vang lên
tiếng kêu la, vì không có nhà nào mà không có người chết. 31 Ðang
đêm nhà vua triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và bảo: "Cả các ngươi lẫn
con cái Ít-ra-en, đứng lên, đi ra, không được ở giữa dân ta nữa! Ði mà thờ
phượng Ðức Chúa như các ngươi đã nói! 32 Cả chiên cừu, bò bê của các ngươi,
cũng hãy đem đi như các ngươi đã nói. Ði đi và cầu phúc cho cả ta nữa.” 33
Người Ai-cập hối thúc con cái Ít-ra-en và vội vàng thả cho họ ra khỏi
nước, vì chúng nói: "Chúng ta chết cả lũ đến nơi rồi!” 34 Dân
phải mang theo bột đã nhào chưa kịp dậy men; họ cuộn bột đã nhào trong thùng
vào áo choàng, rồi vác lên vai.
Tước
đoạt của cải người Ai-cập
35
Con
cái Ít-ra-en đã làm theo lời ông Mô-sê; họ đã xin người Ai-cập những đồ bạc, đồ
vàng và áo xống. 36 Ðức Chúa cho dân được cảm tình của người Ai-cập,
chúng làm như lời họ xin, và họ đã tước đoạt của cải người Ai-cập.
Dân
Ít-ra-en ra đi
37
Con
cái Ít-ra-en nhổ trại rời Ram-xết đi Xúc-cốt, có khoảng sáu trăm ngàn bộ hành,
chỉ kể đàn ông không kể trẻ con. 38 Cả một đám đông hỗn tạp cùng lên
với họ, mang theo chiên cừu, bò dê, họp thành một đàn súc vật đông đảo. 39
Họ lấy bột đã nhào đưa từ Ai-cập ra mà nướng thành bánh không men, vì bột
chưa dậy men; họ bị trục xuất khỏi Ai-cập, không được chậm trễ, nên ngay cả
lương thực cũng không kịp chuẩn bị. 40 Thời gian con cái Ít-ra-en ở
Ai-cập là bốn trăm ba mươi năm. 41 Vào đúng ngày chấm dứt bốn trăm
ba mươi năm đó, toàn thể các đạo binh của Ðức Chúa đã ra khỏi đất Ai-cập. 42
Ðó là đêm Ðức Chúa canh thức để đưa họ ra khỏi đất Ai-cập; đêm đó thuộc
về Ðức Chúa, đêm canh thức của toàn thể con cái Ít-ra-en, qua mọi thế hệ.
Chỉ
thị về lễ Vượt Qua
43
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: "Ðây là quy định về chiên lễ Vượt
Qua: không người dân ngoại nào được ăn. 44 Mọi nô lệ mua bằng tiền
đã được ngươi cắt bì, thì được ăn. 45 Khách vãng lai và người làm
thuê không được ăn. 46 Chỉ được ăn chiên trong nhà mà thôi; không
được mang thịt ra khỏi nhà. Các ngươi không được làm gãy một chiếc xương nào
của nó. 47 Toàn thể cộng đồng Ít-ra-en sẽ mừng lễ Vượt Qua. 48 Nếu
có ngoại kiều ở với ngươi mà muốn cử hành lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa, thì mọi
đàn ông con trai nhà ấy phải chịu cắt bì. Bấy giờ nó mới được đến gần để mừng
lễ, nó sẽ như người bản xứ; nhưng ai không cắt bì thì không được ăn. 49 Luật
đó là luật chung cho người bản xứ và ngoại kiều sống giữa ngươi.” 50 Mọi
con cái Ít-ra-en đã làm y như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê và ông A-ha-ron.
51 Chính ngày ấy Ðức Chúa đã đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập,
theo binh ngũ của chúng.
Chương 13
Các
con đầu lòng
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so,
mọi con đầu lòng trong số con cái Ít-ra-en, dù là người hay là thú vật: nó
thuộc về Ta."
Bánh
không men
3
Ông
Mô-sê nói với dân: "Hãy ghi nhớ ngày hôm nay là ngày anh em ra khỏi
Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ, vì Ðức Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Người mà đưa
anh em ra khỏi đó. Anh em không được ăn bánh có men. 4 Ngày anh em
ra đi là một ngày trong tháng A-víp. 5 Khi nào Ðức Chúa đưa ngươi
vào đất của người Ca-na-an, Khết, E-mô-ri, Khi-vi và Giơ-vút, đất tràn trề sữa
và mật, mà Người đã thề với cha ông ngươi là sẽ ban cho ngươi, ngươi sẽ cử hành
nghi thức đó vào tháng này. 6 Trong vòng bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh
không men, và ngày thứ bảy là lễ kính Ðức Chúa. 7 Phải ăn bánh không
men trong vòng bảy ngày; không được thấy bánh có men trong nhà ngươi và cũng
không được thấy men trong nhà ngươi, trên toàn lãnh thổ ngươi. 8 Trong
ngày ấy, ngươi sẽ kể lại cho con của ngươi rằng: Sở dĩ như vậy là vì những gì
Ðức Chúa đã làm cho cha khi cha ra khỏi Ai-cập. 9 Ngươi sẽ coi đó
như là dấu ở tay ngươi, là kỷ vật đeo trên trán, để cho Luật của Ðức Chúa ở
trên môi miệng ngươi, bởi vì Ðức Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ mà đưa ngươi ra
khỏi Ai-cập. 10 Từ năm này qua năm khác, ngươi phải giữ thánh chỉ
này vào đúng thời kỳ của nó.
Các
con đầu lòng
11
"Vậy
khi Ðức Chúa đã đưa ngươi vào đất Ca-na-an như Người đã thề với ngươi và cha
ông của ngươi, và khi Người đã ban đất ấy cho ngươi, 12 thì ngươi
phải nhượng lại cho Ðức Chúa mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu
lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Ðức Chúa. 13
Mọi con đầu lòng của giống lừa, ngươi sẽ lấy một con chiên mà chuộc lại;
nếu ngươi không chuộc lại, thì đánh gãy ót nó đi. Còn mọi con đầu lòng của loài
người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại. 14 Vậy mai
ngày con của ngươi có hỏi: "Ðiều đó nghĩa là gì? Thì ngươi sẽ nói với nó:
"Ðức Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Người mà đưa chúng ta ra khỏi
Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. 15 Bởi vì Pha-ra-ô làm khó dễ khi phải thả
chúng ta ra, nên Ðức Chúa đã sát hại mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ con
đầu lòng của loài người cho đến con đầu lòng của loài vật, vì thế mà cha tế
dâng Ðức Chúa mọi con so giống đực; còn con đầu lòng trong số con cái cha, thì
cha chuộc lại.16 Ðó sẽ là dấu ở tay ngươi, và là phù hiệu trên trán ngươi, vì
Ðức Chúa đã dùng cánh tay mạnh mẽ mà đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập."
4.
Ra Khỏi Ai-Cập
Dân
Ít-ra-en ra đi
17
Khi
Pha-ra-ô thả cho dân đi, Thiên Chúa không dẫn họ theo ngả đường xuyên qua xứ
Phi-li-tinh, dù đường đó gần hơn, vì Thiên Chúa nói: "Khi thấy phải chiến
đấu, dân có thể hối hận mà quay về Ai-cập.” 18 Vậy Thiên Chúa đưa
dân đi vòng, qua ngả đường sa mạc Biển Sậy. Con cái Ít-ra-en võ trang đầy đủ từ
đất Ai-cập đi lên. 19 Ông Mô-sê đem theo hài cốt ông Giu-se, vì ông
Giu-se đã bắt con cái Ít-ra-en thề khi ông nói: "Thế nào Thiên Chúa cũng
sẽ thăm viếng anh em; bấy giờ anh em sẽ đưa hài cốt tôi từ đây lên với anh
em."
20
Họ
nhổ trại rời Xúc-cốt tới đóng trại ở Ê-tham, ven sa mạc.
21
Ðức
Chúa đi đằng trước họ: ban ngày thì ở trong cột mây để dẫn đường, ban đêm thì ở
trong cột lửa để soi sáng, nên họ có thể đi cả ban ngày lẫn ban đêm. 22 Ban
ngày cột mây đi trước dân không rời, ban đêm cột lửa cũng vậy.
Chương 14
Từ
Ê-tham đến Biển Ðỏ
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Ngươi hãy bảo con cái Ít-ra-en quay
lại đóng trại đối diện với Pi Ha-khi-rốt, giữa Mích-đôn và biển, đối diện với
Ba-an Xơ-phôn; các ngươi sẽ đóng trại ngay đằng trước đó, bên bờ biển. 3 Bấy
giờ Pha-ra-ô sẽ nói về con cái Ít-ra-en: "Chúng đi luẩn quẩn trong vùng,
sa mạc nhốt chúng lại rồi. 4 Ta sẽ làm cho lòng Pha-ra-ô ra chai đá
và vua ấy sẽ đuổi theo dân. Nhưng Ta sẽ được vẻ vang hiển hách vì đã đánh bại
Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực của vua ấy, và người Ai-cập sẽ biết Ta là Ðức
Chúa." Con cái Ít-ra-en đã làm như vậy.
Người
Ai-cập đuổi theo dân Ít-ra-en
5
Có
tin báo cho vua Ai-cập là dân đã chạy trốn rồi. Pha-ra-ô và bề tôi liền thay
lòng đổi dạ với dân. Chúng nói: "Ta đã làm gì vậy? Ta đã thả cho Ít-ra-en
đi, thành ra bọn chúng hết làm nô lệ cho ta!” 6 Nhà vua cho thắng
chiến xa và đem quân đi theo. 7 Vua lấy sáu trăm chiến xa tốt nhất,
và tất cả các chiến xa của Ai-cập, chiếc nào cũng có chiến binh. 8 Ðức
Chúa làm cho lòng Pha-ra-ô vua Ai-cập ra chai đá, và vua ấy đuổi theo con cái
Ít-ra-en, trong khi con cái Ít-ra-en đi ra, giơ tay đắc thắng. 9 Quân
Ai-cập, gồm toàn thể chiến mã, chiến xa của Pha-ra-ô, kỵ binh và quân lực của
vua ấy, đuổi theo và bắt kịp họ, khi họ đóng trại bên bờ biển, gần Pi
Ha-khi-rốt, đối diện với Ba-an Xơ-phôn. 10 Khi Pha-ra-ô tới gần, con
cái Ít-ra-en ngước mắt lên thì thấy người Ai-cập tiến đến sau lưng họ. Con cái
Ít-ra-en kinh hãi, liền lớn tiếng kêu cầu Ðức Chúa. 11 Họ nói với
ông Mô-sê: "Bên Ai-cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng
tôi vào chết trong sa mạc? Ông làm gì chúng tôi vậy, khi ông đưa chúng tôi ra
khỏi Ai-cập? 12 Ðó chẳng phải là điều chúng tôi từng nói với ông bên Ai-cập
sao? Chúng tôi đã bảo: Cứ để mặc chúng tôi làm nô lệ Ai-cập! Thà làm nô lệ
Ai-cập còn hơn chết trong sa mạc!” 13 Ông Mô-sê nói với dân:
"Ðừng sợ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc Ðức Chúa làm hôm nay để
cứu thoát anh em: những người Ai-cập anh em thấy hôm nay, không bao giờ anh em
thấy lại nữa. 14 Ðức Chúa sẽ chiến đấu cho anh em. Anh em chỉ có
việc ngồi yên."
Phép
lạ tại Biển Ðỏ
15
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Có gì mà phải kêu cứu Ta? Hãy bảo con cái
Ít-ra-en cứ nhổ trại. 16 Phần ngươi, cầm gậy lên, giơ tay trên mặt
biển, rẽ nước ra cho có lối đi khô ráo ngay giữa lòng biển, để con cái Ít-ra-en
đi vào. 17 Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai-cập ra chai đá. Chúng
sẽ tiến vào theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ được vẻ vang hiển hách khi đánh
bại Pha-ra-ô cùng toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy. 18 Người
Ai-cập sẽ biết rằng chính Ta là Ðức Chúa, khi Ta được vẻ vang hiển hách vì đã
đánh bại Pha-ra-ô cùng chiến xa và kỵ binh của vua ấy."
19
Thiên
sứ của Thiên Chúa đang đi trước hàng ngũ Ít-ra-en, lại rời chỗ mà xuống đi đàng
sau họ. Cột mây bỏ phía trước mà đứng về phía sau, 20 chen vào giữa
hàng ngũ Ai-cập và hàng ngũ Ít-ra-en. Bên kia, mây toả mịt mù, bên này, mây lại
sáng soi đêm tối, khiến cho hai bên suốt đêm không xáp lại gần nhau được. 21
Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, Ðức Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh
suốt đêm, dồn biển lại, khiến biển hoá thành đất khô cạn. Nước rẽ ra, 22 và
con cái Ít-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành
hai bên tả hữu. 23 Quân Ai-cập đuổi theo; toàn thể chiến mã, chiến xa
và kỵ binh của Pha-ra-ô tiến vào giữa lòng biển, đằng sau dân Ít-ra-en. 24
Vào lúc gần sáng, từ cột lửa và mây, Ðức Chúa nhìn xuống hàng ngũ Ai-cập,
Người gây rối loạn trong hàng ngũ chúng. 25 Người làm cho chiến xa
kẹt bánh, khiến chúng phải vất vả mới di chuyển nổi. Quân Ai-cập bảo nhau:
"Ta phải trốn bọn Ít-ra-en, vì Ðức Chúa chiến đấu chống lại người Ai-cập
để giúp họ.” 26 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy giơ tay trên
mặt biển, nước sẽ ập xuống trên quân Ai-cập cùng với chiến xa và kỵ binh của
chúng.” 27 Ông Mô-sê giơ tay trên mặt biển, và biển ập lại như cũ,
vào lúc tảng sáng. Quân Ai-cập đang chạy trốn thì gặp nước biển, Ðức Chúa xô
ngã quân Ai-cập giữa lòng biển. 28 Nước ập xuống, vùi lấp chiến xa
và kỵ binh, vùi lấp toàn thể quân lực của Pha-ra-ô đã theo dân Ít-ra-en đi vào
lòng biển. Không một tên nào sống sót. 29 Còn con cái Ít-ra-en đã đi
giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sững như tường thành hai bên tả hữu. 30 Ngày
đó, Ðức Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ai-cập. Ít-ra-en thấy quân Ai-cập
phơi thây trên bờ biển. 31 Ít-ra-en thấy Ðức Chúa đã ra tay hùng
mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ Ðức Chúa, tin vào Ðức Chúa, tin vào ông
Mô-sê, tôi trung của Người.
Chương 15
Bài
ca chiến thắng
1
Bấy
giờ ông Mô-sê cùng với con cái Ít-ra-en hát mừng Ðức Chúa bài ca sau đây. Họ ca
rằng:
"Tôi
xin hát mừng Chúa, Ðấng cao cả uy hùng:
Kỵ
binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương.
2
Chúa
là sức mạnh tôi, là Ðấng tôi ca ngợi,
chính
Người cứu độ tôi.
Người
là Chúa tôi thờ, xin dâng lời vinh chúc,
Người
là Chúa tổ tiên, xin mừng câu tán tụng.
3
Người
là trang chiến binh, danh Người là "Ðức Chúa!"
4
Xa
mã Pha-ra-ô, Người xô xuống lòng biển,
tướng
dũng với binh hùng chết chìm trong Biển Sậy.
5
Vực
thẳm vùi lấp chúng, chúng chìm xuống nước sâu
chẳng
khác nào hòn đá.
6
Lạy
Chúa, tay hữu Ngài đã biểu dương sức mạnh.
7
Lấy
dũng lực oai hùng, Chúa quật ngã đối phương;
Ngài
nổi cơn thịnh nộ, thiêu chúng cháy như rơm.
8
Nộ
khí Ngài, lạy Chúa, đã khiến nước dâng lên,
sóng
trùng dương dồn lại dựng đứng như tường thành;
giữa
lòng biển thẳm sâu, nước bỗng đâu ngừng chảy.
9
Ðịch
quân tự nhủ rằng: "Ta đuổi theo bắt lấy,
chiến
lợi phẩm đem chia, mới no lòng thoả dạ;
ta
tuốt lưỡi gươm trần, cứ thẳng tay tiêu diệt."
10
Ngài
hà hơi nổi gió, biển vùi lấp chúng đi,
chìm
lỉm tựa như chì giữa nước sâu cuồn cuộn.
11
Ai
trong bậc thần minh được như Ngài, lạy Chúa?
Ai
sánh được như Ngài, Ðấng rạng ngời thánh thiện,
lập
chiến công khủng khiếp, làm nên việc diệu kỳ?
12
13
Còn
dân đã chuộc về, Ngài yêu thương dìu dắt,
lấy
quyền lực dẫn đưa tới đất thiêng Ngài ngự.
14
Khi
vừa nghe tin đó, chư dân run lẩy bẩy;
người
xứ Phi-li-tinh phải đớn đau quằn quại.
15
Bấy
giờ tại Ê-đôm, các thủ lãnh kinh hoàng,
và
quan quyền Mô-áp đều sợ hãi khiếp run,
người
xứ Ca-na-an phải rụng rời hốt hoảng.
16
Kinh
hoàng và sợ hãi ập xuống trên đầu họ.
Cánh
tay hùng mạnh Ngài làm chúng đờ như đá,
bao
lâu dân của Ngài vẫn còn đang qua biển,
lạy
Chúa chúng con thờ, bao lâu dân Ngài tậu
vẫn
còn đang qua biển.
17
Ngài
cho dân tiến vào, định cư họ trên núi,
núi
gia nghiệp của Ngài.
Lạy
Chúa, chính nơi đây Ngài chọn làm chỗ ở,
đây
cũng là đền thánh tự tay Ngài lập nên.
18
Chúa
là vua hiển trị đến muôn thuở muôn đời."
19
Khi
chiến mã của Pha-ra-ô cùng với chiến xa và kỵ binh tiến vào biển, Ðức Chúa cho
nước biển ập xuống trên họ, còn con cái Ít-ra-en thì đi giữa lòng biển khô cạn.
20
Nữ
ngôn sứ Mi-ri-am, em ông A-ha-ron, cầm lấy trống; mọi phụ nữ theo bà đi ra,
đánh trống và nhảy múa. 21 Bà Mi-ri-am xướng lên rằng:
"Hãy
hát mừng Ðức Chúa, Ðấng cao cả uy hùng,
kỵ
binh cùng chiến mã, Người xô xuống đại dương."
II.
Cuộc Hành Trình Trong Sa Mạc
"Ma-ra"
22
Ông
Mô-sê cho dân Ít-ra-en nhổ trại rời Biển Sậy. Họ ra khỏi đó, tiến vào sa mạc
Sua. Họ đi ba ngày trong sa mạc mà không tìm ra nước. 23 Nhưng khi
tới Ma-ra, họ không thể uống được nước ở Ma-ra, vì nước đó đắng. Bởi thế, người
ta gọi nơi ấy là Ma-ra. 24 Dân kêu trách ông Mô-sê, họ nói:
"Chúng tôi sẽ lấy gì mà uống?” 25 Ông kêu lên Ðức Chúa, và Ðức
Chúa chỉ cho ông một khúc gỗ. Ông thả xuống nước và nước hoá ra ngọt.
Chính
tại đó Ðức Chúa đã ra thánh chỉ và quyết định cho dân; chính tại đó Người đã
thử lòng họ.
26
Người
phán: "Nếu ngươi thực sự nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, nếu ngươi
làm điều ngay chính trước mắt Người, nếu ngươi lắng tai nghe các mệnh lệnh của
Người, và giữ mọi thánh chỉ của Người, thì Ta sẽ không giáng xuống ngươi bệnh
hoạn nào như Ta đã giáng xuống Ai-cập. Vì Ta là Ðức Chúa, Ðấng chữa lành
ngươi."
27
Họ
đã đến Ê-lim, nơi có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là. Và họ đóng trại
ở đó, bên bờ nước.
Chương 16
Man-na
và chim cút
1
Họ
nhổ trại rời Ê-lim lên đường, và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en tới sa mạc
Xin, giữa Ê-lim và Xi-nai, vào ngày mười lăm tháng thứ hai kể từ khi họ ra khỏi
đất Ai-cập. 2 Trong sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu
trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 3 Con cái Ít-ra-en nói với các ông:
"Phải chi chúng tôi chết bởi tay Ðức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi
bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra
khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!"
4
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho
các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta
muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không. 5
Ngày thứ sáu, khi chúng dọn phần ăn đã đưa về, sẽ có gấp đôi phần chúng
lượm mỗi ngày."
6
Ông
Mô-sê và ông A-ha-ron nói với toàn thể con cái Ít-ra-en: "Chiều nay, anh
em sẽ biết là chính Ðức Chúa đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập; 7 vào
buổi sáng, anh em sẽ thấy vinh quang của Ðức Chúa, vì Ðức Chúa đã nghe thấy
những lời anh em kêu trách Người. Còn chúng tôi, chúng tôi là gì mà anh em kêu
trách chúng tôi?” 8 Ông Mô-sê nói: "Ðức Chúa cho anh em chiều
có thịt để ăn, và sáng có bánh để được thoả thuê, vì Ðức Chúa đã nghe thấy
những lời anh em kêu trách Người. Còn chúng tôi, chúng tôi là gì? Không phải
anh em đã kêu trách chúng tôi, mà là kêu trách Ðức Chúa."
9
Ông
Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Xin anh nói với toàn thể cộng đồng con cái
Ít-ra-en thế này: Anh em hãy lại gần thánh nhan Ðức Chúa, vì Người đã nghe thấy
những lời anh em kêu trách.” 10 Trong khi ông A-ha-ron nói với toàn
thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, họ quay mặt về phía sa mạc, và kìa, vinh quang
Ðức Chúa xuất hiện trong đám mây. 11 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: 12
"Ta đã nghe tiếng con cái Ít-ra-en kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo
chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi
sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa
của các ngươi.” 13 Thật vậy, buổi chiều, chim cút bay đến rợp cả
trại. Và buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. 14 Rồi khi sương
tan đi thì trên mặt hoang địa, có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như
sương muối phủ mặt đất. 15 Khi con cái Ít-ra-en thấy thế, họ liền
hỏi nhau: "Man hu?" Nghĩa là: "Cái gì đây?" Vì họ không
biết đó là cái gì. Ông Mô-sê bảo họ: "Ðó là bánh Ðức Chúa ban cho anh em
làm của ăn! 16 Ðây là điều Ðức Chúa đã truyền: Mỗi người hãy tuỳ theo sức mình
ăn được bao nhiêu mà lượm, mỗi người một đấu, tuỳ theo số người; mỗi người hãy
lấy luôn cho những người ở cùng lều với mình."
17
Con
cái Ít-ra-en đã làm như thế; họ lượm kẻ nhiều người ít. 18 Rồi họ
lấy đấu đong: kẻ có nhiều thì không dư, người có ít thì không thiếu. Mỗi người
đã lượm tuỳ theo sức mình ăn được bao nhiêu.
19
Ông
Mô-sê nói với họ: "Ðừng có ai để dành cho đến sáng.” 20 Một số
người đã không nghe lời ông Mô-sê: họ để dành cho đến sáng, nhưng trong đó có
giòi bọ và xông ra mùi hôi thối. Bấy giờ ông Mô-sê nổi giận với họ. 21 Sáng
nào cũng vậy, mỗi người lượm tuỳ theo sức mình ăn được bao nhiêu. Và khi mặt
trời toả sức nóng, thì nó tan ra.
22
Ngày
thứ sáu, họ lượm bánh gấp đôi, mỗi người hai đấu. Tất cả những người lãnh đạo
cộng đồng đến báo tin cho ông Mô-sê. 23 Ông nói với họ: "Ðây là
điều Ðức Chúa phán: mai là ngày nghỉ, ngày sa-bát thánh để kính Ðức Chúa. Cái
gì phải nấu, thì nấu; cái gì phải luộc, thì luộc; tất cả những gì còn dư, thì hãy
cất đi, để dành cho đến sáng hôm sau.” 24 Họ cất đi cho đến sáng hôm
sau như ông Mô-sê đã truyền, mà không thấy hôi và cũng không thấy có giòi bọ. 25
Ông Mô-sê nói: "Hôm nay anh em ăn phần đó đi, vì hôm nay là ngày
sa-bát kính Ðức Chúa; hôm nay, anh em sẽ không tìm thấy gì ở ngoài đồng. 26
Trong sáu ngày, anh em hãy lượm man-na; còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát,
thì sẽ không có.” 27 Dầu vậy, ngày thứ bảy cũng có người trong dân
đi ra lượm mà không tìm thấy. 28 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê:
"Cho đến bao giờ nữa các ngươi từ chối không tuân giữ các mệnh lệnh và
luật lệ của Ta? 29 Các ngươi xem: Ðức Chúa đã ban ngày sa-bát cho các ngươi; vì
thế, ngày thứ sáu, Người ban cho các ngươi bánh đủ ăn hai ngày. Ai nấy hãy ở
yên một chỗ; ngày thứ bảy, đừng có ai ra khỏi chỗ ở của mình.” 30 Vậy
dân nghỉ việc ngày thứ bảy.
31
Nhà
Ít-ra-en đặt tên cho vật ấy là man-na. Nó giống như hạt ngò, màu trắng và mùi
vị tựa bánh tráng tẩm mật ong.
32
Ông
Mô-sê nói: "Ðây là điều Ðức Chúa đã truyền: Hãy đong cho đầy một đấu để
giữ lại cho con cháu các ngươi; như thế, chúng sẽ thấy bánh Ta đã cho các ngươi
ăn trong sa mạc, lúc Ta đem các ngươi ra khỏi đất Ai-cập.” 33 Ông
Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Hãy lấy một cái bình và đổ vào đó một đấu đầy
man-na, rồi đặt trước nhan Ðức Chúa để giữ lại cho con cháu anh em.” 34 Theo
như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê, ông A-ha-ron đã đặt cái bình ấy đằng
trước Chứng Ước, để giữ lại.
35
Con
cái Ít-ra-en đã ăn man-na suốt bốn mươi năm, cho đến khi họ tới đất định cư; họ
đã ăn man-na cho đến khi tới ranh giới đất Ca-na-an. 36 Một đấu
tương đương bốn lít rưỡi.
Chương 17
Nước
phun ra từ tảng đá (Ds 2:1-13)
1
Toàn
thể cộng đồng con cái Ít-ra-en nhổ trại rời sa mạc Xin, đi từ chặng này đến
chặng khác, theo lệnh của Ðức Chúa. Họ đã đóng trại ở Rơ-phi-đim, nhưng tại đấy
không có nước cho dân uống. 2 Dân gây sự với ông Mô-sê. Họ nói:
"Cho chúng tôi nước uống đi!" Ông Mô-sê nói: "Tại sao anh em lại
gây sự với tôi? Tại sao lại thử thách Ðức Chúa?” 3 Ở đó, dân khát
nước nên đã kêu trách ông Mô-sê rằng: "Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để
làm gì? Có phải là để cho (chúng) tôi, con cái (chúng) tôi, và súc vật của
(chúng) tôi bị chết khát hay không?” 4 Ông Mô-sê kêu lên cùng Ðức
Chúa: "Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá
con!” 5 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy đi lên phía
trước dân, đem theo một số kỳ mục Ít-ra-en; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để
đập xuống sông Nin, và đi đi. 6 Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước
mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá,
nước sẽ chảy ra cho dân uống." Ông Mô-sê đã làm như vậy trước mắt các kỳ
mục Ít-ra-en. 7 Ông đặt tên cho nơi ấy là Ma-xa và Mơ-ri-va, nghĩa
là thử thách và gây sự, vì con cái Ít-ra-en đã gây sự và thử thách Ðức Chúa mà
rằng: "Có Ðức Chúa ở giữa chúng ta hay không?"
Giao
chiến với người A-ma-lếch
8
A-ma-lếch
đến đánh Ít-ra-en tại Rơ-phi-đim. 9 Ông Mô-sê bảo ông Giô-suê:
"Anh hãy chọn một số người, và ngày mai ra đánh A-ma-lếch. Còn tôi, tôi sẽ
đứng trên đỉnh đồi, tay cầm cây gậy của Thiên Chúa.” 10 Ông Giô-suê
làm như ông Mô-sê đã bảo: ông đã giao chiến với A-ma-lếch, còn các ông Mô-sê,
A-ha-ron và Khua thì lên đỉnh đồi. 11 Khi nào ông Mô-sê giơ tay lên,
thì dân Ít-ra-en thắng thế; còn khi ông hạ tay xuống, thì A-ma-lếch thắng thế. 12
Nhưng ông Mô-sê mỏi tay, nên người ta lấy một hòn đá kê cho ông ngồi, còn
ông A-ha-ron và ông Khua thì đỡ tay ông, mỗi người một bên.
13
Ông
Giô-suê đã dùng lưỡi gươm đánh bại A-ma-lếch và dân của ông ta. 14 Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy chép lại việc này vào sách để lưu niệm và
hãy nói vào tai Giô-suê rằng: Ta sẽ xoá hẳn tên tuổi A-ma-lếch, khiến cho thiên
hạ không còn nhớ đến nó nữa.” 15 Ông Mô-sê dựng một bàn thờ và đặt
tên là: "Ðức Chúa, cờ trận của tôi.” 16 Ông nói: "Bởi vì
một bàn tay đã giơ lên chống lại ngai của Ðức Chúa, nên có chiến tranh giữa Ðức
Chúa và A-ma-lếch từ đời nọ đến đời kia."
Chương 18
Ông
Mô-sê gặp ông Gít-rô
1
Ông
Gít-rô là tư tế Ma-đi-an và là nhạc phụ ông Mô-sê, nghe biết mọi điều Thiên
Chúa đã làm cho ông Mô-sê và Ít-ra-en, dân của Người, khi Ðức Chúa đem Ít-ra-en
ra khỏi Ai-cập. 2 Ông Gít-rô, nhạc phụ ông Mô-sê, trước kia đã đón
nhận bà Xíp-pô-ra, người vợ mà ông Mô-sê đã gửi về, 3 cùng với hai
người con trai của bà. Một người tên là Ghéc-sôm, vì ông nói: "Tôi là
ngoại kiều nơi đất khách quê người"; 4 người kia tên là
Ê-li-e-de, vì "Thiên Chúa của cha tôi đã cứu giúp tôi và đã giải thoát tôi
khỏi gươm Pha-ra-ô.” 5 Ông Gít-rô, nhạc phụ ông Mô-sê, cùng với vợ
con ông Mô-sê đến gặp ông Mô-sê ở sa mạc, nơi ông này dựng lều, gần núi của
Thiên Chúa. 6 Ông cho người đến nói với ông Mô-sê: "Tôi là
Gít-rô, nhạc phụ của anh, cùng với vợ con anh đến gặp anh.” 7 Ông
Mô-sê ra đón tiếp nhạc phụ, phủ phục và ôm hôn ông. Rồi các ông vấn an nhau và
bước vào lều. 8 Ông Mô-sê kể cho nhạc phụ nghe tất cả những gì Ðức
Chúa đã giáng xuống Pha-ra-ô và Ai-cập vì Ít-ra-en, mọi nỗi gian truân Ít-ra-en
gặp phải trên đường và cách Ðức Chúa đã giải thoát họ. 9 Ông Gít-rô
lấy làm vui sướng vì mọi sự lành Ðức Chúa đã làm cho Ít-ra-en, khi Người giải
thoát họ khỏi tay người Ai-cập. 10 Ông Gít-rô nói: "Chúc tụng
Ðức Chúa đã giải thoát các ông khỏi tay người Ai-cập và tay Pha-ra-ô, đã giải
thoát dân khỏi tay người Ai-cập! 11 Giờ đây, tôi nhận biết rằng Ðức Chúa cao cả
hơn hết mọi thần minh, vì Người đã chứng tỏ điều đó khi người ta đối xử ngạo
mạn với dân."
12
Ông
Gít-rô, nhạc phụ ông Mô-sê, dâng lên Thiên Chúa lễ toàn thiêu và các hy lễ. Ông
A-ha-ron và mọi kỳ mục của Ít-ra-en đã đến ăn bánh với nhạc phụ ông Mô-sê trước
nhan Thiên Chúa.
Ðặt
các thẩm phán (Ðnl 1:9-18)
13
Hôm
sau, ông Mô-sê ngồi xử kiện cho dân. Dân đứng bên ông Mô-sê từ sáng đến chiều. 14
Nhạc phụ của ông Mô-sê thấy tất cả những gì ông đã làm cho dân thì nói:
"Anh đang làm gì cho dân vậy? Tại sao chỉ có một mình anh ngồi xử, trong
khi cả dân đứng chầu chực anh từ sáng đến chiều? “ 15 Ông Mô-sê nói
với nhạc phụ: "Ấy là vì dân đến với con để thỉnh ý Thiên Chúa. 16 Khi
họ có việc gì, họ đến với con; con phân xử cho đôi bên và cho biết những thánh
chỉ và lề luật của Thiên Chúa.” 17 Nhạc phụ ông Mô-sê nói với ông:
"Anh làm như thế không tốt đâu! 18 Chắc chắn anh sẽ kiệt sức, và cả dân
đang ở đây với anh cũng vậy; vì công việc quá nặng đối với anh, anh không thể
làm nổi một mình. 19 Bây giờ anh hãy nghe lời tôi khuyên; cầu chúc
Thiên Chúa ở với anh! Còn anh, anh hãy đứng ra thay mặt dân trước nhan Thiên
Chúa: chính anh sẽ trình các việc lên Thiên Chúa, 20 sẽ dạy cho họ
các thánh chỉ, các lề luật, và cho họ biết đường lối phải đi và cách phải xử sự.
21 Rồi anh hãy xem trong toàn dân những ai là người có tài, biết
kính sợ Thiên Chúa, đáng tin cậy, không ham của bất chính, thì đặt họ làm người
chỉ huy: điều khiển một ngàn hay một trăm, năm mươi hay mười người. 22 Họ
sẽ thường trực xử kiện cho dân; việc nào lớn thì họ trình lên anh, còn việc nào
nhỏ thì chính họ xử lấy: hãy làm như vậy để nhẹ gánh cho anh. Họ phải gánh việc
đỡ anh. 23 Nếu anh làm điều đó, thì Thiên Chúa sẽ chỉ bảo cho anh,
anh sẽ có thể đứng vững, và hơn nữa cả đám dân này có thể về nhà bình an."
24
Ông
Mô-sê nghe lời nhạc phụ và đã làm tất cả những điều ông ấy nói. 25 Ông
Mô-sê chọn trong toàn dân Ít-ra-en những người có tài và đặt họ làm đầu dân,
điều khiển một ngàn hay một trăm, năm mươi hay mười người. 26 Họ
thường trực xử kiện cho dân: việc khó thì họ trình lên ông Mô-sê, mọi việc nhỏ
thì chính họ xử lấy. 27 Rồi ông Mô-sê tiễn chân nhạc phụ, và ông này
trở về xứ mình.
Chương 19
III.
Giao Ước Xi-Nai
1.
Giao Ước Và Mười Ðiều Răn
Tới
núi Xi-nai
1
Tháng
thứ ba kể từ khi ra khỏi đất Ai-cập, chính ngày đó con cái Ít-ra-en tới sa mạc
Xi-nai. 2 Họ đã nhổ trại rời Rơ-phi-đim tới sa mạc Xi-nai, và dựng
trại trong sa mạc. Ít-ra-en đóng trại ở đó, đối diện với núi.
Thiên
Chúa hứa ban giao ước
3
Ông
Mô-sê lên gặp Thiên Chúa. Từ trên núi, Ðức Chúa gọi ông và phán: "Ngươi sẽ
nói với nhà Gia-cóp, sẽ thông báo cho con cái Ít-ra-en thế này: 4 Các
ngươi thấy Ta đã xử với Ai-cập thế nào, và đã mang các ngươi như trên cánh chim
bằng, mà đem đến với Ta. 5 Vậy giờ đây, nếu các ngươi thực sự nghe
tiếng Ta và giữ giao ước của Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu
riêng của Ta. Vì toàn cõi đất đều là của Ta. 6 Ta sẽ coi các ngươi
là một vương quốc tư tế, một dân thánh. Ðó là những lời ngươi sẽ nói với con
cái Ít-ra-en.” 7 Ông Mô-sê về triệu tập các kỳ mục trong dân, trình
bày cho họ biết tất cả những lời Ðức Chúa đã truyền cho ông. 8 Toàn
dân nhất trí đáp lại: "Mọi điều Ðức Chúa phán bảo, chúng tôi xin làm
theo." Ông Mô-sê thưa lại với Ðức Chúa những lời dân nói.
Chuẩn
bị giao ước
9
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Này Ta sẽ đến với ngươi trong đám mây dày đặc,
để khi Ta nói với ngươi thì dân nghe thấy và cũng tin vào ngươi luôn mãi."
Ông Mô-sê thưa lại với Ðức Chúa những lời dân nói.
10
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đến với dân và bảo họ: hôm nay và ngày mai
phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, phải giặt quần áo, 11 và đến ngày
kia phải sẵn sàng, vì ngày kia Ðức Chúa sẽ ngự xuống trên núi Xi-nai trước mắt
toàn dân. 12 Ngươi sẽ định rõ cho dân một giới hạn chung quanh núi
và bảo họ: Anh em phải coi chừng không được lên núi và chạm đến chân núi. Ai
chạm đến núi thì sẽ bị giết. 13 Không bàn tay nào được chạm đến
người đó; nó sẽ bị ném đá cho chết hoặc bị bắn bằng cung tên, dù là thú vật hay
là người, nó sẽ không được sống. Khi tù và rúc, dân sẽ lên núi."
14
Ông
Mô-sê từ trên núi xuống với dân và bảo họ giữ mình cho khỏi nhiễm uế; họ giặt
quần áo. 15 Ông Mô-sê bảo dân: "Trong ba ngày, anh em phải
chuẩn bị sẵn sàng. Ðừng gần gũi đàn bà."
Cuộc
thần hiện
16
Ðến
ngày thứ ba, ngay từ sáng, có sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi, và có tiếng tù
và thổi rất mạnh. Toàn dân trong trại đều run sợ. 17 Ông Mô-sê đưa
dân ra khỏi trại để nghênh đón Thiên Chúa; họ đứng dưới chân núi. 18 Cả
núi Xi-nai nghi ngút khói, vì Ðức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên
như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh. 19 Tiếng tù và mỗi lúc
một tăng lên rất mạnh. Ông Mô-sê nói, và Thiên Chúa trả lời trong tiếng sấm. 20
Ðức Chúa ngự xuống trên núi Xi-nai, trên đỉnh núi. Người gọi ông Mô-sê
lên đỉnh núi, và ông đi lên. 21 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê:
"Hãy xuống cảnh cáo dân đừng kéo nhau lên để xem Ðức Chúa, kẻo nhiều người
phải lăn ra chết. 22 Ngay các tư tế đến gần Ðức Chúa cũng phải giữ
mình cho khỏi nhiễm uế, kẻo bị Ðức Chúa đánh phạt.” 23 Ông Mô-sê
thưa với Ðức Chúa: "Dân không thể lên núi Xi-nai được, vì chính Ngài đã
cảnh cáo chúng con rằng: Hãy vạch rõ ranh giới của núi và tuyên bố đó là núi
thánh.” 24 Ðức Chúa phán với ông: "Hãy đi xuống, rồi lại trở
lên, đem theo A-ha-ron với ngươi. Còn tư tế và dân thì đừng có kéo nhau lên Ðức
Chúa, kẻo bị Ðức Chúa đánh phạt.” 25 Ông Mô-sê xuống với dân và nói
với họ.
Chương 20
Mười
điều răn (Ðnl 5:1-33)
1
Thiên
Chúa phán tất cả những lời sau đây:
2
"Ta
là Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh
nô lệ.
3
Ngươi
không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.
4
Ngươi
không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất
thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.
5
Ngươi
không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Ðức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Ðối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt
con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. 6 Còn với những ai
yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn
đời.
7
Ngươi
không được dùng danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Ðức
Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng.
8
Ngươi
hãy nhớ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh. 9 Trong sáu ngày,
ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. 10 Còn ngày thứ
bảy là ngày sa-bát kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không
được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia
súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. 11 Vì trong sáu ngày, Ðức
Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã
nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Ðức Chúa đã chúc phúc cho ngày sa-bát và coi đó là
ngày thánh.
12
Ngươi
hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, ban cho ngươi.
13
Ngươi
không được giết người.
14
Ngươi
không được ngoại tình.
15
Ngươi
không được trộm cắp.
16
Ngươi
không được làm chứng gian hại người.
17
Ngươi
không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ
nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta."
18
Khi
nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi thấy ánh lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ
hãi run rẩy và đứng xa xa. 19 Họ nói với ông Mô-sê: "Xin chính
ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói
với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất!” 20 Ông Mô-sê bảo dân:
"Ðừng sợ hãi, vì Thiên Chúa đến là để thử thách anh em và làm cho anh em
luôn luôn kính sợ Người, ngõ hầu anh em đừng phạm tội.” 21 Dân đứng
xa xa, còn ông Mô-sê thì tiến lại gần đám mây đen, nơi Thiên Chúa đang ngự.
2.
Bộ Luật Giao Ước
Luật
về bàn thờ
22
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi sẽ bảo con cái Ít-ra-en như thế này: Chính
các ngươi đã thấy là tự trời Ta đã nói với các ngươi. 23 Các ngươi
đừng tạc tượng thần bằng bạc mà đặt bên cạnh Ta, và cũng đừng tạc tượng thần
bằng vàng để thờ.
24
Ngươi
sẽ dựng cho Ta một bàn thờ bằng đất, trên đó ngươi sẽ dâng lễ toàn thiêu, lễ kỳ
an, dâng chiên cừu bò bê. Ở bất cứ nơi nào Ta tỏ danh Ta cho ngươi ghi nhớ, Ta
sẽ đến với ngươi và chúc phúc cho ngươi. 25 Nếu ngươi dựng cho Ta
một bàn thờ bằng đá, thì đừng lấy đá đẽo mà dựng, bởi vì lấy đục mà đẽo, thì
làm cho đá ra bất xứng. 26 Ngươi sẽ không dùng bậc để bước lên bàn
thờ của Ta, kẻo ngươi hở hang trước bàn thờ.
Chương 21
Luật
về người nô lệ (Ðnl 15:12 -18)
1
Ðây
là những luật lệ ngươi sẽ trình bày cho họ. 2 Nếu ngươi mua một người
nô lệ Híp-ri, người đó sẽ hầu hạ sáu năm; đến năm thứ bảy, người đó sẽ được tự
do ra đi, mà không phải trả tiền. 3 Nếu người đó đến một mình, thì
sẽ ra đi một mình; nếu người đó đã lấy vợ, thì vợ sẽ ra đi với người đó. 4
Nếu chủ cưới vợ cho người đó và nếu vợ sinh được con trai hoặc con gái,
thì vợ con đều thuộc về chủ, còn người đó sẽ ra đi một mình. 5 Nhưng
nếu người nô lệ nói: Tôi mến chủ tôi và thương vợ thương con, tôi không muốn
được tự do ra đi, 6 thì chủ sẽ dẫn người đó đến trước mặt Thiên
Chúa, dẫn đến sát cánh cửa hoặc khung cửa, và lấy dùi xỏ tai người đó. Như thế,
người đó sẽ hầu hạ chủ suốt đời. 7 Nếu có ai bán con gái làm nàng
hầu, người con gái đó sẽ không được ra đi như các nô lệ nam. 8 Nếu
người con gái đó không vừa ý chủ, và chủ không muốn giữ lại cho mình, thì chủ
phải cho chuộc, chứ không có quyền bán cho dân nước ngoài, vì như vậy là phản
bội người con gái đó. 9 Nếu muốn dành người con gái đó cho con trai
mình, thì chủ sẽ xử sự theo luật áp dụng cho con gái của mình. 10 Nếu
chủ lấy một người khác, thì không được giảm bớt lương thực, quần áo và quyền
làm vợ của người trước. 11 Nếu chủ không thi hành ba khoản đó, thì
nàng được ra đi, khỏi cần trả tiền trả bạc.
Giết
người
12
Ai
đánh chết người, thì phải bị giết chết. 13 Nhưng nếu không có mưu
tính trước, mà chỉ vì Thiên Chúa đã để lỡ tay, thì Ta sẽ chỉ cho ngươi một nơi
mà kẻ giết người có thể vào trú ẩn. 14 Nếu có ai cố tình hại người
thân cận tới mức dùng mưu mà giết nó, thì ngươi sẽ lôi kẻ ấy ra khỏi bàn thờ
của Ta mà giết chết.
15
Ai
đánh cha hoặc mẹ, thì phải bị giết chết. 16 Ai bắt cóc người - dù đã
bán đi hay còn giữ trong tay, - thì phải bị giết chết. 17 Kẻ nào
nguyền rủa cha hoặc mẹ, thì phải bị giết chết.
Ðánh
đập và gây thương tích
18
Trong
một cuộc cãi lộn, nếu người này ném đá hoặc đấm người kia mà không làm người
kia chết, nhưng phải liệt giường, 19 và nếu người kia trỗi dậy, còn
chống gậy ra ngoài đi lại được, thì kẻ đã đánh được tha; chỉ phải bồi thường
cho người kia trong thời gian người ấy phải nghỉ việc, và lo chữa người ấy cho
lành.
20
Nếu
có ai lấy gậy đánh tôi tớ nam nữ của mình, làm cho nó chết ngay dưới tay mình,
thì nó phải được báo oán. 21 Nhưng nếu nạn nhân còn sống được một
hai ngày, thì sẽ không được báo oán, vì chủ đã bỏ tiền ra mua nó.
22
Nếu
đàn ông đánh nhau mà xô phải một người đàn bà có thai, làm sẩy thai nhưng không
gây tổn thương nào khác, thì phải bồi thường theo đòi hỏi của người chồng, và
phải trả trước mặt trọng tài. 23 Nếu có gây tổn thương, thì ngươi
phải lấy mạng đền mạng, 24 mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay,
chân đền chân, 25 vết bỏng đền vết bỏng, vết thương đền vết thương,
vết bầm đền vết bầm.
26
Nếu
có ai đánh vào mắt tôi tớ nam nữ của mình, và làm hư mắt đó, thì phải phóng
thích nó để đền mắt. 27 Nếu có ai làm gãy răng tôi tớ nam nữ của
mình, thì phải phóng thích nó để đền răng.
28
Nếu
bò húc chết một người đàn ông hay đàn bà, thì phải ném đá con bò ấy cho chết,
và không được ăn thịt nó; còn người chủ sẽ được tha bổng. 29 Nếu
trước đó con bò đã quen húc người, và chủ nó đã được cảnh cáo mà không canh
giữ, để nó húc chết người, thì con bò sẽ bị ném đá cho chết và chủ nó cũng sẽ
phải chết. 30 Nếu người ta đòi tiền chuộc, thì chủ phải trả để chuộc
mạng sống mình, thể theo tất cả những đòi hỏi của người ta. 31 Nếu
bò húc con trai hay con gái, thì người ta cũng sẽ xử trí theo luật đó. 32 Nếu
bò húc tôi tớ nam nữ, thì người ta sẽ đưa cho chủ của nạn nhân ba mươi đồng
bạc, còn bò thì sẽ bị ném đá cho chết.
33
Khi
có ai mở nắp hoặc đào một bể nước mà không đậy nắp lại, và nếu bò lừa sa vào đó,
34 thì chủ bể nước phải thường tiền cho chủ con vật, nhưng con vật
chết được thuộc về chủ bể nước. 35 Nếu bò người này húc chết bò
người kia, thì hai người chủ sẽ bán con bò sống và chia nhau tiền; họ cũng sẽ
chia nhau con bò chết nữa. 36 Nếu đã rõ là bò quen húc, mà chủ nó
không canh giữ, thì phải lấy bò đền bò; nhưng con vật chết thuộc về người ấy.
Lấy
trộm thú vật
37
Nếu
có ai lấy trộm chiên bò, rồi làm thịt hoặc đem bán, thì sẽ lấy năm con bò đền
một, và bốn con chiên đền một.
Chương 22
1
Nếu
kẻ trộm bị bắt quả tang đang lúc đào ngạch và bị đánh chết, thì không có chuyện
đòi nợ máu. 2 Nhưng nếu mặt trời đã mọc, thì phải đòi nợ máu. Ăn
trộm phải bồi thường; nếu không có gì bồi thường, thì bán nó đi mà đền những gì
nó đã lấy trộm. 3 Nếu tìm thấy trong tay nó của đã lấy trộm, dù là
bò, lừa hay chiên cừu còn sống, thì nó phải bồi thường gấp đôi.
Những
tội phải bồi thường
4
Khi
có ai làm hại ruộng đồng hay vườn nho và thả súc vật cho nó ăn hại ruộng người
khác, thì phải lấy phần tốt nhất trong ruộng, trong vườn nho của mình mà bồi
thường.
5
Khi
có đám cháy lan đến bụi gai và thiêu huỷ đồng lúa đã gặt, lúa chưa gặt, hoặc
ruộng nương, thì kẻ gây hoả hoạn phải bồi thường.
6
Khi
có ai gửi người thân cận giữ hộ tiền bạc hay đồ vật mà bị mất trộm tại nhà
người này, và nếu tìm thấy kẻ trộm, thì kẻ trộm phải bồi thường gấp đôi. 7
Nếu không tìm thấy kẻ trộm, thì chủ nhà phải tiến lại gần Thiên Chúa mà
thề không có đụng tới của cải người thân cận.
8
Về
mọi nố tội phạm liên quan đến bò lừa, chiên và quần áo, đến mọi vật bị mất, mà
nếu có người nói: của tôi đó! Thì đôi bên phải đưa sự việc ra trước mặt Thiên
Chúa. Kẻ bị Thiên Chúa tuyên bố là có tội, phải bồi thường gấp đôi cho người
thân cận.
9
Khi
có ai gửi người thân cận giữ hộ mình lừa, bò, chiên hay thú vật nào, nếu con
vật ấy chết, bị thương hoặc bị lấy trộm mà không có ai chứng kiến, 10 thì
đôi bên phải đến trước mặt Ðức Chúa: người giữ con vật phải thề không có đụng
tới của cải người thân cận. Chủ con vật phải chấp nhận lời thề và người kia
không phải bồi thường. 11 Nếu con vật bị lấy trộm trong nhà người
giữ hộ, thì người này phải bồi thường cho chủ con vật. 12 Nếu con
vật hoàn toàn bị thú dữ xé xác, và nếu người giữ hộ đưa ra bằng chứng, thì
không phải bồi thường.
13
Khi
có ai mượn người thân cận một con vật và để con vật bị thương hoặc chết trong
khi chủ vắng mặt, thì người mượn phải bồi thường. 14 Nếu chủ có mặt,
thì người ấy không phải bồi thường. Nếu là con vật cho thuê, chủ sẽ lấy tiền
thuê.
Xâm
phạm tiết hạnh gái trinh
15
Khi
có ai dụ dỗ một thiếu nữ chưa đính hôn và ăn nằm với nàng, thì phải trả tiền
cưới cho gia đình nàng. Nàng sẽ thành vợ người đó. 16 Nếu cha nàng
nhất định không chịu gả, người ấy sẽ phải nộp một số tiền tương đương với tiền
cưới một người con gái.
Luật
đạo đức và luật tôn giáo
17
Ðàn
bà phù thuỷ, ngươi không được để cho sống.
18
Kẻ
giao hợp với thú vật phải bị tử hình.
19
Kẻ
tế thần khác ngoài Ðức Chúa, sẽ bị Ðức Chúa loại trừ.
20
Người
ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là
ngoại kiều ở đất Ai-cập. 21 Mẹ goá con côi, các ngươi không được ức
hiếp. 22 Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó
kêu cứu. 23 Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các
ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút.
24
Nếu
ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì
ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi.
25
Nếu
ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó
trước khi mặt trời lặn. 26 Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che
thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ.
27
Ngươi
không được nói phạm đến Thiên Chúa, không được nguyền rủa người đầu mục trong
dân.
Của
đầu mùa và con đầu lòng
28
Ngươi
không được chậm trễ dâng phần hoa màu và rượu nho của ngươi. Con đầu lòng trong
số con cái ngươi, ngươi sẽ dâng cho Ta. 29 Bò và chiên cừu của
ngươi, ngươi cũng phải làm thế: con đầu lòng sẽ ở với mẹ nó bảy ngày, ngày thứ
tám ngươi sẽ dâng nó cho Ta.
30
Các
ngươi sẽ là những người được thánh hiến cho Ta: thịt con vật bị thú dữ xé ngoài
đồng, các ngươi đừng ăn, nhưng phải ném cho chó.
Chương 23
Công
lý. Bổn phận đối với kẻ thù.
1
Ngươi
không được phao tin đồn nhảm. Ðừng làm chứng gian mà tiếp tay với kẻ xấu. 2
Ngươi không được hùa theo số đông để làm điều trái; trong một vụ kiện,
ngươi không được ngả theo số đông mà làm chứng, khiến công lý bị sai lệch. 3
Ngươi không được thiên vị người yếu thế khi họ có việc kiện tụng.
4
Nếu
gặp bò hay lừa của kẻ thù đi lạc, ngươi phải dẫn nó về cho người ấy. 5 Nếu
thấy lừa của kẻ ghét ngươi quỵ ngã vì chở nặng, ngươi không được để mặc người
ấy; ngươi phải giúp người ấy đỡ lừa dậy.
6
Ngươi
không được làm thiệt hại đến quyền lợi của người nghèo cậy nhờ ngươi, khi họ có
việc kiện tụng. 7 Ngươi phải lánh xa điều gian dối. Ngươi không được
giết kẻ vô tội và công chính, vì Ta không cho kẻ có tội được trắng án. 8 Ngươi
không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ sáng mắt hoá ra đui
mù và làm hỏng việc của những người công chính.
9
Người
ngoại kiều, các ngươi không được áp bức; chính các ngươi đã biết thân phận của
người ngoại kiều, vì các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập.
Năm
sa-bát và ngày sa-bát
10
Trong
vòng sáu năm, ngươi sẽ cày cấy ruộng đất ngươi, gieo trồng và thu hoa lợi. 11
Nhưng năm thứ bảy, ngươi sẽ để đất ngưng sinh hoa màu, để đất hưu canh;
những người nghèo trong dân ngươi sẽ được hưởng hoa màu đó, những gì còn lại
thì bỏ cho dã thú ăn. Vườn nho và vườn ô-liu, ngươi cũng sẽ làm như thế.
12
Trong
sáu ngày, ngươi sẽ làm công việc của ngươi; nhưng ngày thứ bảy, ngươi sẽ nghỉ,
để bò lừa của ngươi được nghỉ ngơi, và để đứa con của nữ tỳ ngươi và người
ngoại kiều lấy lại sức.
13
Các
ngươi sẽ lưu tâm đến mọi điều Ta đã nói với các ngươi. Các ngươi đừng nhắc tên
những thần khác: chớ để người ta nghe miệng ngươi thốt ra những tên ấy.
Các
ngày lễ của Ít-ra-en (Xh 34:18 -26; Ðnl 16:1-7)
14
Ngươi
sẽ mừng lễ kính Ta mỗi năm ba lần. 15 Ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ
Bánh Không Men: trong bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh không men vào thời chỉ định trong
tháng A-víp, như Ta đã truyền cho ngươi, vì trong tháng đó ngươi đã ra khỏi
Ai-cập. Người ta không được đi tay không đến trước nhan Ta. 16 Ngươi
cũng sẽ giữ tục lệ mừng lễ Mùa gặt, lễ dâng của đầu mùa, do sức lao động ngươi
làm ra, do công ngươi gieo cấy ngoài đồng; rồi ngươi sẽ giữ tục lệ mừng lễ Thu
hoạch vào cuối năm, khi ngươi thu hoạch hoa màu ngoài đồng ngươi đã làm ra. 17
Mỗi năm ba lần, tất cả đàn ông con trai phải đến trước nhan Chúa Tể là
Ðức Chúa.
18
Khi
dâng lễ vật hy sinh, ngươi đừng dâng máu của nó cùng với bánh có men, và chớ
giữ lại mỡ của ngày lễ kính Ta suốt đêm cho đến sáng hôm sau.
19
Của
đầu mùa tốt nhất của đất đai ngươi, ngươi phải đem đến nhà Ðức Chúa, Thiên Chúa
của ngươi.
Ngươi
không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con.
Lời
hứa và chỉ thị liên quan đến biến cố vào xứ Ca-na-an
20
Lời
hứa và chỉ thị liên quan đến biến cố vào xứ Ca-na-an
Này
Ta sai thiên sứ đi trước ngươi, để giữ gìn ngươi khi đi đường, và đưa ngươi vào
nơi Ta đã dọn sẵn. 21 Trước mặt người, hãy ý tứ và nghe lời người.
Ðừng làm cho người phải chịu cay đắng; người sẽ không tha lỗi cho các ngươi, vì
danh Ta ngự trong người. 22 Nếu thực sự ngươi nghe lời người, nếu
ngươi làm mọi điều Ta nói, Ta sẽ trở thành kẻ thù của kẻ thù ngươi, đối phương
của đối phương ngươi. 23 Thiên sứ của Ta sẽ đi trước mặt ngươi và
dẫn ngươi vào xứ người E-mô-ri, Khết, Pơ-rít-di, Ca-na-an, Khi-vi, Giơ-vút; và
Ta sẽ tiêu diệt chúng. 24 Ngươi không được phủ phục trước các thần
của chúng, cũng đừng phụng thờ các thần ấy; ngươi không được làm theo các việc
chúng làm, nhưng phải phá huỷ thần của chúng và đập vỡ các trụ đá của chúng. 25
Các ngươi phải thờ phượng Ðức Chúa, Thiên Chúa các ngươi; Người sẽ chúc
phúc cho bánh ngươi ăn, cho nước ngươi uống. Ta sẽ đẩy bệnh tật xa ngươi. 26
Trong xứ của ngươi, sẽ không có phụ nữ sẩy thai hay son sẻ. Ta sẽ cho
ngươi sống đầy đủ số năm tháng ngày giờ dành cho ngươi.
27
Ta
sẽ gieo kinh hoàng xuống nơi ngươi sẽ đến, sẽ gây rối loạn nơi hết mọi dân tộc
ngươi sẽ tới, và Ta sẽ làm cho tất cả thù địch của ngươi phải quay lưng chạy
trốn ngươi. 28 Ta sẽ thả ong bầu bay đi trước ngươi; chúng sẽ đuổi
người Khi-vi, người Ca-na-an và người Khết đi khuất mắt ngươi. 29 Ta
sẽ không đuổi các dân này đi khuất mắt ngươi ngay trong một năm, kẻo xứ ấy trở
thành hoang vu, và dã thú sinh sôi nẩy nở làm hại ngươi. 30 Dần dần
Ta sẽ đuổi chúng đi khuất mắt ngươi, cho đến khi ngươi sinh sản ra nhiều, mà
thừa hưởng xứ này. 31 Ta sẽ ấn định ranh giới lãnh thổ ngươi từ Biển
Sậy cho đến Biển của người Phi-li-tinh, từ sa mạc cho đến Sông Cả, vì Ta sẽ nộp
dân bản xứ vào tay ngươi và sẽ đuổi chúng đi cho khuất mắt ngươi. 32 Ngươi
sẽ không ký giao ước với chúng và các thần của chúng. 33 Chúng sẽ
không ở trong xứ của ngươi, kẻo chúng làm cho ngươi lỗi phạm đến Ta, vì ngươi
có thể phụng thờ các thần của chúng, và điều đó trở thành cạm bẫy cho
ngươi."
Chương 24
3.
Ký Giao Ước
1
Thiên
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy lên với Ðức Chúa, ngươi cùng với A-ha-ron,
Na-đáp, A-vi-hu và bảy mươi người trong hàng kỳ mục Ít-ra-en. Các ngươi sẽ phủ
phục ở đằng xa. 2 Một mình Mô-sê sẽ lại gần Ðức Chúa, còn những
người khác sẽ không được lại gần. Dân cũng sẽ không được lên với Mô-sê.” 3
Ông Mô-sê xuống thuật lại cho dân mọi lời của Ðức Chúa và mọi điều luật.
Toàn dân đồng thanh đáp: "Mọi lời Ðức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành.”
4 Ông Mô-sê chép lại mọi lời của Ðức Chúa. Sáng hôm sau, ông dậy
sớm, lập một bàn thờ dưới chân núi và dựng mười hai trụ đá cho mười hai chi tộc
Ít-ra-en. 5 Rồi ông sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en dâng những
lễ toàn thiêu, và ngả bò làm hy lễ kỳ an tế Ðức Chúa. 6 Ông Mô-sê
lấy một nửa phần máu, đổ vào những cái chậu, còn nửa kia thì rảy lên bàn thờ. 7
Ông lấy cuốn sách giao ước đọc cho dân nghe. Họ thưa: "Tất cả những
gì Ðức Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành và tuân theo.” 8 Bấy giờ,
ông Mô-sê lấy máu rảy lên dân và nói: "Ðây là máu giao ước Ðức Chúa đã lập
với anh em, dựa trên những lời này."
9
Ông
Mô-sê đi lên cùng với ông A-ha-ron, Na-đáp, A-vi-hu và bảy mươi người trong
hàng kỳ mục Ít-ra-en. 10 Họ nhìn thấy Thiên Chúa của Ít-ra-en; dưới
chân Người như có nền lát bằng lam ngọc, trong vắt như chính bầu trời. 11 Người
không ra tay hại những bậc vị vọng của Ít-ra-en; họ được chiêm ngưỡng Thiên
Chúa, và sau đó họ ăn uống.
Ông
Mô-sê ở trên núi
12
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy lên núi với Ta và ở lại đó; Ta sẽ ban cho
ngươi những bia đá: luật và mệnh lệnh Ta đã viết ra để dạy dỗ chúng.” 13 Ông
Mô-sê đứng lên cùng với người phụ tá là ông Giô-suê, rồi ông Mô-sê lên núi của
Thiên Chúa. 14 Ông nói với các kỳ mục: "Các ông đợi chúng tôi ở
đây cho đến khi chúng tôi trở lại với các ông. Ðây có ông A-ha-ron và ông Khua
ở với các ông. Ai có việc gì, cứ đến với hai ông ấy.” 15 Ông Mô-sê
lên núi.
16
Vinh
quang Ðức Chúa ngự trên núi Xi-nai và mây bao phủ núi sáu ngày. Ðến ngày thứ
bảy, từ giữa đám mây, Người gọi ông Mô-sê. 17 Vinh quang Ðức Chúa
xuất hiện trên đỉnh núi trông giống như ngọn lửa thiêu, trước mắt con cái
Ít-ra-en. 18 Ông Mô-sê vào giữa đám mây và đi lên núi. Ông Mô-sê ở
trên núi bốn mươi ngày bốn mươi đêm.
Chương 25
4.
Chỉ Thị Về Việc Dựng Nơi Thánh Và Về Các Tư Tế
Ðóng
góp để dựng nơi thánh (Xh 35:4-9)
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Hãy bảo con cái Ít-ra-en là
phải đóng góp vào việc thờ phượng Ta. Các ngươi hãy nhận phần đóng góp nơi
những người nhiệt tâm. 3 Ðây là phần đóng góp các ngươi sẽ nhận của
họ: vàng, bạc và đồng, 4 vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm, vải gai
mịn và lông dê, 5 da cừu nhuộm đỏ, da cá heo và gỗ keo, 6 dầu
thắp đèn, hương liệu để chế dầu tấn phong và làm hương thơm, 7 hồng
mã não và ngọc quý để nhận vào áo ê-phốt và túi đeo trước ngực. 8 Chúng
sẽ dựng cho Ta một nơi thánh để Ta ngự ở giữa chúng. 9 Theo như các
mẫu chính Ta sẽ chỉ cho ngươi: Nhà Tạm và mọi đồ dùng, các ngươi sẽ làm như
vậy.
Nhà
Tạm và Hòm Bia (Xh 37:1-9)
10
"Chúng
phải làm một Hòm Bia bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao
bảy tấc rưỡi. 11 Ngươi sẽ lấy vàng ròng mà bọc, ngươi sẽ lấy vàng mà
bọc cả trong lẫn ngoài. Ngươi sẽ làm trên đó một đường viền chung quanh bằng
vàng. 12 Ngươi sẽ đúc cho Hòm Bia bốn chiếc vòng bằng vàng và gắn
vào bốn chân Hòm Bia: bên này hai vòng, bên kia hai vòng. 13 Ngươi
sẽ làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng. 14 Ngươi sẽ xỏ đòn vào
những vòng bên sườn Hòm Bia để khiêng. 15 Ðòn để xỏ vào vòng của Hòm
Bia thì không được rút ra nữa. 16 Ngươi sẽ đặt vào Hòm Bia Chứng Ước
mà Ta sẽ ban cho ngươi.
17
Ngươi
sẽ làm một cái nắp xá tội bằng vàng ròng, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi.
18 Ngươi sẽ làm hai tượng thần hộ giá bằng vàng gò, ngươi sẽ làm các
tượng ấy ở hai đầu nắp. 19 Ngươi sẽ làm một tượng ở đầu này, một
tượng ở đầu kia; ngươi sẽ làm các tượng thần hộ giá gắn liền với nắp, ở hai đầu.
20 Các tượng thần hộ giá có cánh giương lên và phủ trên nắp. Hai
tượng đối diện với nhau, cùng cúi mặt xuống nắp. 21 Ngươi sẽ đậy nắp
xá tội trên Hòm Bia, và ngươi sẽ đặt vào đó Chứng Ước mà Ta sẽ ban cho ngươi. 22
Ở đó Ta sẽ gặp gỡ ngươi. Từ trên nắp, giữa hai tượng thần hộ giá đặt trên
Hòm Bia Chứng Ước, Ta sẽ nói với ngươi tất cả những gì Ta truyền cho ngươi để
ngươi nói lại cho con cái Ít-ra-en.
Bàn
để bánh tiến (Xh 37:10 -16)
23
"Ngươi
sẽ làm một cái bàn bằng gỗ keo, dài một thước, rộng nửa thước và cao bảy tấc
rưỡi. 24 Ngươi sẽ lấy vàng ròng mà bọc, và ngươi sẽ làm một đường
viền chung quanh bằng vàng. 25 Chung quanh bàn, ngươi sẽ đóng nẹp
rộng một tấc và viền nẹp bằng vàng. 26 Ngươi sẽ làm bốn vòng bằng
vàng và đặt các vòng đó vào bốn góc, ở bốn chân bàn. 27 Các vòng đó
ở gần nẹp, dùng để xỏ đòn khiêng bàn. 28 Ngươi sẽ làm những cây đòn
bằng gỗ keo bọc vàng để khiêng bàn. 29 Ngươi sẽ làm khay, ly, bình
và chén để tế lễ; ngươi sẽ làm những đồ ấy bằng vàng ròng. 30 Ngươi
phải luôn luôn đặt bánh tiến trên bàn, trước nhan Ta.
Trụ
đèn (Xh 37:17 -24)
31
"Ngươi
sẽ làm một trụ đèn bằng vàng ròng. Ngươi sẽ làm trụ đèn, chân đèn và nhánh đèn
bằng vàng gò; đài hoa, nụ hoa và cánh hoa gắn liền với trụ đèn. 32 Sáu
nhánh đâm ra hai bên: ba nhánh bên này, ba nhánh bên kia. 33 Trên
nhánh bên này, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ và cánh hoa; trên nhánh
bên kia, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ hoa và cánh hoa. Sáu nhánh từ
trụ đèn đâm ra sẽ đều như thế. 34 Ở thân trụ đèn, có bốn đài hoa
hình hoa hạnh đào, với nụ hoa và cánh hoa. 35 Một nụ hoa nằm dưới
hai nhánh đầu gắn liền với trụ đèn, một nụ hoa nằm dưới hai nhánh giữa gắn liền
với trụ đèn, và một nụ hoa nằm dưới hai nhánh cuối gắn liền với trụ đèn. Sáu
nhánh từ trụ đèn đâm ra sẽ đều như thế. 36 Các nụ hoa và nhánh đều
gắn liền với trụ đèn; tất cả thành một khối bằng vàng gò, bằng vàng ròng. 37
Rồi ngươi sẽ làm bảy cái đèn, đặt lên đó thế nào cho chúng toả ánh sáng
ra phía trước trụ đèn. 38 Kéo cắt bấc và đĩa đựng tàn sẽ bằng vàng
ròng. 39 Ngươi phải dùng đến ba mươi ký vàng ròng để làm trụ đèn và
mọi đồ phụ tùng đó. 40 Hãy nhìn xem và làm theo mẫu đã chỉ cho ngươi
trên núi.
Chương 26
Nhà
Tạm. Vải và bạt. (Xh 36:8-19)
1
"Ngươi
sẽ dựng Nhà Tạm với mười tấm thảm bằng sợi gai mịn xe, vải đỏ tía, vải điều và
vải đỏ thẫm. Ngươi sẽ cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật. 2 Mỗi
tấm thảm dài mười bốn thước, rộng hai thước; tấm nào cũng có kích thước như vậy.
3 Năm tấm khâu liền với nhau, còn năm tấm kia cũng khâu liền với
nhau. 4 Ngươi sẽ lấy vải đỏ tía làm dải đính vào mép tấm thứ nhất
của những tấm thảm ráp lại; ngươi cũng đính như thế vào mép tấm cuối cùng của
những tấm thảm ráp lại bên kia. 5 Ngươi sẽ đính năm mươi dải vào tấm
thứ nhất, và cũng sẽ đính năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm
ráp lại bên kia; các dải ấy phải thật cân đối với nhau. 6 Ngươi sẽ
làm năm mươi cái móc bằng vàng, và dùng những móc ấy để nối các tấm thảm lại
với nhau. Như thế, Nhà Tạm sẽ thành một khối duy nhất.
7
Ngươi
sẽ làm những tấm thảm lông dê để làm một cái lều ở bên trên Nhà Tạm; ngươi sẽ
làm mười một tấm. 8 Mỗi tấm dài mười lăm thước, rộng hai thước. Mười
một tấm đều có cùng một kích thước. 9 Ngươi sẽ khâu liền năm tấm
thành một mái, và sáu tấm kia thành một mái khác; ngươi sẽ gấp tấm thứ sáu về
phía trước lều. 10 Ngươi sẽ đính năm mươi dải vào mép tấm thứ nhất
của những tấm thảm ráp lại, và năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm
thảm ráp lại bên kia. 11 Ngươi sẽ làm năm mươi móc đồng, và sẽ xỏ
móc vào dải; ngươi sẽ ghép lại thành một cái lều, và như vậy sẽ chỉ có một lều
duy nhất.
12
Phần
tấm thảm còn dư nhô ra, thì một nửa cho rủ xuống phía sau Nhà Tạm. 13 Mỗi
bên để dư ra nửa thước theo chiều dài các tấm thảm của lều, cho rủ xuống hai
bên để che Nhà Tạm.
14
Ngươi
sẽ làm một tấm bạt che lều bằng da cừu nhuộm đỏ, và một tấm bạt bằng da cá heo
phủ ở bên trên.
Khung
lều (Xh 36: 20 -34)
15
"Ngươi
sẽ lấy những tấm ván gỗ keo dựng thẳng lên để căng Nhà Tạm. 16 Mỗi tấm
dài năm thước, rộng bảy tấc rưỡi. 17 Mỗi tấm có hai mộng song song.
Ngươi sẽ làm mọi tấm ván của Nhà Tạm theo kiểu đó. 18 Ngươi sẽ đặt
ván để dựng Nhà Tạm như sau: hai mươi tấm hướng về Ne-ghép, về phía nam. 19
Ngươi sẽ làm bốn mươi đế bạc đặt dưới hai mươi tấm ván đó: hai đế dưới
một tấm ván ăn khớp với hai mộng của ván, và hai đế dưới một tấm ván khác ăn
khớp với hai mộng của ván. 20 Phía bên kia của Nhà Tạm, hướng bắc,
ngươi cũng sẽ đặt hai mươi tấm ván, 21 và cũng làm bốn mươi đế bạc,
cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm. 22 Phía trong cùng Nhà
Tạm, hướng tây, ngươi sẽ đặt sáu tấm ván. 23 Ngươi sẽ đặt hai tấm
ván ở các góc Nhà Tạm, ở phía trong cùng. 24 Các tấm ván sẽ được
ghép đôi lại với nhau từ dưới lên trên, cho tới cái vòng thứ nhất. Hai tấm ván
ở hai bên góc đều như thế. 25 Vậy sẽ có tám tấm ván với các đế bạc,
tất cả là mười sáu đế: cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm.
26
Ngươi
sẽ làm các thanh ngang bằng gỗ keo: năm cái cho các tấm ván ở mặt thứ nhất của
Nhà Tạm, 27 năm cái cho các tấm ván ở mặt bên kia của Nhà Tạm, cũng
như năm cái cho các tấm ván phía trong cùng Nhà Tạm, hướng tây. 28 Thanh
ngang giữa, ở nửa độ cao các tấm ván, sẽ chạy suốt từ đầu này đến đầu kia. 29
Ngươi sẽ thiếp vàng các tấm ván; ngươi sẽ đúc những vòng bằng vàng để xỏ
các thanh ngang; ngươi cũng sẽ thiếp vàng các thanh ngang ấy. 30 Ngươi
sẽ dựng Nhà Tạm theo kiểu đã chỉ cho ngươi trên núi.
Bức
trướng (Xh 36:35 -38)
31
"Ngươi
sẽ làm một bức trướng bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe.
Ngươi sẽ cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật. 32 Ngươi
sẽ căng bức màn trướng đó lên bốn cột gỗ keo thiếp vàng có những móc bằng vàng,
đặt trên đế bằng bạc. 33 Ngươi sẽ mắc bức trướng vào những cái móc.
Ngươi sẽ đưa Hòm Bia Chứng Ước vào đó, sau bức trướng; đối với các ngươi, bức
trướng sẽ phân chia Nơi Thánh với Nơi Cực Thánh. 34 Ngươi sẽ đặt nắp
xá tội lên trên Hòm Bia Chứng Ước ở Nơi Cực Thánh. 35 Ngươi sẽ đặt
cái bàn đằng trước bức trướng, và đặt trụ đèn đối diện với bàn đó, ở phía nam
Nhà Tạm; còn cái bàn, thì ngươi đặt ở phía bắc. 36 Ngươi sẽ làm một
bức màn che cửa lều bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe:
đó là công việc của thợ thêu. 37 Ngươi sẽ làm năm cột gỗ keo thiếp
vàng để treo bức màn đó; những cột ấy có móc bằng vàng; ngươi sẽ đúc năm đế
bằng đồng để dựng những cột ấy.
Chương 27
Bàn
thờ dâng lễ toàn thiêu (Xh 38:1-7)
1
"Ngươi
sẽ làm bàn thờ bằng gỗ keo: dài hai thước rưỡi, rộng hai thước rưỡi - nghĩa là
hình vuông - cao một thước rưỡi. 2 Ngươi sẽ làm bốn cái sừng ở bốn
góc, các sừng ấy sẽ làm thành một khối với bàn thờ. Ngươi sẽ lấy đồng mà bọc
bàn thờ. 3 Ngươi sẽ làm những cái nồi để đựng tro lễ vật, làm xẻng,
bình rảy, xiên và lư hương; các đồ vật ấy, ngươi sẽ làm bằng đồng. 4 Ngươi
sẽ làm một cái vỉ bằng đồng, hình lưới. Ngươi sẽ làm bốn chiếc vòng bằng đồng,
ở bốn góc lưới. 5 Ngươi sẽ bọc lưới đó quanh chân bàn thờ, dưới chỗ
mặt bàn nhô ra, từ đất lên; lưới ấy chỉ cao bằng nửa chiều cao của bàn thờ. 6
Ngươi sẽ làm những cây đòn để khiêng bàn thờ, những cây đòn ấy làm bằng
gỗ keo. Ngươi sẽ bọc đồng những cây đòn ấy. 7 Người ta sẽ xỏ đòn vào
vòng; khi khiêng bàn thờ thì những cây đòn đó sẽ ở hai bên bàn thờ. 8 Ngươi
sẽ làm bàn thờ rỗng, bằng ván ghép lại; như đã chỉ cho ngươi trên núi thế nào,
thì người ta sẽ phải làm như vậy.
Khuôn
viên (Xh 38:9-20)
9
"Ngươi
sẽ làm khuôn viên của Nhà Tạm. Phía nam, hướng Ne-ghép, khuôn viên sẽ có những
tấm rèm bằng sợi gai mịn xe, phía này dài năm mươi thước. 10 Hai
mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo
rèm thì bằng bạc. 11 Phía bắc cũng vậy, sẽ có những tấm rèm dài năm
mươi thước. Hai mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi đế bằng đồng; móc ở các
cột và thanh treo rèm thì bằng bạc. 12 Chiều rộng của khuôn viên, về
phía biển, sẽ có những tấm rèm hai mươi lăm thước, với mười cột và mười đế. 13
Về hướng đông, phía mặt trời mọc, khuôn viên sẽ rộng hai mươi lăm thước; 14
một bên che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế; 15 bên
kia cũng che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế. 16 Ở cửa khuôn
viên, sẽ có một bức màn mười thước bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và
sợi gai mịn xe: đó là công việc của thợ thêu; bức màn này treo lên bốn cột đặt
trên bốn đế. 17 Mọi cột chung quanh khuôn viên nối liền với nhau nhờ
những thanh treo màn bằng bạc; móc sẽ bằng bạc và đế bằng đồng. 18 Khuôn
viên sẽ dài năm mươi thước, rộng hai mươi lăm thước, cao hai thước rưỡi; bức
màn sẽ bằng sợi gai mịn xe, còn các đế sẽ bằng đồng. 19 Tất cả các
đồ vật trong Nhà Tạm dùng vào mọi việc phụng sự tại đó, cũng như mọi cái cọc
của Nhà Tạm và của khuôn viên sẽ đều bằng đồng.
Dầu
thắp đèn (Lv 24:1-4)
20
"Phần
ngươi, ngươi sẽ truyền cho con cái Ít-ra-en phải giã ô-liu lấy dầu nguyên chất,
để thắp đèn, hầu cho luôn luôn có ngọn lửa cháy. 21 Ông A-ha-ron và
con cái sẽ đặt chiếc đèn đó trong Lều Hội Ngộ, bên ngoài bức trướng treo đằng
trước Chứng Ước, sao cho nó cháy từ chiều đến sáng trước nhan Ðức Chúa. Ðó là
điều luật vĩnh viễn cho các thế hệ con cái Ít-ra-en.
Chương 28
Phẩm
phục của các tư tế
1
"Phần
ngươi, hãy tách A-ha-ron, anh ngươi, và các con ông ra khỏi hàng ngũ con cái
Ít-ra-en, để ông ở bên cạnh ngươi mà thi hành chức tư tế phục vụ Ta: A-ha-ron
và các con của A-ha-ron là Na-đáp, A-vi-hu, E-la-da và I-tha-ma. 2 Ngươi
sẽ may cho A-ha-ron, anh ngươi, những lễ phục để ông được vẻ uy nghi rực rỡ. 3
Chính ngươi sẽ bảo tất cả những thợ giỏi, đã được Ta ban tràn đầy tài
năng khôn khéo, may áo tế cho A-ha-ron, để ông được thánh hiến mà thi hành chức
tư tế phục vụ Ta. 4 Ðây là các phẩm phục họ sẽ may: túi đeo trước
ngực, áo ê-phốt, áo khoác, áo dài thêu, mũ tế và đai lưng. Họ sẽ may lễ phục
cho A-ha-ron, anh ngươi, và cho con cái ông, để ông thi hành chức tư tế phục vụ
Ta. 5 Còn họ, họ sẽ lấy vàng, vải tía, vải điều, vải đỏ thẫm và vải
gai mịn, mà làm.
Áo
ê-phốt (Xh 39:1-7)
6
"Họ
sẽ làm áo ê-phốt bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai
mịn xe. 7 Sẽ có hai cầu vai nối liền với hai đầu áo ê-phốt, và như
vậy hai thân áo sẽ nối liền với nhau. 8 Băng chéo đeo trên áo ê-phốt
để giữ áo thì sẽ làm cùng một kiểu và đính liền vào đó; băng chéo ấy sẽ bằng
chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm, và sợi gai mịn xe. 9 Ngươi
sẽ lấy hai viên mã não và sẽ khắc trên đó tên con cái Ít-ra-en: 10 trên
viên thứ nhất có ghi sáu tên, và trên viên thứ hai, sáu tên còn lại, theo thứ
tự trước sau. 11 Ngươi sẽ khắc tên con cái Ít-ra-en vào hai viên
ngọc đó theo kiểu thợ chạm khắc dấu ấn; ngươi sẽ nhận những viên ngọc đó vào
những ổ bằng vàng. 12 Ngươi sẽ đặt hai viên ngọc đó trên cầu vai của
áo ê-phốt để làm kỷ vật tưởng nhớ con cái Ít-ra-en; A-ha-ron sẽ mang tên của
chúng trên hai vai, trước nhan Ðức Chúa, để làm kỷ vật. 13 Ngươi sẽ
làm những ổ bằng vàng 14 và hai dây chuyền bằng vàng ròng; ngươi sẽ làm hai dây
chuyền đó theo kiểu khoen lật để làm như dải buộc; ngươi sẽ đặt hai dây chuyền
khoen lật đó vào ổ hột.
Túi
đeo trước ngực (Xh 39:8-21)
15
"Ngươi
sẽ làm một túi đeo trước ngực rất mỹ thuật đựng thẻ xăm cho biết phán quyết của
Thiên Chúa. Ngươi sẽ làm túi đó theo kiểu áo ê-phốt: bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía,
chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. 16 Túi đó hình vuông, may
kép, dài một gang, rộng một gang. 17 Ngươi sẽ nhận vào đó bốn hàng
ngọc: ở hàng thứ nhất có nhận xích não, hoàng ngọc và bích ngọc; 18 ở
hàng thứ hai có nhận hồng ngọc, lam ngọc và kim cương; 19 ở hàng thứ
ba có nhận miêu nhãn thạch, mã não và tử ngọc; 20 ở hàng thứ tư có
nhận kim lục thạch, mã não có vân và vân thạch. Những viên ngọc đó sẽ được nhận
vào những ổ bằng vàng.21 Các viên ngọc sẽ mang tên con cái Ít-ra-en: mười hai
viên ngọc mang mười hai tên của chúng khắc theo kiểu dấu ấn, mỗi viên ngọc mang
tên của một trong mười hai chi tộc. 22 Ngươi sẽ làm cho túi đeo
trước ngực những dây chuyền khoen lật bằng vàng ròng để làm dải buộc. 23 Ngươi
sẽ làm cho túi đó hai vòng bằng vàng, và ngươi sẽ đính hai vòng đó vào hai góc
túi. 24 Ngươi sẽ xâu hai dây chuyền khoen lật bằng vàng đó vào hai
vòng đặt ở góc túi. 25 Ngươi sẽ đặt hai đầu dây chuyền khoen lật vào
hai ổ, rồi đặt lên cầu vai của áo ê-phốt, mặt phải. 26 Ngươi sẽ làm
hai vòng bằng vàng, rồi gắn vào hai đầu túi ở mép trong, mặt trái áp áo ê-phốt.
27 Ngươi sẽ làm hai vòng bằng vàng, rồi đính vào hai cầu vai của áo
ê-phốt bên dưới, mặt phải, gần chỗ buộc, bên trên băng chéo của áo ê-phốt. 28
Người ta sẽ lấy một dải vải đỏ tía mà buộc các vòng của túi đeo trước ngực
vào các vòng của áo ê-phốt, để túi đó nằm trên băng chéo của áo ê-phốt: như
thế, túi sẽ không xê dịch được trên áo ê-phốt. 29 Khi vào nơi thánh,
A-ha-ron sẽ mang trên ngực tên con cái Ít-ra-en, làm kỷ vật vĩnh viễn trước
nhan Ðức Chúa, được ghi vào túi đeo trước ngực, chỗ đựng thẻ xăm phán quyết. 30
Ngươi sẽ đặt các thẻ xăm phán quyết u-rim và tum-mim vào túi đeo trước
ngực; những vật này sẽ nằm trên ngực A-ha-ron, khi ông đến trước nhan Ðức Chúa.
Như thế, trước nhan Ðức Chúa, A-ha-ron sẽ luôn mang trên ngực phương tiện cho
biết phán quyết của Thiên Chúa về con cái Ít-ra-en.
Áo
khoác (Xh 39:22 -26)
31
"Ngươi
sẽ làm áo khoác toàn bằng sợi đỏ tía, để mặc dưới áo ê-phốt. 32 Ở
giữa, sẽ khoét cổ để chui đầu vào; chung quanh cổ áo, sẽ có một đường viền: đó
là công trình của thợ dệt; cổ đó sẽ giống như cổ áo giáp, không sao rách được. 33
Ngươi sẽ làm ở vòng quanh gấu dưới những quả lựu bằng chỉ đỏ tía, chỉ
điều, chỉ đỏ thẫm; những lục lạc bằng vàng xen kẽ với những quả lựu, và ngươi
sẽ làm như thế cho hết vòng: 34 một lục lạc bằng vàng rồi một quả
lựu, một lục lạc bằng vàng rồi một quả lựu, vòng quanh gấu dưới áo khoác. 35
A-ha-ron sẽ mặc áo đó khi hành lễ. Người ta sẽ nghe tiếng lục lạc, khi
ông đến nơi thánh, trước nhan Ðức Chúa, và khi ông bước ra: như vậy, ông sẽ
khỏi phải chết.
Dấu
thánh hiến (Xh 39:30 -31)
36
"Ngươi
sẽ làm một huy hiệu bằng vàng ròng. Ngươi sẽ khắc trên đó những chữ sau đây,
theo kiểu khắc dấu ấn: "Thánh hiến cho Ðức Chúa.” 37 Ngươi sẽ
đính huy hiệu đó trên một dây bằng chỉ đỏ tía buộc vào mũ tế; huy hiệu đó sẽ ở
mặt trước mũ tế. 38 Huy hiệu đó sẽ ở trên trán A-ha-ron. Như vậy,
A-ha-ron sẽ mang lấy những lỗi lầm con cái Ít-ra-en đã phạm liên quan đến những
của thánh, khi chúng thánh hiến những lễ vật thánh. Huy hiệu đó sẽ luôn luôn ở
trên trán ông, để Ðức Chúa đoái nhận những của lễ ấy. 39 Ngươi sẽ
dệt một áo dài bằng sợi gai mịn, và làm một mũ tế cũng bằng sợi gai mịn. Ngươi
sẽ làm một đai lưng: đó là công trình của thợ thêu.
Y
phục của tư tế (Xh 39:27 -29)
40
"Ngươi
sẽ may áo dài cho các con ông A-ha-ron và làm đai lưng cho họ. Ngươi cũng sẽ
làm cho họ những chiếc mũ để họ được vẻ uy nghi rực rỡ. 41 Ngươi sẽ
cho A-ha-ron anh ngươi, và các con ông mặc các phẩm phục ấy. Ngươi sẽ xức dầu
cho họ, tấn phong và thánh hiến họ làm tư tế phục vụ Ta. 42 Ngươi
cũng sẽ may quần đùi bằng vải gai cho họ, để họ khỏi bị hở hang; quần đó sẽ che
thân từ ngang lưng đến vế. 43 A-ha-ron và các con ông sẽ mặc quần ấy
lúc vào Lều Hội Ngộ, hoặc khi tiến đến gần bàn thờ để hành lễ trong nơi thánh;
như thế, họ sẽ không mang tội và khỏi phải chết. Ðó là một điều luật vĩnh viễn
cho A-ha-ron và dòng dõi đến sau ông.
Chương 29
Lễ
vật (Lv 8:14 -24, 30)
10
"Ngươi
sẽ dắt con bò đến trước Lều Hội Ngộ. A-ha-ron và các con ông sẽ đặt tay lên đầu
con bò. 11 Ngươi sẽ sát tế con bò đó trước nhan Ðức Chúa, ở cửa Lều
Hội Ngộ. 12 Ngươi sẽ lấy máu con bò, dùng ngón tay mà bôi vào các
góc bàn thờ, và đổ tất cả máu còn lại xuống trên bàn thờ. 13 Ngươi
sẽ lấy tất cả lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, cả khối mỡ trên gan, hai trái cật với
lớp mỡ dính ngoài, mà đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. 14 Nhưng
thịt, da và phân bò, thì ngươi sẽ bỏ vào lửa mà thiêu ở ngoài trại: đó là lễ tạ
tội.
15
Ngươi
sẽ bắt một trong hai con cừu đực. A-ha-ron và các con ông sẽ đặt tay lên đầu nó.
16 Ngươi sẽ sát tế con cừu đó, lấy máu rảy chung quanh bàn thờ. 17
Ngươi sẽ chặt nó ra làm tư, rửa bộ lòng và cẳng, rồi đặt lên bốn phần
thịt và đầu con vật. 18 Sau đó, ngươi sẽ đốt trên bàn thờ tất cả con
cừu cho cháy nghi ngút. Ðó là lễ toàn thiêu dâng lên Ðức Chúa, hương thơm làm
đẹp lòng Người, đó là lễ hoả tế dâng Ðức Chúa.
19
Ngươi
sẽ bắt con cừu đực thứ hai. A-ha-ron và các con ông sẽ đặt tay lên đầu nó. 20
Ngươi sẽ sát tế con cừu đó, rồi lấy máu bôi vào trái tai phải của
A-ha-ron, vào trái tai phải của các con ông, vào ngón cái tay phải và ngón cái
chân phải; rồi ngươi lấy máu còn lại rưới chung quanh bàn thờ. 21 Ngươi
sẽ lấy máu trên bàn thờ và dầu tấn phong rảy trên A-ha-ron và phẩm phục của
ông, trên các con ông và phẩm phục của họ; như thế, A-ha-ron và phẩm phục của
ông, các con ông và phẩm phục của họ, sẽ được thánh hiến.
Lễ
tấn phong các tư tế (Lv 8:25 -29)
22
"Ngươi
sẽ lấy mỡ con cừu, lấy đuôi, lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, khối mỡ của gan, hai
trái cật với lớp mỡ dính ngoài, cũng như đùi bên phải; vì đó là con cừu dùng cho
lễ tấn phong; 23 ngươi cũng sẽ lấy một ổ bánh mì, một tấm bánh ngọt
chiên với dầu và một tấm bánh tráng trong giỏ bánh không men ở trước nhan Ðức
Chúa; 24 tất cả những thứ đó, ngươi sẽ đặt trên bàn tay A-ha-ron và
trên bàn tay các con ông, rồi ngươi sẽ cử hành nghi thức tiến dâng trước nhan
Ðức Chúa. 25 Sau đó, ngươi sẽ lấy lại các vật ấy từ tay họ và đem
đốt cho cháy nghi ngút ở bàn thờ, bên trên của lễ toàn thiêu, khiến các vật ấy
trở thành hương thơm trước nhan Ðức Chúa, làm đẹp lòng Người: đó là lễ hoả tế
dâng Ðức Chúa.
26
Ngươi
sẽ lấy cái ức con cừu dùng cho lễ tấn phong A-ha-ron, rồi ngươi sẽ cử hành nghi
thức dâng tiến trước nhan Ðức Chúa: đó sẽ là phần của ngươi. 27 Ngươi
sẽ thánh hiến cái ức đã được tiến dâng và cái đùi đã được tách ra: đó là phần
đã được tiến dâng và tách ra từ con cừu dùng cho lễ tấn phong A-ha-ron và các
con ông. 28 Ðó là những gì mà A-ha-ron và các con ông sẽ luôn luôn
nhận được từ con cái Ít-ra-en, bởi vì đó là phần dâng cúng; con cái Ít-ra-en
phải lấy một phần lễ vật để dâng cúng mỗi khi dâng hy lễ kỳ an; đó là phần dâng
cúng Ðức Chúa.
29
Lễ
phục A-ha-ron mặc sẽ truyền lại cho các con đến sau ông; các con ông sẽ mặc lễ
phục đó khi họ được xức dầu tấn phong. 30 Trong vòng bảy ngày, người
nào trong số các con ông thay thế ông làm tư tế và vào Lều Hội Ngộ để hành lễ
trong nơi thánh, thì sẽ mặc lễ phục đó.
Tiệc
thánh (Lv 8:31 -36)
31
"Ngươi
sẽ lấy thịt con cừu đực dùng cho lễ tấn phong đem nấu trong nơi thánh. 32 A-ha-ron
và các con ông sẽ ăn thịt cừu và bánh trong giỏ, ở cửa Lều Hội Ngộ. 33 Họ
sẽ ăn các của lễ xá tội đã được dâng tiến để cử hành lễ tấn phong và thánh hiến
họ; nhưng không người phàm nào được ăn những của ấy, vì đó là của thánh. 34
Nếu đến sáng hôm sau còn thừa lại thịt ngày lễ tấn phong và bánh, thì
ngươi sẽ đem đốt đi; không được ăn các thứ ấy, vì đó là của thánh. 35 Ngươi
sẽ làm như thế cho A-ha-ron và các con ông đúng như Ta đã truyền cho ngươi.
Ngươi sẽ dành bảy ngày để làm lễ tấn phong cho họ.
Thánh
hiến bàn thờ dâng lễ toàn thiêu
36
"Mỗi
ngày ngươi sẽ lấy một con bò mà dâng lễ tạ tội, làm lễ vật xá tội; ngươi sẽ
dâng lễ tạ tội để thanh tẩy bàn thờ khi cử hành lễ xá tội trên đó, rồi xức dầu
bàn thờ để thánh hiến. 37 Trong bảy ngày, ngươi sẽ cử hành lễ xá tội
trên bàn thờ và sẽ thánh hiến bàn thờ. Như thế, bàn thờ sẽ là vật rất thánh;
tất cả những gì chạm đến bàn thờ cũng sẽ là vật thánh.
Lễ
toàn thiêu thường nhật (Ðn 28:3-8)
38
"Ðây
là những gì ngươi sẽ dâng trên bàn thờ: hai con chiên một tuổi, ngày nào cũng
vậy, phải giữ như thế mãi mãi. 39 Ngươi sẽ dâng một con lúc sáng,
còn con thứ hai thì dâng vào lúc chập tối. 40 Cùng với con chiên thứ
nhất, ngươi sẽ dâng bốn lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với hai lít dầu ô-liu
giã trong cối, và lấy hai lít rượu nho làm rượu tế. 41 Còn con chiên
thứ hai, ngươi sẽ dâng vào lúc chập tối, và dâng cùng với lễ phẩm và lễ tưới
rượu như ban sáng. Ðó là hương thơm làm đẹp lòng Ðức Chúa, là lễ hoả tế dâng
Ðức Chúa. 42 Ðó là lễ toàn thiêu phải dâng luôn mãi qua mọi thế hệ,
ở cửa Lều Hội Ngộ, trước nhan Ðức Chúa, nơi Ta sẽ gặp gỡ các ngươi, để nói
chuyện với ngươi.
43
Chính
đó là nơi Ta gặp gỡ con cái Ít-ra-en, Ta sẽ lấy vinh quang của Ta mà thánh hiến
nơi đó. 44 Ta sẽ thánh hiến Lều Hội Ngộ và bàn thờ, Ta cũng sẽ thánh
hiến A-ha-ron và các con ông làm tư tế phục vụ Ta. 45 Ta sẽ ngự giữa
con cái Ít-ra-en và sẽ là Thiên Chúa của chúng. 46 Và chúng sẽ biết
rằng chính Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng, Ðấng đã đưa chúng ra khỏi đất
Ai-cập để ngự giữa chúng, chính Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng.
Chương 30
Hương
án (Xh 37:25 -28)
1
"Ngươi
sẽ làm một bàn thờ để đốt hương; ngươi sẽ làm bằng gỗ keo. 2 Hương
án đó sẽ dài nửa thước, rộng nửa thước - nghĩa là hình vuông - và cao một
thước; các góc hình sừng làm thành một khối với hương án. 3 Ngươi sẽ
lấy vàng ròng mà bọc hương án: mặt trên, bốn mặt chung quanh và các góc hình
sừng. Chung quanh hương án, ngươi sẽ làm một đường viền bằng vàng. 4 Ngươi
sẽ làm hai vòng bằng vàng, phía dưới đường viền, ở hai bên sườn; ngươi sẽ làm
hai vòng đó ở hai bên, để xỏ đòn khiêng hương án. 5 Ngươi sẽ làm những
cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng. 6 Ngươi sẽ đặt hương án đó trước bức
trướng che Hòm Bia Chứng Ước, trước nắp xá tội nằm ở trên Chứng Ước là nơi Ta
sẽ gặp gỡ ngươi. 7 Trên đó, A-ha-ron sẽ đốt hương thơm: sáng nào,
ông ấy cũng đốt hương thơm khi chuẩn bị dầu đèn, 8 và lúc A-ha-ron
thắp đèn lên vào chập tối, ông ấy cũng sẽ đốt hương thơm: đó là hương vĩnh viễn
dâng trước nhan Ðức Chúa qua mọi thế hệ của các ngươi. 9 Trên hương
án đó, các ngươi sẽ không dâng các thứ hương thường, hay lễ toàn thiêu, hoặc lễ
phẩm; các ngươi cũng không tưới rượu tế trên đó. 10 Mỗi năm một lần,
A-ha-ron sẽ cử hành lễ xá tội trên các góc hương án đó. Qua mọi thế hệ, các
ngươi sẽ lấy máu con vật dùng trong lễ tạ tội, dâng vào ngày xá tội mỗi năm một
lần, mà cử hành lễ xá tội, trên các góc hương án. Ðó sẽ là vật rất thánh dâng
Ðức Chúa."
Thuế
thân
11
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 12 "Khi nào ngươi kiểm tra dân số để
biết số con cái Ít-ra-en, thì mỗi người dân phải dâng lên Ðức Chúa tiền chuộc
mạng trong lúc kiểm tra dân số; và như thế sẽ không có tai ương nào xảy ra
trong lúc kiểm tra dân số. 13 Ðây là những gì mà bất cứ ai thuộc
diện kiểm tra dân số phải nộp: hai chỉ bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh
điện; hai chỉ bạc đó sẽ là phần dâng cúng Ðức Chúa. 14 Bất cứ ai
thuộc diện kiểm tra dân số, từ hai mươi tuổi trở lên, sẽ phải nộp phần dâng
cúng Ðức Chúa. 15 Người giàu sẽ không nộp hơn hai chỉ bạc, và người
nghèo sẽ không nộp ít hơn, để dâng cúng Ðức Chúa mà chuộc mạng mình. 16 Ngươi
sẽ lấy tiền con cái Ít-ra-en chuộc mạng mà dùng vào việc phục vụ Lều Hội Ngộ:
đối với con cái Ít-ra-en, đó sẽ là kỷ vật trước nhan Ðức Chúa nhắc nhở rằng các
ngươi đã chuộc mạng."
Vạc
đồng
17
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 18 "Ngươi sẽ làm một cái vạc đồng có
đế cũng bằng đồng dùng vào việc tẩy rửa; ngươi sẽ đặt cái vạc đó giữa Lều Hội
Ngộ và bàn thờ. Ngươi sẽ đổ nước vào đó; 19 A-ha-ron và các con ông
sẽ dùng nước đó mà tẩy rửa tay chân. 20 Khi vào Lều Hội Ngộ, họ sẽ
lấy nước đó mà tẩy rửa để khỏi phải chết; hoặc khi tiến đến bàn thờ để hành lễ,
để đốt của lễ hoả tế mà dâng Ðức Chúa, thì cũng vậy. 21 Họ sẽ tẩy
rửa tay chân để khỏi phải chết. Ðó sẽ là điều luật vĩnh viễn cho họ, cho
A-ha-ron và dòng dõi ông qua mọi thế hệ."
Dầu
tấn phong
22
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 23 "Phần ngươi, hãy lo cho có hương liệu
hảo hạng: năm ký mộc dược nguyên chất; một nửa nghĩa là hai ký rưỡi hương nhục
quế; hai ký rưỡi hương quế thanh; 24 năm ký quế bì, tính theo đơn vị
đo lường của thánh điện, và bảy lít dầu ô-liu. 25 Ngươi sẽ lấy những
thứ đó pha chế thành dầu thánh để tấn phong, hợp chất các hương dược này là sản
phẩm của thợ chế nước hoa: đó sẽ là dầu thánh để tấn phong. 26 Ngươi
sẽ xức dầu Lều Hội Ngộ và Hòm Bia Chứng Ước, 27 bàn và mọi đồ phụ
tùng, trụ đèn và các đồ phụ tùng, hương án, 28 bàn thờ dâng lễ toàn
thiêu và mọi đồ phụ tùng, vạc và đế vạc. 29 Ngươi sẽ thánh hiến các
đồ vật ấy; và các đồ vật ấy sẽ là một cái gì rất thánh: tất cả những gì chạm
đến các đồ vật ấy sẽ là đồ vật thánh. 30 Ngươi cũng xức dầu cho
A-ha-ron và các con ông; ngươi sẽ thánh hiến họ làm tư tế phục vụ Ta. 31 Ngươi
sẽ nói lại với con cái Ít-ra-en: "Ðó sẽ là dầu thánh của Ta, dùng để tấn
phong qua mọi thế hệ.” 32 Sẽ không được đổ dầu xuống trên da thịt
người thường, và các ngươi cũng không được chế một thứ dầu nào khác giống thứ
dầu này: đó là một vật thánh, các ngươi sẽ coi như một vật thánh. 33 Kẻ
nào chế một hương thơm giống như thế mà xức cho người phàm, thì sẽ bị khai trừ
khỏi dân nó."
Hương
thơm
34
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy lấy các thứ hương chất: tô hợp hương,
hương loa, phong tử hương, các hương chất và nhũ hương nguyên chất; số lượng
mỗi thứ sẽ đồng đều. 35 Ngươi sẽ lấy các thứ hương chất đó chế thành
hương để đốt: hợp chất các hương này sẽ là sản phẩm của thợ làm hương; hương đó
sẽ là hương pha muối, nguyên chất, và là hương thánh. 36 Ngươi sẽ
lấy một phần tán thành bột, và sẽ đặt trước Chứng Ước, trong Lều Hội Ngộ, nơi
Ta sẽ gặp gỡ ngươi. Ðối với các ngươi, đó sẽ là một vật rất thánh. 37 Các
ngươi sẽ không được chế hương theo kiểu ấy mà dùng: đối với ngươi, đó sẽ là một
vật thánh, dành riêng cho Ðức Chúa. 38 Kẻ nào chế hương như thế để
ngửi mùi thơm, thì sẽ bị khai trừ khỏi dân nó."
Chương 31
Thợ
dựng nơi thánh (Xh 35:30 -36, 1)
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Ngươi hãy coi: Ta đã gọi đích danh
Bơ-xan-ên con của U-ri, con của Khua, thuộc chi tộc Giu-đa. 3 Ta sẽ
ban cho nó dồi dào thần khí của Thiên Chúa, để nó thành người khéo tay, giỏi
giang và lành nghề mà làm mọi công việc, 4 để nó nghĩ ra những tác
phẩm nghệ thuật, làm bằng vàng, bạc, hay đồng, 5 mài ngọc đính áo,
chạm gỗ và thực hiện mọi công việc. 6 Này Ta đã cho nó một người phụ
tá là O-ho-li-áp, con của A-khi-xa-mác, thuộc chi tộc Ðan. Và Ta ban cho mọi
người thợ khéo tay được lòng trí khôn ngoan, để họ làm tất cả những gì Ta đã
truyền cho ngươi: 7 Lều Hội Ngộ, Hòm Bia Chứng Ước, nắp xá tội trên
Hòm Bia, và tất cả đồ đạc trong lều; 8 bàn và các đồ phụ tùng; trụ
đèn bằng vàng ròng và mọi đồ phụ tùng; hương án; 9 bàn dâng lễ toàn
thiêu và mọi đồ phụ tùng; vạc và đế vạc; 10 phẩm phục và lễ phục
dành cho tư tế A-ha-ron và y phục các con ông mặc để thi hành chức tư tế; 11
dầu tấn phong và hương thơm dùng trong nơi thánh. Họ sẽ làm đúng theo mọi
điều Ta đã truyền cho ngươi."
Nghỉ
ngày sa-bát
12
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 13 "Phần ngươi, hãy nói với con cái
Ít-ra-en: cách riêng, các ngươi sẽ giữ các ngày sa-bát của Ta, bởi vì đó là một
dấu hiệu giữa Ta và con cái các ngươi qua mọi thế hệ, để người ta biết rằng
chính Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hiến các ngươi. 14 Các ngươi sẽ giữ
ngày sa-bát, vì đó là ngày thánh đối với các ngươi. Kẻ nào vi phạm điều ấy, thì
sẽ bị xử tử; phải, kẻ nào làm việc trong ngày ấy, sẽ bị khai trừ khỏi dân nó. 15
Trong sáu ngày, người ta sẽ làm việc, nhưng ngày thứ bảy là một ngày
sa-bát, một ngày nghỉ hoàn toàn, dâng Ðức Chúa: kẻ nào làm việc trong ngày
sa-bát sẽ bị xử tử. 16 Con cái Ít-ra-en sẽ giữ ngày sa-bát, nghĩa là
nghỉ ngơi trong ngày đó, qua mọi thế hệ: đó là một giao ước vĩnh viễn. 17 Ðó
là một dấu hiệu vĩnh viễn giữa Ta và con cái Ít-ra-en; vì trong sáu ngày Ðức
Chúa đã dựng nên trời đất, nhưng ngày thứ bảy Người đã ngưng các việc và nghỉ
xả hơi."
Thiên
Chúa trao cho ông Mô-sê các tấm bia ghi Lề Luật
18
Sau
khi phán với ông Mô-sê trên núi Xi-nai, Ðức Chúa ban cho ông hai tấm bia Chứng
Ước, hai tấm bia đá do chính tay Thiên Chúa viết.
Chương 32
5.
Con Bê Bằng Vàng. Tái Lập Giao Ước.
Con
bê bằng vàng
1
Dân
thấy ông Mô-sê lâu quá không xuống núi, bèn tụ họp bên ông A-ha-ron và nói với
ông: "Xin ông đứng lên, làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng
tôi, vì chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Mô-sê này, là
người đã đưa chúng tôi lên từ đất Ai-cập.” 2 Ông A-ha-ron nói với
họ: "Hãy gỡ các khuyên vàng mà vợ và con trai con gái anh em đeo ở tai,
rồi đem đến cho tôi.” 3 Toàn dân gỡ các khuyên vàng đeo tai và đem
đến cho ông A-ha-ron. 4 Ông lấy vàng từ tay họ trao cho, đem đúc và
dùng dao mà gọt đẽo thành một con bê. Bấy giờ họ nói: "Hỡi Ít-ra-en, đây
là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập.” 5 Thấy vậy, ông
A-ha-ron dựng một bàn thờ trước tượng con bê, rồi hô to: "Mai có lễ kính
Ðức Chúa!"
6
Ngay
hôm sau, họ dậy sớm, dâng tiến những của lễ toàn thiêu và những lễ vật kỳ an.
Dân ngồi xuống ăn uống, rồi đứng lên bày trò vui chơi.
Ðức
Chúa báo tin cho Mô-sê (Ðnl 9:12 -14)
7
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đi xuống, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân
mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai-cập. 8 Chúng đã vội đi ra ngoài con
đường Ta truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một con bê, rồi sụp xuống lạy nó, tế
nó và nói: "Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất
Ai-cập.” 9 Ðức Chúa lại phán với ông Mô-sê: "Ta đã thấy dân này
rồi, đó là một dân cứng đầu cứng cổ. 10 Bây giờ cứ để mặc Ta, cứ để
cơn thịnh nộ của Ta bừng lên phạt chúng, và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ
làm cho ngươi thành một dân lớn."
Ông
Mô-sê chuyển cầu cho dân (Ðnl 9:26 -29)
11
Ông
Mô-sê cố làm cho nét mặt Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, dịu lại. Ông thưa:
"Lạy Ðức Chúa, tại sao Ngài lại bừng bừng nổi giận với dân Ngài, dân mà
Ngài đã giơ cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ra khỏi đất Ai-cập? 12 Tại sao người
Ai-cập lại có thể rêu rao: Chính vì ác tâm mà Người đã đưa chúng ra, để giết
chúng trong miền núi và tiêu diệt chúng khỏi mặt đất? Xin Ngài nguôi cơn thịnh
nộ và xin Ngài thương đừng hại dân Ngài. 13 Xin Ngài nhớ đến các tôi
tớ Ngài là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en; Ngài đã lấy chính danh Ngài mà thề
với các vị ấy rằng: Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông đúc như sao trên
trời, và sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả miền đất ấy, là miền đất Ta đã
hứa; chúng sẽ được thừa hưởng miền đất ấy đến muôn đời.” 14 Ðức Chúa
đã thương, không giáng phạt dân Người như Người đã đe.
Ông
Mô-sê đập vỡ các tấm bia Lề Luật
15
Ông
Mô-sê từ núi trở xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước; những bia ấy có viết cả
hai mặt, mặt trước cũng như mặt sau. 16 Những bia ấy là do Thiên
Chúa làm ra, chữ là chữ của Thiên Chúa, khắc trên các bia.
17
Ông
Giô-suê nghe tiếng dân reo hò, thì nói với ông Mô-sê: "Có tiếng giao tranh
trong trại!” 18 Nhưng ông Mô-sê nói:
"Tôi
nghe không phải tiếng ca chiến thắng,
không
phải lời than bại trận mà là tiếng ca đối đáp!"
19
Vậy
khi đến gần trại, ông thấy con bê và những bọn người đang nhảy múa. Ông Mô-sê
nổi cơn thịnh nộ: Ông ném các tấm bia đang cầm trong tay và đập vỡ dưới chân
núi. 20 Ông lấy con bê họ đã làm, đốt đi, tán nhuyễn ra, rắc lên mặt
nước, rồi bắt con cái Ít-ra-en uống.
Vai
trò của ông A-ha-ron trong lỗi lầm của dân
21
Ông
Mô-sê bảo ông A-ha-ron: "Dân này đã làm gì ông mà ông đưa họ tới chỗ phạm
một tội lớn như thế?” 22 Ông A-ha-ron nói: "Xin ngài chớ bừng
bừng nổi giận; chính ngài biết: dân này có khuynh hướng xấu. 23 Họ
nói với tôi: Xin ông làm cho chúng tôi một vị thần để dẫn đầu chúng tôi, vì
chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra cho cái ông Mô-sê này, là người đã đưa
chúng tôi lên từ đất Ai-cập. 24 Tôi nói với họ: Ai có vàng? Họ đã gỡ
đồ vàng đeo tai và đưa cho tôi; tôi ném vào lửa, và đã ra con bê này."
Lòng
nhiệt thành của các thầy Lê-vi
25
Ông
Mô-sê thấy dân sống buông thả, vì ông A-ha-ron đã để họ sống buông thả, khiến
họ nên trò cười cho địch thủ của họ. 26 Ông Mô-sê đứng ở cổng trại
và hô: "Ai thờ Ðức Chúa thì theo tôi!" Tất cả con cái ông Lê-vi đều
tập họp bên ông Mô-sê. 27 Ông bảo họ: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en, phán thế này: Mỗi người hãy đeo gươm vào. Hãy đi đi lại lại trong
khắp trại, từ cửa này sang cửa khác mà giết: kẻ thì giết anh em, người thì giết
bạn hữu, kẻ thì giết người thân cận của mình.” 28 Con cái ông Lê-vi
đã làm theo lời ông Mô-sê; trong ngày ấy, có ba ngàn người trong dân đã ngã gục.
29 Ông Mô-sê nói: "Hôm nay, anh em được phong chức để phục vụ
Ðức Chúa, vì kẻ thì đã hy sinh con mình, kẻ thì đã hy sinh anh em mình, khiến
Người chúc phúc cho anh em hôm nay."
Ông
Mô-sê lại chuyển cầu cho dân
30
Ngày
hôm sau, ông Mô-sê nói với dân: "Anh em đã phạm một tội lớn, nhưng giờ đây
tôi sắp lên gặp Ðức Chúa; may ra tôi sẽ xin được Người xá tội cho anh em.” 31
Ông Mô-sê trở lại với Ðức Chúa và thưa: "Than ôi, dân này đã phạm
một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! 32 Nhưng giờ đây, ước
gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách
Ngài đã viết.” 33 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Kẻ nào phạm tội
làm mất lòng Ta, Ta sẽ xoá tên nó khỏi cuốn sách của Ta. 34 Bây giờ,
ngươi hãy đi, đưa dân tới nơi Ta đã chỉ cho ngươi. Này thiên sứ của Ta sẽ đi
trước mặt ngươi; nhưng đến ngày Ta trừng phạt, Ta sẽ trừng phạt chúng vì tội đã
phạm.” 35 Ðức Chúa đánh phạt dân vì họ đã đúc con bê, chính con bê
mà ông A-ha-ron đã đúc.
Chương 33
Lệnh
lên đường
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy đi, từ nơi đây ngươi hãy đi lên cùng
với dân mà ngươi đã đưa lên từ đất Ai-cập, tới đất Ta đã hứa ban cho Áp-ra-ham,
I-xa-ác và Gia-cóp, khi phán: Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi. 2 Ta
sẽ sai một thiên sứ đi trước mặt (các) ngươi và Ta sẽ đuổi người Ca-na-an,
người E-mô-ri, người Khết và người Pơ-rít-di, người Khi-vi và người Giơ-vút. 3
Ta sẽ cho (các) ngươi vào một miền đất tràn trề sữa và mật; nhưng Ta sẽ
không đi lên đó cùng với (các) ngươi, vì (các) ngươi là một dân cứng đầu cứng
cổ; vì nếu cùng đi, thì e rằng Ta sẽ tiêu diệt các ngươi dọc đường!” 4 Dân
nghe lời chẳng lành ấy thì mặc áo tang; không ai mang đồ trang sức trên mình. 5
Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en:
các ngươi là một dân cứng đầu cứng cổ! Ta mà cùng đi lên với các ngươi dù chỉ
một chốc lát thôi, thì Ta sẽ tiêu diệt (các) ngươi! Vậy, bây giờ (các) ngươi
hãy bỏ các đồ trang sức đi, rồi Ta xem sẽ phải đối xử với (các) ngươi thế nào!”
6 Con cái Ít-ra-en đã bỏ đồ trang sức từ khi ở núi Khô-rếp.
Lều
Hội Ngộ
7
Ông
Mô-sê lấy một chiếc lều và đem dựng cho mình bên ngoài trại, cách một quãng xa.
Ông gọi lều ấy là Lều Hội Ngộ. Ai thỉnh ý Ðức Chúa thì ra Lều Hội Ngộ, ở ngoài
trại. 8 Mỗi khi ông Mô-sê ra Lều, toàn dân đứng lên, ai nấy đứng ở
cửa lều mình và nhìn theo ông Mô-sê cho đến khi ông vào trong Lều. 9 Mỗi
khi ông Mô-sê vào trong Lều, thì cột mây đáp xuống, đứng ở cửa Lều, và Ðức Chúa
đàm đạo với ông Mô-sê. 10 Khi thấy cột mây đứng ở cửa Lều, toàn dân
đứng dậy; và ai nấy phủ phục ở cửa lều mình. 11 Ðức Chúa đàm đạo với
ông Mô-sê, mặt giáp mặt, như hai người bạn với nhau. Rồi ông Mô-sê trở về trại;
nhưng phụ tá của ông là chàng thanh niên Giô-suê, con ông Nun, thì cứ ở trong
Lều, không rời khỏi đó.
Ông
Mô-sê chuyển cầu cho dân
12
Ông
Mô-sê thưa với Ðức Chúa: "Xin Ngài coi, chính Ngài đã phán với con:
"Hãy đưa dân ấy lên, vậy mà Ngài lại không cho con biết Ngài sẽ cử ai đi
với con. Tuy nhiên chính Ngài đã phán: Ta biết đích danh ngươi, và hơn nữa
ngươi đã được nghĩa với Ta. 13 Vậy bây giờ, nếu quả thật con đã được
nghĩa với Ngài, xin khấng tỏ cho con biết đường lối của Ngài, để con biết Ngài,
và được nghĩa với Ngài. Xin cũng coi dân tộc này là dân của Ngài.” 14 Ðức
Chúa phán: "Ðích thân Ta sẽ đi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi.” 15
Ông Mô-sê thưa với Người: "Nếu Ngài không đích thân đi, xin Ngài
đừng đưa chúng con lên khỏi đây. 16 Nhưng làm thế nào biết được là
con và dân của Ngài được nghĩa với Ngài? Há chẳng phải vì có Ngài đi với chúng
con sao? Như thế, con và dân của Ngài mới khác với mọi dân trên mặt đất.” 17
Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngay cả điều ngươi vừa nói đó, Ta cũng
sẽ làm, vì ngươi đã được nghĩa với Ta, và Ta biết đích danh ngươi."
Ông
Mô-sê ở trên núi
18
Ông
Mô-sê nói: "Xin Ngài thương cho con được thấy vinh quang của Ngài.” 19
Người phán: "Ta sẽ cho tất cả vẻ đẹp của Ta đi qua trước mặt ngươi,
và sẽ xưng danh Ta là Ðức Chúa trước mặt ngươi. Ta thương ai thì thương, xót ai
thì xót.” 20 Người phán: "Ngươi không thể xem thấy tôn nhan Ta,
vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống.” 21 Ðức Chúa còn phán:
"Ðây là chỗ gần Ta; ngươi sẽ đứng trên tảng đá. 22 Khi vinh
quang của Ta đi qua, Ta sẽ đặt ngươi vào trong hốc đá, và lấy bàn tay che ngươi
cho đến khi Ta đã đi qua. 23 Rồi Ta sẽ rút tay lại, và ngươi sẽ xem
thấy lưng Ta, còn tôn nhan Ta thì không được thấy."
Chương 34
Tái
lập giao ước. Các bia ghi Lề Luật. (Ðnl 10:1-5)
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy đẽo hai bia đá giống như hai bia
trước. Và Ta sẽ ghi lại trên đó những lời đã ghi trên các bia trước mà ngươi đã
đập vỡ. 2 Ngươi hãy chuẩn bị sẵn sàng cho sáng ngày mai. Ngay từ
sáng, ngươi hãy lên núi Xi-nai và đứng chờ Ta ở đó, trên đỉnh núi. 3 Không
ai được lên với ngươi; cũng không ai được xuất hiện trên khắp vùng núi; ngay cả
bò bê hay dê cừu cũng không được ăn cỏ trên sườn núi đó.” 4 Vậy ông
Mô-sê đẽo hai bia đá giống như những bia trước; rồi sáng sớm ông thức dậy và
lên núi Xi-nai theo lệnh của Ðức Chúa, tay mang hai bia đá.
Ðức
Chúa hiện ra
5
Ðức
Chúa ngự xuống trong đám mây và đứng đó với ông. Người xưng danh Người là Ðức
Chúa. 6 Ðức Chúa đi qua trước mặt ông và xướng: "Ðức Chúa! Ðức
Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín,
7 giữ lòng nhân nghĩa với muôn ngàn thế hệ, chịu đựng lỗi lầm, tội
ác và tội lỗi, nhưng không bỏ qua điều gì, và trừng phạt con cháu đến ba bốn
đời vì lỗi lầm của cha ông.” 8 Ông Mô-sê vội vàng phục xuống đất thờ
lạy 9 và thưa: "Lạy Chúa, nếu quả thật con được nghĩa với Chúa, thì xin
Chúa cùng đi với chúng con. Dân này là một dân cứng đầu cứng cổ, nhưng xin Ngài
tha thứ những lỗi lầm và tội lỗi của chúng con, và nhận chúng con làm cơ nghiệp
của Ngài."
Giao
Ước (Xh 23:14 -19; Ðnl 7:1-5; 16:1-17)
10
Ðức
Chúa phán: "Này Ta sắp lập một giao ước. Trước mặt toàn dân của ngươi, Ta
sẽ làm những việc lạ lùng chưa hề được thực hiện trong một nước hay một dân
nào. Toàn dân ở chung quanh ngươi sẽ thấy việc Ðức Chúa làm, vì điều Ta sắp
dùng ngươi mà làm thì thật đáng sợ. 11 Hãy giữ kỹ điều Ta truyền cho
ngươi hôm nay. Này Ta sắp đuổi cho khuất mắt ngươi những người E-mô-ri,
Ca-na-an, Khết, Pơ-rít-di, Khi-vi, Giơ-vút. 12 Hãy ý tứ, đừng lập
giao ước với dân cư trong xứ nơi ngươi sắp vào, kẻo chúng trở thành một cạm bẫy
ở giữa ngươi. 13 Trái lại, bàn thờ của chúng, phải phá huỷ, trụ đá
của chúng, phải đập tan, cột thờ của chúng, phải chặt đi. 14 Vậy
ngươi không được phủ phục trước một thần nào khác, vì Ðức Chúa mang danh là
Ðấng ghen tương, Người là một Vị Thần ghen tương.
15
Ngươi
không được lập giao ước với dân cư trong xứ, kẻo khi chúng đàng điếm với các
thần của chúng và tế họ, chúng sẽ mời ngươi và ngươi sẽ ăn đồ cúng của chúng,16
ngươi sẽ kén vợ cho con trai ngươi trong số con gái chúng, con gái chúng sẽ
đàng điếm với các thần của chúng và làm cho con trai ngươi đàng điếm với các
thần đó.
17
Ngươi
không được đúc tượng thần.
18
Ngươi
sẽ giữ tục lệ mừng lễ Bánh Không Men: trong bảy ngày, ngươi sẽ ăn bánh không
men vào thời chỉ định trong tháng A-víp, như Ta đã truyền cho ngươi, vì trong
tháng A-víp ngươi đã ra khỏi Ai-cập.
19
Mọi
con đầu lòng đều thuộc về Ta: mọi con đực trong súc vật ngươi, con đầu lòng của
bò cũng như của chiên. 20 Mọi con đầu lòng của giống lừa, ngươi sẽ
lấy một con chiên mà chuộc lại, nếu ngươi không chuộc lại thì đánh gãy ót nó
đi; còn mọi con đầu lòng trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại. Người
ta không được đến tay không trước nhan Ta.
21
Trong
sáu ngày, ngươi sẽ lao động, nhưng ngày thứ bảy ngươi sẽ nghỉ; dù đang vụ cày
hay vụ gặt, ngươi cũng sẽ nghỉ.
22
Ngươi
sẽ mừng lễ các Tuần, dâng lúa mì đầu mùa, rồi mừng lễ Thu hoạch cuối năm.
23
Mỗi
năm ba lần, tất cả đàn ông con trai của ngươi phải đến trước nhan Chúa Tể là
Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.
24
Ta
sẽ truất hữu các dân cho chúng đi khuất mắt ngươi, và mở rộng bờ cõi ngươi; sẽ
không có ai ham chiếm đất của ngươi khi ngươi đi lên để đến trước nhan Ðức Chúa
là Thiên Chúa của ngươi, mỗi năm ba lần.
25
Ngươi
không được lấy máu của một tế vật nào mà dâng lên Ta cùng với bánh có men; tế
vật lễ Vượt Qua, ngươi không được giữ lại qua đêm cho đến sáng.
26
Của
đầu mùa tốt nhất của đất đai ngươi, ngươi phải đem đến nhà Ðức Chúa, Thiên Chúa
của ngươi. Ngươi không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con."
27
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy ghi chép những lời này, vì dựa trên chính
những lời này mà Ta đã lập giao ước với ngươi và với Ít-ra-en."
28
Ông
ở đó với Ðức Chúa bốn mươi ngày bốn mươi đêm, không ăn không uống, và ông viết
trên những bia các điều khoản của giao ước, tức là Thập Ðiều.
Ông
Mô-sê lại xuống núi
29
Ông
Mô-sê từ trên núi Xi-nai xuống, tay cầm hai tấm bia Chứng Ước, khi xuống núi,
ông Mô-sê không biết rằng da mặt ông sáng chói bởi đã đàm đạo với Thiên Chúa. 30
Khi ông A-ha-ron và toàn thể con cái con Ít-ra-en thấy ông Mô-sê, thì này
đây da mặt ông sáng chói, nên họ sợ không dám lại gần ông. 31 Ông
Mô-sê gọi họ: ông A-ha-ron và các đầu mục của cộng đồng trở lại với ông, và ông
nói chuyện với họ. 32 Sau đó, toàn thể con cái Ít-ra-en lại gần ông,
và ông truyền cho họ tất cả những điều Ðức Chúa đã phán với ông trên núi Xi-nai.
33 Nói với họ xong, ông lấy khăn che mặt đi. 34 Khi vào
trước nhan Ðức Chúa để đàm đạo với Người, thì ông bỏ khăn cho đến lúc trở ra;
ông trở ra và nói lại với con cái Ít-ra-en những mệnh lệnh ông đã nhận được. 35
Con cái Ít-ra-en nhìn mặt ông Mô-sê thấy da mặt ông sáng chói; ông Mô-sê
lại lấy khăn che mặt, cho đến khi vào đàm đạo với Thiên Chúa.
Chương 35
6.
Dựng Nơi Thánh
Luật
nghỉ ngày sa-bát
1
Ông
Mô-sê triệu tập toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và nói: "Ðây là những
điều Ðức Chúa truyền phải thi hành: 2 Trong sáu ngày, người ta sẽ
làm việc, nhưng đối với anh em, ngày thứ bảy sẽ là một ngày thánh, một ngày
sa-bát, một ngày nghỉ hoàn toàn, dành cho Ðức Chúa; kẻ nào làm việc trong ngày
ấy sẽ bị xử tử. 3 Anh em sẽ không được đốt lửa trong ngày sa-bát tại
những nơi anh em ở."
Quyên
góp vật liệu (Xh 25 : 1-9; 39:33 -43)
4
Ông
Mô-sê nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en: "Ðây là điều Ðức Chúa
đã truyền: 5 Anh em hãy lấy của cải mình mà đóng góp vào việc thờ
phượng Ðức Chúa. Ai có nhiệt tâm hãy mang đến phần dâng cúng dành cho Ðức Chúa:
vàng, bạc và đồng, 6 vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm, vải gai mịn
và lông dê, 7 da cừu nhuộm đỏ và da cá heo, gỗ keo, 8 dầu
thắp đèn, hương liệu để chế dầu tấn phong và làm hương thơm, 9 hồng
mã não và ngọc quý để đính vào áo ê-phốt và túi đeo trước ngực. 10 Trong
anh em, ai là người khéo tay thì hãy đến thực hiện tất cả những gì Ðức Chúa đã
truyền: 11 Nhà Tạm, lều và bạt, móc, ván, thanh ngang, cột và đế, 12
Hòm Bia và đòn khiêng, nắp xá tội, bức trướng làm màn che, 13 bàn
và đòn khiêng, mọi đồ phụ tùng và bánh tiến, 14 trụ đèn và các đồ
phụ tùng, đèn và dầu thắp đèn, 15 hương án và đòn khiêng, dầu tấn
phong và hương thơm, màn che cửa Nhà Tạm, 16 bàn thờ dâng lễ toàn
thiêu và vỉ đồng, đòn khiêng và mọi đồ phụ tùng; vạc và đế, 17 rèm
chung quanh khuôn viên, cột và đế, màn che cửa khuôn viên, 18 cọc
Nhà Tạm và cọc khuôn viên cũng như dây thừng; 19 phẩm phục để hành
lễ trong nơi thánh; lễ phục dành cho tư tế A-ha-ron và y phục các con ông mặc
để thi hành chức tư tế."
20
Toàn
thể cộng đồng con cái Ít-ra-en rời ông Mô-sê mà lui ra. 21 Rồi những
người có nhiệt tâm, mọi kẻ có tinh thần kéo đến, mang theo phần của mình dâng
cúng Ðức Chúa, để dựng Lều Hội Ngộ và làm những công việc liên quan đến Lều,
cũng như để may lễ phục. 22 Ðàn ông cũng như đàn bà kéo nhau đến:
tất cả những người có nhiệt tâm đem tới nào trâm, khuyên, nào nhẫn với kiềng,
mọi thứ đồ vàng; ai nấy đều lấy vàng làm lễ vật dâng Ðức Chúa. 23 Những
người có sẵn trong nhà vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm, vải gai mịn và lông
dê, da cừu nhuộm đỏ và da cá heo, thì cũng đem tới. 24 Tất cả những
ai lấy bạc và đồng mà dâng cúng, thì đem phần ấy dâng cho Ðức Chúa; và tất cả
những ai có sẵn trong nhà gỗ keo để dùng vào mọi công việc cần đến, thì cũng
đem tới. 25 Mọi phụ nữ khéo tay đã tự mình dệt, rồi đem những gì đã
dệt đến: vải đỏ tía và vải điều, vải đỏ thẫm và vải gai mịn. 26 Mọi
phụ nữ có nhiệt tâm và khéo tay thì lấy lông dê mà kéo sợi. 27 Các
thủ lãnh đem đến hồng mã não và ngọc quý để đính vào áo ê-phốt và túi đeo trước
ngực, 28 hương liệu, dầu thắp đèn, dầu tấn phong và hương nhang. 29
Mọi con cái Ít-ra-en, đàn ông cũng như đàn bà, có nhiệt tâm góp phần vào
mọi công việc Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê mà truyền phải thực hiện, thì đã đem
lễ vật tự nguyện dâng Ðưc Chúa.
Thợ
dựng nơi thánh (Xh 31:1-11 )
30
Ông
Mô-sê nói với con cái Ít-ra-en: "Anh em coi, Ðức Chúa đã gọi đích danh ông
Bơ-xan-ên, con ông U-ri, con ông Khua, thuộc chi tộc Giu-đa. 31 Người
đã ban cho ông ấy dồi dào thần khí của Thiên Chúa, để ông ấy thành người khéo
tay, giỏi giang và lành nghề mà làm mọi công việc, 32 để ông ấy nghĩ
ra những tác phẩm nghệ thuật, làm bằng vàng, bạc, hay đồng, 33 mài
ngọc đính áo, chạm gỗ và thực hiện mọi công việc nghệ thuật. 34 Người
còn ban tài dạy bảo cho ông ấy, cũng như cho ông O-ho-li-áp, con của ông
A-khi-xa-mác, thuộc chi tộc Ðan. 35 Người đã cho họ lòng trí dồi dào
khôn ngoan để thực hiện mọi tác phẩm của thợ chạm, của người nghệ sĩ, của thợ
thêu dùng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm, sợi gai mịn, cũng như của thợ dệt:
tất cả những người thực hiện mọi công việc, và nghĩ ra những tác phẩm nghệ
thuật.
Chương 36
1
Ông
Bơ-xan-ên, ông O-ho-li-áp và mọi người lòng trí khôn ngoan mà Ðức Chúa đã ban
cho được khéo tay và giỏi giang, để biết chu toàn mọi việc phục vụ nơi thánh,
những người ấy sẽ làm theo tất cả những gì Ðức Chúa đã truyền.
Ông
Mô-sê cho ngưng quyên góp vật liệu
2
Ông
Mô-sê gọi các ông Bơ-xan-ên và O-ho-li-áp lại, cùng với mọi người lòng trí khôn
ngoan đã được Ðức Chúa đặt sự khôn ngoan vào lòng, mọi kẻ có nhiệt tâm bắt tay
vào việc. 3 Mọi phần dâng cúng mà con cái Ít-ra-en đã mang tới trước
mặt ông Mô-sê để dùng vào việc phục vụ nơi thánh, thì họ đem đi để thực hiện
công trình. Nhưng sáng nào, con cái Ít-ra-en cũng cứ đem lễ vật tự nguyện tới, 4
nên tất cả những người thợ khéo tay đang thực hiện mọi công việc phục vụ
nơi thánh đều ngưng công việc đang làm, để tới 5 nói với ông Mô-sê: "Dân
chúng đem dâng quá số cần thiết cho công việc mà Ðức Chúa đã truyền làm.” 6
Ông Mô-sê ra lệnh phải rao trong trại những lời này: "Xin mọi người,
nam cũng như nữ, đừng dâng cúng gì thêm cho nơi thánh." Và dân đã ngừng,
không đem gì tới nữa. 7 Vật liệu đã đủ cho mọi công việc phải làm,
mà còn dư thừa nữa.
Nhà
Tạm (Xh 26:1-14)
8
Trong
đám thợ đang thực hiện công trình, tất cả những người khôn ngoan tài giỏi thì
dựng Nhà Tạm; ông Mô-sê cho dựng Nhà đó với mười tấm thảm bằng sợi gai mịn xe,
chỉ đỏ tía, chỉ điều và chỉ đỏ thẫm; ông cho thêu trên đó những thần hộ giá rất
mỹ thuật. 9 Mỗi tấm thảm dài mười bốn thước, rộng hai thước; tấm nào
cũng có kích thước như vậy. 10 Ông cho khâu năm tấm này liền với
nhau và năm tấm kia liền với nhau. 11 Ông cho lấy vải đỏ tía làm dải
đính vào mép tấm thứ nhất của những tấm thảm ráp lại; ông cũng cho đính như thế
vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia. 12 Ông cho
đính năm mươi dải vào tấm thứ nhất, và cũng cho đính năm mươi dải vào mép tấm
cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên kia; các dải ấy phải thật cân đối với
nhau. 13 Ông cho làm năm mươi cái móc bằng vàng, và dùng những móc
ấy để nối các tấm vải bố lại với nhau. Như thế, Nhà Tạm thành một khối duy nhất.
14 Ông cho làm những tấm thảm lông dê để làm một cái lều, ở bên trên
Nhà Tạm; ông cho làm mười một tấm. 15 Mỗi tấm dài mười lăm thước,
rộng hai thước. Mười một tấm đều có cùng một kích thước. 16 Ông cho
khâu liền năm tấm thành một mái, và sáu tấm kia thành một mái khác. 17 Ông
cho đính năm mươi dải vào mép tấm thứ nhất của những tấm thảm ráp lại, và ông
cũng cho đính năm mươi dải vào mép tấm cuối cùng của những tấm thảm ráp lại bên
kia. 18 Ông cho làm năm mươi móc bằng đồng để ghép lại thành một cái
lều, sao cho chỉ có một lều duy nhất. 19 Ông cho làm một tấm bạt che
lều bằng da cừu nhuộm đỏ, và một tấm bạt bằng da cá heo phủ ở bên trên.
Khung
lều (Xh 26:15 -30)
20
Ông
cho lấy những tấm ván gỗ keo dựng thẳng lên để căng Nhà Tạm. 21 Mỗi
tấm dài năm thước, rộng bảy tấc rưỡi. 22 Mỗi tấm có hai mộng song
song. Ông cho làm mọi tấm ván của Nhà Tạm theo kiểu đó. 23 Ông cho
đặt ván để dựng Nhà Tạm như sau: hai mươi tấm hướng về Ne-ghép, về phía nam. 24
Ông cho làm bốn mươi đế bạc đặt dưới hai mươi tấm ván đó: hai đế dưới một
tấm ván ăn khớp với hai mộng của ván, và hai đế dưới tấm ván khác ăn khớp với
hai mộng của ván. 25 Hông bên kia của Nhà Tạm, hướng bắc, ông cho
đặt hai mươi tấm ván, 26 và cũng cho làm bốn mươi đế bạc, cứ hai đế
dưới một tấm, hai đế dưới một tấm. 27 Phía trong cùng Nhà Tạm, hướng
tây, ông cho đặt sáu tấm ván. 28 Ông cho đặt hai tấm ván ở các góc
Nhà Tạm, ở phía trong cùng. 29 Các tấm ván được ghép đôi lại với
nhau ở phía dưới, và ghép đôi như thế cho tới đỉnh, chỗ vòng thứ nhất. Ông cho
đóng hai tấm ván như thế ở hai góc. 30 Vậy có tám tấm ván với các đế
bạc, tất cả là mười sáu đế: cứ hai đế dưới một tấm, hai đế dưới một tấm. 31
Ông cho làm các thanh ngang bằng gỗ keo: năm cái cho các tấm ván ở hông
thứ nhất của Nhà Tạm; 32 và năm cái cho các tấm ván hông bên kia của
Nhà Tạm; cũng như năm cái cho các tấm ván phía trong cùng Nhà Tạm, hướng tây. 33
Ông cho làm thanh ngang giữa, cho nó nằm ở nửa độ cao các tấm ván, chạy
suốt từ đầu này đến đầu kia. 34 Ông cho thiếp vàng các tấm ván; ông
cho đúc những vòng bằng vàng để xỏ các thanh ngang; ông cũng cho thiếp vàng các
thanh ngang ấy.
Bức
trướng (Xh 26:31 -37)
35
Ông
cho làm bức trướng bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe.
Ông cho thêu trên đó những thần hộ giá rất mỹ thuật. 36 Ông cho làm
bốn cột gỗ keo thiếp vàng, có những móc bằng vàng để treo bức màn trướng; và
ông cho đúc bốn đế bạc để dựng những cột ấy. 37 Ông cho làm một bức
màn che cửa lều bằng vải đỏ tía, vải điều, vải đỏ thẫm và sợi gai mịn xe: đó là
công việc của thợ thêu; 38 Ông cũng cho làm năm cột có móc, cho
thiếp vàng đầu cột và thanh treo bức trướng; còn năm đế thì bằng đồng.
Chương 37
Hòm
Bia (Xh 25:10-22)
1
Ông
Bơ-xan-ên làm Hòm Bia bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao
bảy tấc rưỡi. 2 Ông lấy vàng ròng mà bọc cả trong lẫn ngoài; ông làm
một đường viền chung quanh bằng vàng. 3 Ông đúc cho Hòm Bia bốn
chiếc vòng bằng vàng gắn vào bốn chân: bên này hai vòng, bên kia hai vòng. 4
Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng. 5 Ông xỏ đòn vào
những vòng bên sườn Hòm Bia để khiêng. 6 Ông làm một cái nắp xá tội
bằng vàng ròng, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi. 7 Ông làm hai
tượng thần hộ giá bằng vàng, ông làm bằng vàng gò và đặt ở hai đầu nắp: 8 một
tượng ở đầu này, một tượng ở đầu kia. Ông làm các tượng thần hộ giá gắn liền
với nắp, ở hai đầu. 9 Các tượng thần hộ giá có hai cánh giương lên và
phủ trên nắp. Hai tượng đối diện nhau, cùng cúi mặt xuống nắp.
Bàn
để bánh tiến (Xh 25:23-30)
10
Ông
làm cái bàn bằng gỗ keo, dài một thước, rộng nửa thước và cao bảy tấc rưỡi. 11
Ông lấy vàng ròng mà bọc, và ông làm một đường viền chung quanh bằng vàng.
12 Chung quanh bàn, ông đóng nẹp rộng một tấc và viền nẹp bằng vàng.
13 Ông đúc bốn vòng bằng vàng và đặt các vòng đó vào bốn góc, ở bốn
chân bàn. 14 Các vòng đó ở gần nẹp, dùng để xỏ đòn khiêng bàn. 15
Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo bọc vàng để khiêng bàn. 16 Ông
làm những đồ dùng để trên bàn: khay, ly, chén và bình để tế lễ; ông làm những
đồ ấy bằng vàng ròng.
Trụ
đèn (Xh 25:31-40)
17
Ông
làm trụ đèn bằng vàng ròng. Ông làm trụ đèn, chân đèn và nhánh đèn bằng vàng
gò; đài hoa, nụ hoa và cánh hoa gắn liền với trụ đèn. 18 Sáu nhánh
đâm ra hai bên: ba nhánh bên này, ba nhánh bên kia. 19 Trên nhánh
bên này, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ và cánh hoa; trên nhánh bên
kia, có ba đài hoa hình hoa hạnh đào, với nụ hoa và cánh hoa. Sáu nhánh từ trụ
đèn đâm ra đều như thế. 20 Ở thân trụ đèn, có bốn đài hoa hình hoa
hạnh đào, với nụ và cánh hoa. 21 Một nụ hoa nằm dưới hai nhánh đầu
gắn liền với trụ đèn, một nụ hoa nằm dưới hai nhánh giữa gắn liền với trụ đèn,
và một nụ hoa nằm dưới hai nhánh cuối gắn liền với trụ đèn. Sáu nhánh từ trụ
đèn đâm ra đều như thế. 22 Các nụ hoa và nhánh đều gắn liền với trụ
đèn; tất cả thành một khối bằng vàng gò, bằng vàng ròng. 23 Ông làm
bảy cái đèn, kéo cắt bấc và đĩa đựng tàn bằng vàng ròng. 24 Ông dùng
ba mươi ký vàng ròng để làm trụ đèn cũng như mọi đồ dùng.
Hương
án. Dầu tấn phong và hương thơm. (Xh 30:1-5)
25
Ông
làm hương án bằng gỗ keo. Hương án đó dài nửa thước, rộng nửa thước - nghĩa là
hình vuông - và cao một thước; các góc hình sừng làm thành một khối với hương
án. 26 Ông lấy vàng ròng mà bọc hương án: mặt trên, bốn mặt chung
quanh và các góc. Chung quanh hương án, ông làm một đường viền bằng vàng. 27
Ông làm hai vòng bằng vàng, phía dưới đường viền, ở hai bên sườn, ở hai
bên, để xỏ đòn khiêng hương án. 28 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo
bọc vàng. 29 Ông pha chế dầu thánh để tấn phong, cũng như hương thơm
nguyên chất, là sản phẩm của thợ chế nước hoa.
Chương 38
Bàn
thờ dâng lễ toàn thiêu (Xh 27:1-8)
1
Ông
làm bàn thờ dâng lễ toàn thiêu bằng gỗ keo: dài hai thước rưỡi, rộng hai thước
rưỡi - nghĩa là hình vuông -, cao một thước rưỡi; 2 ông làm bốn cái
sừng ở bốn góc, các sừng ấy làm thành một khối với bàn thờ. Ông lấy đồng mà bọc
bàn thờ. 3 Ông làm các đồ dùng trên bàn thờ: nồi, xẻng, bình rảy,
xiên và lư hương; các đồ dùng ấy, ông làm bằng đồng. 4 Ông làm một
cái vỉ bằng đồng, hình lưới, bọc quanh chân bàn thờ, từ đất lên đến nửa chiều
cao của bàn thờ. 5 Ông đúc bốn chiếc vòng đặt ở bốn góc vỉ đồng,
dùng để xỏ đòn. 6 Ông làm những cây đòn bằng gỗ keo, và bọc đồng
những đòn ấy. 7 Ông xỏ đòn vào vòng ở hai bên bàn thờ, để khiêng.
Ông làm bàn thờ rỗng, bằng ván ghép lại.
Vạc
đồng (Xh 30:18)
8
Ông
làm cái vạc đồng có đế cũng bằng đồng, với những gương soi cho phụ nữ phục vụ ở
cửa Lều Hội Ngộ.
Khuôn
viên (Xh 27:9-19)
9
Ông
làm khuôn viên. Phía nam, hướng Ne-ghép, khuôn viên có những tấm rèm bằng sợi
gai mịn xe dài năm mươi thước. 10 Hai mươi cột treo rèm dựng trên
hai mươi đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc. 11 Phía
bắc, có những tấm rèm năm mươi thước; hai mươi cột treo rèm dựng trên hai mươi
đế bằng đồng; móc ở các cột và thanh treo rèm thì bằng bạc. 12 Phía
biển, có những tấm rèm hai mươi lăm thước, với mười cột và mười đế. 13 Về
hướng đông, phía mặt trời mọc, khuôn viên rộng hai mươi lăm thước; 14 một
bên che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột với ba đế; 15 bên kia, -
nghĩa là hai bên cửa khuôn viên -, cũng che tấm rèm bảy thước rưỡi, có ba cột
với ba đế. 16 Tất cả các rèm chung quanh khuôn viên đều bằng sợi gai
mịn xe. 17 Những đế cột thì bằng đồng, những móc ở các cột và thanh
treo rèm thì bằng bạc, đầu cột thiếp bạc. Như vậy, mọi cột trong khuôn viên đều
nối liền với nhau nhờ những thanh treo rèm bằng bạc. 18 Bức màn ở
cửa khuôn viên thì bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe: đó
là công việc của thợ thêu. Bức màn đó dài mười thước, cao - nghĩa là rộng -,
hai thước rưỡi, như những tấm rèm của khuôn viên. 19 Bốn cột treo
rèm và bốn đế thì bằng đồng, móc bằng bạc, đầu cột thiếp bạc, thanh treo rèm
cũng bằng bạc. 20 Mọi cái cọc của Nhà Tạm và chung quanh khuôn viên
đều bằng đồng.
Bảng
kết toán
21
Ðây
là bảng kết toán về Nhà Tạm, Nhà Tạm Chứng Ước. Ông Mô-sê đã ra lệnh cho các
thầy Lê-vi, dưới sự hướng dẫn của ông I-tha-ma, con của tư tế A-ha-ron, phải
làm bảng này.
22
Chính
ông Bơ-xan-ên, con ông U-ri, con ông Khua, thuộc chi tộc Giu-đa, đã thi hành
mọi điều Ðức Chúa truyền cho ông Mô-sê. 23 Người phụ tá của ông là
O-ho-li-áp, con của ông A-khi-xa-mác, thuộc chi tộc Ðan; ông là thợ chạm và là
nghệ nhân, là thợ thêu chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn.
24
Tổng
số vàng dân đã dâng cúng để dùng vào công trình, công trình dựng nơi thánh, là
tám trăm bảy mươi ký và hai trăm hai mươi lượng, tính theo đơn vị đo lường của
thánh điện. 25 Số bạc những người trong cộng đồng thuộc diện kiểm
tra dân số đã dâng là ba ngàn ký và năm trăm ba mươi lượng, tính theo đơn vị đo
lường của thánh điện. 26 Mỗi đầu người là hai chỉ bạc, tức là nửa
se-ken, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện; bất cứ ai thuộc diện kiểm tra
dân số từ hai mươi tuổi trở lên, tức là sáu trăm lẻ ba ngàn năm trăm năm mươi
người, đều phải đóng góp như vậy. 27 Ba ngàn ký bạc để đúc các đế
của nơi thánh và của bức trướng: một trăm đế mất ba ngàn ký, mỗi đế ba mươi ký.
28 Ông dùng năm trăm ba mươi lượng để làm móc cột, thiếp đầu cột và
nối các cột lại nhờ những thanh treo màn. 29 Số đồng người ta dâng
cúng là hai ngàn một trăm hai mươi bốn ký. 30 Ông đem dùng làm các
đế đặt ở cửa Lều Hội Ngộ, bàn thờ đồng và vỉ đồng, mọi đồ phụ tùng của bàn thờ,
31 các đế chung quanh khuôn viên, các đế ở cửa khuôn viên, mọi cái
cọc của Nhà Tạm và chung quanh khuôn viên.
Chương 39
Y
phục của thượng tế
1
Người
ta lấy chỉ đỏ tía, chỉ điều và chỉ đỏ thẫm làm phẩm phục để dùng khi hành lễ
trong nơi thánh. Người ta làm lễ phục cho ông A-ha-ron, như Ðức Chúa đã truyền
cho ông Mô-sê.
Áo
ê-phốt (Xh 2 8:6-14)
2
Người
ta làm áo ê-phốt bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai
mịn xe. 3 Người ta cán vàng thành từng lá và kéo thành chỉ để xen
vào chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn, và làm nên một công trình
rất mỹ thuật. 4 Người ta làm cầu vai cho áo ê-phốt và hai thân áo
ê-phốt được khâu liền vào hai đầu cầu vai. 5 Băng chéo đeo trên áo
ê-phốt để giữ áo thì đính liền vào đó; băng chéo đó làm cùng một kiểu với áo
ê-phốt: bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe, như
Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 6 Người ta giũa mã não, nhận vào
những ổ bằng vàng, khắc tên con cái Ít-ra-en vào các viên ngọc đó theo kiểu thợ
chạm khắc dấu ấn. 7 Người ta đặt các viên ngọc đó trên cầu vai của
áo ê-phốt để làm kỷ vật tưởng nhớ con cái Ít-ra-en, như Ðức Chúa đã truyền cho
ông Mô-sê.
Túi
đeo trước ngực (Xh 28:15-30)
8
Người
ta may túi đeo trước ngực rất mỹ thuật theo kiểu áo ê-phốt: bằng chỉ vàng, chỉ
đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. 9 Túi đó hình vuông
may kép, dài một gang, rộng một gang. 10 Người ta nhận vào đó bốn
hàng ngọc: ở hàng thứ nhất có nhận xích não, hoàng ngọc và bích ngọc; 11 ở
hàng thứ hai có nhận hồng ngọc, lam ngọc và kim cương; 12 Ở hàng thứ
ba có nhận miêu nhãn thạch, mã não và tử ngọc; 13 ở hàng thứ tư có
nhận kim lục thạch, mã não có vân và vân thạch. Những viên ngọc đó được nhận
vào những ổ bằng vàng. 14 Các viên ngọc mang tên con cái Ít-ra-en:
mười hai viên ngọc mang mười hai tên của họ khắc theo kiểu dấu ấn, mỗi viên
ngọc mang tên của một trong mười hai chi tộc. 15 Người ta làm cho
túi đeo trước ngực những dây chuyền khoen lật bằng vàng ròng để làm dải buộc. 16
Người ta làm hai ổ bằng vàng và hai vòng bằng vàng, và đính hai vòng đó
vào hai góc túi. 17 Người ta xâu hai dây chuyền khoen lật bằng vàng
đó vào hai vòng đặt ở góc túi. 18 Người ta đặt hai đầu dây chuyền
khoen lật vào hai ổ, rồi đặt lên cầu vai của áo ê-phốt, mặt phải. 19 Người
ta làm hai vòng bằng vàng, rồi gắn vào hai đầu túi ở mép trong, mặt trái áp áo
ê-phốt. 20 Người ta làm hai vòng bằng vàng, rồi đính vào hai cầu vai
của áo ê-phốt bên dưới, mặt phải, gần chỗ buộc, bên trên băng chéo của áo
ê-phốt. 21 Người ta lấy một dải vải đỏ tía mà buộc các vòng của túi
đeo trước ngực vào các vòng của áo ê-phốt, để túi nằm trên băng chéo của áo
ê-phốt: như thế, túi không xê dịch được trên áo ê-phốt, như Ðức Chúa đã truyền
cho ông Mô-sê.
Áo
khoác (Xh 28:31 -35)
22
Người
ta làm áo khoác toàn bằng sợi đỏ tía: đó là công trình của thợ dệt. 23 Cổ
áo khoét ở giữa giống như cổ áo giáp: đường viền chung quanh cổ áo không sao
rách được. 24 Người ta làm ở gấu dưới của áo khoác những quả lựu
bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm và sợi gai mịn xe. 25 Người
ta làm những lục lạc bằng vàng ròng, rồi xếp những lục lạc đó xen kẽ với những
quả lựu, vòng quanh gấu dưới áo khoác, xen kẽ với những quả lựu: 26 một
lục lạc rồi một quả lựu, một lục lạc rồi một quả lựu, vòng quanh gấu dưới áo
khoác, để cử hành nghi lễ, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
Y
phục tư tế (Xh 28:40-43)
27
Người
ta làm những áo dài bằng sợi gai mịn cho ông A-ha-ron và các con ông: đó là
công trình của thợ dệt; 28 người ta cũng làm mũ tế bằng sợi gai mịn,
khăn chít bằng sợi gai mịn để trang sức, quần bằng sợi gai, sợi gai mịn xe, 29
đai lưng bằng sợi gai mịn xe, bằng chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm: đó
là công trình của thợ thêu, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
30
Người
ta làm huy hiệu bằng vàng ròng, là dấu thánh hiến, và ghi trên đó những chữ sau
đây theo kiểu khắc dấu ấn: "Thánh hiến cho Ðức Chúa.” 31 Người
ta đính nó trên một dây bằng chỉ đỏ tía buộc vào phía trên mũ tế, như Ðức Chúa
đã truyền cho ông Mô-sê.
32
Như
thế, mọi công việc dựng Nhà Tạm, dựng Lều Hội Ngộ đều hoàn thành. Con cái
Ít-ra-en làm mọi sự đúng y như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
33
Họ
đem lại cho ông Mô-sê Nhà Tạm, gồm: Lều và mọi đồ phụ tùng, móc, ván, thanh
ngang, cột và đế; 34 bạt bằng da cừu nhuộm đỏ và bạt bằng da cá heo,
bức trướng dùng làm màn che; 35 Hòm Bia Chứng Ước, đòn khiêng và nắp
xá tội; 36 bàn và mọi đồ dùng, bánh tiến; 37 trụ đèn bằng
vàng ròng và các thứ đèn đặt trên đó, mọi đồ dùng và dầu thắp đèn; 38 bàn
thờ bằng vàng, dầu tấn phong, hương thơm, màn che cửa Lều; 39 bàn
thờ bằng đồng và vỉ bằng đồng, đòn khiêng và mọi đồ dùng, vạc và đế; 40 màn
của khuôn viên, cột, đế và tấm màn che cửa khuôn viên, dây thừng và cọc, cũng
như mọi đồ dùng để phục vụ Nhà Tạm, cần cho Lều Hội Ngộ; 41 phẩm
phục để hành lễ trong nơi thánh, lễ phục dành cho tư tế A-ha-ron và y phục các
con ông mặc để thi hành chức tư tế. 42 Con cái Ít-ra-en thực hiện
tất cả công trình đó hoàn toàn đúng y như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
43
Ông
Mô-sê nhìn xem mọi công việc đó: họ thực hiện đúng y như Ðức Chúa đã truyền.
Ông Mô-sê chúc phúc cho họ.
Chương 40
Dựng
và thánh hiến Nhà Tạm
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Vào ngày mồng một tháng giêng,
ngươi sẽ dựng Nhà Tạm, dựng Lều Hội Ngộ. 3 Ngươi sẽ đặt vào đó Hòm
Bia Chứng Ước và lấy bức trướng mà che Hòm Bia ấy. 4 Ngươi sẽ đem
bàn tới và bày trên đó những gì cần phải bày ra. Ngươi sẽ đem trụ đèn tới và
đặt đèn lên đó. 5 Ngươi sẽ đặt hương án bằng vàng trước Hòm Bia
Chứng Ước, và treo màn che cửa Nhà Tạm. 6 Ngươi sẽ đặt bàn thờ dâng
lễ toàn thiêu trước cửa Nhà Tạm, trước cửa Lều Hội Ngộ. 7 Ngươi sẽ
đặt cái vạc ở giữa Lều Hội Ngộ và bàn thờ, và đổ nước vào đó. 8 Ngươi
sẽ làm khuôn viên chung quanh và treo màn che cửa khuôn viên. 9 Ngươi
sẽ lấy dầu tấn phong xức Nhà Tạm và tất cả những gì trong đó; ngươi sẽ thánh
hiến Nhà Tạm và mọi đồ vật trong đó; như thế, Nhà Tạm sẽ là vật thánh. 10 Ngươi
sẽ xức dầu bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và mọi đồ dùng; ngươi sẽ thánh hiến bàn
thờ, và bàn thờ sẽ là vật rất thánh. 11 Ngươi sẽ xức dầu cái vạc và
đế, ngươi sẽ thánh hiến cái vạc đó. 12 Ngươi sẽ dẫn A-ha-ron và các
con ông đến gần cửa Lều Hội Ngộ và lấy nước tẩy rửa họ. 13 Ngươi sẽ
lấy phẩm phục mặc cho A-ha-ron, xức dầu thánh hiến để ông ấy thi hành chức tư
tế phục vụ Ta. 14 Ngươi sẽ dẫn các con ông lại gần và cho họ mặc áo
dài. 15 Ngươi đã xức dầu họ như đã xức dầu cha họ, để họ thi hành
chức tư tế phục vụ Ta. Ngươi sẽ làm như thế, để nhờ việc xức dầu, họ trở nên tư
tế vĩnh viễn, đời nọ đến đời kia.
Thi
hành mệnh lệnh của Thiên Chúa
16
Ông
Mô-sê làm mọi sự đúng y như Ðức Chúa đã truyền cho ông. 17 Ngày mồng
một tháng giêng năm thứ hai, Nhà Tạm được dựng lên. 18 Ông Mô-sê cho
dựng Nhà Tạm. Ông cho đặt đế, ghép ván, đặt thanh ngang và dựng cột. 19 Ông
cho căng lều trên Nhà Tạm, lấy bạt che phía trên lều, như Ðức Chúa đã truyền
cho ông Mô-sê. 20 Ông lấy Chứng Ước đặt vào Hòm Bia, xỏ đòn vào Hòm
Bia, đặt nắp xá tội lên trên đó. 21 Ông rước Hòm Bia vào trong Nhà
Tạm và treo bức trướng để che khuất Hòm Bia Chứng Ước, như Ðức Chúa đã truyền
cho ông Mô-sê. 22 Ông cho đặt chiếc bàn trong Lều Hội Ngộ, bên cạnh
Nhà Tạm, phía bắc, bên ngoài bức trướng, 23 rồi cho bày một hàng
bánh trên đó, trước nhan Ðức Chúa, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 24
Ông cho đặt trụ đèn trong Lều Hội Ngộ, đối diện với bàn, bên cạnh Nhà
tạm, phía nam, 25 rồi cho đặt đèn lên đó, trước nhan Ðức Chúa, như
Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 26 Ông cho đặt bàn thờ bằng vàng
trong Lều Hội Ngộ, phía trước bức trướng, 27 rồi cho đốt hương thơm
trên đó, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 28 Ông cho treo màn
che cửa Nhà Tạm. 29 Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, ông cho đặt ở cửa
Nhà Tạm, ở cửa lều Hội Ngộ, rồi ông dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm trên đó, như
Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 30 Ông cho đặt cái vạc ở giữa Lều
Hội Ngộ và bàn thờ, rồi đổ nước vào đó, để dùng vào việc tẩy rửa. 31 Ông
A-ha-ron và các con ông lấy nước ấy mà rửa tay chân. 32 Mỗi khi họ
vào Lều Hội Ngộ và tới gần bàn thờ, thì họ tẩy rửa, như Ðức Chúa đã truyền cho
ông Mô-sê. 33 Ông cho làm khuôn viên chung quanh Nhà Tạm và bàn thờ,
rồi cho treo màn che cửa khuôn viên. Như thế, ông Mô-sê đã hoàn thành công
việc.
Ðức
Chúa chiếm hữu Nhà Tạm (Ðn 9:15-16)
34
Ðám
mây che phủ Lều Hội Ngộ, và vinh quang Ðức Chúa đầy tràn Nhà Tạm. 35 Ông
Mô-sê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu trên đó, và vinh quang Ðức Chúa
đầy tràn Nhà Tạm.
Mây
dẫn đường cho dân Ít-ra-en (Ðn 9:17 -23)
36
Ở
mỗi chặng đường của họ, khi nào đám mây bay lên khỏi Nhà Tạm, thì con cái
Ít-ra-en nhổ trại. 37 Nếu mây không bay lên, thì họ không nhổ trại
cho đến ngày mây lại bay lên. 38 Quả vậy, đám mây của Ðức Chúa đậu
trên Nhà Tạm ban ngày, còn ban đêm thì có lửa trong mây, trước mắt toàn thể con
cái Ít-ra-en, ở mỗi chặng đường họ đi.
Lêvi
Chương 01
Lễ
toàn thiêu
1
Ðức
Chúa gọi ông Mô-sê, và từ Lều Hội Ngộ, Người phán với ông rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi một người trong các ngươi dâng lễ
tiến lên Ðức Chúa, nếu là gia súc thì các ngươi phải dâng bò hay chiên dê làm
lễ tiến.
3
Nếu
người ấy tiến dâng một con bò làm lễ toàn thiêu, thì phải tiến dâng một con đực
toàn vẹn; người ấy sẽ tiến dâng nó ở cửa Lều Hội Ngộ, để được Ðức Chúa đoái
nhận. 4 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật dâng làm lễ toàn thiêu,
và nó sẽ được đoái nhận để cử hành nghi thức xá tội cho người ấy. 5 Người
ấy sẽ sát tế con bò tơ trước nhan Ðức Chúa, và các con A-ha-ron là các tư tế,
sẽ tiến dâng máu; chúng sẽ rảy máu chung quanh bàn thờ đặt ở cửa Lều Hội Ngộ. 6
Người ấy sẽ lột da con vật dâng làm lễ toàn thiêu, và xả nó ra từng mảnh.
7 Các con A-ha-ron, là các tư tế, sẽ nhóm lửa trên bàn thờ và xếp
củi trên lửa. 8 Các con A-ha-ron là các tư tế, sẽ xếp các mảnh thịt,
cùng với đầu và mỡ, trên củi đặt trên lửa ở bàn thờ. 9 Còn lòng và
chân, người ấy sẽ lấy nước mà rửa, rồi tư tế sẽ đốt tất cả cho cháy nghi ngút
trên bàn thờ. Ðó là lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức
Chúa.
10
Nếu
người ấy tiến dâng chiên dê làm lễ toàn thiêu, một con chiên con hay một con
dê, thì phải tiến dâng một con đực toàn vẹn. 11 Người ấy sẽ sát tế
nó bên cạnh bàn thờ, về phía bắc, trước nhan Ðức Chúa, và các con A-ha-ron là
các tư tế, sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ. 12 Người ấy sẽ xả nó
ra từng mảnh, rồi tư tế sẽ xếp những mảnh ấy, cùng với đầu và mỡ, trên củi đặt
trên lửa ở bàn thờ. 13 Còn lòng và chân, người ấy sẽ lấy nước mà
rửa, rồi tư tế sẽ tiến dâng tất cả và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Ðó
là lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 14 Nếu
người ấy tiến dâng lên Ðức Chúa một con chim làm lễ toàn thiêu, thì phải dâng
chim gáy hoặc bồ câu non. 15 Tư tế sẽ tiến dâng nó tại bàn thờ, cấu
đầu nó và đốt nó cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, máu thì bóp vào thành bàn thờ.
16 Tư tế sẽ lấy cái diều và bộ lông ra, ném bên cạnh bàn thờ, về
phía đông, vào chỗ đổ tro. 17 Người ta sẽ chặt đôi nó ở giữa hai
cánh, nhưng không tách hẳn ra; tư tế sẽ đốt nó cho cháy nghi ngút trên bàn thờ,
trên củi đặt trên lửa. Ðó là lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, là hương thơm làm vui
lòng Ðức Chúa.
Chương 02
Lễ
phẩm
1
Khi
có ai tiến dâng lễ phẩm lên Ðức Chúa, thì phải dâng tinh bột; người ấy sẽ rưới
dầu lên trên và đổ nhũ hương vào. 2 Người ấy sẽ đưa lễ phẩm đến cho
các con A-ha-ron là các tư tế. Tư tế sẽ bốc một nắm đầy tinh bột, dầu và tất cả
nhũ hương, rồi đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, làm kỷ vật dành cho Ðức
Chúa. Ðó là lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 3 Phần
còn lại của lễ phẩm thì thuộc về A-ha-ron và các con nó; đó là phần rất thánh
lấy từ các lễ hoả tế dâng Ðức Chúa.
4
Khi
(các) ngươi dâng lễ phẩm là bột nhào nướng lò làm lễ tiến, thì đó phải là tinh
bột làm thành bánh ngọt không men nhào với dầu, và làm thành bánh tráng không
men phết dầu.
5
Nếu
lễ tiến của (các) ngươi là một lễ phẩm nướng chảo, thì phải là tinh bột nhào
với dầu, không men. 6 (Các) ngươi sẽ bẻ nó ra từng miếng và rưới dầu
lên trên. Ðó là lễ phẩm. 7 Nếu lễ tiến của (các) ngươi là một lễ
phẩm nấu trong nồi, thì phải làm bằng tinh bột với dầu.
8
(Các)
ngươi sẽ đem đến dâng Ðức Chúa lễ phẩm làm bằng các thứ ấy; người ta sẽ tiến
dâng cho tư tế, tư tế sẽ đem đến gần bàn thờ. 9 Từ lễ phẩm ấy, tư tế
sẽ lấy ra phần kỷ vật dành cho Ðức Chúa, đem đốt cho cháy nghi ngút trên bàn
thờ. Ðó là lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa.
10
Phần
còn lại của lễ phẩm thì thuộc về A-ha-ron và các con; đó là phần rất thánh lấy
từ các lễ hoả tế dâng Ðức Chúa.
11
Không
lễ phẩm nào (các) ngươi tiến dâng Ðức Chúa được làm bằng chất lên men, vì (các)
ngươi không bao giờ được lấy men và lấy mật ong mà đốt cho cháy nghi ngút làm
lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 12 (Các) ngươi có thể dâng những thứ ấy lên
Ðức Chúa làm lễ tiến sản phẩm đầu mùa, nhưng không được đưa lên bàn thờ để
thành hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 13 (Các) ngươi phải bỏ muối
vào mọi lễ phẩm (các) ngươi dâng tiến; (các) ngươi không được để lễ phẩm (các)
ngươi thiếu muối của giao ước của Thiên Chúa (các) ngươi; (các) ngươi phải dâng
muối cùng với mọi lễ tiến của (các) ngươi. 14 Nếu (các) ngươi tiến
dâng Ðức Chúa của đầu mùa làm lễ phẩm, thì phải tiến dâng gié lúa rang, hột lúa
mới đã xay, làm lễ phẩm của đầu mùa. 15 (Các) ngươi sẽ đổ dầu lên
trên và bỏ nhũ hương vào. Ðó là lễ phẩm. 16 Tư tế sẽ đốt cho cháy
nghi ngút phần kỷ vật dành cho Ðức Chúa, tức là một phần hột lúa xay và dầu
cùng với tất cả nhũ hương. Ðó là lễ hoả tế dâng Ðức Chúa.
Chương 03
Hy
lễ kỳ an
1
Nếu
lễ tiến của người ấy là một hy lễ kỳ an, và người ấy muốn tiến dâng bò đực hay
bò cái, thì phải tiến dâng trước nhan Ðức Chúa một con vật toàn vẹn. 2 Người
ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật dâng làm lễ tiến, và sẽ sát tế nó ở cửa Lều Hội
Ngộ. Các con A-ha-ron, là các tư tế, sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ. 3 Người
ấy sẽ tiến dâng một phần hy lễ kỳ an làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa, đó là lớp mỡ
bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng, 4 hai trái cật và
lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà người ấy sẽ tách ra cùng với
các trái cật. 5 Các con A-ha-ron sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi
ngút trên bàn thờ, bên trên lễ toàn thiêu đặt trên củi ở trên lửa. Ðó là lễ hoả
tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa.
6
Nếu
người ấy tiến dâng chiên dê làm lễ kỳ an dâng Ðức Chúa, thì phải tiến dâng một
con đực hay một con cái toàn vẹn.
7
Nếu
người ấy dâng một chiên con làm lễ tiến, thì phải tiến dâng nó trước nhan Ðức
Chúa. 8 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật dâng làm lễ tiến, và sẽ
sát tế nó trước Lều Hội Ngộ. Các con A-ha-ron sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ.
9 Người ấy sẽ tiến dâng một phần hy lễ kỳ an làm lễ hoả tế dâng Ðức
Chúa, đó là: mỡ của nó, trọn cái đuôi mà người ấy sẽ cắt sát xương cùng, lớp mỡ
bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng, 10 hai trái cật và
lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà người ấy sẽ tách ra cùng với
các trái cật. 11 Tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên
bàn thờ. Ðó là thức ăn hoả tế dâng Ðức Chúa.
12
Nếu
lễ tiến của người ấy là một con dê, thì phải tiến dâng nó trước nhan Ðức Chúa. 13
Người ấy sẽ đặt tay trên đầu con vật, và sẽ sát tế nó trước cửa Lều Hội
Ngộ. Các con A-ha-ron sẽ rảy máu nó chung quanh bàn thờ. 14 Người ấy
sẽ tiến dâng một phần con vật làm lễ tiến, làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa, đó là:
lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng, 15 hai trái
cật và lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà người ấy sẽ tách ra
cùng với các trái cật. 16 Tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi
ngút trên bàn thờ. Ðó là thức ăn hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa.
17
Ðây
là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, tại khắp nơi các ngươi ở:
tất cả những gì là mỡ và huyết, các ngươi không được ăn.
Chương 04
Lễ
tạ tội
a.
Tạ tội cho tư tế
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en: Khi có người nào vô ý phạm tội trái với một trong các
mệnh lệnh của Ðức Chúa và làm một trong những điều không được làm, 3 nếu
là tư tế đã được xức dầu tấn phong mà phạm tội, khiến dân cũng mắc lỗi, thì vì
tội đã phạm, nó phải tiến dâng một con bò tơ toàn vẹn lên Ðức Chúa làm lễ tạ
tội. 4 Nó sẽ đưa con bò đến cửa Lều Hội Ngộ trước nhan Ðức Chúa; nó
sẽ đặt tay trên đầu con bò và sát tế con bò trước nhan Ðức Chúa. 5 Tư
tế đã được xức dầu tấn phong sẽ lấy một phần máu con bò và đưa vào Lều Hội Ngộ.
6 Tư tế sẽ nhúng ngón tay vào máu và rảy máu đó bảy lần trước nhan
Ðức Chúa, phía trước màn trướng thánh điện. 7 Tư tế sẽ bôi máu lên
các góc cong của bàn thờ dâng hương thơm đặt trong Lều Hội Ngộ, trước nhan Ðức
Chúa, rồi đổ tất cả máu bò còn lại xuống chân bàn thờ dâng lễ toàn thiêu đặt ở
cửa Lều Hội Ngộ.
8
Còn
tất cả mỡ của con bò dâng làm lễ tạ tội, nó sẽ trích riêng ra, đó là: lớp mỡ
bọc ngoài bộ lòng, tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng, 9 hai trái cật và
lớp mỡ bọc ngoài, gần lưng, và khối mỡ trên gan mà nó sẽ tách ra cùng với các
trái cật - 10 giống như phần trích riêng ra từ con bò dâng làm hy lễ kỳ an -
rồi tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên bàn thờ dâng lễ toàn
thiêu. 11 Còn da con bò, tất cả thịt của nó, cùng với đầu, chân,
lòng và phân của nó, 12 tóm lại tất cả con bò, thì tư tế sẽ đưa ra
ngoài trại, ở một nơi thanh sạch, chỗ đổ tro, và thiêu trên củi đang cháy; nó
sẽ được thiêu tại chính nơi đổ tro.
b.
Tạ tội cho cộng đồng Ít-ra-en
13
Nếu
toàn thể cộng đồng Ít-ra-en vô ý phạm tội và đại hội không nhận thấy điều đó,
nếu chúng làm một trong những điều mà mệnh lệnh Ðức Chúa cấm làm, khiến chúng
mắc lỗi, 14 nhưng rồi chúng biết được tội đã phạm, thì đại hội phải
tiến dâng một bò tơ làm lễ tạ tội, và sẽ đưa nó đến trước Lều Hội Ngộ. 15 Các
kỳ mục của cộng đồng sẽ đặt tay trên đầu con bò, trước nhan Ðức Chúa, và người
ta sẽ sát tế con bò trước nhan Ðức Chúa.
16
Tư
tế đã được xức dầu tấn phong sẽ đem một phần máu con bò vào Lều Hội Ngộ. 17
Tư tế sẽ nhúng ngón tay vào máu và rảy bảy lần trước nhan Ðức Chúa, phía
trước màn trướng. 18 Tư tế sẽ bôi máu vào các góc cong của bàn thờ
đặt trong Lều Hội Ngộ, trước nhan Ðức Chúa, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống
chân bàn thờ dâng lễ toàn thiêu đặt ở cửa Lều Hội Ngộ.
19
Còn
tất cả mỡ, tư tế sẽ lấy riêng ra và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. 20
Nó sẽ tế con bò này như đã tế con bò dâng làm lễ tạ tội; tư tế sẽ tế nó
như vậy. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho chúng và chúng sẽ được tha.
21
Tư
tế sẽ đưa con bò ra ngoài trại và thiêu nó như đã thiêu con bò trước. Ðó là lễ
tạ tội cho đại hội.
c.
Tạ tội cho một đầu mục
22
Nếu
một đầu mục phạm tội, và vô ý làm một trong những điều mà mệnh lệnh Ðức Chúa,
Thiên Chúa của nó, cấm làm, khiến nó mắc lỗi, 23 nếu người ta cho nó
biết tội nó đã phạm, thì nó phải đưa đến một con dê làm lễ tiến, một con đực
toàn vẹn. 24 Nó sẽ đặt tay trên đầu con dê và sát tế trước nhan Ðức
Chúa, ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. Ðó là lễ tạ tội. 25 Tư tế sẽ
dùng ngón tay lấy máu lễ vật tạ tội và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ
toàn thiêu, rồi đổ máu còn lại xuống chân bàn thờ dâng lễ toàn thiêu. 26 Còn
tất cả mỡ, tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, như mỡ của hy lễ kỳ
an. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy khỏi tội của mình, và người
ấy sẽ được tha.
d.
Tạ tội cho một thường dân
27
Nếu
một thường dân vô ý phạm tội, làm một trong những điều mà mệnh lệnh của Ðức
Chúa cấm làm, khiến nó mắc lỗi, 28 nếu người ta cho nó biết tội nó
đã phạm, thì vì tội đã phạm, nó sẽ đưa đến một con dê làm lễ tiến, một dê cái
toàn vẹn. 29 Nó sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và sát tế lễ vật
tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. 30 Tư tế sẽ dùng ngón tay lấy
máu con vật và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, rồi đổ tất
cả máu còn lại xuống chân bàn thờ. 31 Còn tất cả mỡ, tư tế sẽ tách
ra như người ta tách mỡ ra khỏi hy lễ kỳ an, rồi tư tế sẽ đốt cho cháy nghi
ngút trên bàn thờ thành hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. Tư tế sẽ cử hành lễ
xá tội như thế cho người ấy, và người ấy sẽ được tha.
32
Nếu
người ấy đem dâng tiến một con chiên làm lễ tạ tội, thì phải đem đến một con
chiên cái toàn vẹn. 33 Người ấy sẽ đặt tay trên đầu lễ vật tạ tội và
sát tế làm lễ tạ tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu. 34 Tư tế sẽ
dùng ngón tay lấy máu lễ vật tạ tội và bôi lên các góc cong của bàn thờ dâng lễ
toàn thiêu, rồi đổ tất cả máu còn lại xuống chân bàn thờ. 35 Còn tất
cả mỡ, tư tế sẽ tách ra như người ta tách mỡ của con chiên dâng làm hy lễ kỳ
an, rồi tư tế sẽ đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, bên trên các lễ hoả tế
dâng Ðức Chúa. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho người ấy, vì tội người ấy
đã phạm, và người ấy sẽ được tha.
Chương 05
Một
số trường hợp phải dâng lễ tạ tội
1
Khi
một người nào phạm tội, vì tuy là nhân chứng về một việc đã thấy hoặc đã biết,
mà không chịu nói ra sau khi đã nghe lời khuyến cáo long trọng, thì nó phải
mang lấy tội một mình;
2
hoặc
khi một người nào đụng đến bất cứ vật gì ô uế -như xác chết một dã thú ô uế,
xác chết một gia súc ô uế, xác chết một con vật ô uế- mà không biết, thì nó trở
nên ô uế và mắc lỗi;
3
hoặc
khi người ấy đụng đến một cái gì ô uế của người ta - những thứ ô uế khiến người
ta trở nên ô uế - mà không biết, thì sau khi biết, nó mắc lỗi;
4
hoặc
khi một người nào lỡ lời mà thề làm điều gì bất kỳ tốt xấu - trong mọi điều một
người có thể lỡ lời mà thề - nhưng không biết, thì sau khi biết, nó mắc lỗi về
một trong những điều ấy.
5
Vậy
khi ai mắc lỗi về một trong những điều trên, thì nó phải xưng thú tội mình đã
phạm, 6 rồi phải đưa đến dâng Ðức Chúa lễ vật đền tội vì tội đã
phạm, là một con chiên cái hay một con dê cái làm lễ tạ tội, và tư tế sẽ cử
hành lễ xá tội cho nó khỏi tội.
Lễ
tạ tội cho một thường dân (tiếp)
7
Nếu
người ấy không có phương tiện kiếm được chiên dê, thì vì tội đã phạm, nó phải
đưa đến dâng Ðức Chúa lễ vật đền tội, là một đôi chim gáy hay một đôi bồ câu
non, một con làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu. 8 Nó sẽ đưa
đôi chim đến cho tư tế. Trước tiên tư tế sẽ tiến dâng con chim làm lễ tạ tội;
tư tế sẽ cấu đầu con chim ở gần gáy, nhưng không tách hẳn ra; 9 tư
tế sẽ rảy máu lễ vật tạ tội vào thành bàn thờ, phần máu còn lại sẽ được bóp vào
chân bàn thờ. Ðó là lễ tạ tội. 10 Còn con thứ hai, tư tế sẽ dâng làm
lễ toàn thiêu như luật định. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho nó khỏi tội
đã phạm, và nó sẽ được tha.
11
Nếu
người ấy không thể kiếm được một đôi chim gáy hay một đôi bồ câu non, thì vì
tội đã phạm, nó phải đưa đến dâng lễ tiến, là bốn lít rưỡi tinh bột làm lễ tạ
tội. Người ấy sẽ không đổ dầu lên trên, cũng không bỏ hương vào, vì đó là lễ tạ
tội. 12 Người ấy sẽ đưa đến cho tư tế, tư tế sẽ bốc một nắm làm phần
kỷ vật dành cho Ðức Chúa và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, bên trên các
lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 13 Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho
nó, vì tội nó đã phạm trái với một trong những điều trên, và nó sẽ được tha. Tư
tế sẽ có phần, như khi người ta dâng lễ phẩm."
Lễ
đền tội
14
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
15
"Khi
một người nào bất trung, vô ý phạm đến những của thánh dành cho Ðức Chúa, thì
phải đem dâng Ðức Chúa lễ vật đền tội, là một con chiên đực toàn vẹn bắt từ bầy
chiên, giá trị bằng một số chỉ bạc - tính theo đơn vị đo lường của thánh điện -
để làm lễ đền tội.16 Tội nó đã làm thiệt thánh điện bao nhiêu, nó sẽ phải đền,
cộng thêm một phần năm, và nộp cho tư tế. Tư tế sẽ dùng con chiên đực dâng làm
lễ chuộc tội mà cử hành lễ xá tội cho nó, và nó sẽ được tha.
17
Nếu
một người nào phạm tội và vô tình làm một trong những điều mệnh lệnh Ðức Chúa
cấm làm, thì nó mắc lỗi và phải mang lấy tội mình. 18 Nó phải đưa
đến cho tư tế một con chiên đực toàn vẹn bắt từ bầy chiên, giá trị như đã quy
định, để làm lễ đền tội. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó về tội nó đã vô ý
phạm mà không biết, và nó sẽ được tha. 19 Ðó là lễ đền tội; nó quả
là mắc lỗi với Ðức Chúa."
20
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
21
"Khi
một người nào phạm tội và bất trung với Ðức Chúa, vì đã từ chối không trả cho
người đồng bào một vật ký thác, một vật gởi tay hay một vật mất trộm, hoặc vì
đã bóc lột người đồng bào, 22 hoặc vì đã từ chối không trả một vật
bắt được, khi nó đã thề gian về một trong những điều trên là những tội người ta
có thể phạm, 23 thì kẻ phạm tội và mắc lỗi như thế phải trả lại vật
mình đã ăn trộm, hoặc của đã bóc lột, hoặc cái đã được ký thác cho mình, hoặc
vật bị mất mà mình đã bắt được, 24 hoặc bất cứ vật nào mà nó đã thề
gian là không giữ. Nó phải đền đầy đủ, cộng thêm một phần năm, và phải nộp cho
chủ của, ngày mà nó dâng lễ đền tội. 25 Nó phải đem dâng Ðức Chúa lễ
vật đền tội, là một con chiên đực toàn vẹn bắt từ bầy chiên, giá trị như đã quy
định, nộp cho tư tế làm lễ vật đền tội. 26 Tư tế sẽ cử hành lễ xá
tội cho nó trước nhan Ðức Chúa, thì nó sẽ được tha, bất kể nó đã làm gì khiến
mình mắc lỗi."
Chương 06
Hàng
tư tế và các lễ tế
A.
Lễ thượng hiến
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
truyền cho A-ha-ron và các con nó: Ðây là luật về lễ toàn thiêu. Lễ vật toàn
thiêu phải ở trên lò trên bàn thờ suốt đêm cho đến sáng, và lửa phải cháy luôn
trên bàn thờ.
3
Tư
tế sẽ mặc áo vải gai và mặc quần đùi vải gai che mình; nó sẽ hốt tro lễ toàn
thiêu mà lửa đã đốt trên bàn thờ, và đổ bên cạnh bàn thờ. 4 Nó sẽ
cởi phẩm phục ra, mặc phẩm phục khác vào, rồi đưa tro ra ngoài trại, ở một nơi
thanh sạch.
5
Lửa
trên bàn thờ phải cháy luôn không tắt: sáng sáng, tư tế sẽ đốt củi trên đó, xếp
lễ vật toàn thiêu lên trên và đốt mỡ của lễ vật kỳ an. 6 Lửa phải
thường xuyên cháy trên bàn thờ, không bao giờ tắt.
B.
Lễ phẩm
7
Ðây
là luật về lễ phẩm:
8
Từ
lễ phẩm đó, tư tế sẽ trích ra một nắm tinh bột, dầu và tất cả nhũ hương ở trên
lễ phẩm, rồi đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, thành hương thơm làm vui lòng
Ðức Chúa, đó là phần kỷ vật dành cho Ðức Chúa. 9 Phần còn lại của lễ
phẩm thì A-ha-ron và các con sẽ được ăn; phần đó sẽ được làm thành bánh không
men và ăn trong một nơi thánh; chúng sẽ ăn nó tại khuôn viên Lều Hội Ngộ. 10
Phần đó không được trộn men mà nướng. Ðó là phần Ta ban cho chúng từ các
lễ hoả tế dâng cho Ta; đó là của rất thánh, giống như lễ tạ tội và lễ đền tội. 11
Mọi đàn ông con trai trong các con A-ha-ron sẽ được ăn phần ấy; đó là quy
luật vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, trong những lễ hoả tế dâng Ðức
Chúa; tất cả những gì chạm đến các vật ấy sẽ được thánh hiến."
12
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
13
"Ðây
là lễ tiến mà A-ha-ron và các con sẽ dâng lên Ðức Chúa ngày được xức dầu tấn
phong; bốn lít rưỡi tinh bột làm lễ phẩm thường xuyên, một nửa ban sáng và một
nửa ban chiều. 14 Lễ phẩm ấy sẽ được chiên trên chảo, với dầu. Sau
khi trộn kỹ, ngươi sẽ đem dâng lễ phẩm ấy là bánh đã bẻ thành miếng: đó là
hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 15 Trong số các con A-ha-ron, tư
tế được xức dầu tấn phong để kế vị nó, cũng sẽ làm như thế: đó là quy luật vĩnh
viễn. Lễ phẩm sẽ được đốt trọn vẹn cho cháy nghi ngút dâng Ðức Chúa.
16
Mọi
lễ phẩm của tư tế phải được dâng trọn vẹn, không được ăn."
C.
Lễ tạ tội
17
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
18
"Hãy
nói với A-ha-ron và các con nó:
Ðây
là luật về lễ tạ tội:
19
Tư
tế cử hành lễ tạ tội được ăn lễ vật đó; lễ vật sẽ được ăn trong một nơi thánh,
trong khuôn viên Lều Hội Ngộ, 20 tất cả những gì chạm đến thịt lễ
vật sẽ được thánh hiến; nếu có máu bắn vào quần áo, thì ngươi phải giặt chỗ có
máu bắn vào, trong một nơi thánh. 21 Nồi đất đã dùng để nấu lễ vật
sẽ phải đập vỡ, còn nếu nó đã được nấu trong nồi đồng, thì nồi đó phải được cọ
sạch và rửa bằng nước. 22 Mọi đàn ông con trai thuộc hàng tư tế sẽ
được ăn: đó là của rất thánh. 23 Nhưng mọi lễ vật tạ tội mà máu đã
được mang vào Lều Hội Ngộ để cử hành lễ xá tội trong nơi thánh, thì không được
ăn; lễ vật đó phải bỏ vào lửa mà thiêu.
Chương 07
D.
Lễ đền tội
1
Ðây
là luật về lễ đền tội, về một của rất thánh:
2
Phải
sát tế lễ vật đền tội ở nơi sát tế lễ vật toàn thiêu, và tư tế sẽ rảy máu nó
chung quanh bàn thờ. 3 Tư tế sẽ tiến dâng tất cả mỡ của nó: cái
đuôi, lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, 4 hai trái cật và lớp mỡ bọc ngoài,
gần lưng, và khối mỡ trên gan mà tư tế sẽ tách ra cùng với các trái cật. 5
Tư tế sẽ đốt những thứ ấy cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, làm lễ hoả tế
dâng Ðức Chúa. Ðó là lễ đền tội. 6 Mọi đàn ông con trai thuộc hàng
tư tế sẽ được ăn; lễ vật ấy sẽ được ăn trong một nơi thánh: đó là của rất
thánh.
Quyền
lợi của các tư tế
7
Lễ
tạ tội thế nào, lễ đền tội cũng vậy: chỉ có một luật duy nhất cho cả hai. Tư tế
nào dâng lễ vật để cử hành lễ xá tội, thì lễ vật sẽ thuộc về tư tế đó. 8 Tư
tế tiến dâng lễ toàn thiêu của người nào, thì da của lễ vật mà tư tế đó tiến
dâng sẽ thuộc về tư tế đó. 9 Mọi lễ phẩm nướng trong lò, mọi lễ phẩm
nấu trong nồi hay chiên trên chảo sẽ thuộc về tư tế tiến dâng lễ phẩm ấy. 10
Mọi lễ phẩm nhào với dầu hay để khô sẽ thuộc về các con A-ha-ron.
Ð.
Hy lễ kỳ an
a.
Hy lễ tạ ơn
11
Ðây
là luật về hy lễ kỳ an tiến dâng Ðức Chúa:
12
Nếu
tiến dâng hy lễ kỳ an kèm với lễ tạ ơn, thì cùng với hy lễ tạ ơn, phải tiến
dâng bánh ngọt không men nhào với dầu, bánh tráng không men phết dầu và tinh
bột trộn kỹ làm thành bánh nhào với dầu. 13 Cùng với bánh ngọt đó,
phải dâng bánh có men làm lễ tiến, kèm theo lễ kỳ an. 14 Phải tiến
dâng một phần lấy từ mọi lễ tiến làm phần trích dâng Ðức Chúa. Phần ấy sẽ thuộc
về tư tế đã rảy máu của lễ vật kỳ an. 15 Còn thịt của hy lễ kỳ an để
tạ ơn, thì phải ăn trong chính ngày tiến dâng, không được để lại gì cho đến
sáng hôm sau.
b.
Lễ vật đã khấn hứa hay lễ vật tự nguyện
16
Nếu
hy lễ tiến dâng là lễ vật đã khấn hứa hay lễ vật tự nguyện, thì phải ăn trong
chính ngày tiến dâng hy lễ; phần còn lại, được ăn ngày hôm sau. 17 Sang
ngày thứ ba, những gì còn lại của hy lễ, phải bỏ vào lửa mà thiêu.
Quy
tắc chung
18
Sang
ngày thứ ba mà người ta cứ ăn thịt của hy lễ kỳ an, thì người tiến dâng hy lễ
sẽ không được đoái nhận; nó sẽ không được kể là đã dâng hy lễ: đó là thịt ôi,
và người nào ăn thì phải mang tội.
19
Thịt
đã chạm đến bất cứ cái gì ô uế, thì không được ăn, nhưng phải bỏ vào lửa mà
thiêu.
20
Nhưng
người nào ở trong tình trạng ô uế mà ăn thịt của hy lễ kỳ an dâng Ðức Chúa, thì
sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ. 21 Người nào chạm tới bất cứ cái gì ô
uế - cái gì ô uế của người ta, hay loài vật ô uế, hay bất cứ vật ô uế kinh tởm
nào - mà ăn thịt của hy lễ kỳ an dâng Ðức Chúa, thì người ấy sẽ bị khai trừ
khỏi dòng họ."
22
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
23
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en: Tất cả những gì là mỡ, mỡ bò, mỡ chiên hay mỡ dê, các
ngươi không được ăn. 24 Mỡ của con vật chết và mỡ của con vật bị thú
dữ xé, có thể dùng vào mọi việc, nhưng tuyệt đối các ngươi không được ăn. 25
Phàm ai ăn mỡ con vật mà người ta đã dâng tiến một phần làm lễ hoả tế
dâng Ðức Chúa, thì chính người ăn sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ.
26
Tại
khắp nơi các ngươi ở, tất cả những gì là tiết, dù là tiết chim hay tiết loài
vật, các ngươi không được ăn. 27 Phàm người nào ăn bất cứ cái gì là
tiết, thì sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ."
Phần
của tư tế
28
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
29
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en: Ai tiến dâng Ðức Chúa hy lễ kỳ an, thì sẽ đem đến một
phần hy lễ kỳ an của mình làm lễ tiến, dâng Ðức Chúa. 30 Chính tay
người ấy sẽ đem đến những lễ hoả tế của Ðức Chúa là mỡ kèm theo cái ức, nó sẽ
đem cái ức đến để làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa. 31 Tư
tế sẽ đốt mỡ cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, còn cái ức thì thuộc về A-ha-ron
và các con nó. 32 Các ngươi sẽ cho tư tế cái đùi phải, làm phần
trích ra từ hy lễ kỳ an của các ngươi. 33 Người nào trong các con
A-ha-ron dâng tiến máu và mỡ của lễ kỳ an, thì cái đùi phải sẽ là phần của nó. 34
Thật vậy, cái ức đã tiến dâng theo nghi thức và cái đùi đã trích ra, thì
Ta lấy của con cái Ít-ra-en, từ các hy lễ kỳ an của chúng, và Ta ban cho tư tế
A-ha-ron và các con nó: đó là quy luật vĩnh viễn cho con cái Ít-ra-en."
Kết
luận
35
Ðó
là phần của ông A-ha-ron và phần của các con ông, lấy từ các lễ hoả tế dâng Ðức
Chúa, từ ngày họ được tiến dâng để làm tư tế của Ðức Chúa. 36 Phần
đó, Ðức Chúa đã truyền cho con cái Ít-ra-en tặng cho họ, từ ngày Người xức dầu
tấn phong họ: đó là quy tắc vĩnh viễn cho họ từ thế hệ này qua thế hệ kia.
37
Ðó
là luật về lễ toàn thiêu, lễ phẩm, lễ tạ tội, lễ đền tội, lễ trao quyền và hy
lễ kỳ an; 38 luật đó, Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê trên núi
Xi-nai, trong ngày Người truyền cho con cái Ít-ra-en dâng Ðức Chúa các lễ tiến
của họ trong sa mạc Xi-nai.
Chương 08
II.
Lễ Tấn Phong Tư Tế
Nghi
thức thánh hiến (Xh 29:1-37)
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
đem theo A-ha-ron cùng với các con nó, và lấy các phẩm phục, dầu tấn phong, con
bò dùng làm lễ tạ tội, hai con cừu đực và giỏ bánh không men. 3 Rồi
hãy tập hợp toàn thể cộng đồng ở cửa Lều Hội Ngộ."
4
Ông
Mô-sê làm như Ðức Chúa đã truyền cho ông, và cộng đồng tụ tập ở cửa Lều Hội Ngộ.
5 Ông Mô-sê nói với cộng đồng: "Ðây là điều Ðức Chúa truyền
phải làm."
6
Ông
Mô-sê cho ông A-ha-ron và các con ông ấy đến gần, và lấy nước tắm rửa họ.
7
Ông
mặc áo dài cho ông ấy, thắt đai lưng, choàng áo khoác, và đặt áo ê-phốt trên
ông; ông lấy băng chéo của áo ê-phốt thắt cho ông và cho ông mặc áo ấy; 8 ông
đeo khăn ngực cho ông ấy và bỏ các thẻ xăm u-rim và tum-mim vào khăn ngực; 9
ông lấy mũ tế đội lên đầu ông ấy và đính vào phía trước mũ tế huy hiệu
bằng vàng, là dấu thánh hiến, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
10
Ông
Mô-sê lấy dầu tấn phong xức Nhà Tạm cùng mọi vật ở trong, và thánh hiến tất cả;
11 ông lấy dầu rảy trên bàn thờ bảy lần, rồi xức dầu bàn thờ cùng
mọi đồ phụ thuộc, vạc và đế vạc, để thánh hiến những vật đó. 12 Ông
đổ dầu tấn phong lên đầu ông A-ha-ron và xức dầu để thánh hiến ông.
13
Ông
cho các con ông A-ha-ron đến gần, mặc áo dài cho họ, thắt đai lưng và lấy mũ
đội lên đầu họ, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
14
Ông
Mô-sê cho dẫn con bò dùng làm lễ tạ tội đến. Ông A-ha-ron và các con ông đặt
tay lên đầu con bò dùng làm lễ tạ tội. 15 Ông Mô-sê sát tế nó, lấy
máu nó và dùng ngón tay mà bôi vào các góc cong ở chung quanh bàn thờ, và xoá
tội cho bàn thờ; ông đổ máu còn lại xuống chân bàn thờ, và cử hành lễ xoá tội
cho bàn thờ để thánh hiến. 16 Ông Mô-sê lấy tất cả lớp mỡ ở trên bộ lòng,
khối mỡ gan, hai trái cật với lớp mỡ, mà đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. 17
Nhưng con bò, da, thịt và phân nó, thì ông bỏ vào lửa mà thiêu bên ngoài
trại, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
18
Ông
cho dẫn con cừu đực dùng làm lễ toàn thiêu đến gần. Ông A-ha-ron và các con ông
đặt tay lên đầu con cừu. 19 Ông Mô-sê sát tế nó và rảy máu chung
quanh bàn thờ; 20 ông xả con cừu ra từng mảnh, rồi đốt cái đầu, các
mảnh đã xẻ và mỡ cho cháy nghi ngút. 21 Còn lòng và chân, ông Mô-sê
lấy nước mà rửa, rồi ông đốt tất cả con cừu cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. Ðó
là lễ toàn thiêu, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa, như Ðức Chúa đã truyền
cho ông Mô-sê.
22
Ông
cho dẫn con cừu đực thứ hai đến gần, con cừu dùng cho lễ trao quyền. Ông
A-ha-ron và các con ông đặt tay lên nó. 23 Ông Mô-sê sát tế nó, rồi
lấy máu bôi vào trái tai phải ông A-ha-ron, vào ngón cái tay phải và ngón cái
chân phải ông; 24 ông Mô-sê cho các con ông A-ha-ron lại gần và lấy
máu bôi vào trái tai phải của họ, vào ngón cái tay phải của họ, và vào ngón cái
chân phải của họ; ông Mô-sê rảy máu chung quanh bàn thờ. 25 Ông lấy
mỡ, đuôi, tất cả lớp mỡ bọc ngoài bộ lòng, khối mỡ của gan, hai trái cật với
lớp mỡ, và đùi phải. 26 Từ trong giỏ bánh không men ở trước nhan Ðức
Chúa, ông lấy ra một tấm bánh ngọt không men, một tấm bánh ngọt chiên với dầu
và một tấm bánh tráng, và đặt lên trên mỡ và đùi phải. 27 Tất cả
những thứ đó, ông đặt trên bàn tay ông A-ha-ron và trên bàn tay các con ông ấy,
rồi làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa. 28 Sau đó, ông lấy
lại các vật ấy từ bàn tay họ, và đem đốt cho cháy nghi ngút ở bàn thờ, bên trên
lễ vật toàn thiêu. Ðó là hy lễ dâng trong ngày trao quyền, là hương thơm làm
vui lòng Ðức Chúa, là lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 29 Ông Mô-sê lấy cái
ức và làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa; đó là phần dành cho ông
Mô-sê, lấy từ con cừu dâng trong lễ trao quyền, như Ðức Chúa đã truyền cho ông
Mô-sê.
30
Ông
Mô-sê lấy dầu tấn phong và lấy máu trên bàn thờ rảy trên ông A-ha-ron và phẩm
phục của ông, trên các con ông ấy và phẩm phục của họ; như thế ông thánh hiến
ông A-ha-ron và phẩm phục của ông, các con ông và phẩm phục của họ.
31
Ông
Mô-sê nói với ông A-ha-ron và các con ông: "Hãy nấu thịt ở cửa Lều Hội
Ngộ, ở đó hãy ăn thịt và ăn bánh để trong giỏ dùng trong lễ trao quyền, như tôi
đã truyền rằng: "Ông A-ha-ron và các con sẽ ăn thứ ấy. 32 Thịt
và bánh còn thừa, ông và anh em hãy bỏ vào lửa mà thiêu. 33 Trong
vòng bảy ngày, ông và anh em không được ra khỏi Lều Hội Ngộ, cho đến khi mãn
thời gian làm lễ trao quyền cho ông và anh em, vì người ta sẽ làm lễ trao quyền
cho ông và anh em trong vòng bảy ngày. 34 Ðức Chúa đã truyền phải
làm như hôm nay người ta đã làm để cử hành lễ xá tội cho ông và anh em. 35
Trong vòng bảy ngày, ông và anh em phải ở lại cửa Lều Hội Ngộ, ngày và
đêm, phải giữ điều Ðức Chúa truyền giữ, để ông và anh em khỏi chết. Ðó là lệnh
truyền tôi đã nhận được.” 36 Ông A-ha-ron và các con đã làm điều Ðức
Chúa dùng ông Mô-sê mà truyền.
Chương 09
Các
tư tế nhậm chức
1
Ðến
ngày thứ tám, ông Mô-sê gọi ông A-ha-ron và các con ông ấy, cũng như các kỳ mục
Ít-ra-en, 2 và nói với ông A-ha-ron: "Ông hãy bắt một con bê để
làm lễ tạ tội, với một con cừu đực để làm lễ toàn thiêu, cả hai còn toàn vẹn,
và hãy tiến dâng chúng trước nhan Ðức Chúa. 3 Rồi ông hãy nói với
con cái Ít-ra-en rằng: "Hãy bắt một con dê đực để làm lễ tạ tội, một con
bê với một con chiên, cả hai phải được một tuổi, toàn vẹn, để làm lễ toàn thiêu,
4 một con bò đực và một con dê đực để làm lễ kỳ an dâng trước nhan
Ðức Chúa, và một lễ phẩm nhào với dầu; vì hôm nay Ðức Chúa sẽ xuất hiện giữa
anh em."
5
Họ
đưa đến trước Lều Hội Ngộ những gì ông Mô-sê đã truyền, rồi toàn thể cộng đồng
lại gần và đứng trước nhan Ðức Chúa. 6 Ông Mô-sê nói: "Ðây là
điều Ðức Chúa đã truyền cho anh em; anh em hãy thi hành để vinh quang Ðức Chúa
xuất hiện giữa anh em.” 7 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Ông
hãy lại gần bàn thờ, hãy dâng lễ tạ tội và lễ toàn thiêu của ông, để làm lễ xá
tội cho ông và cho dân, rồi hãy dâng lễ tiến của dân để cử hành lễ xá tội cho
họ, như Ðức Chúa đã truyền.” 8 Ông A-ha-ron lại gần bàn thờ và sát
tế con bê để làm lễ tạ tội cho chính mình. 9 Các con ông A-ha-ron
đem máu lại cho ông; ông nhúng ngón tay vào máu, bôi lên các góc cong của bàn
thờ, rồi đổ máu xuống trên bàn thờ. 10 Mỡ, hai trái cật và khối mỡ
lấy từ gan của lễ vật tạ tội, thì ông đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, như
Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê; 11 còn thịt và da, ông bỏ vào lửa
mà thiêu bên ngoài trại.
12
Ông
sát tế lễ vật toàn thiêu; các con ông A-ha-ron mang máu đến cho ông, và ông rảy
máu chung quanh bàn thờ. 13 Họ cũng mang đến cho ông lễ vật toàn
thiêu đã xả thành mảnh, cùng với cái đầu, và ông đốt cho cháy nghi ngút trên
bàn thờ. 14 Ông rửa lòng và chân nó, rồi đốt cho cháy nghi ngút trên
bàn thờ, bên trên lễ toàn thiêu.
15
Ông
dâng lễ tiến của dân: ông bắt con dê đực dùng làm lễ tạ tội cho dân, sát tế và
dâng nó làm lễ tạ tội như con trước. 16 Ông dâng tiến lễ toàn thiêu
và làm như luật định. 17 Ông tiến dâng lễ phẩm: ông bốc một nắm đầy
lễ phẩm và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, thêm vào lễ toàn thiêu buổi
sáng.
18
Ông
sát tế con bò đực, và con cừu đực làm hy lễ kỳ an cho dân; các con ông A-ha-ron
mang máu đến cho ông, và ông rảy máu chung quanh bàn thờ. 19 Mỡ con
bò và mỡ con cừu, cái đuôi, mỡ chài, hai trái cật và khối mỡ của gan, 20 thì
họ đặt trên những cái ức, và ông đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ. 21 Ức
và đùi phải, thì ông A-ha-ron làm nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa, như
ông Mô-sê đã truyền.
22
Ông
A-ha-ron giơ tay trên dân và chúc phúc cho họ; rồi ông đi xuống, sau khi đã cử
hành lễ tạ tội, lễ toàn thiêu và lễ kỳ an. 23 Ông Mô-sê và ông
A-ha-ron vào Lều Hội Ngộ, rồi đi ra chúc phúc cho dân. Vinh quang Ðức Chúa xuất
hiện giữa toàn dân. 24 Lửa phát ra từ trước nhan Ðức Chúa đốt sạch
lễ toàn thiêu và mỡ trên bàn thờ. Thấy thế, toàn dân reo mừng và cúi rạp xuống.
Chương 10
Quy
định bổ sung
A.
Trường hợp Na-đap và A-vi-hu
1
Hai
người con của ông A-ha-ron là Na-đáp và A-vi-hu, mỗi người lấy bình hương của
mình, bỏ lửa vào, rồi đặt hương lên trên, họ tiến dâng Ðức Chúa lửa phàm tục,
điều mà Người đã không truyền cho họ. 2 Bấy giờ lửa từ trước nhan
Ðức Chúa phát ra, thiêu sống họ, họ đã chết trước nhan Ðức Chúa. 3 Ông
Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Ðó là điều Ðức Chúa đã phán:
Giữa
các kẻ đến gần Ta,
Ta
sẽ biểu dương sự thánh thiện của Ta;
trước
mặt toàn dân, Ta sẽ cho thấy vinh quang của Ta."
Ông
A-ha-ron lặng thinh.
B.
Khiêng xác đi
4
Ông
Mô-sê gọi các ông Mi-sa-ên và En-xa-phan, con ông Út-di-ên là chú ông A-ha-ron,
và bảo họ: "Các chú lại đây, khiêng các người anh em của các chú từ nơi
thánh ra ngoài trại.” 5 Họ lại gần, khiêng hai người kia vẫn còn mặc
áo dài, đưa ra ngoài trại, như ông Mô-sê đã nói.
C.
Tang chế của tư tế
6
Ông
Mô-sê nói với ông A-ha-ron và hai người con ông ấy là E-la-da và I-tha-ma:
"Ông và các anh đừng xoã tóc cũng đừng xé áo, để khỏi phải chết, và để
Người khỏi nổi giận với toàn thể cộng đồng. Các người anh em của ông và các anh
cùng toàn thể nhà Ít-ra-en sẽ khóc những kẻ Ðức Chúa đã thiêu. 7 Ông
và các anh cũng không được rời cửa Lều Hội Ngộ, để khỏi phải chết, vì ông và
các anh đã được xức dầu tấn phong của Ðức Chúa." Họ làm theo lời ông
Mô-sê.
D.
Cấm uống rượu
8
Ðức
Chúa phán với ông A-ha-ron rằng:
9
"Ngươi
cùng các con ngươi không được uống rượu và đồ uống có men, khi các ngươi vào
Lều Hội Ngộ, kẻo các ngươi phải chết. Ðó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ
của các ngươi. 10 Như vậy là để phân biệt của thánh với của phàm
tục, vật ô uế với vật thanh sạch, 11 và để dạy con cái Ít-ra-en mọi
thánh chỉ Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê mà phán với các ngươi."
Ð.
Phần lễ tiến dành cho tư tế
12
Ông
Mô-sê nói với ông A-ha-ron và hai người con còn lại của ông ấy là E-la-da và
I-tha-ma: "Ông và các anh hãy lấy phần lễ phẩm còn lại sau khi đã dâng hoả
tế lên Ðức Chúa, và hãy làm thành bánh không men mà ăn bên cạnh bàn thờ, vì đó
là của rất thánh. 13 Ông và các anh hãy ăn trong một nơi thánh, vì
đó là quyền lợi của ông và quyền lợi của con cái ông, mỗi khi có lễ hoả tế dâng
Ðức Chúa. Ðó là lệnh truyền tôi đã nhận được.
14
Còn
cái ức đã tiến dâng theo nghi thức trước nhan Ðức Chúa và cái đùi đã trích ra,
ông cùng các con trai con gái ông sẽ ăn trong một nơi thanh sạch, vì những thứ
ấy là phần quy định cho ông và phần quy định cho các con ông, mỗi khi con cái
Ít-ra-en dâng hy lễ kỳ an. 15 Cái đùi trích ra và cái ức tiến dâng
theo nghi thức, người ta sẽ đem đến cùng với các phần mỡ làm lễ hoả tế, để làm
nghi thức tiến dâng trước nhan Ðức Chúa; rồi đùi và ức đó sẽ là của ông và các
con ông. Ðó là quy luật vĩnh viễn, như Ðức Chúa đã truyền."
E.
Quy định đặc biệt về lễ tạ tội
16
Ông
Mô-sê hỏi đi hỏi lại về con dê đực dâng làm lễ tạ tội và thấy là nó đã bị
thiêu. Ông nổi giận với hai người con còn lại của ông A-ha-ron là E-la-da và
I-tha-ma, và nói: 17 "Tại sao các anh không ăn lễ vật tạ tội
trong nơi thánh, vì đó là của rất thánh? Người đã ban nó cho các anh để xoá bỏ
tội lỗi của cộng đồng, để cử hành lễ xá tội cho họ trước nhan Ðức Chúa. 18
Vì máu nó đã không được đưa vào nơi thánh, nên lẽ ra các anh phải ăn nó
trong nơi thánh, như tôi đã truyền.” 19 Ông A-ha-ron nói với ông
Mô-sê: "Này, hôm nay chúng đã tiến dâng lễ tạ tội và lễ toàn thiêu của
chúng trước nhan Ðức Chúa. Sau khi sự việc đã xảy đến cho tôi như thế, nếu hôm
nay tôi ăn lễ vật tạ tội, thì liệu điều ấy có vừa lòng Ðức Chúa không?” 20
Nghe vậy, ông Mô-sê lấy làm vừa lòng.
Chương 11
III.
Luật Liên Quan Ðến Cái Thanh Sạch Và Cái Ô Uế
Loài
vật thanh sạch và loài vật ô uế
A.
Vật trên đất
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron và bảo các ông rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en: Trong tất cả các loài vật sống trên đất, đây là những
loài các ngươi được ăn:
3
Mọi
con vật có chân chẻ làm hai móng và thuộc loài nhai lại, thì các ngươi được ăn.
4 Tuy nhiên, trong các loài nhai lại và các loài có móng chẻ hai,
các ngươi không được ăn các con này: con lạc đà, vì nó nhai lại, nhưng không có
móng chẻ hai: các ngươi phải coi nó là loài ô uế; 5 con ngân thử, vì
nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các ngươi phải coi nó là loài ô uế; 6
con thỏ rừng, vì nó nhai lại, nhưng không có móng chẻ hai: các ngươi phải
coi nó là ô uế; 7 con heo, vì nó có chân chẻ làm hai móng, nhưng
không nhai lại: các ngươi phải coi nó là loài ô uế. 8 Thịt của
chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi không được đụng
đến; các ngươi phải coi chúng là loài ô uế.
B.
Vật dưới nước
9
Trong
tất cả các loài sống dưới nước, đây là những loài các ngươi được ăn:
10
Còn
tất cả những loài không có vây, không có vảy, ở sông hay ở biển, trong số mọi
vật nhỏ sống dưới nước và mọi sinh vật sống dưới nước, thì các ngươi phải coi
chúng là loài kinh tởm. 11 Các ngươi phải coi chúng là loài kinh
tởm: thịt của chúng, các ngươi không được ăn, xác chết của chúng, các ngươi
phải coi là vật kinh tởm. 12 Tất cả những loài sống dưới nước mà
không có vây, không có vảy, các ngươi phải coi là loài kinh tởm.
C.
Chim chóc
13
Trong
các loài chim, đây là những loài các ngươi phải coi là kinh tởm: người ta không
được ăn, vì là loài kinh tởm: đại bàng, diều hâu, ó biển, 14 diều
hâu đen, mọi thứ kền kền, 15 mọi thứ quạ, 16 đà điểu, cú,
mòng biển, mọi thứ bồ cắt, 17 cú vọ, cóc, cú mèo,18 chim lợn, bồ
nông, ó, 19 cò, mọi thứ diệc, chim đầu rìu và dơi.
D.
Côn trùng có cánh
20
Mọi
loài vật nhỏ có cánh đi bằng bốn chân, các ngươi phải coi là loài kinh tởm. 21
Trong các loài vật nhỏ có cánh đi bằng bốn chân, các ngươi chỉ được ăn
những thứ sau đây: những con ngoài chân ra có thêm càng để nhảy trên đất. 22
Trong số những loài đó, đây là những loài các ngươi được ăn: mọi thứ cào
cào, mọi thứ châu chấu, mọi thứ muỗm, mọi thứ dế. 23 Nhưng mọi vật
nhỏ có cánh mà có bốn chân, các ngươi phải coi là loài kinh tởm.
Ðụng
vào loài vật ô uế
24
Vì
các vật ấy, các ngươi sẽ ra ô uế: ai đụng vào xác chết của chúng, sẽ ra ô uế
cho đến chiều, 25 bất cứ ai mang xác chết của chúng, thì phải giặt
quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều. 26 Mọi con vật không có chân
chẻ làm hai móng và không nhai lại, các ngươi phải coi là loài ô uế: bất cứ ai
đụng vào chúng, sẽ ra ô uế. 27 Trong số các loài vật đi bằng bốn
chân, tất cả các con đi bằng bàn chân, các ngươi phải coi là loài ô uế; bất cứ
ai đụng vào chúng, sẽ ra ô uế cho đến chiều. 28 Bất cứ ai mang xác
chết của chúng, thì phải giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; các ngươi
phải coi chúng là vật ô uế.
Ð.
Vật nhỏ sống trên mặt đất
29
Trong
số các loài vật nhỏ lúc nhúc trên mặt đất, các ngươi phải coi những loài này là
ô uế: chuột chũi, chuột nhắt, mọi thứ thằn lằn, 30 tắc kè, kỳ đà,
cắc ké, kỳ nhông, thạch sùng.
Quy
định khác về việc đụng vào vật ô uế
31
Trong
số mọi loài vật nhỏ, các ngươi phải coi những loài trên là ô uế. Bất cứ ai đụng
đến chúng khi chúng đã chết, thì sẽ ra ô uế cho đến chiều.
32
Trong
những con vật đó, con nào chết mà rơi trên bất cứ vật gì, thì vật ấy sẽ ra ô
uế, dù là đồ dùng bằng gỗ, quần áo, da, bị, mọi đồ dùng để làm một công việc
gì; phải nhúng vật ấy vào nước, nó sẽ ra ô uế cho đến chiều, rồi sẽ được thanh
sạch. 33 Nếu một con vật rơi vào trong bất cứ bình sành nào, thì tất
cả những gì trong đó sẽ ra ô uế, và các ngươi phải đập vỡ bình ấy. 34 Mọi
thứ người ta ăn, nếu bị nước bình ấy đổ lên trên, thì sẽ ra ô uế; mọi thứ người
ta uống, đựng trong bất cứ bình nào nói trên, sẽ ra ô uế. 35 Một xác
chết của chúng mà rơi trên bất cứ vật gì, thì vật ấy sẽ ra ô uế; lò và bếp sẽ
phải phá đi: các vật ấy là ô uế và các ngươi phải coi là những vật ô uế. 36
Tuy nhiên suối và hầm nước thì khối nước vẫn thanh sạch, nhưng ai đụng
đến xác chết của chúng, sẽ ra ô uế. 37 Nếu một xác chết của chúng
rơi trên hạt giống để gieo, thì hạt giống vẫn thanh sạch; 38 nhưng
nếu đã đổ nước vào hạt giống, mà một xác chết của chúng rơi trên đó, thì các
ngươi phải coi hạt giống đó là ô uế.
39
Nếu
một con vật làm đồ ăn cho các ngươi mà chết, thì ai đụng vào xác chết của nó,
sẽ ra ô uế cho đến chiều; 40 ai ăn thịt xác chết của nó, sẽ phải
giặt quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều; ai mang xác chết của nó, sẽ phải giặt
quần áo và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
41
Mọi
loài vật nhỏ lúc nhúc trên mặt đất là vật kinh tởm, không được ăn. 42 Mọi
con vật bò bằng bụng, mọi thứ đi bằng bốn chân hay nhiều chân hơn, tóm lại mọi
loài vật lúc nhúc trên mặt đất, các ngươi không được ăn, vì chúng là vật kinh
tởm. 43 Các ngươi đừng làm cho chính mình ra kinh tởm vì mọi loài
vật nhỏ lúc nhúc, các ngươi đừng làm cho mình ra ô uế vì chúng: các ngươi sẽ ra
ô uế vì chúng. 44 Thật vậy, Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các
ngươi; các ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Ðấng Thánh; các
ngươi đừng làm cho chính mình ra ô uế vì mọi loài vật nhỏ bò trên đất. 45 Thật
vậy, Ta là Ðức Chúa, Ðấng đã đưa các ngươi từ đất Ai-cập lên, để Ta làm Thiên
Chúa của các ngươi; vậy các ngươi phải thánh thiện vì Ta là Ðấng Thánh."
Kết
luận
46
Ðó
là luật về loài vật, chim chóc, mọi sinh vật vẫy vùng dưới nước và mọi sinh vật
lúc nhúc trên mặt đất, 47 để phân biệt vật ô uế với vật thanh sạch,
loài vật được ăn với loài vật không được ăn.
Chương 12
Thanh
tẩy đàn bà mới ở cữ
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en: Khi một người đàn bà có thai và sinh con trai, thì sẽ
ra ô uế trong vòng bảy ngày, nó sẽ ra ô uế như những ngày bị khó ở vì kinh
nguyệt. 3 Ðến ngày thứ tám, đứa trẻ sẽ được cắt bì nơi da quy đầu. 4
Rồi người đàn bà phải đợi ba mươi ba ngày cho máu được thanh tẩy; nó
không được đụng đến vật thánh nào và không được vào thánh điện, cho đến khi mãn
thời gian thanh tẩy của mình.
5
Nếu
sinh con gái, thì người đàn bà sẽ ra ô uế trong vòng hai tuần, như khi có kinh;
rồi nó phải đợi sáu mươi sáu ngày cho máu được thanh tẩy.
6
Khi
mãn thời gian thanh tẩy, dù sinh con trai hay con gái, nó phải đem đến cho tư
tế, ở cửa Lều Hội Ngộ, một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu, và một bồ câu
non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. 7 Tư tế sẽ tiến dâng chúng trước
nhan Ðức Chúa và cử hành lễ xá tội cho nó và nó sẽ được thanh tẩy sau khi đã
xuất huyết.
8
Nếu
không có phương tiện kiếm được chiên, thì nó sẽ bắt một đôi chim gáy hay một
cặp bồ câu non, một con để làm lễ toàn thiêu, một con để làm lễ tạ tội. Tư tế
sẽ cử hành lễ xá tội cho nó, và nó sẽ ra thanh sạch."
Chương 13
Bệnh
phong hủi ở người
A.
Nhọt, lác, đốm
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron:
2
"Khi
trên da thịt người nào phát ra nhọt, lác hoặc đốm, và cái đó trở thành vết
thương phong hủi, thì người ta sẽ đưa người ấy đến với tư tế A-ha-ron hoặc với
một trong các tư tế, con của A-ha-ron. 3 Tư tế sẽ khám vết thương
trên da thịt nó: nếu lông ở vết thương đã chuyển sang màu trắng và vết thương
xem ra lõm vào da thịt, thì đó là vết thương phong hủi; sau khi khám, tư tế sẽ
tuyên bố người ấy là ô uế. 4 Nếu là đốm trắng trên da thịt, mà xem
ra không lõm vào da, và lông không chuyển sang màu trắng, thì tư tế sẽ cô lập
người mắc vết thương trong vòng bảy ngày. 5 Ðến ngày thứ bảy, tư tế
sẽ khám nó: nếu chính mắt tư tế thấy là vết thương vẫn y nguyên, không lan ra
trên da, thì tư tế sẽ lại cô lập nó trong vòng bảy ngày nữa. 6 Ðến
ngày thứ bảy, tư tế sẽ tái khám nó: nếu vết thương đã mờ đi và không lan ra
trên da, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch: đó là lác; nó sẽ giặt áo
và sẽ ra thanh sạch.
7
Nhưng
nếu lác cứ lan ra trên da, sau khi người ấy đã được tư tế khám để được tuyên bố
là thanh sạch, thì nó phải được tư tế tái khám. 8 Tư tế sẽ khám: nếu
lác đã lan ra trên da, tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là bệnh phong
hủi.
B.
Phong hủi kinh niên
9
Khi
trên người nào có vết thương phong hủi, thì phải đưa nó đến với tư tế. 10 Tư
tế sẽ khám: nếu ở trên da có nhọt trắng, và nhọt ấy làm cho lông chuyển sang
màu trắng, và trong nhọt có thịt đỏ lòm sùi ra, 11 thì đó là bệnh
phong hủi kinh niên ở da thịt nó. Tư tế sẽ tuyên bố nó là ô uế; tư tế sẽ không
cô lập nó, vì nó là ô uế.
12
Nhưng
nếu phong hủi ấy cứ loang ra trên da và phủ tất cả da của người bệnh, từ đầu
đến chân, bất kỳ đâu đâu mắt tư tế nhìn thấy, 13 thì tư tế sẽ khám:
nếu phong hủi phủ tất cả da, thì tư tế sẽ tuyên bố người bệnh là thanh sạch: nó
đã chuyển tất cả ra màu trắng, nó thanh sạch. 14 Nhưng ngày nào thấy
người ấy có chỗ thịt đỏ lòm, thì nó sẽ ra ô uế; 15 tư tế sẽ khám chỗ
thịt đỏ lòm và sẽ tuyên bố người ấy là ô uế; thịt đỏ lòm là ô uế: đó là bệnh
phong hủi. 16 Hoặc khi thịt đỏ lòm lại chuyển sang màu trắng, thì nó
sẽ đến với tư tế; 17 tư tế sẽ khám nó: nếu vết thương đã chuyển sang
màu trắng, tư tế sẽ tuyên bố vết thương là thanh sạch: người ấy thanh sạch.
C.
Ung
18
Khi
người nào có ung ở da mà đã khỏi, 19 nhưng ở chỗ cái ung lại có một
nhọt trắng hay một đốm trắng đỏ nhạt, thì nó phải để cho tư tế khám. 20 Tư
tế sẽ khám: nếu đốm ấy xem ra ăn sâu vào da và lông đã chuyển sang màu trắng,
thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là một vết thương phong hủi đã loang
ra chỗ cái ung. 21 Nhưng nếu khi tư tế khám mà thấy ở đó không có
lông trắng, cái ung không ăn sâu vào da và đã mờ đi, thì tư tế sẽ cô lập nó
trong vòng bảy ngày. 22 Nếu vết đốm cứ loang ra trên da, thì tư tế
sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là một vết thương. 23 Nhưng nếu vết
đốm vẫn y nguyên, không lan ra, thì đó là sẹo của cái ung: tư tế sẽ tuyên bố
người ấy là thanh sạch.
D.
Phỏng
24
Trường
hợp khác: khi người nào có chỗ phỏng lửa trên da và ở chỗ phỏng có đốm trắng đỏ
nhạt hoặc trắng, 25 thì tư tế sẽ khám chỗ ấy: nếu lông ở đốm đã
chuyển sang màu trắng, và vết đốm xem ra lõm vào da, thì đó là phong hủi loang
ra ở chỗ phỏng; tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là vết thương phong hủi.
26 Nhưng nếu khi tư tế khám mà thấy vết đốm không có lông trắng,
không ăn sâu vào da và đã mờ đi, thì tư tế sẽ cô lập người ấy trong vòng bảy
ngày. 27 Ðến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám người ấy: nếu vết đốm cứ
lan ra trên da, thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là vết thương phong
hủi. 28 Nhưng nếu vết đốm cứ y nguyên, không lan ra trên da, và đã
mờ đi, thì đó là một cái nhọt do phỏng gây ra; tư tế sẽ tuyên bố người ấy là
thanh sạch, vì đó là sẹo của chỗ phỏng.
Ð.
Chốc
29
Khi
một người đàn ông hay một người đàn bà có vết thương ở đầu hoặc cằm, 30 thì
tư tế sẽ khám vết thương: nếu nó xem ra lõm vào da, có lông vàng và nhỏ, thì tư
tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế: đó là chốc, tức là phong hủi ở đầu hay ở cằm. 31
Nhưng nếu khi tư tế khám vết thương chốc, mà nó xem ra không lõm vào da
và không có lông đen, thì tư tế sẽ cô lập người có vết thương chốc trong vòng
bảy ngày. 32 Ðến ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám vết thương: nếu chốc
không lan ra, không có lông vàng và chốc xem ra không lõm vào da, 33 thì
người ấy phải cạo đầu cạo cằm nhưng không cạo chỗ chốc, rồi tư tế sẽ lại cô lập
người bị chốc trong vòng bảy ngày nữa. 34 Ðến ngày thứ bảy, tư tế sẽ
khám chỗ chốc: nếu chỗ chốc không lan ra trên da và xem ra không lõm vào da,
thì tư tế sẽ tuyên bố người ấy là thanh sạch; nó sẽ giặt áo và sẽ ra thanh sạch.
35 Nhưng nếu chỗ chốc cứ lan ra trên da, sau khi người ấy được tuyên
bố là thanh sạch, 36 thì tư tế sẽ khám người ấy: nếu chỗ chốc đã lan
ra trên da, thì tư tế sẽ không phải tìm xem có lông vàng không; người ấy ô uế. 37
Nhưng nếu chính mắt tư tế thấy là chỗ chốc vẫn y nguyên và có lông đen
mọc ở đó, thì chỗ chốc đã khỏi và người ấy là thanh sạch; tư tế sẽ tuyên bố
người ấy là thanh sạch.
E.
Lang ben
38
Khi
trên da thịt một người đàn ông hay một người đàn bà phát ra những đốm, những
đốm trắng, 39 thì tư tế sẽ khám: nếu những đốm trên da thịt họ trắng
đục, thì đó là lang ben đã loang ra trên da: họ thanh sạch.
G.
Sói đầu
40
Người
rụng tóc ở đầu là người sói đầu: người ấy thanh sạch. 41 Người rụng
tóc phía trước là người sói trán: người ấy thanh sạch. 42 Nhưng nếu
chỗ sói đầu hoặc sói trán có vết thương trắng đỏ nhạt, thì đó là phong hủi
loang ra ở chỗ sói đầu hoặc sói trán. 43 Tư tế sẽ khám người ấy: nếu
nhọt ở vết thương có màu trắng đỏ nhạt ở chỗ sói đầu hoặc sói trán, trông giống
như phong hủi da thịt, 44 thì người ấy bị phong hủi: người ấy ô uế.
Tư tế sẽ tuyên bố người ấy là ô uế; nó bị vết thương ở đầu.
Quy
chế người phong hủi
45
Người
mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: "Ô uế! Ô
uế!” 46 Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng
ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại.
Phong
hủi ở quần áo
47
Khi
áo có vết phong hủi, áo len hay áo gai,48 áo dệt hay áo đan bằng gai hoặc bằng
len, hoặc da hay bất cứ đồ vật gì bằng da, 49 nếu vết ấy xanh hay đỏ
nhạt trên áo, trên da, trên áo dệt hoặc đan, hay trên bất cứ đồ vật gì bằng da,
thì đó là vết phong hủi: phải đưa cho tư tế khám. 50 Tư tế sẽ khám
vết ấy và để riêng đồ vật có vết ra, trong vòng bảy ngày. 51 Ðến
ngày thứ bảy, tư tế sẽ khám vết ấy: nếu vết đã lan ra trên áo, áo dệt hay áo
đan, trên da, trên bất cứ đồ vật gì làm bằng da, thì đó là phong hủi dễ lây:
vật đó là ô uế. 52 Người ta phải đốt áo dệt hay áo đan bằng len hay
bằng gai, hay bất cứ đồ vật gì bằng da có vết, vì đó là phong hủi dễ lây; đồ
vật ấy phải bỏ vào lửa mà thiêu.
53
Nhưng
nếu khi tư tế khám, vết ấy không lan ra trên áo, áo dệt hoặc áo đan, hay trên
bất cứ đồ vật gì bằng da, 54 thì tư tế sẽ truyền giặt đồ vật có vết,
rồi lại để riêng nó ra, trong vòng bảy ngày nữa. 55 Sau khi vết đã
được gột rửa, tư tế sẽ khám: nếu vết ấy không thay đổi hình dạng và không lan
ra, thì đồ vật ấy là ô uế, các ngươi phải bỏ vào lửa mà thiêu: đó là đồ vật bị
ăn thủng mặt phải hay mặt trái.
56
Nhưng
nếu khi tư tế khám, vết ấy đã mờ đi sau khi gột rửa, thì tư tế sẽ xé chỗ đó ra
khỏi áo hay khỏi da, khỏi áo dệt hoặc áo đan. 57 Nếu nó lại xuất
hiện trên áo, áo dệt hoặc áo đan, hay bất cứ đồ vật gì bằng da, thì đó là phong
hủi đã loang ra: ngươi phải bỏ đồ vật có vết vào lửa mà thiêu. 58 Áo,
áo dệt hoặc áo đan, hay bất cứ đồ vật gì bằng da, các ngươi đã giặt mà vết đã
biến đi, thì sẽ được giặt một lần thứ hai, và sẽ thanh sạch."
59
Ðó
là luật về vết phong hủi trên áo bằng len hoặc bằng gai, áo dệt hoặc áo đan,
hay bất cứ đồ vật gì bằng da, để dựa vào đó mà tuyên bố đồ vật ấy thanh sạch
hay ô uế.
Chương 14
10
Ngày
thứ tám, nó sẽ lấy hai con chiên đực toàn vẹn, một con chiên cái toàn vẹn, một
tuổi, mười ba lít rưỡi tinh bột nhào với dầu làm lễ phẩm, và nửa lít dầu. 11
Tư tế cử hành lễ thanh tẩy sẽ đặt người được thanh tẩy cùng với các lễ
vật trước nhan Ðức Chúa, ở cửa Lều Hội Ngộ. 12 Tư tế sẽ bắt một con
chiên, tiến dâng làm lễ đền tội cùng với nửa lít dầu, và tư tế sẽ làm nghi thức
tiến dâng những thứ ấy trước nhan Ðức Chúa. 13 Tư tế sẽ sát tế con
chiên ở nơi sát tế lễ vật tạ tội và lễ vật toàn thiêu, trong nơi thánh; - vì lễ
vật đền tội thuộc về tư tế, cũng như lễ vật tạ tội: đó là của rất thánh. - 14
Tư tế sẽ lấy máu lễ vật đền tội bôi vào trái tai phải người được thanh tẩy, vào
ngón cái tay phải và ngón cái chân phải nó. 15 Tư tế sẽ lấy nửa lít
dầu, đổ một ít vào lòng bàn tay trái; 16 Tư tế sẽ nhúng một ngón tay
phải vào dầu ở trong lòng bàn tay trái và lấy ngón tay rảy dầu bảy lần trước
nhan Ðức Chúa. 17 Tư tế sẽ lấy dầu còn lại trong lòng bàn tay bôi
vào trái tai phải người được thanh tẩy, vào ngón cái tay phải và ngón cái chân
phải nó, bên trên máu lễ vật đền tội. 18 Chỗ dầu còn lại trong lòng
bàn tay, tư tế sẽ bôi lên đầu người được thanh tẩy. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội
cho nó trước nhan Ðức Chúa.
19
Tư
tế sẽ làm lễ tạ tội và sẽ cử hành lễ xá tội cho người đang được thanh tẩy khỏi
sự ô uế, sau đó sẽ sát tế lễ vật toàn thiêu. 20 Tư tế sẽ dâng lễ
toàn thiêu và lễ phẩm trên bàn thờ; tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó và nó sẽ
thanh sạch.
21
Nếu
nó nghèo không thể kiếm được những thứ ấy, thì nó sẽ chỉ bắt một con chiên đực
dùng làm lễ đền tội, người ta sẽ làm nghi thức tiến dâng con chiên ấy để cử
hành lễ xá tội cho nó; nó cũng sẽ lấy bốn lít tinh bột nhào với dầu làm lễ
phẩm, một nửa lít dầu, 22 và một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu
non, là những thứ nó có thể kiếm được, một con sẽ dùng làm lễ tạ tội, một con
làm lễ toàn thiêu. 23 Ðến ngày thứ tám, nó sẽ mang những thứ ấy đến
cho tư tế, ở cửa lều Hội Ngộ, trước nhan Ðức Chúa, để được thanh tẩy. 24 Tư
tế sẽ lấy con chiên dâng làm lễ đền tội và nửa lít dầu mà làm nghi thức tiến
dâng trước nhan Ðức Chúa. 25 Tư tế sẽ sát tế con chiên làm lễ đền
tội, rồi lấy máu lễ vật đền tội bôi vào trái tai phải người được thanh tẩy, vào
ngón cái tay phải và ngón cái chân phải nó. 26 Tư tế sẽ đổ một ít
dầu vào lòng bàn tay trái; 27 tư tế sẽ dùng một ngón tay phải lấy
dầu ở trong lòng bàn tay trái rảy bảy lần trước nhan Ðức Chúa. 28 Tư
tế sẽ lấy dầu trong lòng bàn tay bôi vào trái tai phải người được thanh tẩy,
vào ngón cái tay phải và ngón cái chân phải nó, ở chỗ đã bôi máu lễ vật đền tội.
29 Chỗ dầu còn lại trong lòng bàn tay, tư tế sẽ bôi lên đầu người
được thanh tẩy, để cử hành lễ xá tội cho nó trước nhan Ðức Chúa. 30 Còn
đôi chim gáy hay cặp bồ câu non, là những thứ người ấy có thể kiếm được, 31
thì trong những con chim nó đã có thể kiếm được, tư tế sẽ dâng một con
làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu kèm với lễ phẩm. Tư tế sẽ cử hành lễ xá
tội cho người được thanh tẩy, trước nhan Ðức Chúa."
32
Ðó
là luật về người có vết thương phong hủi mà không thể kiếm được cái cần thiết
cho lễ nghi thanh tẩy của mình.
Phong
hủi nơi nhà cửa
33
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng:
34
"Khi
các ngươi vào đất Ca-na-an mà Ta ban cho các ngươi làm sở hữu, nếu Ta đặt một
vết phong hủi vào một nhà trong đất là sở hữu các ngươi, 35 thì chủ
nhà sẽ đến báo cho tư tế rằng: "Tôi thấy trong nhà tôi có cái gì như vết
phong hủi.” 36 Trước khi vào khám vết đó, tư tế sẽ truyền dọn trống
nhà, để không có vật gì trong nhà ra ô uế; sau đó tư tế sẽ vào khám nhà. 37
Tư tế sẽ khám vết: nếu vết ở các tường nhà làm thành những chỗ lõm xanh
xanh hoặc đỏ đỏ xem ra như ăn sâu vào tường, 38 thì tư tế sẽ ra khỏi
nhà, đến tận cửa, và cô lập căn nhà trong vòng bảy ngày. 39 Ðến ngày
thứ bảy, tư tế sẽ trở lại khám: nếu vết đã lan ra các tường nhà, 40 thì
tư tế sẽ truyền gỡ những viên đá có vết và ném ra ngoài thành, vào một nơi ô uế;
41 rồi tư tế sẽ cho cạo tất cả bên trong nhà và đổ vữa đã cạo ra
ngoài thành, vào một nơi ô uế. 42 Người ta sẽ lấy những viên đá khác
thay vào các viên đá trước, và lấy vữa khác mà trát nhà.
43
Nếu
vết lại loang ra trong nhà, sau khi đã gỡ đá ra, sau khi đã cạo và trát nhà, 44
thì tư tế sẽ đến khám: nếu vết đã lan ra trong nhà, thì đó là phong hủi
dễ lây trong nhà, nhà đó ô uế. 45 Người ta sẽ phá nhà đi: đá, gỗ,
tất cả vữa của nhà ấy, người ta sẽ đưa ra ngoài thành, vào một nơi ô uế.
46
Ai
vào nhà trong suốt thời gian nhà bị cô lập, sẽ ra ô uế cho đến chiều. 47 Ai
ngủ trong nhà sẽ phải giặt áo, ai ăn trong nhà sẽ phải giặt áo. 48 Nhưng
nếu khi tư tế vào khám, vết đã không lan ra trong nhà sau khi trát lại nhà, thì
tư tế sẽ tuyên bố nhà ấy là thanh sạch, vì vết phong hủi đã lành.
49
Ðể
xoá tội cho nhà ấy, tư tế sẽ lấy hai con chim, gỗ bá hương, phẩm cánh kiến và
cành hương thảo. 50 Tư tế sẽ sát tế một con chim trên một bình sành
đựng nước mạch. 51 Tư tế sẽ lấy gỗ bá hương, cành hương thảo, phẩm
cánh kiến và con chim còn sống, nhúng vào máu con chim đã bị sát tế và vào nước
mạch, và rảy vào nhà bảy lần; 52 sau khi đã dùng máu con chim, dùng
nước mạch, con chim còn sống, gỗ bá hương, cành hương thảo và phẩm cánh kiến mà
xoá tội cho căn nhà, 53 tư tế sẽ thả con chim còn sống ra ngoài
đồng, ở ngoài thành. Tư tế sẽ cử hành nghi thức xá tội cho căn nhà, và nhà ấy
sẽ thanh sạch."
54
Ðó
là luật về mọi vết phong hủi, về chốc, 55 về phong hủi nơi áo và nhà
cửa, 56 về nhọt, lác, đốm, 57 để xác định khi nào một vật
ô uế, khi nào thanh sạch.
Ðó
là luật về phong hủi.
Chương 15
Ô
uế về sinh dục
A.
Ðàn ông
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi bất cứ một người đàn ông nào mắc
bệnh lậu trong thân thể, thì bệnh lậu đó làm nó ra ô uế. 3 Sự ô uế
của nó khi có bệnh lậu là thế này:
Dù
thân thể nó tiết ra hay giữ lại mủ lậu, thì nó cũng mắc phải ô uế.
4
Mọi
giường người bị lậu nằm, sẽ ra ô uế, mọi đồ vật nó ngồi lên, sẽ ra ô uế.
5
Người
nào đụng vào giường của nó, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế
cho đến chiều.
6
Ai
ngồi lên đồ vật người bị lậu đã ngồi lên, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa,
và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
7
Ai
đụng đến thân thể người bị lậu, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm, và sẽ ra ô uế
cho đến chiều.
8
Nếu
người bị lậu nhổ vào một người thanh sạch, người này sẽ phải giặt áo, lấy nước
mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
9
Mọi
cái yên người bị lậu cưỡi lên sẽ ra ô uế.
10
Bất
cứ ai đụng vào một đồ vật nào mà người ấy nằm hay ngồi lên, sẽ ra ô uế cho đến
chiều.
Ai
mang một đồ vật như thế, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế
cho đến chiều.
11
Người
bị lậu chưa rửa tay mà đụng vào bất cứ người nào, thì người ấy sẽ phải giặt áo,
lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
12
Bình
sành người bị lậu đụng vào, sẽ phải đập vỡ, còn mọi bình gỗ sẽ được rửa bằng
nước.
13
Khi
người bị lậu được lành bệnh, nó phải tính bảy ngày mới được thanh tẩy; nó phải
giặt áo, lấy nước tắm rửa thân thể, và nó sẽ ra thanh sạch. 14 Ngày
thứ tám, nó sẽ bắt một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non, đến trước nhan Ðức
Chúa, ở cửa Lều Hội Ngộ, mà đưa cho tư tế. 15 Tư tế sẽ dâng một con
làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn thiêu; tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó,
trước nhan Ðức Chúa, vì nó đã bị lậu.
16
Khi
một người đàn ông xuất tinh, thì phải lấy nước tắm rửa thân thể, và sẽ ra ô uế
cho đến chiều, 17 khi có xuất tinh mà giây ra bất cứ áo hay đồ da
nào, thì sẽ phải lấy nước mà giặt rửa, và những thứ ấy sẽ ra ô uế cho đến
chiều.
18
Khi
một người đàn bà giao hợp với một người đàn ông, thì cả hai phải lấy nước mà
tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
B.
Ðàn bà
19
Khi
một người đàn bà ra huyết, huyết từ thân thể chảy ra, thì nó sẽ ra ô uế bảy
ngày vì có kinh.
Bất
cứ ai đụng vào nó, sẽ ra ô uế cho đến chiều.
20
Mọi
cái gì nó nằm khi có kinh, sẽ ra ô uế, mọi đồ vật nó ngồi lên, sẽ ra ô uế. 21
Bất cứ ai đụng vào giường của nó, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa,
và sẽ ra ô uế cho đến chiều. 22 Bất cứ ai đụng vào đồ vật nó đã ngồi
lên, sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều. 23
Nếu có cái gì trên giường hoặc trên đồ vật nó đã ngồi lên, thì ai đụng
đến cái đó, sẽ ra ô uế cho đến chiều.
24
Nếu
một người đàn ông cứ nằm với nó, thì sự ô uế của kinh nguyệt của nó sẽ truyền
sang người ấy: người ấy sẽ ra ô uế trong vòng bảy ngày, và bất cứ giường nào
người ấy nằm, sẽ ra ô uế.
25
Khi
một người đàn bà bị rong huyết trong vòng nhiều ngày, ngoài thời kỳ kinh
nguyệt, hoặc rong huyết quá thời kỳ kinh nguyệt, thì sự ô uế sẽ kéo dài suốt
thời gian bị rong huyết; nó sẽ ra ô uế như trong thời gian có kinh. 26 Mọi
giường nó nằm trong suốt thời gian rong huyết, sẽ ra ô uế như cái giường trong
thời gian nó có kinh; mọi đồ vật nó ngồi lên, sẽ ra ô uế, như bị ô uế trong
thời gian nó có kinh. 27 Bất cứ ai đụng vào những thứ đó, sẽ ra ô
uế; nó sẽ phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều.
28
Nếu
nó không còn rong huyết, nó phải tính bảy ngày, sau đó sẽ được thanh sạch. 29
Ngày thứ tám, nó sẽ bắt một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non và đem
đến cho tư tế, ở cửa Lều Hội Ngộ. 30 Tư tế sẽ dâng một con làm lễ tạ
tội, một con làm lễ toàn thiêu. Trước nhan Ðức Chúa, tư tế sẽ cử hành lễ xá tội
cho nó, khỏi chứng rong huyết làm cho nó ra ô uế.
Kết
luận
31
Các
ngươi hãy bảo con cái Ít-ra-en kiêng cữ khi bị ô uế, như vậy chúng sẽ không
phải chết vì sự ô uế của chúng, khi chúng làm cho Nhà Tạm của Ta ở giữa chúng
ra ô uế."
32
Ðó
là luật về người bị bệnh lậu và người xuất tinh và bởi vậy ra ô uế, 33 về
người khó ở vì kinh nguyệt, về người đàn ông bị lậu hay người đàn bà bị rong
huyết, cũng như về người đàn ông nằm với người đàn bà bị ô uế.
Chương 16
Ngày
xá tội
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê sau khi hai người con của ông A-ha-ron chết; chúng đã
chết khi lại gần Ðức Chúa.
2
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy nói với A-ha-ron, anh ngươi, đừng vào bất cứ
lúc nào trong thánh điện, phía sau màn trướng, trước nắp xá tội ở trên Hòm Bia,
và như vậy nó sẽ không phải chết khi Ta hiện ra trong đám mây trên nắp xá tội.
3
A-ha-ron
sẽ vào thánh điện như thế này: Nó phải bắt một bò tơ để làm lễ tạ tội và một
cừu đực để làm lễ toàn thiêu. 4 Nó sẽ mặc áo dài thánh bằng vải gai,
mặc trên mình quần đùi vải gai, thắt đai lưng vải gai, đội mũ tế vải gai. Ðó là
phẩm phục thánh, nó sẽ lấy nước tắm rửa thân thể trước khi mặc vào.
5
Nó
sẽ nhận hai con dê đực để làm lễ tạ tội và một con cừu đực để làm lễ toàn
thiêu, do cộng đồng con cái Ít-ra-en đem tới. 6 A-ha-ron sẽ tiến
dâng con bò tơ làm lễ tạ tội cho chính mình, và sẽ cử hành lễ xá tội cho mình
và cho nhà mình. 7 Nó sẽ lấy hai con dê và đặt trước nhan Ðức Chúa,
ở cửa Lều Hội Ngộ. 8 Nó sẽ bắt thăm chọn giữa hai con dê: một thăm
"dành cho Ðức Chúa", một thăm "dành cho quỷ A-da-dên.” 9 A-ha-ron
sẽ tiến dâng con dê trúng thăm "dành cho Ðức Chúa" và dùng làm lễ tạ
tội. 10 Còn con dê trúng thăm "dành cho A-da-dên",
A-ha-ron sẽ để sống và đặt trước nhan Ðức Chúa, để cử hành lễ xá tội trên nó và
thả nó cho A-da-dên trong sa mạc.
11
A-ha-ron
sẽ tiến dâng con bò tơ dùng làm lễ tạ tội cho chính mình, và cử hành lễ xá tội
cho mình và cho nhà mình: nó sẽ sát tế con bò tơ làm lễ tạ tội cho chính mình. 12
Nó sẽ lấy than hồng trên bàn thờ trước nhan Ðức Chúa bỏ đầy vào bình
hương, sẽ bốc hai nắm đầy bột hương thơm, và đem vào phía sau màn trướng. 13
Nó sẽ bỏ hương vào lửa, trước nhan Ðức Chúa, và khói hương như mây sẽ phủ
nắp xá tội ở trên Chứng Ước, và như vậy nó sẽ không phải chết. 14 Nó
sẽ dùng một ngón tay lấy máu con bò tơ rảy trên nắp xá tội, về phía đông; rồi
đằng trước nắp xá tội, nó cũng dùng ngón tay mà rảy máu bảy lần.
15
Nó
sẽ sát tế con dê dùng làm lễ tạ tội cho dân, sẽ đem máu nó vào phía sau màn
trướng, và cũng sẽ lấy máu đó mà rảy như đã rảy máu con bò tơ: nó sẽ rảy máu đó
lên nắp xá tội, và đàng trước nắp xá tội. 16 Nó sẽ cử hành lễ xá tội
cho thánh điện, vì những điều ô uế của con cái Ít-ra-en và những việc phản
nghịch của chúng, nghĩa là mọi tội lỗi chúng.
17
Không
một người nào được có mặt trong Lều Hội Ngộ, từ khi A-ha-ron vào để cử hành lễ
xá tội trong thánh điện, cho đến khi nó ra.
18
Rồi
nó sẽ ra ngoài, đến bàn thờ ở trước nhan Ðức Chúa và sẽ cử hành lễ xá tội cho
bàn thờ: nó sẽ lấy máu con bò tơ và máu con dê mà bôi lên các góc cong của bàn
thờ. 19 Nó sẽ dùng một ngón tay rảy máu bảy lần lên bàn thờ, mà
thanh tẩy cho khỏi các điều ô uế của con cái Ít-ra-en, và thánh hiến bàn thờ.
20
Khi
đã cử hành xong lễ xá tội cho thánh điện, cho Lều Hội Ngộ và bàn thờ, nó sẽ cho
dẫn con dê còn sống tới. 21 A-ha-ron sẽ đặt hai tay lên đầu con dê
còn sống, sẽ xưng thú trên con vật mọi lỗi lầm của con cái Ít-ra-en, mọi việc
phản nghịch của chúng, nghĩa là mọi tội lỗi chúng; nó sẽ trút cả lên đầu con
dê, rồi sẽ dùng tay một người đang chờ sẵn mà thả vào sa mạc. 22 Con
dê sẽ mang trên mình mọi lỗi lầm của chúng vào hoang địa.
23
A-ha-ron
sẽ vào trong Lều Hội Ngộ, cởi phẩm phục bằng vải gai nó đã mặc khi vào thánh
điện; và để lại đó. 24 Nó sẽ lấy nước tắm rửa thân thể trong một nơi
thánh, và sẽ mặc lại phẩm phục. Rồi nó sẽ ra mà dâng lễ toàn thiêu của mình và
lễ toàn thiêu của dân; nó sẽ cử hành lễ xá tội cho chính mình và cho dân. 25
Còn mỡ của lễ tạ tội, thì nó sẽ đốt cho cháy nghi ngút ở bàn thờ.
26
Người
đã thả con dê "dành cho A-da-dên" sẽ giặt áo, lấy nước tắm rửa thân
thể, sau đó mới được về trại. 27 Con bò tơ dùng làm lễ tạ tội và con
dê dùng làm lễ tạ tội, mà máu đã được đưa vào thánh điện để cử hành lễ xá tội,
người ta sẽ đem ra bên ngoài trại, bỏ vào lửa mà thiêu, cả da, cả thịt, cả phân.
28 Người đã đốt những con vật đó phải giặt áo, lấy nước tắm rửa thân
thể, sau đó mới được về trại.
29
Ðó
sẽ là quy tắc vĩnh viễn cho các ngươi.
30
Thật
vậy, ngày ấy, sẽ cử hành lễ xá tội cho các ngươi, để thanh tẩy các ngươi: trước
nhan Ðức Chúa, các ngươi sẽ được thanh sạch khỏi mọi tội lỗi của các ngươi. 31
Ðối với các ngươi, đó sẽ là một ngày sa-bát, một ngày nghỉ: đó là quy tắc
vĩnh viễn.
32
Tư
tế đã được xức dầu và được trao quyền làm tư tế thay cho cha mình, sẽ cử hành
lễ xá tội. Nó sẽ mặc phẩm phục bằng vải gai, phẩm phục thánh; 33 nó
sẽ cử hành lễ xá tội cho thánh điện cực thánh; nó sẽ cử hành lễ xá tội cho Lều
Hội Ngộ và cho bàn thờ; nó sẽ cử hành lễ xá tội cho các tư tế và cho toàn dân
trong đại hội. 34 Ðó sẽ là quy tắc vĩnh viễn cho các ngươi: mỗi năm
một lần sẽ cử hành lễ xá tội cho con cái Ít-ra-en khỏi mọi tội của chúng."
Người
ta đã làm như Ðức Chúa truyền cho ông Mô-sê.
Chương 17
IV.
Luật Về Sự Thánh Thiện
Sát
sinh. Các lễ vật.
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Hãy nói với A-ha-ron, với các
con nó cùng toàn thể con cái Ít-ra-en, và bảo chúng: Ðây là lời Ðức Chúa
truyền:
3
Bất
cứ người đàn ông nào thuộc nhà Ít-ra-en giết bò, chiên, hoặc dê trong trại, hay
giết ngoài trại, 4 mà không mang con vật đến cửa Lều Hội Ngộ để dâng
làm lễ tiến cho Ðức Chúa trước Nhà Tạm Ðức Chúa, thì nó sẽ chịu trách nhiệm về
máu ấy: nó đã đổ máu, nó sẽ bị khai trừ khỏi dân nó. 5 Như vậy, con
cái Ít-ra-en sẽ mang đến những hy lễ mà chúng tế ở ngoài đồng; chúng sẽ mang
đến cho tư tế, để dâng Ðức Chúa, ở cửa Lều Hội Ngộ, và chúng sẽ tế dâng Ðức
Chúa làm hy lễ kỳ an. 6 Tư tế sẽ rảy máu trên bàn thờ Ðức Chúa ở cửa
Lều Hội Ngộ, và sẽ đốt mỡ cho cháy nghi ngút thành hương thơm làm vui lòng Ðức
Chúa. 7 Chúng sẽ không còn tế dâng các hy lễ của chúng cho các thần
dê, những thần chúng chạy theo mà làm điếm. Ðó là quy tắc vĩnh viễn cho chúng,
cho các thế hệ của chúng.
8
Ngươi
hãy bảo chúng: bất cứ người nào, thuộc nhà Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều
sống giữa chúng, dâng lễ toàn thiêu hay hy lễ, 9 mà không đem đến
cửa Lều Hội Ngộ để dâng lên Ðức Chúa, thì người ấy sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ.
10
Bất
cứ người nào thuộc nhà Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng, ăn
bất cứ thứ huyết nào, thì Ta sẽ quay mặt lại phạt kẻ ăn huyết và sẽ khai trừ
khỏi dân nó; 11 vì mạng sống của xác thịt thì ở trong máu, và Ta, Ta
đã ban máu cho các ngươi, trên bàn thờ, để cử hành lễ xá tội cho mạng sống các
ngươi. Thật vậy, máu xá tội được vì nó là mạng sống. 12 Vì thế, Ta
đã bảo con cái Ít-ra-en: Không một ai trong các ngươi được ăn huyết, ngoại kiều
sống giữa các ngươi cũng không được ăn huyết.
13
Bất
cứ người nào, thuộc con cái Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống giữa chúng,
săn được một con thú hoặc một con chim được phép ăn, thì phải đổ máu nó ra và
lấy bụi đất phủ lên; 14 vì mạng sống của mọi xác thịt là máu nó bao
lâu nó còn sống, và Ta đã bảo con cái Ít-ra-en: Các ngươi không được ăn huyết
của bất cứ xác thịt nào, vì mạng sống của mọi xác thịt là máu nó; bất cứ ai ăn
huyết sẽ bị khai trừ.
15
Phàm
người nào, dù là người bản xứ hay ngoại kiều, ăn con vật chết hay bị xé, sẽ
phải giặt áo, lấy nước mà tắm rửa, và sẽ ra ô uế cho đến chiều, rồi nó sẽ được
thanh sạch. 16 Nếu nó không giặt áo và tắm rửa thân thể, nó sẽ phải
mang lấy tội mình."
Chương 18
Những
điều cấm đoán về sinh dục
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.
3 Các ngươi không được làm như người ta làm trên đất Ai-cập, nơi các
ngươi đã ở; các ngươi không được làm như người ta làm trên đất Ca-na-an, nơi Ta
sắp đưa các ngươi vào. Các ngươi không được theo các quy tắc của chúng. 4 Các
ngươi hãy thi hành các quyết định của Ta, giữ và theo các quy tắc của Ta.
5
Các
ngươi phải giữ các quy tắc và quyết định của Ta: khi con người đem các điều ấy
ra thực hành thì nhờ đó sẽ được sống.
Ta
là Ðức Chúa.
6
Không
người nào trong các ngươi được đến gần một người bà con ruột thịt để lột trần
chỗ kín của nó. Ta là Ðức Chúa.
7
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của cha ngươi và chỗ kín của mẹ ngươi: đó là mẹ
ngươi, ngươi không được lột trần chỗ kín của nó.
8
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của vợ của cha ngươi: đó là chỗ kín của cha ngươi.
9
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của chị em ngươi, dù là con gái của cha ngươi hay
con gái của mẹ ngươi, sinh tại nhà hay sinh ở ngoài; ngươi không được lột trần
chỗ kín của chúng.
10
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của cháu nội gái hay cháu ngoại gái ngươi, vì đó là
chỗ kín của ngươi.
11
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của chị em cùng cha khác mẹ với ngươi: đó là chị em
ngươi, ngươi không được lột trần chỗ kín của chúng.
12
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của chị em gái của cha ngươi: đó là ruột thịt của
cha ngươi.
13
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của chị em gái của mẹ ngươi: đó là ruột thịt của mẹ
ngươi.
14
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của chú bác ngươi; ngươi không được đến gần vợ của
chúng: đó là bác gái, là thím ngươi.
15
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của con dâu ngươi: đó là vợ của con trai ngươi, ngươi
không được lột trần chỗ kín của nó.
16
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của chị em dâu ngươi: đó là chỗ kín của anh em
ngươi.
17
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của một người đàn bà và của con gái nó; ngươi không
được lấy cháu nội gái hay cháu ngoại gái của nó để lột trần chỗ kín của chúng:
đó là ruột thịt của nó; đó là tội ác tày trời.
18
Ngươi
không được lấy chị em của vợ ngươi mà gây ra cảnh ghen tuông, khi lột trần chỗ
kín của chúng, lúc vợ ngươi còn sống.
19
Ngươi
không được đến gần một người đàn bà đang bị ô uế vì kinh nguyệt, để lột trần
chỗ kín của nó.
20
Ngươi
không được giao hợp với vợ của một người đồng bào, để khỏi ra ô uế vì người đàn
bà ấy.
21
Ngươi
không được lấy đứa nào trong con cái ngươi mà nhượng lại cho thần Mô-léc và
không được xúc phạm đến danh của Thiên Chúa ngươi. Ta là Ðức Chúa.
22
Ngươi
không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm.
23
Ngươi
không được giao hợp với bất cứ con vật nào, để khỏi ra ô uế vì nó; đàn bà không
được đứng trước thú vật để giao cấu với nó: đó là điều quái đản.
24
Các
ngươi đừng làm cho mình ra ô uế vì tất cả những điều đó, bởi lẽ tại tất cả
những điều đó, mà các dân tộc Ta sắp tống đi cho khuất mắt các ngươi, đã ra ô
uế. 25 Ðất đã ra ô uế: Ta đã phạt nó vì tội lỗi nó, và nó đã mửa dân
cư nó ra. 26 Phần các ngươi, hãy giữ các quy tắc và quyết định của
Ta, và không được làm một điều nào trong những điều ghê tởm ấy, dù là người bản
xứ hay ngoại kiều sống giữa các ngươi. 27 Thật vậy, những người ở
trong đất trước các ngươi đã làm tất cả những điều ghê tởm ấy, và đất đã ra ô
uế. 28 Nhưng đất sẽ không mửa các ngươi ra, khi các ngươi làm cho nó
ra ô uế, như nó đã mửa dân tộc ở đó trước các ngươi. 29 Vì bất cứ ai
làm một trong những điều ghê tởm ấy, thì chính người làm sẽ bị khai trừ ra khỏi
dân nó. 30 Các ngươi phải giữ điều Ta truyền giữ, là không được thực
hành các quy tắc ghê tởm mà người ta đã thực hành trước các ngươi, và các ngươi
không được làm cho mình ra ô uế vì những điều ấy. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa
của các ngươi."
Chương 19
Chỉ
thị về luân lý và phụng tự
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các ngươi phải thánh
thiện, vì Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Ðấng Thánh.
3
Mỗi
người trong các ngươi phải kính sợ cha mẹ.
Các
ngươi phải giữ những ngày sa-bát của Ta. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các
ngươi.
4
Các
ngươi không được hướng về các tà thần, không được đúc tượng thần mà thờ. Ta là
Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.
5
Khi
các ngươi tế hy lễ kỳ an dâng Ðức Chúa, các ngươi phải tế thế nào để được đoái
nhận. 6 Phải ăn lễ vật đó trong ngày tế lễ và ngày hôm sau; sang
ngày thứ ba, cái gì còn lại phải bỏ vào lửa mà thiêu. 7 Sang ngày
thứ ba mà cứ ăn, thì đó là thịt ôi, và lễ tế sẽ không được đoái nhận. 8 Người
nào ăn, phải mang lấy tội mình, vì đã xúc phạm đến của được thánh hiến cho Ðức
Chúa; người ấy sẽ bị khai trừ ra khỏi dòng họ.
9
Khi
các ngươi gặt lúa trong đất của các ngươi, (các) ngươi không được gặt cho tới
sát bờ ruộng; lúa gặt sót, (các) ngươi không được mót. 10 Vườn nho
(các) ngươi, (các) ngươi không được hái lại, những trái rớt, (các) ngươi không
được nhặt: (các) ngươi sẽ bỏ lại cho người nghèo và ngoại kiều. Ta là Ðức Chúa,
Thiên Chúa của các ngươi.
11
Các
ngươi không được trộm cắp, không được nói dối, không được lừa gạt đồng bào mình.
12 Các ngươi không được lấy danh Ta mà thề gian: làm thế là (các)
ngươi xúc phạm đến danh Thiên Chúa của (các) ngươi. Ta là Ðức Chúa. 13 Ngươi
không được bóc lột người đồng loại, không được cướp của; tiền công người làm
thuê, ngươi không được giữ lại qua đêm cho đến sáng. 14 Ngươi không
được rủa người điếc, đặt chướng ngại cho người mù vấp chân, nhưng phải kính sợ
Thiên Chúa của ngươi, Ta là Ðức Chúa. 15 Các ngươi không được làm
điều bất công khi xét xử: không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể
mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho người đồng bào. 16 Ngươi
không được vu khống những người trong dòng họ, không được ra toà đòi người đồng
loại phải chết. Ta là Ðức Chúa. 17 Ngươi không được để lòng ghét
người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào, như thế, ngươi sẽ
khỏi mang tội vì nó. 18 Ngươi không được trả thù, không được oán hận
những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Ta là
Ðức Chúa.
19
Các
ngươi phải giữ các quy tắc của Ta.
Ngươi
không được cho hai con vật khác giống giao cấu với nhau, không được gieo trong
cánh đồng của ngươi hai thứ hạt khác nhau, không được mặc áo vải hỗn hợp, dệt
bằng hai thứ sợi khác nhau.
20
Khi
một người đàn ông giao hợp với một người đàn bà, mà người này lại là tỳ thiếp
của một người đàn ông khác, nhưng chưa được chuộc hay phóng thích, thì người
đàn ông kia sẽ bị phạt; chúng sẽ không bị xử tử, vì người đàn bà chưa được
phóng thích. 21 Người đàn ông sẽ đem dâng Ðức Chúa lễ vật đền tội
của mình ở cửa Lều Hội Ngộ, đó là con cừu đực dùng làm lễ đền tội. 22 Tư
tế sẽ lấy con cừu đực dùng làm lễ đền tội mà cử hành lễ xá tội cho nó, trước
nhan Ðức Chúa, vì tội nó đã phạm, và nó sẽ được tha tội đã phạm.
23
Khi
các ngươi đã vào đất và trồng bất cứ cây ăn trái nào, thì các ngươi sẽ kể trái
nó là chưa cắt bì; trong ba năm các ngươi phải coi trái nó là chưa cắt bì,
không được ăn. 24 Năm thứ tư, mọi trái nó sẽ được thánh hiến trong
một buổi lễ mừng Ðức Chúa. 25 Năm thứ năm, các ngươi được ăn trái
nó; như thế hoa trái nó sẽ tăng thêm cho các ngươi. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa
của các ngươi.
26
Các
ngươi không được ăn gì với máu. Các ngươi không được làm nghề tướng số, chiêm
tinh.
27
Các
ngươi không được hớt tóc vòng quanh đầu, không được xén râu. 28 Các
ngươi không được rạch mình mà để tang một người chết, không được xăm mình. Ta
là Ðức Chúa. 29 Ðừng xúc phạm đến con gái ngươi, nghĩa là bắt nó làm
điếm, kẻo đất cũng làm điếm và tràn ngập tội ác tày trời.
30
Các
ngươi phải giữ các ngày sa-bát của Ta và kính trọng thánh điện của Ta. Ta là
Ðức Chúa.
31
Các
ngươi không được đến với các người ngồi đồng ngồi bóng và không được hỏi ý kiến
chúng, kẻo vì chúng mà ra ô uế. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.
32
Thấy
người đầu bạc, ngươi phải đứng lên, ngươi phải kính trọng người già cả: như vậy
là ngươi kính sợ Thiên Chúa của ngươi. Ta là Ðức Chúa. 33 Khi có
ngoại kiều cư ngụ với (các) ngươi trong xứ các ngươi, các ngươi đừng bức hiếp
nó. 34 (Các) ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi
như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; (các) ngươi phải yêu nó
như chính mình, vì các ngươi đã từng là ngoại kiều tại đất Ai-cập. Ta là Ðức
Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.
35
Các
ngươi không được làm điều bất công khi xét xử, cũng như khi đo đạc hay cân đong.
36 Các ngươi phải có cán cân đúng, quả cân đúng, đúng thùng, đúng
lít. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ðấng đã đưa các ngươi ra khỏi
đất Ai-cập.
37
Các
ngươi phải giữ mọi quy tắc, mọi quyết định của Ta và đem ra thực hành. Ta là
Ðức Chúa.
Chương 20
Quy
định về hình phạt
A.
Tội về nghi tiết
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en: Bất cứ người nào, thuộc con cái Ít-ra-en hoặc trong
số ngoại kiều sống tại Ít-ra-en, dâng một đứa trong con cái mình cho thần
Mô-léc, thì sẽ bị xử tử; dân trong xứ sẽ ném đá nó. 3 Phần Ta, Ta sẽ
quay mặt lại phạt nó và sẽ khai trừ khỏi dân nó, vì nó đã dâng một đứa con
trong con cái mình cho thần Mô-léc, khiến thánh điện Ta ra ô uế và thánh danh
Ta bị xúc phạm. 4 Nếu dân trong xứ che mắt không nhìn người ấy, khi
nó dâng một đứa trong con cái mình cho thần Mô-léc, để khỏi phải giết nó, 5
thì chính Ta sẽ hướng mặt Ta về người ấy và dòng họ nó, Ta sẽ khai trừ nó
và những kẻ làm điếm như nó, những kẻ chạy theo thần Mô-léc mà làm điếm, Ta sẽ
khai trừ khỏi dân của chúng.
6
Người
nào đến với các người ngồi đồng ngồi bóng để chạy theo chúng mà làm điếm, thì
Ta sẽ quay mặt lại phạt người ấy và sẽ khai trừ khỏi dân nó.
7
Các
ngươi phải nên thánh và phải thánh thiện, vì Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các
ngươi.
B.
Tội liên quan đến gia đình
8
Các
ngươi phải giữ các quy tắc của Ta và đem ra thực hành. Ta là Ðức Chúa, Ðấng
thánh hiến các ngươi.
9
Vậy:
Bất cứ người nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Nó đã nguyền rủa cha mẹ,
thì máu nó đổ xuống đầu nó.
10
Khi
người đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ người đồng
loại, thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử.
11
Khi
người đàn ông nào nằm với vợ của cha mình, thì đã lột trần chỗ kín của cha
mình; cả hai phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng.
12
Khi
người đàn ông nào nằm với con dâu mình, thì cả hai phải bị xử tử; chúng đã làm
điều quái đản, máu chúng đổ xuống đầu chúng.
13
Khi
người đàn ông nào nằm với một người đàn ông như nằm với đàn bà, thì cả hai đã
làm điều ghê tởm; chúng phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu chúng.
14
Khi
người đàn ông nào lấy cả con gái lẫn mẹ, thì đó là tội ác tày trời; người ta sẽ
bỏ nó và hai người đàn bà vào lửa mà thiêu, để không còn tội ác tày trời giữa
các ngươi.
15
Khi
người đàn ông nào giao hợp với con vật, thì phải bị xử tử, và các ngươi sẽ giết
con vật.
16
Khi
người đàn bà nào đến gần bất cứ con vật nào để giao cấu với nó, thì (các) ngươi
phải giết người đàn bà và con vật; chúng phải bị xử tử, máu chúng đổ xuống đầu
chúng.
17
Khi
người đàn ông nào lấy chị em mình, dù là con gái của cha mình hay con gái của
mẹ mình, và thấy chỗ kín của người chị em cũng như người này thấy chỗ kín của
nó, thì đó là điều bỉ ổi; chúng sẽ bị khai trừ trước mắt những người thuộc về
dân của chúng; nó đã lột trần chỗ kín của người chị em nó, thì nó sẽ phải mang
lấy tội mình.
18
Khi
người đàn ông nào nằm với một người đàn bà đang khó ở, và lột trần chỗ kín của
người đàn bà, thì nó phơi bày nguồn máu của người đàn bà, và người đàn bà lột
trần nguồn máu của mình; cả hai sẽ bị khai trừ khỏi dân chúng.
19
Ngươi
không được lột trần chỗ kín của chị em gái của mẹ ngươi hay chị em gái của cha
ngươi; đó là lột trần người ruột thịt của chính mình; chúng sẽ phải mang lấy
tội mình.
20
Khi
người đàn ông nào nằm với bác gái hay thím mình, thì đã lột trần chỗ kín của
bác hay chú mình, chúng sẽ phải mang lấy tội mình, chúng sẽ chết không con cái.
21
Khi
người đàn ông nào lấy chị dâu hay em dâu mình, thì đó là một điều nhơ nhớp; nó
đã lột trần chỗ kín của anh em nó, chúng sẽ không có con cái.
Lời
khuyên nhủ cuối cùng
22
Các
ngươi phải giữ mọi quy tắc, mọi quyết định của Ta và đem ra thực hành; như vậy
đất Ta sắp đưa các ngươi vào ở đó, sẽ không mửa các ngươi ra. 23 Các
ngươi không được theo các quy tắc của dân tộc mà Ta sắp tống đi cho khuất mắt
các ngươi, vì chúng đã làm tất cả những điều đó, và Ta đã chán ngấy chúng. 24
Bởi vậy Ta đã nói với các ngươi: "Chính các ngươi sẽ chiếm hữu đất
đai của chúng, và chính Ta sẽ ban cho các ngươi chiếm hữu nó, miền đất tràn trề
sữa và mật." Chính Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, đã tách biệt
các ngươi ra khỏi các dân. 25 Vậy các ngươi phải phân biệt giữa thú
vật thanh sạch và ô uế, giữa chim ô uế và thanh sạch; các ngươi đừng làm cho
chính mình ra kinh tởm vì thú vật, các loài chim và mọi loài bò dưới đất, tức
là các loài Ta đã phân biệt để các ngươi coi chúng là ô uế.
26
Các
ngươi phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì Ta, Ðức Chúa, Ta là Ðấng Thánh, và
Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân để các ngươi thuộc về Ta.
27
Khi
người đàn ông hay người đàn bà nào có ma nhập thần ốp, thì phải bị xử tử; người
ta sẽ ném đá chúng, máu chúng đổ xuống đầu chúng."
Chương 21
Sự
thánh thiện của hàng tư tế
A.
Các tư tế
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê:
2
ngoại
trừ vì một người gần nhất, một người ruột thịt: mẹ, cha, con trai, con gái, anh
em nó. 3 Một người chị em còn trinh, vẫn là người gần nhất với nó,
vì chưa thuộc về một người đàn ông, thì nó có thể làm cho mình ra ô uế vì người
ấy. 4 Vì là người đứng đầu trong dòng họ mình, nó không được làm cho
mình ra ô uế mà trở nên phàm tục.
5
Các
tư tế không được cạo đầu và cắt riềm râu, không được rạch mình. 6 Chúng
sẽ được thánh hiến cho Thiên Chúa của chúng và không được xúc phạm đến danh
Thiên Chúa của chúng, vì chúng là những người tiến dâng lên Ðức Chúa các lễ hoả
tế, là thức ăn dành cho Thiên Chúa của chúng; chúng phải sống thánh thiện.
7
Chúng
không được lấy một gái điếm hay một người đàn bà bị làm nhục, chúng không được
lấy một người đàn bà bị chồng bỏ, vì tư tế được thánh hiến cho Thiên Chúa của
mình.
8
Ngươi
phải coi nó là thánh, vì nó là người tiến dâng thức ăn dành cho Thiên Chúa của
ngươi: đối với ngươi, nó sẽ là thánh, vì Ta là Ðấng Thánh, Ta, Ðức Chúa, Ðấng
thánh hoá các ngươi.
9
Nếu
con gái của một tư tế làm nhục chính mình mà đi làm điếm, thì nó làm nhục chính
cha nó; nó phải bị bỏ vào lửa mà thiêu.
B.
Thượng tế
10
Tư
tế lớn nhất trong hàng anh em nó, người đã được đổ dầu tấn phong lên đầu và
được trao quyền khi mặc phẩm phục, thì không được xoã tóc và xé áo, 11 không
được đến gần người chết nào, và không được làm cho mình ra ô uế, dù vì cha hay
vì mẹ mình. 12 Nó không được ra khỏi thánh điện và không được xúc
phạm đến thánh điện của Thiên Chúa nó, vì nó đã được dầu tấn phong của Thiên
Chúa nó ghi dấu trên mình. Ta là Ðức Chúa.
13
Nó
sẽ cưới một người nữ còn trinh. 14 Ðàn bà goá hay bị chồng bỏ, người
bị làm nhục hay làm điếm, những người đó nó không được lấy, mà chỉ được lấy một
trinh nữ trong gia tộc mình làm vợ; 15 như vậy, nó sẽ không làm nhục
dòng dõi nó trong gia tộc nó, vì Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá nó."
C.
Những trường hợp không được làm tư tế
16
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
17
"Hãy
nói với A-ha-ron: Qua các thế hệ, người đàn ông nào trong dòng dõi ngươi có
tật, thì không được lại gần để tiến dâng thức ăn dành cho Thiên chúa của nó. 18
Thật vậy, bất cứ người nào có tật không được lại gần: người đui mù, què
quặt, dị tướng, dị hình, 19 người bị gãy chân gãy tay, 20 gù,
còi, bị đốm ở mắt, ghẻ, hắc lào, hay bị giập tinh hoàn. 21 Bất cứ
người đàn ông nào trong dòng dõi tư tế A-ha-ron có tật, thì không được đến gần
để tiến dâng các lễ hoả tế lên Ðức Chúa; nó có tật, nó không được đến gần để
tiến dâng thức ăn dành cho Thiên Chúa của nó.
22
Thức
ăn dành cho Thiên Chúa của nó, những của rất thánh, và những của thánh, nó được
ăn, 23 nhưng nó không được tới chỗ màn trướng, không được đến gần
bàn thờ, vì nó có tật; như vậy nó sẽ không xúc phạm đến các nơi thánh của Ta,
vì Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá những nơi ấy."
24
Ông
Mô-sê nói thế với ông A-ha-ron, với các con ông này và toàn thể con cái
Ít-ra-en.
Chương 22
Phải
thánh mới được ăn của thánh
A.
Các tư tế
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
bảo A-ha-ron và các con nó, trong những trường hợp sau đây, phải kiêng những
của thánh con cái Ít-ra-en thánh hiến cho ta, để khỏi xúc phạm đến thánh danh
Ta. Ta là Ðức Chúa. 3 Hãy bảo chúng: Trong các thế hệ các ngươi, bất
cứ người nào trong dòng dõi các ngươi, khi bị ô uế, mà lại gần các của thánh
con cái Ít-ra-en thánh hiến cho Ðức Chúa, thì người ấy sẽ bị khai trừ cho khuất
mắt Ta. Ta là Ðức Chúa.
4
Không
người nào trong dòng dõi A-ha-ron bị phong hủi hay bị lậu, được ăn các của
thánh khi chưa được thanh sạch. Ai đụng vào bất cứ cái gì đã ra ô uế vì xác
chết, người đàn ông đã xuất tinh, 5 người đàn ông đã đụng vào bất cứ
một con vật nhỏ nào làm cho người ấy ra ô uế, hay đụng vào người nào làm cho
người ấy ra ô uế, dù là thứ ô uế nào, 6 ai đã đụng vào những thứ như
vậy, sẽ ra ô uế cho đến chiều, và không được ăn những của thánh khi chưa lấy
nước tắm rửa thân thể. 7 Lúc mặt trời lặn, nó sẽ được thanh sạch,
bấy giờ nó được ăn những của thánh, vì đó là thức ăn của nó.
8
Con
vật chết hay bị thú dữ xé, nó không được ăn, kẻo ra ô uế vì vật đó. Ta là Ðức
Chúa.
9
Chúng
phải giữ điều Ta truyền giữ, nếu không sẽ mang tội vì chuyện đó và phải chết vì
phạm đến của thánh. Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá những của ấy.
B.
Người ngoài
10
Không
người ngoài nào được ăn của thánh; khách trọ nhà tư tế và người làm thuê không
được ăn của thánh. 11 Nhưng nếu tư tế dùng tiền mà mua người nào,
thì người ấy được ăn; nô lệ sinh ra trong nhà cũng được ăn thức ăn của tư tế. 12
Con gái một tư tế, nếu lấy một người ngoài, thì không được ăn phần trích
ra từ các của thánh; 13 nhưng nếu con gái tư tế goá chồng hay bị
chồng bỏ, mà không có con, trở về nhà cha mình như khi còn trẻ, thì được ăn
thức ăn của cha, mặc dầu không một người ngoài nào được ăn. 14 Nếu
người nào vô ý ăn của thánh, thì phải đền của thánh cho tư tế, cộng thêm một
phần năm.
15
Các
tư tế không được phạm đến các của thánh con cái Ít-ra-en đã trích dâng Ðức Chúa;
16 tư tế sẽ làm cho chúng mang một lỗi, một lỗi mà chúng phải đền vì
đã ăn các của thánh, vì Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá những của ấy."
C.
Tế vật
17
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
18
"Hãy
nói với A-ha-ron, với các con nó cùng toàn thể con cái Ít-ra-en, và bảo chúng:
Bất cứ người nào, trong nhà Ít-ra-en hoặc trong số ngoại kiều sống tại
Ít-ra-en, vì đã khấn hứa hay tự nguyện, mà dâng lễ tiến của mình, và tiến dâng
Ðức Chúa làm lễ toàn thiêu 19 thì phải dâng một con đực toàn vẹn bắt từ đàn bò,
chiên hay dê, nếu muốn được đoái nhận. 20 Các ngươi không được tiến
dâng con vật nào có tật, vì các ngươi sẽ không được đoái nhận. 21 Khi
một người tiến dâng Ðức Chúa bò hay chiên dê làm hy lễ kỳ an để giữ trọn lời
khấn hứa hoặc vì đã tự nguyện, thì con vật phải toàn vẹn, không có một tật nào,
nếu muốn được đoái nhận. 22 Con vật mù, què, bị cắt xẻo, lở loét,
ghẻ, hắc lào, thì các ngươi không được tiến dâng lên Ðức Chúa, không được lấy
phần nào đặt trên bàn thờ làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 23 Bò, chiên
dê dị hình hay còi, ngươi có thể dâng làm lễ vật tự nguyện, nhưng nếu dâng làm
lễ vật đã khấn hứa, thì chúng sẽ không được đoái nhận. 24 Các ngươi
không được tiến dâng Ðức Chúa một con vật có tinh hoàn bị giập, bị nghiền, bị
moi hay cắt; các ngươi không được làm thế trong đất các ngươi. 25 Các
ngươi không được nhận những con vật như thế từ tay người nước ngoài, để tiến
dâng làm thức ăn dành cho Thiên Chúa các ngươi: chúng bị thiến tức là có tật,
chúng sẽ không được đoái nhận như lễ vật của các ngươi."
26
ÐỨC
CHÚA phán với ông Mô-sê rằng: 27 "Bê, chiên hay dê, sau khi
sinh, sẽ ở với mẹ nó bảy ngày; từ ngày thứ tám trở đi, nó sẽ được đoái nhận làm
lễ tiến, làm lễ hoả tế dâng Ðức Chúa. 28 Dù là bò hay chiên dê,
ngươi không được sát tế mẹ và con cùng một ngày. 29 Khi các ngươi
dâng Ðức Chúa hy lễ tạ ơn, hãy dâng thế nào để được đoái nhận; 30 phải
ăn lễ vật trong chính ngày đó, các ngươi không được để lại gì cho đến sáng hôm
sau. Ta là Ðức Chúa.
Lời
khuyên nhủ cuối cùng
31
Các
ngươi phải giữ các mệnh lệnh của Ta và đem ra thực hành. Ta là Ðức Chúa. 32
Các ngươi không được xúc phạm đến thánh danh Ta, để Ta biểu dương sự
thánh thiện của Ta giữa con cái Ít-ra-en. Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá các
ngươi. 33 Ðấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập để làm Thiên Chúa
của các ngươi, chính là Ta, Ðức Chúa.
Chương 23
Nghi
thức cử hành các lễ trong năm
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Các đại lễ của Ðức Chúa là những ngày mà
các ngươi phải triệu tập những cuộc họp để thờ phượng Ta. Ðây là những đại lễ
của Ta:
A.
Ngày sa-bát
3
Trong
sáu ngày, người ta sẽ làm công việc của mình; còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát,
một ngày nghỉ, có cuộc họp để thờ phượng, các ngươi không được làm công việc
nào. Ðó là ngày sa-bát kính Ðức Chúa, tại khắp nơi các ngươi ở.
4
Ðây
là các đại lễ của Ðức Chúa, các cuộc họp để thờ phượng mà các ngươi phải triệu
tập vào thời gian ấn định:
5
Tháng
thứ nhất, ngày mười bốn trong tháng, vào lúc chập tối, là lễ Vượt Qua kính Ðức
Chúa. 6 Ngày mười lăm tháng ấy là lễ Bánh Không Men kính Ðức Chúa.
Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải ăn bánh không men. 7 Ngày đầu
tiên, các ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, các ngươi không được làm một
công việc nặng nhọc nào. 8 Trong vòng bảy ngày, các ngươi phải tiến
dâng lễ hoả tế lên Ðức Chúa. Ngày thứ bảy, có cuộc họp để thờ phượng Ta, các
ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào.
C.
Dâng bó lúa đầu mùa
9
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
10
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi các ngươi vào đất Ta ban cho các
ngươi, và gặt mùa ở đó, thì phải đem đến cho tư tế một bó lúa, sản phẩm đầu mùa
gặt hái của các ngươi. 11 Nó sẽ làm nghi thức tiến dâng trước nhan
Ðức Chúa để các ngươi được đoái nhận; tư tế sẽ làm nghi thức tiến dâng hôm sau
ngày sa-bát. 12 Ngày các ngươi làm nghi thức tiến dâng bó lúa ấy,
các ngươi phải dâng một con chiên toàn vẹn, một tuổi, làm lễ toàn thiêu lên Ðức
Chúa, 13 cùng với lễ phẩm là chín lít tinh bột nhào với dầu: đó là
lễ hoả tế dâng Ðức Chúa, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa; lễ tưới rượu kèm
theo là hai lít. 14 Cho đến chính ngày đó, khi các ngươi mang lễ
phẩm của Thiên Chúa các ngươi đến, các ngươi không được ăn bánh, ăn gié lúa
rang và hột lúa mới. Ðó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, tại
khắp nơi các ngươi ở.
15
Từ
hôm sau ngày sa-bát, ngày các ngươi đem bó lúa đến để làm nghi thức tiến dâng,
các ngươi phải tính bảy tuần, bảy tuần chẵn. 16 Các ngươi phải tính
năm mươi ngày cho đến hôm sau ngày sa-bát thứ bảy, và các ngươi sẽ tiến dâng
một lễ phẩm mới lên Ðức Chúa: 17 từ những nơi các ngươi ở, các ngươi
phải đem đến hai chiếc bánh để làm nghi thức tiến dâng, bánh làm bằng chín lít
tinh bột và trộn men mà nướng: đó là của đầu mùa dâng Ðức Chúa. 18 Thêm
vào với bánh, các ngươi phải tiến dâng bảy con chiên toàn vẹn, một tuổi, một
con bò tơ và hai con cừu đực làm lễ toàn thiêu dâng Ðức Chúa, cùng với lễ phẩm
và lễ tưới rượu kèm theo: đó là lễ hoả tế, là hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa.
19 Các ngươi phải lấy một con dê đực làm lễ tạ tội và hai con chiên
một tuổi làm hy lễ kỳ an; 20 tư tế sẽ làm nghi thức tiến dâng trước
nhan Ðức Chúa hai con chiên cùng với bánh đầu mùa: đó là của thánh thuộc về Ðức
Chúa, dành cho tư tế.
21
Chính
ngày đó, các ngươi phải triệu tập dân, phải họp nhau để thờ phượng Ta; các
ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào. Ðó là quy tắc vĩnh viễn cho
các thế hệ của các ngươi, tại khắp nơi các ngươi ở.
22
Khi
các ngươi gặt lúa trong đất các ngươi, (các) ngươi không được gặt cho tới sát
bờ ruộng; lúa gặt sót, (các) ngươi không được mót: (các) ngươi sẽ bỏ lại cho
người nghèo và ngoại kiều. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi."
23
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
24
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Tháng thứ bảy, ngày mồng một, đối với
các ngươi sẽ là một ngày nghỉ, một ngày tưởng niệm giữa tiếng reo hò, và họp
nhau để thờ phượng Ta. 25 Các ngươi không được làm một công việc
nặng nhọc nào, và phải tiến dâng một lễ hoả tế lên Ðức Chúa."
26
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
27
"Ngoài
ra, ngày mồng mười tháng bảy là ngày Xá tội, các ngươi phải họp nhau để thờ
phượng Ta, phải ăn chay hãm mình và tiến dâng một lễ hoả tế lên Ðức Chúa. 28
Chính ngày ấy, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào, vì
đó là ngày Xá tội, ngày cử hành lễ xá tội cho các ngươi trước nhan Ðức Chúa,
Thiên Chúa của các ngươi. 29 Như vậy bất cứ người nào không ăn chay
hãm mình vào chính ngày đó, sẽ bị khai trừ khỏi dòng họ; 30 và bất
cứ người nào làm một việc gì vào chính ngày đó, Ta sẽ làm cho nó biến mất không
còn dấu vết giữa dân nó. 31 Các ngươi không được làm một công việc
nào: đó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các ngươi, tại khắp nơi các
ngươi ở. 32 Ðối với các ngươi, đó sẽ là một ngày sa-bát, một ngày
nghỉ, và các ngươi phải ăn chay hãm mình. Từ chiều ngày mồng chín đến chiều hôm
sau, các ngươi phải nghỉ để giữ ngày sa-bát."
33
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
34
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en: Ngày mười lăm tháng bảy là lễ Lều kính Ðức Chúa,
trong vòng bảy ngày. 35 Ngày đầu tiên, phải họp nhau để thờ phượng
Ta, các ngươi không được làm một công việc nặng nhọc nào. 36 Trong
vòng bảy ngày, các ngươi phải tiến dâng lễ hoả tế lên Ðức Chúa. Ngày thứ tám,
các ngươi phải họp nhau để thờ phượng Ta, và phải tiến dâng một lễ hoả tế lên
Ðức Chúa: đó là một buổi họp long trọng, các ngươi không được làm một công việc
nặng nhọc nào.
Kết
luận (Ðn 29:39)
37
Ðó
là các đại lễ của Ðức Chúa, là những ngày mà các ngươi phải triệu tập những
cuộc họp để thờ phượng Ta, để tiến dâng lễ hoả tế lên Ðức Chúa: lễ toàn thiêu
hay lễ phẩm, hy lễ hay những lễ tưới rượu, việc nào vào ngày đó, 38 không
kể các ngày sa-bát của Ðức Chúa, không kể các lễ vật, không kể tất cả các lễ
vật đã khấn hứa và tất cả các lễ vật tự nguyện các ngươi dâng Ðức Chúa.
Lại
nói về lễ Lều
39
Ngoài
ra, ngày mười lăm tháng bảy, khi các ngươi đã thu hoa lợi ruộng đất, các ngươi
phải mở lễ kính Ðức Chúa trong vòng bảy ngày. Ngày đầu tiên là ngày nghỉ, ngày
thứ tám là ngày nghỉ. 40 Ngày đầu tiên, các ngươi phải lấy những
trái cây đẹp, những tàu lá chà là, những cành cây nhiều lá và cành liễu mọc bên
bờ suối, và phải liên hoan trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, trong
vòng bảy ngày. 41 Các ngươi phải mừng lễ đó như một lễ kính Ðức Chúa
trong vòng bảy ngày mỗi năm: đó là quy tắc vĩnh viễn cho các thế hệ của các
ngươi.
42
Trong
vòng bảy ngày, các ngươi phải ở trong lều bằng cành cây; mọi người bản xứ tại
Ít-ra-en phải ở trong lều bằng cành cây,43 để các thế hệ của các ngươi biết
rằng Ta đã cho con cái Ít-ra-en ở trong lều bằng cành cây, khi Ta đưa chúng ra
khỏi đất Ai-cập. Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi."
44
Ông
Mô-sê nói cho con cái Ít-ra-en biết các đại lễ của Ðức Chúa.
Chương 24
Quy
định bổ sung về nghi lễ
A.
Ðèn cháy liên lỉ
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
truyền cho con cái Ít-ra-en phải giã ô-liu lấy dầu nguyên chất cho ngươi, để
thắp đèn, hầu cho luôn luôn có ngọn lửa cháy. 3 A-ha-ron sẽ đặt
chiếc đèn đó bên ngoài bức màn trướng che Chứng Ước, trong Lều Hội Ngộ, sao cho
nó luôn luôn cháy từ chiều đến sáng trước nhan Ðức Chúa. Ðó là quy tắc vĩnh
viễn cho các thế hệ của các ngươi. 4 A-ha-ron sẽ phải đặt các đèn
trên trụ đèn bằng vàng ròng trước nhan Ðức Chúa, luôn luôn.
B.
Bánh tiến
5
Ngươi
phải lấy tinh bột và nướng thành mười hai cái bánh, mỗi cái sẽ là chín lít bột.
6 Ngươi phải xếp bánh thành hai chồng, mỗi chồng sáu cái, trên bàn
bằng vàng ròng, trước nhan Ðức Chúa. 7 Trên mỗi chồng, ngươi phải để
hương tinh khiết, hương đó sẽ là kỷ vật thay cho bánh, là hoả tế dâng Ðức Chúa.
8 Mỗi ngày sa-bát, người ta phải đặt luôn luôn trước nhan Ðức Chúa,
bánh con cái Ít-ra-en dâng: đó là một giao ước vĩnh cửu. 9 Bánh đó
sẽ dành cho A-ha-ron và các con nó; chúng sẽ ăn trong một nơi thánh, vì đó là
của rất thánh dành cho nó, lấy từ các lễ hoả tế dâng Ðức Chúa: đó là quy luật
vĩnh viễn."
Nói
phạm thượng. Luật báo phục tương xứng.
10
Có
một người con trai, mẹ là người Ít-ra-en, cha là người Ai-cập, đến giữa con cái
Ít-ra-en, và ngay giữa trại, con của người đàn bà Ít-ra-en đó xô xát với một
người đàn ông Ít-ra-en. 11 Con của người đàn bà Ít-ra-en đó nói phạm
đến thánh danh và buông lời nguyền rủa. Người ta đem nó đến cho ông Mô-sê. Mẹ
nó tên là Sơ-lô-mít, con ông Ðíp-ri, thuộc chi tộc Ðan. 12 Người ta
nhốt nó lại, để chờ quyết định theo lệnh Ðức Chúa.
13
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê:
14
"Hãy
đưa kẻ nói lời nguyền rủa ra ngoài trại. Tất cả những ai đã nghe, phải đặt tay
lên đầu nó, và toàn thể cộng đồng phải ném đá nó. 15 Rồi ngươi sẽ
nói với con cái Ít-ra-en rằng: Bất cứ người nào nguyền rủa Thiên Chúa của nó,
sẽ phải mang lấy tội mình. 16 Ai nói phạm đến danh Ðức Chúa, sẽ bị
xử tử: toàn thể cộng đồng sẽ ném đá nó; dù là ngoại kiều hay người bản xứ, nếu
nói phạm đến thánh danh, sẽ bị xử tử.
17
Nếu
ai đánh chết bất cứ người nào, thì sẽ bị xử tử. 18 Ai đánh chết một
con vật, thì phải đền: vật sống đền vật sống.
19
Nếu
ai làm cho người đồng bào phải mang tật, thì phải xử với nó như nó đã xử với
người ta: 20 chỗ gãy đền chỗ gãy, mắt đền mắt, răng đền răng; nó đã
làm cho người khác mang tật thế nào, thì người ta cũng sẽ làm cho nó như vậy. 21
Ai đánh chết một con vật, thì phải đền; ai đánh chết người, sẽ bị xử tử. 22
Các ngươi chỉ được có một pháp luật, cho ngoại kiều cũng như cho người
bản xứ, vì Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi."
23
Ông
Mô-sê nói thế với con cái Ít-ra-en. Họ liền đưa kẻ nói lời nguyền rủa ra ngoài
trại và ném đá nó. Con cái Ít-ra-en làm như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
Chương 25
Các
năm thánh
A.
Năm hưu lễ
1
Trên
núi Xi-nai, Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Khi các ngươi vào đất Ta sắp ban cho các
ngươi, đất phải nghỉ một sa-bát kính Ðức Chúa. 3 Trong sáu năm,
(các) ngươi sẽ gieo vãi trong cánh đồng của (các) ngươi, trong sáu năm, (các)
ngươi sẽ tỉa vườn nho của (các) ngươi, và (các) ngươi sẽ thu hoa lợi. 4 Nhưng
năm thứ bảy sẽ là một sa-bát, một thời kỳ đất nghỉ, một sa-bát kính Ðức Chúa:
(các) ngươi không được gieo vãi trong cánh đồng của (các) ngươi, không được tỉa
vườn nho của các ngươi; 5 (các) ngươi không được gặt lúa tự nhiên
mọc sau mùa gặt, không được hái những chùm nho từ vườn nho không cắt tỉa của
(các) ngươi: đó sẽ là một năm đất nghỉ. 6 Sản phẩm tự nhiên của đất
trong năm sa-bát sẽ nuôi các ngươi, tôi tớ nam nữ của (các) ngươi, người làm
thuê của (các) ngươi, khách trọ nhà (các) ngươi; tóm lại các người trú ngụ nơi
(các) ngươi. 7 Còn gia súc và dã thú ở trong đất (các) ngươi, thì
tất cả hoa lợi của đất sẽ là lương thực cho chúng.
B.
Năm toàn xá
8
(Các)
ngươi phải tính bảy tuần năm, nghĩa là bảy lần bảy năm; thời gian của bảy tuần
năm đó là bốn mươi chín năm. 9 Tháng thứ bảy, ngày mồng mười trong
tháng, (các) ngươi sẽ thổi tù và giữa tiếng reo hò; vào ngày Xá tội, (các)
ngươi sẽ thổi tù và trong toàn xứ các ngươi. 10 Các ngươi sẽ công bố
năm thứ năm mươi là năm thánh và sẽ tuyên cáo trong xứ lệnh ân xá cho mọi người
sống tại đó. Ðối với (các) ngươi, đó là thời kỳ toàn xá: mỗi người trong các
ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình, mỗi người sẽ trở về dòng họ của mình. 11
Ðối với các ngươi, năm thứ năm mươi sẽ là thời kỳ toàn xá: các ngươi
không được gieo, không được gặt lúa tự nhiên mọc, không được hái trong vườn nho
không cắt tỉa. 12 Vì đó là thời kỳ toàn xá, một năm thánh đối với
các ngươi, các ngươi sẽ ăn hoa lợi của đồng ruộng.
13
Năm
toàn xá đó, mỗi người trong các ngươi sẽ trở về phần sở hữu của mình. 14 Nếu
các ngươi bán cái gì cho người đồng bào hoặc mua cái gì từ tay người đồng bào,
thì đừng ai làm thiệt hại người anh em mình. 15 Ngươi sẽ mua của
người đồng bào theo số năm sau năm toàn xá, và nó sẽ bán cho ngươi theo số năm
thu hoạch. 16 Còn nhiều năm thì ngươi mua giá cao, còn ít năm thì
ngươi mua giá thấp, vì nó bán cho ngươi một số năm thu hoạch. 17 Không
ai trong các ngươi được làm thiệt hại người đồng bào, nhưng (các) ngươi phải
kính sợ Thiên Chúa của (các) ngươi, vì Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của (các)
ngươi.
Thiên
Chúa bảo đảm về năm sa-bát
18
Các
ngươi phải đem ra thực hành các quy tắc của Ta, phải giữ và đem ra thực hành
các quyết định của Ta, và các ngươi sẽ được sống yên hàn trên đất ấy. 19 Ðất
sẽ sinh hoa trái, các ngươi sẽ được ăn no nê và được sống yên hàn tại đó.
20
Có
lẽ các ngươi sẽ nói: "Năm thứ bảy chúng tôi sẽ ăn gì, nếu chúng tôi không
gieo vãi và không thu hoa lợi?” 21 Ta sẽ truyền cho phúc lành của Ta
đến với các ngươi vào năm thứ sáu, và phúc lành sẽ sinh hoa lợi đủ cho ba năm. 22
Năm thứ tám, các ngươi sẽ gieo vãi, nhưng sẽ lấy hoa lợi cũ mà ăn; đến
năm thứ chín, đến khi gặt hoa lợi năm ấy, các ngươi sẽ ăn hoa lợi cũ.
Chuộc
đất, chuộc nhà
23
Ðất
thì không được bán đứt, vì đất là của Ta, còn các ngươi chỉ là ngoại kiều, là
khách trọ nhà Ta. 24 Trong toàn xứ sẽ thuộc quyền sở hữu của các
ngươi, các ngươi phải cho người ta quyền chuộc lại đất. 25 Nếu người
anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu và phải bán một phần sở hữu của nó,
thì người có quyền chuộc, tức là người bà con gần nhất, sẽ đến chuộc lại cái mà
người anh em nó đã bán. 26 Nếu ai không có bà con có quyền chuộc,
nhưng lại có phương tiện và kiếm được tiền chuộc, 27 thì nó sẽ tính
những năm từ khi bán, còn trội bao nhiêu, nó sẽ trả cho người mua, và sẽ trở về
phần sở hữu của mình. 28 Nhưng nếu nó không kiếm được phương tiện để
trả tiền lại cho người kia, thì của nó bán sẽ ở lại trong tay người mua cho đến
năm toàn xá; đến thời kỳ toàn xá, của bán sẽ ra khỏi tay người mua, và người
bán sẽ trở về phần sở hữu của mình.
29
Nếu
người nào bán nhà ở, trong một thành có tường luỹ, thì quyền chuộc sẽ kéo dài
đến hết năm bán; quyền chuộc nhà sẽ kéo dài một năm. 30 Nếu trong
vòng một năm trọn mà nhà không được chuộc, thì nhà ở trong thành có tường luỹ
sẽ thuộc hẳn về người mua và con cháu nó; vào năm toàn xá, nhà sẽ không ra khỏi
tay nó. 31 Nhà cửa trong các làng không có tường luỹ chung quanh,
thì được kể như đồng ruộng; người ta có quyền chuộc những nhà ấy, và năm toàn
xá những nhà ấy sẽ ra khỏi tay người mua.
32
Còn
các thành của các thầy Lê-vi, nhà cửa trong các thành thuộc quyền sở hữu của
chúng, thì các thầy Lê-vi mãi mãi có quyền chuộc. 33 Dù một thầy
Lê-vi đã mua, thì nhà đã bán -trong một thành là sở hữu của nó- sẽ ra khỏi tay
người mua vào thời kỳ toàn xá, vì nhà cửa trong các thành của các thầy Lê-vi là
sở hữu của chúng giữa con cái Ít-ra-en. 34 Còn đồng cỏ chung quanh
các thành của chúng thì không được bán, vì đó là phần sở hữu vĩnh viễn của
chúng.
Chuộc
người
35
Nếu
người anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu, và không trả nợ được (các)
ngươi, thì (các) ngươi phải nâng đỡ nó, dù nó là ngoại kiều hay khách trọ, để
nó có thể sống bên (các) ngươi. 36 Với nó, (các) ngươi không được
lấy lãi ăn lời, nhưng (các) ngươi phải kính sợ Thiên Chúa, và người anh em của
(các) ngươi sẽ có thể sống bên (các) ngươi. 37 (Các) ngươi không
được cho nó vay bạc của (các) ngươi để lấy lãi và vay lương thực của (các)
ngươi để ăn lời. 38 Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ðấng
đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, để ban cho các ngươi đất Ca-na-an và để
làm Thiên chúa của các ngươi.
39
Nếu
người anh em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu bên cạnh (các) ngươi và phải
bán mình cho (các) ngươi, thì (các) ngươi không được bắt nó làm công việc của
người nô lệ; 40 nó sẽ ở với (các) ngươi như một người làm thuê, một
khách trọ, và sẽ phục vụ trong nhà (các) ngươi cho đến năm toàn xá; 41 khi
đó, nó cùng với con cái nó sẽ ra khỏi nhà (các) ngươi, sẽ trở về thị tộc mình,
sẽ trở về phần sở hữu của cha ông nó. 42 Quả thế, chúng là tôi tớ
của Ta, mà Ta đã đưa ra khỏi đất Ai-cập, không được bán chúng như bán nô lệ. 43
(Các) ngươi không được thống trị chúng cách hà khắc, nhưng hãy kính sợ
Thiên Chúa của (các) ngươi.
44
Tôi
tớ nam nữ mà (các) ngươi sẽ có, phải là những người thuộc các dân tộc chung
quanh các ngươi; các ngươi sẽ mua tôi tớ nam nữ từ các dân tộc ấy. 45 Các
ngươi cũng có thể mua trong số con cái các khách trọ, trú ngụ giữa các ngươi,
trong các gia đình của chúng đang ở giữa các ngươi, những kẻ chúng đã sinh ra
trên đất các ngươi: chúng sẽ là sở hữu của các ngươi. 46 Các ngươi
sẽ để chúng lại làm gia nghiệp cho con cái các ngươi mai sau; để con cái các
ngươi giữ làm sở hữu. Các ngươi có thể bắt chúng làm nô lệ mãi mãi, nhưng anh
em các ngươi là con cái Ít-ra-en, thì không ai trong các ngươi được thống trị
cách hà khắc.
47
Nếu
một ngoại kiều hay khách trọ giữa (các) ngươi có phương tiện, và nếu người anh
em của (các) ngươi lâm cảnh túng thiếu bên cạnh nó và phải bán mình cho ngoại
kiều đó hoặc cho khách trọ giữa (các) ngươi, hoặc cho con cháu một gia đình
ngoại kiều, 48 thì sau khi bán mình, người anh em ấy vẫn có quyền
chuộc: một người trong các anh em nó có thể chuộc nó; 49 chú bác nó
hay con của chú bác nó, hay một người bà con ruột thịt trong gia tộc nó có thể
chuộc nó; hoặc nếu có phương tiện thì có thể tự chuộc mình. 50 Với
người đã mua nó, nó sẽ tính thời gian từ năm nó bán mình cho đến năm toàn xá,
và giá tiền bán nó cứ tuỳ số năm mà tính, theo lương công nhật của người làm
thuê. 51 Nếu còn nhiều năm, thì nó cứ tuỳ theo số năm ấy mà khấu trừ
vào tiền bán nó, để trả tiền chuộc mình. 52 Nếu còn lại ít năm trước
năm toàn xá, thì nó sẽ tính theo số năm ấy mà trả tiền chuộc. 53 Nó
sẽ ở với người kia như một người làm thuê từ năm nọ sang năm kia, nhưng người
kia không được thống trị nó cách hà khắc.
54
Nếu
nó không được chuộc bằng những cách trên, thì nó sẽ được ra đi, nó cùng với các
con nó, vào năm toàn xá. 55 Thật vậy, con cái Ít-ra-en làm tôi tớ
cho Ta, chúng là tôi tớ của Ta, những kẻ Ta đã đưa ra khỏi đất Ai-cập. Ta là
Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi.
Chương 26
Tóm
kết
1
Các
người không được làm ra các tà thần mà thờ, không được dựng tượng và trụ đá để
mà thờ, không được đặt trong đất các ngươi hình tượng bằng đá để sụp lạy chúng,
vì Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. 2 Các ngươi phải giữ
ngày sa-bát của Ta và kính sợ thánh điện của Ta. Ta là Ðức Chúa.
Các
lời chúc phúc (Ðnl 7:12-24; 28:1-14)
3
Nếu
các ngươi theo các quy tắc của Ta, nếu các ngươi giữ các mệnh lệnh của Ta và
đem ra thực hành, 4 thì Ta sẽ ban mưa cho các ngươi đúng mùa, đất sẽ
sinh hoa màu, cây cối ngoài đồng sẽ ra trái; 5 các ngươi sẽ được gặt
lúa cho đến thời hái nho, và sẽ được hái nho cho đến thời gieo giống; các ngươi
sẽ được ăn bánh của mình no nê và sẽ được sống yên hàn trên đất các ngươi.
6
Ta
sẽ thiết lập hoà bình trong đất các ngươi, và các ngươi sẽ ngủ nghỉ mà không ai
quấy phá, Ta sẽ khiến thú dữ biến khỏi đất các ngươi, và gươm sẽ không đi qua
đất các ngươi. 7 Các ngươi sẽ đuổi kẻ thù của các ngươi, và chúng sẽ
bị gươm đâm ngã gục trước mặt các ngươi. 8 Năm người trong các ngươi
sẽ đuổi được một trăm, một trăm người trong các ngươi sẽ đuổi được mười ngàn,
và kẻ thù của các ngươi sẽ bị gươm đâm ngã gục trước mặt các ngươi.
9
Ta
sẽ hướng về các ngươi, sẽ cho các ngươi sinh sôi nảy nở thật nhiều và sẽ giữ
vững giao ước của Ta với các ngươi.
10
Các
ngươi sẽ ăn lúa cũ, lúa mùa trước, và sẽ đổ lúa cũ ra lấy chỗ cho lúa mới.
11
Ta
sẽ đặt Nhà Tạm của ta giữa các ngươi, và sẽ không chán ghét các ngươi. 12 Ta
sẽ đi đi lại lại giữa các ngươi; Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi, còn các
ngươi sẽ là dân của Ta. 13 Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi,
Ðấng đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, để các ngươi không còn làm nô lệ cho
chúng nữa; Ta đã bẻ gông bẻ ách cho các ngươi và đã cho các ngươi tiến bước
hiên ngang.
Các
lời nguyền rủa (Ðnl 28:15 -68)
14
Nhưng
nếu các ngươi không nghe Ta và không đem tất cả các mệnh lệnh đó ra thực hành, 15
nếu các ngươi gạt bỏ các quy tắc của Ta và chán ghét các quyết định của
Ta, mà không đem ra thực hành các mệnh lệnh của Ta, lại huỷ bỏ giao ước của Ta,
16 thì Ta cũng vậy, Ta sẽ làm cho các ngươi như thế này:
17
Ta
sẽ quay mặt lại phạt các ngươi và các ngươi sẽ bị quân thù đánh bại; các kẻ
ghét các ngươi sẽ thống trị các ngươi, và các ngươi sẽ chạy trốn dù không có
người đuổi theo.
18
Dù
vậy, nếu các ngươi vẫn không chịu nghe Ta, thì Ta sẽ còn sửa phạt các ngươi gấp
bảy lần vì tội lỗi của các ngươi. 19 Ta sẽ bẻ gãy sự kiêu hùng của
các ngươi, Ta sẽ làm cho trời các ngươi ra như sắt, đất các ngươi ra như đồng; 20
các ngươi sẽ tiêu hao sức lực uổng công, đất các ngươi sẽ không còn sinh
hoa màu, cây cối của đất sẽ không còn ra trái.
21
Nếu
các ngươi chống Ta và không muốn nghe Ta, thì Ta sẽ còn đánh phạt các ngươi gấp
bảy lần tội lỗi các ngươi. 22 Ta sẽ sai dã thú đến giữa các ngươi,
chúng sẽ cướp con cái các ngươi, tiêu diệt gia súc các ngươi và giảm dân số các
ngươi đến nỗi đường sá của các ngươi thành hoang vắng.
23
Dù
vậy, nếu các ngươi vẫn không chịu để Ta sửa dạy, mà cứ chống Ta, 24 thì
Ta cũng vậy, Ta sẽ chống các ngươi và Ta cũng sẽ đánh phạt các ngươi gấp bảy
lần vì tội lỗi các ngươi. 25 Ta sẽ giáng xuống các ngươi lưỡi gươm
báo oán để rửa hận cho giao ước. Các ngươi sẽ rút cả vào trong các thành của
các ngươi, nhưng Ta sẽ gửi ôn dịch đến giữa các ngươi, và các ngươi sẽ bị trao
vào tay kẻ thù. 26 Khi Ta làm cạn nguồn lương thực nuôi các ngươi,
thì mười người đàn bà sẽ nướng bánh của các ngươi trong một lò duy nhất và sẽ
chia bánh cho các ngươi theo định lượng; các ngươi sẽ ăn mà chẳng được no.
27
Dù
vậy, nếu các ngươi vẫn không chịu nghe Ta mà cứ chống Ta, 28 thì Ta
sẽ nổi cơn lôi đình chống các ngươi và Ta cũng sẽ sửa phạt các ngươi gấp bảy
lần vì tội lỗi các ngươi. 29 Các ngươi sẽ ăn thịt con trai, ăn thịt
con gái các ngươi. 30 Ta sẽ tiêu huỷ những nơi cao của các ngươi, sẽ
chặt những hương án của các ngươi, sẽ chất thây các ngươi trên thây những ngẫu
tượng của các ngươi, và Ta sẽ chán ghét các ngươi. 31 Ta sẽ làm cho
thành thị của các ngươi nên chốn tan hoang, sẽ tàn phá những thánh điện của các
ngươi; các ngươi có dâng hương thơm làm vui lòng Ta, Ta cũng không ngửi. 32
Chính Ta sẽ tàn phá đất của các ngươi, và kẻ thù của các ngươi đến ở đó
sẽ phải sửng sốt trước cảnh tượng ấy. 33 Còn các ngươi, Ta sẽ phân
tán giữa các dân tộc, Ta sẽ tuốt gươm đuổi theo các ngươi; đất các ngươi sẽ bị
tàn phá và thành thị của các ngươi sẽ nên chốn tan hoang. 34 Bấy giờ
đất sẽ được hưởng bù những năm sa-bát của nó, suốt thời gian nó bị tàn phá và
các ngươi phải ở trong đất của kẻ thù; bấy giờ đất sẽ nghỉ và sẽ được hưởng bù
những năm sa-bát của nó. 35 Suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ
bù những năm sa-bát của các ngươi mà nó đã không được nghỉ, khi các ngươi sống
ở đó. 36 Những kẻ còn lại trong số các ngươi, Ta sẽ làm cho chúng
nản lòng trong đất của kẻ thù chúng. Tiếng một chiếc lá bay sẽ đuổi theo chúng;
chúng sẽ chạy trốn như chạy trốn lưỡi gươm, và sẽ ngã gục dù không có người
đuổi theo. 37 Chúng sẽ vấp vào nhau, người nọ vào người kia, như
trước lưỡi gươm, dù không có người đuổi theo. Các ngươi sẽ không đứng vững
trước mặt quân thù; 38 các ngươi sẽ bị diệt vong giữa các dân tộc,
và đất của kẻ thù các ngươi sẽ nuốt các ngươi. 39 Những kẻ còn lại
trong số các ngươi sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của chúng, trong đất của kẻ
thù chúng; chúng sẽ chết dần chết mòn vì lỗi lầm của cha ông chúng, cộng với
lỗi lầm của chúng.
40
Chúng
sẽ xưng thú lỗi lầm của chúng và lỗi lầm của cha ông chúng: chúng đã phạm tội
bất trung đối với Ta, lại còn chống Ta, 41 khiến Ta cũng chống chúng
và đưa chúng đến đất của kẻ thù chúng. Bấy giờ tâm hồn không cắt bì của chúng
sẽ tự hạ, và bấy giờ chúng sẽ chịu phạt vì lỗi lầm của chúng. 42 Ta
sẽ nhớ lại giao ước của Ta với Gia-cóp, Ta cũng sẽ nhớ lại giao ước của Ta với
I-xa-ác và giao ước của Ta với Áp-ra-ham; Ta sẽ nhớ lại đất ấy.
43
Ðất
sẽ bị chúng bỏ rơi và sẽ được hưởng bù những năm sa-bát của nó, khi đất bị tàn
phá không có chúng ở nữa, khi chúng chịu phạt vì lỗi lầm của chúng, bởi lẽ
chúng đã gạt bỏ các quyết định của Ta và chán ghét các quy tắc của Ta.
44
Nhưng
cả khi ấy nữa, khi chúng ở trong đất của kẻ thù chúng, Ta cũng sẽ không gạt bỏ
chúng và không chán ghét chúng, đến nỗi tận diệt chúng và huỷ bỏ giao ước của
Ta với chúng, vì Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng. 45 Vì chúng,
Ta sẽ nhớ lại giao ước với tiền nhân chúng, những kẻ Ta đã đưa ra khỏi đất
Ai-cập, trước mắt các dân tộc, để Ta là Thiên Chúa của chúng. Ta là Ðức
Chúa."
46
Ðó
là các thánh chỉ, quyết định và luật lệ Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê mà lập ra
giữa Người với con cái Ít-ra-en tại núi Xi-nai.
Chương 27
Phụ
Lục
A.
Loài người
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng:
2
"Hãy
nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng: Nếu ai muốn giữ trọn lời khấn hứa dâng
một người cho Ðức Chúa, thì phải định giá như sau:
3
Nếu
là phái nam từ hai mươi đến sáu mươi tuổi, thì phải định giá là mười lăm lượng
bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện; 4 nếu là phái nữ, thì
phải định giá là chín lượng;
5
từ
năm đến hai mươi tuổi, thì phải định giá nam là sáu lượng, nữ là ba lượng;
6
từ
một tháng đến năm tuổi, thì phải định giá nam là mười lăm chỉ bạc, nữ là chín
chỉ bạc;
7
từ
sáu mươi tuổi trở lên, thì phải định giá nam là bốn mươi lăm chỉ bạc, nữ là ba
lượng.
8
Nếu
ai túng thiếu, không trả nổi giá đó, thì phải đặt nó trước mặt tư tế để tư tế
định giá; tư tế sẽ dựa vào khả năng của người khấn hứa mà định giá.
B.
Loài vật
9
Nếu
là một con vật thuộc loại có thể dâng làm lễ tiến lên Ðức Chúa, thì bất cứ con
nào người ta hiến cho Ðức Chúa đều là của thánh. 10 Không được đổi,
không được thay thế con tốt bằng con xấu, hay con xấu bằng con tốt. Nếu cứ thay
thế một con vật này bằng một con khác, thì cả con vật này lẫn con vật thay thế
đều là của thánh. 11 Nếu là một con vật ô uế, thuộc loại không được
dâng làm lễ tiến lên Ðức Chúa, thì phải đặt con vật trước mặt tư tế; 12 tư
tế sẽ định giá nó là tốt hay xấu, và tư tế định giá thế nào thì cứ như vậy. 13
Nếu muốn chuộc lại, thì phải trả thêm một phần năm giá đã định.
C.
Nhà cửa
14
Khi
một người thánh hiến nhà mình làm của thánh dâng Ðức Chúa, thì tư tế sẽ định
giá nhà ấy là tốt hay xấu; tư tế định giá thế nào thì cứ y như vậy. 15 Nếu
người đã thánh hiến nhà muốn chuộc lại, thì sẽ phải trả thêm một phần năm giá
đã định và nhà ấy sẽ là của nó.
D.
Ðồng ruộng
16
Nếu
một người thánh hiến cho Ðức Chúa một cánh đồng là sở hữu của mình, thì phải
dựa vào số lượng lúa giống mà định giá: hai mươi thùng giống lúa mạch là mười
lăm lượng bạc. 17 Nếu nó thánh hiến cánh đồng ngay từ năm toàn xá,
thì cứ theo như giá đã định. 18 Nếu nó thánh hiến cánh đồng sau năm
toàn xá, thì tư tế sẽ tính giá tuỳ theo số năm còn lại cho đến năm toàn xá, và
có giảm bớt giá đã định.
19
Nếu
người đã thánh hiến cánh đồng muốn chuộc lại, thì sẽ phải trả thêm vào đó một
phần năm giá đã định, và cánh đồng sẽ thuộc về nó. 20 Nếu nó không
chuộc lại cánh đồng nhưng bán cho người khác, thì cánh đồng không chuộc lại
được nữa, 21 và khi cánh đồng ra khỏi tay người mua, vào thời kỳ
toàn xá, thì cánh đồng sẽ là của thánh dâng Ðức Chúa, như một cánh đồng được
biệt hiến; cánh đồng sẽ thuộc quyền sở hữu của tư tế.
22
Nếu
nó thánh hiến cho Ðức Chúa một cánh đồng nó đã mua, chứ không phải cánh đồng
thuộc quyền sở hữu của nó, 23 thì tư tế sẽ tính số tiền phải trả cho
đến năm toàn xá, và ngay hôm đó người kia phải nộp theo giá đã định; đó là của
thánh dâng Ðức Chúa. 24 Ðến năm toàn xá, cánh đồng sẽ lại về tay
người bán, là người có quyền sở hữu đất. 25 Mỗi khi định giá thì
phải theo đơn vị đo lường của thánh điện: một se-ken ăn hai mươi ghê-ra.
Quy
định đặc biệt về việc chuộc lại những của thánh hiến
a.
Con đầu lòng
26
Con
đầu lòng trong đàn gia súc, không ai được thánh hiến: vì là con đầu lòng, nó đã
thuộc về Ðức Chúa; dù là bò hay chiên dê, nó thuộc về Ðức Chúa. 27 Nhưng
nếu là loài vật ô uế, thì có thể chuộc theo giá đã định, cộng thêm một phần
năm; nếu nó không được chuộc, thì sẽ được bán theo giá đã định.
b.
Của biệt hiến
28
Tuy
nhiên, trong những cái thuộc về một người - như người, gia súc hay cánh đồng là
sở hữu của nó - bất cứ cái gì nó đã biệt hiến dâng Ðức Chúa làm của biệt hiến,
thì không được bán, cũng không được chuộc. Mọi của biệt hiến là của rất thánh,
nó thuộc về Ðức Chúa. 29 Của biệt hiến mà là một người biệt hiến,
thì không thể được chuộc: nó phải bị xử tử.
c.
Thuế thập phân
30
Mọi
thuế thập phân đánh vào đất, trích từ sản phẩm của đất và từ hoa trái của cây
cối, đều thuộc về Ðức Chúa: đó là của thánh dâng Ðức Chúa. 31 Nếu
người nào muốn chuộc một phần thuế thập phân, thì phải trả thêm một phần năm.
32
Mọi
thuế thập phân đánh vào bò và chiên dê, tức là một phần mười của mọi vật đi qua
dưới cây gậy người chăn, đều là của rất thánh dâng Ðức Chúa. 33 Không
được tìm xem con nào tốt hay xấu và không được thay thế; nếu cứ thay thế, thì
con vật ấy và con vật thay thế sẽ là của rất thánh, không thể được chuộc
lại."
34
Ðó
là những mệnh lệnh Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê nói lại cho con cái
Ít-ra-en, trên núi Xi-nai.
Dân Số
Chương 01
I.
Kiểm Tra Dân Số
1
Tại
sa mạc Xi-nai ngày mồng một tháng hai năm thứ hai kể từ khi con cái Ít-ra-en ra
khỏi đất Ai-cập, Ðức Chúa phán với ông Mô-sê trong Lều Hội Ngộ rằng:
2
"Các
ngươi hãy kiểm tra dân số toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en theo thị tộc và
gia tộc, lập danh sách mọi người đàn ông từng người một. 3 Những
người từ hai mươi tuổi trở lên, nghĩa là mọi người trong dân Ít-ra-en đến tuổi
nhập ngũ, thì ngươi và A-ha-ron hãy liệt kê theo đơn vị của chúng. 4 Mỗi
chi tộc còn phải có một người giúp các ngươi, người ấy phải là tộc trưởng.
Nhân
viên kiểm tra
5
Ðây
là danh sách những người đứng ra giúp các ngươi: "Chi tộc Rưu-vên có
Ê-li-xua, con Sơ-đê-ua.
6
Chi
tộc Si-mê-ôn có Sơ-lu-mi-ên, con Xu-ri-sát-đai.
7
Chi
tộc Giu-đa có Nác-sôn, con Am-mi-na-đáp.
8
Chi
tộc Ít-xa-kha có Nơ-than-ên, con Xu-a.
9
Chi
tộc Dơ-vu-lun có Ê-li-áp, con Khe-lôn.
10
Con
cháu Giu-se: chi tộc Ép-ra-im có Ê-li-sa-ma, con Am-mi-hút, và chi tộc Mơ-na-se
có Gam-li-ên, con Pơ-đa-xua.
11
Chi
tộc Ben-gia-min có A-vi-đan, con Ghít-ô-ni.
12
Chi
tộc Ðan có A-khi-e-de, con Am-mi-sát-đai.
13
Chi
tộc A-se có Pác-i-ên, con Oóc-ran.
14
Chi
tộc Gát có En-gia-xáp, con Rơ-u-ên.
15
Chi
tộc Náp-ta-li có A-khi-ra, con Ê-nan."
16
Ðó
là những người đại diện của cộng đồng, họ đều là những người phụ trách các chi
tộc của họ, chỉ huy quân ngũ Ít-ra-en.
17
Ông
Mô-sê và ông A-ha-ron nhận những người vừa được chỉ định đích danh, 18 và
triệu tập toàn thể cộng đồng vào ngày mồng một tháng hai. Người ta xác định phổ
hệ theo thị tộc và gia tộc, lập danh sách những người đàn ông, từ hai mươi tuổi
trở lên, từng người một. 19 Như Ðức Chúa đã truyền cho ông, ông
Mô-sê kiểm tra họ trong sa mạc Xi-nai.
Cuộc
kiểm tra
20
Con
cháu Rưu-vên, trưởng nam của Ít-ra-en, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và
gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi
trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 21 những người được kiểm tra
thuộc chi tộc Rưu-vên, là 46,500.
22
Con
cháu Si-mê-ôn, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập
danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người
trong tuổi nhập ngũ; 23 những người được kiểm tra thuộc chi tộc
Si-mê-ôn, là 59,300.
24
Con
cháu Gát, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh
sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong
tuổi nhập ngũ; 25 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Gát, là
45,650.
26
Con
cháu Giu-đa, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh
sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong
tuổi nhập ngũ; 27 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Giu-đa, là
74,600.
28
Con
cháu Ít-xa-kha, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập
danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người
trong tuổi nhập ngũ; 29 những người được kiểm tra thuộc chi tộc
Ít-xa-kha, là 54,400.
30
Con
cháu Dơ-vu-lun, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập
danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người
trong tuổi nhập ngũ; 31 những người được kiểm tra thuộc chi tộc
Dơ-vu-lun, là 57,400.
32
Con
cháu Giu-se: thuộc chi tộc Ép-ra-im, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và
gia tộc, người ta lập danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi
trở lên, mọi người trong tuổi nhập ngũ; 33 những người được kiểm tra
thuộc chi tộc Ép-ra-im, là 40,500.
34
Còn
chi tộc Mơ-na-se, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập
danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người
trong tuổi nhập ngũ; 35 những người được kiểm tra thuộc chi tộc
Mơ-na-se, là 32,200.
36
Con
cháu Ben-gia-min, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập
danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người
trong tuổi nhập ngũ; 37 những người được kiểm tra thuộc chi tộc
Ben-gia-min, là 35,400.
38
Con
cháu Ðan, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh
sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong
tuổi nhập ngũ; 39 những người được kiểm tra thuộc chi tộc Ðan, là
62,700.
40
Con
cháu A-se, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập danh
sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người trong
tuổi nhập ngũ; 41 những người được kiểm tra thuộc chi tộc A-se, là
41,500.
42
Con
cháu Náp-ta-li, sau khi xác định phổ hệ theo thị tộc và gia tộc, người ta lập
danh sách từng người một, tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, mọi người
trong tuổi nhập ngũ; 43 những người được kiểm tra thuộc chi tộc
Náp-ta-li, là 53,400.
44
Ðó
là những người đã được ông Mô-sê và ông A-ha-ron kiểm tra cùng với mười hai
người phụ trách Ít-ra-en, mỗi người phụ trách gia tộc mình. 45 Tất
cả con cái Ít-ra-en đã được kiểm tra theo gia tộc của họ, từ hai mươi tuổi trở
lên, tất cả các chiến binh trong dân Ít-ra-en, 46 tổng số người được
kiểm tra, là 603,550.
Quy
chế các thầy Lê-vi
47
Còn
các thầy Lê-vi, vì quy chế chi tộc của mình, thì không được liệt kê vào số đó.
48
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 49 "Riêng chi tộc Lê-vi, ngươi sẽ
không kiểm tra và không liệt kê chung với con cái Ít-ra-en. 50 Nhưng
hãy đặt các thầy Lê-vi phụ trách Nhà Tạm Chứng Ước, cũng như mọi vật dụng và
tất cả những gì liên quan tới Nhà Tạm đó. Chính họ sẽ lo việc di chuyển Nhà Tạm
và mọi vật dụng, sẽ phục vụ và dựng lều chung quanh Nhà Tạm. 51 Khi
dời Nhà Tạm, các thầy Lê-vi sẽ hạ Nhà Tạm xuống, và lúc Nhà Tạm dừng lại thì họ
sẽ dựng Nhà Tạm lên. Còn ai khác mà tới gần sẽ phải chết. 52 Con cái
Ít-ra-en sẽ dựng lều, mỗi người nơi doanh trại mình, theo cờ hiệu của từng đoàn
quân. 53 Còn các thầy Lê-vi thì sẽ dựng lều chung quanh Nhà Tạm
Chứng Ước. Như thế thịnh nộ (của Ta) sẽ không giáng xuống cộng đồng con cái
Ít-ra-en. Các thầy Lê-vi sẽ phụ trách Nhà Tạm."
54
Con
cái Ít-ra-en đã thi hành tất cả mọi điều y như Ðức Chúa đã truyền cho ông
Mô-sê.
Chương 02
Thứ
tự các chi tộc
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 2 "Con cái
Ít-ra-en sẽ đóng trại, mỗi người theo cờ hiệu và huy hiệu của gia tộc mình.
Chúng sẽ đóng trại ở vòng ngoài, hướng về Lều Hội Ngộ.
3
Ðóng
ở phía đông, hướng mặt trời mọc, là cờ hiệu doanh trại Giu-đa theo đoàn quân
của chúng. Ðứng đầu con cháu Giu-đa là Nác-sôn, con Am-mi-na-đáp. 4 Ðoàn
quân của chúng, những người đã được kiểm tra, là 74,600.
5
Ðóng
trại bên cạnh chúng là chi tộc Ít-xa-kha. Ðứng đầu con cháu Ít-xa-kha là
Nơ-than-ên, con Xu-a. 6 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm
tra, là 54,400.
7
Tiếp
theo là chi tộc Dơ-vu-lun, đứng đầu là Ê-li-áp, con Khe-lôn. 8 Ðoàn
quân của chúng, những người được kiểm tra, là 57,400.
9
Tổng
số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Giu-đa là 186,400. Những người
này sẽ đi tuyến đầu.
10
Phía
nam là cờ hiệu doanh trại Rưu-vên theo đoàn quân của chúng. Ðứng đầu là
Ê-li-xua, con Sơ-đê-ua. 11 Ðoàn quân của chúng, những người được
kiểm tra, là 46,500.
12
Ðóng
trại bên cạnh chúng là chi tộc Si-mê-ôn. Ðứng đầu con cháu Si-mê-ôn là
Sơ-lu-mi-ên, con Xu-ri-sát-đai. 13 Ðoàn quân của chúng, những người
được kiểm tra, là 59,300.
14
Kế
đến là chi tộc Gát. Ðứng đầu con cháu Gát là En-gia-xáp, con Rơ-u-ên. 15 Ðoàn
quân của chúng, những người được kiểm tra, là 45,650.
16
Tổng
số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Rưu-vên là 151,450 theo đoàn quân
của chúng. Những người này sẽ đi tuyến hai.
17
Tiếp
đó Lều Hội Ngộ sẽ lên đường, cùng với doanh trại Lê-vi, đi giữa các doanh trại
khác. Ðóng trại theo thứ tự nào thì lên đường cũng theo thứ tự ấy, mỗi người cứ
giữ vị trí của mình, tuỳ theo cờ hiệu của mình.
18
Cờ
hiệu doanh trại Ép-ra-im theo đoàn quân của chúng sẽ nằm ở phía tây. Ðứng đầu
con cháu Ép-ra-im là Ê-li-sa-ma, con Am-mi-hút. 19 Ðoàn quân của
chúng, những người được kiểm tra, là 40,500.
20
Bên
cạnh chúng là chi tộc Mơ-na-se. Ðứng đầu con cháu Mơ-na-se là Gam-li-ên, con
Pơ-đa-xua. 21 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là
32,200.
22
Rồi
đến chi tộc Ben-gia-min. Ðứng đầu con cháu Ben-gia-min là A-vi-đan, con
Ghít-ô-ni. 23 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là
35,400.
24
Tổng
số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Ép-ra-im, là 108,100, tính theo
đoàn quân của chúng. Chúng sẽ đi tuyến ba.
25
Cờ
hiệu doanh trại Ðan theo đoàn quân của chúng sẽ nằm ở phía bắc. Ðứng đầu con
cháu Ðan là A-khi-e-de, con Am-mi-sát-đai. 26 Ðoàn quân của chúng,
những người được kiểm tra, là 62,700.
27
Ðóng
trại bên cạnh chúng là chi tộc A-se. Ðứng đầu con cháu A-se là Pác-i-ên, con
Oóc-ran. 28 Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là
41,500.
29
Kế
đến là chi tộc Náp-ta-li. Ðứng đầu con cháu Náp-ta-li là A-khi-ra, con Ê-nan. 30
Ðoàn quân của chúng, những người được kiểm tra, là 53,400.
31
Tổng
số những người được kiểm tra thuộc doanh trại Ðan là 157,600. Chúng sẽ đi tuyến
cuối cùng, theo cờ hiệu của mình."
32
Ðó
là con cái Ít-ra-en được kiểm tra theo gia tộc của họ. Tổng số những người được
kiểm tra, thuộc các doanh trại, theo đoàn quân của họ, là 603,550. 33 Riêng
các thầy Lê-vi, thì không phải kiểm tra cùng với con cái Ít-ra-en, như Ðức Chúa
đã truyền cho ông Mô-sê.
34
Con
cái Ít-ra-en đã thi hành tất cả mọi điều y như Ðức Chúa truyền cho ông Mô-sê.
Họ đóng trại theo cờ hiệu, và họ lên đường, mỗi người theo thị tộc và gia tộc
của mình.
Chương 03
Chi
tộc Lê-vi
A.
Các tư tế
1
Ðây
là dòng dõi ông A-ha-ron và ông Mô-sê vào thời Ðức Chúa phán với ông Mô-sê trên
núi Xi-nai.
2
Tên
các con ông A-ha-ron như sau: trưởng nam là Na-đáp, rồi đến A-vi-hu, E-la-da và
I-tha-ma. 3 Ðó là tên các con ông A-ha-ron, những tư tế đã được xức
dầu tấn phong để thi hành chức vụ tư tế. 4 Ông Na-đáp và ông A-vi-hu
đã chết trước nhan Ðức Chúa, vì đã dâng lửa phàm tục trước Thánh Nhan, khi còn
ở sa mạc Xi-nai; các ông không có con. Chỉ còn hai ông E-la-da và I-tha-ma thi
hành chức vụ tư tế trước mặt ông A-ha-ron, thân phụ các ông.
B.
Các thầy Lê-vi. Chức vụ của họ.
5
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 6 "Hãy gọi chi tộc Lê-vi lại và
đặt chúng túc trực bên cạnh tư tế A-ha-ron để giúp nó. 7 Chúng phải
đảm nhiệm công việc của nó, cũng như công việc của toàn thể cộng đồng trước Lều
Hội Ngộ, để lo phục dịch Nhà Tạm. 8 Chúng sẽ trông coi tất cả các
vật dụng trong Lều Hội Ngộ, đồng thời đảm nhiệm công việc của con cái Ít-ra-en,
để lo phục dịch Nhà Tạm. 9 Ngươi hãy trao các thầy Lê-vi cho
A-ha-ron và các con nó như những người được dâng hiến, những người được dâng
hiến mà con cái Ít-ra-en nộp cho nó. 10 Ngươi hãy đặt A-ha-ron và
các con nó đảm nhận chức vụ tư tế, còn ai khác mà tới gần sẽ phải chết."
C.
Tuyển chọn các thầy Lê-vi
11
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 12 "Ðây, chính Ta đã chọn các
thầy Lê-vi giữa con cái Ít-ra-en thay thế tất cả các trưởng nam, các con đầu
lòng trong số con cái Ít-ra-en, cho nên các thầy Lê-vi thuộc về Ta. 13 Thật
vậy, tất cả các con đầu lòng đều thuộc về Ta, từ ngày Ta đánh phạt tất cả các
con đầu lòng trong đất Ai-cập; Ta đã thánh hiến cho Ta tất cả các con đầu lòng
trong Ít-ra-en, của loài người cũng như của súc vật: chúng thuộc về Ta. Ta là
Ðức Chúa."
D.
Kiểm tra các thầy Lê-vi
14
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê trong sa mạc Xi-nai rằng: 15 "Hãy kiểm
tra con cái Lê-vi theo gia tộc và thị tộc, tất cả đàn ông con trai tuổi từ một
tháng trở lên, hãy ghi số.” 16 Vậy, ông Mô-sê đã kiểm tra họ theo
lệnh Ðức Chúa, như Người đã truyền cho ông. 17 Ðây là con cái Lê-vi
nêu đích danh: Ghéc-sôn, Cơ-hát, Mơ-ra-ri. 18 Và đây là tên con cái
Ghéc-sôn theo thị tộc: Líp-ni và Sim-y. 19 Con cái Cơ-hát theo thị
tộc là Am-ram và Gít-ha, Khép-rôn và Út-di-ên. 20 Con cái Mơ-ra-ri
theo thị tộc là Mác-li và Mu-si. Ðó là những thị tộc Lê-vi tính theo gia tộc
họ.
21
Về
phần Ghéc-sôn, có thị tộc Líp-ni và thị tộc Sim-y. Ðó là các thị tộc thuộc dòng
họ Ghéc-sôn. 22 Những người được kiểm tra, tính tất cả con trai của
họ, tuổi từ một tháng trở lên, là 7,500. 23 Các thị tộc thuộc dòng
họ Ghéc-sôn đóng trại đàng sau Nhà Tạm, ở phía tây. 24 Ðứng đầu dòng
họ Ghéc-sôn là En-gia-xáp, con La-ên. 25 Công việc của con cháu
Ghéc-sôn ở cửa Lều Hội Ngộ là trông coi Nhà Tạm và Lều, cũng như bạt che và bức
màn ở lối vào Lều Hội Ngộ, 26 cùng các tấm rèm che khuôn viên, bức
màn ở lối vào khuôn viên bao quanh Nhà Tạm và bàn thờ, cũng như các dây thừng
dùng vào việc phục dịch.
27
Về
phần Cơ-hát, có thị tộc Am-ram, thị tộc Gít-ha, thị tộc Khép-rôn và thị tộc
Út-di-ên. Ðó là các thị tộc thuộc dòng họ Cơ-hát. 28 Tổng cộng tất
cả con trai tuổi từ một tháng trở lên, là 8,300. Họ trông coi thánh điện. 29
Các thị tộc thuộc dòng họ Cơ-hát đóng trại bên cạnh Nhà Tạm, ở phía nam. 30
Ðứng đầu dòng họ Cơ-hát là Ê-li-xa-phan, con của Út-di-ên. 31 Công
việc của họ là trông coi Hòm Bia, bàn, trụ đèn, các bàn thờ, các đồ thờ dùng
trong thánh điện, bức màn, cũng như tất cả các dịch vụ liên hệ. 32 Ðứng
đầu các thủ lãnh của các thầy Lê-vi là ông E-la-da, con tư tế A-ha-ron. Ông
giám sát các nhân viên phụ trách công việc trong nơi thánh.
33
Về
phần Mơ-ra-ri, có thị tộc Mác-li và thị tộc Mu-si. Ðó là các thị tộc thuộc dòng
họ Mơ-ra-ri. 34 Những người được kiểm tra, tính tất cả các con trai
của họ, tuổi từ một tháng trở lên, là 6,200. 35 Ðứng đầu dòng họ
Mơ-ra-ri là Xu-ri-ên, con A-vi-kha-gin. Họ đóng trại bên cạnh Nhà Tạm, ở phía
bắc. 36 Công việc của con cháu Mơ-ra-ri là trông coi các tấm ván của
Nhà Tạm, các thanh ngang, các cột, đế, cũng như các đồ phụ thuộc và các dịch vụ
liên hệ, 37 cũng như các cột chung quanh khuôn viên cùng với các đế,
cọc và dây thừng.
38
Các
người đóng trại trước Nhà Tạm ở phía đông, nghĩa là trước Lều Hội Ngộ, hướng
mặt trời mọc, là ông Mô-sê, ông A-ha-ron và các con ông này, là những người có
trách nhiệm trông coi thánh điện thay cho con cái Ít-ra-en; còn ai khác mà tới
gần sẽ phải chết. 39 Tổng số những người được kiểm tra thuộc dòng họ
Lê-vi, những người ông Mô-sê và ông A-ha-ron đã theo lệnh Ðức Chúa mà kiểm tra
theo các thị tộc của họ, tất cả các con trai tuổi từ một tháng trở lên, là
22,000.
E.
Các người thuộc chi tộc Lê-vi. Chuộc các con đầu lòng.
40
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy kiểm tra tất cả các trưởng nam của con cái
Ít-ra-en, tuổi từ một tháng trở lên, và lập danh sách chúng. 41 Ta
là Ðức Chúa. Hãy dành các người Lê-vi cho Ta thay cho tất cả các trưởng nam
trong số con cái Ít-ra-en, và hãy dành súc vật của các người Lê-vi thay cho tất
cả các con vật đầu lòng trong đàn vật của con cái Ít-ra-en.” 42 Theo
như Ðức Chúa đã truyền, ông Mô-sê kiểm tra tất cả các con đầu lòng trong số con
cái Ít-ra-en. 43 Tổng số các trưởng nam được ghi tên để kiểm tra,
tuổi từ một tháng trở lên, là 22,273.
44
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 45 "Hãy lấy các người Lê-vi thay
cho các trưởng nam của con cái Ít-ra-en, và súc vật của các người Lê-vi thay
thế các súc vật của chúng: các người Lê-vi sẽ thuộc về Ta. Ta là Ðức Chúa. 46
Ðể làm giá chuộc 273 trưởng nam của con cái Ít-ra-en dôi hơn số người
Lê-vi, 47 ngươi sẽ lấy mỗi đầu người là mười lăm chỉ bạc, tính theo
đơn vị đo lường của thánh điện. 48 Ngươi sẽ đưa số bạc này cho
A-ha-ron và con cái ông làm tiền chuộc số người dôi ra kể trên."
49
Ông
Mô-sê đã nhận món tiền chuộc số người dôi ra mà các người Lê-vi không chuộc
thay. 50 Số bạc thu được của các trưởng nam trong số con cái
Ít-ra-en là mười bốn ký, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 51 Ông
Mô-sê đã trao số tiền chuộc cho ông A-ha-ron và con cái ông này theo lệnh Ðức
Chúa, như Người đã truyền.
Chương 04
Các
thị tộc Lê-vi
A.
Thị tộc Cơ-hát
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 2 "Ngươi hãy lập
danh sách con cháu Cơ-hát trong dòng họ Lê-vi theo thị tộc và gia tộc chúng, 3
tuổi từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những ai đến tuổi nhập ngũ,
để chúng phục vụ trong Lều Hội Ngộ.
4
Dịch
vụ của con cháu Cơ-hát trong Lều Hội Ngộ là phụ trách các đồ thờ cực thánh.
5
Khi
nhổ trại, A-ha-ron sẽ cùng với các con vào Lều, cuốn bức trướng mà phủ lên Hòm
Bia Chứng Ước. 6 Chúng sẽ trải lên đó tấm bạt bằng da cá heo, và
trên tấm bạt này sẽ phủ tấm vải toàn màu đỏ tía, rồi lắp các đòn khiêng vào.
7
Trên
bàn dâng tiến, chúng sẽ trải một tấm vải đỏ tía, rồi đặt lên đó các khay, ly,
chén và bình dùng trong lễ tưới rượu. Bánh thường tiến cũng phải có trên đó. 8
Chúng sẽ phủ lên một tấm vải đỏ thẫm và trải thêm tấm bạt da cá heo, rồi
lắp các đòn khiêng vào.
9
Chúng
sẽ lấy tấm vải đỏ tía mà phủ trụ đèn và đèn, kéo cắt bấc đèn, các đĩa đựng tàn,
tất cả các bình đựng dầu đèn. 10 Chúng sẽ để chân đèn cùng tất cả
các đồ phụ tùng vào một cái bao da cá heo và đặt lên cáng.
11
Trên
bàn thờ bằng vàng, chúng sẽ trải tấm vải đỏ tía và phủ thêm một tấm bạt da cá
heo, rồi lắp các đòn khiêng vào.
12
Chúng
sẽ lấy các đồ dùng vào việc thờ phượng nơi thánh điện, đem bọc trong tấm vải đỏ
tía, phủ thêm một tấm bạt da cá heo, rồi đặt lên cáng.
13
Sau
khi đã lấy tro khỏi bàn thờ và trải lên tấm vải điều, 14 chúng sẽ
đặt trên đó tất cả đồ dùng vào việc thờ phượng: bình hương, xiên, xẻng, bình
rảy, tất cả đồ phụ tùng của bàn thờ, phủ lên đó một tấm bạt bằng da cá heo, và
lắp các đòn khiêng vào.
15
Khi
A-ha-ron và các con đã hoàn thành việc che phủ thánh điện cùng tất cả các đồ
phụ tùng, lúc nhổ trại, thì các con của Cơ-hát sẽ đến khiêng đi; nhưng chúng sẽ
không được đụng tới các vật thánh, kẻo phải chết. Ðó là những gì con cái Cơ-hát
phải khiêng trong Lều Hội Ngộ. 16 Phận sự của E-la-da, con tư tế
A-ha-ron, là lo dầu đèn, hương thơm, lễ phẩm thường tiến, dầu tấn phong; nó
phải trông coi toàn bộ Nhà Tạm cùng mọi vật trong đó: các vật thánh và các đồ
phụ tùng."
17
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 18 "Các ngươi
đừng để cho dòng họ các thị tộc Cơ-hát bị xoá bỏ khỏi chi tộc Lê-vi. 19 Ðể
chúng được sống chứ không phải chết khi tới gần các vật cực thánh, các ngươi sẽ
xử với chúng như thế này: A-ha-ron và các con sẽ đến và đặt mỗi người trước cái
gì phải làm, trước cái gì phải khiêng vác. 20 Như vậy chúng sẽ không
vào mà nhìn các đồ thánh, dù một giây lát, để rồi phải chết."
B.
Thị tộc Ghéc-sôn
21
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 22 "Ngươi cũng hãy lập danh sách
con cháu Ghéc-sôn nữa theo gia tộc và thị tộc của chúng; 23 những
người tuổi từ ba mươi đến năm mươi, ngươi sẽ kiểm tra hết, nghĩa là tất cả
những ai đến tuổi nhập ngũ, để chúng phục vụ trong Lều Hội Ngộ. 24 Ðây
là dịch vụ mà các thị tộc Ghéc-sôn phải chu toàn: 25 chúng sẽ mang
các tấm thảm của Nhà Tạm và Lều Hội Ngộ, bạt che Lều, tức tấm bạt bằng da cá
heo phủ trên Lều, màn che cửa Lều Hội Ngộ, 26 các tấm rèm của khuôn
viên, màn che cửa khuôn viên nằm quanh Nhà Tạm và bàn thờ, các dây buộc, các đồ
dùng cần thiết cho dịch vụ của chúng, tóm lại tất cả những gì liên quan tới
dịch vụ ấy.
27
Con
cái Ghéc-sôn phải thi hành mọi dịch vụ khiêng vác cũng như phục dịch, dưới
quyền điều khiển của A-ha-ron và các con; các ngươi hãy giao cho chúng trông
coi tất cả những gì chúng phải khiêng vác. 28 Ðó là dịch vụ dành cho
các thị tộc con cái Ghéc-sôn trong Lều Hội Ngộ, và chúng làm việc dưới quyền
kiểm soát của I-tha-ma, con tư tế A-ha-ron.
C.
Thị tộc Mơ-ra-ri
29
Ngươi
hãy kiểm tra con cháu Mơ-ra-ri theo thị tộc và gia tộc của chúng, 30 tuổi
từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những ai đến tuổi nhập ngũ, để chúng
phục vụ trong Lều Hội Ngộ. 31 Ðây là những đồ vật chúng có trách
nhiệm phải khiêng vác liên quan đến dịch vụ của chúng trong Lều Hội Ngộ: khung
Nhà Tạm, cột, kèo và đế, 32 các cột chung quanh khuôn viên cùng các
đế, cọc đóng, dây thừng và tất cả đồ phụ tùng liên quan đến dịch vụ của chúng.
Vậy các ngươi hãy kê khai từng thứ một tất cả các đồ vật chúng có trách nhiệm
phải khiêng vác.
33
Ðó
là các dịch vụ dành cho các thị tộc con cái Mơ-ra-ri, dịch vụ mà chúng phải thi
hành trong Lều Hội Ngộ, dưới quyền kiểm soát của I-tha-ma, con tư tế
A-ha-ron."
Kiểm
tra chi tộc Lê-vi
34
Ông
Mô-sê cùng với ông A-ha-ron và các vị lãnh đạo cộng đồng đã kiểm tra con cháu
Cơ-hát theo thị tộc và gia tộc họ, 35 tuổi từ ba mươi đến năm mươi,
nghĩa là tất cả những người đến tuổi nhập ngũ, để họ phục dịch trong Lều Hội
Ngộ. 36 Tổng số người được kiểm tra, tính theo thị tộc, là 2,750. 37
Ðó là số những người trong thị tộc Cơ-hát được kiểm tra, tất cả những
người phục vụ trong Lều Hội Ngộ, mà ông Mô-sê và ông A-ha-ron đã kiểm tra theo
lệnh Ðức Chúa đã truyền qua ông Mô-sê.
38
Số
con cháu Ghéc-sôn được kiểm tra theo thị tộc và gia đình tổ tiên họ, 39 tuổi
từ ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những người đến tuổi nhập ngũ, để phục
vụ trong Lều Hội Ngộ, 40 tổng số những người được kiểm tra, theo thị
tộc và gia tộc họ, là 2,630. 41 Ðó là số con cháu Ghéc-sôn được kiểm
tra theo thị tộc, tất cả những người phục vụ trong Lều Hội Ngộ: ông Mô-sê cùng
với ông A-ha-ron kiểm tra họ theo lệnh Ðức Chúa.
42
Các
con cháu Mơ-ra-ri được kiểm tra theo thị tộc và gia tộc, 43 tuổi từ
ba mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những ai đến tuổi nhập ngũ, để phục vụ
trong Lều Hội Ngộ, 44 tổng số những người được kiểm tra, tính theo
thị tộc của họ, là 3,200. 45 Ðó là các thị tộc con cháu Mơ-ra-ri, mà
ông Mô-sê đã cùng với ông A-ha-ron kiểm tra theo lệnh Ðức Chúa đã truyền qua
ông Mô-sê.
46
Tổng
số những người Lê-vi mà ông Mô-sê cùng với ông A-ha-ron và các vị lãnh đạo
Ít-ra-en đã kiểm tra theo thị tộc và gia tộc của họ, 47 tuổi từ ba
mươi đến năm mươi, nghĩa là tất cả những người đến tuổi phục dịch và khiêng vác
trong Lều Hội Ngộ, 48 tổng số những người được kiểm tra là 8,580. 49
Theo lệnh Ðức Chúa truyền qua ông Mô-sê, người ta kiểm tra họ, chỉ định
cho mỗi người việc phải làm và đồ vật phải khiêng vác. Thế là họ được kiểm tra
như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
Chương 05
Loại
trừ những người nhiễm uế
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Hãy truyền cho con cái
Ít-ra-en phải đuổi ra khỏi trại mọi người phong hủi, mọi kẻ mắc bệnh lậu, mọi
người nhiễm uế vì xác chết: 3 Các ngươi phải đuổi chúng, bất kể đàn
ông hay đàn bà, các ngươi phải đuổi ra khỏi trại, kẻo chúng làm ô uế trại, nơi
Ta cư ngụ ở giữa chúng."
4
Con
cái Ít-ra-en đã làm như thế: họ đã đuổi những người ấy ra khỏi trại. Con cái
Ít-ra-en đã làm như Ðức Chúa đã phán với ông Mô-sê.
Luật
bồi hoàn
5
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 6 "Ngươi hãy nói với con cái
Ít-ra-en: "Phàm ai, đàn ông hay đàn bà, vì bất trung với Ðức Chúa, mà phạm
một trong những tội người ta quen phạm, thì con người ấy phải chịu phạt.
7
Nó
phải xưng thú tội mình đã phạm và đền bù đầy đủ, ngoài ra còn phải trả thêm một
phần năm nữa cho người mình đã làm thiệt hại.
8
Nếu
người này không có bà con gần để lãnh của bồi thường thiệt hại, thì vật bồi
thường sẽ thuộc về Ðức Chúa, tức là thuộc về tư tế, chưa kể con dê xá tội phải
dâng để làm nghi thức xá tội cho người mắc lỗi.
9
Mọi
của trích dâng và mọi hiến vật mà con cái Ít-ra-en dâng cho tư tế đều thuộc về
tư tế. 10 Hiến vật của ai thì thuộc về người ấy; còn nếu đã dâng cho
tư tế thì là của tư tế."
Luật
về chuyện ghen tuông
11
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 12 "Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en
và bảo chúng: Nếu ai bị vợ mất nết phản bội, 13 nghĩa là có người
nằm với người đàn bà ấy mà người chồng không biết; và người vợ đã bí mật thất
tiết mà không có ai làm chứng cáo tội, không bắt được quả tang; 14 hoặc
người chồng nổi máu ghen và ghen tức vợ đã thực sự thất tiết, hoặc nổi máu ghen
và ghen tức vợ mà thật ra vợ đã không thất tiết, 15 thì bấy giờ
người chồng phải dẫn vợ đến gặp tư tế, mà tiến dâng bốn lít rưỡi bột lúa mạch
vì chuyện vợ mình; nhưng không rưới dầu lên trên và cũng không đổ hương vào,
bởi đó là lễ phẩm dâng vì ghen tuông, lễ phẩm để tố cáo tội lỗi.
16
Tư
tế sẽ đưa người đàn bà đến đứng trước nhan Ðức Chúa, 17 và lấy một
bình sành đựng nước thánh, rồi lấy chút bụi trên nền Nhà Tạm bỏ vào nước. 18
Sau đó, tư tế đặt người đàn bà đứng trước nhan Ðức Chúa và lột khăn trùm
đầu nó ra, rồi đặt lên hai bàn tay nó lễ phẩm tố cáo, nghĩa là lễ phẩm vì ghen
tuông; đồng thời tay tư tế cầm bình nước chỉ sự đắng cay và nguyền rủa. 19
Bấy giờ tư tế sẽ buộc người đàn bà thề và nói với nó rằng: "Nếu đã
không có người đàn ông nào nằm với chị và nếu chị đã không mất nết mà thất tiết
khi chị đang có chồng, thì nước đắng cay và nguyền rủa này sẽ vô hại cho chị. 20
Còn nếu chị có chồng mà mất nết và đã thất tiết với chồng, vì một người
đàn ông khác, không phải là chồng chị, đã cho chị nằm với nó - 21 tư tế buộc
người đàn bà thề độc và nói với nó - Xin Ðức Chúa làm cho dạ chị héo đi, bụng
chị sình lên, khiến giữa đồng bào chị, chị thành đề tài cho người ta nguyền rủa
và chúc dữ cho nhau. 22 Xin cho nước đắng cay này ngấm vào nội tạng
chị, khiến bụng chị sình lên và dạ chị héo đi. Người đàn bà ấy sẽ thưa:
"A-men. A-men."
23
Tư
tế viết những lời nguyền rủa ấy vào giấy và cho nhoà đi trong nước đắng cay, 24
rồi bắt người đàn bà phải uống nước đắng cay và nguyền rủa đó; nước
nguyền rủa sẽ ngấm vào người ấy để gây ra cay đắng. 25 Tư tế sẽ nhận
lấy từ tay người đàn bà lễ phẩm vì ghen tuông, làm nghi thức trước nhan Ðức
Chúa và đặt trên bàn thờ. 26 Tư tế sẽ bốc một nắm từ lễ phẩm đó, làm
phần truy tưởng, mà đốt trên bàn thờ.
27
Tư
tế cho nó uống nước rồi, nếu thật nó đã thất tiết và phản bội chồng, thì nước
nguyền rủa sẽ ngấm vào nó để gây ra cay đắng, và tạng phủ nó sẽ sình lên, dạ nó
héo đi. Giữa đồng bào, người đàn bà đó sẽ thành đề tài nguyền rủa. 28 Nếu
người đàn bà đó đã không thất tiết, nhưng vẫn trong sạch, thì sẽ không bị hại
và sẽ sinh con.
29
Ðó
là luật về chuyện ghen tuông, khi một người đàn bà có chồng mà mất nết và đã
thất tiết với chồng, 30 hoặc khi người đàn ông nổi máu ghen và ghen
tức vợ mình: thì người chồng phải đặt vợ trước nhan Ðức Chúa, và tư tế phải áp
dụng đầy đủ luật này. 31 Người chồng sẽ vô can, còn người đàn bà sẽ
mang lấy tội mình."
Chương 06
Luật
về lời khấn na-dia
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Ngươi hãy nói với con cái
Ít-ra-en và bảo chúng:
3
thì
nó phải kiêng rượu và men nồng: không được uống giấm chua từ chất rượu cũng như
giấm chua từ chất men, không được uống mọi thứ nước nho, không được ăn nho tươi
cũng như nho khô. 4 Suốt thời gian nó bị ràng buộc bởi lời khấn đó,
thì bất cứ thứ gì chiết xuất tự cây nho, từ hột nho cho đến vỏ nho, nó cũng
không được ăn. 5 Suốt thời gian nó bị ràng buộc bởi lời khấn, dao
cạo không được đụng đến đầu nó; bao lâu chưa mãn thời kỳ khấn đặc biệt để kính
Ðức Chúa, thì nó sẽ là người được thánh hiến: nó phải để cho tóc trên đầu mọc
tự nhiên. 6 Suốt thời kỳ khấn đặc biệt để kính Ðức Chúa, nó không
được tới gần xác chết. 7 Dù là cha mẹ hay anh chị em nó chết, nó
cũng không được để cho mình nhiễm uế, bởi vì nó mang trên đầu lời khấn na-dia
kính Thiên Chúa. 8 Suốt thời kỳ khấn đặc biệt, nó sẽ là người được
thánh hiến cho Ðức Chúa.
9
Nếu
có ai chết bất ngờ bên cạnh nó, khiến cho đầu na-dia của nó bị nhiễm uế, thì nó
phải cạo đầu trong ngày tẩy uế; ngày thứ bảy nó sẽ cạo đầu. 10 Ngày
thứ tám nó sẽ mang một cặp chim gáy hay một cặp bồ câu trao cho tư tế ở cửa Lều
Hội Ngộ. 11 Tư tế sẽ dâng một con làm lễ tạ tội, một con làm lễ toàn
thiêu, và sẽ làm nghi thức xá tội ô uế nó mắc phải vì người chết. Chính hôm đó
nó sẽ thánh hiến đầu mình, 12 nó sẽ lại khấn đặc biệt kiêng giữ để
kính Ðức Chúa và đưa một con chiên một tuổi tới làm lễ vật đền tội. Thời gian
trước đó không được kể vì lời khấn na-dia đã bị vi phạm.
13
Và
đây là luật về người khấn na-dia: trong ngày mãn thời kỳ khấn na-dia, nó sẽ vào
cửa Lều Hội Ngộ 14 và đem lễ tiến dâng Ðức Chúa: một chiên đực một tuổi, toàn
vẹn, làm lễ toàn thiêu, một chiên cái một tuổi, toàn vẹn, làm lễ tạ tội, một con
dê đực toàn vẹn làm lễ kỳ an, 15 một rổ bánh không men làm bằng tinh
bột nhào dầu, bánh tráng không men tẩm dầu, cùng với các lễ phẩm ngũ cốc và
rượu tế kèm theo. 16 Tư tế sẽ đưa những lễ vật ấy tới trước nhan Ðức
Chúa để dâng lễ tạ tội và lễ toàn thiêu của nó. 17 Con chiên đực,
ông sẽ sát tế để làm lễ kỳ an kính Ðức Chúa cùng với rổ bánh không men, đồng
thời tư tế cũng dâng lễ phẩm ngũ cốc và rượu tế. 18 Người na-dia sẽ
cạo đầu trước cửa Lều Hội Ngộ theo lời khấn, và lấy tóc đã được thánh hiến của
mình mà bỏ vào lửa đang cháy dưới của lễ kỳ an. 19 Khi bả vai của
con dê đã chín, thì tư tế lấy bả vai đó, cùng với một chiếc bánh không men
trong rổ và một bánh tráng không men, và đặt các thứ đó vào tay người na-dia,
sau khi người này đã cạo đầu theo lời khấn. 20 Rồi tư tế tiến dâng
các thứ ấy trước nhan Ðức Chúa, theo nghi thức: đó là của thánh dành cho tư tế,
không kể cái ức đã được tiến dâng theo nghi thức và phần đùi được giữ lại. Từ
đó, người na-dia được phép uống rượu.
21
Ðó
là luật về người khấn na-dia. Lễ tiến của nó dâng cho Ðức Chúa phải theo đúng
lời khấn na-dia, ngoài ra nó có thể tuỳ khả năng mình mà dâng thêm. Nó đã khấn
theo luật na-dia thế nào, thì phải giữ như vậy."
Công
thức chúc lành
22
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 23 "Hãy nói với A-ha-ron và các con nó
rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en, anh em hãy nói thế này:
24
"Nguyện
Ðức Chúa chúc lành và gìn giữ anh (em)!
25
Nguyện
Ðức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh (em) và dủ lòng thương anh (em)!
26
Nguyện
Ðức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh (em)!
Chương 07
III.
Tế Phẩm Của Những Người Ðứng Ðầu Các Chi Tộc
Và
Nghi Thức Tấn Phong Các Thầy Lê-Vi
Dâng
các cỗ xe
1
Ngày
ông Mô-sê hoàn thành việc dựng Nhà Tạm, ông xức dầu và thánh hiến nhà ấy cùng
với tất cả các vật dụng, bàn thờ và mọi đồ dùng. Khi ông đã xức dầu và thánh
hiến tất cả, 2 thì các người đứng đầu Ít-ra-en đã dâng lễ vật; họ là
các gia trưởng, những người đứng đầu các chi tộc và phụ trách việc kiểm tra. 3
Lễ tiến họ dâng trước nhan Ðức Chúa là sáu cỗ xe kiệu và mười hai con bò,
cứ hai người dâng một cỗ xe và mỗi người một con bò. Họ đem dâng những thứ đó
trước Nhà Tạm. 4 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 5 "Ngươi
hãy nhận các vật chúng dâng để sung vào việc phục dịch Lều Hội Ngộ; ngươi sẽ
trao các thứ ấy cho các thầy Lê-vi, theo dịch vụ của mỗi người.” 6 Vậy
ông Mô-sê đã nhận xe và bò, rồi trao cho các thầy Lê-vi: 7 hai cỗ xe
và bốn con bò cho các con ông Ghéc-sôn theo dịch vụ của họ; 8 còn
bốn cỗ xe và tám con bò kia, thì trao cho các con ông Mơ-ra-ri, theo dịch vụ
của họ dưới quyền kiểm soát của ông I-tha-ma, con tư tế A-ha-ron. 9 Phần
các con ông Cơ-hát, thì ông Mô-sê không cho gì cả, vì dịch vụ của họ là khiêng
các đồ thờ trên vai.
Lễ
vật trong nghi thức cung hiến
10
Các
người đứng đầu còn tiến dâng lễ vật để cử hành nghi thức cung hiến bàn thờ,
trong ngày bàn thờ được xức dầu. Các người đứng đầu tiến dâng lễ vật của họ lên
trước bàn thờ. 11 Và Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Mỗi ngày,
một trong số những người đứng đầu phải dâng lễ tiến để cử hành nghi thức cung
hiến bàn thờ."
12
Người
tiến dâng lễ vật ngày đầu tiên là ông Nác-sôn, con ông Am-mi-na-đáp, thuộc chi
tộc Giu-đa. 13 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký
ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh
điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 14 một chén
bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 15 một con bò mộng, một con chiên
đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 16 một con
dê đực làm lễ tạ tội; 17 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm
con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà
ông Nác-sôn, con ông Am-mi-na-đáp, đã dâng.
18
Ngày
thứ hai, người đem dâng lễ vật là ông Nơ-than-ên, con ông Xu-a, đứng đầu
Ít-xa-kha. 19 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký
ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh
điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 20 một chén
bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 21 một con bò mộng, một con chiên
đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 22 một con
dê đực làm lễ tạ tội; 23 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm
con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà
ông Nơ-than-ên, con ông Xu-a, đã dâng.
24
Ngày
thứ ba, người đem dâng lễ vật là ông Ê-li-áp, con ông Khe-lôn, đứng đầu con cái
Dơ-vu-lun. 25 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký
ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng, - tính theo đơn vị đo lường của thánh
điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 26 một chén
bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 27 một con bò mộng, một con chiên
đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 28 một con
dê đực làm lễ tạ tội; 29 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm
con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến ông
Ê-li-áp, con ông Khe-lôn, đã dâng.
30
Ngày
thứ bốn, người đem dâng lễ vật là ông Ê-li-xua, con ông Sơ-đê-ua, đứng đầu con
cái Rưu-vên. 31 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một
ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của
thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 32 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 33 một con bò mộng, một con
chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 34 một
con dê đực làm lễ tạ tội; 35 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò,
năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến
mà ông Ê-li-xua, con ông Sơ-đê-ua, đã dâng.
36
Ngày
thứ năm, người đem dâng lễ vật là ông Sơ-lu-mi-ên, con ông Xu-ri-sát-đai, đứng
đầu con cái Si-mê-ôn. 37 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân
nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường
của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 38 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 39 một con bò mộng, một con
chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 40 một
con dê đực làm lễ tạ tội; 41 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò,
năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến
mà ông Sơ-lu-mi-en, con ông Xu-ri-sát-đai, đã dâng.
42
Ngày
thứ sáu, người đem dâng lễ vật là ông En-gia-xáp, con ông Rơ-u-ên, đứng đầu con
cái Gát. 43 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng một ký
ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của thánh
điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 44 một chén
bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 45 một con bò mộng, một con chiên
đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 46 một con
dê đực làm lễ tạ tội; 47 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm
con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà
ông En-gia-xáp, con ông Rơ-u-ên, đã dâng.
48
Ngày
thứ bảy, người đem dâng lễ vật là ông Ê-li-sa-ma, con ông Am-mi-hút, đứng đầu
con cái Ép-ra-im. 49 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng
một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của
thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 50 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 51 một con bò mộng, một con
chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 52 một
con dê đực làm lễ tạ tội; 53 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò,
năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến
mà ông Ê-li-sa-ma, con ông Am-mi-hút, đã dâng.
54
Ngày
thứ tám, người đem dâng lễ vật là ông Gam-li-ên, con ông Pơ-đa-xua, đứng đầu
con cái Mơ-na-se. 55 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng
một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của
thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 56 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 57 một con bò mộng, một con
chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 58 một
con dê đực làm lễ tạ tội; 59 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò,
năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến
mà ông Gam-li-ên, con ông Pơ-đa-xua, đã dâng.
60
Ngày
thứ chín, người đem dâng lễ vật là ông A-vi-đan, con ông Ghít-ô-ni, đứng đầu
con cái Ben-gia-min. 61 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân
nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường
của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 62 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 63 một con bò mộng, một con
chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 64 một
con dê đực làm lễ tạ tội; 65 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò,
năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến
mà ông A-vi-đan, con ông Ghít-ô-ni, đã dâng.
66
Ngày
thứ mười, người đem dâng lễ vật là ông A-khi-e-de, con ông Am-mi-sát-đai, đứng
đầu con cái Ðan. 67 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng
một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng -tính theo đơn vị đo lường của
thánh điện-, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 68 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 69 một con bò mộng, một con
chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 70 một
con dê đực làm lễ tạ tội; 71 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò,
năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến
mà ông A-khi-e-de, con ông Am-mi-sát-đai, đã dâng.
72
Ngày thứ mười một, người đem dâng lễ vật là ông Pác-i-ên, con ông Oóc-ran, đứng
đầu con cái A-se. 73 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân nặng
một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường của
thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 74 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 75 một con bò mộng, một con
chiên đực và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 76 một
con dê đực làm lễ tạ tội; 77 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò,
năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến
mà ông Pác-i-ên, con ông Oóc-ran, đã dâng.
78
Ngày thứ mười hai, người đem dâng lễ vật là ông A-khi-ra, con ông Ê-nan, đứng
đầu con cái Náp-ta-li. 79 Lễ tiến ông dâng là một khay bằng bạc cân
nặng một ký ba, một bình rảy bằng bạc nặng bảy lạng - tính theo đơn vị đo lường
của thánh điện -, cả hai đựng đầy tinh bột nhào dầu làm lễ phẩm, 80 một
chén bằng vàng ba lượng đầy hương thơm, 81 một con bò mộng, một con chiên đực
và một con chiên con một tuổi làm lễ vật toàn thiêu, 82 một con dê đực làm lễ
tạ tội; 83 và để làm lễ kỳ an thì dâng hai con bò, năm con chiên đực, năm con
dê đực và năm con chiên con một tuổi. Ðó là lễ tiến mà ông A-khi-ra, con ông
Ê-nan, đã dâng.
84
Trên đây là những lễ vật các người đứng đầu Ít-ra-en dâng cúng để cử hành nghi
thức cung hiến bàn thờ trong ngày bàn thờ được xức dầu: mười hai khay bằng bạc,
mười hai bình rảy bằng bạc, mười hai chén bằng vàng. 85 Mỗi khay nặng một ký
ba, và mỗi bình rảy là bảy lạng. Tất cả các vật dụng bằng bạc ấy cân nặng hai
mươi bốn ký tính theo đơn vị đo lường của thánh điện. 86 Mười hai chén bằng
vàng đựng đầy hương thơm, mỗi chén ba lượng vàng, tính theo đơn vị đo lường của
thánh điện. Tất cả các chén bằng vàng ấy cân nặng một ký hai.
87
Tổng số súc vật làm lễ toàn thiêu là: mười hai bò mộng, mười hai chiên đực,
mười hai chiên con một tuổi cùng với lễ phẩm bằng ngũ cốc kèm theo, mười hai
con dê đực làm lễ tạ tội. 88 Và tổng số súc vật làm lễ kỳ an là: hai mươi bốn
bò mộng, sáu mươi chiên đực, sáu mươi dê đực, sáu mươi chiên con một tuổi. Ðó
là những lễ vật dùng trong nghi thức cung hiến bàn thờ sau khi xức dầu bàn thờ.
89
Khi ông Mô-sê vào Lều Hội Ngộ để đàm đạo với Ðức Chúa, thì ông nghe có tiếng
nói với ông từ phía trên nắp xá tội, tức là nắp đậy Hòm Bia Chứng Ước, từ giữa
hai thần hộ giá. Và ông đã đàm đạo với Người.
Chương 08
Các
ngọn đèn trên trụ đèn
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Hãy nói với A-ha-ron và bảo
nó: khi thắp đèn lên thì bảy ngọn đèn phải toả sáng về phía trước trụ đèn.” 3
Ông A-ha-ron đã làm như thế, ông đã thắp đèn hướng về phía trước trụ đèn,
như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 4 Trụ đèn được làm như sau:
làm bằng vàng gò, từ thân trụ cho tới các nhánh đều được gò. Ông Mô-sê đã làm
trụ đèn theo mẫu Ðức Chúa đã cho ông thấy.
Các
thầy Lê-vi được dâng cho Ðức Chúa
5
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 6 "Hãy đưa các thầy Lê-vi ra khỏi
đám con cái Ít-ra-en mà thanh tẩy chúng. 7 Ngươi sẽ làm thế này để
thanh tẩy chúng: Hãy rảy nước xá tội trên chúng; chúng sẽ cạo toàn thân, giặt
sạch áo mà thanh tẩy mình. 8 Chúng sẽ lấy một con bò mộng và tinh
bột nhào dầu làm lễ phẩm, còn ngươi thì sẽ lấy một con bò mộng nữa làm của lễ
tạ tội.
9
Rồi
ngươi sẽ đưa các thầy Lê-vi tới trước Lều Hội Ngộ và tập họp toàn thể cộng đồng
con cái Ít-ra-en lại. 10 Ngươi sẽ dẫn các thầy Lê-vi tới trước nhan
Ðức Chúa, và con cái Ít-ra-en sẽ đặt tay trên chúng. 11 A-ha-ron sẽ
thay mặt con cái Ít-ra-en làm nghi thức tiến dâng các thầy Lê-vi lên trước nhan
Ðức Chúa, và chúng sẽ sung vào việc phục vụ Ðức Chúa.
12
Sau
đó các thầy Lê-vi sẽ đặt tay lên đầu các con bò mộng. Ngươi sẽ dâng một con làm
của lễ tạ tội, và một con làm của lễ toàn thiêu dâng Ðức Chúa để xin ơn xá tội
cho các thầy Lê-vi. 13 Ngươi sẽ đặt các thầy Lê-vi đứng trước mặt
A-ha-ron và các con ông, rồi tiến dâng chúng cho Ðức Chúa, theo nghi thức. 14
Như thế, ngươi sẽ tách rời các thầy Lê-vi ra khỏi con cái Ít-ra-en: chúng
sẽ thuộc về Ta. 15 Sau đó các thầy Lê-vi sẽ vào phục vụ Lều Hội Ngộ.
16
Thật
vậy, chúng được dâng hiến, được dâng hiến cho Ta, từ giữa con cái Ít-ra-en. Ta
đã chọn chúng làm của riêng Ta, thay thế tất cả các con đầu lòng, các trưởng
nam của con cái Ít-ra-en. 17 Thật vậy, tất cả các con đầu lòng trong
số con cái Ít-ra-en, của loài người cũng như của súc vật đều thuộc về Ta. Ngày
Ta đánh phạt tất cả các con đầu lòng trong đất Ai-cập, Ta đã thánh hiến chúng
cho Ta, 18 và Ta đã nhận các thầy Lê-vi thay thế tất cả các con đầu
lòng trong con cái Ít-ra-en. 19 Trong số con cái Ít-ra-en, Ta đã
trao các thầy Lê-vi cho A-ha-ron và cho con cái nó, như những người được dâng
hiến để sung vào việc phục dịch của con cái Ít-ra-en trong Lều Hội Ngộ, và để
cử hành lễ xá tội cho con cái Ít-ra-en; như thế trong con cái Ít-ra-en sẽ không
xảy ra tai hoạ phạt kẻ tới gần nơi thánh."
20
Ðối
với các thầy Lê-vi, ông Mô-sê và ông A-ha-ron cùng toàn thể cộng đồng con cái
Ít-ra-en đã thi hành đúng mọi điều Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê về họ; con
cái Ít-ra-en đã thi hành như thế đối với họ. 21 Các thầy Lê-vi đã
thanh tẩy mình và giặt áo; ông A-ha-ron đã cử hành nghi thức trên dâng họ trước
nhan Ðức Chúa, và đã làm lễ xá tội cho họ để thanh tẩy họ. 22 Sau đó
các thầy Lê-vi đã vào làm việc phục dịch trong Lều Hội Ngộ, trước mặt ông
A-ha-ron và các con. Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê thế nào về các thầy
Lê-vi, thì người ta đã thi hành như thế đối với họ.
Thời
gian phục vụ của các thầy Lê-vi
23
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 24 "Ðây là những điều liên quan
tới các thầy Lê-vi. Từ hai mươi lăm tuổi trở lên, mỗi người phải vào thi hành
nghĩa vụ phục dịch Lều Hội Ngộ, 25 và từ năm mươi tuổi thì được về
hưu, không phải phục dịch nữa. 26 Người ấy sẽ giúp anh em chu toàn
nhiệm vụ trong Lều Hội Ngộ, còn nhiệm vụ của mình thì không phải thi hành nữa.
Ngươi sẽ bố trí công việc cho các thầy Lê-vi như thế."
Chương 09
IV.
Lễ Vượt Qua Và Cuộc Lên Ðường
Ngày
ăn mừng lễ Vượt Qua
1
Tháng
giêng năm thứ hai từ khi ra khỏi đất Ai-cập, Ðức Chúa phán với ông Mô-sê trong
sa mạc Xi-nai rằng: 2 "Con cái Ít-ra-en phải mừng lễ Vượt Qua
vào thời gian quy định. 3 Ngày mười bốn tháng này, lúc chập tối, các
ngươi sẽ mừng lễ ấy vào giờ quy định, các ngươi sẽ cứ điều luật và tục lệ mà cử
hành lễ ấy."
4
Vậy
ông Mô-sê đã nói với con cái Ít-ra-en phải cử hành lễ Vượt Qua; 5 và
họ đã cử hành lễ Vượt Qua vào tháng giêng, ngày mười bốn, lúc chập tối, trong
sa mạc Xi-nai. Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê thế nào, thì con cái Ít-ra-en
đã thi hành như thế.
Trường
hợp đặc biệt
6
Có
những người nhiễm uế vì đụng đến xác chết, không thể mừng lễ Vượt Qua ngày hôm
ấy. Ngay hôm ấy, họ đã đến gặp ông Mô-sê và ông A-ha-ron, 7 và thưa
với các ông rằng: "Chúng tôi bị nhiễm uế vì đụng đến xác chết, tại sao
chúng tôi bị cấm không được dâng lễ tiến lên Ðức Chúa vào thời gian quy định,
cùng với con cái Ít-ra-en?” 8 Ông Mô-sê nói với họ: "Anh em cứ
đứng đó, để tôi đi thỉnh ý Ðức Chúa xem Người có dạy gì về anh em."
9
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 10 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en:
11
Tháng
thứ hai, ngày mười bốn lúc chập tối, chúng sẽ mừng lễ đó. Chúng sẽ ăn chiên
Vượt Qua với bánh không men và rau đắng. 12 Chúng sẽ không để gì
thừa lại cho đến sáng hôm sau, và cũng không được làm giập gẫy một xương nào
của nó; chúng sẽ mừng lễ Vượt Qua theo đúng mọi điều luật về lễ ấy. 13 Còn
người nào vẫn trong sạch, lại không đi xa, mà bỏ không mừng lễ Vượt Qua, thì
người đó sẽ bị khai trừ khỏi đồng bào mình, vì nó đã không dâng lễ tiến lên Ðức
Chúa vào thời đã quy định; nó phải mang lấy tội mình.
14
Nếu
một ngoài kiều cư ngụ với các ngươi, mà mừng lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa, thì nó
cũng phải cứ theo điều luật và tục lệ về lễ Vượt Qua mà cử hành; chỉ có một
điều luật chung, cho các ngươi, ngoại kiều cũng như người bản xứ."
Cột
mây (Xh 40:34-38)
15
Trong
ngày dựng Nhà Tạm, có mây che phủ Nhà Tạm và Lều Chứng Ước, nhưng đêm đến thì
trông như lửa trên Nhà Tạm cho tới sáng. 16 Cứ xảy ra liên tục như
thế: mây che phủ Nhà Tạm ban ngày, đêm thì trông như lửa.
17
Mỗi
lần mây bốc lên cao khỏi Lều, thì con cái Ít-ra-en nhổ trại, và nơi nào mây đậu
lại, thì ở đó con cái Ít-ra-en đóng trại. 18 Cứ lệnh Ðức Chúa mà con
cái Ít-ra-en lên đường, và cứ lệnh Ðức Chúa mà họ đóng trại; bao lâu mây đậu
lại trên Nhà Tạm, thì họ tiếp tục đóng trại. 19 Khi mây đậu trên Nhà
Tạm lâu ngày, thì con cái Ít-ra-en giữ y như điều Ðức Chúa truyền và không nhổ
trại lên đường. 20 Có khi mây chỉ đậu ít ngày trên Nhà Tạm, thì họ
cũng cứ lệnh Ðức Chúa mà đóng trại, và cứ lệnh Ðức Chúa mà nhổ trại lên đường. 21
Có khi mây đậu lại từ chiều tối tới sáng, và ban sáng khi mây bốc lên,
thì lúc đó họ nhổ trại lên đường. 22 Nếu mây lưu lại trên Nhà Tạm
hai ngày, hoặc một tháng hay mấy ngày thôi, thì con cái Ít-ra-en cũng cứ theo
đó mà đóng trại, chứ không nhổ trại lên đường; rồi khi mây bốc lên, họ mới nhổ
trại lên đường. 23 Cứ lệnh Ðức Chúa họ đóng trại, và cứ lệnh Ðức
Chúa họ nhổ trại; Ðức Chúa buộc giữ thế nào, thì họ tuân giữ như thế, theo lệnh
Ðức Chúa truyền qua ông Mô-sê.
Chương 10
Kèn
bạc
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 2 "Ngươi hãy làm hai chiếc kèn,
làm bằng bạc gò, để dùng mà triệu tập cộng đồng và nhổ trại. 3 Khi
các kèn thổi, thì toàn thể cộng đồng tập họp lại bên ngươi, tại cửa Lều Hội Ngộ.
4 Nếu thổi một chiếc, thì các kỳ mục, những người đứng đầu các thị
tộc Ít-ra-en, sẽ tập họp lại bên ngươi.
5
Khi
các ngươi thổi kèn báo động, thì các trại nằm ở phía đông sẽ lên đường. 6 Khi
các ngươi thổi kèn báo động lần thứ hai, thì các trại ở phía nam sẽ lên đường.
Kèn báo động sẽ nổi lên mỗi khi phải nhổ trại lên đường. 7 Còn khi triệu
tập đại hội, thì thổi kèn, mà không được báo động. 8 Các con trai
của A-ha-ron, là các tư tế, sẽ thổi kèn. Và đó là điều luật vĩnh viễn cho các
ngươi và cho dòng dõi các ngươi.
9
Khi
các ngươi xuất trận, trong đất nước các ngươi, chống lại kẻ thù tấn công, các
ngươi sẽ thổi kèn báo động, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, sẽ nhớ đến
các ngươi và cứu các ngươi khỏi quân thù. 10 Trong ngày vui mừng của
các ngươi, cũng như trong các đại lễ đã quy định, và các tuần trăng mới, các
ngươi sẽ thổi kèn, khi dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an. Ðiều đó sẽ làm cho Ðức
Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, nhớ đến các ngươi. Chính Ta là Ðức Chúa, Thiên
Chúa của các ngươi."
Thứ
tự lên đường
11
Năm
thứ hai, tháng hai, ngày hai mươi trong tháng, mây bốc lên khỏi Nhà Tạm Chứng
Ước, 12 và từ sa mạc Xi-nai, con cái Ít-ra-en lên đường theo thứ tự.
Rồi cột mây đậu lại trong sa mạc Pa-ran.
13
Họ
đã lên đường lần đầu tiên theo lệnh Ðức Chúa truyền qua ông Mô-sê. 14 Trước
hết là cờ hiệu doanh trại con cháu Giu-đa lên đường theo các đoàn quân của họ,
dưới quyền chỉ huy của ông Nác-sôn, con ông Am-mi-na-đáp. 15 Ðoàn
quân chi tộc con cháu Ít-xa-kha dưới quyền chỉ huy của ông Nơ-than-ên, con ông
Xu-a. 16 Ðoàn quân chi tộc con cháu Dơ-vu-lun dưới quyền chỉ huy của
ông Ê-li-áp, con ông Khe-lôn.
17
Khi
tháo Nhà Tạm xuống, thì con cái Ghéc-sôn sẽ lên đường, và con cái Mơ-ra-ri sẽ
khiêng Nhà Tạm.
18
Cờ
hiệu doanh trại Rưu-vên đã lên đường theo các đoàn quân của họ và dưới quyền
chỉ huy của ông Ê-li-xua, con ông Sơ-đê-ua. 19 Ðoàn quân chi tộc con
cháu Si-mê-ôn dưới quyền chỉ huy của ông Sơ-lu-mi-ên, con ông Xu-ri-sát-đai. 20
Ðoàn quân chi tộc con cháu Gát dưới quyền chỉ huy của ông En-gia-xáp, con
ông Rơ-u-ên.
21
Ðến
lượt các người Cơ-hát lên đường, mang theo vật dụng thánh, và Nhà Tạm phải được
dựng lên trước khi họ tới.
22
Tiếp
đó là cờ hiệu doanh trại con cháu Ép-ra-im lên đường theo các đoàn quân của họ
dưới quyền chỉ huy của ông Ê-li-sa-ma, con ông Am-mi-hút. 23 Ðoàn
quân chi tộc con cháu Mơ-na-se dưới quyền chỉ huy của ông Gam-li-ên, con ông
Pơ-đa-xua. 24 Ðoàn quân chi tộc Ben-gia-min dưới quyền chỉ huy của
ông A-vi-đan, con ông Ghít-ô-ni.
25
Sau
cùng, làm hậu quân cho tất cả các doanh trại, cờ hiệu doanh trại con cháu Ðan
lên đường, theo các đoàn quân của họ dưới quyền chỉ huy của ông A-khi-e-de, con
ông Am-mi-sát-đai. 26 Ðoàn quân chi tộc con cháu A-se dưới quyền chỉ
huy của ông Pác-i-ên, con ông Oóc-ran. 27 Ðoàn quân chi tộc con cháu
Náp-ta-li dưới quyền chỉ huy của ông A-khi-ra, con ông Ê-nan.
28
Ðó
là thứ tự các đoàn quân con cái Ít-ra-en khi họ lên đường.
Ông
Mô-sê đề nghị với ông Khô-váp
29
Ông
Mô-sê nói với nhạc phụ mình là ông Khô-váp, con ông Rơ-u-ên, người Ma-đi-an:
"Chúng tôi đang trên đường đi tới nơi mà Ðức Chúa đã hứa: "Ta sẽ ban
đất ấy cho các ngươi. Mời cha đi với chúng tôi, chúng tôi sẽ trọng đãi cha, vì
Ðức Chúa đã hứa ban phúc lộc cho Ít-ra-en.” 30 Ông Khô-váp trả lời:
"Không được, tôi phải về quê cha đất tổ tôi.” 31 Ông Mô-sê nói:
"Xin cha đừng bỏ chúng tôi; bởi vì cha biết những nơi chúng tôi phải đóng
trại trong sa mạc, cha sẽ là đôi mắt của chúng tôi. 32 Và nếu cha
cùng đi với chúng tôi, thì chính phúc lộc Ðức Chúa ban cho chúng tôi, chúng tôi
sẽ chia sẻ với cha."
Cuộc
lên đường
33
Họ
khởi hành từ núi của Ðức Chúa, đi bộ ba ngày; Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa đi
trước họ suốt ba ngày, để tìm chỗ cho họ đóng trại.
34
Và
mây của Ðức Chúa che phủ họ ban ngày, lúc họ nhổ trại lên đường.
35
Khi
Hòm Bia khởi hành, ông Mô-sê lên tiếng:
"Lạy
Ðức Chúa, xin đứng lên cho địch thù Ngài tán loạn,
và
cho kẻ ghét Ngài phải chạy trốn Thánh Nhan! "
36
Và
lúc Hòm Bia dừng lại, ông nói:
"Lạy
Ðức Chúa, xin dừng lại,
ngự
giữa trăm họ Ít-ra-en!"
Chương 11
V.
Những Chặng Ðường Trong Sa Mạc
Táp-ê-ra
1
Thế
rồi dân bắt đầu kêu ca thấu tai Ðức Chúa vì những khổ cực của họ, và Ðức Chúa
đã nghe được. Cơn thịnh nộ của Người bừng lên và lửa của Ðức Chúa bốc cháy nơi
họ ở và thiêu huỷ đầu trại. 2 Dân liền kêu cứu ông Mô-sê, ông Mô-sê
chuyển cầu lên Ðức Chúa, và lửa đã tắt. 3 Người ta đặt tên cho nơi
đó là Táp-ê-ra, vì lửa của Ðức Chúa đã bốc cháy nơi họ ở.
Kíp-rốt
Ha Ta-a-va. Dân ta thán.
4
Ðám
dân ô hợp sống giữa dân Ít-ra-en bắt đầu thèm ăn, và cả con cái Ít-ra-en cũng
khóc lóc mà nói: "Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây? 5 Nhớ thuở nào ta ăn
cá bên Ai-cập mà không phải trả tiền, rồi nào dưa gang, dưa bở, nào hẹ, nào
hành, nào tỏi. 6 Còn bây giờ đời ta tàn rồi; mọi thứ đó hết sạch,
chỉ còn thấy man-na thôi."
7
Man-na
như hạt ngò và trông nó như nhựa hương. 8 Dân cứ việc chia nhau đi
lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh,
và mùi vị của nó như mùi vị bánh chiên dầu. 9 Ðêm về sương rơi trên
doanh trại, thì man-na cũng rơi xuống.
Ông
Mô-sê can thiệp
10
Ông
Mô-sê nghe thấy dân tụm năm tụm bảy theo thị tộc mà kêu khóc tại cửa lều của
mình. Còn Ðức Chúa thì bừng bừng nổi giận. Ông lấy làm khổ tâm 11 và thưa với
Ðức Chúa: "Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con lại không đẹp
lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? 12 Có phải con đã
cưu mang tất cả dân này không? Có phải con đã sinh ra nó không mà Ngài lại bảo
con: "Hãy bồng nó vào lòng, như vú nuôi bồng trẻ thơ, mà đem vào miền đất
Ta đã thề hứa với cha ông chúng? 13 Con lấy đâu ra thịt cho cả dân này ăn, khi
chúng khóc lóc đòi con: "Cho chúng tôi thịt để chúng tôi ăn? 14 Một mình
con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. 15 Nếu
Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn - ấy là nếu con đẹp lòng
Ngài! Ðừng để con thấy mình phải khổ nữa!"
Ðức
Chúa trả lời
16
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy tập họp lại cho Ta bảy mươi người trong số
kỳ mục Ít-ra-en, những kẻ ngươi biết là kỳ mục và ký lục trong dân. Ngươi sẽ
đem chúng đến Lều Hội Ngộ, để chúng đứng đó với ngươi. 17 Ta sẽ
xuống đó nói chuyện với ngươi. Ta sẽ lấy một phần Thần Khí đang ngự trên ngươi
mà đặt trên chúng, chúng sẽ cùng với ngươi gánh vác dân này, và ngươi sẽ không
còn phải vác một mình nữa."
18
Ngươi
hãy nói với dân: "Anh em hãy thanh tẩy mình để chuẩn bị cho ngày mai và
anh em sẽ được ăn thịt. Phải, anh em đã kêu khóc thấu tai Ðức Chúa rằng:
"Ai sẽ cho chúng ta có thịt ăn đây? Bên Ai-cập, chúng ta sướng biết mấy!
Ðức Chúa sẽ ban thịt cho anh em, và anh em sẽ được ăn. 19 Anh em sẽ
ăn, không phải một ngày, hai ngày, năm mười ngày, hay hai mươi ngày mà thôi, 20
nhưng suốt cả tháng, cho đến khi thịt lòi ra lỗ mũi làm anh em phát ngấy,
vì anh em đã khinh thường Ðức Chúa, Ðấng ngự giữa anh em, và đã kêu khóc trước
nhan Người rằng: Chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì?"
21
Ông
Mô-sê lại nói: "Con ở giữa một dân có đến sáu trăm ngàn bộ binh, mà Ðức
Chúa lại bảo: Ta sẽ ban thịt cho chúng, và chúng sẽ ăn suốt cả tháng. 22 Dù
có giết chiên giết bò, liệu có đủ cho họ không? Dù có bắt hết cá dưới biển,
liệu có đủ cho họ không?” 23 Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Ðức
Chúa mà chịu bó tay sao? Bây giờ ngươi sẽ thấy lời Ta phán có đúng hay
không."
Ðức
Chúa ban Thần Khí
24
Ông
Mô-sê ra nói lại với dân những lời của Ðức Chúa. Ông tập họp bảy mươi người
trong số kỳ mục của dân và đặt họ đứng chung quanh Lều. 25 Ðức Chúa
ngự xuống giữa đám mây và nói chuyện với ông Mô-sê. Người lấy một phần Thần Khí
đang đậu trên ông mà đặt trên bảy mươi kỳ mục. Khi Thần Khí đậu xuống trên các
ông thì các ông bắt đầu phát ngôn, nhưng việc đó không tái diễn nữa.
26
Bấy
giờ có hai người ở lại trong trại, một người tên là En-đát, một người tên là
Mê-đát. Các ông đã được ghi trong danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều.
Thần Khí đậu xuống trên các ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. 27
Một người thanh niên chạy đi báo tin cho ông Mô-sê rằng: "Ông En-đát
và ông Mê-đát đang phát ngôn trong trại!” 28 Ông Giô-suê con ông
Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Mô-sê:
"Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!” 29 Nhưng ông Mô-sê trả lời:
"Anh ghen dùm tôi à? Phải chi Ðức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của
Người để họ đều là ngôn sứ!" Vì Ðức Chúa đã ban Thần Khí của Người trên họ.
30 Ông Mô-sê đã vào trại cùng với các kỳ mục Ít-ra-en.
Chim
cút
31
Một
luồng gió do Ðức Chúa khơi dậy đã lùa chim cút từ phía biển tới, và thổi chúng
dạt xuống trại thành một đường dài đi một ngày mới hết, ở bốn phía chung quanh
trại, dày tới một thước trên mặt đất. 32 Dân bận rộn lượm chim cút
suốt ngày suốt đêm ấy và cả ngày hôm sau; người lượm ít nhất cũng được hai trăm
thùng, và họ đem phơi chung quanh trại. 33 Thịt còn đang ở giữa hai
hàm răng, chưa kịp nhai thì cơn thịnh nộ của Ðức Chúa đã bừng lên trút xuống
dân và Ðức Chúa đã đánh phạt dân dữ dội.
34
Và
người ta đã đặt tên cho nơi đó là Kíp-rốt Ha Ta-a-va, vì ở đó họ đã chôn đám
dân thèm ăn.
35
Từ
Kíp-rốt Ha Ta-a-va, dân chúng đã nhổ trại lên đường đi Kha-xê-rốt và ở lại đó.
Chương 12
Bà
Mi-ri-am và ông A-ha-ron phản đối ông Mô-sê
1
Bà
Mi-ri-am và ông A-ha-ron phản đối ông Mô-sê về người đàn bà xứ Cút mà ông đã
lấy, vì ông đã lấy một người đàn bà xứ Cút làm vợ. 2 Họ nói:
"Ðức Chúa chỉ phán với một mình Mô-sê sao? Người đã chẳng phán với cả
chúng ta nữa ư?" Và Ðức Chúa nghe được. 3 Ông Mô-sê là người
hiền lành nhất đời.
Thiên
Chúa trả lời
4
Ðột
nhiên Ðức Chúa phán với ông Mô-sê, ông A-ha-ron và bà Mi-ri-am: "Cả ba hãy
đi ra Lều Hội Ngộ!" Và ba người đã ra. 5 Ðức Chúa ngự xuống
giữa đám mây và dừng lại ở cửa Lều. Người gọi ông A-ha-ron và bà Mi-ri-am, và
hai người đi ra. 6 Người phán: "Hãy nghe Ta nói đây!
Nếu
trong các ngươi có ai là ngôn sứ,
thì
Ta, Ðức Chúa, Ta sẽ tỏ mình ra cho nó trong thị kiến,
hoặc
sẽ phán với nó trong giấc mộng.
7
Nhưng
với Mô-sê tôi tớ Ta thì khác:
tất
cả nhà Ta, Ta đã trao cho nó.
8
Ta
nói với nó trực diện, nhãn tiền, chứ không nói bí ẩn,
và
hình dáng Ðức Chúa, nó được ngắm nhìn.
Vậy
tại sao các ngươi không sợ nói động đến Mô-sê, tôi tớ Ta?"
9
Ðức
Chúa nổi cơn thịnh nộ với họ mà bỏ đi. 10 Khi mây bốc lên khỏi Lều,
thì bà Mi-ri-am bị cùi, mốc thếch như tuyết; ông A-ha-ron quay nhìn bà
Mi-ri-am, thì kìa bà đã bị cùi.
Lời
chuyển cầu của ông A-ha-ron và ông Mô-sê
11
Ông
A-ha-ron nói với ông Mô-sê: "Lỗi tại tôi, thưa ngài, nhưng xin ngài đừng
kết tội chúng tôi; chúng tôi đã dại dột mà phạm lỗi và đáng tội. 12 Xin
đừng để cho cô ấy nên như đứa chết yểu, vừa lọt lòng mẹ đã bị ăn mòn mất một
nửa phần thịt mình rồi."
13
Ông
Mô-sê kêu cầu lên Ðức Chúa rằng: "Ôi, lạy Chúa, xin chữa lành cô ấy!” 14
Ðức Chúa phán với ông Mô-sê: "Nếu cha nó phỉ nhổ vào mặt nó, thì nó
không phải nhục nhã ê chề bảy ngày liền sao? Nó vẫn phải biệt cư ở ngoài trại
bảy ngày rồi mới được vào lại."
15
Vậy
bà Mi-ri-am đã bị biệt cư ở ngoài trại bảy ngày liền, trong khi đó dân chúng
không lên đường cho tới khi bà Mi-ri-am được vào lại. 16 Sau đó dân
chúng lên đường rời Kha-xê-rốt và đóng trại trong sa mạc Pa-ran.
Chương 13
Do
thám đất Ca-na-an (Ðnl 1:19-24)
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Ngươi hãy sai người đi do thám đất
Ca-na-an, đất mà Ta sẽ ban cho con cái Ít-ra-en. Các ngươi sẽ sai đi mỗi chi
tộc một người và tất cả phải là kỳ mục trong dân."
3
Vậy
từ sa mạc Pa-ran, ông Mô-sê đã sai họ đi, theo lệnh Ðức Chúa truyền. Tất cả họ
đều là những người đứng đầu trong con cái Ít-ra-en. 4 Ðây là danh
sách họ:
Thuộc
chi tộc Rưu-vên, có ông Sam-mu-a, con ông Dắc-cua.
5
Thuộc
chi tộc Si-mê-ôn, có ông Sa-phát, con ông Khô-ri.
6
Thuộc
chi tộc Giu-đa, có ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne.
7
Thuộc
chi tộc Ít-xa-kha, có ông Gích-an, con ông Giô-xép.
8
Thuộc
chi tộc Ép-ra-im, có ông Hô-sê-a, con ông Nun.
9
Thuộc
chi tộc Ben-gia-min, có ông Pan-ti, con ông Ra-phu.
10
Thuộc
chi tộc Dơ-vu-lun, có ông Gát-đi-en, con ông Xô-đi.
11
Thuộc
chi tộc Giu-se, ngành Mơ-na-se, có ông Gát-đi, con ông Xu-xi.
12
Thuộc
chi tộc Ðan, có ông Am-mi-ên, con ông Gơ-ma-li.
13
Thuộc
chi tộc A-se, có ông Xơ-tua, con ông Mi-kha-ên.
14
Thuộc
chi tộc Náp-ta-li, có ông Nác-bi, con ông Vóp-xi.
15
Thuộc
chi tộc Gát, có ông Gơ-u-ên, con ông Ma-khi.
16
Ðó
là tên những người ông Mô-sê sai đi do thám đất. Rồi ông Mô-sê đặt tên cho
Hô-sê-a, con ông Nun, là Giô-suê.
17
Ông
Mô-sê sai họ đi do thám đất Ca-na-an. Ông bảo họ: "Anh em hãy qua miền
Ne-ghép mà lên, lên miền núi. 18 Anh em sẽ xem đất, xem nó thế nào,
dân ở đó mạnh hay yếu, ít hay nhiều, 19 đất họ ở tốt hay xấu, thành
thị của họ là lều trại hay đồn luỹ, 20 đất đai màu mỡ hay cằn cỗi,
có cây cối hay không. Anh em hãy can đảm, và lấy ít hoa trái miền đó đem
về."
21
Họ
đi lên và do thám đất, từ sa mạc Xin đến Rơ-khốp, trên đường vào Cửa Ải Kha-mát.
22 Họ qua miền Ne-ghép đi lên và tới tận Khép-rôn, ở đó có
A-khi-man, Sê-sai và Tan-mai là con cháu của A-nác. Khép-rôn đã được xây bảy
năm trước Xô-an bên Ai-cập. 23 Họ vào đến thung lũng Ét-côn, ở đó họ
chặt một nhành nho và một chùm nho, rồi hai người dùng sào mà khiêng, họ cũng
lấy cả lựu và vả. 24 Người ta gọi nơi ấy là thung lũng Ét-côn, vì
chùm nho mà con cái Ít-ra-en đã hái ở đó.
Báo
cáo của đội do thám (Ðnl 1:25-28)
25
Sau
bốn mươi ngày do thám đất, họ trở về. 26 Họ đến gặp ông Mô-sê, ông
A-ha-ron và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, tại Ca-đê trong sa mạc Pa-ran.
Họ báo cáo với hai ông và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, và cho những
người đó xem hoa trái miền ấy.
27
Họ
thuật lại với ông Mô-sê rằng: "Chúng tôi đã vào miền đất ông sai chúng tôi
đến. Ðúng là miền đất tràn trề sữa và mật, và đây là hoa trái miền ấy. 28 Thế
nhưng dân cư miền ấy thì mạnh, thành thị lại kiên cố và rộng lớn lắm; ở đó
chúng tôi còn thấy cả con cháu A-nác. 29 Có người A-ma-lếch ở miền
Ne-ghép, người Khết, người Giơ-vút và người E-mô-ri ở miền núi, còn người
Ca-na-an thì ở bờ biển và dọc sông Gio-đan."
30
Bấy
giờ ông Ca-lếp truyền cho dân đang phản đối ông Mô-sê phải im lặng, ông nói:
"Ta cứ lên chiếm miền ấy, vì chắc chắn ta có thể thắng được.” 31 Những
người đã cùng lên với ông đáp lại: "Ta không thể lên đánh dân ấy, vì họ
mạnh hơn ta.” 32 Trước mặt con cái Ít-ra-en, họ bắt đầu chê bai miền
đất họ đã do thám, họ nói: "Miền đất chúng ta đã đi qua để do thám là đất
nuốt những người ở đó, và tất cả những người chúng tôi thấy ở đó đều là những
người cao lớn. 33 Ở đó chúng tôi trông thấy những người khổng lồ,
con cháu của A-nác thuộc giống người khổng lồ. Chúng tôi thấy mình chỉ như châu
chấu, và họ cũng coi chúng tôi như vậy."
Chương 14
Ít-ra-en
nổi loạn
1
Toàn
thể cộng đồng lớn tiếng kêu la, dân chúng khóc lóc cả đêm ấy. 2 Tất
cả con cái Ít-ra-en đều kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron, toàn thể cộng đồng
nói với các ông: "Phải chi chúng tôi chết ở bên đất Ai-cập, hoặc phải chi
chúng tôi chết trong sa mạc này cho xong! 3 Sao Ðức Chúa lại đem chúng tôi vào
đất này để chúng tôi ngã gục dưới lưỡi gươm, để vợ con chúng tôi bị giặc bắt?
Chúng tôi trở về Ai-cập có tốt hơn không?” 4 Họ bảo nhau:
"Chúng ta hãy đặt lên một người cầm đầu và trở về Ai-cập."
5
Trước
mặt toàn thể đại hội của cộng đồng con cái Ít-ra-en, ông Mô-sê và ông A-ha-ron
sấp mặt xuống đất. 6 Ông Giô-suê, con ông Nun, và ông Ca-lếp, con
ông Giơ-phun-ne, là những người đã tham dự cuộc do thám đất, xé áo mình ra 7 và
nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en: "Miền đất chúng tôi đã đi qua
để do thám là một đất tốt thật là tốt! 8 Nếu Ðức Chúa thương ta, Người sẽ đưa
ta vào đất ấy và ban đất ấy cho ta, một đất tràn trề sữa và mật. 9 Vậy
anh em đừng nổi loạn chống Ðức Chúa, và đừng sợ dân đất ấy! Chúng ta sẽ nuốt
chửng chúng. Thần hộ mệnh chúng đã lìa xa chúng, còn Ðức Chúa thì ở với ta.
Ðừng sợ chúng!"
Cơn
thịnh nộ của ÐỨC CHÚA và lời chuyển cầu của ông Mô-sê
10
Cả
cộng đồng đang bàn chuyện ném đá các ông, thì vinh quang Ðức Chúa xuất hiện
trong Lều Hội Ngộ trước mắt toàn thể con cái Ít-ra-en. 11 Ðức Chúa
phán với ông Mô-sê: "Dân này còn khinh thị Ta đến bao giờ nữa? Cho đến bao
giờ, chúng không chịu tin vào Ta, mặc dầu Ta đã làm bấy nhiêu dấu lạ ở giữa chúng?
12 Ta sẽ dùng ôn dịch mà đánh phạt chúng, sẽ không cho chúng hưởng gia nghiệp,
rồi Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân tộc lớn và mạnh hơn chúng."
13
Ông
Mô-sê thưa với Ðức Chúa: "Người Ai-cập đã nghe biết rằng Ngài đã dùng sức
mạnh của Ngài mà đưa dân này ra khỏi đất chúng. 14 Và chúng đã kể
lại việc đó cho cư dân đất này. Dân đất này đã nghe biết rằng chính Ngài, Ðức
Chúa, Ngài ở giữa dân này, chính Ngài, Ðức Chúa, Ngài cho họ được thấy Ngài tận
mắt, rằng đám mây của Ngài dừng trên họ, và Ngài đi trước họ ban ngày trong cột
mây và ban đêm trong cột lửa. 15 Thế mà Ðức Chúa lại muốn giết cả
dân này như giết một người! Các nước đã từng nghe danh tiếng Ngài sẽ nói: 16
"Chính bởi vì Ðức Chúa đã không thể đem dân ấy vào đất Người đã thề
ban cho chúng, mà Người đã hạ sát chúng trong sa mạc. 17 Vậy giờ
đây, xin Chúa Thượng của con biểu dương sức mạnh, như Ngài đã phán: 18 "Ðức
Chúa chậm giận và giàu ân nghĩa, chịu đựng lỗi lầm và tội ác, nhưng không dung
tha điều gì; phạt con cháu đến ba bốn đời vì lỗi lầm của cha ông. 19 Vậy
xin Ngài tha thứ lỗi lầm của dân này theo lượng cả ân nghĩa của Ngài, như Ngài
đã từng chịu đựng dân này từ Ai-cập cho đến đây."
Tha
thứ và trừng phạt
20
Ðức
Chúa đáp: "Ta tha thứ như lời ngươi xin. 21 Tuy nhiên, Ta lấy
sự sống của Ta, lấy vinh quang của Ta là Ðức Chúa, vinh quang tràn đầy cõi đất,
mà thề: 22 Không một ai trong những người đã thấy vinh quang của Ta
và những dấu lạ Ta đã làm bên Ai-cập và trong sa mạc, nhưng đã thách thức Ta cả
mười lần và đã không chịu nghe theo tiếng Ta, 23 không một ai trong
những người ấy sẽ được thấy miền đất Ta đã thề hứa với cha ông chúng, tất cả
những ai khinh thị Ta sẽ không được thấy đất ấy. 24 Nhưng tôi trung
của Ta là Ca-lếp, vì được một thần khí khác thúc đẩy, và đã một lòng theo Ta,
thì Ta sẽ đưa nó vào đất nó đã đi tới, và dòng dõi nó sẽ chiếm hữu đất ấy. 25
Vì người A-ma-lếch và người Ca-na-an ở vùng đồng bằng, nên ngày mai các
ngươi hãy quay trở lại, và theo hướng Biển Sậy mà vào sa mạc."
26
Ðức
Chúa lại phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: 27 "Cho tới bao
giờ cái cộng đồng hư đốn này cứ tiếp tục lẩm bẩm kêu trách Ta? Ta đã nghe thấy
toàn những lời cằn nhằn, đám con cái Ít-ra-en này cứ lẩm bẩm chống Ta. 28 Ngươi
hãy nói với chúng: Ta thề -sấm của Ðức Chúa - Ta sẽ xử với các ngươi như lời
các ngươi kêu thấu tai Ta. 29 Trong sa mạc này, thây các ngươi sẽ
ngã gục: trong các ngươi, tất cả những người đã được kiểm tra đăng ký, từ hai
mươi tuổi trở lên, mà đã cằn nhằn chống Ta, 30 không một ai sẽ được
vào đất mà Ta đã giơ tay thề sẽ đưa các ngươi vào cư ngụ, ngoại trừ Ca-lếp, con
của Giơ-phun-ne, và Giô-suê, con của Nun. 31 Còn các trẻ con mà các
ngươi cho rằng sẽ bị bắt làm chiến lợi phẩm, thì Ta sẽ đưa chúng vào, và chúng
sẽ được biết đất các ngươi đã chê bỏ. 32 Còn các ngươi, thây các
ngươi sẽ ngã gục trong sa mạc này. 33 Và con cái các ngươi sẽ đi
lang thang trong sa mạc bốn mươi năm, chúng sẽ mang lấy tội phản bội của các
ngươi cho tới khi tất cả các ngươi thành thây ma trong sa mạc. 34 Theo
số ngày các ngươi đã đi do thám đất - bốn mươi ngày - mỗi ngày tính là một năm,
các ngươi sẽ phải gánh chịu tội ác của các ngươi bốn mươi năm, và các ngươi sẽ
biết Ta trừng phạt những kẻ bất tuân như thế nào.
35
Ta,
Ðức Chúa, Ta đã phán; Ta quyết sẽ thi hành như thế cho toàn thể cộng đồng hư
đốn này đã cấu kết với nhau chống lại Ta. Trong sa mạc này chúng sẽ bị tiêu
diệt và sẽ chết hết."
36
Những
người đã được ông Mô-sê sai đi do thám đất, lúc trở về, đã làm cho cả cộng đồng
lẩm bẩm kêu trách ông, vì những lời xuyên tạc về đất ấy, 37 những
người đó đã bị phạt chết ngay trước nhan Ðức Chúa, vì manh tâm xuyên tạc về đất
ấy. 38 Chỉ có Giô-suê, con ông Nun, và Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne,
trong số các người đi do thám đất, là còn sống.
Dân
Ít-ra-en thất bại (Ðnl 1:41-46)
39
Khi
ông Mô-sê thuật lại các những lời ấy cho toàn thể con cái Ít-ra-en, thì dân
chúng đã kêu khóc thảm thiết. 40 Thế rồi họ dậy sớm, kéo nhau lên
đỉnh núi, và nói: "Này chúng tôi lên nơi mà Ðức Chúa đã nói, vì chúng tôi
đã phạm tội.” 41 Ông Mô-sê trả lời: "Sao anh em lại trái lệnh
Ðức Chúa như thế? Việc này sẽ không thành công. 42 Ðừng lên, Ðức
Chúa không ở với anh em đâu: anh em sẽ bị quân thù đánh bại. 43 Phải,
quân A-ma-lếch và quân Ca-na-an sẽ chặn đánh anh em ở đó, và anh em sẽ ngã gục
dưới lưỡi gươm, bởi vì anh em đã bỏ không theo Ðức Chúa, và Ðức Chúa không ở
với anh em nữa.” 44 Họ khăng khăng kéo lên đỉnh núi, trong khi Hòm
Bia Giao Ước của Ðức Chúa cũng như ông Mô-sê không rời khỏi trại. 45 Quân
A-ma-lếch và quân Ca-na-an đóng trên núi ấy đã tràn xuống tấn công và đánh đuổi
họ tan tành cho tới Khoóc-ma.
Chương 15
VI.
Luật Lệ Về Hiến Tế.
Quyền
Hành Của Các Tư Tế Và Các Thầy Lê-Vi.
Của
dâng cúng kèm theo hiến tế
1
Ðức
Chúa phán bảo ông Mô-sê: 2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo
chúng rằng: Khi các ngươi đã vào cư ngụ trong đất mà Ta sẽ ban cho các ngươi, 3
và khi các ngươi dâng bò bê hay chiên cừu lên Ðức Chúa làm lễ hoả tế, -
bất kỳ lễ toàn thiêu hay lễ hy sinh - hoặc để giữ trọn một lời khấn, hoặc để
dâng một của cúng tự nguyện, hoặc để cử hành các đại lễ theo luật định, ngõ hầu
làm vui lòng Ðức Chúa vì hương thơm, 4 thì kẻ tiến dâng lễ còn phải
tiến dâng lên Ðức Chúa lễ phẩm nữa, là bốn lít rưỡi tinh bột nhào với hai lít
dầu ô-liu; 5 còn rượu tế thì cứ một con chiên con phải dâng hai lít,
để làm lễ toàn thiêu hoặc lễ hy sinh. 6 Nếu là chiên đực, thì ngươi
sẽ dâng lễ vật phụ là chín lít tinh bột nhào với hai lít rưỡi dầu ô-liu, 7
và rượu tế thì dâng hai lít rưỡi như hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 8
Nếu ngươi dâng một con bò mộng làm lễ toàn thiêu hay lễ hy sinh, để giữ
trọn một lời khấn, hoặc để làm lễ kỳ an dâng Ðức Chúa, 9 thì cùng
với con bò mộng, ngươi sẽ còn phải dâng một lễ phẩm nữa, là mười ba lít rưỡi
tinh bột nhào với bốn lít dầu ô-liu, 10 còn rượu tế thì ngươi sẽ
dâng bốn lít, như hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa. 11 Mỗi con bò
mộng hoặc chiên đực, mỗi con cừu hay dê trong đàn ngươi dâng, thì đều phải làm
như vậy. 12 Mỗi lần dâng, ngươi đều phải làm như thế, tuỳ theo số
lượng nhiều hay ít.
13
Mọi
người bản xứ đều phải làm như thế, khi dâng lễ hoả tế như hương thơm làm vui
lòng Ðức Chúa. 14 Nếu có ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi, hay
con cháu các ngươi, mà dâng lễ hoả tế như hương thơm làm vui lòng Ðức Chúa, thì
nó cũng phải làm như các ngươi. 15 Trong đại hội, chỉ có một điều
luật duy nhất cho các ngươi và cho ngoại kiều sống giữa các ngươi, điều luật
vĩnh viễn trước mặt Ðức Chúa cho con cháu các ngươi cũng như cho các ngươi và
cho ngoại kiều. 16 Một luật pháp và một quyết định cho cả các ngươi
lẫn ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi."
Bánh
đầu mùa
17
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 18 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en và
bảo chúng rằng: Khi các ngươi tới đất mà Ta sẽ dẫn các ngươi vào, 19 các
ngươi ăn thổ sản của đất đó, thì các ngươi phải dành ra trước phần trích dâng
để kính Ðức Chúa như sau: 20 từ bột tốt nhất của các ngươi, các
ngươi sẽ dâng một chiếc bánh làm phần trích dâng; như ngoài sân lúa người ta
dành ra trước phần trích dâng thế nào, thì các ngươi cũng phải làm như vậy; 21
nghĩa là cho đến muôn đời các ngươi sẽ dâng Ðức Chúa phần trích dâng từ
bột tốt nhất của các ngươi."
Tẩy
xoá những lầm lỗi vì vô ý
22
"Nếu
vì vô ý các ngươi không giữ một điều nào trong tất cả các điều răn mà Ðức Chúa
đã phán bảo qua ông Mô-sê trên đây, 23 tất cả những gì Ðức Chúa đã
truyền cho các ngươi qua Mô-sê, từ ngày Ðức Chúa truyền dạy cho cả con cháu các
ngươi về sau nữa, 24 nếu cộng đồng lỗi lầm vì vô ý, thì toàn thể
cộng đồng phải dâng một con bò mộng làm lễ toàn thiêu, như hương thơm làm vui
lòng Ðức Chúa, cùng với lễ phẩm và rượu tế theo luật định, lại phải dâng một
con dê đực vì lỗi đã phạm. 25 Tư tế sẽ làm nghi thức xá tội trên
toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, và chúng sẽ được tha thứ, bởi đó là một
tội phạm vì vô ý, và chúng đã dâng lên Ðức Chúa lễ tiến hoả tế cùng với lễ tạ
tội lên Ðức Chúa, bởi phạm tội vì vô ý. 26 Như thế toàn thể cộng
đồng con cái Ít-ra-en cũng như ngoại kiều sinh sống giữa các ngươi đều được tha
thứ, bởi toàn dân đã phạm tội vì vô ý.
27
Nếu
một cá nhân phạm tội vì vô ý, thì nó sẽ dâng một con dê cái một tuổi làm lễ tạ
tội. 28 Tư tế sẽ làm nghi thức xá tội trên người đã phạm tội vì vô
ý, bởi nó vô ý trước nhan Ðức Chúa. Khi cử hành nghi thức xá tội như thế, thì
người ấy sẽ được tha thứ. 29 Ðối với người bản xứ trong con cái
Ít-ra-en cũng như đối với ngoại kiều sinh sống giữa chúng, các ngươi chỉ có một
điều luật phải thi hành trong trường hợp phạm tội vì vô ý.
30
Nhưng
kẻ nào hành động cố tình, dù là người bản xứ hay ngoại kiều, thì nó xúc phạm
đến chính Ðức Chúa. Con người ấy sẽ bị tiễu trừ khỏi đồng bào của nó, 31 vì
nó đã khinh khi lời Ðức Chúa và phế bỏ lệnh Người truyền. Con người ấy phải bị
tiêu diệt. Nó phải mang lấy tội ác của nó."
Vi
phạm ngày sa-bát
32
Khi
con cái Ít-ra-en còn ở trong sa mạc, thì người ta bắt được một người đang lượm
củi ngày sa-bát. 33 Những người bắt được kẻ đang lượm củi liền điệu
y tới ông Mô-sê, ông A-ha-ron và toàn thể cộng đồng. 34 Họ nhốt y
lại vì chưa có quyết định phải xử với y như thế nào. 35 Ðức Chúa
phán với ông Mô-sê: "Con người ấy sẽ phải chết; toàn thể cộng đồng sẽ ném
đá nó bên ngoài doanh trại.” 36 Theo lệnh Ðức Chúa truyền cho ông Mô-sê,
toàn thể cộng đồng đã đưa y ra khỏi trại, ném đá y và y đã chết.
Tua
áo
37
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en 38 và bảo
chúng phải làm tua khâu vào tà áo của chúng, qua mọi thế hệ, và cột lên tua áo
đó một sợi dây đỏ tía. 39 Vậy các ngươi sẽ mang tua áo, và khi nhìn
thấy nó, các ngươi sẽ nhớ đến mọi mệnh lệnh của Ðức Chúa mà thi hành, chứ không
theo con tim và đôi mắt các ngươi mà đi làm điếm.
40
Như
thế các ngươi sẽ nhớ và thi hành tất cả các mệnh lệnh Ta truyền như những người
đã được thánh hiến cho Thiên Chúa các ngươi. 41 Chính Ta, Ðức Chúa,
là Thiên Chúa các ngươi, Ta đã đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập để làm Thiên
Chúa của các ngươi, Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa các ngươi.
Chương 16
Cô-rắc,
Ða-than và A-vi-ram nổi loạn
1
Cô-rắc,
con ông Gít-ha, cháu ông Cơ-hát thuộc chi tộc Lê-vi, đã lôi kéo những người
thuộc chi tộc Rưu-vên, là Ða-than và A-vi-ram, con của ông Ê-li-áp, với Ôn, con
ông Pe-lét. 2 Họ nổi lên chống ông Mô-sê, và cùng với họ có hai trăm
năm mươi người trong số con cái Ít-ra-en, là những người lãnh đạo cộng đồng, là
thành viên hội đồng và là những nhân vật tên tuổi. 3 Họ tụ tập trước
mặt ông Mô-sê và ông A-ha-ron, và nói với hai ông: "Các ông quá lắm rồi!
Toàn thể cộng đồng đều là thánh, và Ðức Chúa ngự giữa họ. Vậy tại sao các ông
lại đè đầu đè cổ cộng đồng của Ðức Chúa?"
4
Nghe
thấy vậy, ông Mô-sê sấp mặt xuống đất. 5 Ông nói với Cô-rắc và đồng
bọn rằng: "Sáng mai Ðức Chúa sẽ cho biết ai thuộc về Người, ai được thánh
hiến và được Người cho ở gần; kẻ Người chọn thì Người sẽ cho ở gần. 6 Các
anh phải làm thế này: Anh Cô-rắc và đồng bọn của anh hãy lấy bình hương, 7
thắp lửa vào bình hương, và ngày mai đổ hương lên trên, trước nhan Ðức
Chúa; và kẻ nào Ðức Chúa chọn thì người đó được thánh hiến. Này con cháu Lê-vi,
các anh quá quắt lắm đó!"
8
Ông
Mô-sê nói với Cô-rắc: "Này con cháu Lê-vi, nghe đây! 9 Thiên Chúa của
Ít-ra-en đã biệt đãi các anh giữa cộng đồng Ít-ra-en, đưa các anh đến gần Chúa,
để các anh phục dịch Nhà Tạm của Ðức Chúa và túc trực trước cộng đồng mà thi
hành tác vụ thay cho họ: như thế, các anh còn cho là quá ít sao? 10 Người đã
đưa anh và cùng với anh tất cả các người Lê-vi anh em của anh, tới gần Người,
mà các anh còn đòi làm tư tế nữa! 11 Thế là chống Ðức Chúa, anh cùng với cả bọn
anh mới toa rập với nhau, chứ ông A-ha-ron là gì mà các anh cằn nhằn ông
ấy?"
12
Ông
Mô-sê sai đi gọi Ða-than và A-vi-ram, con ông Ê-li-áp, nhưng họ trả lời:
"Chúng tôi không đến! 13 Ông đã đưa chúng tôi ra khỏi đất tràn trề sữa và
mật, để chúng tôi phải chết trong sa mạc, như thế là ít hay sao mà ông lại còn
tự đặt mình làm thủ lãnh chúng tôi nữa? 14 Thật chẳng phải là ông đã dẫn chúng
tôi vào một đất tràn trề sữa và mật, ông cũng chẳng cho chúng tôi đồng ruộng và
vườn nho làm sở hữu. Ông tưởng móc mắt được những người này cho họ khỏi thấy
sao? Chúng tôi không đến!” 15 Ông Mô-sê bừng bừng nổi giận, và thưa
với Ðức Chúa: "Xin Ngài đừng chiếu cố lễ phẩm chúng dâng! Dù một con lừa
của chúng, con cũng đã không hề lấy, và con cũng chẳng làm thiệt hại một người
nào trong bọn chúng."
Hình
phạt
16
Ông
Mô-sê nói với ông Cô-rắc: "Anh và tất cả đồng bọn của anh, ngày mai hãy
đến trước nhan Ðức Chúa, anh và họ cùng với ông A-ha-ron. 17 Mỗi
người cầm bình hương của mình, đổ hương vào, rồi ai nấy hãy đưa bình hương tới
nhan Ðức Chúa, tất cả là hai trăm năm mươi chiếc. Cả anh và ông A-ha-ron nữa,
mỗi người hãy mang bình hương của mình.” 18 Mỗi người cầm bình
hương, thắp lửa vào bình và đổ hương lên. Rồi họ đứng ở cửa Lều Hội Ngộ cùng
với ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 19 Cô-rắc đã triệu tập toàn thể cộng
đồng trước mặt các ông, ở cửa Lều Hội Ngộ. Và vinh quang của Ðức Chúa đã xuất
hiện trước toàn thể cộng đồng.
20
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron rằng: 21 "Các ngươi hãy
rời xa cộng đồng này, vì Ta sẽ huỷ diệt nó trong giây lát. 22 Các
ông liền sấp mặt xuống đất và kêu: "Lạy Chúa là Thiên Chúa ban sinh khí
cho mọi xác phàm, chỉ có một người phạm tội mà Chúa nổi giận với cả cộng đồng
sao?” 23 Ðức Chúa phán bảo ông Mô-sê rằng: 24 "Ngươi
hãy nói với cộng đồng: "Hãy tránh xa khu vực quanh nhà của Cô-rắc, Ða-than
và A-vi-ram!"
25
Bấy
giờ ông Mô-sê đứng dậy đi về phía Ða-than và A-vi-ram, theo sau ông là các kỳ
mục Ít-ra-en. 26 Ông nói với cộng đồng: "Này, chớ tới gần lều
của những con người hư đốn ấy, và đừng đụng tới tất cả những gì của họ, kẻo vì
liên luỵ mà anh em cũng bị huỷ diệt với tất cả tội lỗi của họ.” 27 Và
người ta rời xa khu vực quanh nhà của Cô-rắc, Ða-than và A-vi-ram.
28
Ông
Mô-sê nói: "Cứ thế này mà anh em biết là Ðức Chúa đã sai tôi làm những
công việc đó, chứ không phải tôi tự ý làm: 29 Nếu những người này
chết bình thường như mọi người, nghĩa là số phận chung của mọi người cũng là số
phận của họ, thì đúng là Ðức Chúa đã không sai tôi. 30 Còn nếu Ðức
Chúa làm điều khác thường này là đất mở họng ra nuốt tươi các người ấy cùng với
tất cả những gì của họ, nghĩa là họ bị chôn sống dưới âm phủ, thì anh em sẽ
biết rằng những người đó đã khinh dể Ðức Chúa."
31
Ông
vừa nói những lời ấy xong, đất dưới chân họ liền rẽ ra, 32 mở họng
nuốt chửng họ, nhà cửa của họ, mọi người nhà của Cô-rắc cũng như tất cả tài
sản.
33
Những
người ấy cùng với tất cả những gì của họ đã bị chôn sống dưới âm phủ, và đất đã
khép lại vùi lấp họ; họ biến mất khỏi công hội. 34 Tất cả những
người Ít-ra-en đứng chung quanh nghe tiếng họ kêu la thì trốn chạy, và nói: "Coi
chừng đất nuốt cả chúng ta bây giờ!"
35
Ðức
Chúa cho lửa ngốn trọn hai trăm năm mươi người đã dâng hương.
Chương 17
Bình
hương
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Ngươi hãy nói với E-la-da, con của
tư tế A-ha-ron, phải cất các bình hương trên đám than hồng đi và hất lửa ấy ra
xa. 3 Dù những bình hương đó là của những kẻ đã phạm tội mà phải
chết, nhưng chúng đã được thánh hiến, nên các ngươi hãy dát thành những tấm
đồng mỏng phủ lên bàn thờ. Quả vậy, các kẻ ấy đã tiến dâng trước nhan Ðức Chúa,
và đã thánh hiến chúng; chúng sẽ nên dấu hiệu để cảnh giác con cái
Ít-ra-en."
4
Tư
tế E-la-da lấy các bình hương bằng đồng mà những người chết cháy đã tiến dâng,
và dát thành những tấm mỏng phủ lên bàn thờ. 5 Chúng sẽ nhắc cho con
cái Ít-ra-en nhớ rằng không một ai ngoài dòng dõi ông A-ha-ron tới gần thắp
hương trước nhan Ðức Chúa, mà không bị chung một số phận với Cô-rắc và đồng bọn
của y, như Ðức Chúa đã phán qua Mô-sê.
Ông
A-ha-ron chuyển cầu
6
Hôm
sau toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en kêu trách ông Mô-sê và ông A-ha-ron
rằng: "Chính các ông đã giết dân của Ðức Chúa.” 7 Và khi cộng
đồng tụ tập trước mặt ông Mô-sê và ông A-ha-ron, thì họ quay về phía Lều Hội
Ngộ. Và kìa, mây bao phủ Lều và vinh quang Ðức Chúa xuất hiện. 8 Bấy
giờ ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến trước Lều Hội Ngộ.
9
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 10 "Các ngươi hãy rời xa cộng đồng
này, vì Ta sẽ huỷ diệt nó trong giây lát." Các ông liền sấp mặt xuống đất.
11 Ông Mô-sê nói với ông A-ha-ron: "Ông hãy cầm bình hương, lấy
lửa trên bàn thờ thắp vào, đổ hương lên, rồi lập tức đến với cộng đồng làm nghi
thức xá tội cho họ, vì Ðức Chúa đã nổi cơn thịnh nộ và tai hoạ đã bắt đầu.” 12
Theo lời ông Mô-sê, ông A-ha-ron cầm bình hương, chạy đến giữa công hội,
thì này tai hoạ đã bắt đầu hoành hành trong dân. Ông đốt hương và làm nghi thức
xá tội cho dân. 13 Ông đứng giữa kẻ chết và người sống, tai hoạ liền
chấm dứt. 14 14,700 người đã chết trong tai hoạ này, không kể những
người chết trong vụ Cô-rắc. 15 Ông A-ha-ron trở lại đứng bên ông
Mô-sê ở cửa Lều Hội Ngộ, thì tai hoạ dứt hẳn.
Cây
gậy của ông A-ha-ron
16
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 17 "Hãy bảo con cái Ít-ra-en nộp
cho ngươi, qua các trưởng tộc, mỗi gia tộc một cây gậy, tất cả là mười hai cây.
Ngươi sẽ viết tên mỗi người vào cây gậy của nó. 18 Ngươi sẽ viết tên
của A-ha-ron lên cây gậy của Lê-vi, vì thủ lãnh gia tộc của chúng cũng phải có
một cây gậy. 19 Ngươi sẽ đặt các cây gậy đó trong Lều Hội Ngộ, trước
Chứng Ước, nơi Ta gặp gỡ các ngươi. 20 Ai được Ta chọn thì gậy của
nó sẽ đâm chồi, như thế Ta sẽ làm tiêu tan, không để thấu tới Ta những lời con
cái Ít-ra-en kêu ca lẩm bẩm, những lời chúng thốt ra chống lại các ngươi."
21
Ông
Mô-sê nói lại với con cái Ít-ra-en và tất cả các trưởng tộc đã trao gậy cho
ông, mỗi người một cây gậy theo số các gia tộc: tất cả là mười hai cây, trong
đó có cây gậy của ông A-ha-ron. 22 Ông Mô-sê đặt các gậy đó trước
nhan Ðức Chúa trong Lều Chứng Ước. 23 Hôm sau ông Mô-sê tới Lều
Chứng Ước, thì kìa, cây gậy của ông A-ha-ron thuộc gia tộc Lê-vi đã đâm chồi,
trổ bông và kết trái hạnh đào. 24 Từ trước nhan Ðức Chúa, ông Mô-sê
lấy tất cả các cây gậy, đưa ra cho toàn thể con cái Ít-ra-en xem, và mỗi người
đã nhận lại cây gậy của mình.
25
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đưa cây gậy của A-ha-ron đặt lại trước Chứng
Ước, để lưu trữ như dấu chỉ cảnh cáo những đứa phản loạn. Như thế ngươi sẽ làm
tiêu tan không để thấu tới Ta những lời chúng kêu ca lẩm bẩm; và chúng sẽ khỏi
phải chết.” 26 Ông Mô-sê thi hành như Ðức Chúa đã truyền. Ông đã làm
đúng như vậy.
Vai
trò đền tội của tư tế
27
Con
cái Ít-ra-en thưa với ông Mô-sê: "Chết chúng tôi rồi! Chết hết! Tiêu vong
hoàn toàn! 28 Ai mà tới gần Nhà Tạm Ðức Chúa thì sẽ phải chết. Chúng tôi sẽ bị
tận diệt sao?"
Chương 18
1
Ðức
Chúa phán với ông A-ha-ron: "Ngươi, con cái ngươi và gia tộc ngươi với
ngươi, các ngươi phải chịu trách nhiệm về tội phạm đến nơi thánh. Ngươi và con
cái ngươi với ngươi, các ngươi phải chịu trách nhiệm về tội phạm đến chức tư tế
của các ngươi. 2 Ngươi hãy đưa cả các anh em ngươi, thuộc chi tộc
Lê-vi, chi tộc của cha ngươi đến với ngươi để chúng trợ lực và phục vụ ngươi,
ngươi và con cái ngươi, trước Lều Chứng Ước. 3 Chúng sẽ lo phục vụ
ngươi và phục vụ tất cả Lều, nhưng không được tới gần các vật thánh cũng như
bàn thờ, kẻo cả chúng lẫn các ngươi phải chết. 4 Chúng sẽ trợ lực
ngươi và đảm nhận việc phục vụ Lều Hội Ngộ, về mọi dịch vụ liên quan tới Lều;
không người nào khác được tới gần các ngươi. 5 Các ngươi sẽ đảm nhận
việc phục vụ nơi thánh và phục vụ bàn thờ, và thịnh nộ sẽ không giáng xuống
trên con cái Ít-ra-en nữa. 6 Ta đây, Ta đã chọn giữa con cái
Ít-ra-en các thầy Lê-vi là anh em của các ngươi, để trao tặng cho các ngươi. Họ
là "những người được dâng hiến", thuộc về Ðức Chúa, để chuyên lo phục
vụ Lều Hội Ngộ. 7 Ngươi cùng với các con ngươi sẽ thi hành chức vụ
tư tế trong mọi việc liên quan tới bàn thờ và những gì sau bức màn trướng. Ðó
là dịch vụ của các ngươi. Ta ban chức tư tế cho các ngươi như dịch vụ và hồng
ân; còn người nào khác mà tới gần sẽ phải chết."
Phần
dành cho tư tế
8
Ðức
Chúa phán với ông A-ha-ron: "Ta đây, Ta trao cho ngươi đảm nhận phần trích
dâng trong tất cả các của lễ con cái Ít-ra-en dâng cho Ta. Ta ban cho ngươi và
con cái ngươi như phần riêng chiếu theo một quy luật vĩnh viễn. 9 Ðây
là phần dành cho ngươi, trích từ của lễ cực thánh, không bị hoả tế: tất cả lễ tiến
người ta hoàn lại cho Ta trong các lễ phẩm, các hiến lễ xá tội và các hiến lễ
đền tội. Ðó là của cực thánh dành cho ngươi và con cái ngươi. 10 Các
ngươi sẽ ăn của ấy nơi cực thánh, hễ là nam giới thì được ăn của ấy. Ðó là của
thánh đối với ngươi.
11
Và
đây cũng là phần dành cho ngươi: phần trích dâng trong tất cả những gì con cái
Ít-ra-en tiến dâng theo nghi thức. Ta ban những của ấy cho ngươi và cho con
trai con gái ngươi, chiếu theo một quy luật vĩnh viễn. Trong nhà ngươi hễ ai
thanh sạch, thì được hưởng. 12 Tất cả tinh dầu hảo hạng, mọi thứ
rượu mới và lúa miến tốt nhất, tức là những của đầu mùa người ta dâng lên Ðức
Chúa, Ta đều ban cho ngươi. 13 Tất cả thổ sản đầu mùa người ta dâng
cho Ðức Chúa đều là của ngươi; trong nhà ngươi hễ ai thanh sạch thì được hưởng.
14 Tất cả những gì là huý vật thánh trong Ít-ra-en đều được dành cho
ngươi. 15 Tất cả các con đầu lòng của bất cứ xác phàm nào, dù là
người hay súc vật, mà người ta dâng cho Ðức Chúa, đều được dành cho ngươi;
nhưng ngươi phải cho chuộc lại con đầu lòng của người ta, và con đầu lòng của
súc vật không sạch, ngươi cũng cho chuộc lại. 16 Ngươi sẽ cho chuộc
khi nó được một tháng; tiền chuộc ngươi sẽ ấn định là mười lăm chỉ bạc, tính
theo đơn vị đo lường của thánh điện. 17 Nhưng bò, chiên và dê đầu lòng,
ngươi sẽ không cho chuộc lại. Chúng là vật thánh, nên máu chúng, ngươi sẽ đổ
trên bàn thờ, còn mỡ thì sẽ đốt làm hoả tế thành hương thơm làm đẹp lòng Ðức
Chúa, 18 và thịt thì để cho ngươi dùng, cũng như thịt sườn đã được
tiến dâng theo nghi thức, và thịt đùi bên phải đều thuộc về ngươi. 19 Tất
cả các phần trích dâng trong các của lễ thánh mà con cái Ít-ra-en dâng Ðức
Chúa, Ta đều ban cho ngươi cũng như cho con trai con gái ngươi, chiếu theo một
quy luật vĩnh viễn. Ðó là giao ước muối muôn đời tồn tại trước nhan Ðức Chúa,
cho ngươi và dòng dõi ngươi."
Phần
dành cho các thầy Lê-vi
20
Ðức
Chúa phán với ông A-ha-ron: "Ðất chia cho chúng, ngươi sẽ không có phần;
ngươi không có gia nghiệp ở giữa chúng, và chính Ta là gia nghiệp của ngươi
giữa con cái Ít-ra-en.
21
Ðây
Ta ban cho con cái Lê-vi làm gia nghiệp tất cả thuế thập phân dân Ít-ra-en nộp,
vì họ có công phục dịch Lều Hội Ngộ. 22 Con cái Ít-ra-en sẽ không
được tới gần Lều Hội Ngộ nữa, kẻo phải mang tội đáng chết. 23 Chính
các thầy Lê-vi sẽ phục dịch Lều Hội Ngộ và phải mang lấy trách nhiệm về lầm lỗi
của mình. Ðây là quy tắc vĩnh viễn cho dòng dõi các ngươi; giữa con cái
Ít-ra-en, các thầy Lê-vi sẽ không có gia nghiệp, 24 vì các thuế thập
phân con cái Ít-ra-en trích dâng Ðức Chúa, Ta đã ban cho các thầy Lê-vi làm gia
nghiệp. Bởi thế Ta mới bảo chúng rằng: giữa con cái Ít-ra-en, chúng sẽ không có
gia nghiệp."
Thuế
thập phân
25
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 26 "Ngươi hãy nói với các thầy Lê-vi
và bảo họ:
Khi
các ngươi thu thuế thập phân của con cái Ít-ra-en nộp, thuế mà Ta đã ban cho
các ngươi làm gia nghiệp, thì các ngươi sẽ dành phần trích dâng cho Ðức Chúa,
tức là một phần mười thuế thập phân. 27 Của lễ các ngươi dâng đó
được kể là phần trích dâng, giống như người ta dâng lúa mì lấy từ ngoài sân và
rượu mới lấy từ trong bồn. 28 Như vậy là cả các ngươi nữa, các ngươi
cũng dành phần trích dâng Ðức Chúa, từ thuế thập phân mà các ngươi thu của con
cái Ít-ra-en. Phần trích dâng cho Ðức Chúa, các ngươi sẽ trao cho tư tế
A-ha-ron. 29 Tất cả các món quà người ta biếu, các ngươi phải trích
phần dâng cho Ðức Chúa, phần thánh ấy phải là phần tốt nhất.
30
Ngươi
hãy nói với họ rằng: Khi các ngươi đã trích dâng phần tốt nhất rồi, thì phần
còn lại sẽ được kể là của các ngươi, các thầy Lê-vi, giống như hoa lợi lấy từ
ngoài sân và như rượu mới lấy từ trong bồn. 31 Các ngươi cũng như
gia đình các ngươi có thể ăn của ấy ở bất cứ nơi nào. Ðó là thù lao của các
ngươi, vì các ngươi phục dịch trong Lều Hội Ngộ. 32 Về điểm này các
ngươi sẽ không mắc tội gì một khi đã trích dâng phần tuyệt hảo như thế. Nhưng
các ngươi chớ xúc phạm đến của thánh con cái Ít-ra-en dâng, kẻo phải
chết."
Chương 19
Tro
của bò cái màu hung
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: 2 "Ðây là quy tắc
trong luật mà Ðức Chúa đã truyền: Ngươi hãy bảo con cái Ít-ra-en đưa tới cho
ngươi một con bò cái màu hung đỏ, nguyên tuyền, toàn vẹn và chưa bao giờ mang
ách. 3 Các ngươi sẽ trao nó cho tư tế E-la-da. Người ta sẽ đưa nó ra
ngoài trại và sát tế nó trước mặt ông. 4 Tư tế E-la-da sẽ lấy ngón
tay nhúng vào máu nó mà rảy bảy lần về phía mặt tiền Lều Hội Ngộ. 5 Người
ta sẽ thiêu con bò trước mắt ông; da, thịt, máu và phân nó đều đốt hết. 6 Và
tư tế sẽ lấy gỗ bá hương, hương thảo và chỉ màu đỏ thẫm mà quăng vào giữa con
bò đang cháy. 7 Sau đó tư tế phải giặt áo, và lấy nước rửa mình cho
sạch, rồi trở về trại, tư tế sẽ bị nhiễm uế cho tới chiều. 8 Người
thiêu con bò ấy cũng phải lấy nước giặt áo và rửa mình cho sạch, và cũng bị
nhiễm uế cho tới chiều. 9 Một người nào thanh sạch sẽ hốt tro con bò
ấy, để ở một nơi thanh sạch, bên ngoài trại. Ðối với cộng đồng con cái
Ít-ra-en, thì tro đó được dự trữ dùng làm nước tẩy uế. Ðó là nghi thức tạ tội. 10
Người đã hốt tro con bò cũng phải giặt áo, và cũng bị nhiễm uế cho tới
chiều. Ðối với con cái Ít-ra-en cũng như với ngoại kiều trú ngụ giữa chúng, thì
đó là một quy tắc vĩnh viễn.
Trường
hợp nhiễm uế
11
Ai
đụng vào người chết, bất cứ người chết này là ai, đều bị nhiễm uế trong bảy
ngày liền. 12 Ngày thứ ba và thứ bảy, người đó sẽ lấy nước nói trên
mà thanh tẩy mình và sẽ được sạch; nếu người đó không thanh tẩy mình ngày thứ
ba và thứ bảy, thì sẽ không được sạch. 13 Ai đụng vào người chết
-thi thể của một người đã chết- mà không thanh tẩy mình, người đó làm cho Nhà
Tạm của Ðức Chúa bị nhiễm uế, người như thế phải bị diệt trừ khỏi Ít-ra-en, vì
nó đã không được dội nước tẩy uế. Nó đã bị nhiễm uế, và ô uế vẫn tồn tại nơi
nó.
14
Ðây
là luật phải giữ khi có người chết trong lều: ai vào lều cũng như mọi người
đang ở trong lều, đều bị nhiễm uế trong bảy ngày liền. 15 Mọi bình
lọ để mở, không được cột kín, đều bị nhiễm uế.
16
Bất
cứ ai ở ngoài đồng đụng vào một người bị gươm đâm, một tử thi, hoặc xương người
hay là mồ mả, đều bị nhiễm uế trong bảy ngày liền.
Nghi
thức dùng nước tẩy uế
17
Ðể
thanh tẩy người bị nhiễm uế, người ta sẽ lấy một chút tro của con vật đã được
hoả tế làm lễ tạ tội, mà pha với nước lã trong một chiếc bình. 18 Rồi
một người còn thanh sạch lấy nhành hương thảo nhúng vào nước mà rảy lên lều,
lên tất cả các vật dụng cùng mọi người ở đó, lên kẻ đã đụng vào xương cốt, vào
người bị gươm đâm, hoặc tử thi hay là mồ mả. 19 Ngày thứ ba và thứ
bảy, người thanh sạch phải rảy nước lên người bị nhiễm uế; và ngày thứ bảy
người bị nhiễm uế sẽ được sạch tội. Người này phải lấy nước giặt áo và tắm rửa;
đến chiều nó sẽ được sạch. 20 Thế nhưng kẻ nào đã bị nhiễm uế mà
không chịu tẩy uế, thì nó sẽ bị diệt trừ khỏi công hội, vì nó đã làm cho nơi
thánh của Ðức Chúa bị nhiễm uế. Nó đã không được dội nước tẩy uế, nên nó vẫn
còn bị nhiễm uế.
21
Ðó
là quy tắc vĩnh viễn cho chúng. Người nào rảy nước tẩy uế thì phải giặt áo
mình; ai đụng vào nước đó sẽ bị nhiễm uế đến chiều. 22 Tất cả những
gì mà người bị nhiễm uế đụng vào đều bị nhiễm uế; người nào đụng vào những cái
đó cũng bị nhiễm uế cho đến chiều."
Chương 20
VII.
Từ Ca-Ðê Tới Mô-Áp
Mạch
nước Mơ-ri-va (Xh 17:1-7)
1
Toàn
thể cộng đồng con cái Ít-ra-en đến sa mạc Xin vào tháng giêng, và dân ở lại
Ca-đê. Bà Mi-ri-am đã qua đời và được chôn cất tại đây.
2
Cộng
đồng không có nước, họ bèn tụ tập phản đối ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 3 Dân
gây chuyện với ông Mô-sê, họ nói: "Phải chi lúc anh em chúng tôi tắt thở
trước mặt Ðức Chúa, thì chúng tôi cũng tắt thở luôn cho rồi. 4 Hai
ông đưa đại hội của Ðức Chúa vào sa mạc này để làm gì? Có phải để chúng tôi và
súc vật của chúng tôi chết ở đây hay không? 5 Hai ông đưa chúng tôi từ Ai-cập
lên để làm gì? Có phải để đưa chúng tôi vào chốn độc địa này chăng? Ðây không
phải là nơi để gieo vãi, không vả, không nho, không lựu, không cả nước
uống."
6
Ông
Mô-sê và ông A-ha-ron rời đại hội đến cửa Lều Hội Ngộ, các ông sấp mặt xuống
đất. Bấy giờ vinh quang Ðức Chúa hiện ra với các ông. 7 Ðức Chúa
phán với ông Mô-sê: 8 "Hãy cầm lấy cây gậy, và cùng với
A-ha-ron, anh ngươi, triệu tập cộng đồng lại. Trước mặt chúng, các ngươi sẽ nói
với tảng đá và chúng sẽ cho nước; từ tảng đá, ngươi sẽ làm cho nước chảy ra cho
chúng, và ngươi sẽ cho cộng đồng và súc vật của chúng uống."
9
Ông
Mô-sê cầm lấy cây gậy ở trước nhan Ðức Chúa, như Người đã truyền cho ông. 10
Ông Mô-sê và ông A-ha-ron triệu tập đại hội trước tảng đá; ông Mô-sê nói
với họ: "Nghe đây, hỡi quân phản nghịch! Từ tảng đá này, chúng tôi có thể
làm cho nước chảy ra cho các người được không?” 11 Ông Mô-sê giơ
tay, lấy gậy đập vào tảng đá hai lần; nước trào ra lai láng cho cộng đồng và
súc vật uống.
Trừng
phạt ông Mô-sê và ông A-ha-ron
12
Bấy
giờ Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron: "Bởi vì các ngươi đã
không tin vào Ta để biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt con cái
Ít-ra-en, nên các ngươi sẽ không được đưa đại hội này vào đất Ta ban cho chúng.”
13 Ðó là mạch nước Mơ-ri-va - nghĩa là gây chuyện - nơi con cái
Ít-ra-en đã gây chuyện với ÐỨC CHÚA, và Người đã biểu dương sự thánh thiện của
Người giữa họ.
Ê-đôm
không cho mượn đường
14
Từ
Ca-đê ông Mô-sê sai sứ giả đến nói với vua Ê-đôm rằng: "Bào huynh của ngài
là Ít-ra-en xin thưa với ngài như sau: ngài biết tất cả những nỗi khốn khó
chúng tôi đã gặp phải; 15 cha ông chúng tôi đã xuống Ai-cập và chúng
tôi đã lưu lại Ai-cập lâu dài như thế nào; rồi những người Ai-cập đã hành hạ
chúng tôi cũng như cha ông chúng tôi làm sao; 16 chúng tôi đã kêu
lên Ðức Chúa và Người đã nghe tiếng chúng tôi và đã sai thần sứ đưa chúng tôi
ra khỏi Ai-cập. Và đây, hiện chúng tôi đang ở Ca-đê, một thành sát ranh giới
của Ngài. 17 Vậy xin để chúng tôi đi qua đất của ngài. Chúng tôi sẽ
không băng qua ruộng rẫy, vườn nho, không uống nước giếng, nhưng sẽ cứ vương lộ
mà đi, không rẽ bên phải hay bên trái, cho tới khi ra khỏi biên giới của ngài.”
18 Nhưng Ê-đôm trả lời: "Ngươi không được đi qua đất của ta;
nếu không, ta sẽ ra ứng chiến với ngươi.” 19 Con cái Ít-ra-en đáp
lại: "Chúng tôi sẽ cứ quan lộ mà lên; và nếu chúng tôi và đàn vật của
chúng tôi có uống nước của ngài, thì chúng tôi sẽ tính sòng phẳng; có chuyện gì
đâu, chúng tôi chỉ đi bộ qua thôi.” 20 Ê-đôm nói: "Không
được", rồi đưa quân đông đảo và võ trang hùng hậu ra chặn đường. 21 Vì
Ê-đôm quyết từ chối không cho Ít-ra-en đi qua lãnh thổ của mình, nên Ít-ra-en
đã tránh con đường đó.
Ông
A-ha-ron qua đời
22
Từ
Ca-đê, toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en lên đường, đi vào vùng núi Ho. 23
Ðức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron trên núi Ho, giáp ranh giới
xứ Ê-đôm, rằng: 24 "A-ha-ron sẽ về sum họp với tổ tiên; nó sẽ
không được vào đất Ta đã ban cho con cái Ít-ra-en, bởi vì các ngươi đã cưỡng
lại lệnh Ta bên mạch nước Mơ-ri-va. 25 Ngươi hãy gọi A-ha-ron và con
của nó là E-la-da lại, và đưa chúng lên núi Ho. 26 Ngươi sẽ cởi phẩm
phục của A-ha-ron, mặc cho E-la-da con nó; A-ha-ron sẽ về sum họp với tổ tiên
và sẽ chết tại đó."
27
Ông
Mô-sê đã làm như Ðức Chúa truyền, và họ lên núi Ho trước mắt toàn thể cộng đồng.
28 Ông Mô-sê cởi phẩm phục của ông A-ha-ron, mặc cho con ông này là
E-la-da. Ông A-ha-ron đã qua đời tại đó, trên đỉnh núi. Còn ông Mô-sê và ông
E-la-da thì xuống núi. 29 Khi toàn thể cộng đồng hay biết ông
A-ha-ron qua đời, thì cả nhà Ít-ra-en đã khóc thương ông ba mươi ngày.
Chương 21
Chiếm
Khoóc-ma
1
Vua
A-rát, người Ca-na-an, cư ngụ tại Ne-ghép, nghe biết Ít-ra-en theo đường
A-tha-rim mà tới, thì đã tấn công Ít-ra-en và bắt được một số tù binh. 2 Bấy
giờ Ít-ra-en đã khấn với Ðức Chúa lời khấn như sau: "Nếu Ngài trao dân này
vào tay con, con sẽ tru diệt các thành của nó.” 3 Ðức Chúa đã nhận
lời Ít-ra-en mà trao người Ca-na-an cho họ, và họ đã tru diệt chúng cùng với
các thành của chúng. Người ta đã đặt tên cho nơi đó là Khoóc-ma.
Con
rắn đồng
4
Từ núi
Ho, họ lên đường theo đường Biển Sậy, vòng qua lãnh thổ Ê-đôm; trong cuộc hành
trình qua sa mạc, dân Ít-ra-en mất kiên nhẫn. 5 Họ kêu trách Thiên
Chúa và ông Mô-sê rằng: "Tại sao lại đưa chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập, để
chúng tôi chết trong sa mạc, một nơi chẳng có bánh ăn, chẳng có nước uống?
Chúng tôi đã chán ngấy thứ đồ ăn vô vị này."
6
Bấy
giờ Ðức Chúa cho rắn độc đến hại dân. Chúng cắn họ, khiến nhiều người Ít-ra-en
phải chết. 7 Dân đến nói với ông Mô-sê: "Chúng tôi đã phạm tội,
vì đã kêu trách Ðức Chúa và kêu trách ông. Xin ông khẩn cầu Ðức Chúa để Người
xua đuổi rắn xa chúng tôi." Ông Mô-sê khẩn cầu cho dân. 8 Ðức
Chúa liền nói với ông: "Ngươi hãy làm một con rắn và treo lên một cây cột.
Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống.” 9 Ông
Mô-sê bèn làm một con rắn bằng đồng và treo lên một cây cột. Và hễ ai bị rắn
cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống.
Những
chặng đường sang hữu ngạn sông Gio-đan
10
Con
cái Ít-ra-en đã lên đường và đóng trại ở Ô-vốt. 11 Rồi họ lại rời
Ô-vốt lên đường và đóng trại ở I-giê Ha A-va-rim trong sa mạc, đối diện với
Mô-áp, ở phía đông. 12 Từ đó họ lên đường và đóng ở suối De-rét. 13
Từ đây họ lên đường và đóng trại ở bên kia suối Ác-nôn. Suối này nằm
trong sa mạc, khởi từ biên giới E-mô-ri. Vì suối Ác-nôn là biên giới Mô-áp phân
ranh Mô-áp với E-mô-ri. 14 Bởi thế có lời trong cuốn "Chiến sử
của Ðức Chúa" rằng:
"Ðánh
chiếm Va-hếp tại Xu-pha, đánh chiếm luôn suối Ác-nôn,
15
cả
triền suối chạy dài tới khu vực A, dọc theo biên giới Mô-áp."
16
Và
từ đó họ đi tới Bơ-e.
Ðây
chính là giếng mà Ðức Chúa đã nói đến, khi phán với ông Mô-sê: "Hãy tập
họp dân lại, và Ta sẽ ban nước cho chúng."
17
Bấy
giờ Ít-ra-en xướng lên bài ca này:
"Vọt
lên đi nào, mạch giếng ơi!
Các
bạn hãy ca mừng giếng nước!
18
Giếng
xưa kia bậc thủ lãnh đã đào,
hàng
quyền quý của dân đã khơi
bằng
phủ việt, bằng quyền trượng các ngài!"
19
Từ
Mát-ta-na tới Na-kha-li-ên, và từ Na-kha-li-ên tới Ba-mốt. 20 Rồi từ
Ba-mốt tới thung lũng nằm trong vùng quê Mô-áp, gần đỉnh Pít-ga, đối diện với
sa mạc.
Chiếm
miền hữu ngạn sông Gio-đan (Ðnl 2:26-3:11)
21
Bấy
giờ Ít-ra-en sai các sứ giả đến thưa với Xi-khôn, vua dân E-mô-ri, rằng: 22
"Xin để tôi đi qua đất của ngài; tôi sẽ không băng qua ruộng rẫy,
vườn nho, không uống nước giếng; nhưng sẽ cứ vương lộ mà đi, cho tới khi ra
khỏi biên giới của ngài.” 23 Nhưng vua Xi-khôn không cho Ít-ra-en
băng qua bờ cõi của ông, lại còn tập họp toàn dân, ra chặn đường Ít-ra-en trong
sa mạc. Tới Gia-hát, ông giao chiến với Ít-ra-en. 24 Ít-ra-en vung
kiếm giết họ và chiếm đất từ Ác-nôn cho tới Giáp-bốc, đến tận biên giới con cái
Am-mon. Gia-de là biên giới con cái Am-mon.25 Ít-ra-en đã chiếm lấy tất cả các
thành đó và lưu lại trong các thành của người E-mô-ri ở Khét-bôn và các thị
trấn phụ thuộc. 26 Khét-bôn quả là kinh thành của Xi-khôn, vua dân
E-mô-ri, người đã từng giao tranh với đời vua trước của Mô-áp và chiếm toàn bộ
lãnh thổ của vua này cho tới Ác-nôn.
27
Vì
thế, thi nhân có lời rằng:
"Hãy
đến Khét-bôn mà xây dựng lại,
cho
kinh thành Xi-khôn được củng cố!
28
Vì
lửa cháy bốc ra từ Khét-bôn và hoả tai từ phố phường Xi-khôn
đã
huỷ diệt thành A của Mô-áp
và
bọn lãnh chúa trên các điểm cao suối Ác-nôn.
29
Khốn
cho mi, Mô-áp hỡi! Này dân Cơ-mốt, ngươi mạt vận rồi!
Con
trai ngươi bị đuổi xua chạy trốn,
con
gái ngươi bị nộp cho Xi-khôn, vua E-mô-ri.
30
Ruộng
rẫy của chúng bị huỷ hoại từ Khét-bôn cho tới Ði-vôn.
Chúng
tôi đã nổi lửa đốt phá từ Nô-phác cho tới Mê-đơ-va."
31
Ít-ra-en
đã định cư trên đất người E-mô-ri.
32
Ông
Mô-sê sai người đi do thám Gia-de: họ đã chiếm các thị trấn phụ thuộc và trục
xuất người E-mô-ri cư ngụ tại đó.
33
Rồi
họ đổi hướng và lên đường đi Ba-san. Vua Ba-san là Ốc, cùng toàn thể dân của
ông ra chặn đường, để giao chiến với họ tại Ét-re-i. 34 Nhưng Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ðừng sợ nó, vì Ta đã trao nó cùng tất cả dân cư
và đất đai của nó vào tay ngươi. Ngươi hãy xử với nó như đã xử với Xi-khôn, vua
dân E-mô-ri ở Khét-bôn.” 35 Thế là họ đánh bại vua ấy, con cái và
toàn dân ông, không để sót một người nào, và họ đã chiếm lấy đất của ông.
Chương 22
1
Sau
đó con cái Ít-ra-en lại lên đường và đóng trại ở thảo nguyên Mô-áp, bên kia
sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô.
Vua
Mô-áp cầu cứu ông Bi-lơ-am
2
Vua
Ba-lác, con vua Xíp-po, đã thấy tất cả những gì Ít-ra-en gây cho người E-mô-ri.
3 Người Mô-áp khiếp sợ trước đám dân đó, vì họ quá đông.
Mô-áp
kinh hãi phải đối đầu với con cái Ít-ra-en.
4
Mô-áp
nói với các kỳ mục Ma-đi-an rằng: "Này đám người ấy sẽ ngốn hết chung
quanh chúng ta, như bò ngốn cỏ ngoài đồng."
5
Vua
liền sai các sứ giả đến mời Bi-lơ-am, con của Bơ-o, ở Pơ-tho, gần sông Cả,
trong đất của con cái Am-mon. Vua nói: "Này, có một dân đã ra khỏi Ai-cập,
lan tràn khắp xứ và hiện đang đóng trại đối diện với ta. 6 Bây giờ
xin ông đến nguyền rủa dân đó cho ta, vì nó mạnh hơn ta. May ra nhờ thế ta có thể
đánh bại được nó và đuổi nó ra khỏi lãnh thổ của ta. Vì ta biết kẻ nào được ông
chúc phúc thì được phúc và kẻ nào bị ông nguyền rủa thì mắc hoạ."
7
Các
kỳ mục Mô-áp và các kỳ mục Ma-đi-an đã lên đường, cầm theo tiền thù lao cho lời
sấm; họ tới gặp ông Bi-lơ-am và chuyển tới ông lời của vua Ba-lác. 8 Ông
nói với họ: "Mời các ông qua đêm ở đây, rồi tôi sẽ trả lời cho các ông
theo như Ðức Chúa nói với tôi." Vậy các thủ lãnh Mô-áp đã ở lại với ông
Bi-lơ-am. 9 Thiên Chúa đến với ông Bi-lơ-am và phán rằng: "Những
kẻ đang ở với ngươi là ai đó?” 10 Ông Bi-lơ-am thưa lại với Thiên
Chúa: "Ba-lác, con của Xíp-po, vua Mô-áp, đã sai họ đến nói với tôi rằng: 11
Này, đám dân ra khỏi Ai-cập nay đã lan tràn khắp xứ; xin ông đến nguyền
rủa nó cho ta. May ra nhờ thế ta có thể giao tranh với nó và đuổi nó đi.” 12
Bấy giờ Thiên Chúa phán bảo ông Bi-lơ-am: "Ngươi không được đi với
chúng! Không được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc.” 13 Sáng
hôm sau ông Bi-lơ-am trỗi dậy và nói với các thủ lãnh vua Ba-lác đã sai đến, rằng:
"Các ông hãy trở về xứ các ông; Ðức Chúa đã từ chối không để cho tôi đi
với các ông.” 14 Vậy các thủ lãnh Mô-áp trỗi dậy, trở về với vua
Ba-lác và nói: "Ông Bi-lơ-am đã từ chối không chịu cùng đến với chúng
tôi."
15
Một
lần nữa vua Ba-lác lại sai các thủ lãnh đông hơn và có thế giá hơn những người
trước. 16 Họ đến gặp ông Bi-lơ-am và thưa rằng: "Vua Ba-lác,
con của vua Xíp-po nói thế này: Ông đừng ngại đến với ta; 17 chắc
chắn ta sẽ hết sức trọng đãi ông, và tất cả những gì ông bảo, ta sẽ làm; ông cứ
đến nguyền rủa dân ấy giúp ta.” 18 Nhưng ông Bi-lơ-am trả lời và nói
với bầy tôi vua Ba-lác rằng: "Vua Ba-lác có cho tôi một nhà đầy bạc đầy
vàng, tôi cũng chẳng làm gì trái lệnh Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi được, dù
việc lớn hay việc nhỏ. 19 Nhưng bây giờ, cả các ông nữa, mời các ông
cũng nghỉ đêm ở đây, và tôi sẽ biết Ðức Chúa có phán thêm điều gì với tôi
không.” 20 Ðêm ấy Thiên Chúa đến với ông Bi-lơ-am và phán bảo ông:
"Những người ấy đến, không phải để gọi ngươi đó sao? Cứ trỗi dậy, đi với
chúng. Nhưng ngươi chỉ được làm điều Ta bảo ngươi.” 21 Sáng ngày,
ông Bi-lơ-am trỗi dậy, thắng con lừa cái của mình và lên đường với các thủ lãnh
Mô-áp.
Con
lừa cái của ông Bi-lơ-am
22
Cơn
thịnh nộ của Thiên Chúa bừng lên vì ông đã ra đi, và thần sứ của Ðức Chúa đứng
trên đường chận lối ông đi. Ông cỡi con lừa cái của mình, có hai tiểu đồng đi
theo. 23 Khi con lừa thấy thần sứ của Ðức Chúa đứng trên đường, gươm
trần trong tay, thì nó tránh đường, đi xuống ruộng. Ông Bi-lơ-am đánh con lừa
cho nó lên trên đường.
24
Bấy
giờ thần sứ của Ðức Chúa đứng chặn tại một đường mòn giữa các vườn nho, tả hữu
có tường. 25 Con lừa cái trông thấy thần sứ của Ðức Chúa thì đi ép
vào tường khiến chân ông Bi-lơ-am bị cọ xát. Ông lại đánh nó.
26
Thần
sứ của Ðức Chúa lại đi tới và đứng ở một nơi chật hẹp đến nỗi không còn chỗ
tránh qua bên tả bên hữu. 27 Con lừa trông thấy thần sứ của Ðức
Chúa, liền nằm bẹp xuống bên dưới ông Bi-lơ-am. Ông Bi-lơ-am nổi nóng lại dùng
gậy đánh con lừa.
28
Bấy
giờ Ðức Chúa liền mở miệng con lừa; nó nói với ông Bi-lơ-am: "Tôi đã làm
gì ông, mà ông lại đánh tôi những ba lần?” 29 Ông Bi-lơ-am nói với
con lừa: "Vì mày đã ngạo tao. Tao mà có sẵn chiếc gươm trong tay, thì tao
đã giết mày rồi!” 30 Con lừa nói với ông Bi-lơ-am: "Tôi không
phải là con lừa cái của ông, mà ông đã cỡi mãi cho tới ngày hôm nay sao? Tôi có
quen làm như vậy với ông bao giờ chưa?" Ông đáp: "Chưa bao giờ."
31
Bấy
giờ Ðức Chúa mới mở mắt cho ông Bi-lơ-am thấy thần sứ của Ðức Chúa trên đường,
gươm trần trong tay. Ông quỳ xuống, sấp mặt sát đất. 32 Thần sứ của
Ðức Chúa nói với ông: "Tại sao ngươi đánh con lừa của ngươi những ba lần?
Này, chính Ta đứng ra chặn đường ngươi, vì trước mặt Ta, con đường này nguy
hiểm. 33 Con lừa cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt Ta những ba lần.
Giả như nó không tránh mặt Ta, thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì
Ta đã để cho sống.” 34 Ông Bi-lơ-am thưa với thần sứ của Ðức Chúa:
"Tôi đã trót phạm tội, vì tôi không biết là Ngài đứng chặn đường không cho
tôi đi. Bây giờ nếu Ngài thấy là không được, thì tôi sẽ quay về nhà.” 35 Thần
sứ của Ðức Chúa nói với ông Bi-lơ-am: "Ngươi cứ đi với các người ấy; nhưng
ngươi chỉ được nói điều Ta bảo ngươi." Thế là ông Bi-lơ-am cùng đi với các
thủ lãnh của vua Ba-lác.
Ông
Bi-lơ-am và vua Ba-lác
36
Khi
ông Ba-lác nghe tin ông Bi-lơ-am tới, thì ra đón ông tại kinh thành Mô-áp, trên
ranh giới Ác-nôn, ở điểm chót của ranh giới. 37 Vua Ba-lác nói với
ông Bi-lơ-am: "Nào tôi đã chẳng cho người đến mời ông sao? Tại sao ông lại
không đến với tôi? Dễ thường tôi không đủ khả năng trọng đãi ông?” 38 Ông
Bi-lơ-am thưa lại với vua Ba-lác: "Này tôi đã đến với ông đây. Nhưng tôi
có thể nói gì bây giờ? Lời nào Thiên Chúa đặt vào miệng tôi thì tôi nói
thôi."
39
Ông
Bi-lơ-am cùng đi với vua Ba-lác; họ tới Kia-giát Khu-xốt. 40 Vua
Ba-lác sát tế bò chiên và gửi biếu ông Bi-lơ-am và các thủ lãnh đang ở với ông
này. 41 Sáng hôm sau vua Ba-lác mời ông Bi-lơ-am tới, và đưa ông lên
Ba-mốt Ba-an; từ đây ông nhìn thấy phần cuối trại của dân.
Chương 23
1
Ông
Bi-lơ-am thưa với vua Ba-lác: "Xin xây cho tôi bảy bàn thờ ngay tại đây,
liệu ở đây cho tôi bảy con bò mộng và bảy con cừu đực.” 2 Vua Ba-lác
làm như ông Bi-lơ-am nói. Và vua Ba-lác cùng ông Bi-lơ-am dâng một con bò mộng
và một con cừu đực tại mỗi bàn thờ. 3 Ông Bi-lơ-am thưa với vua
Ba-lác: "Xin ngài đứng cạnh lễ toàn thiêu của ngài; còn tôi, tôi sẽ đi. Có
khi Ðức Chúa sẽ hiện ra cho tôi gặp Người; và Người cho tôi thấy gì, tôi sẽ tỏ
cho ngài biết." Và ông đi lên một ngọn đồi hoang.
Lời
sấm của Bi-lơ-am
4
Thiên
Chúa đón gặp ông Bi-lơ-am, và ông thưa với Người: "Tôi đã sắp đặt bảy bàn
thờ và đã dâng một con bò mộng và một con cừu đực tại mỗi bàn thờ.” 5 Bấy
giờ Ðức Chúa đặt một lời vào miệng ông Bi-lơ-am, và bảo ông rằng: "Hãy trở
về với Ba-lác và nói như sau.” 6 Ông trở về với vua, thì này vua
đang đứng cạnh lễ toàn thiêu cùng với tất cả các thủ lãnh Mô-áp. 7 Ông
cất tiếng đọc bài thơ của mình như sau:
"Từ
A-ram, Ba-lác vua Mô-áp đã cho mời tôi đến
từ
các vùng đồi núi phía đông:
Hãy
đến mà trù Gia-cóp cho ta, hãy đến mà rủa Ít-ra-en!
8
Làm
sao tôi trù được kẻ Thượng Ðế không trù?
Làm
sao tôi rủa được kẻ Ðức Chúa không rủa?
9
Thật
ra, tôi đã thấy nó từ các đỉnh núi cao,
từ
các ngọn đồi, tôi đã nhìn ngắm nó:
Nó
là một dân được tách biệt;
không
bị xếp đồng hàng với chư dân.
10
Ai
đếm được bụi đất của Gia-cóp?
Ai
điểm được một phần tư của Ít-ra-en?
Ước
chi tôi được chết cái chết của người công chính,
và
tôi được mãn phần như họ."
11
Vua
Ba-lác nói với ông Bi-lơ-am: "Ông làm gì ta thế? Ta đưa ông tới để ông
nguyền rủa kẻ thù của ta, thế mà, này ông chỉ chúc phúc thôi!” 12 Ông
trả lời và nói: "Tôi lại không phải lo nói điều Ðức Chúa đặt vào miệng tôi
sao?” 13 Vua Ba-lác nói với ông: "Mời ông đi chỗ khác với ta,
từ nơi ấy ông sẽ thấy dân; ông sẽ chỉ thấy phần cuối của nó, chứ không thấy hết
đâu. Từ nơi ấy, ông hãy nguyền rủa nó cho ta.” 14 Bấy giờ vua đưa
ông ấy tới cánh đồng Xô-phim, lên ngọn Pít-ga, rồi xây bảy bàn thờ, và dâng một
con bò mộng và một con cừu đực làm lễ toàn thiêu tại mỗi bàn thờ. 15 Ông
Bi-lơ-am thưa với vua Ba-lác: "Xin ngài đứng đây, bên các lễ toàn thiêu của
ngài, còn tôi sẽ đi gặp Thiên Chúa ở đàng kia.” 16 Ðức Chúa đón ông
Bi-lơ-am, Người đặt vào miệng ông một lời và bảo ông rằng: "Hãy trở về với
Ba-lác và nói như sau.” 17 Ông trở về với vua, thì này vua đang đứng
bên các lễ toàn thiêu của mình cùng với các thủ lãnh Mô-áp. Vua Ba-lác hỏi:
"Ðức Chúa đã nói gì thế?” 18 Ông Bi-lơ-am cất tiếng đọc bài thơ
của mình như sau:
"Này
vua Ba-lác, đứng dậy mà nghe,
hãy
lắng tai nghe tôi, hỡi con của Xíp-po:
19
Thiên
Chúa không phải là phàm nhân mà gian ngoa được,
cũng
chẳng là con người mà phải hối hận.
Phải
chăng Người nói mà không làm?
Hay
Người phán mà không thực hiện?
20
Này
Chúa bắt tôi phải chúc phúc,
tôi
sẽ chúc phúc mà không tiếc lời.
21
Tôi
đã không thấy gian ác nơi Gia-cóp,
cũng
chẳng gặp áp bức trong Ít-ra-en.
Ðức
Chúa, Thiên Chúa của nó, hằng kề bên,
tiếng
"vạn tuế Ðức Vua" trỗi vang lừng.
22
Thiên
Chúa đã đưa nó ra khỏi Ai-cập,
Người
là sức mạnh của nó tựa sừng trâu.
23
Vì
chẳng có tiếng trù hại Gia-cóp,
cũng
không có lời rủa chống Ít-ra-en.
Mà
người ta còn nói về Gia-cóp
và
Ít-ra-en: Thiên Chúa làm gì vậy?
24
Này
một dân chỗi dậy như sư tử cái,
như
sư tử đực, nó chồm lên.
nó
không nằm xuống khi chưa nuốt mồi,
chưa
uống máu những người nó đã giết."
25
Vua
Ba-lác nói với ông Bi-lơ-am: "Nếu ông không nguyền rủa nó được, thì ít ra
đừng chúc phúc cho nó!” 26 Nhưng ông Bi-lơ-am trả lời và nói với vua
Ba-lác: "Tôi đã không thưa với ngài là tôi phải làm tất cả những gì Ðức
Chúa phán bảo sao?"
27
Vua
Ba-lác lại nói với ông Bi-lơ-am: "Ðến đây, ta sẽ đưa ông đi nơi khác, may
ra tại đó Thiên Chúa sẽ chấp thuận cho ông nguyền rủa nó cho ta.” 28 Vua
Ba-lác đưa ông Bi-lơ-am lên ngọn Pơ-o, là ngọn núi đối diện với sa mạc. 29
Ông Bi-lơ-am nói với vua Ba-lác: "Xin xây cho tôi bảy bàn thờ ngay
tại đây, liệu ở đây cho tôi bảy con bò mộng và bảy con cừu đực.” 30 Vua
Ba-lác làm như ông Bi-lơ-am nói và ông đã dâng một con bò mộng và một con cừu
đực làm lễ toàn thiêu tại mỗi bàn thờ.
Chương 24
1
Khi
ông Bi-lơ-am thấy Ðức Chúa vui lòng chúc phúc cho Ít-ra-en, thì ông không đi
tìm lời trù rủa như mấy lần trước, nhưng quay mặt về phía sa mạc. 2 Ông
Bi-lơ-am ngước mắt lên và nhìn thấy Ít-ra-en đóng trại theo chi tộc của họ.
Thần khí Thiên Chúa ở trên ông, 3 ông liền cất tiếng đọc bài thơ sau
đây:
"Sấm
ngôn của Bi-lơ-am, con Bơ-o,
sấm
ngôn của người mắt vẫn mở.
4
Sấm
ngôn của người nghe các lời Thiên Chúa,
người
ngắm nhìn thị kiến Ðấng Toàn Năng,
của
người ngủ mà mắt vẫn mở trong lúc xuất thần.
5
Hỡi
Gia-cóp, lều bạt của ngươi đẹp biết mấy!
Hỡi
Ít-ra-en, đẹp biết mấy doanh trại của ngươi!
6
Như
thung lũng trải dài, như vườn cạnh bờ sông,
như
lô hội Ðức Chúa đã trồng,
như
hương nam mọc bên dòng nước.
7
Từ
các bồn của nó, nước tràn ra,
và
hạt giống nó được tưới dồi dào.
Vua
của nó cao cả hơn A-gác,
và
vương quốc nó được tôn vinh.
8
Thiên
Chúa đã đưa nó ra khỏi Ai-cập,
Người
là sức mạnh của nó tựa sừng trâu.
Nó
sẽ nuốt chư dân thù nghịch nó.
Xương
của chúng, nó sẽ nghiền nát tan
và
dùng tên bắn gục quân thù.
9
Nó
phục xuống, nằm yên như sư tử.
Nó
tựa sư tử cái, ai nào dám tấn công?
Phúc
thay kẻ chúc phúc cho ngươi!
Và
khốn cho kẻ trù rủa ngươi!"
10
Vua
Ba-lác nổi giận với ông Bi-lơ-am. Vua đập tay và nói với ông Bi-lơ-am: "Ta
đã vời ông đến để ông nguyền rủa quân thù của ta, nhưng này, đã ba lần ông chỉ
chúc phúc cho nó. 11 Bây giờ ông hãy về đi. Ta đã nói ta sẽ trọng
đãi ông, nhưng này Ðức Chúa không cho ông được trọng đãi.” 12 Ông
Bi-lơ-am thưa vua Ba-lác: "Tôi đã không nói với các sứ giả ngài sai đến
với tôi thế này sao, là 13 vua Ba-lác có cho tôi một nhà đầy bạc đầy vàng, tôi
cũng không thể trái lệnh Ðức Chúa, mà tự ý làm điều gì, dù tốt hay xấu; Ðức
Chúa nói sao, tôi nói vậy. 14 Bây giờ tôi sắp về với dân tôi. Này,
tôi nói cho ngài biết điều mà dân (Ít-ra-en) sẽ làm cho dân ngài trong những
ngày gần đây.” 15 Rồi ông cất tiếng đọc bài thơ của mình như sau:
"Sấm
ngôn của Bi-lơ-am, con Bơ-o,
sấm
ngôn của người mắt vẫn mở.
16
Sấm
ngôn của người nghe các lời Thiên Chúa,
và
biết những tư tưởng của Ðấng Tối Cao,
được
Ðấng Toàn Năng cho nhìn linh thị,
của
người ngủ mà mắt vẫn mở trong lúc xuất thần.
17
Tôi
thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc,
tôi
nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên;
một
vì sao xuất hiện từ Gia-cóp,
một
vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en
sẽ
đập vào màng tang Mô-áp, đánh vỡ sọ tất cả con cái Sết,
18
và
xâm chiếm Ê-đôm,
cả
Xê-ia cũng bị xâm chiếm nữa.
Ít-ra-en
sẽ biểu dương sức mạnh,
19
Gia-cóp
sẽ thống trị quân thù,
và
tiêu diệt kẻ trốn khỏi thành phố."
20
Khi
thấy A-ma-lếch, ông cất tiếng đọc câu thơ như sau:
"A-ma-lếch
đứng đầu chư dân
nhưng
hậu vận nó sẽ muôn đời tận tuyệt."
21
Khi
thấy người Kê-ni, ông cất tiếng đọc câu thơ như sau:
"Hiện
nay dinh thự ngươi kiên cố,
và
tổ ấm ngươi được đặt trên đá tảng.
22
Nhưng
Ca-in sẽ phải tiêu vong,
ngươi
sẽ bị Át-sua cầm tù, biết đến khi nao? "
23
Và
ông cất tiếng đọc câu thơ như sau:
"Ôi,
khi Thiên Chúa ra tay, ai nào sống nổi!
24
Tàu
bè từ Kít-tim đến, đàn áp Át-sua, đàn áp Ê-ve,
nhưng
chính nó cũng muôn đời tận tuyệt."
25
Sau
đó ông Bi-lơ-am đứng dậy lên đường về xứ, còn vua Ba-lác cũng đường mình mà đi.
Chương 25
Ít-ra-en
tại Pơ-o
1
Khi
trú ngụ tại Sít-tim, dân Ít-ra-en bắt đầu dâm đãng với gái Mô-áp. 2 Bọn
này rủ rê dân thờ cúng các thần của chúng; dân đã ăn uống và thờ lạy các thần
của chúng. 3 Ít-ra-en bán mình cho Ba-an Pơ-o và Ðức Chúa nổi cơn
thịnh nộ với họ.
4
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Hãy đem tất cả các thủ lãnh của dân ra ngoài
nắng mà treo lên trước mặt Ðức Chúa, để Ðức Chúa nguôi cơn thịnh nộ với
Ít-ra-en.” 5 Ông Mô-sê nói với các thẩm phán: "Mỗi người trong
anh em hãy giết những kẻ đã bán mình cho Ba-an Pơ-o."
6
Bỗng
một người trong số con cái Ít-ra-en xuất hiện, dẫn theo một gái Ma-đi-an về
nhà, ngay trước mắt ông Mô-sê và toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en lúc ấy
đang khóc lóc tại cửa Lều Hội Ngộ. 7 Thấy vậy, ông Pin-khát, con của
E-la-da, cháu tư tế A-ha-ron, liền đứng lên giữa cộng đồng, cầm một chiếc giáo
trong tay, 8 đi theo người Ít-ra-en vào tận phòng hắn và đâm cả hai
người, gã đàn ông Ít-ra-en và mụ đàn bà kia ngay giữa bụng. Thế là chấm dứt tai
ương đe doạ con cái Ít-ra-en. 9 Số người chết trong tai ương đó, là
24,000.
10
Ðức
Chúa phán bảo ông Mô-sê rằng: 11 "Pin-khát con của E-la-da,
cháu tư tế A-ha-ron, đã ngăn Ta trút cơn phẫn nộ xuống con cái Ít-ra-en, khi nó
cũng nổi ghen như Ta, chống lại bọn người kia. Vì vậy Ta không tiêu diệt con
cái Ít-ra-en trong cơn ghen của Ta. 12 Cho nên, ngươi hãy bảo nó:
Này, Ta ban cho nó giao ước bình an của Ta. 13 Ðối với nó, cũng như
con cháu nó sau này, đó sẽ là giao ước bảo đảm cho nó chức tư tế đời đời, bởi
vì nó đã nổi ghen cho Thiên Chúa của nó, và làm cho con cái Ít-ra-en được xá
tội."
14
Người
Ít-ra-en đã bị đâm cùng với người đàn bà Ma-đi-an tên là Dim-ri, con của Xa-lu,
đứng đầu một gia tộc thuộc Si-mê-ôn. 15 Và người đàn bà Ma-đi-an bị
đâm tên là Cót-bi, con gái ông Xua, ông này là thủ lãnh các dòng họ một gia tộc
Ma-đi-an.
16
Ðức
Chúa phán bảo ông Mô-sê rằng: 17 "Hãy tấn công quân Ma-đi-an và
giết chúng đi. 18 Vì chúng đã tấn công các ngươi, và dùng mưu mô quỷ
quyệt đối với các ngươi trong vụ Pơ-o và vụ Cót-bi, con gái một thủ lãnh
Ma-đi-an, chị em của chúng, kẻ đã bị đâm chết ngày xảy ra tai ương trong vụ
Pơ-o."
VIII.
Quy Ðịnh Mới
Kiểm
tra
19
Sau
tai ương đó,
Chương 26
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê và ông E-la-da, con tư tế A-ha-ron rằng: 2 "Các
ngươi hãy kiểm tra toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en, từ hai mươi tuổi trở
lên, nghĩa là mọi người đến tuổi nhập ngũ trong dân Ít-ra-en.” 3 Ông
Mô-sê và tư tế E-la-da đã kiểm tra tại thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối
diện với Giê-ri-khô, 4 những người từ hai mươi tuổi trở lên, như Ðức
Chúa đã truyền cho ông Mô-sê và con cái Ít-ra-en, khi họ đã ra khỏi đất Ai-cập.
5
Rưu-vên,
trưởng nam của Ít-ra-en. Con cái Rưu-vên: Kha-nốc, thủy tổ thị tộc Kha-nốc;
Pa-lu, thủy tổ thị tộc Pa-lu; 6 Khét-rôn, thủy tổ thị tộc Khét-rôn;
Các-mi, thủy tổ thị tộc Các-mi. 7 Ðó là các thị tộc thuộc chi tộc Rưu-vên.
Tổng số người được kiểm là 43,730.
8
Con
cháu Pa-lu: Ê-li-áp. 9 Các con Ê-li-áp là Nơ-mu-ên, Ða-than và
A-vi-ram. Chính Ða-than và A-vi-ram, những người được chỉ định trong cộng đồng,
đã nổi lên chống ông Mô-sê và ông A-ha-ron, cùng toa rập với Cô-rắc chống lại
Ðức Chúa. 10 Ðất đã mở họng nuốt chửng chúng và Cô-rắc, khiến cả bọn
phải tiêu vong, và lửa đã thiêu huỷ 250 mạng để làm gương. 11 Thế
nhưng con cái Cô-rắc đã không chết.
12
Con
cháu Si-mê-ôn, theo thị tộc của họ: Nơ-mu-ên, thủy tổ thị tộc Nơ-mu-ên;
Gia-min, thủy tổ thị tộc Gia-min; Gia-khin, thủy tổ thị tộc Gia-khin; 13 De-rác,
thủy tổ thị tộc De-rác; Sa-un, thủy tổ thị tộc Sa-un. 14 Ðó là các
thị tộc thuộc chi tộc Si-mê-ôn, số người được kiểm tra là 22,000.
15
Con
cháu Gát, theo thị tộc của họ: Xơ-phôn, thủy tổ thị tộc Xơ-phôn; Khác-ghi, thủy
tổ thị tộc Khác-ghi; Su-ni, thủy tổ thị tộc Su-ni; 16 Ót-ni, thủy tổ
thị tộc Ót-ni; Ê-ri, thủy tổ thị tộc Ê-ri; 17 A-rốt, thủy tổ thị tộc
A-rốt; Ác-ê-li, thủy tổ thị tộc Ác-ê-li. 18 Ðó là các thị tộc con cháu
Gát, số người được kiểm tra là 40,500.
19
Các
con Giu-đa là E và Ô-nan, nhưng E và Ô-nan chết trong đất Ca-na-an. 20 Con
cháu Giu-đa theo thị tộc: Sê-la, thủy tổ thị tộc Sê-la; Pe-rét, thủy tổ thị tộc
Pe-rét; De-rác, thủy tổ thị tộc De-rác. 21 Con cháu Pe-rét:
Khét-rôn, thủy tổ thị tộc Khét-rôn; Kha-mun, thủy tổ thị tộc Kha-mun. 22 Ðó
là các thị tộc thuộc chi tộc Giu-đa, số người được kiểm tra là 76,500.
23
Con
cháu Ít-xa-kha theo thị tộc của họ: Tô-la, thủy tổ thị tộc Tô-la; Pu-va, thủy
tổ thị tộc Pu-va; 24 Gia-súp, thủy tổ thị tộc Gia-súp; Sim-rôn, thủy
tổ thị tộc Sim-rôn. 25 Ðó là các thị tộc thuộc chi tộc Ít-xa-kha, số
người được kiểm tra là 64,300.
26
Con
cháu Dơ-vu-lun theo thị tộc của họ: Xe-rét, thủy tổ thị tộc Xe-rét; Ê-lôn, thủy
tổ thị tộc Ê-lôn; Giác-lơ-ên, thủy tổ thị tộc Giác-lơ-ên. 27 Ðó là
các thị tộc thuộc chi tộc Dơ-vu-lun, số người được kiểm tra là 60,500.
28
Con
cái Giu-se, theo chi tộc họ: Mơ-na-se và Ép-ra-im. 29 Con cháu
Mơ-na-se: Ma-khia, thủy tổ thị tộc Ma-khia; Ma-khia sinh Ga-la-át: Ga-la-át,
thủy tổ thị tộc Ga-la-át. 30 Ðây là con cái Ga-la-át: I-e-de, thủy
tổ thị tộc I-e-de; Khê-léc, thủy tổ thị tộc Khê-léc. 31 Át-ri-ên,
thủy tổ thị tộc Át-ri-ên; Se-khem, thủy tổ thị tộc Se-khem. 32 Sơ-mi-đa,
thủy tổ thị tộc Sơ-mi-đa; Khê-phe, thủy tổ thị tộc Khê-phe. 33 Xơ-lóp-khát,
con của Khê-phe, không có con trai, chỉ có con gái, và đây là tên các con gái
của Xơ-lóp-khát: Mác-la, Nô-a, Khoóc-la, Min-ca và Tia-xa. 34 Ðó là
các thị tộc thuộc chi tộc Mơ-na-se; số người được kiểm tra là 52,700.
35
Ðây
là con cháu Ép-ra-im, theo thị tộc của họ: Su-the-lác, thủy tổ thị tộc
Su-the-lác; Be-khe, thủy tổ thị tộc Be-khe; Ta-khan, thủy tổ thị tộc Ta-khan. 36
Và đây là các con cháu Su-the-lác: Ê-ran, thủy tổ thị tộc Ê-ran. 37 Ðó
là các thị tộc con cháu Ép-ra-im, số người được kiểm tra là 32,500. Những người
ấy là con cháu Giu-se, theo các thị tộc.
38
Con
cháu Ben-gia-min theo thị tộc của họ: Be-la, thủy tổ thị tộc Be-la; Át-bên,
thủy tổ thị tộc Át-bên; A-khi-ram, thủy tổ thị tộc A-khi-ram. 39 Sơ-phu-pham,
thủy tổ thị tộc Sơ-phu-pham; Khu-pham, thủy tổ thị tộc Khu-pham. 40 Các
con của Be-la là: Ác-đơ và Na-a-man; Ác-đơ, thủy tổ thị tộc Ác-đơ; Na-a-man,
thủy tổ thị tộc Na-a-man. 41 Ðó là các thị tộc con cháu Ben-gia-min;
số người được kiểm tra là 45,600.
42
Ðây
là con cháu Ðan theo thị tộc của họ: Su-kham, thủy tổ thị tộc Su-kham. Ðó là
các thị tộc thuộc chi tộc Ðan được kiểm tra. 43 Tất cả các thị tộc
thuộc Su-kham được kiểm tra, số người là 64,400.
44
Con
cháu A-se theo thị tộc của họ: Gim-na, thủy tổ thị tộc Gim-na; Gít-vi, thủy tổ
thị tộc Gít-vi; Bơ-ri-a, thủy tổ thị tộc Bơ-ri-a. 45 Thuộc con cháu
Bơ-ri-a: Khe-ve, thủy tổ thị tộc Khe-ve; Man-ki-ên, thủy tổ thị tộc Man-ki-ên. 46
Tên người con gái của A-se là Xa-rác. 47 Ðó là các thị tộc con
cháu A-se; số người được kiểm tra là 53,400.
48
Con
cháu Náp-ta-li theo thị tộc của họ: Giác-xơ-ên, thủy tổ thị tộc Giác-xơ-ên;
Gu-ni, thủy tổ thị tộc Gu-ni. 49 Giê-xe, thủy tổ thị tộc Giê-xe;
Si-lêm, thủy tổ thị tộc Si-lêm. 50 Ðó là các thị tộc Náp-ta-li, theo
các thị tộc của họ; số người được kiểm tra là 45,400.
51
Ðây
tổng số con cái Ít-ra-en là 601,730.
52
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 53 "Ðất đai sẽ được phân chia cho
những người ấy theo số tên đã ghi. 54 Ðông người thì ngươi sẽ chia
cho phần lớn hơn làm gia nghiệp, và ít người thì ngươi sẽ chia cho phần nhỏ hơn
làm gia nghiệp; ngươi sẽ cho mỗi chi tộc phần gia nghiệp tương xứng với số
người đã được kiểm tra. 55 Nhưng phải bắt thăm để chia đất. Theo tên
các chi tộc tổ tiên của chúng mà lãnh phần. 56 Cứ bắt thăm mà lãnh,
tuỳ theo đông người hay ít người."
Kiểm
tra các thầy Lê-vi
57
Ðây
là các thầy Lê-vi đã được kiểm tra theo thị tộc của họ: Ghéc-sôn, thủy tổ thị
tộc Ghéc-sôn; Cơ-hát, thủy tổ thị tộc Cơ-hát; Mơ-ra-ri, thủy tổ thị tộc
Mơ-ra-ri.
58
Ðây
là các thị tộc thuộc chi tộc Lê-vi: Thị tộc Líp-ni, thị tộc Khép-rôn, thị tộc
Mác-li, thị tộc Mu-si, thị tộc Cô-rắc.
59
Tên
người vợ của Am-ram là Giô-khe-vét, con gái ông Lê-vi, ông đã sinh bên Ai-cập.
Bà đã sinh cho ông Am-ram: A-ha-ron, Mô-sê và người em gái là Mi-ri-am. 60
Ông A-ha-ron sinh ra Na-đáp, A-vi-hu, E-la-da, và I-tha-ma. 61 Na-đáp
và A-vi-hu đã chết khi họ dâng lửa phàm trước nhan Ðức Chúa.
62
Số
người Lê-vi được kiểm tra, tất cả con trai từ một tháng trở lên, là 23,000 bởi
họ đã không được kiểm tra chung với con cái Ít-ra-en, vì không được chung phần
gia nghiệp.
63
Ðó
là những người được ông Mô-sê và tư tế E-la-da kiểm tra, khi các ông kiểm tra
con cái Ít-ra-en trong thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với
Giê-ri-khô. 64 Không ai trong những người ấy đã được ông Mô-sê và tư
tế A-ha-ron kiểm tra, khi các ông kiểm tra con cái Ít-ra-en trong sa mạc Xi-nai.
65 Vì, về những người này, Ðức Chúa đã phán là họ sẽ phải chết trong
sa mạc. Bởi vậy, trừ ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, và trừ ông Giô-suê, con
ông Nun, thì không còn ai nữa.
Chương 27
Gia
tài cho con gái
1
Bấy
giờ các con gái của ông Xơ-lóp-khát tiến đến. Ông này là con ông Khê-phe, cháu
ông Ga-la-át, chắt ông Ma-khia, chít ông Mơ-na-se, thuộc chi tộc ông Giu-se. Và
đây là tên các cô gái đó: Mác-la, Nô-a, Khoóc-la, Min-ca và Tia-xa. 2 Họ
đứng trước mặt ông Mô-sê, trước mặt tư tế E-la-da, trước mặt các thủ lãnh và
toàn thể cộng đồng, ở cửa Lều Hội Ngộ, và nói: 3 "Cha chúng tôi
đã mất trong sa mạc. Người đã không có chân trong nhóm những kẻ toa rập với
nhau chống lại Ðức Chúa, tức là nhóm Cô-rắc. Chỉ vì tội riêng mình mà người đã
mất đi, khi chưa có con trai. 4 Tại sao cha chúng tôi lại bị xoá tên
khỏi thị tộc của người, vì người không có con trai? Xin cho chúng tôi một phần
đất giữa các anh em của cha chúng tôi."
5
Ông
Mô-sê trình lên Ðức Chúa trường hợp của họ. 6 Ðức Chúa phán với ông
Mô-sê: 7 "Các con gái của Xơ-lóp-khát nói có lý. Ngươi phải cho
chúng một phần đất làm gia nghiệp giữa các anh em của cha chúng; ngươi sẽ
chuyển cho chúng gia nghiệp của cha chúng. 8 Và ngươi sẽ nói với con
cái Ít-ra-en: "Khi một người nào chết mà không có trai, thì anh em sẽ
chuyển gia nghiệp của người đó cho con gái người đó. 9 Nếu người đó
không có con gái, anh em sẽ trao gia nghiệp cho anh em của người đó. 10 Nếu
người đó không có anh em, thì sẽ trao gia nghiệp cho anh em của cha người đó. 11
Còn nếu cha người đó không có anh em, thì sẽ trao gia nghiệp cho thân
nhân gần nhất trong thị tộc; người này sẽ làm chủ gia nghiệp đó. Ðối với con
cái Ít-ra-en, đó sẽ là một quy tắc pháp lý, như Ðức Chúa đã truyền cho ông
Mô-sê."
Ông
Giô-suê làm thủ lãnh cộng đồng
12
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ngươi hãy lên ngọn núi kia của dãy A-va-rim, và
hãy nhìn xem miền đất mà Ta ban cho con cái Ít-ra-en. 13 Khi đã nhìn
xem rồi, ngươi cũng sẽ về sum họp với gia tiên, như A-ha-ron anh ngươi, 14
vì ở sa mạc Xin, trong lúc cộng đồng chống đối Ta, các ngươi đã chống lại
lệnh Ta truyền làm cho nước chảy ra để tỏ bày sự thánh thiện của Ta trước mắt
chúng. Ðó là vụ nước Mơ-ri-va ở Ca-đê, trong sa mạc Xin."
15
Ông
Mô-sê thưa với Ðức Chúa: 16 "Ước gì Ðức Chúa, là Thiên Chúa ban
sinh khí cho mọi xác phàm, đặt một người lãnh đạo cộng đồng. 17 Người
ấy sẽ ra vào trước họ và dẫn họ ra vào, để cộng đồng của Ðức Chúa đừng giống
như đàn chiên không có mục tử chăn dắt.” 18 Ðức Chúa phán với ông
Mô-sê: "Ngươi hãy đem theo Giô-suê, con của Nun, là người có thần khí nơi
mình, và ngươi sẽ đặt tay trên nó. 19 Ngươi sẽ cho nó đứng trước mặt
tư tế E-la-da và trước mặt toàn thể cộng đồng. Ngươi sẽ truyền lệnh cho nó trước
mắt chúng. 20 Ngươi sẽ chia cho nó một phần uy quyền của ngươi, để
toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en nghe lời nó. 21 Nó sẽ đứng trước
mặt tư tế E-la-da. Tư tế sẽ đến trước nhan Ðức Chúa mà xin thẻ xăm u-rim cho
nó. Theo lệnh của tư tế, toàn thể cộng đồng, nghĩa là nó và mọi con cái
Ít-ra-en, sẽ ra sẽ vào."
22
Ông
Mô-sê đã làm như Ðức Chúa truyền cho ông: Ông đã đem theo Giô-suê và cho ông
này đứng trước mặt tư tế E-la-da và trước mặt toàn thể cộng đồng. 23 Ông
đặt tay trên ông Giô-suê và ra lệnh cho ông ấy như Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê
mà phán.
Chương 28
Xác
định về các hy lễ
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Hãy ra lệnh cho con cái Ít-ra-en,
và nói với chúng lời của Ta:
Vào
đúng thời đúng buổi, các ngươi sẽ chăm lo dâng lên Ta lễ vật, lương thực, dưới
hình thức hoả tế nghi ngút hương thơm, làm thoả lòng Ta.
3
Ngươi
sẽ nói với chúng: Ðây là lễ hoả tế anh em sẽ dâng Ðức Chúa.
A.
Hy lễ thường nhật (Xh 29 :38-46)
Mỗi
ngày phải dâng làm lễ vật toàn thiêu thường tiến hai con chiên một tuổi, toàn
vẹn, 4 một con vào lúc sáng, một con vào lúc chập tối. 5 Ngoài
ra ngươi sẽ dâng bốn lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với hai lít dầu ô-liu giã
trong cối. 6 Ðó là lễ toàn thiêu thường tiến dâng trên núi Xi-nai,
lễ vật nghi ngút hương thơm làm thoả lòng Ðức Chúa; đó là lễ hoả tế dâng Người.
7 Số lượng rượu tế dâng cùng với con chiên thứ nhất là hai lít;
người ta sẽ đổ rượu nồng dâng Ðức Chúa, trong nơi thánh. 8 Còn con
chiên thứ hai, ngươi sẽ dâng vào lúc chập tối, cùng với lễ phẩm và rượu tế như
ban sáng: đó là lễ hoả tế, hương thơm dâng Ðức Chúa, làm thoả lòng Người.
B.
Ngày sa-bát
9
Ngày
sa-bát, các ngươi sẽ dâng hai con chiên một tuổi, toàn vẹn, cùng với chín lít
tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm, kèm theo rượu tế. 10 Ðó
là lễ toàn thiêu của ngày sa-bát, riêng cho mỗi ngày sa-bát, không kể lễ toàn
thiêu thường xuyên và lễ tưới rượu.
C.
Ngày sóc
11
Hàng
tháng, vào ngày sóc, các ngươi sẽ dâng lên Ðức Chúa làm lễ toàn thiêu: hai con
bò tơ, một con cừu đực, bảy chiên một tuổi, toàn vẹn. 12 Khi dâng
mỗi con bò, thì phải dâng mười ba lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với dầu làm
lễ phẩm; khi dâng con cừu đực độc nhất, thì phải dâng chín lít tinh bột lúa
miến nhào với dầu làm lễ phẩm. 13 Mỗi lần dâng một con chiên, thì
phải dâng bốn lít rưỡi tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm: đó là lễ
toàn thiêu, là lễ vật nghi ngút hương thơm, làm thoả lòng Ðức Chúa, là lễ hoả
tế dâng Người. 14 Số lượng rượu tế dâng cùng với con bò sẽ là bốn
lít, cùng với con cừu đực là hai lít rưỡi, và cùng với con chiên là hai lít. Ðó
sẽ là lễ toàn thiêu phải dâng tháng này qua tháng nọ, tất cả mọi tháng trong
năm. 15 Không kể lễ toàn thiêu thường tiến, còn phải dâng Ðức Chúa
một con cừu đực làm lễ tạ tội, kèm theo lễ tưới rượu.
D.
Lễ bánh không men (Lv 23 :5-8)
16
Ngày
mười bốn tháng giêng, sẽ cử hành lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa, 17 và
ngày mười lăm tháng ấy sẽ là một ngày lễ. Trong bảy ngày, người ta sẽ ăn bánh
không men. 18 Ngày thứ nhất sẽ phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa,
anh em không được làm một việc nặng nhọc nào. 19 Anh em sẽ dâng hoả
tế làm lễ toàn thiêu kính Ðức Chúa: hai bò tơ, một cừu đực và bảy con chiên một
tuổi; anh em phải chọn những con toàn vẹn. 20 Phải dâng tinh bột lúa
miến nhào với dầu làm lễ phẩm: khi dâng mỗi con bò thì dâng mười ba lít rưỡi,
khi dâng con cừu đực thì dâng chín lít; 21 mỗi lần dâng một con
chiên trong số bảy con, thì dâng bốn lít rưỡi. 22 Cũng phải dâng một
con dê đực làm lễ vật tạ tội, để cử hành nghi lễ xá tội cho anh em. 23 Anh
em sẽ dâng những lễ vật đó, không kể lễ toàn thiêu ban sáng là một phần lễ toàn
thiêu thường tiến. 24 Anh em sẽ dâng như thế mỗi ngày trong suốt bảy
ngày: đó là lương thực, là hoả tế, là lễ vật nghi ngút hương thơm, làm thoả
lòng Ðức Chúa, kèm theo lễ toàn thiêu thường tiến và lễ tưới rượu. 25 Ngày
thứ bảy, anh em sẽ phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa, anh em không được làm
một việc nặng nhọc nào.
Ð.
Lễ các tuần (Lv 23 :15-22)
26
Ngày
hoa trái đầu mùa, khi dâng tiến Ðức Chúa lễ phẩm mới vào lễ các Tuần, anh em sẽ
phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa, anh em không được làm một việc nặng nhọc
nào. 27 Anh em sẽ dâng lễ vật toàn thiêu nghi ngút hương thơm, làm
thoả lòng Ðức Chúa: hai con bò tơ, một con cừu đực, bảy con chiên một tuổi. 28
Phải dâng tinh bột lúa miến nhào dầu làm lễ phẩm: khi dâng mỗi con bò thì
dâng mười ba lít rưỡi, khi dâng con cừu đực độc nhất thì dâng chín lít, 29
mỗi lần dâng một con chiên trong số bảy con, thì dâng bốn lít rưỡi. 30
Cũng phải dâng một con dê đực để cử hành lễ xá tội cho anh em. 31 Anh
em sẽ dâng những lễ vật đó, không kể lễ toàn thiêu thường tiến và lễ phẩm của
lễ đó; anh em phải chọn những con vật toàn vẹn; anh em sẽ dâng các lễ vật đó
kèm theo rượu tế.
Chương 29
E.
Ngày hò reo (Lv 23:23-25)
1
Ngày
mồng một tháng bảy, anh em sẽ phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa; anh em không
được làm một việc nặng nhọc nào: đối với anh em, đó sẽ là ngày Hò reo. 2 Anh
em sẽ dâng lễ toàn thiêu như hương thơm làm thoả lòng Ðức Chúa: một bò tơ, một
cừu đực, bảy con chiên một tuổi, toàn vẹn. 3 Phải dâng tinh bột lúa
miến nhào dầu làm lễ phẩm: khi dâng con bò, thì dâng mười ba lít rưỡi; khi dâng
con cừu đực thì dâng chín lít, 4 và khi dâng mỗi con chiên trong số
bảy con, thì dâng bốn lít rưỡi. 5 Anh em cũng phải dâng một con cừu
đực làm lễ tạ tội, để cử hành lễ xá tội cho anh em. 6 Ấy là không kể
lễ toàn thiêu dâng mỗi tháng với lễ phẩm, lễ toàn thiêu thường tiến với lễ
phẩm, và các lễ tưới rượu như luật định. Ðó là những lễ toàn thiêu như hương
thơm làm thoả lòng Ðức Chúa, là lễ hoả tế kính Người.
G.
Ngày xá tội (Lv 23 :26-32)
7
Ngày
mồng mười tháng bảy đó, anh em sẽ phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa; anh em
phải ăn chay hãm mình và không được làm một công việc tay chân nặng nhọc nào. 8
Anh em sẽ dâng lên Ðức Chúa lễ toàn thiêu như hương thơm làm thoả lòng
Người: một bò tơ, một cừu đực, bảy con chiên một tuổi; anh em phải chọn những
con toàn vẹn. 9 Phải dâng tinh bột lúa miến nhào dầu làm lễ phẩm:
khi dâng con bò, thì dâng mười ba lít rưỡi; khi dâng con cừu đực độc nhất, thì
dâng chín lít; 10 khi dâng mỗi con chiên trong số bảy con, thì dâng
mỗi lần bốn lít rưỡi. 11 Anh em sẽ phải dâng một con dê đực làm lễ
tạ tội, không kể lễ tạ tội dâng vào ngày xá tội, lễ toàn thiêu thường tiến,
cũng như lễ phẩm và các thứ rượu tế.
H.
Lễ lều (Lv 23 :33-44)
12
Ngày
rằm tháng bảy, anh em phải tập hợp để thờ phượng Ðức Chúa; anh em không được
làm một việc nặng nhọc nào, và phải mừng lễ kính Ðức Chúa trong bảy ngày. 13
Anh em sẽ dâng lên Ðức Chúa lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, như hương thơm làm
thoả lòng Người: mười ba bò tơ, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, những
con toàn vẹn. 14 Phải dâng tinh bột lúa miến nhào dầu làm lễ phẩm:
khi dâng mỗi con bò trong số mười ba con, thì dâng mười hai lít; khi dâng mỗi
con cừu đực trong số hai con thì dâng tám lít; 15 mỗi lần dâng một
con chiên trong số mười bốn con, thì dâng bốn lít. 16 Anh em cũng phải
dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, lễ phẩm
và rượu tế.
17
Ngày
thứ hai thì dâng mười hai con bò tơ, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi,
toàn vẹn, 18 cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò tơ,
cừu đực và chiên, như luật định. 19 Cũng phải dâng một con dê đực
làm lễ tạ tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và các thứ
rượu tế.
20
Ngày
thứ ba thì dâng mười một bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn,
21 cùng với các lễ phẩm và rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên,
như luật định. 22 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không
kể lễ toàn thiêu thường tiến cũng như lễ phẩm và rượu tế.
23
Ngày
thứ tư thì dâng mười bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 24
cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như
luật định. 25 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể
lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.
26
Ngày
thứ năm thì dâng chín bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 27
cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như
luật định. 28 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể
lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.
29
Ngày
thứ sáu thì dâng tám bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 30
cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như
luật định. 31 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể
lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.
32
Ngày
thứ bảy thì dâng bảy bò, hai cừu đực, mười bốn con chiên một tuổi, toàn vẹn, 33
cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực và chiên, như
luật định. 34 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, không kể
lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.
35
Ngày
thứ tám, anh em sẽ có một cuộc họp long trọng, và không được làm một việc nặng
nhọc nào. 36 Anh em phải dâng lễ toàn thiêu, lễ hoả tế, như hương
thơm làm thoả lòng Ðức Chúa: một bò, một cừu đực, bảy con chiên một tuổi, toàn
vẹn, 37 cùng với lễ phẩm và các thứ rượu tế kèm theo số bò, cừu đực
và chiên, như luật định. 38 Cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ
tội, không kể lễ toàn thiêu thường tiến, cũng như lễ phẩm và rượu tế.
39
Ðó
là những gì anh em phải làm để kính Ðức Chúa trong các ngày lễ của anh em: các
lễ toàn thiêu, lễ phẩm, lễ tưới rượu và lễ kỳ an, không kể những lễ vật anh em
đã khấn hứa và những lễ vật tự nguyện."
Chương 30
1
Ông
Mô-sê đã nói với con cái Ít-ra-en như Ðức Chúa đã truyền cho ông.
Luật
về các lời khấn hứa
2
Ông
Mô-sê nói với các thủ lãnh các chi tộc con cái Ít-ra-en: "Ðây là điều Ðức
Chúa đã truyền:
3
Khi
người đàn ông nào khấn hứa với Ðức Chúa hay thề hứa tự buộc mình làm điều gì,
thì người ấy sẽ không được lỗi lời mình: người ấy phải thực hiện những gì miệng
đã nói ra.
4
Khi
một phụ nữ khấn hứa với Ðức Chúa và tự buộc mình làm điều gì, lúc thiếu thời
còn ở nhà cha, 5 và nếu cha người ấy nghe nói về lời khấn hứa và
điều người ấy tự buộc mình làm, mà ông vẫn im lặng, thì mọi lời khấn hứa của
người ấy có hiệu lực, và mọi điều người ấy tự buộc mình làm cũng đều có hiệu
lực. 6 Nhưng nếu cha người ấy phản đối ngay trong ngày ông nghe biết
được, thì mọi lời khấn hứa và mọi điều người ấy tự buộc mình làm, không có hiệu
lực. Ðức Chúa sẽ dung thứ cho người ấy, vì cha người ấy đã phản đối.
7
Nếu
người ấy đi lấy chồng, khi vẫn còn phải giữ những lời khấn hứa hay bị ràng buộc
bởi một lời hứa thiếu suy nghĩ nào miệng người ấy đã thốt ra, 8 và
nếu người chồng nghe biết được mà vẫn im lặng trong ngày nghe biết được chuyện
ấy, thì những lời khấn hứa của người phụ nữ ấy có hiệu lực, và những điều mà
người ấy tự buộc mình làm cũng đều có hiệu lực. 9 Nhưng nếu trong
ngày nghe biết được, chồng người ấy phản đối, thì anh ta huỷ bỏ lời khấn hứa
còn ràng buộc người vợ, và lời hứa thiếu suy nghĩ người vợ đã tự buộc mình phải
giữ, Ðức Chúa sẽ dung thứ cho người phụ nữ ấy.
10
Lời
khấn hứa của người đàn bà goá hoặc bị chồng bỏ, và mọi điều người ấy tự buộc
mình làm, đều có hiệu lực đối với người ấy.
11
Nếu
tại chính nhà chồng, một phụ nữ đã khấn hứa hoặc lấy lời thề tự buộc mình làm
điều gì, 12 và nếu người chồng nghe biết được mà vẫn im lặng, không
phản đối, thì mọi lời khấn hứa của người ấy có hiệu lực, và mọi điều người ấy
tự buộc mình làm cũng đều có hịệu lực. 13 Nhưng nếu người chồng huỷ
bỏ ngay trong ngày nghe biết, thì mọi điều miệng người vợ thốt ra khi khấn hứa
và tự buộc mình làm, sẽ không có hiệu lực: người chồng đã huỷ bỏ, thì Ðức Chúa
cũng dung thứ cho người phụ nữ ấy.
14
Người
chồng có thể chứng nhận là có hiệu lực, hay huỷ bỏ mọi lời người vợ khấn hứa và
thề tự buộc ăn chay hãm mình. 15 Nếu người chồng cứ im lặng cho đến
hôm sau, thì đó là chứng nhận mọi lời khấn hứa của vợ hoặc mọi điều người vợ tự
buộc mình làm có hiệu lực; người chồng chứng nhận là có hiệu lực, vì đã im lặng
trong ngày nghe biết được. 16 Nhưng nếu người chồng huỷ bỏ các điều
ấy sau khi nghe biết, thì sẽ phải mang lấy tội của vợ."
17
Ðó
là những quy luật Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê về mối tương quan giữa chồng
và vợ, giữa cha và con gái lúc thiếu thời còn ở nhà cha.
Chương 31
IX.
Phân Chia Chiến Lợi Phẩm Và Ðất Ðai
Thánh
chiến chống Ma-đi-an
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Hãy trả thù người Ma-đi-an cho con
cái Ít-ra-en, rồi ngươi sẽ về sum họp với gia tiên ngươi."
3
Ông
Mô-sê nói với dân: "Một số người trong anh em hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra
trận tiến đánh Ma-đi-an, để trả thù dân ấy cho Ðức Chúa. 4 Anh em sẽ
sai người ra trận; cứ mỗi chi tộc trong các chi tộc Ít-ra-en, thì lấy một ngàn
người."
5
Trong
số ngàn vạn người Ít-ra-en, người ta tuyển mộ mỗi chi tộc một ngàn người, tức
là mười hai ngàn người được chuẩn bị sẵn sàng để ra trận. 6 Ông
Mô-sê sai họ ra trận, mỗi chi tộc một ngàn người; cùng ra trận với họ, có ông
Pin-khát, con của tư tế E-la-da, tay cầm các đồ thánh và kèn thúc quân.
7
Họ
đã ra trận, tiến đánh Ma-đi-an, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê, và họ
giết tất cả đàn ông con trai. 8 Ngoài những người đã bị sát hại đó,
họ còn giết các vua Ma-đi-an: E-vi, Re-kem, Xua, Khua, Re-va, là năm vua
Ma-đi-an; rồi họ dùng gươm giết ông Bi-lơ-am, con ông Bơ-o. 9 Con
cái Ít-ra-en bắt phụ nữ Ma-đi-an và con cái chúng làm tù nhân; họ đã lấy mọi
thú vật, mọi súc vật và mọi của cải chúng làm chiến lợi phẩm. 10 Họ
nổi lửa đốt tất cả các thành dân đó ở và mọi lều trại của chúng. 11 Sau
đó họ lấy mọi chiến lợi phẩm và tất cả những gì họ chiếm được, cả người lẫn thú
vật, 12 rồi đem các tù nhân và những gì đã chiếm được cũng như chiến
lợi phẩm về trại, về vùng thảo nguyên Mô-áp gần sông Gio-đan, đối diện với
Giê-ri-khô, để nộp cho ông Mô-sê, cho tư tế E-la-da và cộng đồng con cái
Ít-ra-en.
Tàn
sát phụ nữ và thanh tẩy chiến lợi phẩm
13
Ông
Mô-sê, tư tế E-la-da và mọi thủ lãnh của cộng đồng ra gặp họ ở ngoài trại. 14
Ông Mô-sê nổi giận với các tướng lãnh, với các vị chỉ huy một ngàn quân và
các vị chỉ huy một trăm quân đi trận trở về. 15 Ông Mô-sê nói với
họ: "Sao anh em lại để cho cả bọn đàn bà này sống? 16 Chính bọn chúng đã
nghe lời Bi-lơ-am, mà lôi cuốn con cái Ít-ra-en phạm tội bất trung với Ðức Chúa
trong vụ Pơ-o, nên tai hoạ đã giáng xuống cộng đồng của Ðức Chúa. 17 Vậy
bây giờ, hãy giết hết các con trai, cũng như mọi phụ nữ đã biết đến việc vợ
chồng, đã ăn ở với đàn ông. 18 Còn mọi con gái nhỏ tuổi chưa ăn ở
với đàn ông, thì hãy để cho chúng sống và thuộc về anh em. 19 Về
phần anh em, ai đã giết người, ai đã đụng tới người bị sát hại, hãy đóng quân
ngoài trại trong bảy ngày. Anh em cũng như các tù nhân đều phải thanh tẩy mình
vào ngày thứ ba và thứ bảy. 20 Anh em phải thanh tẩy mọi quần áo,
mọi đồ bằng da, mọi sản phẩm bằng lông dê và mọi đồ gỗ."
21
Tư
tế E-la-da nói với các binh lính đã đi chiến đấu: "Ðây là quy tắc pháp
luật Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê: 22 Chỉ có vàng, bạc, đồng,
sắt, thiếc, chì, 23 nghĩa là tất cả những gì chịu được lửa, anh em
mới phải cho qua lửa để các vật ấy được sạch; tuy nhiên, các vật ấy phải được
thanh tẩy bằng nước tẩy uế. Tất cả những gì không chịu được lửa, thì anh em
phải nhúng vào nước.
24
Anh
em phải giặt quần áo ngày thứ bảy và anh em sẽ được sạch, rồi sau đó mới trở
vào trại."
Phân
chia chiến lợi phẩm
25
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 26 "Cùng với tư tế E-la-da và các gia
trưởng trong cộng đồng, ngươi hãy làm sổ kê khai những gì đã lấy được, đã bắt
được, người cũng như súc vật. 27 Rồi ngươi hãy chia những gì đã lấy
được: một nửa cho các chiến sĩ đã ra trận và một nửa cho toàn thể cộng đồng. 28
Sau đó, từ phần dành cho các chiến sĩ đã ra trận, ngươi sẽ trích ra một
phần năm trăm số người, bò bê, lừa và chiên cừu, để làm thuế nộp cho Ðức Chúa. 29
Anh em sẽ lấy phần đó trong phần dành cho các chiến sĩ mà trao cho tư tế
E-la-da, làm phần trích dâng Ðức Chúa. 30 Còn trong phần dành cho
con cái Ít-ra-en, ngươi sẽ chọn lấy một phần năm mươi số người, bò bê, lừa,
chiên dê, mọi thú vật, rồi trao cho các thầy Lê-vi có nhiệm vụ canh giữ Nhà Tạm
của Ðức Chúa."
31
Ông
Mô-sê và tư tế E-la-da làm như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 32 Những
của đoạt được, những phần còn lại của chiến lợi phẩm mà các người tham chiến đã
chiếm lấy, là 675,000 chiên dê, 33 72,000 bò bê, 34 61,000
con lừa, 35 và nhân mạng, tức là những phụ nữ chưa ăn ở với đàn ông,
tất cả là 32,000 người. 36 Một nửa phần chiến lợi phẩm chia cho các
người đã ra trận là: 337,500 chiên dê, 37 trong số đó, thuế nộp cho
Ðức Chúa là 675 con; 38 36,000 bò bê, trong số đó, thuế nộp cho Ðức
Chúa là 72 con; 39 30,500 con lừa, trong số đó, thuế nộp cho Ðức
Chúa là 61 con; 40 16,000 nhân mạng, trong số đó, thuế nộp cho Ðức
Chúa là 32 mạng. 41 Ông Mô-sê đã trao cho tư tế E-la-da phần trích
dâng Ðức Chúa, như Người truyền cho ông Mô-sê.
42
Còn
nửa phần chiến lợi phẩm kia được chia cho con cái Ít-ra-en, ông Mô-sê đã tách
ra khỏi phần chia cho các người đã ra trận; 43 nửa phần đó thuộc về
cộng đồng, gồm có 337,500 chiên dê, 44 36,000 bò bê, 45 30,500
con lừa, 46 16,000 nhân mạng. 47 Trong nửa phần đã chia
cho con cái Ít-ra-en, ông Mô-sê chọn lấy một phần năm mươi số người và thú vật,
rồi trao cho các thầy Lê-vi có nhiệm vụ canh giữ Nhà Tạm của Ðức Chúa, như
Người truyền cho ông Mô-sê.
Các
lễ phẩm
48
Bấy
giờ, các tướng lãnh, các vị chỉ huy một ngàn quân và các vị chỉ huy một trăm
quân đến gần ông ông Mô-sê 49 và nói: "Các tôi tớ ngài đã kiểm lại số
những người chiến đấu dưới quyền chúng tôi, và không thấy thiếu một người nào
cả. 50 Vậy chúng tôi đem những đồ bằng vàng mà mỗi người đã tìm
thấy, làm lễ tiến dâng lên Ðức Chúa, để cử hành lễ xá tội cho chúng tôi trước
nhan Ðức Chúa. Những đồ bằng vàng đó là vòng cổ tay, vòng cánh tay, nhẫn,
khuyên tai và kiềng.” 51 Ông Mô-sê và tư tế E-la-da đã nhận vàng họ
dâng và mọi đồ kim hoàn. 52 Tổng cộng số vàng họ đã trích ra để dâng
Ðức Chúa là một trăm bảy mươi ký, được các chỉ huy một ngàn quân và các vị chỉ
huy một trăm quân đem nộp.
53
Trước
đó, ai nấy trong quân đội đều đoạt phần chiến lợi phẩm cho mình. 54 Cho
nên, ông Mô-sê và tư tế E-la-da đã nhận vàng của các vị chỉ huy một ngàn quân
và một trăm quân, rồi mang đến Lều Hội Ngộ, làm kỷ vật tưởng nhớ con cái
Ít-ra-en trước nhan Ðức Chúa.
Chương 32
Phân
chia vùng bên kia sông Gio-đan (Ðnl 3:12-22)
1
Con
cái ông Rưu-vên và con cái ông Gát có nhiều đàn súc vật rất đông. Khi thấy rằng
vùng Gia-de và vùng Ga-la-át là nơi thuận lợi cho việc chăn nuôi súc vật, 2
họ đến thưa với ông Mô-sê, với tư tế E-la-da và các thủ lãnh cộng đồng: 3
"Các thành A-ta-rốt, Ði-vôn, Gia-de, Nim-ra, Khét-bôn, En-a-lê,
Xơ-vam, Nơ-vô và Bơ-ôn 4 là vùng đất Ðức Chúa đã đánh phạt trước cộng đồng
Ít-ra-en, là vùng đất nuôi được súc vật. Mà các tôi tớ ngài lại có súc vật.” 5
Họ nói tiếp: "Nếu chúng tôi được đẹp lòng ngài, thì xin ban cho các
tôi tớ ngài vùng đất này làm sở hữu. Xin đừng để chúng tôi phải đi qua sông Gio-đan."
6
Ông
Mô-sê nói với con cái ông Gát và con cái ông Rưu-vên: "Anh em của anh em
phải ra chiến trường, mà anh em thì ở lại đây hay sao? 7 Tại sao anh em làm cho
con cái Ít-ra-en phải nản lòng không muốn đi qua bên xứ mà Ðức Chúa đã ban cho
họ? 8 Cha ông anh em đã làm như thế, khi tôi sai họ đi từ Ca-đê Bác-nê-a để do
thám xứ đó. 9 Họ lên đến thung lũng Ét-côn; họ do thám xứ đó, rồi
làm cho con cái Ít-ra-en nản lòng, để họ không vào xứ mà Ðức Chúa đã ban cho họ.
10 Nên trong ngày đó, cơn thịnh nộ của Ðức Chúa bừng cháy; Người thề
rằng: 11 "Nếu ngày nào những người đã lên từ Ai-cập, hai mươi
tuổi trở lên, thấy đất mà Ta đã thề ban cho Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp...,
vì chúng đã không trọn tình đi theo Ta; 12 chỉ trừ Ca-lếp, con ông
Giơ-phun-ne, người Cơ-nát, và Giô-suê, con ông Nun, vì họ đã trọn tình đi theo
Ðức Chúa. 13 Cơn thịnh nộ của Ðức Chúa bừng lên phạt Ít-ra-en, và
Người đã bắt họ phải đi lang thang trong sa mạc bốn mươi năm, cho đến khi toàn
thể thế hệ đã làm sự dữ trước mắt Ðức Chúa đều chết hết. 14 Này đây,
hỡi nòi tội nhân, anh em thay thế cha ông mình mà nổi dậy, khiến cơn thịnh nộ
của Ðức Chúa đối với Ít-ra-en càng tăng lên! 15 Nếu anh em quay lưng lại với
Người, thì Người còn tiếp tục để Ít-ra-en lại trong sa mạc, và như thế, anh em
sẽ làm cho tất cả dân này bị tiêu diệt."
16
Họ
tiến đến gần ông Mô-sê và nói: "Chúng tôi sẽ làm ở đây bãi quây cho chiên
cừu của chúng tôi, và xây thành thị cho con em chúng tôi. 17 Còn
chúng tôi sẽ cầm khí giới ngay và dẫn đầu con cái Ít-ra-en, cho tới khi chúng
tôi đưa họ đến nơi thuộc về họ; nhưng con em chúng tôi sẽ ở lại trong các thành
kiên cố, để khỏi bị dân bản xứ tấn công. 18 Chúng tôi sẽ không trở
về nhà cho đến khi ai nấy trong dân Ít-ra-en đều được thừa hưởng phần gia
nghiệp của mình. 19 Quả thật, chúng tôi sẽ không chia phần gia
nghiệp với họ bên kia sông Gio-đan hoặc xa hơn nữa, vì gia nghiệp bên này sông
Gio-đan, ở phía đông, sẽ lọt về phần chúng tôi."
20
Ông
Mô-sê nói với họ: "Nếu anh em thực hiện điều đó, nếu anh em cầm khí giới
để ra trận trước nhan Ðức Chúa, 21 nếu trong số anh em, tất cả những
người được võ trang đi qua sông Gio-đan trước nhan Ðức Chúa, (và ở lại đó) cho
đến khi Người đuổi địch thù đi khuất mắt Người, 22 và nếu anh em chỉ
trở về sau khi xứ ấy quy hàng trước nhan Ðức Chúa, thì anh em được coi như đã
làm xong nhiệm vụ đối với Ðức Chúa, với Ít-ra-en, và vùng đất này sẽ là sở hữu
của anh em trước nhan Ðức Chúa. 23 Nhưng nếu anh em không làm như
thế, thì anh em sẽ đắc tội với Ðức Chúa; và anh em nên biết rằng chính anh em
sẽ chuốc lấy tội đó cho mình. 24 Anh em hãy xây thành cho con em và
làm bãi quây cho chiên cừu, hãy thực hiện những gì miệng anh em đã nói."
25
Con
cái ông Gát và con cái ông Rưu-vên thưa với ông Mô-sê: "Các tôi tớ ngài sẽ
làm như lời ngài truyền. 26 Vợ con, súc vật và mọi thú vật của chúng
tôi sẽ ở đây, trong các thành Ga-la-át; 27 nhưng các tôi tớ ngài,
mọi kẻ đã được võ trang để ra trận, sẽ đi qua trước nhan Ðức Chúa để chiến đấu,
theo lời ngài đã nói."
28
Ông
Mô-sê đã ban mệnh lệnh liên quan đến họ cho tư tế E-la-da, cho ông Giô-suê, con
ông Nun, và cho những người đứng đầu các gia tộc của các chi tộc con cái
Ít-ra-en. 29 Ông Mô-sê nói với họ: "Nếu con cái ông Gát và con
cái ông Rưu-vên, mọi kẻ đã được võ trang để chiến đấu, cùng với anh em đi qua
sông Gio-đan trước nhan Ðức Chúa, và nếu anh em chinh phục được vùng đất đó,
thì anh em sẽ cho họ đất Ga-la-át làm sở hữu. 30 Nhưng nếu họ không
chịu mang khí giới đi qua sông với anh em, thì họ sẽ phải nhận một phần đất làm
sở hữu giữa anh em, trong xứ Ca-na-an."
31
Con
cái ông Gát và con cái ông Rưu-vên thưa: "Ðiều Ðức Chúa đã phán với các
tôi tớ ngài, chúng tôi sẽ làm; 32 chính chúng tôi sẽ cầm khí giới đi
qua xứ Ca-na-an trước nhan Ðức Chúa; và xin ngài cho chúng tôi được chiếm hữu
phần đất bên này sông Gio-đan làm gia nghiệp.” 33 Ông Mô-sê ban cho
họ - nghĩa là cho con cái ông Gát, con cái ông Rưu-vên và một nửa chi tộc
Mơ-na-se, con ông Giu-se - vương quốc của Xi-khôn, vua E-mô-ri, vương quốc của
Ốc, vua Ba-san; đó là vùng đất gồm các thành cùng với lãnh thổ của các thành
ấy, thêm vào đó các thành của vùng đất chung quanh.
34
Con
cái ông Gát đã xây Ði-vôn, A-ta-rốt, A-rô-e, 35 A-rốt Sô-phan,
Gia-de, Gioóc-bô-ha, 36 Bết Nim-ra, Bết Ha-ran, là những thành kiên
cố; họ cũng đã làm bãi quây cho chiên cừu.
37
Con
cái ông Rưu-vên cũng đã xây Khét-bôn, En-a-lê, Kia-gia-tha-gim, 38 Nơ-vô,
Ba-an Mơ-ôn (các thành này đã đổi tên) và Xíp-ma. Họ đặt tên cho các thành họ
đã xây.
39
Con
cái ông Ma-khia, con ông Mơ-na-se, đi tới xứ Ga-la-át; họ chiếm xứ đó và đuổi
người E-mô-ri đang ở đấy. 40 Ông Mô-sê cho ông Ma-khia là con ông
Mơ-na-se, xứ Ga-la-át, và ông Ma-khia định cư tại đó. 41 Ông Gia-ia,
con ông Mơ-na-se, đi chiếm các trại của họ và đặt tên là trại của Gia-ia. 42
Nô-vác đi chiếm Cơ-nát cùng các vùng phụ cận; ông lấy tên mình là Nô-vác
mà đặt cho chỗ đó.
Chương 33
Các
chặng đường của cuộc xuất hành
1
Ðây
là những chặng đường con cái Ít-ra-en đã qua, khi họ ra khỏi đất Ai-cập, theo
đoàn quân của họ, dưới sự hướng dẫn của ông Mô-sê và ông A-ha-ron. 2 Ông
Mô-sê ghi lại những điểm khởi hành cho từng chặng đường, theo lệnh của Ðức
Chúa. Ðây là những chặng đường của họ, dựa theo các điểm khởi hành.
3
Họ
rời Ram-xết lên đường vào tháng giêng, ngày rằm tháng giêng. Hôm sau lễ Vượt
Qua, con cái Ít-ra-en ra đi ngang nhiên trước mắt toàn dân Ai-cập, 4 trong
khi dân Ai-cập lo chôn cất người nhà của chúng đã bị Ðức Chúa đánh phạt, nghĩa
là mọi con trai đầu lòng. Ðức Chúa đã trừng phạt các thần của chúng.
5
Con
cái Ít-ra-en lên đường rời Ram-xết và đóng trại ở Xúc-cốt. 6 Họ lên
đường rời Xúc-cốt và đóng trại ở Ê-tham, ven sa mạc. 7 Họ lên đường
rời Ê-tham, nhưng quay trở lại phía Pi Ha-khi-rốt, đối diện với Ba-an Xơ-phôn,
rồi đóng trại đằng trước Mích-đôn. 8 Họ lên đường rời Pi Ha-khi-rốt,
đi qua biển mà vào sa mạc; họ đi ba ngày đường trong sa mạc Ê-tham, rồi đóng
trại ở Ma-ra. 9 Họ lên đường rời Ma-la tới Ê-lim. Ở Ê-lim, có mười
hai suối nước và bảy mươi cây chà là. Và họ đóng trại ở đó. 10 Họ
lên đường rời Ê-lim và đóng trại gần Biển Sậy. 11 Họ lên đường rời
Biển Sậy và đóng trại gần sa mạc Xin. 12 Họ lên đường rời sa mạc Xin
và đóng trại ở Ðốp-ca. 13 Họ lên đường rời Ðốp-ca và đóng trại ở
A-lút. 14 Họ lên đường rời A-lút và đóng trại ở Rơ-phi-đim; tại đó
không có nước cho dân uống. 15 Họ lên đường rời Rơ-phi-đim và đóng
trại trong sa mạc Xi-nai. 16 Họ lên đường rời sa mạc Xi-nai và đóng
trại ở Kíp-rốt Ha Ta-a-va. 17 Họ lên đường rời Kíp-rốt Ha Ta-a-va và
đóng trại ở Kha-xê-rốt. 18 Họ lên đường rời Kha-xê-rốt và đóng trại
ở Rít-ma. 19 Họ lên đường rời Rít-ma và đóng trại ở Rim-môn Pe-rét. 20
Họ lên đường rời Rim-môn Pe-rét và đóng trại ở Líp-na. 21 Họ
lên đường rời Líp-na và đóng trại ở Rít-xa. 22 Họ lên đường rời
Rít-xa và đóng trại ở Cơ-hê-la-tha. 23 Họ lên đường rời Cơ-hê-la-tha
và đóng trại ở núi Se-phe. 24 Họ lên đường rời núi Se-phe và đóng trại
ở Kha-ra-đa. 25 Họ lên đường rời Kha-ra-đa và đóng trại ở Mác-hê-lốt.
26 Họ lên đường rời Mác-hê-lốt và đóng trại ở Ta-khát. 27 Họ
lên đường rời Ta-khát và đóng trại ở Te-rác. 28 Họ lên đường rời
Te-rác và đóng trại ở Mít-ca. 29 Họ lên đường rời Mít-ca và đóng
trại ở Khát-mô-na. 30 Họ lên đường rời Khát-mô-na và đóng trại ở
Mô-xê-rốt. 31 Họ lên đường rời Mô-xê-rốt và đóng trại ở Bơ-nê
Gia-a-can. 32 Họ lên đường rời Bơ-nê Gia-a-can và đóng trại ở Kho Ha
Ghít-gát. 33 Họ lên đường rời Kho Ha Ghít-gát và đóng trại ở
Giót-va-tha. 34 Họ lên đường rời Giót-va-tha và đóng trại ở Áp-rô-na.
35 Họ lên đường rời Áp-rô-na và đóng trại ở E-xi-ôn Ghe-ve. 36 Họ
lên đường rời E-xi-ôn Ghe-ve và đóng trại trong sa mạc Xin, nghĩa là Ca-đê. 37
Họ lên đường rời Ca-đê và đóng trại ở núi Ho, cuối xứ Ê-đôm. 38 Tư
tế A-ha-ron lên núi Ho theo lệnh của Ðức Chúa và qua đời ở đó, vào năm thứ bốn
mươi sau khi con cái Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, ngày mồng một tháng năm. 39
Ông A-ha-ron thọ được một trăm hai mươi ba tuổi, -khi ông qua đời ở núi
Ho. 40 Bấy giờ vua A-rát, người Ca-na-an, cư ngụ tại Ne-ghép trong
xứ Ca-na-an, nghe tin con cái Ít-ra-en đến. 41 Họ lên đường rời núi
Ho và đóng trại ở Xan-mô-na. 42 Họ lên đường rời Xan-mô-na và đóng
trại ở Pu-nôn. 43 Họ lên đường rời Pu-nôn và đóng trại ở Ô-vốt. 44
Họ lên đường rời Ô-vốt và đóng trại ở I-giê Ha A-va-rim, giáp giới với
Mô-áp. 45 Họ lên đường rời I-gim và đóng trại ở Ði-vôn Gát. 46 Họ
lên đường rời Ði-vôn Gát và đóng trại ở An-môn Ðíp-la-tha-gim. 47 Họ
lên đường rời An-môn Ðíp-la-tha-gim và đóng trại ở dãy núi A-va-rim, đối diện
với Nơ-vô. 48 Họ lên đường rời dãy núi A-va-rim và đóng trại ở vùng
thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô. 49 Họ
đóng trại gần sông Gio-đan, từ Bết Ha Giơ-si-mốt đến A-vên Ha Sít-tim, trong
vùng thảo nguyên Mô-áp.
Phân
chia đất Ca-na-an. Mệnh lệnh của Thiên Chúa.
50
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê trong vùng thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối
diện với Giê-ri-khô: 51 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en rằng:
52
các
ngươi sẽ đuổi mọi dân cư trong xứ cho khuất mắt các ngươi, và phá huỷ tất cả
các hình ảnh, các tượng đúc của chúng, các ngươi sẽ tiêu huỷ mọi nơi cao của
chúng. 53 Các ngươi sẽ chiếm đất ấy và lập cư ở đó, vì Ta đã cho các
ngươi đất ấy để chiếm hữu. 54 Các ngươi sẽ bắt thăm để chia nhau đất
ấy làm gia nghiệp, tuỳ theo các thị tộc của các ngươi: thị tộc nào đông người,
các ngươi sẽ cho một phần đất lớn làm gia nghiệp; thị tộc nào ít người hơn, các
ngươi sẽ cho một phần đất nhỏ hơn làm gia nghiệp. Ai bắt thăm được nơi nào, thì
sẽ ở tại đó. Các ngươi sẽ tính theo các chi tộc mà chia phần gia nghiệp. 55
Nếu các ngươi không đuổi các dân cư trong xứ cho khuất mắt, thì những kẻ
các ngươi để sót lại sẽ nên như gai chọc mắt, như mũi nhọn đâm sườn; chúng sẽ
quấy rối các ngươi trên đất các ngươi đến ở. 56 Và bấy giờ, Ta sẽ
đối xử với các ngươi như Ta đã định đối xử với chúng."
Chương 34
Biên
giới xứ Ca-na-an
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 2 "Hãy ra lệnh cho con cái Ít-ra-en và
bảo chúng: Khi anh em vào đất Ca-na-an, thì phần đất rơi vào tay anh em làm gia
nghiệp, chính là đất Ca-na-an với các biên giới như sau:
3
Phía
nam, đất của anh em sẽ bắt đầu từ sa mạc Xin, giáp giới Ê-đôm. Ranh giới phía
nam sẽ khởi sự từ cuối Biển Muối, ở mạn đông. 4 Rồi ranh giới đó sẽ
vòng xuống phía nam, lên giốc Ác-ráp-bim, đi qua Xin, đến phía nam Ca-đê
Bác-nê-a, rồi lại tiến về Kha-xa Át-đa và đi qua Át-môn; 5 sau đó,
từ Át-môn, ranh giới vòng xuống Suối Ai-cập để đi ra Biển.
6
Phía
tây, anh em sẽ có Biển Lớn làm ranh giới. Ðó sẽ là ranh giới phía tây của anh
em.
7
Và
đây là ranh giới phía bắc: từ Biển Lớn, anh em sẽ vạch một đường lên núi Ho; 8
rồi từ núi Ho, anh em sẽ vạch một đường đến Cửa Ải Kha-mát. Ranh giới sẽ
đi đến Xơ-đát, 9 rồi chạy tiếp đến Díp-rôn và đi tới Kha-xa Ê-nan.
Ðó sẽ là ranh giới phía bắc của anh em.
10
Sau
đó, anh em sẽ vạch một đường làm ranh giới phía đông từ Kha-xa Ê-nan đến
Sơ-pham. 11 Từ Sơ-pham, ranh giới đó sẽ đi xuống Ríp-la, ở phía đông
A-gin. Ði xuống nữa, ranh giới đó sẽ tiếp giáp với các đồi phía đông biển hồ
Kin-ne-rét; 12 rồi đi xuống theo dọc sông Gio-đan và đi tới Biển
Muối. Ðó sẽ là đất của anh em với các ranh giới chung quanh."
13
Ông
Mô-sê ra lệnh cho con cái Ít-ra-en: "Ðó là đất mà anh em sẽ bắt thăm để
chia nhau làm gia nghiệp, đất mà Ðức Chúa đã truyền phải ban cho chín chi tộc
và một nửa chi tộc.
14
Vì
chi tộc con cái ông Rưu-vên, theo số các gia tộc của họ, chi tộc con cái Gát,
theo số các gia tộc của họ đã lãnh phần gia nghiệp của họ rồi, và nửa chi tộc
Mơ-na-se cũng đã lãnh phần gia nghiệp của họ. 15 Hai chi tộc và một
nửa chi tộc này đã lãnh phần gia nghiệp của họ bên kia sông Gio-đan, đối diện
với Giê-ri-khô, phía đông, phía mặt trời mọc."
Việc
chia đất
16
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 17 "Ðây là tên những người sẽ chia đất
cho các ngươi làm gia nghiệp; tư tế E-la-da và Giô-suê, con của Nun. 18 Các
ngươi sẽ lấy thêm một đầu mục, mỗi chi tộc một người, để phụ trách việc chia
đất làm gia nghiệp. 19 Ðây là tên những người đó:
Chi
tộc Giu-đa có Ca-lếp, con của Giơ-phun-ne;
20
chi
tộc con cái Si-mê-ôn, có Sơ-mu-ên, con của Am-mi-hút;
21
chi
tộc Ben-gia-min có Ê-li-đát, con của Kít-lôn;
22
chi
tộc con cái Ðan, có đầu mục Búc-ki, con của Gioóc-li;
23
về
con cái Giu-se, chi tộc con cái Mơ-na-se, có đầu mục Khan-ni-ên, con của
Ê-phốt;
24
chi
tộc con cái Ép-ra-im, có đầu mục Cơ-mu-ên, con của Síp-tan;
25
chi
tộc con cái Dơ-vu-lun, có đầu mục Ê-li-xa-phan, con của Pác-nác;
26
chi
tộc con cái Ít-xa-kha, có đầu mục Pan-ti-ên, con của Át-dan;
27
chi
tộc con cái A-se, có đầu mục A-khi-hút, con của Sơ-lô-mi;
28
chi
tộc con cái Náp-ta-li, có đầu mục Pơ-đa-ên, con của Am-mi-hút."
29
Ðó
là những người Ðức Chúa đã truyền lệnh phải chia cho con cái Ít-ra-en các phần
gia nghiệp trong đất Ca-na-an.
Chương 35
Phần
dành cho các thầy Lê-vi
1
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê trong vùng thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối
diện với Giê-ri-khô: 2 "Hãy ra lệnh cho con cái Ít-ra-en phải
nhường một số thành, lấy trong gia nghiệp thuộc quyền sở hữu của chúng, cho các
người Lê-vi ở; các ngươi cũng sẽ nhường cho các người Lê-vi những đồng cỏ chung
quanh các thành ấy. 3 Các thành ấy sẽ là nơi chúng ở; còn các đồng
cỏ thì dành cho mọi thú vật, súc vật và các vật dụng của chúng. 4 Ðồng
cỏ chung quanh những thành các ngươi nhường cho người Lê-vi, sẽ rộng năm trăm
thước kể từ tường thành trở ra.
5
Bên
ngoài thành, các ngươi sẽ đo một ngàn thước phía đông, một ngàn thước phía nam,
một ngàn thước phía tây, một ngàn thước phía bắc, còn thành thì ở giữa; đó sẽ
là đồng cỏ thuộc các thành của chúng. 6 Những thành các ngươi nhường
cho người Lê-vi sẽ là sáu thành trú ẩn: các ngươi để cho kẻ sát nhân đến đó
nương náu; ngoài ra, các ngươi sẽ nhường thêm bốn mươi hai thành nữa. 7 Tổng
số các thành nhường cho người Lê-vi sẽ là bốn mươi tám, cùng với đồng cỏ thuộc
các thành ấy. 8 Các thành được nhường là những thành lấy trong số
các thành thuộc quyền sở hữu của con cái Ít-ra-en: chi tộc nào có nhiều, các
ngươi sẽ lấy nhiều; chi tộc nào có ít, các ngươi sẽ lấy ít; mỗi chi tộc sẽ
nhường một số thành của mình cho người Lê-vi, tuỳ theo phần gia nghiệp mình đã
nhận được."
Các
thành trú ẩn (Ðnl 9:1-13; Gr 20:1-9)
9
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: 10 "Hãy bảo con cái Ít-ra-en rằng: Khi
đi qua sông Gio-đan vào đất Ca-na-an, 11 các ngươi sẽ chọn một số
thành làm thành trú ẩn cho các ngươi; kẻ nào đã vô ý làm thiệt mạng ai, thì sẽ
có thể đến đó nương náu. 12 Các thành ấy sẽ là nơi các ngươi trú ẩn
để tránh người đòi nợ máu, và như thế kẻ sát nhân sẽ không phải chết khi chưa
được xét xử trước mặt cộng đồng. 13 Trong số những thành các ngươi
nhường sẽ có sáu thành trú ẩn cho các ngươi: 14 ba thành các ngươi
nhường bên kia sông Gio-đan, và ba thành các ngươi nhường trên đất Ca-na-an, sẽ
là những thành trú ẩn. 15 Sáu thành đó sẽ là nơi trú ẩn cho con cái
Ít-ra-en, cũng như cho khách ngoại kiều và người trú ngụ giữa các ngươi. Kẻ nào
đã vô ý làm thiệt mạng ai, thì sẽ có thể đến đó nương náu.
16
Ai
dùng đồ sắt mà đánh người khác chết, thì là kẻ sát nhân. Kẻ sát nhân sẽ phải bị
xử tử. 17 Ai cầm trong tay một hòn đá chết người mà đánh người khác
chết, thì là kẻ sát nhân. Kẻ sát nhân sẽ phải bị xử tử. 18 Ai cầm
trong tay đồ vật bằng gỗ có thể giết người mà đánh người khác chết, thì là kẻ
sát nhân. Kẻ sát nhân sẽ phải bị xử tử. 19 Chính người đòi nợ máu sẽ
giết kẻ sát nhân; khi gặp tên sát nhân, người đó sẽ giết nó.
20
Nếu
ai vì căm hờn mà xô ngã người khác, hay cố tình ném vật gì trúng người ấy, làm
cho người ấy chết, 21 hoặc ai vì thù ghét mà giơ tay đánh người ấy
chết, kẻ đã đánh sẽ bị xử tử: đó là một kẻ sát nhân. Người đòi nợ máu sẽ giết
kẻ sát nhân, khi gặp nó. 22 Nhưng nếu vì ngẫu nhiên, chứ không phải
vì thù ghét, ai xô ngã người khác, hay vô ý ném vật gì trúng người ấy, 23 hoặc
ai vì không thấy mà đánh rơi trúng người ấy một hòn đá chết người, làm cho
người ấy chết, tuy chẳng thù ghét cũng chẳng muốn hại người ấy, 24 cộng
đồng sẽ chiếu theo các luật đó mà phân xử đôi bên: kẻ đã đánh và người đòi nợ
máu. 25 Cộng đồng sẽ gỡ kẻ sát nhân khỏi tay người đòi nợ máu, rồi
đưa nó trở về thành trú ẩn là nơi nó đã tới nương náu. Nó sẽ ở lại đó cho đến
khi thượng tế, là người đã được xức dầu thánh, qua đời. 26 Nhưng nếu
kẻ sát nhân ra khỏi ranh giới thành trú ẩn là nơi nó đã tới nương náu, 27 và
người đòi nợ máu gặp thấy nó bên ngoài ranh giới thành nó trú ẩn, và giết nó,
thì không mắc tội đổ máu. 28 Vì kẻ sát nhân phải ở lại trong thành
nó trú ẩn cho đến khi thượng tế qua đời; chỉ khi nào thượng tế qua đời, kẻ sát
nhân mới được trở về đất sở hữu của nó. 29 Ðó sẽ là những quy tắc
pháp lý các ngươi phải tuân giữ qua mọi thế hệ, tại bất cứ nơi nào các ngươi ở.
30
Trong
mọi trường hợp đánh chết người, người ta sẽ dựa vào lời khai của các chứng nhân
mà xử tử kẻ sát nhân. Nhưng lời khai của một chứng nhân duy nhất sẽ không thể
làm cho ai bị kết án tử hình. 31 Các ngươi sẽ không được nhận tiền
chuộc mạng một kẻ sát nhân can án chết: nó sẽ phải bị xử tử. 32 Các
ngươi cũng không được nhận tiền chuộc cho phép kẻ đã trốn vào thành trú ẩn được
về ở xứ sở, trước khi thượng tế qua đời. 33 Các ngươi sẽ không được
làm nhiễm uế đất các ngươi ở, vì chính máu làm nhiễm uế đất ấy, và không có gì
có thể tẩy rửa đất ấy khỏi máu đã đổ ra tại đó, ngoài máu của người đã làm đổ
máu. 34 (Các) ngươi sẽ không gây ô nhục cho đất (các) ngươi ở, cũng
là nơi Ta ngự; vì Ta là Ðức Chúa, Ta ngự giữa con cái Ít-ra-en."
Chương 36
Gia
nghiệp của phụ nữ có chồng
1
Khi
đó, các gia trưởng của thị tộc con cái ông Ga-la-át, con ông Ma-khia, cháu ông
Mơ-na-se, trong số các thị tộc con cái ông Giu-se, tiến đến và lên tiếng trước
mặt ông Mô-sê và các đầu mục cũng là gia trưởng của con cái Ít-ra-en 2 mà rằng:
"Ðức Chúa đã truyền lệnh cho đức ông phải dùng lối bắt thăm mà chia đất
cho con cái Ít-ra-en làm gia nghiệp. Ðức ông cũng nhận được lệnh của Ðức Chúa
bắt phải ban gia nghiệp của ông Xơ-lóp-khát, người anh em của chúng tôi, cho
các con gái ông ấy. 3 Mà nếu các cô này lấy chồng thuộc các chi tộc
con cái Ít-ra-en, gia nghiệp của họ sẽ bị xén khỏi gia nghiệp cha ông chúng
tôi. Gia nghiệp của họ sẽ nhập vào gia nghiệp của chi tộc mà họ sẽ là thành
viên, và như vậy phần gia nghiệp của chúng tôi sẽ bị xén bớt. 4 Ðến
lúc con cái Ít-ra-en mừng năm toàn xá, gia nghiệp của họ sẽ nhập vào gia nghiệp
của chi tộc mà họ là thành viên, và sẽ bị xén khỏi gia nghiệp của chi tộc cha
ông chúng tôi."
5
Theo
lệnh của Ðức Chúa, ông Mô-sê truyền cho con cái Ít-ra-en rằng: "Chi tộc
con cái ông Giu-se nói đúng. 6 Ðây là điều Ðức Chúa đã truyền về các
con gái ông Xơ-lóp-khát: chúng sẽ lấy người vừa mắt chúng, nhưng chỉ được lấy
người thuộc thị tộc trong chi tộc của cha chúng. 7 Như thế, gia
nghiệp con cái Ít-ra-en sẽ không chuyển từ chi tộc này sang chi tộc khác, nhưng
mỗi người con cái Ít-ra-en sẽ gắn bó với gia nghiệp của chi tộc cha ông mình. 8
Trong các chi tộc con cái Ít-ra-en, người con gái nào hưởng gia nghiệp,
thì phải lấy chồng thuộc một trong các thị tộc của chi tộc cha mình, để mỗi
người trong con cái Ít-ra-en giữ được gia nghiệp cha ông mình. 9 Không
gia nghiệp nào được chuyển từ chi tộc này sang chi tộc khác, nhưng mỗi chi tộc
con cái Ít-ra-en sẽ gắn bó với gia nghiệp của mình."
10
Các
con gái ông Xơ-lóp-khát làm đúng như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê: 11 Mác-la,
Tia-xa, Khoóc-la, Min-ca và Nô-va, là những con gái ông Xơ-lóp-khát, lấy các
con trai của chú bác. 12 Họ đã lấy người thuộc các thị tộc con cái
ông Mơ-na-se, con ông Giu-se, và như thế gia nghiệp của họ vẫn thuộc về thị tộc
trong chi tộc cha họ.
Kết
luận
13
Ðó
là những mệnh lệnh và luật lệ Ðức Chúa đã truyền cho con cái Ít-ra-en qua trung
gian ông Mô-sê, trong vùng thảo nguyên Mô-áp, gần sông Gio-đan, đối diện với
Giê-ri-khô.
Ðệ Nhị Luật
Chương 01
I.
Những Diễn Từ Mở Ðầu
Diễn
Từ Thứ Nhất Của Ông Mô-Sê
Khung
cảnh thời gian và không gian
1
Ðây
là những lời ông Mô-sê nói với toàn thể Ít-ra-en, ở bên kia sông Gio-đan, trong
sa mạc, trong thung lũng A-ra-va, đối diện với Xúp, giữa Pa-ran, Tô-phen,
La-van, Kha-xê-rốt và Ði Da-háp. 2 Từ núi Khô-rếp đến Ca-đê
Bác-nê-a, qua đường núi Xê-ia, là mười một ngày đường. 3 Năm thứ bốn
mươi, tháng thứ mười một, ngày thứ nhất trong tháng, ông Mô-sê nói với con cái
Ít-ra-en, chiếu theo tất cả những gì Ðức Chúa đã truyền cho ông nói với họ. 4
Ông đã đánh bại Xi-khôn, vua người E-mô-ri, đóng đô ở Khét-bôn, và tại
Ét-re-i, đã đánh bại Ốc, vua miền Ba-san, đóng đô ở Át-ta-rốt. 5 Sau
đó, ở bên kia sông Gio-đan, trong đất Mô-áp, ông Mô-sê bắt đầu trình bày luật
sau đây. Ông nói:
Những
chỉ thị cuối cùng ở núi Khô-rếp (Xh 18:13 -27)
6
"Ðức
Chúa, Thiên Chúa của chúng ta, đã phán với chúng ta tại núi Khô-rếp như sau:
"Các ngươi ở núi này đã lâu rồi. 7 Hãy chuyển hướng và lên
đường, đi tới núi người E-mô-ri, và tới các dân chung quanh, ở thung lũng
A-ra-va, ở miền núi, miền Sơ-phê-la, miền Ne-ghép, miền duyên hải, tới đất
người Ca-na-an, núi Li-băng, cho đến Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát. 8 Ðây,
Ta trao đất đó cho các ngươi, hãy vào và chiếm hữu đất mà Ðức Chúa đã thề với
cha ông các ngươi, là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho họ
và dòng dõi họ sau này."
9
Thời
ấy, tôi đã nói với anh em: "Một mình tôi không thể gánh vác anh em được. 10
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em nên đông đúc, và hôm
nay, coi đó: anh em nhiều như sao trên trời. 11 Nguyện Ðức Chúa,
Thiên Chúa của cha ông anh em, tăng số anh em lên gấp ngàn lần và chúc phúc cho
anh em như Người đã phán với anh em! 12 Làm sao một mình tôi gánh được những
phiền hà, yêu sách, tranh tụng của anh em? 13 Mỗi chi tộc của anh em hãy đề cử
những người khôn ngoan, thông minh và từng trải, và tôi sẽ đặt họ làm đầu anh
em.” 14 Anh em đã trả lời tôi rằng: "Ðiều ông đề nghị làm, hay
đó!” 15 Tôi đã chọn những người đứng đầu các chi tộc của anh em, là
những người khôn ngoan, từng trải, và đặt họ làm đầu anh em, làm người chỉ huy
một ngàn, chỉ huy một trăm, chỉ huy năm mươi, chỉ huy mười người, và làm ký lục
cho mỗi chi tộc của anh em. 16 Thời ấy, tôi đã truyền cho các thẩm
phán của anh em rằng: "Các ông hãy nghe những điều anh em đồng bào các ông
kiện tụng, và hãy xử công minh giữa một người đồng bào với một người đồng bào,
hoặc với một ngoại kiều ở với người ấy. 17 Các ông đừng thiên vị ai
trong khi xét xử: hãy nghe người nhỏ cũng như người lớn, đừng sợ ai, vì xét xử
là việc của Thiên Chúa. Có vụ nào khó quá đối với các ông, thì các ông hãy
trình bày với tôi, tôi sẽ nghe vụ đó.” 18 Thời ấy, tôi đã truyền cho
anh em mọi điều anh em phải làm.
Ở
Ca-đê, dân không chịu tin vào Ðức Chúa (Ðn 13:1-33)
19
Chúng
ta đã lên đường từ Khô-rếp và đã đi qua sa mạc mênh mông khủng khiếp ấy mà anh
em đã thấy, trên đường tới miền núi của người E-mô-ri, như Ðức Chúa, Thiên Chúa
chúng ta, đã truyền cho chúng ta, và chúng ta đã đến Ca-đê Bác-nê-a. 20 Tôi
đã nói với anh em: "Anh em đã tới miền núi của người E-mô-ri, miền núi mà
Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ban cho chúng ta. 21 Coi đó: Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã trao đất này cho anh (em); hãy lên và chiếm
hữu, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh (em), đã phán với anh (em). Ðừng
sợ, đừng hãi.” 22 Tất cả anh em đã đến gặp tôi và nói: "Chúng
ta hãy phái người đi trước chúng ta để thăm dò đất cho chúng ta; họ sẽ báo cáo
cho chúng ta về con đường chúng ta phải đi qua và về các thành chúng ta sẽ đến.”
23 Lời ấy vừa lòng tôi, và tôi đã chọn giữa anh em mười hai người,
mỗi chi tộc một người. 24 Họ đã chuyển hướng và lên núi. Khi tới
thung lũng Ét-côn, họ đã do thám thung lũng ấy. 25 Tay họ đã lấy hoa
trái miền ấy và đưa xuống cho chúng ta. Họ đã báo cáo cho chúng ta, và nói:
"Miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ban cho chúng ta, tốt tươi
thật!” 26 Nhưng anh em đã không muốn lên và đã cưỡng lệnh Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh em. 27 Anh em đã lẩm bẩm trong lều trại và nói:
"Chính vì Ðức Chúa ghét chúng ta mà Người đã đưa chúng ta ra khỏi đất
Ai-cập, để trao chúng ta vào tay người E-mô-ri và tiêu diệt chúng ta. 28 Chúng
ta sắp lên chỗ nào đây? Anh em chúng ta đã làm cho chúng ta nản lòng khi nói
rằng: "Dân đó lớn và cao hơn chúng ta. Các thành thì lớn, tường luỹ ngất
trời. Chúng tôi cũng thấy ở đó con cái A-nác nữa."
29
Tôi
đã bảo anh em: "Ðừng run khiếp, đừng sợ chúng! 30 Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh em, Ðấng đi phía trước anh em, sẽ chiến đấu cho anh em, đúng như Người đã
làm cho anh em tại Ai-cập trước mắt anh em, 31 và trong sa mạc, nơi
anh (em) thấy Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mang anh (em) như một người
mang con mình, suốt con đường anh em đã đi cho tới khi anh em đến nơi
này."32 Nhưng trong việc ấy anh em đã không tin vào Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh em, 33 Ðấng đi phía trước anh em trên đường để tìm chỗ cho
anh em cắm lều; ban đêm, Người ở trong lửa để cho anh em thấy đường anh em đi,
và ban ngày, Người ở trong đám mây.
Huấn
thị của Ðức Chúa tại Ca-đê (Ðn 14:20-45)
34
Ðức
Chúa đã nghe thấy giọng nói của anh em, Người nổi giận và thề rằng: 35 "Không
một người nào thuộc thế hệ gian ác này sẽ được thấy miền đất tốt tươi Ta đã thề
sẽ ban cho cha ông các ngươi, 36 ngoại trừ Ca-lếp, con của
Giơ-phun-ne: nó sẽ được thấy đất ấy, và đất nó đã giẫm lên, Ta sẽ ban cho nó và
các con nó, bởi vì nó đã một lòng theo Ðức Chúa.” 37 Vì anh em, Ðức
Chúa cũng nổi cơn thịnh nộ cả với tôi, Người phán: "Cả ngươi nữa, ngươi
cũng sẽ không được vào đó! 38 Giô-suê, con của Nun, kẻ chầu chực trước mặt
ngươi, sẽ được vào đó. Hãy làm cho nó nên mạnh mẽ, vì chính nó sẽ cho Ít-ra-en
hưởng đất ấy làm gia nghiệp. 39 Về phần con cái các ngươi mà các
ngươi nói: "Chúng sẽ bị giặc bắt", và con trai các ngươi, những đứa
hôm nay chưa biết phân biệt tốt xấu, chúng sẽ được vào đó. Ta sẽ ban cho chúng
đất ấy và chúng sẽ chiếm hữu. 40 Còn các ngươi hãy chuyển hướng và
lên đường đi sa mạc, theo hướng Biển Sậy."
41
Anh
em đã trả lời và nói với tôi: "Chúng tôi đã phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa,
chúng tôi sẽ lên và sẽ chiến đấu theo tất cả những gì Ðức Chúa, Thiên Chúa
chúng tôi, đã truyền cho chúng tôi." Mỗi người trong anh em đã đeo võ khí
và tưởng lên núi là việc dễ dàng. 42 Ðức Chúa đã phán với tôi:
"Hãy bảo chúng: các ngươi đừng lên, đừng chiến đấu, vì Ta không ở giữa các
ngươi. Ðừng để quân địch đánh bại các ngươi!” 43 Tôi đã bảo anh em
mà anh em không nghe, anh em đã cưỡng lệnh Ðức Chúa, đã cả gan lên núi. 44
Người E-mô-ri ở miền núi ấy ra đánh anh em, đuổi anh em như ong đuổi, và
đánh tan anh em tại Xê-ia đến tận Khoóc-ma. 45 Khi trở về, anh em đã
khóc lóc trước mặt Ðức Chúa, nhưng Ðức Chúa đã không nghe tiếng anh em và không
để tai nghe anh em. 46 Chính vì vậy mà anh em đã phải ở lại Ca-đê
như thế.
Chương 02
Từ
Ca-đê đến thung lũng Ác-nôn
1
Chúng
ta đã chuyển hướng và lên đường đi sa mạc, theo hướng Biển Sậy, như Ðức Chúa đã
phán với tôi, và chúng ta đã đi vòng quanh miền núi Xê-ia lâu ngày. 2 Ðức
Chúa phán với tôi rằng: 3 "Các ngươi đi vòng quanh núi này đã
lâu rồi, hãy chuyển hướng về phía bắc. 4 Ngươi hãy truyền cho dân
rằng: Các ngươi sắp đi qua lãnh thổ của anh em các ngươi là con cái Ê-xau,
những người ở Xê-ia. Chúng sẽ sợ các ngươi, nhưng các ngươi phải rất ý tứ: 5
Ðừng khiêu khích chúng, vì Ta sẽ không cho các ngươi một phần đất nào của
chúng, dù là chỗ đặt bàn chân: Ta đã ban núi Xê-ia cho Ê-xau làm sở hữu. 6
Lương thực các ngươi ăn, các ngươi sẽ dùng bạc mà mua của chúng; cả nước
các ngươi uống, các ngươi cũng sẽ dùng bạc mà mua của chúng. 7 Thật
vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của (các) ngươi, đã chúc phúc cho (các) ngươi trong
mọi việc tay (các) ngươi làm, Người đã biết cuộc hành trình của (các) ngươi
trong sa mạc mênh mông ấy; đã bốn mươi năm Ðức Chúa, Thiên Chúa của (các)
ngươi, ở với (các) ngươi, và (các) ngươi đã chẳng thiếu thốn điều gì."
8
Rời
bỏ anh em chúng ta là con cái Ê-xau, những người ở Xê-ia, chúng ta đã đi qua
con đường thung lũng A-ra-va, con đường bắt đầu từ Ê-lát và E-xi-ôn Ghe-ve. Rồi
chúng ta chuyển hướng và đi qua con đường sa mạc Mô-áp. 9 Ðức Chúa
phán với tôi: "Ðừng gây hấn với Mô-áp, đừng khiêu chiến với chúng, vì Ta
sẽ không cho ngươi một phần đất nào của chúng làm sở hữu: Ta đã ban A cho con
cái Lót làm sở hữu. 10 - Trước kia người Ê-mim ở đất ấy, họ là một
dân lớn, đông và cao như người A-nác. 11 Như người A-nác, họ cũng
được coi là người Ra-pha, nhưng người Mô-áp gọi họ là người Ê-mim. 12 Tại
Xê-ia trước kia có người Khô-ri ở, nhưng con cái Ê-xau đã trục xuất họ, đã tiêu
diệt họ khi tới đó và ở thế chỗ họ, như Ít-ra-en đã làm trong đất họ chiếm hữu,
đất mà Ðức Chúa đã ban cho họ. - 13 Giờ đây các ngươi hãy đứng lên và qua thung
lũng De-rét."
Chúng
ta đã qua thung lũng De-rét.
14
Thời
gian chúng ta đi từ Ca-đê Bác-nê-a cho đến khi chúng ta qua thung lũng De-rét
là ba mươi tám năm, cho đến khi tất cả thế hệ các chiến sĩ biến hết khỏi trại,
như Ðức Chúa đã thề với họ. 15 Bàn tay Ðức Chúa cũng đè trên họ để
loại họ ra khỏi trại, cho đến khi họ biến hết.
16
Khi
các chiến sĩ đã chết, đã biến hết không còn trong dân nữa, 17 thì
Ðức Chúa phán với tôi rằng: 18 "Hôm nay ngươi sắp đi qua lãnh
thổ Mô-áp, qua Ar. 19 Ngươi sẽ đến gần đất con cái Am-mon. Ðừng gây
hấn, đừng khiêu chiến với chúng, vì Ta sẽ không cho ngươi phần đất nào của
chúng làm sở hữu: Ta đã ban đất ấy cho con cái Am-mon làm sở hữu. 20 -
Cả đất ấy cũng được coi là đất của người Ra-pha; trước kia người Ra-pha đã ở
đó, người Am-mon gọi họ là Dam-dum-mim. 21 Họ là một dân lớn, đông
và cao như người A-nác, nhưng Ðức Chúa đã tiêu diệt họ, khi người Am-mon đến;
những người này đã trục xuất họ và ở thế chỗ họ. 22 Người đã làm như
thế cho con cái Ê-xau, những người ở Xê-ia, khi Người tiêu diệt người Khô-ri,
lúc con cái Ê-xau đến: những người này đã trục xuất họ và ở thế chỗ họ cho đến
ngày nay. 23 Còn người A-vim, những người ở trong các thôn ấp về
phía Ga-da cũng thế: người Cáp-to phát xuất từ Cáp-to đã tiêu diệt họ và ở thế
chỗ họ. - 24 Các ngươi hãy đứng dậy, lên đường và qua thung lũng Ác-nôn. Hãy
coi: Ta trao Xi-khôn, vua Khét-bôn, người E-mô-ri, và đất vua ấy vào tay (các)
ngươi. Hãy bắt đầu chiếm hữu đất ấy và hãy khiêu chiến với chúng. 25 Hôm
nay, Ta sẽ làm cho các dân khắp thiên hạ kinh khiếp sợ hãi (các) ngươi ra mặt:
khi nghe nói đến (các) ngươi, chúng sẽ run rẩy, rụng rời trước mặt (các)
ngươi."
Ðánh
chiếm vương quốc vua Xi-khôn (Ðn 21:21-30)
26
Từ
sa mạc Cơ-đê-mốt, tôi đã sai sứ giả đến với Xi-khôn, vua Khét-bôn, nói những
lời hoà bình như sau: 27 "Xin cho tôi mượn đường qua đất ông;
tôi sẽ đi trên đường, không quẹo phải quẹo trái. 28 Lương thực tôi
ăn, ông sẽ bán cho tôi đổi lấy bạc; nước tôi uống, ông sẽ cung cấp cho tôi đổi
lấy bạc. Tôi chỉ xin đi bộ qua thôi - 29 con cái Ê-xau là những người ở Xê-ia,
và người Mô-áp là những người ở A, đã cho phép tôi đi qua đất họ - cho đến khi
tôi qua sông Gio-đan, vào đất Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, ban cho chúng
tôi."
30
Nhưng
Xi-khôn, vua Khét-bôn, đã không muốn cho chúng ta đi qua đất nó, vì Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), đã làm cho thần trí nó ra cứng cỏi và lòng dạ nó ra
chai đá, để trao nó vào tay anh (em), như anh (em) thấy hôm nay. 31 Ðức
Chúa phán với tôi: "Hãy coi: Ta bắt đầu trao Xi-khôn và đất nó cho ngươi.
Hãy bắt đầu đánh chiếm và chiếm cứ đất nó.” 32 Xi-khôn, nó và toàn
dân nó đã ra nghênh chiến với chúng ta tại Gia-hát. 33 Ðức Chúa,
Thiên Chúa chúng ta, đã trao nó cho chúng ta, và chúng ta đã đánh bại nó, con
cái nó và toàn dân nó. 34 Thời ấy, chúng ta đã chiếm tất cả các
thành của nó và đã tru hiến mọi thành: đàn ông, đàn bà, con trẻ; chúng ta đã
không để lại một ai sống sót. 35 Chúng ta chỉ cướp lấy cho mình gia
súc và chiến lợi phẩm của các thành chúng ta đã chiếm được. 36 Từ
A-rô-e trên mé thung lũng Ác-nôn, và từ thành ở trong thung lũng, cho đến miền
Ga-la-át, không có thành nào chúng ta không thể đánh chiếm được: Ðức Chúa,
Thiên Chúa chúng ta, đã trao tất cả cho chúng ta. 37 Chỉ có đất của
con cái Am-mon là anh (em) đã không đến gần: tất cả triền thung lũng Giáp-bốc,
các thành miền núi và tất cả những nơi mà Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đã
cấm.
Chương 03
Ðánh
chiếm vương quốc vua Ốc (Ðn 21:31-35)
1
Chúng
ta đã chuyển hướng và đi lên phía miền Ba-san. Ốc, vua miền Ba-san, nó và toàn
dân nó đã ra nghênh chiến với chúng ta tại Ét-re-i. 2 Ðức Chúa phán
với tôi: "Ðừng sợ nó, vì Ta đã trao nó cùng với toàn dân nó và đất nó vào
tay ngươi; ngươi sẽ xử với nó như đã xử với Xi-khôn, vua người E-mô-ri, đóng đô
ở Khét-bôn.” 3 Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, cũng đã trao Ốc, vua
miền Ba-san, và toàn dân nó vào tay chúng ta; chúng ta đã đánh bại nó, không để
lại cho nó một ai sống sót. 4 Thời ấy, chúng ta đã chiếm mọi thành
của nó, không có thành nào mà chúng ta không lấy của chúng: sáu mươi thành, tức
là tất cả vùng Ác-gốp ở miền Ba-san, vương quốc của Ốc. 5 Tất cả đều
là những thành kiên cố, có tường cao, có cửa đóng then cài, không kể những
thành bỏ ngỏ, nhiều lắm. 6 Chúng ta đã tru hiến những thành ấy, như
chúng ta đã xử với Xi-khôn, vua Khét-bôn; chúng ta đã tru hiến mọi thành: đàn
ông, đàn bà, con trẻ. 7 Nhưng tất cả gia súc và chiến lợi phẩm của
các thành, thì chúng ta đã lấy cho mình.
8
Thời
ấy, chúng ta đã lấy của hai vua người E-mô-ri vùng đất ở bên kia sông Gio-đan,
từ thung lũng Ác-nôn đến núi Khéc-môn. - 9 Người Xi-đôn gọi núi Khéc-môn là
Xia-giôn, còn người E-mô-ri gọi là Xơ-nia. - 10 Chúng ta đã lấy tất cả các
thành vùng Cao Nguyên, tất cả miền Ga-la-át, và tất cả miền Ba-san đến tận
Xan-kha và Ét-re-i, tức là các thành ở miền Ba-san, vương quốc của Ốc. - 11
Thật vậy, Ốc, vua miền Ba-san, là người cuối cùng trong số người Ra-pha còn
sống sót; giường của nó, giường bằng sắt, chẳng phải là cái giường người ta còn
thấy ở thành Ráp-ba của con cái Am-mon sao? Giường ấy dài bốn thước rưỡi, rộng
hai thước, tính bằng thước người ta quen dùng.
Chia
đất bên kia sông Gio-đan (Ðn 32:33-42)
12
Thời
ấy, chúng ta đã chiếm hữu đất này. Tôi đã cho chi tộc Rưu-vên và chi tộc Gát
vùng đất từ A-rô-e bên thung lũng Ác-nôn, cùng với một nửa miền núi Ga-la-át và
các thành ở đó. 13 Phần còn lại của miền Ga-la-át và tất cả miền
Ba-san, vương quốc của Ốc, thì tôi đã cho một nửa chi tộc Mơ-na-se -tất cả vùng
Ác-gốp, tất cả miền Ba-san, người ta gọi là đất của người Ra-pha. - 14 Gia-ia,
con của Mơ-na-se, đã lấy tất cả vùng Ác-gốp cho đến lãnh thổ người Gơ-sua và
người Ma-a-kha, và đã lấy tên mình mà đặt cho những vùng ấy của miền Ba-san,
ngày nay vẫn còn gọi là "các trại của người Gia-ia". 15 Tôi
đã cho Ma-khia miền Ga-la-át.16 Còn chi tộc Rưu-vên và chi tộc Gát, thì tôi cho
vùng đất từ miền Ga-la-át cho đến thung lũng Ác-nôn, lấy lòng thung lũng làm
ranh giới, và cho đến thung lũng Giáp-bốc, ranh giới con cái Am-mon, 17 cùng
với thung lũng A-ra-va, lấy sông Gio-đan làm ranh giới, từ Kin-ne-rét cho đến
biển A-ra-va, tức là Biển Muối, phía dưới sườn núi Pít-ga, về phía đông.
Chỉ
thị cuối cùng của ông Mô-sê (Ðn 32:20-32)
18
Thời
ấy, tôi đã truyền cho anh em rằng: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã
cho anh em đất này để anh em chiếm hữu. Tất cả các dũng sĩ, anh em hãy cầm võ
khí đi qua trước anh em mình là con cái Ít-ra-en. 19 Chỉ có đàn bà
con trẻ và các đàn vật của anh em - tôi biết là anh em có nhiều đàn vật - sẽ ở
trong các thành tôi đã cho anh em, 20 cho đến khi Ðức Chúa ban cho
anh em của anh em được an cư lạc nghiệp như anh em, và chính họ cũng chiếm hữu
đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho họ ở bên kia sông Gio-đan; bấy giờ
anh em mỗi người sẽ trở về phần đất sở hữu của mình, phần đất tôi đã cho anh
em.” 21 Thời ấy, tôi đã truyền cho ông Giô-suê rằng: "Chính mắt
anh đã thấy tất cả cách xử sự của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đối với hai
vua ấy; Ðức Chúa cũng sẽ xử sự như vậy với các vương quốc anh sắp đi qua. 22
Anh em đừng sợ chúng, vì chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, chiến đấu
cho anh em."
23
Thời
ấy, tôi đã năn nỉ Ðức Chúa rằng: 24 "Lạy Chúa là Ðức Chúa, Ngài
đã bắt đầu cho tôi tớ Ngài thấy Ngài thật vĩ đại và tay Ngài mạnh mẽ. Có thần
nào trên trời dưới đất thực hiện được những công trình và những chiến công như
Ngài? 25 Xin cho con được sang qua sông Gio-đan và nhìn thấy miền đất tốt tươi
ở bên kia sông, miền núi tốt tươi ấy và núi Li-băng.” 26 Vì anh em,
Ðức Chúa bất bình với tôi, Người không nghe tôi; Ðức Chúa phán với tôi:
"Ðủ rồi! Ðừng bao giờ nói với Ta về chuyện ấy nữa! 27 Hãy lên đỉnh Pít-ga,
ngước mắt nhìn về phía tây, phía bắc, phía nam, phía đông, và mở mắt ra mà xem,
vì ngươi sẽ không được sang qua sông Gio-đan này. 28 Hãy truyền lệnh
cho Giô-suê, hãy làm cho nó nên mạnh mẽ và can đảm, vì chính nó sẽ dẫn đầu dân
này qua sông, và chính nó sẽ cho chúng hưởng đất mà ngươi sẽ thấy, làm gia
nghiệp."
29
Vậy
chúng ta đã ở lại thung lũng, đối diện với Bết Pơ-o.
Chương 04
Giữ
luật Chúa là khôn ngoan
1
Giờ
đây, hỡi Ít-ra-en, hãy nghe những thánh chỉ và quyết định tôi dạy cho anh em,
để anh em đem ra thực hành. Như vậy anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm
hữu miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em. 2
Anh em đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì,
nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền
cho anh em. 3 Chính mắt anh em đã thấy điều Ðức Chúa làm tại Ba-an
Pơ-o: mọi kẻ theo Ba-an Pơ-o thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã tiêu
diệt không cho sống giữa anh (em). 4 Còn anh em, những kẻ gắn bó với
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, thì hôm nay đều còn sống cả. 5 Hãy
xem: tôi đã dạy cho anh em những thánh chỉ và quyết định như Ðức Chúa, Thiên
Chúa của tôi, đã truyền cho tôi, để anh em đem ra thực hành trong miền đất mà
anh em sắp vào chiếm hữu. 6 Anh em phải giữ và đem ra thực hành, vì
nhờ đó anh em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh. Khi được nghe
tất cả những thánh chỉ đó, họ sẽ nói: "Chỉ có dân tộc vĩ đại này mới là
một dân khôn ngoan và thông minh!” 7 Phải, có dân tộc vĩ đại nào
được thần minh ở gần, như Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi
khi chúng ta kêu cầu Người? 8 Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và
quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh
em?
Mặc
khải tại núi Khô-rếp
9
Nhưng
anh (em) hãy ý tứ và cẩn thận giữ mình đừng quên những điều mắt anh (em) đã
thấy, và suốt đời, đừng để cho những điều ấy ra khỏi lòng anh (em); trái lại,
anh (em) hãy dạy cho con cháu anh (em) biết. 10 Ngày mà anh (em)
đứng trước mặt Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), tại núi Khô-rếp, Ðức Chúa đã
phán bảo tôi: "Hãy tập hợp dân lại cho Ta; Ta sẽ cho chúng nghe những lời
của Ta, để chúng học cho biết kính sợ Ta mọi ngày chúng sống trên mặt đất, và
để chúng dạy cho con cái chúng.” 11 Anh em đã lại gần và đứng dưới
chân núi; núi bốc lửa cao đến tận trời, trong bóng tối mây đen mù mịt. 12 Ðức
Chúa phán với anh em từ trong đám lửa: anh em nghe thấy tiếng nói nhưng không
thấy hình bóng nào, chỉ có tiếng thôi. 13 Người đã thông báo cho anh
em giao ước của Người, giao ước mà Người truyền cho anh em đem ra thực hành, đó
là mười lời Người viết trên hai bia đá. 14 Phần tôi, thời đó, Ðức
Chúa truyền cho tôi dạy anh em các thánh chỉ và quyết định, để anh em đem ra
thực hành trong miền đất mà anh em sắp sang chiếm hữu.
15
Anh
em hãy cẩn thận giữ mình: anh em đã không thấy hình bóng nào, ngày Ðức Chúa
phán với anh em tại núi Khô-rếp, từ trong đám lửa; 16 vì thế đừng có
ra hư hỏng mà làm cho mình một tượng mang hình ảnh bất cứ cái gì: hình người
nam hay người nữ, 17 hình bất cứ loài vật nào trên mặt đất, hình bất
cứ loài chim chóc nào bay trên trời, 18 hình bất cứ loài nào bò dưới
đất, hình bất cứ loài cá nào ở trong nước phía dưới mặt đất. 19 Khi
anh (em) ngước mắt lên trời và thấy mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao, toàn
thể thiên binh, thì đừng bị lôi cuốn mà sụp xuống lạy và phụng thờ chúng. Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã phân chia chúng cho mọi dân thiên hạ. 20
Còn anh em, thì Ðức Chúa đã chọn lấy anh em và đưa ra khỏi cái lò nung
sắt là Ai-cập, để anh em trở nên dân Người, nên cơ nghiệp của Người, như ngày
nay.
Dân
sẽ bị phạt và trở về với Chúa
21
Vì
anh em, Ðức Chúa đã nổi cơn thịnh nộ với tôi, và Người đã thề là tôi sẽ không
được sang sông Gio-đan và không được vào miền đất tốt tươi mà Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp. 22 Tôi sắp phải
chết tại đất này: tôi sẽ không được sang sông Gio-đan, còn anh em thì sắp sang
và sẽ chiếm hữu miền đất tốt tươi ấy. 23 Anh em hãy ý tứ đừng quên
giao ước mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã lập với anh em, đừng làm tượng
thờ mang hình ảnh bất cứ cái gì mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã cấm
anh (em). 24 Thật vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), là một
ngọn lửa thiêu, một vị thần ghen tương.
25
Khi
anh em sinh con cháu và ở lâu trong xứ, nếu anh em ra hư hỏng, làm tượng thờ
mang hình ảnh bất cứ cái gì và làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em) mà trêu giận Người, 26 thì hôm nay tôi lấy trời đất làm
chứng cáo tội anh em: chắc chắn anh em sẽ mau chóng biến khỏi miền đất mà anh
em sắp sang sông Gio-đan để chiếm hữu; anh em sẽ không sống lâu ở đó, vì anh em
sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. 27 Ðức Chúa sẽ phân tán anh em vào giữa
các dân, anh em sẽ chỉ còn là một dúm người giữa các dân nước mà Ðức Chúa sẽ
dẫn anh em đến. 28 Tại đó anh em sẽ phụng thờ các thần do tay người
phàm làm ra, là gỗ và đá, không nhìn không nghe, không ăn không ngửi.
29
Từ
chỗ đó anh em sẽ tìm Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và anh (em) sẽ thấy nếu
anh (em) hết lòng hết dạ kiếm tìm Người. 30 Khi anh (em) gặp cảnh
ngặt nghèo, khi tất cả những điều ấy xảy ra cho anh (em) sau này, anh (em) sẽ
trở lại với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) và sẽ nghe tiếng Người. 31 Thật
vậy Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) là Thiên Chúa từ bi: Người sẽ không bỏ
mặc anh (em), sẽ không tiêu diệt anh (em), sẽ không quên giao ước Người đã thề
với cha ông anh (em).
Ðược
Chúa chọn là một hồng ân
32
Anh
(em) cứ hỏi những thời xa xưa, thời có trước anh (em), từ ngày Thiên Chúa dựng
nên con người trên mặt đất; cứ hỏi từ chân trời này đến chân trời kia: có bao
giờ đã xảy ra chuyện vĩ đại như thế, hay có ai đã nghe điều giống như vậy
chăng? 33 Có dân nào đã được nghe tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám lửa như
anh (em) đã nghe, mà vẫn còn sống không? 34 Hoặc có thần nào đã ra công đi chọn
lấy cho mình một dân tộc từ giữa một dân tộc khác, đã dùng bao thử thách, dấu
lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn
táng đởm, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm cho anh em tại Ai-cập,
trước mắt anh (em) không?
35
Chính
anh (em) đã được cho thấy những điều đó, để biết rằng Ðức Chúa là Thiên Chúa và
ngoài Người ra không có thần nào khác nữa. 36 Từ trời, Người đã cho
anh (em) nghe tiếng Người, để dạy dỗ anh (em); dưới đất, Người đã cho anh (em)
thấy ngọn lửa lớn của Người, và anh (em) đã nghe các lời Người phán ra từ trong
đám lửa. 37 Bởi vì Người đã yêu thương cha ông anh (em), nên sau các
ngài, Người đã chọn dòng dõi các ngài, và đã đích thân dùng sức mạnh lớn lao
của Người đưa anh (em) ra khỏi Ai-cập. 38 Người đã đuổi những dân
lớn và mạnh hơn anh (em) cho khuất mắt anh (em), để đưa anh (em) vào đất của
chúng và ban cho anh (em) đất ấy làm gia nghiệp, như anh (em) thấy hôm nay.
39
Vậy
hôm nay, anh (em) phải biết và để tâm suy niệm điều này: trên trời cao cũng như
dưới đất thấp, chính Ðức Chúa là Thiên Chúa, chứ không có thần nào khác nữa. 40
Anh (em) phải giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người, mà hôm nay tôi
truyền cho anh (em); như vậy anh (em) và con cháu anh (em) sau này sẽ được hạnh
phúc, và anh (em) sẽ được sống lâu trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), vĩnh viễn ban cho anh (em)."
Ba
thành làm nơi ẩn náu
41
Bấy
giờ ông Mô-sê tách ra ba thành ở bên kia sông Gio-đan, về phía đông, 42 làm
nơi ẩn náu cho kẻ sát nhân đã ngộ sát người đồng loại, mà trước đó không thù
ghét người ấy; nó sẽ vào ẩn náu tại một trong các thành ấy và sẽ được sống. 43
Ðó là: Be-xe, trong sa mạc, trên đất Cao Nguyên, cho chi tộc Rưu-vên;
Ra-mốt, trong miền Ga-la-át, cho chi tộc Gát; và Gô-lan, trong miền Ba-san, cho
chi tộc Mơ-na-se.
Diễn
Từ Thứ Hai Của Ông Mô-Sê
44
Ðây
là luật mà ông Mô-sê đã trình bày cho con cái Ít-ra-en. 45 Ðây là
những thánh ý, thánh chỉ và quyết định mà ông Mô-sê đã công bố cho con cái
Ít-ra-en khi họ ra khỏi Ai-cập, 46 lúc họ đang ở bên kia sông
Gio-đan, trong thung lũng, đối diện với Bết Pơ-o, trong đất của Xi-khôn, vua
người E-mô-ri, đóng đô ở Khét-bôn. Ông Mô-sê và con cái Ít-ra-en đã đánh bại
vua ấy khi họ ra khỏi Ai-cập, 47 đã chiếm hữu đất vua ấy và đất của
Ốc, vua miền Ba-san, là hai vua người E-mô-ri ở bên kia sông Gio-đan về phía
đông, 48 từ A-rô-e trên mé thung lũng Ác-nôn đến núi Xi-ôn, tức là
núi Khéc-môn, 49 với tất cả thung lũng A-ra-va, bên kia sông Gio-đan
về phía đông, đến biển A-ra-va, phía dưới sườn núi Pít-ga.
Chương 05
Mười
điều răn (Xh 20:1-17)
1
Ông
Mô-sê triệu tập toàn thể Ít-ra-en và nói với họ: "Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe
những thánh chỉ và quyết định mà hôm nay tôi nói cho anh em nghe; anh em phải
học cho biết những điều ấy và lo đem ra thực hành. 2 Ðức Chúa, Thiên
Chúa chúng ta, đã lập một giao ước với chúng ta tại núi Khô-rếp. 3 Ðức
Chúa đã lập giao ước này không phải với cha ông chúng ta, mà là với chúng ta,
những người hôm nay đang ở đây, tất cả còn đang sống. 4 Ðức Chúa đã
phán với anh em mặt đối mặt, trên núi, từ trong đám lửa. 5 Còn tôi,
thời ấy, tôi đứng giữa Ðức Chúa và anh em để thông báo cho anh em lời của Ðức
Chúa, vì anh em thấy lửa thì sợ và không lên núi. Người phán:
6
"Ta
là Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô
lệ.
7
Ngươi
không được có thần nào khác đối nghịch với Ta.
8
Ngươi
không được tạc tượng vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng như dưới đất
thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. 9 Ngươi không
được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, là một vị thần ghen tương. Ðối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu
đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. 10 Còn với những ai yêu mến
Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.
11
Ngươi
không được dùng danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi một cách bất xứng, vì Thiên
Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng.
12
Ngươi
hãy giữ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, đã truyền cho ngươi. 13 Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và
làm mọi công việc của ngươi. 14 Còn ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính
Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả
ngươi, cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, bò lừa và mọi gia súc của
ngươi, và ngoại kiều ở trong thành của ngươi, để tôi tớ nam nữ của ngươi được
nghỉ như ngươi. 15 Ngươi hãy nhớ ngươi đã làm nô lệ tại đất Ai-cập,
và Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền đưa ngươi
ra khỏi đó. Bởi vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi cử hành
ngày sa-bát.
16
Ngươi
hãy thờ cha kính mẹ, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi,
để được sống lâu, và để được hạnh phúc trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa ngươi,
ban cho ngươi.
17
Ngươi
không được giết người.
18
Ngươi
không được ngoại tình.
19
Ngươi
không được trộm cắp.
20
Ngươi
không được làm chứng dối hại người.
21
Ngươi
không được ham muốn vợ người ta, ngươi không được thèm muốn nhà của người ta,
đồng ruộng, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta.” 22
Những lời ấy, Ðức Chúa đã phán với toàn thể đại hội anh em, trên núi, từ
trong đám lửa, giữa mây đen mù mịt, Người nói lớn tiếng và không thêm gì cả.
Người đã viết những lời ấy trên hai bia đá và ban cho tôi.
Ông
Mô-sê làm trung gian (Xh 20:18-21)
23
Khi
anh em nghe tiếng từ giữa bóng tối, và núi đang bốc lửa, thì anh em, tất cả
những người đứng đầu các chi tộc và những kỳ mục của anh em, đã đến gặp tôi 24
và nói: "Này Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, đã cho chúng tôi thấy Người
thật vinh quang và vĩ đại, và chúng tôi đã nghe tiếng của Người từ trong đám
lửa. Hôm nay chúng tôi đã thấy rằng Thiên Chúa phán với con người mà con người
vẫn sống. 25 Bây giờ tại sao chúng tôi phải chết? Vì ngọn lửa lớn
này có thể thiêu rụi chúng tôi. Chúng tôi mà cứ tiếp tục nghe tiếng của Ðức
Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, thì chúng tôi chết mất. 26 Thật vậy, có
người phàm nào đã được nghe tiếng của Thiên Chúa hằng sống phán từ trong đám
lửa, như chúng tôi đã được nghe, mà vẫn còn sống? 27 Phần ông, ông hãy lại gần
và nghe tất cả những gì Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, phán, rồi ông sẽ nói
cho chúng tôi tất cả những gì Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, phán với ông;
chúng tôi sẽ nghe và đem ra thực hành."
28
Ðức
Chúa đã nghe thấy giọng nói của anh em khi anh em nói với tôi; Ðức Chúa phán
với tôi: "Ta đã nghe thấy giọng nói của dân này khi chúng nói với ngươi:
Tất cả những gì chúng nói là phải. 29 Phải chi chúng luôn luôn có
một tấm lòng như thế để kính sợ Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta mọi ngày, như
vậy chúng và con cái chúng sẽ được hạnh phúc mãi mãi! 30 Ngươi hãy đi bảo
chúng: "Anh em hãy trở về lều! 31 Còn ngươi, đứng lại đây với Ta; Ta sẽ
phán với ngươi tất cả mệnh lệnh, các thánh chỉ và quyết định mà ngươi sẽ dạy
cho chúng, ngõ hầu chúng đem ra thực hành trong đất mà Ta ban cho chúng để
chúng chiếm hữu."
Yêu
mến Chúa: điểm chủ yếu của lề luật
32
Anh
em hãy lo thực hành như Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em,
không đi trệch bên phải bên trái. 33 Anh em hãy đi đúng con đường mà
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, để anh em được sống,
được hạnh phúc và được sống lâu trên mặt đất mà anh em sẽ chiếm hữu.
Chương 06
1
Ðây
là mệnh lệnh, là những thánh chỉ và quyết định mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
em, đã truyền phải dạy cho anh em, để anh em đem ra thực hành trong đất anh em
sắp sang chiếm hữu. 2 Như vậy anh (em) cũng như con cháu anh (em) sẽ
kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân
giữ tất cả những chỉ thị và mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh (em), và
anh (em) sẽ được sống lâu. 3 Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe và lo đem những
điều ấy ra thực hành; như vậy anh (em) sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông
đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông
anh (em), đã phán với anh (em).
4
Nghe
đây, hỡi Ít-ra-en! Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Ðức Chúa duy nhất. 5 Hãy
yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). 6
Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào
lòng. 7 Anh (em) phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại
cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi
thức dậy, 8 phải buộc những lời ấy vào tay làm dấu, mang trên trán
làm phù hiệu, 9 phải viết lên khung cửa nhà anh (em), và lên cửa
thành của anh (em).
10
Khi
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đưa anh (em) vào đất Người đã thề với cha
ông anh (em), là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, rằng Người sẽ ban
cho anh (em); khi anh (em) được những thành lớn và đẹp mà anh (em) đã không xây,
11 những nhà đầy mọi thứ của cải mà anh (em) đã không để vào đó,
những bể nước đào sẵn mà anh (em) đã không đào, những vườn nho và vườn ô-liu mà
anh (em) đã không trồng; khi anh (em) được ăn uống no nê, 12 thì
phải ý tứ đừng quên Ðức Chúa, Ðấng đã đưa anh (em) ra khỏi đất Ai-cập, khỏi
cảnh nô lệ. 13 Chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), là Ðấng anh
(em) phải kính sợ; chính Người là Ðấng anh (em) phải phụng thờ; anh (em) sẽ
nhân danh Người mà thề.
Kêu
gọi trung thành
14
Anh
em không được theo những thần khác trong số các thần của các dân chung quanh
anh em, 15 vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), Ðấng ở giữa anh
(em), là một vị thần ghen tương; hãy coi chừng kẻo Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), nổi cơn thịnh nộ với anh (em) và tiêu diệt anh (em), không còn cho sống
trên mặt đất. 16 Anh em đừng thách thức Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
em, như anh em đã thách thức ở Ma-xa. 17 Phải cẩn thận giữ các mệnh
lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, cũng như các thánh ý và thánh chỉ
Người đã truyền cho anh (em). 18 Anh (em) phải làm điều Ðức Chúa coi
là ngay thẳng và tốt lành, để anh (em) được hạnh phúc và được vào chiếm hữu
miền đất tốt tươi mà Ðức Chúa đã thề hứa với cha ông anh (em): 19 Ðức
Chúa sẽ đẩy lui mọi kẻ thù của anh (em) cho khuất mắt anh (em), như Người đã
phán.
20
Mai
ngày khi con anh (em) hỏi anh (em) rằng: "Vì sao có các thánh ý, thánh
chỉ, quyết định mà Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đã truyền cho quý vị?” 21
Anh (em) sẽ trả lời cho con anh (em): "Chúng ta xưa làm nô lệ cho
Pha-ra-ô bên Ai-cập, nhưng Ðức Chúa đã ra tay uy quyền đưa chúng ta ra khỏi
Ai-cập. 22 Trước mắt chúng ta, Ðức Chúa đã thực hiện những điềm
thiêng dấu lạ lớn lao và khủng khiếp, phạt Ai-cập, phạt Pha-ra-ô và tất cả
triều đình vua ấy. 23 Còn chúng ta, Người đã đưa ra khỏi đó, để dẫn
chúng ta vào và ban cho chúng ta đất Người đã thề hứa với cha ông chúng ta. 24
Ðức Chúa đã truyền cho chúng ta đem ra thực hành tất cả những thánh chỉ
này và kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, để chúng ta được hạnh phúc mọi
ngày và để Người cho chúng ta được sống, như ngày hôm nay. 25 Chúng
ta sẽ là người công chính, nếu chúng ta lo đem ra thực hành tất cả mệnh lệnh
này trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, như Người đã truyền cho chúng
ta."
Chương 07
Ít-ra-en,
một dân được tách riêng ra (Xh 34:11-16)
1
Khi
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đưa anh (em) vào đất anh (em) sắp đến chiếm
hữu, khi Người đuổi cho khuất mắt anh (em) nhiều dân tộc: người Khết,
Ghia-ga-si, E-mô-ri, Ca-na-an, Pơ-rít-di, Khi-vi, Giơ-vút, bảy dân tộc đông và
mạnh hơn anh (em); 2 khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), trao
chúng cho anh (em) và anh (em) đánh bại chúng, thì anh (em) phải tru hiến
chúng, không được lập giao ước với chúng và không được thương xót chúng. 3
Anh (em) không được kết nghĩa thông gia với chúng: không được gả con gái
anh (em) cho con trai chúng và cưới con gái chúng cho con trai anh (em), 4
vì điều đó sẽ khiến con trai anh (em) không còn theo Ðức Chúa nữa, nó sẽ
thờ những thần khác; bấy giờ Ðức Chúa sẽ nổi cơn thịnh nộ với anh (em) và sẽ
mau chóng tiêu diệt anh (em). 5 Nhưng anh (em) phải xử với chúng thế
này: bàn thờ của chúng, phải phá huỷ; trụ đá của chúng, phải đập tan; cột thờ
của chúng, phải chặt đi; tượng thần của chúng, phải bỏ vào lửa mà thiêu. 6
Thật vậy, anh (em) là một dân thánh hiến cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em). Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) đã chọn anh (em) từ giữa muôn dân trên
mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người.
Chúa
chọn và ưu đãi Ít-ra-en (Ðnl 28:1-14)
7
Ðức
Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn mọi
dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân. 8 Nhưng chính là
vì yêu thương anh em, và để giữ lời thề hứa với cha ông anh em, mà Ðức Chúa đã
ra tay uy quyền đưa anh em ra và giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay
Pha-ra-ô, vua Ai-cập. 9 Anh (em) phải biết rằng Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh (em), thật là Thiên Chúa, là Thiên Chúa trung thành: cho đến muôn ngàn
thế hệ, Người vẫn giữ giao ước và tình thương đối với những ai yêu mến Người và
giữ các mệnh lệnh của Người. 10 Còn ai thù ghét Người, thì Người
nhằm chính bản thân nó mà trả đũa, khiến nó phải chết; với kẻ thù ghét Người,
Người không trì hoãn, Người nhằm chính bản thân nó mà trả đũa. 11 Vậy
anh (em) phải tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định mà hôm nay tôi
truyền cho anh (em) đem ra thực hành.
12
Nếu
anh em nghe, giữ và đem ra thực hành các quyết định này, thì bù lại, đối với
anh (em), Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ giữ giao ước và tình thương mà
Người đã thề hứa với cha ông anh (em). 13 Người sẽ yêu thương anh
(em), chúc phúc cho anh (em), sẽ làm cho anh (em) nên đông đúc. Người sẽ chúc
phúc làm cho lòng dạ và đất đai của anh (em) sinh hoa kết quả: lúa mì, rượu
mới, dầu tươi, lứa bò, lứa chiên, ở trên đất mà Người đã thề với cha ông anh
(em) là sẽ ban cho anh (em). 14 Anh (em) sẽ được phúc lành hơn mọi
dân, và giữa anh (em) không đàn ông, đàn bà nào không có khả năng sinh con, gia
súc của anh (em) cũng vậy. 15 Ðức Chúa sẽ đẩy xa anh (em) mọi bệnh
tật, mọi dịch tễ khốc hại của Ai-cập mà anh (em) từng biết; Người sẽ không
giáng những thứ đó xuống anh (em), nhưng sẽ bắt những kẻ ghét anh (em) phải
chịu.
16
Anh
(em) sẽ thôn tính mọi dân mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em); đừng nhìn chúng mà thương hại và đừng phụng thờ các thần của chúng: điều
đó có thể trở thành cạm bẫy cho anh (em).
Quyền
lực của Thiên Chúa
17
Có
khi anh (em) sẽ tự bảo: "Những dân tộc ấy đông hơn ta, làm sao ta có thể
trục xuất chúng được?” 18 Nhưng anh (em) đừng sợ chúng. Anh (em) chỉ
cần nhớ lại cách Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã xử với Pha-ra-ô và toàn
cõi Ai-cập: 19 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) đã dùng các thử
thách lớn lao mắt anh (em) từng thấy, đã dùng các dấu lạ điềm thiêng, và dang
cánh tay mạnh mẽ uy quyền để đưa anh (em) ra. Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), sẽ xử như thế với mọi dân mà anh (em) sợ. 20 Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em), sẽ gởi cả ong bầu đến với chúng, cho đến khi những kẻ còn
lại, những kẻ trốn tránh để khỏi giáp mặt anh (em), bị tiêu diệt.
21
Ðừng
run khiếp trước mặt chúng, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở giữa anh
(em), là một Thiên Chúa vĩ đại, khả uý. 22 Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em), sẽ dần dần đuổi các dân tộc đó cho khuất mắt anh (em); anh (em) sẽ
không thể tận diệt chúng mau chóng, kẻo dã thú sinh sôi nảy nở làm hại anh (em).
23 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ trao chúng cho anh (em) và
sẽ làm cho chúng vô cùng hoảng sợ, cho đến khi chúng bị tiêu diệt. 24 Người
sẽ trao các vua của chúng vào tay anh (em), anh (em) sẽ làm cho tên chúng biến
mất không còn dấu vết trong thiên hạ, và không ai sẽ đứng vững được trước mặt
anh (em), cho đến khi anh (em) tiêu diệt chúng.
25
Tượng
các thần của chúng, anh (em) phải bỏ vào lửa mà thiêu. Anh (em) đừng ham muốn
bạc vàng trên các tượng ấy mà lấy cho mình, kẻo anh (em) bị mắc bẫy, vì đó là
vật ghê tởm đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em). 26 Anh (em)
đừng đưa một vật ghê tởm vào nhà anh (em), vì anh (em) sẽ trở thành của tru
hiến như nó. Anh (em) phải kỵ nó và ghê tởm nó, vì nó là của tru hiến.
Chương 08
Thử
thách trong sa mạc
1
Tất
cả mệnh lệnh mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh em hãy lo đem ra thực hành
để anh em được sống, được trở nên đông đúc và được vào chiếm hữu đất mà Ðức
Chúa đã thề hứa với cha ông anh em. 2 Anh (em) phải nhớ lại tất cả
con đường mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã dẫn anh (em) đi suốt bốn
mươi năm nay trong sa mạc, để bắt anh (em) phải cùng cực; như vậy Người thử
thách anh (em) cho biết lòng dạ anh (em), xem anh (em) có giữ các mệnh lệnh của
Người hay không. 3 Người đã bắt anh (em) phải cùng cực, phải đói,
rồi đã cho anh (em) ăn man-na là của ăn anh (em) chưa từng biết và cha ông anh
(em) cũng chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh (em) nhận biết rằng người ta sống
không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Ðức Chúa phán ra. 4
Bốn mươi năm qua, áo anh (em) mặc đã không rách, chân anh (em) đã không
sưng lên.
5
Suy
nghĩ lại, anh (em) phải nhận biết rằng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), giáo
dục anh (em), như một người giáo dục con mình. 6 Anh (em) phải giữ
các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà đi theo đường lối của
Người và kính sợ Người.
Ðề
phòng các cám dỗ khi vào đất hứa
7
Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sắp đưa anh (em) vào một miền đất tốt tươi, miền
đất có những dòng nước, những suối, những mạch nước ngầm chảy ra trong đồng
bằng và trên núi, 8 miền đất có lúa mì, lúa mạch, cây nho, cây vả,
cây lựu, miền đất có cây ô-liu để ép dầu và có mật ong, 9 miền đất ở
đó anh (em) sẽ ăn bánh mà không bị hạn chế, ở đó anh (em) sẽ không thiếu thốn
gì, miền đất mà đá là sắt, và núi có đồng cho anh (em) khai thác. 10 Anh
(em) sẽ được ăn, sẽ được no nê và sẽ chúc tụng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), vì miền đất tốt tươi mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em).
11
Anh
(em) hãy ý tứ đừng quên Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà không giữ các
mệnh lệnh, quyết định và thánh chỉ của Người, mà tôi truyền cho anh (em) hôm
nay. 12 Khi anh (em) được ăn, được no nê, khi anh (em) xây nhà đẹp
để ở, 13 khi anh (em) có nhiều bò và chiên dê, nhiều vàng bạc và
nhiều mọi thứ của cải, 14 thì lòng anh (em) đừng kiêu ngạo mà quên
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), Ðấng đã đưa anh (em) ra khỏi đất Ai-cập,
khỏi cảnh nô lệ. 15 Người đã dẫn anh (em) đi trong sa mạc mênh mông
khủng khiếp, đầy rắn lửa và bọ cạp, trong miền đất khô cằn không giọt nước.
Người đã khiến nước từ tảng đá hoa cương chảy ra cho anh (em) uống. 16 Trong
sa mạc, Người đã cho anh (em) ăn man-na, thức ăn mà cha ông anh (em) chưa từng
biết, để bắt anh (em) phải cùng cực và thử thách anh (em), hầu làm cho anh (em)
được hạnh phúc trong tương lai.
17
Anh
(em) đừng tự bảo: "Chính năng lực của tôi và sức mạnh bàn tay tôi đã tạo
ra cho tôi sự giàu có này.” 18 Anh (em) hãy nhớ Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh (em), vì Người ban cho anh (em) năng lực tạo ra sự giàu có, để Người
giữ vững giao ước đã thề với cha ông anh (em), như anh (em) thấy hôm nay. 19
Nhưng nếu chẳng may anh (em) quên lãng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
mà theo các thần khác, phụng thờ và sụp xuống lạy chúng, thì hôm nay tôi cảnh
cáo anh em: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong; 20 như các dân mà Ðức
Chúa sắp tiêu diệt cho khuất mắt anh em, anh em cũng sẽ bị diệt vong như vậy,
vì đã không nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em.
Chương 09
Chiến
thắng là nhờ Chúa, chứ không phải vì Ít-ra-en công chính
1
Nghe
đây, hỡi Ít-ra-en! Hôm nay anh (em) sắp qua sông Gio-đan để vào trục xuất những
dân tộc lớn và mạnh hơn anh (em), có những thành lớn và tường luỹ ngất trời, 2
một dân lớn và cao, là con cái A-nác, mà anh (em) biết và anh (em) đã
nghe nói: "Ai đứng vững được trước mặt con cái A-nác?” 3 Hôm
nay, anh (em) phải biết rằng: chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ đi
qua trước mặt anh (em) như ngọn lửa thiêu; chính Người sẽ tiêu diệt chúng,
chính Người sẽ hạ chúng xuống trước mặt anh (em). Anh (em) sẽ trục xuất chúng,
sẽ làm chúng bị diệt vong mau lẹ, như Người đã phán với anh (em). 4 Khi
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đẩy lui chúng cho khuất mắt anh (em) thì anh
(em) đừng tự bảo rằng: "Chính vì tôi công chính mà Ðức Chúa đã đưa tôi vào
chiếm hữu đất này"; thật ra chính vì các dân tộc ấy có tội mà Ðức Chúa
trục xuất chúng cho khuất mắt anh (em). 5 Không phải vì anh (em)
công chính hay vì lòng anh (em) ngay thẳng mà anh (em) sắp được vào chiếm hữu
đất của chúng, nhưng chính vì các dân tộc ấy có tội mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em), trục xuất chúng cho khuất mắt anh (em). Ðức Chúa làm như vậy để giữ
vững lời Người đã thề với cha ông anh (em), là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và
ông Gia-cóp. 6 Anh (em) phải biết rằng không phải vì anh (em) công
chính mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) miền đất tốt tươi
ấy để anh (em) chiếm hữu; thật vậy, anh (em) là một dân cứng cổ.
Dân
phạm tội tại núi Khô-rếp. Ông Mô-sê cầu thay cho dân.
7
Anh
(em) phải nhớ, đừng quên rằng anh (em) đã chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em), trong sa mạc. Từ ngày anh (em) ra khỏi đất Ai-cập cho đến khi tới
đây, anh em đã phản nghịch chống lại Ðức Chúa. 8 Tại núi Khô-rếp,
anh em đã chọc giận Ðức Chúa, và Người đã nổi cơn thịnh nộ với anh em đến nỗi
muốn tiêu diệt anh em. 9 Khi lên núi để nhận các bia đá, những tấm
bia giao ước mà Ðức Chúa đã lập với anh em, tôi đã ở trên núi bốn mươi ngày bốn
mươi đêm, không ăn bánh, không uống nước. 10 Ðức Chúa đã ban cho tôi
hai bia đá do ngón tay Thiên Chúa viết, trên đó có mọi lời Ðức Chúa đã phán với
anh em trên núi, từ trong đám lửa, trong ngày đại hội. 11 Sau bốn
mươi ngày bốn mươi đêm, Ðức Chúa ban cho tôi hai bia đá, là những tấm bia giao
ước. 12 Bấy giờ, Ðức Chúa phán với tôi: "Ðứng lên! Mau xuống
khỏi đây, vì dân của ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đã đưa ra khỏi Ai-cập.
Chúng đã vội đi ra ngoài con đường Ta đã truyền cho chúng đi. Chúng đã đúc một
tượng để thờ.” 13 Ðức Chúa phán với tôi: "Ta thấy rằng dân này
là một dân cứng cổ. 14 Cứ để mặc Ta làm, Ta sẽ tiêu diệt chúng, sẽ
xoá tên chúng không còn dấu vết trong thiên hạ. Nhưng Ta sẽ làm cho ngươi thành
một dân tộc mạnh và đông hơn chúng."
15
Tôi
đã quay xuống núi, bấy giờ núi đang bốc lửa, hai tay tôi cầm hai tấm bia giao
ước. 16 Tôi đã thấy anh em phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh em: anh em đã đúc tượng một con bê để thờ, anh em đã vội đi ra ngoài
con đường Ðức Chúa đã truyền cho anh em đi. 17 Tôi bèn nắm lấy hai
bia đá, dùng hai tay mà ném, và đập vỡ hai tấm bia đó trước mắt anh em. 18
Tôi đã phục xuống trước mặt Ðức Chúa; như lần trước, suốt bốn mươi ngày
bốn mươi đêm, tôi không ăn bánh, không uống nước, vì mọi tội anh em đã phạm,
khi làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa mà trêu giận Người. 19 Ấy vì tôi
kinh hãi cơn thịnh nộ và trận lôi đình của Ðức Chúa đang bùng lên chống lại anh
em, đến nỗi Người muốn tiêu diệt anh em; nhưng cả lần này nữa Ðức Chúa cũng
nhận lời tôi. 20 Với ông A-ha-ron, Ðức Chúa cũng nổi cơn thịnh nộ dữ
dội, đến nỗi muốn tiêu diệt ông ấy; lúc đó, tôi cũng cầu xin cho ông A-ha-ron
nữa. 21 Còn sản phẩm tội lỗi anh em đã làm ra, là con bê, tôi đã
lấy, bỏ vào lửa mà thiêu, nghiền nát, tán kỹ, đến nhuyễn thành bụi, rồi ném bụi
đó xuống khe nước từ núi chảy ra.
Những
tội khác của dân. Ông Mô-sê cầu nguyện.
22
Tại
Táp-ê-ra, Ma-xa và Kíp-rốt Ha Ta-a-va, anh em đã chọc giận Ðức Chúa. 23 Khi
Ðức Chúa sai anh em đi từ Ca-đê Bác-nê-a và phán: "Hãy lên và chiếm hữu
đất Ta ban cho các ngươi", anh em đã cưỡng lệnh Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh em, đã không tin vào Người và không nghe tiếng Người. 24 Anh em
đã phản nghịch chống lại Ðức Chúa từ ngày tôi biết anh em.
25
Tôi
đã phục xuống trước mặt Ðức Chúa, suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm tôi đã phục
xuống, vì Ðức Chúa đã nói đến chuyện tiêu diệt anh em. 26 Tôi cầu
xin Ðức Chúa và thưa rằng: "Lạy Chúa là Ðức Chúa, xin đừng huỷ diệt dân
ngài, cơ nghiệp Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao của Ngài để giải thoát, và đã ra
tay uy quyền đưa ra khỏi Ai-cập. 27 Xin nhớ đến các tôi tớ Ngài là
ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, xin đừng để ý đến sự ngoan cố, sự
gian ác và tội của dân này, 28 kẻo tại miền đất từ đó Ngài đã đưa
chúng con ra, người ta lại nói: "Chính vì Ðức Chúa đã không thể đưa chúng
vào đất Người đã thề hứa với chúng, và chính vì ghét chúng mà Người đã đưa
chúng ra để giết chúng trong sa mạc! 29 Thế nhưng đó là dân Ngài, cơ nghiệp
Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao và cánh tay uy quyền đưa ra khỏi đất Ai-cập."
Chương 10
Chúa
truyền làm Hòm Bia. Chi tộc Lê-vi được chọn. (Xh 34:1-10)
1
Thời
ấy, Ðức Chúa phán bảo tôi: "Hãy đẽo hai bia đá như những bia trước, và lên
núi với Ta. Ngươi cũng hãy làm một hòm gỗ. 2 Ta sẽ viết trên các bia
những lời đã có trên các bia trước mà ngươi đã đập vỡ, và ngươi hãy đặt các bia
ấy trong hòm.” 3 Tôi đã làm một hòm bằng gỗ keo, và đẽo hai bia đá
như những bia trước, và đã lên núi, trong tay cầm hai bia đá. 4 Người
đã viết trên các bia điều đã viết lần trước, là mười lời Ðức Chúa đã phán với
anh em trên núi, từ trong đám lửa, trong ngày đại hội. Rồi Ðức Chúa ban những
bia đó cho tôi. 5 Tôi quay xuống núi, đặt các bia vào hòm tôi đã
làm, và các bia vẫn còn đó, như Ðức Chúa đã truyền cho tôi.
6
Từ
những giếng Bơ-nê Gia-a-can, con cái Ít-ra-en lên đường đi Mô-xê-ra. Ông
A-ha-ron qua đời và được chôn cất tại đó. Ông E-la-da, con ông, thi hành chức
vụ tư tế thay ông. 7 Từ chỗ đó, họ lên đường đi Gút-gô-đa, rồi từ
Gút-gô-đa đi Giót-va-tha, một đất có nhiều khe nước. 8 Thời ấy, Ðức
Chúa tách chi tộc Lê-vi ra, để họ mang Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, chầu chực
trước nhan Ðức Chúa, phụng sự Người và chúc phúc nhân danh Người, cho đến ngày
nay. 9 Vì thế, chi tộc Lê-vi không được chung phần và hưởng gia
nghiệp với anh em mình; chính Ðức Chúa là gia nghiệp của họ, như Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), đã phán với họ.
10
Phần
tôi, tôi ở trên núi, như những ngày trước, suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm, và
cả lần này nữa Ðức Chúa cũng nhận lời tôi: Người đã không muốn huỷ diệt anh
(em). 11 Ðức Chúa phán với tôi: "Ðứng dậy! hãy lên đường và đi
phía trước dân, để chúng vào chiếm hữu đất mà Ta đã thề với cha ông chúng rằng
Ta sẽ ban cho chúng."
Cắt
bì trong tâm hồn
12
Giờ
đây, hỡi Ít-ra-en, nào Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), có đòi hỏi anh (em)
điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi
theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, 13
giữ các mệnh lệnh của Ðức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền
cho anh (em) hôm nay, để anh (em) được hạnh phúc?
14
Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), làm chủ cõi trời và các tầng trời cao nhất, cõi
đất và muôn loài trong đó. 15 Nhưng chỉ có cha ông của anh (em) là
được Ðức Chúa đem lòng quyến luyến yêu thương; sau các ngài, giữa muôn dân,
Người đã chọn dòng dõi các ngài tức là anh em, như anh em thấy ngày hôm nay. 16
Vậy anh em hãy cắt bì tâm hồn anh em và đừng cứng cổ nữa, 17 vì
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Thần các thần, là Chúa các chúa, là Thiên
Chúa vĩ đại, dũng mãnh, khả uý, là Ðấng không thiên vị ai và không nhận quà hối
lộ, 18 là Ðấng xử công minh cho cô nhi quả phụ, và yêu thương ngoại
kiều, cho họ bánh ăn áo mặc. 19 Anh em phải yêu thương ngoại kiều,
vì anh em đã từng là ngoại kiều ở đất Ai-cập. 20 Chính Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), là Ðấng anh (em) phải kính sợ; chính Người là Ðấng anh
(em) phải phụng thờ; anh (em) phải gắn bó với Người; anh (em) sẽ nhân danh
Người mà thề; 21 chính Người là Ðấng anh (em) phải ca tụng; chính
Người là Thiên Chúa của anh (em), Ðấng đã làm cho anh (em) những điều lớn lao
và khủng khiếp mà chính mắt anh (em) đã thấy đó. 22 Cha ông của anh
(em) chỉ có bảy mươi người khi xuống Ai-cập, mà bây giờ Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh (em), đã làm cho anh (em) nên nhiều như sao trên trời.
Chương 11
Kinh
nghiệm của Ít-ra-en
1
Anh
(em) phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và mọi ngày phải giữ điều
Người truyền giữ, là các thánh chỉ, quyết định và mệnh lệnh của Người. 2 Hôm
nay, anh em - chứ không phải con cái anh em, những kẻ không biết và không thấy
- anh em biết bài học Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã dạy, biết sức mạnh
lớn lao và cánh tay mạnh mẽ uy quyền của Người; 3 anh em biết những
dấu lạ và hành động Người đã làm ngay tại Ai-cập chống lại Pha-ra-ô, vua
Ai-cập, và cả nước vua ấy; 4 anh em biết việc Người đã làm chống
quân đội Ai-cập cùng với chiến mã và chiến xa của chúng, khi Người cho nước
Biển Sậy tràn ngập lên chúng, đang lúc chúng đuổi theo anh em, và Ðức Chúa đã
huỷ diệt chúng cho đến ngày nay; 5 anh em biết việc Người đã làm cho
anh em trong sa mạc cho đến khi anh em tới đất này; 6 anh em biết
việc Người đã làm để phạt Ða-than và A-vi-ram, là con của Ê-li-áp thuộc chi tộc
Rưu-vên, khi đất há miệng nuốt chúng ngay giữa toàn thể Ít-ra-en, cùng với gia
đình chúng, lều chúng và mọi kẻ theo bước chân chúng. 7 Chính mắt
anh em đã thấy tất cả hành động lớn lao Ðức Chúa đã làm.
Hứa
hẹn và cảnh cáo
8
Vậy
anh em phải giữ tất cả mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được
mạnh sức và vào chiếm hữu đất anh em sắp sang chiếm hữu, 9 và để anh
em được sống lâu trên đất, mà Ðức Chúa đã thề với cha ông anh em là sẽ ban cho
các ngài và dòng dõi các ngài, một đất tràn trề sữa và mật.
10
Thật
vậy, đất anh (em) sắp vào chiếm hữu không như đất Ai-cập mà anh em đã bỏ ra đi:
ở đó anh em gieo giống rồi phải dùng chân mà tưới như tưới vườn rau. 11 Còn
đất mà anh em sắp sang chiếm hữu là một miền đất có núi non và thung lũng, thấm
nước mưa trời, 12 miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
chăm sóc: Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), luôn luôn để mắt tới đất ấy, từ
đầu năm đến cuối năm.
13
Nếu
các ngươi thực sự vâng nghe những mệnh lệnh Ta truyền cho các ngươi hôm nay, mà
yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, và phụng thờ Người hết lòng hết dạ,
14 thì Ta sẽ ban mưa cho đất các ngươi đúng mùa, mưa đầu mùa và mưa
cuối mùa, và (các) ngươi sẽ thu hoạch lúa mì, rượu mới và dầu tươi của (các)
ngươi. 15 Ta sẽ cho cỏ mọc trong cánh đồng của (các) ngươi, cho súc
vật của (các) ngươi ăn. (Các) ngươi sẽ được ăn và được no nê.
16
Anh
em hãy ý tứ kẻo lòng anh em bị quyến rũ mà bỏ đi phụng thờ những thần khác và
sụp xuống lạy chúng, 17 vì Ðức Chúa sẽ nổi cơn thịnh nộ với anh em,
Người sẽ đóng cửa trời: sẽ chẳng còn mưa, đất sẽ không còn trổ sinh hoa trái,
và anh em sẽ mau chóng biến khỏi miền đất tốt tươi mà Ðức Chúa ban cho anh em.
Kết
luận
18
Những
lời tôi nói đây, anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang
trên trán làm phù hiệu. 19 Anh em phải dạy những lời ấy cho con cái,
mà nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng
như khi thức dậy. 20 Anh em phải viết lên khung cửa nhà anh (em) và
lên cửa thành của anh (em). 21 Như vậy, bao lâu trời còn che đất,
anh em và con cái anh em còn được sống trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
em, đã thề với cha ông anh em rằng Người sẽ ban cho các ngài.
22
Nếu
anh em cẩn thận giữ tất cả mệnh lệnh tôi truyền cho anh em đem ra thực hành, mà
yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người và gắn
bó với Người, 23 thì Ðức Chúa sẽ trục xuất mọi dân tộc ấy cho khuất
mắt anh em, và anh em sẽ trục xuất những dân tộc lớn và mạnh hơn anh em. 24
Mọi nơi bàn chân anh em giẫm lên sẽ là của anh em: từ sa mạc và núi
Li-băng, từ Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát, cho đến Biển Tây, sẽ là lãnh thổ của
anh em. 25 Không ai sẽ đứng vững được trước mặt anh em; Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh em, sẽ làm cho tất cả miền đất anh em giẫm lên phải kinh
khiếp sợ hãi anh em, như Người đã phán với anh em.
26
Hãy
xem, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc được chúc phúc hoặc bị nguyền rủa.
27 Anh em sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh của Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà tôi truyền cho anh em hôm nay. 28 Anh
em sẽ bị nguyền rủa, nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh em, nếu anh em bỏ con đường hôm nay tôi truyền cho anh em phải đi,
mà theo những thần khác anh em không biết. 29 Khi Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em), đã đưa anh (em) tới đất mà anh (em) đang vào chiếm hữu, anh
(em) sẽ đặt lời chúc phúc trên núi Ga-ri-dim và lời nguyền rủa trên núi Ê-van.
- 30 Những núi ấy ở bên kia sông Gio-đan, trên con đường phía tây, trong đất
người Ca-na-an là người ở miền A-ra-va, đối diện với Ghin-gan, bên cạnh cụm sồi
Mô-re. - 31 Thật vậy, anh em sắp sang sông Gio-đan để vào chiếm hữu đất mà Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho anh em. Anh em sẽ chiếm hữu và ở trong đất
ấy. 32 Vậy anh em phải lo đem ra thực hành mọi thánh chỉ và quyết
định mà hôm nay tôi trình bày cho anh em.
Chương 12
II.
Bộ Ðệ Nhị Luật
1
Ðây
là những thánh chỉ và quyết định mà anh em phải lo đem ra thực hành, trong đất
mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh (em), đã ban cho anh (em) để anh (em)
chiếm hữu, mọi ngày anh em sống trên mặt đất.
Nơi
thờ phượng
2
Anh
em phải dẹp bỏ hết mọi nơi mà các dân tộc anh em sắp trục xuất đã phụng thờ các
thần của chúng, trên các núi cao, các ngọn đồi và dưới mọi cây xanh. 3 Anh
em phải phá huỷ bàn thờ của chúng, đập tan trụ đá của chúng; cột thờ của chúng,
anh em phải bỏ vào lửa mà thiêu; tượng các thần của chúng, anh em phải vằm nát;
anh em phải xoá bỏ tên chúng khỏi nơi ấy.
4
Anh
em không được làm như vậy đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em. 5 Anh
em sẽ chỉ được tìm Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ở nơi Người chọn trong mọi
chi tộc của anh em làm chỗ đặt Danh Người, làm nơi Người ngự; anh (em) sẽ đến
đó. 6 Anh em sẽ đưa tới đó lễ toàn thiêu và hy lễ của anh em, thuế
thập phân và phần dâng cúng của anh em, lễ vật anh em đã khấn hứa, lễ vật tự
nguyện, những con đầu lòng trong đàn bò và đàn chiên dê của anh em. 7 Ở
đó, anh em sẽ ăn uống trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ liên hoan
với cả nhà anh em, để mừng mọi công việc tay anh em đã làm, nhờ được Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc.
8
Anh
em sẽ không làm như chúng ta đang làm ở đây hôm nay: mỗi người làm điều mình
cho là phải. 9 Thật vậy, cho đến bây giờ anh em chưa đạt tới chốn
nghỉ ngơi và phần gia nghiệp mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em). 10 Anh em sắp sang qua sông Gio-đan và ở trong đất mà Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh em, cho anh em hưởng làm gia nghiệp. Người sẽ cho anh
em được thảnh thơi mọi bề không còn thù địch nào nữa, và anh em sẽ được sống
yên hàn. 11 Nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, chọn cho Danh Người
ngự, anh em hãy đưa tới đó mọi thứ tôi truyền cho anh em: lễ toàn thiêu và hy
lễ của anh em, thuế thập phân và phần đóng góp của anh em, và tất cả những gì
anh em chọn lựa để làm vật khấn dâng Ðức Chúa. 12 Anh em sẽ liên
hoan trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, cùng với con trai con gái anh
em, tôi tớ nam nữ của anh em, với thầy Lê-vi ở trong các thành của anh em, vì
thầy ấy không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh em.
Chỉ
dẫn về việc dâng lễ tế
13
Hãy
ý tứ đừng dâng lễ toàn thiêu của anh (em) tại bất cứ nơi nào anh (em) thấy; 14
nhưng anh (em) sẽ chỉ dâng lễ toàn thiêu của anh (em) ở nơi Ðức Chúa chọn
tại một trong các chi tộc của anh (em), và ở đó anh (em) sẽ làm mọi điều tôi
truyền cho anh (em).
15
Tuy
nhiên, mỗi khi anh (em) thèm, anh (em) có thể giết súc vật và ăn thịt trong mọi
thành của anh (em), tuỳ theo phúc lành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) ban
cho anh em. Người ô uế và người thanh sạch đều có thể ăn thịt đó như ăn thịt
sơn dương hay thịt nai. 16 Nhưng tiết thì anh em không được ăn; anh
(em) sẽ đổ xuống đất như đổ nước.
17
Thuế
thập phân lúa mì, rượu mới, dầu tươi của anh (em), những con đầu lòng trong đàn
bò và đàn chiên dê của anh (em), mọi lễ vật anh (em) đã khấn hứa, lễ vật tự
nguyện và phần dâng cúng của anh (em), anh (em) sẽ không được ăn những thứ đó
trong các thành của anh (em); 18 nhưng chỉ được ăn trước nhan Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) chọn, và
ăn cùng với con trai con gái anh em, tôi tớ nam nữ của anh em, và thầy Lê-vi ở
trong các thành của anh (em); anh (em) sẽ liên hoan trước nhan Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em), để mừng mọi công việc tay anh (em) đã làm. 19 Ngày
nào anh (em) còn trên đất của anh (em), hãy ý tứ đừng bỏ rơi thầy Lê-vi.
20
Khi
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mở rộng lãnh thổ của anh (em), như Người đã
phán với anh (em), và anh (em) nói: "Tôi muốn ăn thịt", vì anh (em)
thèm ăn thịt, thì anh (em) có thể ăn thịt mỗi khi anh (em) thèm. 21 Nếu
nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chọn làm chỗ đặt Danh Người mà ở xa anh
(em), thì anh (em) có thể giết bò và chiên dê Ðức Chúa ban cho anh (em), như
tôi đã truyền cho anh (em), và ăn trong các thành của anh (em), mỗi khi anh
(em) thèm. 22 Anh (em) sẽ ăn y như người ta ăn thịt sơn dương và
thịt nai; người ô uế và người thanh sạch sẽ cùng ăn với nhau. 23 Tuy
nhiên, anh (em) phải nhất quyết không ăn tiết, vì máu là mạng sống, và anh (em)
không được ăn mạng sống cùng với thịt. 24 Anh (em) không được ăn
tiết, anh (em) sẽ đổ xuống đất như đổ nước. 25 Anh (em) không được
ăn tiết; như vậy anh (em) và con cháu anh (em) sau này được hạnh phúc, vì anh
(em) làm điều Ðức Chúa coi là ngay thẳng. 26 Chỉ những gì anh (em)
phải thánh hiến và những lễ vật anh (em) khấn hứa, anh (em) mới mang đi và đưa
tới nơi Ðức Chúa chọn. 27 Anh (em) hãy dâng lễ toàn thiêu của anh
(em), cả thịt lẫn máu, trên bàn thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em); còn hy
lễ của anh (em), thì máu sẽ đổ trên bàn thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
thịt thì anh (em) sẽ ăn. 28 Anh (em) phải giữ và nghe những điều tôi
truyền cho anh (em) đây, để anh (em) và con cái anh (em) sau này được hạnh phúc
mãi mãi, bởi vì anh (em) đã làm điều Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), coi là
tốt lành và ngay thẳng.
Ðừng
bắt chước các việc tế tự của người Ca-na-an
29
Khi
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã quét sạch các dân tộc khỏi miền đất anh
(em) sắp vào để trục xuất chúng cho khuất mắt anh (em), khi anh (em) đã định cư
trên đất của chúng rồi, 30 thì hãy ý tứ đừng mắc bẫy mà theo chúng,
sau khi chúng đã bị tiêu diệt cho khuất mắt anh (em); hãy ý tứ đừng tìm các
thần của chúng và nói: "Các dân tộc ấy phụng thờ các thần của họ thế nào?
Cả tôi nữa, tôi cũng muốn làm như thế.” 31 Anh (em) đừng thờ Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), như thế, vì tất cả đều ghê tởm đối với Ðức Chúa;
điều Người ghét, thì chúng đã làm cho các thần của chúng; ngay cả các con trai
con gái của chúng, chúng cũng đã bỏ vào lửa mà thiêu để tế các thần của chúng.
Chương 13
1
Tất
cả điều tôi truyền cho anh em, anh em hãy lo đem ra thực hành; anh (em) đừng
thêm gì vào đó cũng đừng bớt gì.
Ðề
phòng kẻo bị lôi cuốn thờ thần ngoại
2
Nếu
ở giữa anh (em) xuất hiện một ngôn sứ hay một kẻ chuyên nghề chiêm bao và nó
báo trước cho anh (em) một dấu lạ hay một điềm thiêng, 3 nếu dấu lạ
hay điềm thiêng nó đã nói xảy ra, và nó bảo: "Chúng ta hãy theo và phụng
thờ các thần khác", những thần mà anh (em) không biết, 4 thì
anh (em) đừng nghe những lời của ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy, vì
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), thử thách anh em cho biết anh em có yêu mến
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ không. 5 Chính Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Ðấng anh em phải theo; chính Người là Ðấng anh
em phải kính sợ; anh em phải giữ các mệnh lệnh của Người, phải nghe tiếng
Người; chính Người là Ðấng anh em phải phụng thờ; anh em phải gắn bó với Người.
6 Ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy sẽ bị xử tử, vì nó đã hô
hào nổi loạn chống Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Ðấng đã đưa anh em ra khỏi
đất Ai-cập và đã chuộc anh (em) khỏi cảnh nô lệ, và vì nó đã muốn lôi cuốn anh
(em) ra khỏi con đường Ðức Chúa đã truyền cho anh (em) phải đi. Anh (em) phải
khử trừ sự gian ác không cho tồn tại giữa anh (em).
7
Nếu
người anh em của anh (em), con của mẹ anh (em), hoặc con trai con gái anh (em),
hoặc người vợ anh (em) âu yếm, hoặc người bạn anh (em) coi như chính mình, lén
lút rủ rê anh (em): "Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần khác" những
thần mà anh (em) và cha ông anh (em) không biết, 8 trong số các thần
của những dân ở chung quanh, gần hay xa anh (em), từ đầu đến cuối xứ, 9 thì
anh (em) đừng ưng thuận, đừng nghe nó, đừng nhìn nó mà thương hại, đừng xót
thương, đừng bao che nó; 10 trái lại, nhất định anh (em) phải giết
nó. Anh (em) phải là người đầu tiên tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp tay sau.
11 Anh (em) phải ném đá cho nó chết, và nó phải chết vì đã tìm cách
lôi cuốn anh (em) xa Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), Ðấng đã đưa anh (em) ra
khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. 12 Nghe nói thế, toàn thể Ít-ra-en
sẽ sợ và không còn làm điều xấu như vậy giữa anh (em).
13
Nếu
tại một trong những thành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em) để ở, anh (em) nghe nói rằng 14 có những tên vô lại phát xuất từ giữa anh
(em) và lôi cuốn dân thành chúng mà rằng: "Chúng ta hãy đi phụng thờ các
thần khác", những thần mà anh (em) không biết, 15 thì anh (em)
sẽ điều tra, dò xét, sẽ hỏi han kỹ lưỡng, và nếu thật sự và chắc chắn là người
ta đã làm điều ghê tởm đó giữa anh (em), 16 thì anh (em) phải dùng
lưỡi gươm giết dân thành ấy, phải tru hiến thành ấy với tất cả những gì trong
đó; cả súc vật ở đó cũng phải dùng lưỡi gươm mà giết. 17 Tất cả
những gì chiếm được trong thành, anh (em) phải gom vào giữa quảng trường, rồi
phóng hoả thành ấy với mọi thứ chiếm được, tất cả để dâng kính Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em). Thành ấy sẽ mãi mãi là một phế tích và sẽ không được xây
dựng lại nữa. 18 Ðừng để bất cứ vật tru hiến nào còn dính lại trong
tay anh (em). Như vậy Ðức Chúa sẽ nguôi cơn thịnh nộ, Người sẽ tỏ lòng từ bi và
thương xót anh (em), sẽ làm cho anh (em) nên đông đúc, như đã thề với cha ông
anh (em), 19 miễn là anh (em) nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em), mà giữ mọi mệnh lệnh tôi truyền cho anh (em) hôm nay, và làm điều Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em) coi là ngay thẳng.
Chương 14
Cấm
một vài tập tục tang chế
1
Anh
em là những người con của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Anh em không được
rạch mình và không được cạo tóc phía trên trán mà để tang một người chết, 2
vì anh (em) là một dân thánh hiến cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).
Ðức Chúa đã chọn anh (em) từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc
quyền sở hữu của Người.
Loài
vật thanh sạch và loài vật ô uế (Lv 11:2-47)
3
Anh
(em) không được ăn cái gì ghê tởm. 4 Ðây là những loài vật anh (em)
được ăn: bò, cừu, dê, 5 nai, sơn dương, hoẵng, dê rừng, linh dương,
dê sừng dài, cừu rừng. 6 Mọi con vật có chân chẻ làm hai móng và
thuộc loài nhai lại, thì anh (em) được ăn. 7 Tuy nhiên, trong các
loài nhai lại và các loài có móng chẻ hai, anh em không được ăn các con này:
con lạc đà, con thỏ rừng, con ngân thử - vì chúng nhai lại, nhưng không có móng
chẻ hai: anh em phải coi chúng là loài ô uế; - 8 con heo, vì nó có móng chẻ hai,
nhưng không nhai lại: anh em phải coi nó là loài ô uế. Thịt của chúng, anh em
không được ăn, xác chết của chúng, anh em không được đụng đến.
9
Trong
tất cả các loài sống dưới nước, đây là những loài anh em được ăn: những loài có
vây và có vảy, thì anh em được ăn. 10 Còn tất cả những loài không có
vây không có vảy, thì anh em không được ăn: anh em phải coi chúng là loài ô uế.
11
Mọi
loài chim thanh sạch, anh em được ăn. 12 Ðây là những loài chim anh
em không được ăn: đại bàng, diều hâu, ó biển, 13 diều mướp, kền kền,
mọi thứ diều hâu, 14 mọi thứ quạ, 15 đà điểu, cú, mòng
biển, mọi thứ bồ cắt, 16 cú vọ, cú mèo, chim lợn, 17 bồ
nông, ó, cốc, 18 cò, mọi thứ diệc, chim đầu rìu và dơi. 19 Mọi
côn trùng có cánh, anh em phải coi là loài ô uế, anh em không được ăn. 20 Mọi
loài có cánh mà thanh sạch, anh em được ăn.
21
Anh
em không được ăn mọi con vật chết, mà hãy cho ngoại kiều ở trong các thành của
anh (em) để họ ăn, hoặc hãy bán cho người nước ngoài, vì anh (em) là một dân
thánh hiến cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).
Anh
(em) không được lấy sữa dê mẹ mà nấu thịt dê con.
Thuế
thập phân hàng năm
22
Mỗi
năm anh (em) phải trích một phần mười tất cả hoa lợi lấy từ những gì anh (em)
gieo, những gì mọc lên ngoài đồng. 23 Anh (em) sẽ dùng trước nhan
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Người chọn cho Danh Người ngự, thuế
thập phân lúa mì, rượu mới, dầu tươi của anh (em), và những con đầu lòng trong
đàn bò và đàn chiên dê của anh (em), để mọi ngày anh (em) học cho biết kính sợ
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).
24
Nếu
đường quá dài khiến anh (em) không thể đem thuế thập phân đến được, vì nơi Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chọn để đặt Danh Người, quá xa chỗ anh (em) ở,
thì khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã chúc phúc cho anh (em), 25 anh
(em) hãy đổi lấy bạc, cầm trong tay và đi tới nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), chọn. 26 Anh (em) hãy đem bạc đổi lấy tất cả những gì anh (em)
thèm: bò, chiên dê, rượu, đồ uống có men và tất cả những gì anh (em) ao ước; ở
đó anh (em) sẽ ăn uống trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và sẽ liên
hoan với cả nhà. 27 Còn thầy Lê-vi ở trong các thành của anh (em),
anh (em) đừng bỏ rơi, vì thầy ấy không được chung phần và hưởng gia nghiệp với
anh (em).
Thuế
thập phân ba năm một lần
28
Ba
năm một lần, anh (em) hãy đưa ra tất cả thuế thập phân trích từ hoa lợi năm thứ
ba, và đặt ở cửa thành của anh (em). 29 Bấy giờ thầy Lê-vi -là người
không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh (em) - người ngoại kiều và cô
nhi quả phụ ở trong các thành của anh (em), sẽ đến, họ sẽ ăn và được no nê, để
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc cho mọi công việc tay anh (em)
làm.
Chương 15
Năm
sa-bát (Lv 25:1-7)
1
Bảy
năm một lần, anh (em) hãy tha nợ. 2 Ðây là cách thức tha nợ: mỗi chủ
nợ sẽ tha món nợ đã cho người đồng loại vay mượn, không thúc người đồng loại và
người anh em trả nợ, vì người ta đã công bố việc tha nợ để kính Ðức Chúa. 3
Người nước ngoài, anh (em) có thể thúc nợ; nhưng cái gì của anh (em) mà ở
trong nhà người anh em của anh (em), thì phải tha không đòi. 4 Tuyệt
nhiên giữa anh (em) sẽ không có người nghèo, vì Ðức Chúa sẽ chúc phúc dồi dào
cho anh (em) trong miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em) làm gia nghiệp để anh (em) chiếm hữu, 5 miễn là anh (em) thực
sự nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà lo đem ra thực hành tất cả
mệnh lệnh hôm nay tôi truyền cho anh (em) đây. 6 Thật vậy, Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), sẽ chúc phúc cho anh (em) như Người đã phán với anh
(em); anh (em) sẽ cho nhiều dân tộc vay mượn, còn chính anh (em) sẽ không phải
vay mượn; anh (em) sẽ thống trị nhiều dân tộc, nhưng chúng sẽ không thống trị
anh (em).
7
Nếu
giữa anh (em), trong một thành nào của anh (em), trên đất mà Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em), ban cho anh (em), có một người anh em nghèo, thì anh (em)
đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo
túng; 8 nhưng phải mở rộng tay, và cho họ vay mượn tất cả những gì
họ thiếu. 9 Hãy ý tứ đừng có trong lòng tư tưởng xấu này: "Sắp
đến năm thứ bảy, năm tha nợ", mà nhìn người anh em nghèo của anh (em) với
cặp mắt dữ dằn và không cho gì. Họ sẽ kêu lên Ðức Chúa tố cáo anh (em) và anh
(em) sẽ mang tội. 10 Anh (em) phải cho họ cách rộng rãi, và khi cho
thì đừng miễn cưỡng; thật vậy, vì việc đó, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) sẽ
chúc phúc cho anh (em) trong mọi việc anh (em) làm và mọi công trình tay anh
(em) thực hiện. 11 Vì trong đất của anh (em) sẽ không thiếu người
nghèo, nên tôi truyền cho anh (em): hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ,
nghèo khó của anh (em), trong miền đất của anh (em).
Người
nô lệ (Xh 21:1-11)
12
Nếu
người anh em hay chị em Híp-ri của anh (em), bán mình cho anh (em), thì họ sẽ
hầu hạ anh (em) sáu năm; đến năm thứ bảy, anh (em) phải phóng thích họ về. 13
Khi anh (em) phóng thích họ về, thì đừng để họ về tay không; 14 anh
(em) phải tặng họ nào là chiên dê, nào là lúa mì, rượu nho của anh (em): anh
(em) hãy cho họ tuỳ theo phúc lành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) đã ban
cho anh (em). 15 Anh (em) hãy nhớ rằng mình đã làm nô lệ tại đất
Ai-cập, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã giải thoát anh (em). Vì vậy,
hôm nay tôi truyền cho anh (em) điều đó.
16
Nhưng
nếu người nô lệ nói: "Tôi không muốn ra khỏi nhà ông", vì họ mến anh
(em) và gia đình anh (em), và vì họ được hạnh phúc khi ở với anh (em), 17 thì
anh (em) sẽ kê tai người ấy vào cánh cửa, và lấy dùi mà xỏ, và họ sẽ làm nô lệ
anh (em) suốt đời. Ðối với nữ tỳ của anh (em), anh (em) cũng sẽ làm như vậy.
18
Anh
(em) đừng cho là quá nặng khi phải phóng thích họ về, vì họ phục vụ anh (em)
sáu năm thì cũng bằng anh (em) thuê hai người làm mướn. Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh (em), sẽ chúc phúc cho anh (em) trong mọi việc anh (em) làm.
Các
con đầu lòng
19
Mọi
con đầu lòng giống đực sinh ra trong đàn bò và đàn chiên dê của anh (em), anh
(em) phải thánh hiến cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em). Anh (em) không được
bắt con bò đầu lòng của anh (em) làm việc, không được xén lông chiên dê đầu
lòng của anh (em). 20 Hằng năm, trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em), anh (em) và cả nhà anh (em) sẽ ăn những con đầu lòng đó ở nơi Ðức
Chúa chọn. 21 Nhưng nếu con vật có tật, què, mù hay bất cứ tật nào
khác, thì anh (em) không được tế nó cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em); 22
anh (em) sẽ ăn thịt nó trong các thành của anh (em). Người ô uế và người
thanh sạch đều có thể ăn, như ăn thịt sơn dương hay thịt nai. 23 Nhưng
tiết của nó thì anh (em) không được ăn, anh (em) sẽ đổ xuống đất như đổ nước.
Chương 16
Các
đại lễ: lễ Vượt Qua, lễ Bánh Không Men (Xh 12:1-20)
1
Anh
(em) hãy giữ tháng A-víp và mừng lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), vì trong tháng A-víp, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã đưa anh (em)
ra khỏi Ai-cập ban đêm. 2 Anh (em) hãy giết chiên dê và bò làm lễ
vật Vượt Qua dâng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Ðức Chúa chọn cho Danh
Người ngự. 3 Anh (em) không được ăn bánh có men với lễ vật đó; trong
vòng bảy ngày, anh (em) sẽ ăn bánh không men -thứ bánh khổ cực, vì anh (em) đã
phải vội vã ra khỏi đất Ai-cập, - để mọi ngày trong đời anh (em), anh (em) nhớ
ngày ra khỏi đất Ai-cập. 4 Trong vòng bảy ngày, không ai được thấy
anh (em) có men trên toàn lãnh thổ anh (em); và thịt con vật anh (em) đã tế
chiều ngày thứ nhất, thì không được giữ lại gì qua đêm cho đến sáng. 5 Anh
(em) không được giết lễ vật Vượt Qua ở bất cứ thành nào khác trong những thành
mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em); 6 nhưng chỉ
ở nơi Ðức Chúa chọn cho danh Người ngự, anh (em) mới được giết lễ vật Vượt Qua,
vào buổi chiều, khi mặt trời lặn, là thời điểm anh (em) ra khỏi Ai-cập. 7 Anh
(em) sẽ nấu mà ăn, ở nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chọn, rồi sáng ngày
anh (em) sẽ quay về lều trại mình. 8 Trong vòng sáu ngày, anh (em)
sẽ ăn bánh không men, đến ngày thứ bảy, sẽ có buổi họp long trọng kính Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), anh (em) không được làm công việc gì.
Các
đại lễ khác (Xh 34:22; Lv 23:15-21, 33-43)
9
Anh
(em) sẽ tính bảy tuần: từ khi bắt đầu mang liềm đi gặt lúa, anh (em) bắt đầu
tính bảy tuần. 10 Rồi anh (em) sẽ mừng lễ Ngũ Tuần kính Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), dâng lễ vật tự nguyện, tuỳ theo phúc lành Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 11 Ở nơi Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em), đã chọn cho Danh Người ngự, anh (em) sẽ liên hoan trước nhan
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), cùng với con trai con gái, tôi tớ nam nữ,
với thầy Lê-vi ở trong các thành của anh (em), với ngoại kiều và cô nhi quả phụ
sống giữa anh (em). 12 Anh (em) hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên
Ai-cập, anh (em) phải giữ và đem ra thực hành các thánh chỉ này.
13
Còn
lễ Lều, anh (em) sẽ mừng trong vòng bảy ngày, khi đã thu hoạch lúa trong sân và
rượu trong bồn đạp nho. 14 Anh (em) sẽ liên hoan mừng lễ, cùng với
con trai con gái, tôi tớ nam nữ, với thầy Lê-vi, ngoại kiều và cô nhi quả phụ ở
trong các thành của anh (em). 15 Trong vòng bảy ngày, anh (em) sẽ mở
lễ kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), tại nơi Ðức Chúa chọn, vì Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em) chúc phúc cho anh (em) là ban cho anh (em) mọi hoa lợi
và cho mọi công việc tay anh (em) làm được kết quả; anh (em) chỉ có việc hân
hoan.
16
Mỗi
năm ba lần, tất cả đàn ông con trai của anh (em) phải đến trình diện Ðức Chúa,
ở nơi Người chọn: vào dịp lễ Bánh Không Men, lễ Ngũ Tuần và lễ Lều. Người ta sẽ
không đến trình diện Ðức Chúa tay không. 17 Nhưng mỗi người sẽ đem
lễ vật theo khả năng, tuỳ theo phúc lành Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban
cho anh (em).
Các
thẩm phán
18
Anh
(em) phải đặt cho các chi tộc của anh (em) những thẩm phán và ký lục trong mọi
thành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em); họ sẽ xét xử dân
cách công minh. 19 Anh (em) không được làm sai lệch công lý, không
được thiên vị ai và không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ
khôn ngoan hoá ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính. 20 Anh
(em) hãy theo đuổi sự công chính, chỉ sự công chính mà thôi, để anh (em) được
sống và được chiếm hữu đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em).
Những
cách thờ phượng sai lạc
21
Anh
(em) không được cắm cột thờ để mà thờ, dù bằng thứ gỗ nào, bên cạnh bàn thờ anh
(em) sẽ làm để kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em). 22 Anh (em)
không được dựng trụ đá để mà thờ: đó là cái mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em) ghét.
Chương 17
1
Anh
(em) không được tế Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), bò hay chiên dê có tật
hoặc tỳ vết nào, vì đó là điều ghê tởm đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em).
2
Nếu
ở giữa anh (em), tại một trong các thành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
ban cho anh (em), thấy có một người đàn ông hay đàn bà làm điều dữ trái mắt Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), vi phạm giao ước của Người, 3 đi
phụng thờ các thần khác, sụp xuống lạy chúng, lạy mặt trời, mặt trăng và toàn
thể thiên binh, điều mà tôi đã không truyền, 4 nếu anh (em) được
thông báo và được nghe điều ấy, thì anh (em) phải điều tra kỹ lưỡng; nếu thật
sự và chắc chắn là người ta đã làm điều ghê tởm đó tại Ít-ra-en, 5 thì
anh (em) phải lôi người đàn ông hay đàn bà đã làm điều xấu đó ra cửa thành của
anh (em); người đàn ông hay đàn bà đó, anh (em) sẽ ném đá chúng cho chết và
chúng phải chết. 6 Căn cứ vào lời của hai nhân chứng hay ba nhân
chứng, mà người đáng chết sẽ bị xử tử; người ấy sẽ không bị xử tử nếu chỉ căn
cứ vào lời của một nhân chứng. 7 Các nhân chứng phải là người đầu
tiên tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp tay sau. Anh (em) phải khử trừ sự gian
ác, không cho tồn tại giữa anh (em).
Các
thẩm phán Lê-vi
8
Nếu
có vụ nào khó quá, anh (em) không xử được: án mạng, tranh chấp hay đả thương,
là những vụ kiện tụng tại toà án thành của anh (em), thì anh (em) hãy đứng dậy
và lên nơi mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chọn. 9 Anh (em)
sẽ đến với các tư tế Lê-vi và vị thẩm phán tại chức trong những ngày đó; anh
(em) sẽ thỉnh ý và họ sẽ thông báo bản án cho anh (em). 10 Anh (em)
sẽ hành động căn cứ vào lời họ thông báo cho anh (em), từ nơi Ðức Chúa chọn, và
anh (em) sẽ lo đem ra thực hành đúng như họ chỉ giáo cho anh (em). 11 Căn
cứ vào lời họ chỉ giáo cho anh (em), và vào bản án họ công bố cho anh (em), anh
(em) sẽ hành động, đúng như lời họ thông báo cho anh (em), không đi trệch bên
phải bên trái. 12 Người nào cả gan không nghe vị tư tế chầu chực ở
đó để phụng sự Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hay không nghe vị thẩm phán,
thì sẽ phải chết. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại trong
Ít-ra-en. 13 Nghe thấy thế, toàn dân sẽ sợ và không dám cả gan nữa.
Các
vua
14
Khi
anh (em) vào đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), khi
anh (em) chiếm hữu và ở đất đó, nếu anh (em) nói: "(Chúng) tôi muốn tôn
một vua lên cai trị (chúng) tôi, như các dân tộc chung quanh", 15 thì
anh (em) có thể tôn một vua mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chọn, lên
cai trị anh (em); anh (em) phải tôn một người trong anh (em) lên làm vua cai
trị anh (em); anh (em) không được đặt một người ngoại quốc, không phải là anh
em của anh (em), lên cai trị anh (em).
16
Chỉ
có điều là vua ấy không được có nhiều ngựa, và không được đưa dân trở về Ai-cập
để có nhiều ngựa, vì Ðức Chúa đã phán với anh em: "Các ngươi không được
trở lại con đường ấy nữa!” 17 Vua ấy cũng không được có nhiều vợ,
kẻo tâm hồn bị lầm lạc. Vua cũng không được có quá nhiều vàng bạc. 18 Khi
lên ngôi trị vì, vua phải sao lại cho mình một bản thứ hai của luật này vào một
cuốn sách, sao y bản các tư tế Lê-vi truyền lại. 19 Luật này sẽ ở
bên vua, vua phải đọc mọi ngày trong đời mình, để học cho biết kính sợ Ðức
Chúa, Thiên Chúa của vua, biết giữ mọi lời trong Luật này và mọi thánh chỉ ấy,
và đem ra thực hành. 20 Như vậy lòng vua không kiêu ngạo với anh em
mình, và vua không trệch khỏi mệnh lệnh mà qua bên phải bên trái, để vua và con
cháu được trị vì lâu ngày ở giữa Ít-ra-en.
Chương 18
Hàng
tư tế Lê-vi
1
Các
tư tế Lê-vi, toàn thể chi tộc Lê-vi, sẽ không được chung phần và hưởng gia
nghiệp với Ít-ra-en: họ sẽ sống nhờ các lễ hoả tế dâng Ðức Chúa và nhờ gia
nghiệp của Người. 2 Họ không có gia nghiệp giữa các chi tộc anh em:
chính Ðức Chúa là gia nghiệp của họ, như Người đã phán với họ.
3
Ðây
là quyền lợi các tư tế được hưởng trên dân, trên những người dâng bò hay chiên
dê làm lễ hy sinh: người ta sẽ biếu tư tế một cái vai, hai cái hàm và cái dạ
dày. 4 Anh (em) phải biếu tư tế sản phẩm đầu mùa lấy từ lúa mì, rượu
mới, dầu tươi của anh (em), và từ lông chiên dê mới xén. 5 Thật vậy,
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã chọn họ trong mọi chi tộc, để họ và con
cái họ ứng trực và phụng sự mọi ngày nhân danh Ðức Chúa.
6
Nếu
một thầy Lê-vi từ bất cứ một thành nào của anh (em) trong toàn cõi Ít-ra-en,
nơi họ đang cư ngụ, đến nơi Ðức Chúa chọn, mỗi khi họ muốn, 7 thì họ
sẽ được phụng sự nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, như mọi anh em của họ
là các thầy Lê-vi khác đang ứng trực tại đó trước nhan Ðức Chúa; 8 họ
sẽ được ăn một phần bằng phần của những người kia, không kể tiền bán của cải
cha ông để lại.
Các
ngôn sứ
9
Khi
vào đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), thì anh (em)
đừng học đòi những thói ghê tởm của các dân tộc ấy: 10 giữa anh
(em), không được thấy ai làm lễ thiêu con trai hoặc con gái mình, không được
thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, 11 bỏ
bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn. 12 Thật vậy, hễ ai làm điều ấy
thì là điều ghê tởm đối với Ðức Chúa, và chính vì những điều ghê tởm ấy mà Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh
(em). 13 Anh (em) phải sống trọn hảo với Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em). 14 Các dân tộc anh (em) sắp trục xuất ấy thì nghe những
thầy chiêm tinh, thầy bói, còn anh (em) thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
không cho làm như vậy. 15 Từ giữa anh (em), trong số các anh em của
anh (em), Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như
tôi để giúp anh (em); anh (em) hãy nghe vị ấy. 16 Ðó chính là điều
mà anh (em) đã xin với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), tại núi Khô-rếp,
trong ngày đại hội; anh (em) đã nói: "Chúng tôi không dám nghe tiếng Ðức
Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi nữa, chúng tôi không dám nhìn ngọn lửa lớn này
nữa, kẻo phải chết.” 17 Bấy giờ Ðức Chúa phán với tôi: "Chúng
nói phải. 18 Từ giữa anh em của chúng, Ta sẽ cho xuất hiện một ngôn
sứ như ngươi để giúp chúng, Ta sẽ đặt những lời của Ta trong miệng người ấy, và
người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy. 19 Kẻ
nào không nghe những lời của Ta, những lời người ấy nói nhân danh Ta, thì chính
Ta sẽ hạch tội nó. 20 Nhưng ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói
lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn
sứ đó phải chết."
21
Có
khi anh (em) sẽ tự hỏi: "Làm sao chúng tôi biết được lời nào là lời Ðức
Chúa đã không phán?” 22 Nếu điều ngôn sứ nói nhân danh Ðức Chúa
không ứng nghiệm, không xảy ra, thì không phải là lời Ðức Chúa đã phán; ngôn sứ
đã nói càn, anh (em) không phải sợ ngôn sứ ấy.
Chương 19
Kẻ
sát nhân và các thành làm nơi ẩn náu (Ðn 35:9-28; Gs 20:1-9)
1
Khi
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã quét sạch các dân tộc ở trong đất mà Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), khi anh (em) đã trục xuất
chúng và ở trong các thành, các nhà của chúng, 2 thì anh (em) hãy
tách ra ba thành ở giữa đất của anh (em), mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
ban cho anh (em) để anh (em) chiếm hữu. 3 Anh (em) hãy sửa sang
đường sá; và lãnh thổ mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), cho anh (em) hưởng
làm gia nghiệp, anh (em) hãy chia làm ba, để mọi kẻ sát nhân có thể ẩn náu ở
đó.
4
Ðây
là những trường hợp mà kẻ sát nhân có thể đến đó ẩn náu và được sống: nếu nó vô
ý giết người đồng loại mà trước đó nó không thù ghét. 5 Như một
người vào rừng đốn cây với đồng loại, tay người ấy vung rìu lên để chặt cây và
lưỡi rìu tuột khỏi cán, trúng người đồng loại và người này chết; người kia có
thể vào ẩn náu tại một trong các thành ấy và sẽ được sống. 6 Nếu
không, người đòi nợ máu, trong lúc tâm can sôi sục, sẽ rượt theo kẻ sát nhân,
và vì đường dài nên đuổi kịp mà giết chết người ấy, trong khi người ấy không
đáng phải án chết, vì trước đó không thù ghét nạn nhân. 7 Vì vậy tôi
truyền cho anh (em): "Anh (em) hãy tách ra ba thành."
8
Nếu
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mở rộng lãnh thổ của anh (em), như đã thề
với cha ông anh (em), và nếu Người ban cho anh (em) tất cả miền đất mà Người đã
phán hứa sẽ ban cho cha ông anh (em) - 9 với điều kiện là anh (em) giữ và đem
ra thực hành tất cả mệnh lệnh mà hôm nay tôi truyền cho anh (em) đây, mà yêu
mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và đi theo đường lối của Người mọi ngày,
- thì anh (em) sẽ thêm ba thành nữa vào ba thành nói trên. 10 Như
thế, máu vô tội sẽ không đổ ra giữa đất của anh (em), đất mà Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp, và máu sẽ không đổ xuống
đầu anh (em).
11
Nhưng
nếu có ai giết người đồng loại của mình, rình rập, xông vào giết chết người ấy,
và người ấy chết, rồi nó vào ẩn náu tại một trong các thành ấy, 12 thì
các kỳ mục của thành nó sẽ sai người đến bắt nó đưa về, sẽ trao nó vào tay
người đòi nợ máu, và nó phải chết. 13 Mắt anh (em) đừng nhìn nó mà
thương hại. Anh (em) phải khử trừ máu người vô tội, không cho tồn tại ở
Ít-ra-en, và anh (em) sẽ được hạnh phúc.
Các
ranh giới
14
Anh
(em) không được xê dịch ranh giới của người đồng loại anh (em), ranh giới các
tiền nhân đã ấn định, trong gia nghiệp anh (em) được thừa hưởng trong miền đất
mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) để anh (em) chiếm hữu.
Các
nhân chứng
15
Một
nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ một tội một
lỗi nào; về bất cứ lỗi nào người ấy phạm, phải căn cứ vào lời của hai nhân
chứng hay căn cứ vào lời của ba nhân chứng, sự việc mới được cứu xét.
16
Nếu
một người chứng gian đứng lên buộc tội một người để tố cáo người ấy về tội vi
phạm luật, 17 thì hai người đang có việc tranh tụng sẽ đứng trước
nhan Ðức Chúa, trước mặt các tư tế và các thẩm phán tại chức trong những ngày
đó. 18 Các thẩm phán sẽ điều tra kỹ lưỡng, và nếu thấy rằng nhân
chứng ấy là một người chứng gian: nó đã cáo gian người anh em mình, 19 thì
anh em sẽ xử với nó, như nó đã định xử với anh em mình. Anh (em) phải khử trừ
sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em). 20 Nghe nói thế, những
người khác sẽ sợ và không còn làm điều xấu như thế nữa giữa anh (em). 21 Mắt
anh (em) đừng nhìn mà thương hại.
Luật
báo phục tương xứng
Mạng
đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân.
Chương 20
Chiến
tranh và các chiến binh
1
Khi
ra giao chiến với quân thù, nếu anh (em) thấy chiến mã chiến xa, và quân binh
đông hơn anh (em), thì anh (em) đừng sợ chúng, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), Ðấng đã đưa anh (em) lên từ đất Ai-cập, ở với anh (em). 2 Khi
anh em sắp sửa giao chiến thì vị tư tế sẽ tiến ra và nói với dân. 3 Ông
sẽ nói với họ: "Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Hôm nay anh em sắp sửa giao chiến
với quân thù; đừng sờn lòng, đừng sợ hãi, đừng hoảng hốt, đừng run khiếp trước
mặt chúng, 4 vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Ðấng đi với anh
em, để chiến đấu giúp anh em chống lại quân thù của anh em, để cứu thoát anh
em."
5
Các
ký lục sẽ nói với dân rằng:
"Ai
là người đã xây nhà mới mà chưa khánh thành? Người ấy hãy đi về nhà, kẻo bị
chết trận và người khác sẽ khánh thành.
6
Ai
là người đã trồng vườn nho mà chưa được hưởng những trái đầu tiên? Người ấy hãy
đi về nhà, kẻo bị chết trận và người khác sẽ hưởng những trái đầu tiên.
7
Ai
là người đã đính hôn với một phụ nữ mà chưa cưới? Người ấy hãy đi về nhà, kẻo
bị chết trận và người khác sẽ cưới nàng."
8
Các
ký lục sẽ còn nói thêm với dân rằng: "Ai là người sợ hãi và sờn lòng?
Người ấy hãy đi về nhà, và đừng làm cho các anh em mình nản lòng như
mình."
9
Khi
các ký lục nói với dân xong, thì người ta sẽ đặt những người chỉ huy quân đội
đứng đầu dân.
Ðánh
chiếm các thành
10
Khi
tiến đánh một thành, anh (em) phải kêu gọi họ giảng hoà. 11 Nếu
thành ấy đồng ý giảng hoà với anh (em) và mở cửa cho anh (em), thì toàn dân ở
đó sẽ phải làm việc lao dịch cho anh (em) và làm tôi anh (em). 12 Nhưng
nếu thành ấy không chịu cầu hoà với anh (em) và khai chiến với anh (em), thì
anh (em) sẽ vây hãm thành đó. 13 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
sẽ trao thành ấy vào tay anh (em), và anh (em) sẽ dùng lưỡi gươm giết tất cả
đàn ông con trai trong thành. 14 Chỉ có đàn bà con trẻ, gia súc và
tất cả những gì ở trong thành, tất cả những gì chiếm được trong thành, thì anh
(em) mới được giữ lấy làm chiến lợi phẩm; anh (em) sẽ được ăn những gì đã chiếm
của quân thù, những thứ mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em).
15
Anh
(em) hãy xử như thế với tất cả những thành ở rất xa anh (em), những thành không
thuộc số những thành của các dân tộc ở đây. 16 Chỉ có những thành
của các dân tộc này, mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm
gia nghiệp, thì anh (em) sẽ không để cho một sinh vật nào được sống. 17 Thật
vậy, anh (em) sẽ phải loại trừ chúng hoàn toàn: người Khết và người E-mô-ri,
người Ca-na-an và người Pơ-rít-di, người Khi-vi và người Giơ-vút, như Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), đã truyền cho anh (em); 18 như thế, chúng
sẽ không dạy anh em học đòi mọi điều ghê tởm chúng làm để kính các thần của
chúng, khiến anh em phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em.
19
Khi
vây hãm một thành lâu ngày để đánh, để chiếm thành, anh (em) không được vung
rìu phá cây cối của thành, vì anh (em) sẽ được ăn hoa trái những cây ấy; anh
(em) không được chặt những cây ấy. Cây ngoài đồng đâu phải là con người để anh
(em) vây hãm? 20 Chỉ có cây mà anh (em) biết không phải là cây ăn trái, thì anh
(em) mới được phá, được chặt để dựng những công sự vây hãm thành đang đánh nhau
với anh (em), cho đến khi thành thất thủ.
Chương 21
Trường
hợp không tìm ra kẻ sát nhân
1
Nếu
trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) để anh (em)
chiếm hữu, phát hiện một xác chết nằm ngoài đồng, mà không biết ai đã giết, 2
thì các kỳ mục và thẩm phán của anh (em) sẽ đi ra và đo khoảng cách của
các thành ở chung quanh xác chết, 3 xem thành nào gần xác chết nhất.
Các kỳ mục thành ấy sẽ lấy một bò tơ cái chưa bị bắt làm việc và chưa phải mang
ách. 4 Các kỳ mục thành ấy sẽ đưa con bò cái tơ xuống một khe suối
luôn có nước chảy, một nơi không cày cấy gieo trồng, và họ sẽ đánh gãy ót con
bò cái tơ tại đó, trong khe suối. 5 Bấy giờ các tư tế, con cái
Lê-vi, sẽ tiến lại, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã chọn họ để họ
phụng sự Người và chúc phúc nhân danh Ðức Chúa, và căn cứ vào lời họ mà mọi vụ
tranh tụng và đả thương được giải quyết. 6 Tất cả các kỳ mục thành
ấy, là những người ở gần xác chết nhất, sẽ rửa tay trên con bò cái tơ đã bị
đánh gãy ót trong khe suối. 7 Họ sẽ lên tiếng nói: "Tay chúng
tôi đã không đổ máu này, và mắt chúng tôi đã không nhìn thấy. 8 Lạy
Ðức Chúa, xin xá tội cho dân Ngài là Ít-ra-en, mà Ngài đã giải thoát, và đừng
để máu vô tội ở lại giữa dân Ngài là Ít-ra-en." Và họ sẽ được xá tội về vụ
đổ máu đó. 9 Còn anh (em), anh (em) sẽ khử trừ máu vô tội, không cho
tồn tại giữa anh (em), vì anh (em) làm điều Ðức Chúa coi là ngay thẳng.
Cưới
phụ nữ bị bắt trong chiến tranh
10
Khi
anh (em) ra giao chiến với quân thù, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), trao
chúng vào tay anh (em), nếu anh (em) bắt được tù, 11 và thấy trong
đám tù một người đàn bà duyên dáng mà đem lòng quyến luyến người ấy và lấy làm
vợ, 12 thì anh (em) sẽ đưa nàng vào trong nhà mình. Nàng sẽ cạo đầu,
cắt móng tay, 13 cởi áo mặc khi bị bắt; nàng sẽ ở trong nhà anh (em)
và khóc cha mẹ nàng một tháng tròn. Sau đó anh (em) sẽ ăn nằm với nàng, cưới
nàng và nàng sẽ là vợ anh (em). 14 Trong trường hợp anh (em) không
thích nàng nữa, thì anh (em) sẽ để cho nàng đi đâu tuỳ ý nàng; anh (em) không
được phép bán nàng đổi lấy bạc, cũng không được hành hạ nàng, vì anh (em) đã
cưỡng bức nàng.
Quyền
trưởng nam
15
Khi
một người đàn ông có hai vợ, một vợ được yêu, một vợ không được yêu, và cả
người được yêu lẫn người không được yêu đều sinh con cho người ấy, mà con trai
trưởng lại là con của người không được yêu, 16 thì khi chia gia tài
cho các con, người đàn ông ấy không được dành quyền trưởng nam cho đứa con của
người vợ mình yêu, khiến đứa con của người vợ không được yêu, là con trai
trưởng, bị thiệt. 17 Trái lại người đàn ông ấy phải nhìn nhận đứa
con của người vợ không được yêu là trưởng nam, mà chia cho nó hai phần sản
nghiệp: nó là hoa quả đầu đời trai tráng của người ấy, nên nó được quyền trưởng
nam.
Ðứa
con bất trị
18
Khi
có đứa con ngỗ nghịch và bất trị, không nghe lời cha mẹ, cha mẹ có sửa dạy, nó
cũng chẳng chịu nghe, 19 thì cha mẹ nó sẽ bắt lấy nó, đưa ra cửa
thành cho các kỳ mục địa phương 20 và sẽ nói với các kỳ mục trong thành:
"Con chúng tôi đây ngỗ nghịch và bất trị, không nghe lời chúng tôi, nó
rượu chè phóng đãng.” 21 Mọi người trong thành sẽ ném đá cho nó chết
và nó phải chết. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh
(em). Nghe chuyện ấy, toàn thể Ít-ra-en sẽ sợ.
Những
chỉ thị khác
22
Khi
một người có tội đáng phải án chết đã bị xử tử, và anh (em) đã treo nó lên cây,
23 thì xác nó không được để qua đêm trên cây, nhưng anh (em) phải
chôn ngay hôm ấy, vì người bị treo là đồ bị Thiên Chúa nguyền rủa. Anh (em)
không được làm cho đất của anh (em) ra ô uế, đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của
anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp.
Chương 22
1
Khi
anh (em) thấy bò hay chiên dê của người anh em mình đi lạc, thì đừng bỏ mặc làm
ngơ, nhưng phải dẫn chúng về cho người anh em. 2 Nếu người anh em
của anh (em) không ở gần anh (em), hoặc anh (em) không quen biết người ấy, thì
anh (em) hãy đem con vật vào trong nhà, nó sẽ ở với anh (em) cho đến khi người
anh em của anh (em) đến xin nó; bấy giờ anh (em) sẽ hoàn nó lại cho người ấy.
3
Anh
(em) phải làm như thế đối với con lừa của họ, phải làm như thế đối với áo
choàng của họ, phải làm như thế đối với tất cả những gì người anh em của anh
(em) đánh mất mà anh (em) bắt được; anh (em) không được bỏ mặc làm ngơ.
4
Khi
anh (em) thấy lừa hay bò của người anh em mình ngã trên đường, thì đừng bỏ mặc
làm ngơ, nhưng phải giúp người anh em đỡ chúng dậy.
5
Ðàn
bà không được mặc quần áo đàn ông; đàn ông không được mang y phục đàn bà, vì hễ
ai làm những việc ấy thì là điều ghê tởm đối với Ðức Chúa.
6
Nếu
trên đường đi, anh (em) gặp một tổ chim, ở trên bất cứ cây nào hay ở dưới đất,
trong đó có chim con hoặc trứng, và chim mẹ đang ủ chim con hay ấp trứng, thì
anh (em) không được bắt cả mẹ lẫn con. 7 Anh (em) phải thả chim mẹ,
còn chim con thì được bắt. Như vậy anh (em) sẽ được hạnh phúc và được sống lâu.
8
Khi
xây nhà mới, anh (em) phải làm lan can chung quanh mái. Như vậy anh (em) không
để cho máu đổ ra trong nhà anh (em), trong trường hợp có ai ngã từ mái xuống.
9
Anh
(em) không được gieo trong vườn nho của anh (em) một loại cây thứ hai nào, kẻo
tất cả trở thành của thánh: cả cái anh (em) gieo lẫn hoa lợi vườn nho.
10
Anh
(em) không được bắt bò và lừa cày chung với nhau.
11
Anh
(em) không được mặc thứ vải bằng sợi len và sợi gai dệt chung với nhau.
12
Anh
(em) hãy làm những tua ở bốn mép áo anh (em) dùng để đắp.
Xúc
phạm đến danh dự một thiếu nữ
13
Khi
một người đàn ông lấy vợ và ăn nằm với nàng, rồi ghét bỏ nàng, 14 vu
khống và bôi xấu danh dự nàng mà nói: "Tôi đã lấy người đàn bà này, đã gần
gũi với cô ấy và không thấy dấu nào chứng tỏ cô ấy còn trinh", 15 thì
cha mẹ cô gái sẽ lấy những dấu chứng tỏ cô gái còn trinh và đưa ra cửa thành
cho các kỳ mục thành ấy. 16 Người cha cô gái sẽ nói với các kỳ mục:
"Tôi đã gả con gái cho người đàn ông này, nhưng anh ta ghét bỏ nó; 17
bây giờ anh ta vu khống nó và nói: "Tôi không thấy những dấu chứng
tỏ con gái ông còn trinh. Vậy đây là những dấu chứng tỏ con gái tôi còn
trinh." Họ sẽ mở chiếc áo choàng ra trước mặt các kỳ mục trong thành. 18
Các kỳ mục trong thành sẽ bắt người chồng và sửa phạt: 19 họ
sẽ bắt người ấy nộp phạt một trăm thỏi bạc, và sẽ trao số bạc đó cho người cha
cô gái, vì người ấy đã bôi xấu danh dự của một trinh nữ Ít-ra-en. Nàng sẽ là vợ
người ấy và suốt đời người ấy không thể rẫy nàng. 20 Nhưng nếu điều
đó có thật, nếu người ta không tìm thấy nơi cô gái những dấu chứng tỏ cô còn
trinh, 21 thì họ sẽ lôi cô gái ra cửa nhà cha nàng; người trong
thành của nàng sẽ ném đá nàng cho chết và nàng sẽ phải chết, vì nàng đã làm
điều đồi bại trong Ít-ra-en, khi làm điếm trong nhà cha mình. Anh (em) phải khử
trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em).
Ngoại
tình và thông dâm
22
Nếu
một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả;
hai sẽ phải chết: người đàn ông đã nằm với người đàn bà, và cả người đàn bà.
Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại ở Ít-ra-en.
23
Khi
một cô gái còn trinh đã đính hôn với một người đàn ông, mà một người đàn ông
khác gặp cô trong thành và nằm với cô, 24 thì anh (em) sẽ lôi cả hai
ra cửa thành ấy và ném đá, và chúng sẽ phải chết: cô gái, vì lý do ở trong
thành mà đã không kêu cứu, và người đàn ông, vì lý do đã cưỡng bức vợ người
đồng loại. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác, không cho tồn tại giữa anh (em). 25
Nhưng nếu người đàn ông gặp ở ngoài đồng cô gái đã đính hôn, bắt lấy nàng
và nằm với nàng, thì chỉ một mình người đàn ông đã nằm với nàng sẽ phải chết; 26
còn cô gái, thì anh (em) đừng làm gì nàng, nàng không có tội đáng chết.
Trường hợp cũng như một người xông vào người đồng loại để giết người ấy: 27
vì người đàn ông kia đã gặp cô ngoài đồng; cô gái đính hôn đã kêu mà
không ai cứu.
28
Khi
một người đàn ông gặp một cô gái chưa đính hôn, nắm lấy nàng và nằm với nàng,
và họ bị bắt gặp, 29 thì người đàn ông đã nằm với nàng phải nộp cho
cha cô gái năm mươi thỏi bạc; nàng sẽ là vợ người ấy, bởi lẽ người ấy đã cưỡng
hiếp nàng, và suốt đời người ấy không thể rẫy nàng.
Chương 23
1
Một
người đàn ông không được lấy vợ của cha mình, không được xâm phạm đến quyền làm
chồng của cha mình.
Những
người không được tham dự đại hội
2
Ai
bị giập tinh hoàn hay bị cắt dương vật sẽ không được vào đại hội của Ðức Chúa. 3
Người con lai không được vào đại hội của Ðức Chúa; cả đến đời thứ mười,
nó cũng không được vào đại hội của Ðức Chúa. 4 Người Am-mon và người
Mô-áp không được vào đại hội của Ðức Chúa; cả đến đời thứ mười, chúng cũng
không được vào đại hội của Ðức Chúa, và mãi mãi như vậy. 5 Lý do là
vì chúng đã không mang bánh và nước ra đón anh em trên đường, khi anh em ra
khỏi Ai-cập, và vì, để hại anh (em), Mô-áp đã thuê Bi-lơ-am, con của Bơ-o, từ
Pơ-tho tại miền A-ram Na-ha-ra-gim, đến nguyền rủa anh (em). 6 Nhưng
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã không muốn nghe Bi-lơ-am, và Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), đã đổi lời nguyền rủa thành lời chúc phúc cho anh (em)
được nhờ, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), yêu thương anh (em). 7 Suốt
đời anh (em) và mãi mãi, anh (em) không được theo đòi chúng để được bình an và
thịnh vượng.
8
Anh
(em) không được ghê tởm người Ê-đôm, vì họ là anh em của anh (em). Anh (em)
không được ghê tởm người Ai-cập, vì anh (em) đã là ngoại kiều trong đất họ. 9
Con cháu họ sẽ sinh ra, đến đời thứ ba sẽ được vào đại hội của Ðức Chúa.
Giữ
trại cho thanh sạch
10
Khi
ra đóng quân đối diện với quân thù, anh (em) phải giữ mình khỏi mọi điều xấu. 11
Khi ở giữa anh (em) có một người đàn ông không thanh sạch, vì xuất tinh
ban đêm, thì người ấy phải ra ngoài trại, và không được trở vào trong trại; 12
lúc chiều tà, người ấy sẽ tắm rửa bằng nước, và khi mặt trời lặn, sẽ trở
vào trong trại.
13
Anh
(em) phải có một chỗ ở bên ngoài trại, và anh (em) sẽ ra đó mà đi ngoài. 14
Trong đồ đạc của anh (em), phải có một cái xẻng nhỏ, và khi ra ngồi ngoài
đó, anh (em) sẽ dùng xẻng đó mà đào lỗ phóng uế, rồi lấp đi. 15 Vì
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi đi lại lại giữa trại anh (em) để giải
thoát anh (em) và trao thù địch của anh (em) cho anh (em). Vậy trại anh (em)
phải là trại thánh, kẻo Người thấy có gì chướng nơi anh (em) mà không đi theo
anh (em) nữa.
Luật
xã hội và luật phượng tự
16
Một
người nô lệ đã trốn nhà chủ mà đến với anh (em), anh (em) đừng nộp nó lại cho
chủ. 17 Nó sẽ ở với anh (em), giữa anh (em), tại nơi nó chọn, trong
một thành nào của anh (em) mà nó thích; anh (em) không được ngược đãi nó.
18
Con
gái Ít-ra-en không được làm điếm thần, con trai Ít-ra-en không được làm điếm
thần. 19 Anh (em) không được đưa vào nhà Ðức Chúa tiền công của một
con điếm hay tiền lương của một thằng điếm để làm lễ vật khấn hứa, vì cả hai
đều ghê tởm đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).
20
Anh
(em) không được cho người anh (em) mình vay lấy lãi: vay bạc, vay lương thực,
vay bất cứ thứ gì sinh lãi. 21 Người nước ngoài, anh (em) được cho
vay lấy lãi, còn người anh em của anh (em) thì không được cho vay lấy lãi; như
vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) sẽ chúc phúc cho anh (em), trong mọi
công việc tay anh (em) làm, trên đất anh (em) sắp vào chiếm hữu.
22
Khi
anh (em) khấn hứa với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), điều gì, thì đừng trì
hoãn thi hành, vì chắc chắn Thiên Chúa sẽ đòi anh (em) điều đó, và anh (em) sẽ
mang tội. 23 Nhưng nếu anh (em) tránh không khấn hứa, thì anh (em)
không mang tội. 24 Ðiều môi miệng anh (em) nói ra, anh (em) phải giữ
và thi hành như anh (em) đã tự nguyện khấn hứa với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), và như miệng anh (em) đã nói ra.
25
Khi
vào vườn nho của người đồng loại của anh (em), thì anh (em) có thể ăn nho tuỳ
thích, ăn cho đến no, nhưng không được bỏ vào giỏ của mình. 26 Khi
vào đồng lúa của người đồng loại anh (em), thì anh (em) có thể lấy tay bứt
những bông lúa, nhưng không được tra liềm cắt lúa của người đồng loại anh (em).
Chương 24
Ly
dị
1
Nếu
một người đàn ông đã lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp
lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho
nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà. 2 Ra
khỏi nhà người ấy, nếu nàng đi lấy chồng khác, 3 mà người chồng sau
lại ghét bỏ nàng, viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra
khỏi nhà, hoặc nếu người chồng sau đã lấy nàng làm vợ mà chết, 4 thì
người chồng đầu tiên đã đuổi nàng đi không thể lấy nàng làm vợ một lần nữa, sau
khi nàng đã ra ô uế. Ðó là điều ghê tởm trước nhan Ðức Chúa; anh (em) không
được làm cho miền đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em)
làm gia nghiệp, phải mang tội.
Biện
pháp bảo vệ
5
Khi
một người đàn ông mới cưới vợ, thì người ấy không phải đi lính, và người ta sẽ
không bắt làm công tác nào; người ấy sẽ được miễn, được ở nhà một năm, và sẽ là
niềm vui cho người vợ đã cưới.
6
Không
được giữ cối xay bột làm đồ cầm, dù chỉ một nửa trên, vì như thế là giữ chính
mạng người làm đồ cầm.
7
Nếu
thấy ai bắt cóc một người anh em mình trong hàng con cái Ít-ra-en, hành hạ và
bán người đó đi, thì kẻ bắt cóc phải chết. Anh (em) phải khử trừ sự gian ác,
không cho tồn tại giữa anh (em).
8
Về
bệnh phung cùi, anh (em) hãy ý tứ giữ cẩn thận và thi hành tất cả những gì các
tư tế Lê-vi chỉ dẫn cho anh em; anh em hãy lo thực hành như tôi đã truyền cho
họ. 9 Hãy nhớ cách Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã xử với bà
Mi-ri-am trên đường, khi anh em ra khỏi Ai-cập.
10
Khi
anh (em) cho người đồng loại vay cái gì, thì không được vào nhà người ấy mà bắt
đồ cầm. 11 Anh (em) sẽ đứng ngoài, và người mà anh (em) cho vay sẽ
mang đồ cầm ra ngoài cho anh (em). 12 Nếu người ấy nghèo, anh (em)
sẽ không đi ngủ mà còn giữ đồ cầm của người ấy. 13 Anh (em) phải đem
trả lại đồ cầm cho người ấy khi mặt trời lặn; người ấy sẽ đắp áo choàng của
mình mà ngủ, sẽ chúc phúc cho anh (em); anh (em) sẽ là người công chính trước
nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).
14
Anh
(em) không được bóc lột người làm thuê nghèo khó bần cùng, dù người ấy là một
người anh em của anh (em) hay là một ngoại kiều ở trong đất nước của anh (em),
trong các thành của anh (em). 15 Chính ngày hôm ấy, anh (em) phải
trả công cho họ, đừng để mặt trời lặn mà không trả công, vì họ nghèo khổ và
nóng lòng mong đợi được trả công; như vậy họ sẽ không kêu lên Ðức Chúa tố cáo
anh (em), và anh (em) sẽ không mang tội.
16
Cha
sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người sẽ bị xử
tử về tội của mình.
17
Anh
(em) không được làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều và cô nhi, không
được giữ áo của người goá bụa làm đồ cầm. 18 Anh (em) hãy nhớ mình
đã làm nô lệ bên Ai-cập, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã giải thoát
anh (em) ra khỏi đó. Vì vậy tôi truyền cho anh (em) thực hành điều đó.
19
Khi
anh (em) gặt lúa trong ruộng mình, mà bỏ sót một bó lúa trong ruộng, thì không
được quay lại mà lấy; bó lúa ấy dành cho ngoại kiều và cô nhi quả phụ; như vậy,
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ chúc phúc cho anh (em) trong mọi việc tay
anh (em) làm.
20
Khi
hái ô-liu, thì anh (em) không được trở lại tìm trái sót; những trái đó dành cho
ngoại kiều và cô nhi quả phụ.
21
Khi
hái nho, thì anh (em) không được mót lại; những trái còn sót dành cho ngoại
kiều và cô nhi quả phụ.
22
Anh
em hãy nhớ mình đã làm nô lệ bên đất Ai-cập. Vì vậy, tôi truyền cho anh (em)
thực hành điều đó.
Chương 25
1
Khi
người ta có chuyện tranh chấp với nhau, thì họ sẽ đi hầu toà, và toà sẽ phân xử
cho họ: toà sẽ công bố người công chính là công chính, kẻ có tội là có tội. 2
Nếu người có tội đáng phải đòn, thẩm phán sẽ cho nọc ra mà đánh trước mặt
mình, tội đáng bao nhiêu thì đánh bấy nhiêu đòn. 3 Quan toà được cho
đánh bốn mươi đòn, nhưng không được cho đánh thêm, sợ rằng đánh thêm sẽ bị
trọng thương, và người anh em của anh (em) sẽ bị nhục trước mặt anh (em).
4
Anh
(em) không được bịt mõm con bò đang đạp lúa.
Luật
về anh em chồng
5
Khi
có những anh em ở chung với nhau, và một trong những người đó chết mà không có
con trai, thì vợ của người chết không được lấy một người xa lạ, ngoài gia đình;
một người anh em chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và chu toàn bổn phận
của một người anh em chồng đối với nàng. 6 Ðứa con đầu lòng nàng
sinh ra sẽ duy trì tên của người anh em đã chết; như vậy tên của người chết sẽ
không bị xoá khỏi Ít-ra-en. 7 Nhưng nếu người đàn ông ấy không thích
lấy chị dâu hay em dâu mình, thì nàng sẽ lên cửa thành, gặp các kỳ mục và thưa:
"Người anh em chồng tôi từ chối không chịu lưu truyền tên tuổi của anh em
mình ở Ít-ra-en, người ấy không muốn chu toàn bổn phận của một người anh em
chồng đối với tôi.” 8 Các kỳ mục trong thành sẽ gọi người đàn ông
đến và nói với người ấy. Người ấy sẽ đứng đấy và nói: "Tôi không thích lấy
cô ấy.” 9 Người chị dâu hay em dâu sẽ đến gần người ấy trước mặt các
kỳ mục, rút một chiếc dép người ấy ra khỏi chân, nhổ vào mặt người ấy và lên
tiếng nói: "Kẻ không xây nhà cho người anh em mình thì phải xử như thế đó!”
10 Trong Ít-ra-en, người ta sẽ gọi tên người ấy là "nhà kẻ bị
lột dép."
Không
được khiếm nhã trong khi ẩu đả
11
Khi
hai người đàn ông đánh nhau, mà vợ của một trong hai người lại gần để cứu chồng
khỏi tay địch thủ và đưa tay nắm lấy chỗ kín của người này, 12 thì
anh (em) phải chặt tay người đàn bà ấy. Mắt anh (em) đừng nhìn nó mà thương
hại.
Phụ
lục
13
Anh
(em) không được có trong bao bị của anh (em) hai quả cân khác nhau, một nặng
một nhẹ; 14 anh (em) không được có trong nhà của anh (em) hai thùng
khác nhau, một lớn một nhỏ. 15 Anh (em) phải có một quả cân nguyên
vẹn và chính xác, một thùng nguyên vẹn và chính xác, để anh (em) được sống lâu
trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 16 Thật
vậy, hễ ai làm những điều ấy, hễ ai làm điều bất công, thì là điều ghê tởm đối
với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em).
17
Anh
(em) hãy nhớ A-ma-lếch đã xử thế nào với anh (em) trên đường, khi anh em ra
khỏi Ai-cập: 18 nó đã đón đường anh (em) và đánh tập hậu mọi kẻ lết
theo sau, trong khi anh (em) mệt lả và kiệt sức; nó đã không kính sợ Thiên Chúa.
19 Vậy khi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), cho anh (em) được
thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nào nữa, trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh (em), ban cho anh (em) làm gia nghiệp để anh (em) chiếm hữu, thì anh
(em) sẽ xoá hẳn tên tuổi A-ma-lếch, khiến cho dưới gầm trời, không còn ai nhớ
đến nó nữa: anh (em) đừng quên!
Chương 26
Sản
phẩm đầu mùa
1
Khi
anh (em) vào đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em) làm gia
nghiệp, khi anh (em) chiếm hữu và ở đất đó, 2 thì hãy lấy một phần
mọi nông sản đầu mùa anh (em) thu hoạch được từ miền đất của anh (em), mà Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). Anh (em) hãy để những thứ ấy
vào giỏ, rồi đi đến nơi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chọn cho Danh Người
ngự. 3 Anh (em) sẽ đến với tư tế tại chức trong những ngày đó và sẽ
thưa với ông:
"Hôm
nay tôi xin trình với Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, rằng tôi đã vào miền đất mà
Ðức Chúa đã thề với cha ông chúng tôi là Người sẽ ban cho chúng tôi."
4
Tư
tế sẽ nhận lấy giỏ từ tay anh (em) và đem đặt trước bàn thờ Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh (em). 5 Bấy giờ, anh (em) sẽ lên tiếng thưa trước tôn
nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em) rằng:
6
Người
Ai-cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ trên vai chúng tôi. 7
Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông chúng
tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi, đã thấy cảnh khổ cực, lầm than, áp bức
chúng tôi phải chịu. 8 Ðức Chúa đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền,
đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa chúng
tôi ra khỏi Ai-cập. 9 Người đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng
tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật. 10 Và bây giờ, lạy Ðức Chúa,
này con xin dâng sản phẩm đầu mùa của đất đai mà Ngài đã ban cho con."
11
Anh
(em) sẽ liên hoan cùng với các thầy Lê-vi và người ngoại kiều sống giữa anh
(em), vì mọi điều tốt mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã ban cho anh (em)
và gia đình anh (em).
Thuế
thập phân ba năm một lần
12
Năm
thứ ba, tức là năm nộp thuế thập phân, sau khi anh (em) đã trích ra một phần
mười hoa lợi mà đem cho thầy Lê-vi, người ngoại kiều và cô nhi quả phụ, và họ
đã được ăn uống no nê trong các thành của anh (em), 13 thì anh (em)
sẽ đến thưa trước tôn nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em):
14
Con
đã không ăn của đó khi có tang, đã không lấy một phần của đó khi con bị ô uế,
đã không dùng mà cúng người chết. Con đã nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của
con, đã làm theo mọi điều Ngài truyền cho con. 15 Từ thánh điện của
Ngài, từ trời cao, xin Ngài nhìn xuống, xin chúc phúc cho dân Ngài là Ít-ra-en,
cho đất đai mà Ngài đã ban cho chúng con, như Ngài đã thề với cha ông chúng
con, đất tràn trề sữa và mật."
III.
Những Diễn Từ Kết Thúc
Ít-ra-en
là dân của Ðức Chúa
16
Hôm
nay, Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), truyền cho anh (em) đem ra thực hành
các thánh chỉ và quyết định này. Anh (em) phải hết lòng hết dạ tuân giữ và đem
ra thực hành các điều ấy.
17
Hôm
nay, anh (em) đã làm cho Ðức Chúa tuyên bố rằng Người sẽ là Thiên Chúa của anh
(em), rằng anh (em) phải đi theo đường lối của Người, giữ các thánh chỉ, mệnh
lệnh, quyết định của Người, và nghe tiếng Người. 18 Hôm nay, Ðức
Chúa đã khiến anh (em) tuyên bố rằng anh (em) sẽ là dân thuộc quyền sở hữu của
Người như Người đã phán với anh (em), và rằng anh (em) sẽ giữ mọi mệnh lệnh của
Người, 19 rằng Người sẽ cho anh (em) vượt mọi dân tộc Người đã tạo
dựng, xét về vinh dự, danh tiếng và vinh quang, rằng anh (em) sẽ là một dân
thánh hiến cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), như Người đã phán.
Chương 27
Ghi
khắc Luật vào đá. Các nghi lễ.
1
Ông
Mô-sê cùng với các kỳ mục của Ít-ra-en đã truyền cho dân rằng: "Hãy giữ
tất cả mệnh lệnh mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay. 2 Ngày anh (em)
sang qua sông Gio-đan vào đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em), anh (em) sẽ dựng những tảng đá lớn và lấy vôi mà quét. 3 Khi
sang qua sông, anh (em) sẽ viết trên tảng đá ấy mọi lời của Luật này; như vậy
anh (em) sẽ được vào đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh
(em), đất tràn trề sữa và mật, như Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã phán
với anh (em).
4
Khi
đã sang qua sông Gio-đan, anh (em) hãy dựng những tảng đá ấy trên núi Ê-van,
như tôi truyền cho anh (em) hôm nay, và hãy lấy vôi mà quét. 5 Ở đó
anh (em) hãy xây một bàn thờ để kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), một bàn
thờ bằng những viên đá anh (em) đã không dùng sắt mà đẽo. 6 Anh (em)
hãy dùng những viên đá nguyên vẹn mà xây bàn thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), và trên đó, hãy dâng lên Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), những lễ toàn
thiêu. 7 Anh (em) hãy dâng những hy lễ kỳ an, hãy ăn tại đó và liên
hoan trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em); 8 anh (em) hãy
viết trên các tảng đá mọi lời của Luật này: hãy khắc rõ ràng."
9
Ông
Mô-sê cùng với các tư tế Lê-vi nói với toàn thể Ít-ra-en rằng:
10
Anh
(em) hãy nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và đem ra thực hành
những mệnh lệnh và thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh (em) hôm
nay."
11
Hôm
ấy, ông Mô-sê đã truyền cho dân rằng: 12 "Khi anh (em) đã sang
qua sông Gio-đan thì đây: Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Ít-xa-kha, Giu-se và
Ben-gia-min sẽ đứng trên núi Ga-ri-dim để chúc phúc cho dân; 13 và
đây: Rưu-vên, Gát, A-se, Dơ-vu-lun, Ðan và Náp-ta-li sẽ đứng trên núi Ê-van để
nguyền rủa.
14
Các
thầy Lê-vi sẽ cất giọng và lớn tiếng nói với mọi người Ít-ra-en:
15
Ðáng
nguyền rủa thay người tạc tượng đúc tượng - điều ghê tởm đối với Ðức Chúa, đồ
vật do tay thợ làm ra - và đặt ở nơi bí mật mà thờ! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
16
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ khinh dể cha mẹ! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
17
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ xê dịch ranh giới người đồng loại! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
18
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ làm cho người mù đi lạc đường! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
19
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ làm thiệt hại đến quyền lợi của ngoại kiều, cô nhi quả phụ!
Toàn dân sẽ thưa: A-men!
20
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ nằm với vợ của cha mình, vì nó xâm phạm đến quyền làm chồng
của cha mình! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
21
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ nằm với con vật nào! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
22
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ nằm với chị em mình, con gái của cha hay mẹ mình! Toàn dân
sẽ thưa: A-men!
23
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ nằm với mẹ vợ mình! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
24
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ giết trộm người đồng loại! Toàn dân sẽ thưa: A-men!
25
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ nhận quà hối lộ để giết người vô tội! Toàn dân sẽ thưa:
A-men!
26
Ðáng
nguyền rủa thay kẻ không giữ trọn những lời của Luật này mà đem ra thực hành!
Toàn dân sẽ thưa: A-men!"
Chương 28
Các
lời chúc phúc (Lv 26:3-13; Ðnl 7:12 -24)
1
Nếu
anh (em) thật sự nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà lo đem ra
thực hành tất cả những mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh (em) hôm nay,
thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho anh (em) vượt mọi dân tộc trên
mặt đất, 2 và mọi phúc lành sau đây sẽ đến với anh (em) và bao trùm
anh (em), bởi vì anh (em) đã nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em):
3
Anh
(em) sẽ được chúc phúc trong thành, anh (em) sẽ được chúc phúc ngoài đồng. 4
Con cái của lòng dạ anh (em), hoa màu của đất đai anh (em), đàn con của
gia súc anh (em), bò con, chiên con của anh (em) đều được chúc phúc. 5 Giỏ
của anh (em) và cối nhồi bột của anh (em) sẽ được chúc phúc. 6 Anh
(em) sẽ được chúc phúc khi vào, anh (em) sẽ được chúc phúc khi ra.
7
Các
kẻ thù anh (em) đứng lên chống lại anh (em), Ðức Chúa sẽ làm cho chúng bị đánh
bại trước mặt anh (em): khi ra đánh anh (em), chúng cùng đi một lối, lúc phải
trốn anh (em), chúng tháo chạy bảy đường. 8 Ðức Chúa sẽ truyền cho
phúc lành ở với anh (em) trong kho lúa và trong mọi công việc tay anh (em) làm,
và Người sẽ chúc phúc cho anh (em) trong đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), ban cho anh (em).
9
Ðức
Chúa sẽ đặt anh (em) lên làm dân thánh hiến cho Người, như Người đã thề với anh
(em), nếu anh (em) giữ các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và
nếu anh (em) đi theo đường lối của Người. 10 Mọi dân trên mặt đất sẽ
thấy rằng anh (em) được mang danh Ðức Chúa, và chúng sẽ sợ anh (em). 11 Ðể
anh (em) được hạnh phúc, Ðức Chúa sẽ cho anh (em) thành công, mà cho anh (em)
sinh nhiều con cái, gia súc anh (em) sinh sôi nảy nở, đất đai anh (em) sinh
nhiều hoa trái, trên đất đai mà Ðức Chúa đã thề với cha ông anh (em) là Người
sẽ ban cho anh (em). 12 Ðức Chúa sẽ mở trời, là kho tàng quý báu của
Người, cho anh (em), để ban mưa đúng mùa cho đất anh (em), và chúc phúc cho mọi
việc tay anh (em) làm. Anh (em) sẽ cho nhiều dân tộc vay mượn, còn chính anh
(em) sẽ không phải vay mượn. 13 Ðức Chúa sẽ đặt anh (em) đứng đầu
chứ không đứng cuối, anh (em) sẽ chỉ đi lên chứ không đi xuống, nếu anh (em)
nghe các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà hôm nay tôi truyền
cho anh (em) giữ và đem ra thực hành, 14 và nếu anh (em) tuân cứ mọi
điều tôi truyền cho anh (em) hôm nay, không đi trệch bên phải bên trái, mà theo
các thần khác và phụng thờ chúng.
Các
lời nguyền rủa (Lv 26:14-46)
15
Nhưng
nếu anh (em) không nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), không lo đem
ra thực hành tất cả những mệnh lệnh và thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho
anh (em) hôm nay, thì những lời nguyền rủa sau đây sẽ đến với anh (em) và bao
trùm anh (em):
16
Anh
(em) sẽ bị nguyền rủa trong thành, anh (em) sẽ bị nguyền rủa ngoài đồng. 17
Giỏ của anh (em) và cối nhồi bột của anh (em) sẽ bị nguyền rủa. 18 Con
cái của lòng dạ anh (em), hoa màu của đất đai anh (em), bò con, chiên con của
anh (em) sẽ bị nguyền rủa. 19 Anh (em) sẽ bị nguyền rủa khi vào, anh
(em) sẽ bị nguyền rủa khi ra.
20
Ðức
Chúa sẽ khiến anh (em) mắc tai hoạ, phải hoảng sợ, bị đe doạ, trong mọi công
việc tay anh (em) làm, cho đến khi anh (em) bị tiêu diệt và mau lẹ biến mất, vì
sự gian ác anh (em) làm khi lìa bỏ Ðức Chúa. 21 Ðức Chúa sẽ cho ôn
dịch bám vào anh (em), cho đến khi nó tận diệt anh (em), khiến anh (em) không
còn trên đất anh (em) sắp vào chiếm hữu. 22 Ðức Chúa sẽ làm cho anh
(em) bị suy mòn, nóng sốt, viêm, phỏng, bị hạn hán, và làm cho lúa mì bị úa
vàng, bị sâu đục: các thứ đó sẽ theo sát anh (em) cho đến khi anh (em) biến mất.
23 Trời của anh (em), trên đầu anh (em), sẽ là đồng, đất dưới chân
anh (em) sẽ là sắt. 24 Thay vì làm mưa trên đất anh (em), Ðức Chúa
sẽ cho cát và bụi từ trời rơi xuống, cho đến khi anh (em) bị tiêu diệt.
25
Ðức
Chúa sẽ làm cho anh (em) bị đánh bại trước mặt quân thù: khi ra đánh chúng, anh
(em) cùng đi một lối, lúc phải trốn chúng, anh (em) tháo chạy bảy đường. Anh
(em) sẽ làm cho mọi dân tộc trên mặt đất phải gớm ghiếc. 26 Xác chết
của anh (em) sẽ làm mồi cho mọi chim trời, và cho các thú vật trên mặt đất, mà
không ai xua đuổi chúng.
27
Ðức
Chúa sẽ làm cho anh (em) bị ung nhọt Ai-cập, bị u bướu, ghẻ lở, ngứa ngáy, mà
không thể chữa khỏi. 28 Ðức Chúa sẽ làm cho anh (em) bị điên khùng,
mù loà, loạn trí. 29 Anh (em) sẽ mò mẫm giữa trưa, như người mù mò
mẫm trong bóng tối, và sẽ không thấy đường mà đi.
30
Anh
(em) sẽ đính hôn với một phụ nữ, nhưng người khác sẽ cưỡng hiếp nàng; anh (em)
sẽ xây nhà, nhưng không được ở, sẽ trồng vườn nho, nhưng không được hưởng trái
đầu tiên. 31 Bò của anh (em) sẽ bị hạ trước mắt anh (em), mà anh
(em) không được ăn thịt; lừa của anh (em) sẽ bị cướp trước mặt anh (em) và sẽ
không trở về với anh (em); chiên dê của anh (em) sẽ bị nộp cho quân thù, mà
không ai cứu giúp anh (em). 32 Con trai con gái của anh (em) sẽ bị
nộp cho một dân khác; mắt anh (em) sẽ chứng kiến và suốt ngày mòn mỏi trông chờ
chúng, nhưng anh (em) đành chịu bó tay. 33 Hoa màu của đất đai anh
(em) và tất cả công lao vất vả của anh (em), thì một dân anh (em) không biết sẽ
được hưởng; mãi mãi, anh (em) sẽ chỉ là người bị áp bức, bị hành hạ. 34 Anh
(em) sẽ ra điên khùng vì cảnh tượng mắt anh (em) chứng kiến. 35 Ðức
Chúa sẽ làm cho anh (em) bị ung độc không thể chữa lành ở đầu gối và ở đùi, từ
bàn chân cho tới đỉnh đầu.
36
Ðức
Chúa sẽ bắt anh (em) và vua mà anh (em) tôn lên cai trị anh (em), đi đến với
một dân tộc anh (em) và cha ông anh (em) không biết, tại đó anh (em) sẽ phụng
thờ các thần khác, là gỗ, là đá. 37 Anh (em) sẽ trở nên nỗi kinh
hoàng, nên trò cười, nên đầu đề châm chọc cho mọi dân ở những nơi Ðức Chúa sẽ
dẫn anh (em) đến.
38
Hạt
giống anh (em) mang ra đồng thì nhiều, nhưng chỉ thu hoạch được ít, vì châu
chấu sẽ phá hết. 39 Anh (em) sẽ trồng và chăm sóc vườn nho, nhưng
rượu anh (em) sẽ không được uống và cả trái nho cũng chẳng được hái, vì sâu bọ
sẽ ăn mất. 40 Anh (em) sẽ có những cây ô-liu trên toàn lãnh thổ anh
(em), nhưng không có dầu mà xức, vì trái ô-liu của anh (em) sẽ rụng. 41 Anh
(em) sẽ sinh con trai con gái, nhưng chúng sẽ không thuộc về anh (em), vì chúng
sẽ bị đi đày. 42 Mọi cây cối và hoa màu của đất đai anh (em) sẽ bị
bọ dừa phá hoại.
43
Người
ngoại kiều giữa anh (em) sẽ đi lên, lên mãi, vượt hẳn anh (em); còn anh (em) sẽ
đi xuống, xuống mãi. 44 Họ sẽ cho anh (em) vay mượn, còn anh (em) sẽ
không có gì cho họ vay mượn. Họ sẽ đứng đầu, còn anh (em) sẽ đứng cuối.
45
Những
lời nguyền rủa này sẽ đến với anh (em), theo sát và bao trùm anh (em), cho đến
khi anh (em) bị tiêu diệt, vì anh (em) không nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh (em), không giữ các mệnh lệnh và thánh chỉ của Người mà Người truyền
cho anh (em). 46 Những điều ấy sẽ nên dấu lạ điềm thiêng cho anh
(em) và dòng dõi anh (em) đến muôn đời.
Viễn
tượng chiến tranh và tù đày
47
Vì
anh (em) đã không phụng thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), với tâm hồn vui
sướng bởi có đầy đủ tất cả, 48 nên trong cảnh đói khát, trần truồng
và thiếu thốn tất cả, anh (em) sẽ phải phục vụ quân thù của anh (em), những kẻ
Ðức Chúa sẽ sai đến đánh anh (em). Người sẽ đặt ách sắt trên cổ anh (em), cho
đến khi chúng tiêu diệt anh (em).
49
Ðể
chống lại anh (em), Ðức Chúa sẽ đưa một dân tộc từ xa, từ cùng cõi đất, phóng
đến như đại bàng, một dân tộc mà anh (em) không biết tiếng, 50 mặt
mày cứng cỏi, già không nể, trẻ không thương. 51 Nó sẽ ăn đàn con
của gia súc anh (em), hoa màu của đất đai anh (em), cho đến khi anh (em) bị
tiêu diệt; nó sẽ không để lại cho anh (em) lúa mì, rượu mới, dầu tươi, bò con,
chiên con, cho đến khi nó làm cho anh (em) biến mất. 52 Nó sẽ vây hãm
anh (em) trong mọi thành của anh (em), cho đến khi các tường thành cao và kiên
cố mà anh (em) tin tưởng, phải sụp đổ, trong khắp đất của anh (em); nó sẽ vây
hãm anh (em) trong mọi thành của anh (em), trong khắp đất của anh (em) mà Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em). 53 Khi bị vây hãm,
bị quân thù siết chặt trong cảnh ngặt nghèo, anh (em) sẽ ăn con cái của lòng dạ
anh (em), ăn thịt con trai con gái anh (em) mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), ban cho anh (em). 54 Người đàn ông hào hoa phong nhã nhất
trong anh (em) sẽ nhìn người anh em mình, người vợ mình đã từng âu yếm, và
những đứa con còn giữ lại được, với cặp mắt dữ dằn, 55 vì không muốn
chia cho ai trong những người này chút thịt những đứa con mà người ấy đang ăn,
bởi lẽ người ấy không còn gì nữa, khi anh (em) bị vây hãm, bị kẻ thù siết chặt
trong cảnh ngặt nghèo, trong mọi thành của anh (em). 56 Người đàn bà
liễu yếu đào tơ vào bậc nhất trong anh (em), mềm yếu và nhã nhặn đến đỗi chưa
hề thử đặt bàn chân xuống đất, sẽ nhìn người chồng mình đã từng âu yếm và con
trai con gái mình với cặp mắt dữ dằn; 57 ngay cả cái nhau từ trong
lòng mình xổ ra và đứa con mình sinh ra, nàng sẽ lén ăn cả hai, bởi lẽ nàng
thiếu tất cả, khi anh (em) bị vây hãm và bị kẻ thù siết chặt trong cảnh ngặt
nghèo, trong các thành của anh (em).
58
Nếu
anh (em) không lo đem ra thực hành tất cả những lời của Luật này, chép trong
sách này, và kính sợ danh hiển hách và khả uý này: Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), 59 thì Ðức Chúa sẽ làm cho anh (em) và làm cho dòng dõi anh
(em) phải mang những vết thương lạ, những vết thương nặng và dai dẳng, những
bệnh ác độc và dai dẳng. 60 Ðức Chúa sẽ cho trở lại với anh (em) mọi
dịch tễ của Ai-cập, mà anh (em) kinh hãi, những dịch tễ ấy sẽ bám vào anh (em).
61 Cả mọi bệnh hoạn và mọi vết thương không được chép trong sách
Luật này, Ðức Chúa cũng giáng xuống trên anh (em), cho đến khi anh (em) bị tiêu
diệt. 62 Sau khi đã trở nên nhiều như sao trên trời, anh (em) sẽ chỉ
còn lại một số người ít ỏi, vì anh (em) không nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh (em).
63
Cũng
như Ðức Chúa đã lấy làm vui khi cho anh em được hạnh phúc và nên đông đúc, thì
Người cũng sẽ lấy làm vui khi để cho anh em bị giết chết, bị tiêu diệt, và bị
bứng khỏi miền đất mà anh (em) sẽ vào chiếm hữu. 64 Ðức Chúa sẽ phân
tán anh (em) vào giữa mọi dân, từ đầu đến cuối mặt đất, tại đó, anh (em) sẽ
phụng thờ các thần khác, là gỗ, là đá, những thần mà anh (em) và cha ông anh
(em) không biết. 65 Ở giữa các dân tộc ấy, anh (em) sẽ không được
yên hàn và không có chỗ đặt bàn chân; tại đó, Ðức Chúa sẽ làm cho lòng anh (em)
xao xuyến, đôi mắt mỏi mòn, tâm hồn kiệt quệ. 66 Mạng sống anh (em)
sẽ treo lơ lửng trước mặt anh (em); đêm ngày anh (em) sẽ khiếp sợ, anh (em) sẽ
không tin mình còn được sống. 67 Ban sáng anh (em) sẽ nói: "Bao
giờ mới đến chiều?"; ban chiều anh (em) sẽ nói: "Bao giờ mới đến
sáng?", vì nỗi khiếp sợ tràn ngập tâm hồn anh (em) và vì cảnh tượng mắt
anh (em) chứng kiến. 68 Ðức Chúa sẽ bắt anh (em) đi thuyền, đi bộ
trở lại đất Ai-cập mà tôi đã nói với anh (em): "Anh (em) sẽ không còn thấy
lại đất này nữa!" Tại đó, anh (em) sẽ bán mình làm tôi trai tớ gái cho
quân thù của anh (em), mà chẳng có ai mua!"
Diễn
Từ Thứ Ba Của Ông Mô-Sê
69
Ðây
là những lời của giao ước mà Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê lập với con cái
Ít-ra-en tại đất Mô-áp, không kể giao ước Người đã lập với họ tại núi Khô-rếp.
Chương 29
Ôn
lại lịch sử
1
Ông
Mô-sê triệu tập toàn thể Ít-ra-en và nói với họ:
2
đó
là các thử thách lớn lao mắt anh (em) từng thấy, là các dấu lạ điềm thiêng lớn
lao ấy. 3 Nhưng cho đến ngày hôm nay, Ðức Chúa đã không cho anh em
lòng để biết, mắt để thấy, tai để nghe.
4
Ta
đã dẫn các ngươi bốn mươi năm trong sa mạc, mà áo các ngươi mặc đã không rách,
dép chân các ngươi đi đã không mòn. 5 Của ăn của các ngươi không
phải là bánh, thức uống của các ngươi không phải là rượu và đồ uống có men, để
các ngươi biết rằng Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. 6 Rồi
anh em đã đến nơi này; Xi-khôn, vua Khét-bôn, và Ốc, vua miền Ba-san, đã ra
nghênh chiến với chúng ta, và chúng ta đã đánh bại chúng. 7 Chúng ta
đã chiếm đất của chúng, và chia cho chi tộc Rưu-vên, chi tộc Gát và một nửa chi
tộc Mơ-na-se làm gia nghiệp.
8
Anh
em phải giữ những lời của giao ước này và đem ra thực hành để được thành công
trong tất cả những gì anh em làm.
Giao
ước tại Mô-áp
9
Hôm
nay, tất cả anh em đứng trước tôn nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em: nào là
những người đứng đầu các chi tộc của anh em, nào là các kỳ mục, ký lục của anh
em, mọi người phái nam trong Ít-ra-en, 10 nào là đàn bà con trẻ của
anh em, nào là người ngoại kiều ở trong trại của anh (em), từ người chặt củi
cho đến người múc nước cho anh (em). 11 Anh (em) sắp gia nhập giao
ước của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), giao ước có kèm theo lời thề nguyền,
là giao ước mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), lập với anh (em) hôm nay, 12
để đặt anh (em) lên làm dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa
của anh (em), như Người đã phán với anh (em) và như Người đã thề với cha ông
anh (em), là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. 13 Không phải chỉ riêng
với anh em mà tôi lập giao ước này, có kèm theo lời thề nguyền này, 14 nhưng
còn với kẻ có mặt ở đây với chúng ta, và hôm nay đang đứng trước tôn nhan Ðức
Chúa, Thiên Chúa chúng ta, cũng như với kẻ không có ở đây với chúng ta hôm nay.
15
Chính
anh em biết chúng ta đã sống bên đất Ai-cập làm sao và đã băng qua lãnh thổ các
dân tộc mà anh em đã đi qua như thế nào. 16 Anh em đã thấy ở giữa
chúng các đồ gớm ghiếc và các ngẫu tượng của chúng, là gỗ, đá, bạc, vàng.
17
Giữa
anh em, đừng có người nào, nam hay nữ, đừng có dòng họ hay chi tộc nào hôm nay
trở lòng với Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà đi phụng thờ các thần của những
dân tộc ấy. Giữa anh em, đừng có thứ rễ sinh trái độc và quả đắng. 18 Nếu
kẻ nào, khi nghe các lời thề nguyền này, lại tự chúc phúc cho mình trong lòng
mà nói: "Tôi sẽ được bình an, cho dù tôi cứ sống theo lòng chai dạ đá của
tôi"; như thể đất được tưới không khác gì đất khô cằn; 19 nếu
kẻ nào làm thế thì Ðức Chúa sẽ không muốn tha cho nó; bấy giờ cơn giận và lòng
ghen tương của Ðức Chúa sẽ bốc lên phạt người ấy, tất cả lời thề nguyền chép
trong sách này sẽ đổ xuống trên nó, và Ðức Chúa sẽ xoá tên nó không còn dấu vết
trong thiên hạ. 20 Ðức Chúa sẽ tách nó ra khỏi mọi chi tộc Ít-ra-en,
cho nó phải mang hoạ, chiếu theo mọi lời thề nguyền của giao ước chép trong
sách Luật này.
Viễn
tượng lưu đày
21
Khi
thấy các vết thương của miền đất này và những bệnh tật Ðức Chúa giáng xuống
trên đó, thì thế hệ tương lai, tức là con cái anh em đứng lên sau anh em, và
người nước ngoài đến từ một miền đất xa xôi, sẽ nói: 22 "Cả
miền đất chỉ là diêm sinh, muối và lửa, không ai gieo vãi, không chi nảy chồi,
không cọng cỏ nào mọc lên, giống như cảnh tàn phá ở Xơ-đôm, Gô-mô-ra, Át-ma và
Xơ-vô-gim, những thành mà Ðức Chúa đã phá đổ trong cơn thịnh nộ và lôi đình của
Người. 23 Và mọi dân tộc sẽ nói: "Vì sao Ðức Chúa đã xử như thế
với miền đất này? Vì sao cơn thịnh nộ lớn lao này đã bừng cháy? 24 Người ta sẽ
trả lời: "Ấy là vì họ bỏ giao ước của Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông họ,
giao ước Người đã lập với họ, khi Người đưa họ ra khỏi đất Ai-cập. 25 Họ
đã đi phụng thờ các thần khác và sụp xuống lạy các thần ấy, những thần mà họ
không biết và Người đã chẳng phân chia cho họ. 26 Ðức Chúa đã nổi
cơn thịnh nộ với miền đất này, và giáng xuống tất cả lời nguyền rủa chép trong
sách này. 27 Trong cơn thịnh nộ, lôi đình và giận dữ lớn lao, Ðức
Chúa đã bứng họ đi khỏi đất đai của họ và ném họ vào một miền đất khác, như
ngày hôm nay. 28 Có những điều Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, giữ
kín cho mình; nhưng những điều này được mặc khải cho chúng ta và con cháu chúng
ta đến muôn đời, để chúng ta đem ra thực hành những lời của Luật này.
Chương 30
Trở
về từ chốn lưu đày. Trở lại với Chúa.
1
Vậy
khi tất cả những điều ấy xảy đến cho anh (em), tức là lời chúc phúc và lời
nguyền rủa tôi đã đưa ra cho anh (em) chọn, anh (em) sẽ để tâm suy niệm những
điều ấy, giữa các dân tộc, nơi mà Ðức Chúa đã đuổi anh (em) đến; 2 anh
(em) sẽ trở về cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), anh (em) và con cái anh
(em) sẽ nghe tiếng Người, hết lòng hết dạ, theo mọi điều tôi truyền cho anh
(em) hôm nay. 3 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ đổi vận mạng
anh (em), sẽ chạnh lòng thương và sẽ lại tập trung anh (em) về từ mọi dân, từ
nơi mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã phân tán anh (em). 4 Dù
anh (em) có bị đuổi xa đến tận chân trời, thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
(em), cũng sẽ tập trung anh (em) từ đó về, và từ đó Người sẽ đón anh (em). 5
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ đưa anh (em) về đất mà cha ông anh
(em) đã chiếm hữu, để anh (em) chiếm hữu đất ấy; Người sẽ làm cho anh (em) được
hạnh phúc và đông đúc hơn cha ông anh (em).
6
Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cắt bì tâm hồn anh (em) và tâm hồn dòng dõi
anh (em), để anh (em) yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết
dạ, ngõ hầu anh (em) được sống. 7 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em),
sẽ giáng mọi lời nguyền rủa này trên quân thù anh (em), những kẻ ghét và bắt bớ
anh (em). 8 Phần anh (em), anh (em) sẽ trở lại và nghe tiếng Ðức
Chúa, sẽ đem ra thực hành mọi mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh (em)
hôm nay. 9 Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ cho anh (em) thành
công trong mọi công việc tay anh (em) làm, cho anh (em) sinh nhiều con cái, gia
súc anh (em) sinh sôi nảy nở, đất đai anh (em) sinh nhiều hoa trái, để anh (em)
được hạnh phúc. Thật vậy, Ðức Chúa sẽ lấy làm vui vì hạnh phúc của anh (em),
cũng như Người đã lấy làm vui vì hạnh phúc của cha ông anh (em), 10 miễn
là anh (em) nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), mà giữ những mệnh
lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh (em) trở về với
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ.
11
Quả
thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh (em) hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay
ngoài tầm tay anh (em). 12 Mệnh lệnh đó không ở trên trời, khiến anh
(em) phải nói: "Ai sẽ lên trời lấy xuống cho chúng tôi và nói cho chúng
tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành? 13 Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia
biển, khiến anh (em) phải nói: "Ai sẽ sang bên kia biển lấy về cho chúng
tôi và nói cho chúng tôi nghe, để chúng tôi đem ra thực hành? 14 Thật vậy, lời
đó ở rất gần anh (em), ngay trong miệng, trong lòng anh (em), để anh (em) đem
ra thực hành.
Hai
con đường
15
Coi
đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh (em) chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc,
hoặc là phải chết, bị tai hoạ. 16 Hôm nay tôi truyền cho anh (em)
phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi theo đường lối của Người, và
tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh (em) được sống,
được thêm đông đúc, và Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), chúc phúc cho anh
(em) trong miền đất anh (em) sắp vào chiếm hữu. 17 Nhưng nếu anh
(em) trở lòng và không vâng nghe, lại bị lôi cuốn và sụp xuống lạy các thần
khác và phụng thờ chúng, 18 thì hôm nay tôi báo cho anh (em) biết:
chắc chắn anh (em) sẽ bị diệt vong, sẽ không được sống lâu trên đất mà anh (em)
sắp sang qua sông Gio-đan để vào chiếm hữu. 19 Hôm nay, tôi lấy trời
đất làm chứng cáo tội anh (em): tôi đã đưa ra cho anh (em) chọn được sống hay
phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa. Anh (em) hãy chọn sống để anh (em)
và dòng dõi anh (em) được sống, 20 nghĩa là hãy yêu mến Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), nghe tiếng Người và gắn bó với Người, vì như thế anh
(em) sẽ được sống, sống lâu mà ở lại trên đất Ðức Chúa đã thề với cha ông anh
(em), là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, rằng Người sẽ ban cho các
ngài."
Chương 31
IV.
Những Việc Làm Cuối Cùng Của Ông Mô-Sê.
Ông
Mô-Sê Qua Ðời.
Sứ
mạng của ông Giô-suê
1
Ông
Mô-sê đến nói những lời này với toàn thể Ít-ra-en. 2 Ông bảo họ:
"Hôm nay tôi đã được một trăm hai mươi tuổi, tôi không thể đi ra đi vào
được nữa, và Ðức Chúa đã bảo tôi: "Ngươi sẽ không được sang qua sông
Gio-đan kia. 3 Chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), sẽ dẫn đầu
anh (em) sang qua sông, Người sẽ tiêu diệt các dân tộc ấy cho khuất mắt anh
(em), để anh (em) chiếm đất của chúng. Chính ông Giô-suê sẽ dẫn đầu anh (em)
sang qua sông, như Ðức Chúa đã phán. 4 Ðức Chúa sẽ xử với chúng như
đã xử với các vua người E-mô-ri là Xi-khôn và Ốc, và với đất nước của chúng:
Người đã tiêu diệt chúng. 5 Ðức Chúa sẽ trao các dân tộc ấy cho anh
(em), và anh (em) sẽ xử với chúng theo như tất cả mệnh lệnh tôi đã truyền cho
anh (em). 6 Mạnh bạo lên, can đảm lên! Ðừng sợ, đừng run khiếp trước
mặt chúng, vì chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đi với anh (em); Người
sẽ không để mặc, không bỏ rơi anh (em)."
7
Rồi
ông Mô-sê gọi ông Giô-suê lại, và nói với ông trước mặt toàn thể Ít-ra-en:
"Mạnh bạo lên, can đảm lên! Chính anh sẽ cùng với dân này vào đất Ðức Chúa
đã thề với cha ông họ rằng Người sẽ ban cho họ; chính anh sẽ cho họ hưởng đất
ấy làm gia nghiệp. 8 Chính Ðức Chúa đi phía trước anh, chính Người
sẽ ở với anh; Người sẽ không để mặc, không bỏ rơi anh. Ðừng sợ, đừng hãi!"
Nghi
thức công bố luật
9
Ông
Mô-sê viết luật này và trao cho các tư tế, con cái Lê-vi, là những người sẽ
kiệu Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, và cho tất cả các kỳ mục Ít-ra-en. 10 Ông
Mô-sê truyền cho họ rằng: "Sau bảy năm, vào thời kỳ có năm tha nợ, trong
dịp lễ Lều, 11 khi toàn thể Ít-ra-en đến để ra trình diện Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh (em), ở nơi Người chọn, anh (em) phải đọc luật này trước
toàn thể Ít-ra-en, cho họ nghe. 12 Anh (em) hãy tập hợp dân, đàn
ông, đàn bà, trẻ con và người ngoại kiều ở trong các thành của anh (em), để họ
nghe và để họ học cho biết kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), và lo đem
ra thực hành mọi lời của luật này. 13 Con cái họ, là những kẻ không
biết, sẽ nghe và học cho biết kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mọi ngày
anh em sống trên đất mà anh em sắp qua sông Gio-đan để chiếm hữu."
Huấn
thị của Ðức Chúa
14
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ðây sắp đến ngày ngươi phải lìa đời. Hãy gọi
Giô-suê đến, và các người hãy đứng ở Lều Hội Ngộ để Ta truyền lệnh cho
nó." Ông Mô-sê và ông Giô-suê ra đứng ở Lều Hội Ngộ. 15 Ðức
Chúa xuất hiện trong Lều, trong cột mây và cột mây đứng ở cửa Lều.
16
Ðức
Chúa phán với ông Mô-sê: "Ðây ngươi sắp nằm xuống với cha ông ngươi, và
dân này sẽ chạy theo các thần mà làm điếm, các thần của người ngoại bang ở
trong đất nó sắp vào; nó sẽ bỏ Ta và sẽ phá vỡ giao ước của Ta, giao ước Ta đã lập
với nó. 17 Ngày ấy, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ với nó. Ta sẽ bỏ chúng và
sẽ ẩn mặt đi không nhìn chúng. Bấy giờ nó sẽ bị thôn tính, và nhiều tai hoạ,
nhiều cơn ngặt nghèo sẽ xảy ra cho nó. Ngày đó, nó sẽ nói: "Những tai hoạ
này xảy ra cho tôi, phải chăng là vì Thiên Chúa không còn ở giữa tôi? 18 Phần
Ta, ngày đó Ta sẽ cứ ẩn mặt đi, vì tất cả điều ác nó làm khi hướng về các thần
khác.
Bài
ca làm chứng
19
Bây
giờ các ngươi hãy viết cho mình bài ca này, (các) ngươi hãy dạy cho con cái
Ít-ra-en, hãy đặt vào miệng chúng, để Ta lấy bài ca ấy làm chứng cáo tội con
cái Ít-ra-en. 20 Thật vậy, Ta sẽ đưa nó vào đất Ta đã thề hứa với
cha ông nó, đất tràn trề sữa và mật, nó sẽ được ăn, được no nê, sẽ béo mập, rồi
sẽ hướng về các thần khác và phụng thờ chúng, nó sẽ khinh thị Ta và phá vỡ giao
ước của Ta. 21 Khi nhiều tai hoạ, nhiều cơn ngặt nghèo xảy ra cho
chúng, thì bài ca này sẽ làm chứng cáo tội nó, vì dòng dõi chúng sẽ không quên
lặp lại bài ca này. Thật vậy, Ta biết ý định nó đang mưu tính hôm nay, ngay cả
trước khi Ta đưa nó vào đất mà Ta đã thề hứa.” 22 Hôm ấy, ông Mô-sê
đã viết bài ca này và dạy con cái Ít-ra-en.
23
Ðức
Chúa truyền lệnh cho ông Giô-suê, con ông Nun, Người phán: "Mạnh bạo lên,
can đảm lên! Chính ngươi sẽ đưa con cái Ít-ra-en vào đất mà Ta đã thề hứa với
chúng; và Ta sẽ ở với ngươi."
Ðặt
Luật bên Hòm Bia
24
Khi
ông Mô-sê đã viết xong các lời của luật này vào một cuốn sách, từ đầu chí cuối,
25 thì ông truyền cho các thầy Lê-vi, những người kiệu Hòm Bia Giao
Ước của Ðức Chúa, rằng: 26 "Hãy đem sách luật này đặt bên Hòm
Bia Giao Ước của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em; ở đó sách ấy sẽ làm chứng cáo
tội anh (em). 27 Vì tôi biết anh (em) hay phản nghịch và cứng cổ:
hôm nay tôi còn sống với anh em, mà anh em đã phản nghịch chống lại Ðức Chúa,
huống chi là sau khi tôi chết!
Tập
hợp dân để nghe bài ca
28
Hãy
tập hợp lại chung quanh tôi hết mọi kỳ mục của các chi tộc anh em và các ký lục
của anh em; tôi sẽ nói cho họ nghe những lời này, và lấy trời đất làm chứng cáo
tội họ. 29 Vì tôi biết rằng, sau khi tôi chết, chắc chắn anh em sẽ
ra hư hỏng, và sẽ đi ra ngoài con đường tôi đã truyền cho anh em; và tai hoạ sẽ
xảy đến cho anh em sau này, vì anh em sẽ làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, để trêu
giận Người bằng những việc tay anh em làm."
30
Rồi
ông Mô-sê nói cho toàn thể đại hội Ít-ra-en nghe những lời của bài ca này, từ
đầu chí cuối:
Chương 32
Bài
Ca Của Ông Mô-Sê
1
Trời
hãy lắng tai, này tôi sắp kể,
đất
nghe cho tường lời lẽ miệng tôi:
2
Giáo
huấn của tôi như giọt mưa thánh thót,
lời
tôi dạy bảo tựa sương móc nhỏ sa,
khác
nào mưa rơi trên nội cỏ,
giống
như nước đổ xuống đồng xanh.
3
Này
tôi xưng tụng thánh danh Ðức Chúa,
trời
đất hãy suy tôn Thiên Chúa ta thờ!
4
Người
là Núi Ðá: sự nghiệp Người hoàn hảo,
vì
mọi đường lối Người đều thẳng ngay.
Chúa
tín thành, không mảy may gian dối,
Người
quả là chính trực công minh.
5
Những
đứa con mà Chúa đã sinh ra không tì ố
lại
lỗi đạo với Người, ôi nòi giống lưu manh tà vạy!
6
Hỡi
dân tộc ngu si khờ dại,
ngươi
đáp đền ơn Ðức Chúa vậy sao?
Há
chính Người chẳng phải cha ngươi,
Ðấng
dựng nên ngươi, Ðấng tạo thành, củng cố?
7
Hãy
nhớ lại những ngày xưa tháng cũ,
và
ngẫm xem từng thế hệ qua rồi.
Cứ
hỏi cha ngươi là người sẽ dạy,
thỉnh
bậc lão thành, họ sẽ nói cho nghe.
8
Khi
Ðấng Tối Cao định phần riêng cho muôn nước,
và
khiến loài người khắp ngả chia tay,
thì
Người vạch biên cương cho từng dân tộc
theo
số các thần minh.
9
Nhưng
sở hữu của Ðức Chúa chính là dân Chúa,
nhà
Gia-cóp là cơ nghiệp của Người.
10
Gặp
thấy nó giữa miền hoang địa,
giữa
cảnh hỗn mang đầy tiếng hú rợn rùng,
Chúa
ấp ủ, Chúa lo dưỡng dục,
luôn
giữ gìn, chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa.
11
Tựa
chim bằng trên tổ lượn quanh, giục bầy con bay nhảy,
xoè
cánh ra đỡ lấy rồi cõng con trên mình.
12
Duy
một mình Ðức Chúa lãnh đạo dân;
chẳng
có thần ngoại bang nào bên cạnh Chúa.
13
Người
cho nó phóng ngựa trên các vùng đất cao trong xứ,
nó
được ăn hoa màu đồng ruộng;
Người
cho nó nếm mật ong chảy ra từ hốc đá,
nếm
dầu từ tảng đá hoa cương;
14
nếm
sữa bò chua và sữa chiên dê,
với
mỡ chiên con, chiên đực miền Ba-san,
mỡ
dê đực, với lúa mì tinh hảo;
ngươi
uống máu trái nho đã hoá rượu nồng.
15
Giơ-su-run
mập ra, nó hất chân đá hậu
-
ngươi mập, béo, phát phì
nó
đã bỏ Thiên Chúa, Ðấng đã làm ra nó,
Núi
Ðá độ trì nó, nó đã khinh thường.
16
Chúng
thờ các thần xa lạ khiến Người phải ghen tương,
làm
những điều ghê tởm mà trêu giận Người;
17
chúng
tế những quỷ không phải là Thiên Chúa,
tế
những thần chúng không biết,
những
thần mới, vừa mới đến,
mà
cha ông các ngươi đã không khiếp sợ.
18
Núi
Ðá sinh ra ngươi, ngươi lại coi thường,
ngươi
quên Thiên Chúa, Ðấng đã sinh ra ngươi.
19
Ðức
Chúa thấy vậy thì khinh miệt,
vì
con trai con gái Người đã trêu giận Người.
20
Người
phán: "Ta sẽ ẩn mặt đi không nhìn chúng,
để
xem hậu vận chúng ra sao;
vì
chúng là giống nòi tráo trở,
những
đứa con chẳng chút tín trung.
21
Chúng
đã thờ các thần không phải là Thiên Chúa
khiến
Ta phải ghen tương,
thờ
những thần hư ảo mà trêu giận Ta;
Ta
sẽ dùng một dân không phải là dân
khiến
chúng phải ghen tương,
dùng
một dân tộc ngu si mà trêu giận chúng.
22
Phải,
lửa thịnh nộ đã bùng lên trong Ta,
nó
đốt đến tận đáy sâu âm phủ,
thiêu
huỷ đất đai với cả hoa màu,
làm
chân núi đồi bốc cháy.
23
Trên
chúng, Ta sẽ chồng chất tai ương,
sẽ
phóng hết mũi tên của Ta vào chúng.
24
Khi
vì đói, chúng phải hao mòn,
vì
sốt, vì ôn dịch tàn khốc mà phải tiêu tan,
Ta
sẽ gửi đến chúng nanh thú dữ,
với
nọc của loài bò sát trên bụi đất.
25
Ngoài
thì lưỡi gươm sẽ làm chúng mất con,
trong
thì là nỗi kinh hoàng.
Cả
trai tráng lẫn người trinh nữ,
trẻ
đang bú cũng như người bạc đầu sẽ chung số phận.
26
Ta
đã phán: Ta sẽ đập chúng tan tành,
làm
cho loài người chẳng còn ai nhớ tới,
27
nếu
như Ta không sợ kẻ thù xúc phạm.
Ðối
thủ chúng chớ có hiểu lầm
mà
nói rằng: "Chúng ta cao tay hơn,
tất
cả điều đó, đâu phải là Ðức Chúa đã làm.
28
Quả
thế, chúng là một dân tộc phán đoán sai lạc,
thiếu
hẳn trí thông minh.
29
Nếu
là người khôn ngoan, chúng sẽ hiểu điều đó,
sẽ
thông suốt hậu vận của mình.
30
Làm
sao một người đuổi được một ngàn người,
và
hai người khiến mười ngàn người trốn chạy,
nếu
không phải vì Núi Ðá của chúng đã bán chúng đi,
và
Ðức Chúa đã nộp chúng rồi?
31
Vì
núi đá của chúng không phải như Núi Ðá của chúng ta.
Chính
kẻ thù chúng ta đều công nhận.
32
Nho
của chúng lấy giống từ nho của Xơ-đôm,
từ
những cánh đồng của Gô-mô-ra;
trái
nho của chúng là trái nho độc,
chùm
nho của chúng mới đắng làm sao!
33
Rượu
của chúng là nọc mãng xà,
là
chất độc giết người của rắn hổ mang.
34
Ðiều
này chẳng được giữ kỹ bên Ta,
được
niêm phong trong các kho tàng của Ta sao?
35
Chính
Ta sẽ báo oán và đáp trả,
vào
lúc mà chân chúng lảo đảo té xiêu,
vì
ngày chúng lâm nạn đã gần,
và
vận hạn chúng đang sầm sập tới."
36
Thật
vậy, Ðức Chúa sẽ xét xử cho thần dân,
sẽ
dủ lòng thương hàng tôi tớ,
khi
Người thấy rằng bàn tay chúng yếu đi,
và
người nô lệ, kẻ tự do cũng chẳng còn.
37
Bấy
giờ Người phán: "Ðâu rồi các thần của chúng,
đâu
rồi núi đá chúng ẩn thân?
38
Ðâu
rồi những kẻ ăn mỡ lễ tế của chúng,
uống
rượu tế chúng dâng?
Các
thần đó hãy đứng lên và phù trợ các ngươi,
cho
các ngươi có một nơi ẩn náu!
39
Bây
giờ hãy coi đây: Ta chính là Ta,
bên
cạnh Ta, chẳng có thần nào khác,
Ta
cầm quyền sinh tử, Ta đánh phạt, rồi Ta lại chữa lành,
không
ai cứu khỏi tay Ta được.
40
Phải,
Ta giơ tay lên trời, Ta nói: Ta sống đến muôn đời!
41
Khi
Ta mài lưỡi gươm sáng loé của Ta, khi Ta ra tay xét xử,
thì
Ta sẽ báo oán các đối thủ của Ta, sẽ đáp trả những kẻ ghét Ta,
42
Ta
sẽ làm cho các mũi tên của Ta say máu,
gươm
của Ta sẽ ăn thịt:
máu
những người bị giết và những tù nhân,
thịt
đầu các thủ lãnh quân thù."
43
Hỡi
các dân tộc, hãy reo hò mừng dân Chúa,
vì
Người bắt đền nợ máu các tôi tớ của Người,
báo
oán các đối thủ của Người,
và
xá tội cho đất, cho dân của Người.
44
Ông
Mô-sê cùng đến với ông Hô-sê-a, con ông Nun, và nói cho dân nghe tất cả những
lời của bài ca này.
Luật
là nguồn sống
45
Khi
ông Mô-sê đã nói xong tất cả những lời ấy với toàn thể Ít-ra-en, 46 thì
ông bảo họ: "Hãy để tâm vào tất cả những lời mà hôm nay tôi cảnh cáo anh
em, hãy truyền những lời đó cho con cái anh em, để chúng lo đem ra thực hành
tất cả những lời của Luật này. 47 Thật vậy, đó không phải là một lời
trống rỗng đối với anh em, mà đó là sự sống của anh em, và nhờ lời ấy, anh em
sẽ được sống trên đất mà anh em sắp qua sông Gio-đan để chiếm hữu."
Báo
trước cái chết của ông Mô-sê
48
Chính
ngày đó, Ðức Chúa phán với ông Mô-sê rằng: 49 "Ngươi hãy lên
ngọn núi kia của dãy A-va-rim, lên ngọn núi Nơ-vô, ở đất Mô-áp, đối diện với
Giê-ri-khô, và hãy nhìn xem đất Ca-na-an mà ta ban cho con cái Ít-ra-en làm sở
hữu. 50 Rồi ngươi hãy chết trên ngọn núi ngươi sắp lên, và hãy về
sum họp với gia tộc ngươi, cũng như A-ha-ron, anh ngươi, đã chết tại núi Ho và
đã về sum họp với gia tộc. 51 Bởi vì giữa con cái Ít-ra-en, các
ngươi đã không trung thành với Ta tại mạch nước Mơ-ri-va ở Ca-đê, trong sa mạc
Xin, và bởi vì các ngươi đã không biểu lộ sự thánh thiện của Ta giữa con cái
Ít-ra-en, 52 nên ngươi chỉ được thấy đất ấy từ xa, chứ không được
vào đó, vào đất Ta ban cho con cái Ít-ra-en."
Chương 33
Những
lời chúc phúc của ông Mô-sê
1
Ðây
là lời chúc phúc mà ông Mô-sê, người của Thiên Chúa, đã chúc phúc cho con cái
Ít-ra-en trước khi qua đời. 2 Ông nói:
"Ðức
Chúa từ Xi-nai ngự đến, từ Xê-ia, Người chiếu soi trên họ,
Người
giãi sáng từ núi Pa-ran, Người đã đến Mơ-ri-va ở Ca-đê,
vì
họ, từ phía nam Người đến Sườn Núi.
3
Hẳn
Chúa yêu thương các dân, toàn dân thánh ở trong tay Chúa,
và
họ phục dưới chân Ngài, mỗi người nhận lấy lời Ngài phán.
4
Ông
Mô-sê đã truyền cho chúng ta một Luật,
là
sở hữu của cộng đồng Gia-cóp.
5
Ở
Giơ-su-run đã có một vua,
khi
các người đứng đầu dân tụ họp, cùng với các chi tộc Ít-ra-en.
6
Ước
gì Rưu-vên sống và không chết,
và
số người ít ỏi của nó tồn tại.
7
Về
Giu-đa, đây là điều ông nói:
Lạy
Ðức Chúa, xin nghe tiếng của Giu-đa,
xin
đưa nó trở về với dân nó,
và
để nó tự tay bảo vệ chính mình,
xin
Ngài phù trợ nó chống lại đối phương.
8
Về
Lê-vi, ông nói:
Thẻ
xăm tum-mim và u-rim của Ngài
thuộc
về kẻ hiếu trung với Ngài,
mà
Ngài đã thử thách tại Ma-xa
và
đã cùng tranh tụng bên dòng nước Mơ-ri-va;
9
nó
là người đã nói về cha mẹ nó: "Tôi không nhìn thấy họ",
anh
em nó, nó không nhìn nhận, con cái nó, nó không biết.
Chi
tộc Lê-vi đã tuân thủ lời Ngài và đã giữ giao ước của Ngài.
10
Họ
dạy những quyết định của Ngài cho nhà Gia-cóp,
luật
của Ngài cho Ít-ra-en.
Họ
dâng hương thơm để Ngài thưởng thức,
và
lễ toàn thiêu trên bàn thờ Ngài.
11
Lạy
Ðức Chúa, xin chúc phúc cho lòng dũng cảm của nó,
xin
Ngài khứng nhận việc tay nó làm;
xin
đập gãy lưng thù địch nó,
và
ước gì những kẻ ghét nó không còn chỗi dậy được! "
12
Về
Ben-gia-min, ông nói:
Là
kẻ được Ðức Chúa yêu thương, nó sống yên hàn ở bên Người,
Ðấng
suốt ngày che chở nó và ngự giữa núi đồi của nó.
13
Về
Giu-se, ông nói:
Ðất
của nó được phúc lành của Ðức Chúa:
ơn
lộc từ trời, là sương móc nhỏ sa,
và
từ vực sâu nằm ở phía dưới;
14
ơn
lộc là những gì trổ sinh dưới ánh mặt trời,
là
những gì mọc lên mỗi tuần trăng;
15
là
sản phẩm hàng đầu của núi non thái cổ,
của
gò nổng thiên thu;
16
là
đất đai và thổ sản của nó,
hồng
ân của Ðấng ngự giữa bụi gai.
Ước
chi những phúc lành ấy xuống trên đầu Giu-se,
trên
đỉnh đầu người được thánh hiến giữa anh em mình!
17
Nó
là con bò mộng đầu lòng của Chúa, chúc nó được vinh hiển!
Sừng
nó là sừng trâu, nó dùng để quật ngã các dân,
một
trật trên khắp cùng cõi đất.
Ðó
là vạn vạn người Ép-ra-im, đó là ngàn ngàn quân Mơ-na-se.
18
Về
Dơ-vu-lun, ông nói:
Hãy
vui mừng, hỡi Dơ-vu-lun, trong các chuyến đi của ngươi,
và
hỡi Ít-xa-kha, trong lều trại của mình.
19
Họ
gọi các dân lên núi, ở đó họ dâng những lễ tế luật truyền;
họ
hút về tài nguyên của biển và các kho tàng ẩn giấu dưới cát.
20
Về
Gát, ông nói: Chúc tụng Ðấng cho Gát được thênh thang!
Như
sư tử cái, nó phục sẵn, nó xé mồi, cả vai lẫn đầu.
21
Nó
coi sản phẩm đầu mùa là của nó,
vì
trong đó có phần dành cho người lãnh đạo;
nó
đến với các người đứng đầu dân,
nó
thực hành sự công chính của Ðức Chúa
và
các quyết định của Người về Ít-ra-en.
22
Về
Ðan, ông nói:
Ðan
là sư tử con chồm lên từ miền Ba-san.
23
Về
Náp-ta-li, ông nói: Náp-ta-li được no đầy hồng ân
và
chứa chan phúc lành của Ðức Chúa;
nó
hãy chiếm phía tây và phía nam.
24
Về
A-se, ông nói:
Ước
gì nó được chúc phúc hơn các người con khác!
Ước
gì nó được anh em mình ưu ái, và được dầm chân trong dầu!
25
Ước
gì then cửa của ngươi bằng sắt bằng đồng,
và
sức mạnh của ngươi bền bỉ như ngày đời ngươi!
26
Hỡi
Giơ-su-run, chẳng có ai như Thiên Chúa,
Người
ngự đến giúp ngươi, lẫm liệt uy hùng,
xa
giá Người là trời cao mây thẳm.
27
Thiên
Chúa của thời thái cổ là một nơi ẩn náu;
dưới
đất này, cánh tay Người đã hành động từ xưa;
Người
xua đuổi kẻ thù cho khuất mắt ngươi,
và
Người phán: "Hãy tiêu diệt.
28
Ít-ra-en
sống yên hàn; suối Gia-cóp là dòng suối biệt lập,
trong
miền đất có lúa mì và rượu mới,
ở
đó, cả trời cũng nhỏ sương.
29
Hỡi
Ít-ra-en, ngươi thật có phúc!
Ai
được như ngươi, hỡi dân được Ðức Chúa cứu?
Người
là thuẫn đỡ cứu giúp ngươi,
là
lưỡi gươm đem lại cho ngươi chiến thắng.
Các
kẻ thù ngươi sẽ nịnh bợ cầu thân,
còn
ngươi sẽ chà đạp các đỉnh cao của chúng."
Chương 34
Ông
Mô-sê qua đời
1
Từ
đồng bằng Mô-áp, ông Mô-sê lên núi Nơ-vô, tới Pít-ga, đối diện với Giê-ri-khô,
và Ðức Chúa cho ông xem thấy tất cả miền đất: miền Ga-la-át cho đến Ðan, 2
tất cả Náp-ta-li, miền đất Ép-ra-im và Mơ-na-se, tất cả miền đất Giu-đa
cho đến Biển Tây, 3 miền Ne-ghép, vùng sông Gio-đan, thung lũng
Giê-ri-khô là thành Chà Là, cho đến Xô-a. 4 Ðức Chúa phán với ông:
"Ðây là miền đất Ta đã thề hứa với Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, khi nói:
"Ta sẽ ban đất ấy cho dòng dõi ngươi. Ta đã cho ngươi thấy tận mắt, nhưng
ngươi sẽ không được qua đó."
5
Ông
Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, qua đời tại đó, trong đất Mô-áp, theo lệnh Ðức
Chúa. 6 Ông được mai táng trong thung lũng, ở miền đất Mô-áp, đối
diện với Bết Pơ-o. Cho đến ngày hôm nay, không ai biết mộ ông ở đâu. 7 Khi
chết, ông Mô-sê thọ một trăm hai mươi tuổi, mắt không mờ, khí lực không giảm. 8
Con cái Ít-ra-en khóc ông Mô-sê trong đồng bằng Mô-áp ba mươi ngày; rồi
những ngày than khóc thọ tang ông Mô-sê chấm dứt. 9 Ông Giô-suê, con
ông Nun, đã được đầy thần khí khôn ngoan, vì ông Mô-sê đã đặt tay trên ông. Con
cái Ít-ra-en nghe ông và làm như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
10
Trong
Ít-ra-en, không còn xuất hiện một ngôn sứ nào như ông Mô-sê, người mà Ðức Chúa
biết rõ, mặt giáp mặt. 11 Ðức Chúa đã sai ông thực hiện mọi điềm
thiêng dấu lạ tại nước Ai-cập, phạt Pha-ra-ô cùng tất cả bề tôi và cả nước. 12
Ông Mô-sê đã biểu dương tất cả sức mạnh bàn tay ông và gây tất cả nỗi
kinh hoàng lớn lao trước mắt toàn thể Ít-ra-en.
Lịch Sử - Đệ Nhị Luật
Giô-suê
Chương 01
I.
Chiếm Ðất Hứa
1.
Chuẩn Bị
Mời
gọi qua Ðất Hứa
1
Sau
khi tôi trung Ðức Chúa là ông Mô-sê qua đời, Ðức Chúa phán với con ông Nun là
ông Giô-suê, phụ tá của ông Mô-sê: 2 "Mô-sê, tôi trung của Ta,
đã chết. Vậy bây giờ, ngươi hãy trỗi dậy! Và cùng với tất cả dân này, qua sông
Gio-đan, mà vào đất Ta ban cho chúng, tức là con cái Ít-ra-en. 3 Mọi
nơi bàn chân các ngươi dẫm lên thì Ta đã ban cho các ngươi rồi, như Ta đã phán
với Mô-sê. 4 Từ sa mạc và dãy Li-băng kia cho đến Sông Cả, nghĩa là
sông Êu-phơ-rát, -tất cả xứ người Khết-, và cho đến Biển Lớn, phía mặt trời
lặn: đó sẽ là lãnh thổ của các ngươi. 5 Mọi ngày đời ngươi, không ai
sẽ đứng vững được trước mặt ngươi. Ta sẽ ở với ngươi như Ta đã ở với Mô-sê; Ta
sẽ không bỏ rơi ngươi, Ta sẽ không ruồng bỏ ngươi.
Trung
tín với Lề Luật: điều kiện để được Thiên Chúa phù trợ
6
"Mạnh
bạo lên, can đảm lên! Vì chính ngươi sẽ cho dân này chiếm đất ấy làm gia
nghiệp, đất mà Ta đã thề với cha ông chúng là Ta sẽ ban cho chúng. 7 Tuy
nhiên, ngươi phải mạnh bạo và rất can đảm, để lo thi hành tất cả Lề Luật, mà
Mô-sê tôi trung của Ta đã truyền dạy ngươi. Ðừng đi trệch bên phải bên trái,
ngoài Lề Luật, để được thành công ở bất cứ nơi nào ngươi đi tới. 8 Chớ
gì sách Luật này đừng rời khỏi miệng ngươi; và ngươi sẽ suy gẫm sách Luật đó
ngày đêm, để lo thi hành tất cả những gì viết trong đó; vì như thế ngươi sẽ
được thịnh đạt trên đường đời, vì như thế ngươi sẽ thành công. 9 Mạnh
bạo lên, can đảm lên! Ðó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Ðừng
run khiếp, đừng sợ hãi, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất
cứ nơi nào ngươi đi tới."
Các
chi tộc bên kia sông Gio-đan tiếp tay
10
Ông
Giô-suê truyền lệnh sau đây cho các ký lục trong dân: 11 "Các
anh hãy rảo khắp trại và truyền cho dân: Hãy chuẩn bị lương thực, vì còn ba
ngày nữa anh em sẽ qua sông Gio-đan kia để vào chiếm đất mà Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh em, cho anh em chiếm hữu."
12
Rồi
ông Giô-suê nói với những người trong chi tộc Rưu-vên, chi tộc Gát và nửa chi
tộc Mơ-na-se: 13 "Anh em hãy nhớ điều ông Mô-sê, tôi trung của
Ðức Chúa, đã truyền cho anh em: Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, cho anh em
được an cư lạc nghiệp khi ban cho anh em đất này. 14 Ðàn bà, con trẻ
và các đàn vật của anh em sẽ ở lại trong phần đất ông Mô-sê đã ban cho anh em
bên kia sông Gio-đan; còn anh em, tất cả các dũng sĩ, hãy võ trang đầy đủ mà
qua trước anh em mình và trợ lực cho họ, 15 cho đến khi Ðức Chúa ban
cho anh em cũng như anh em của anh em được an cư lạc nghiệp, cho đến khi chính
họ cũng chiếm hữu phần đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho họ. Bấy
giờ anh em sẽ trở về phần đất mà anh em đã chiếm hữu. Anh em sẽ chiếm hữu phần
đất mà ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã ban cho anh em bên kia sông
Gio-đan, phía mặt trời mọc.” 16 Họ trả lời ông Giô-suê: "Mọi
điều ngài truyền chúng tôi làm, chúng tôi sẽ làm; mọi nơi ngài sai chúng tôi
đi, chúng tôi sẽ đi. 17 Chúng tôi đã nghe lời ông Mô-sê thế nào, thì
chúng tôi cũng sẽ nghe lời ngài như vậy. Chỉ cầu mong Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngài, ở với ngài, như đã ở với ông Mô-sê! 18 Kẻ nào chống lại mệnh lệnh của
ngài, không nghe bất cứ lời nào ngài truyền dạy, thì sẽ phải bị xử tử. Chỉ có
điều là ngài phải mạnh bạo và can đảm!"
Chương 02
Ông
Giô-suê sai người đi do thám Giê-ri-khô
1
Từ
Sít-tim, ông Giô-suê, con ông Nun, bí mật sai hai người do thám và nói:
"Hãy đi xem vùng đất và thành Giê-ri-khô." Họ đã đi và vào một nhà
một kỹ nữ tên là Ra-kháp; họ nằm lại đó. 2 Người ta nói với vua Giê-ri-khô:
"Ðêm vừa rồi, có vài người trong số con cái Ít-ra-en đã vào đây để thăm dò
vùng đất này.” 3 Vua Giê-ri-khô sai người đến nói với cô Ra-kháp:
"Hãy dẫn ra đây những người đã đến với ngươi, đã vào nhà ngươi, vì họ đã
đến thăm dò toàn vùng đất này.” 4 Nhưng người đàn bà đem hai người
kia đi giấu, rồi nói: "Phải, những người ấy có đến với tôi, nhưng tôi
không biết họ từ đâu đến. 5 Lúc chập tối, khi cửa thành sắp đóng,
thì những người ấy đi ra. Tôi không biết họ đi đâu. Các ông hãy mau mau đuổi
theo họ thì sẽ bắt kịp."
6
Rồi
cô ta đem họ lên sân thượng và giấu họ dưới đống cây gai cô đã xếp ở đó. 7
Các người kia cứ đuổi theo họ trên con đường dẫn tới sông Gio-đan cho đến
chỗ lội qua sông. Và người ta đóng cửa thành lại, sau khi những kẻ đuổi theo đã
ra khỏi đó.
Giao
kèo giữa các người do thám và cô Ra-kháp
8
Họ
chưa kịp nằm xuống, thì cô Ra-kháp lên gặp họ trên sân thượng. 9 Cô
nói với họ: "Tôi biết Ðức Chúa đã ban cho các ông đất này, tôi biết vì các
ông mà nỗi kinh hoàng ập xuống trên chúng tôi, và mọi dân cư trong xứ đều rụng
rời hốt hoảng trước mặt các ông. 10 Vì chúng tôi nghe đồn là Ðức
Chúa đã làm cạn Biển Sậy trước mặt các ông khi các ông ra khỏi Ai-cập; chúng
tôi cũng nghe đồn về những gì các ông đã làm cho hai vua E-mô-ri là Xi-khôn và
Ốc, mà các ông đã tru hiến ở bên kia sông Gio-đan. 11 Khi chúng tôi
nghe đồn, thì tâm thần chúng tôi sợ hãi như muốn chảy tan ra, không ai còn nhuệ
khí trước mặt các ông, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ông, là Thiên Chúa ngự
chốn trời cao cũng như nơi đất thấp. 12 Vậy bây giờ, xin các ông hãy
nhân danh Ðức Chúa mà thề với tôi là: bởi tôi đã lấy tình mà đối xử với các
ông, thì các ông, các ông cũng sẽ lấy tình mà đối xử với gia đình tôi. Các ông
sẽ cho tôi một dấu chắc chắn, 13 đó là các ông sẽ để cho cha mẹ tôi,
các anh chị em tôi và mọi người thân thuộc của họ được sống, các ông sẽ cứu
chúng tôi khỏi chết."
14
Những
người ấy nói với cô Ra-kháp: "Chúng tôi xin thề lấy mạng đền mạng, trừ phi
các người tiết lộ chuyện này! Vậy khi nào Ðức Chúa ban đất này cho chúng tôi,
chúng tôi sẽ lấy chữ tình chữ tín mà đối xử với cô.” 15 Bấy giờ, từ
cửa sổ cô thòng dây cho họ xuống, vì nhà cô sát vách tường thành và cô ở ngay
trong tường thành. 16 Cô nói với họ: "Các ông hãy đi về phía
núi, kẻo những người đuổi theo bắt được các ông. Các ông cứ ẩn núp ở đấy ba
ngày cho đến khi chúng trở về. Sau đó, các ông cứ đường mình mà đi.” 17 Họ
nói với cô: "Ðây là cách chúng tôi sẽ giữ lời mà cô đã yêu cầu chúng tôi
thề: 18 Khi nào chúng tôi vào xứ này, cô sẽ buộc dây chỉ điều này ở
cửa sổ, nơi cô đã thả chúng tôi xuống, rồi cô sẽ tập họp trong nhà, bên cạnh
cô: cha mẹ, các anh chị em và cả nhà cha cô. 19 Bấy giờ, ai bước qua
cửa nhà cô mà ra ngoài, thì máu người ấy sẽ đổ xuống đầu người ấy, chúng tôi vô
can. Nhưng người nào ở trong nhà với cô, thì máu người ấy sẽ đổ xuống đầu chúng
tôi, nếu có ai tra tay hại người ấy. 20 Cô mà tiết lộ chuyện của
chúng tôi, chúng tôi sẽ khỏi phải giữ lời mà cô đã yêu cầu chúng tôi thề.” 21
Cô ấy nói: "Mong được như lời các ông đã nói! " Rồi cô để họ
đi, và họ ra đi. Cô buộc dây chỉ điều ở cửa sổ.
Các
người do thám trở về
22
Họ
lên đường và tiến về phía núi. Họ ở lại đó ba ngày cho đến khi những kẻ đuổi
theo trở về. Những người này đã đi lùng họ trên cả con đường ấy mà không tìm
được. 23 Hai người kia trở về: họ xuống núi, qua sông Gio-đan, rồi
tới gặp ông Giô-suê, con ông Nun, và thuật lại cho ông mọi việc đã xảy ra cho
họ. 24 Họ nói với ông Giô-suê: "Ðức Chúa đã nộp tất cả miền đất
ấy vào tay chúng ta, và mọi dân cư ở đó đều rụng rời hốt hoảng trước mặt chúng
ta."
Chương 03
2.
Qua Sông Gio-Ðan
Chuẩn
bị qua sông
1
Sáng
hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm và họ nhổ trại rời Sít-tim. Ông và toàn thể con
cái Ít-ra-en tới tận sông Gio-đan. Họ đã nghỉ đêm ở đó trước khi qua sông. 2
Sau ba ngày, các ký lục đi khắp trại 3 và truyền lệnh này cho dân:
"Khi thấy Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, và thấy
các tư tế thuộc dòng dõi Lê-vi khiêng Hòm Bia, anh em phải rời chỗ và đi theo
sau Hòm Bia, 4b để biết phải đi đường nào, vì anh em chưa đi qua đường ấy bao giờ.
4a Tuy nhiên, phải giữ một khoảng cách ước chừng một ngàn thước ở giữa anh em
và Hòm Bia: đừng lại gần.” 5 Ông Giô-suê nói với dân: "Anh em
hãy nên thánh, vì ngày mai Ðức Chúa sẽ thực hiện những kỳ công giữa anh em.” 6
Ông Giô-suê nói với các tư tế: "Hãy khiêng Hòm Bia Giao Ước dẫn đầu
dân mà qua sông." Họ khiêng Hòm Bia Giao Ước và đi trước dân.
Những
chỉ thị cuối cùng
7
Ðức
Chúa phán với ông Giô-suê: "Hôm nay, Ta bắt đầu cho ngươi được nên cao
trọng trước mắt toàn thể con cái Ít-ra-en, để chúng biết là Ta sẽ ở với ngươi
như Ta đã ở với Mô-sê. 8 Còn ngươi, ngươi sẽ ra lệnh này cho các tư
tế khiêng Hòm Bia Giao Ước: khi đến bờ sông Gio-đan, các ngươi hãy đứng lại
trong sông Gio-đan.” 9 Ông Giô-suê nói với con cái Ít-ra-en:
"Anh em hãy tiến lại đây và nghe lời của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em.”
10 Rồi ông nói: "Dựa vào điều này, anh em sẽ biết là Thiên Chúa
hằng sống ngự giữa anh em và Người sẽ hoàn toàn đuổi người Ca-na-an, người
Khết, người Khi-vi, người Pơ-rít-di, người Ghia-ga-si, người E-mô-ri, người
Giơ-vút, cho khuất mắt anh em. 11 Này đây, Hòm Bia Giao Ước của Vị
Chúa Tể toàn cõi đất sắp dẫn đầu anh em mà qua sông Gio-đan. 12 Vậy
bây giờ anh em hãy chọn mười hai người trong các chi tộc Ít-ra-en, mỗi chi tộc
một người. 13 Và khi bàn chân các tư tế khiêng Hòm Bia của Ðức Chúa,
Vị Chúa Tể toàn cõi đất, vừa đặt xuống nước sông Gio-đan, thì nước sông
Gio-đan, nước mạn ngược chảy xuống, sẽ bị chặn lại và dừng lại thành một khối
duy nhất."
Qua
sông
14
Khi
dân rời lều để qua sông Gio-đan, thì các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước dẫn đầu
dân. 15 Bấy giờ là mùa gặt; sông Gio-đan tràn ra hai bên bờ suốt mọi
ngày. Lúc những người khiêng Hòm Bia vừa đến sông Gio-đan, và chân các tư tế
khiêng Hòm Bia vừa nhúng vào nước ở ven bờ, 16 thì nước mạn ngược
chảy xuống dừng lại, dựng đứng thành một khối duy nhất trong một khoảng rất
dài, ở A-đam là thành ở cạnh Xác-than; còn nước chảy xuống biển A-ra-va, tức là
Biển Muối, thì bị chặn hẳn lại, và dân đã qua sông, đối diện với Giê-ri-khô. 17
Các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa đứng yên tại chỗ, nơi đất
khô cạn giữa lòng sông Gio-đan, trong khi toàn thể Ít-ra-en qua sông trên đất
khô cạn, cho đến khi toàn dân đã qua hết.
Chương 04
Mười
hai bia kỷ niệm
1
Khi
toàn dân đã qua sông Gio-đan hết, Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: 2 "Hãy
chọn mười hai người trong dân, mỗi chi tộc một người, 3 và truyền
lệnh này cho họ: từ nơi này, từ giữa lòng sông Gio-đan, nơi các tư tế đã đặt
chân lên, anh em hãy lấy đi mười hai tảng đá, đem qua sông với anh em và đặt ở
nơi anh em dừng lại nghỉ ngơi đêm nay.” 4 Ông Giô-suê gọi mười hai
người ông đã chỉ định trong hàng con cái Ít-ra-en, mỗi chi tộc một người. 5
Ông bảo họ: "Hãy đến trước Hòm Bia Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em,
tận giữa lòng sông Gio-đan, và mỗi người vác một tảng đá trên vai, đúng theo số
các chi tộc con cái Ít-ra-en,6 để làm dấu hiệu giữa anh em. Mai ngày khi con
cái anh em hỏi: "Những tảng đá này có nghĩa gì đối với quý vị?, 7 anh
em sẽ trả lời: "Là vì nước sông Gio-đan đã bị chặn lại trước Hòm Bia Giao
Ước của Ðức Chúa; khi Hòm Bia qua sông Gio-đan, nước sông Gio-đan đã bị chặn
lại; và các tảng đá này là bia kỷ niệm đối với con cái Ít-ra-en cho đến muôn
đời.” 8 Con cái Ít-ra-en làm đúng như ông Giô-suê đã truyền: Họ lấy
đi mười hai tảng đá, từ giữa lòng sông Gio-đan, như Ðức Chúa đã phán với ông
Giô-suê, đúng theo số các chi tộc con cái Ít-ra-en; họ đem theo qua sông đến
nơi họ dừng lại, và đặt ở đó. 9 Rồi ông Giô-suê dựng mười hai tảng
đá ở giữa lòng sông Gio-đan, nơi các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước đã đặt chân
lên; các tảng đá ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay.
Sau
khi qua sông
10
Các
tư tế khiêng Hòm Bia đứng giữa lòng sông Gio-đan, cho đến khi tất cả những điều
Ðức Chúa đã truyền cho ông Giô-suê phải nói cho dân được thực hiện, theo đúng
như tất cả những gì ông Mô-sê đã truyền lại cho ông Giô-suê; và dân đã vội vã
qua sông. 11 Vậy khi toàn dân đã qua hết, Hòm Bia của Ðức Chúa cũng
như các tư tế lại dẫn đầu dân. 12 Con cái ông Rưu-vên, con cái ông
Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se, võ trang đầy đủ, dẫn đầu con cái Ít-ra-en, theo
như ông Mô-sê đã nói với họ. 13 Khoảng bốn mươi ngàn người được võ
trang để ra trận, đi qua trước nhan Ðức Chúa, để tiến đánh vùng thảo nguyên
Giê-ri-khô. 14 Ngày ấy, Ðức Chúa đã cho ông Giô-suê nên cao trọng
trước mắt toàn thể Ít-ra-en, và họ kính sợ ông như đã kính sợ ông Mô-sê, mọi
ngày đời ông.
15
Ðức
Chúa phán với ông Giô-suê: 16 "Hãy truyền cho các tư tế khiêng
Hòm Bia Chứng Ước lên khỏi sông Gio-đan.” 17 Và ông Giô-suê đã
truyền cho các tư tế: "Hãy lên khỏi sông Gio-đan.” 18 Vậy, khi
các tư tế khiêng Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa lên khỏi lòng sông Gio-đan, khi
họ vừa nhấc chân đặt lên đất cạn, thì nước sông Gio-đan trở về chỗ cũ và lại
chảy như trước, tràn ra cả hai bên bờ.
Tới
Ghin-gan
19
Dân
chúng lên khỏi sông Gio-đan ngày mồng mười tháng giêng và đóng trại ở Ghin-gan,
phía đông Giê-ri-khô. 20 Ông Giô-suê dựng ở Ghin-gan mười hai tảng
đá mà họ đã lấy từ sông Gio-đan, 21 rồi nói với con cái Ít-ra-en:
"Mai ngày khi con cái anh em hỏi cha ông chúng: "Những tảng đá này có
nghĩa gì?, 22 anh em sẽ bảo cho con cái anh em biết: "Ít-ra-en
đã qua sông Gio-đan này ráo chân. 23 Vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
em, đã làm cạn sông Gio-đan trước mặt anh em cho đến khi anh em đã qua sông,
như Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã làm tại Biển Sậy, khi Người làm cạn
biển trước mặt chúng ta, cho đến khi chúng ta đã qua biển. 24 Như
thế, mọi dân trên mặt đất sẽ biết rằng tay Ðức Chúa mạnh mẽ dường bao, và anh
em sẽ kính sợ Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết mọi ngày."
Chương 05
Các
dân miền tây sông Gio-đan kinh hãi
1
Vậy,
khi tất cả các vua E-mô-ri ở bên kia sông Gio-đan, về phía tây, cũng như mọi
vua Ca-na-an ở vùng duyên hải, nghe tin Ðức Chúa làm cạn sông Gio-đan trước mặt
con cái Ít-ra-en cho đến khi họ qua sông, thì tâm thần họ sợ hãi như muốn chảy
tan ra, họ không còn nhuệ khí nữa trước mặt con cái Ít-ra-en.
Người
Híp-ri chịu cắt bì ở Ghin-gan
2
Khi
ấy, Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: "Ngươi hãy làm những con dao bằng đá
sắc để lại cắt bì một lần nữa cho con cái Ít-ra-en.” 3 Ông Giô-suê
đã làm những con dao bằng đá và cắt bì cho con cái Ít-ra-en ở Gò Da Quy Ðầu.
4
Ðây
là lý do khiến ông Giô-suê làm việc cắt bì này: Toàn thể đám dân đàn ông con
trai ra khỏi Ai-cập, những người tham chiến, đều đã chết dọc đường, trong sa
mạc, sau khi ra khỏi Ai-cập; 5 tất cả đám dân đó, khi ra khỏi
Ai-cập, đều đã chịu cắt bì; còn toàn thể đám dân sinh ở dọc đường, trong sa
mạc, thì không. 6 Vì con cái Ít-ra-en đã đi trong sa mạc bốn mươi
năm, cho đến khi tất cả đám dân đó, tức là những người ra khỏi Ai-cập mà đã
tham chiến, đều bị tiêu diệt; họ đã không nghe lời Ðức Chúa, nên Ðức Chúa thề
với họ là sẽ không cho họ thấy đất Người đã thề với cha ông họ là sẽ ban cho
chúng ta, đất tràn trề sữa và mật. 7 Nhưng Người đã cho con cái họ
sinh ra thay thế họ, và ông Giô-suê đã cắt bì cho chúng. Quả thế, chúng chưa
được cắt bì, vì dọc đường người ta đã không cắt bì cho chúng. 8 Vậy,
khi người ta đã cắt bì cho toàn thể dân chúng rồi, thì chúng ở yên tại chỗ
trong trại cho đến khi lành. 9 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê:
"Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập." Vì
thế, người ta đã gọi tên nơi ấy là Ghin-gan cho đến ngày nay.
Cử
hành lễ Vượt Qua
10
Con
cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong
tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. 11 Hôm sau
lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa
rang, vào đúng ngày đó. 12 Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ
dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy,
họ đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an.
3.
Ðánh Chiếm Giê-Ri-Khô
Thần
hiện
13
Vậy,
khi ở gần Giê-ri-khô, ông Giô-suê ngước mắt nhìn, thì này có người đứng đối
diện với ông, tay cầm gươm trần. Ông Giô-suê đến gần người ấy và nói: "Ông
về phe chúng tôi hay về phe địch?” 14 Người ấy nói: "Không, ta
là tướng chỉ huy đạo binh của Ðức Chúa, bây giờ ta đến. .." Ông Giô-suê
sấp mặt xuống đất, sụp lạy và nói: "Ngài muốn dạy tôi tớ ngài điều gì?” 15
Vị tướng chỉ huy đạo binh của Ðức Chúa nói với ông Giô-suê: "Cởi dép
ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là nơi thánh!" Và ông Giô-suê đã làm như
vậy.
Chương 06
Chiếm
Giê-ri-khô
1
Giê-ri-khô
đóng kín cổng thành, phòng thủ chống lại con cái Ít-ra-en: nội bất xuất, ngoại
bất nhập. 2 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: "Xem đây! Ta nộp vào
tay ngươi thành Giê-ri-khô, vua và các dũng sĩ của thành ấy. 3 Các
ngươi, tất cả những người tham chiến, các ngươi sẽ đi vòng quanh thành, đi
chung quanh thành một lần; (các) ngươi sẽ làm như vậy sáu ngày. 4 Bảy
tư tế sẽ cầm bảy cái tù và bằng sừng cừu đi trước Hòm Bia. Ngày thứ bảy, các
ngươi sẽ đi vòng quanh thành bảy lần, và các tư tế sẽ thổi tù và. 5 Khi
tù và bằng sừng cừu rú lên, khi các ngươi nghe tiếng tù và, thì toàn dân lớn
tiếng hò reo xung trận. Bấy giờ tường thành sẽ sụp đổ tại chỗ; dân chúng ai nấy
cứ thẳng trước mặt mình mà tiến lên."
6
Ông
Giô-suê, con ông Nun, triệu tập các tư tế và nói với họ: "Các ông hãy
khiêng Hòm Bia Giao Ước, và bảy tư tế phải cầm bảy tù và bằng sừng cừu đi trước
Hòm Bia của Ðức Chúa.” 7 Ông nói với dân: "Hãy tiến tới và đi
vòng quanh thành; những người được võ trang hãy qua phía trước Hòm Bia của Ðức
Chúa.” 8 Ðiều đó đã xảy ra như ông Giô-suê đã nói với dân. Bảy tư tế
cầm bảy tù và bằng sừng cừu qua phía trước nhan Ðức Chúa, vừa đi vừa thổi; còn
Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa thì đi sau họ. 9 Quân tiên phong đi
trước các tư tế đang thổi tù và. Quân hậu vệ đi theo sau Hòm Bia. Ai nấy bước
đi theo tiếng tù và.
10
Trước
đó ông Giô-suê đã ra lệnh này cho dân: "Anh em đừng hò reo xung trận, đừng
để ai nghe thấy tiếng anh em, đừng hé môi nói ra lời nào, cho đến ngày tôi bảo
anh em: Hãy hò reo xung trận! Bấy giờ, anh em mới hò reo xung trận."
11
Hòm
Bia Ðức Chúa đi vòng quanh thành, đi một vòng chung quanh, rồi ai nấy trở về
trại và qua đêm tại đó. 12 Sáng hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm, và các
tư tế khiêng Hòm Bia Ðức Chúa. 13 Bảy tư tế cầm bảy tù và bằng sừng
cừu đi trước Hòm Bia Ðức Chúa, vừa đi vừa thổi; quân tiên phong đi trước họ, và
quân hậu vệ theo sau Hòm Bia Ðức Chúa; ai nấy bước đi theo tiếng tù và.
14
Ngày
thứ hai, họ đi vòng quanh thành một lần, rồi trở về trại. Họ làm như vậy sáu
ngày. 15 Ngày thứ bảy, họ dậy sớm khi hừng đông ló rạng, và đi vòng
quanh thành bảy lần cùng theo một cách thức. Chỉ có ngày đó họ mới đi vòng
quanh thành bảy lần. 16 Ðến lần thứ bảy, khi các tư tế thổi tù và,
ông Giô-suê nói với dân: "Hãy hò reo xung trận, vì Ðức Chúa đã nộp thành
cho anh em."
Giê-ri-khô
bị án tru hiến
17
"Thành
và mọi sự trong thành sẽ bị án tru hiến để kính Ðức Chúa, chỉ có cô kỹ nữ
Ra-kháp và mọi người ở với cô trong nhà là sẽ được sống, vì cô đã giấu các sứ
giả chúng ta sai đi. 18 Tuy nhiên, anh em phải đề phòng án tru hiến,
kẻo anh em bị án tru hiến vì lấy đồ vật nào trong số những gì bị án biệt hiến.
Bằng không, anh em sẽ làm cho trại Ít-ra-en phải bị án tru hiến, và như thế anh
em gây tai hoạ cho trại. 19 Tất cả vàng bạc, mọi đồ đồng, đồ sắt sẽ
được thánh hiến cho Ðức Chúa, và được xung vào kho tàng của Ðức Chúa."
20
Bấy
giờ, dân hò reo xung trận, và người ta rúc tù và. Vừa nghe tiếng tù và, dân lớn
tiếng hò reo xung trận, và tường thành sụp đổ tại chỗ. Dân chúng ai nấy cứ
thẳng trước mặt mình mà tiến lên đánh thành, và đã chiếm được. 21 Họ
dùng lưỡi gươm mà thi hành án tru hiến mọi sự trong thành, từ đàn ông cho đến
đàn bà, từ người trẻ cho đến người già, đến cả bò lừa và chiên cừu.
Nhà
cô Ra-kháp thoát nạn
22
Ông
Giô-suê nói với hai người đã đi do thám trong xứ: "Hãy vào nhà người kỹ
nữ, và đem người đàn bà ấy cũng như mọi người thân thuộc của cô ra khỏi đó,
theo như anh em đã thề hứa với cô.” 23 Vậy các người thanh niên do
thám vào nhà cô Ra-kháp, và đem cô ra khỏi đó cùng với cha mẹ, anh em cô và mọi
người thân thuộc của cô; họ đem tất cả thị tộc của cô ra khỏi đó, và cho họ ở
bên ngoài trại Ít-ra-en.
24
Rồi
họ phóng hoả đốt thành cũng như tất cả những gì trong đó; ngoại trừ vàng bạc và
những đồ đồng, đồ sắt, thì người ta nộp vào kho tàng nhà Ðức Chúa. 25 Nhưng
cô kỹ nữ Ra-kháp cùng với gia đình cha cô và mọi người thân thuộc của cô, thì
ông Giô-suê để cho sống. Cô ở giữa dân Ít-ra-en cho đến ngày nay, vì cô đã giấu
sứ giả ông Giô-suê sai đi do thám Giê-ri-khô.
Nguyền
rủa những ai tái thiết Giê-ri-khô
26
Thuở
ấy, ông Giô-suê bắt phải thề rằng:
"Trước
nhan Ðức Chúa, khốn cho kẻ đứng lên
tái
thiết thành Giê-ri-khô này!
Kẻ
nào đào móng dựng nền,
thì
con đầu lòng của nó phải chết;
kẻ
nào dựng cổng xây tường,
thì
con út của nó phải mạng vong!"
27
Ðức
Chúa ở với ông Giô-suê, và danh tiếng đồn ra khắp xứ.
Chương 07
Tội
không thi hành án biệt hiến
1
Nhưng
con cái Ít-ra-en đã can tội không thi hành án biệt hiến: ông A-khan, con ông
Các-mi, cháu ông Dáp-đi, chắt ông De-rác, thuộc chi tộc Giu-đa, đã lấy đồ vật
trong số những thứ bị án biệt hiến. Nên Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ với con cái
Ít-ra-en.
Thất
bại ở thành Ai
2
Từ
Giê-ri-khô, ông Giô-suê sai người đến thành Ai ở gần Bết A-ven, về phía đông
Bết Ên. Ông nói với họ: "Hãy lên do thám xứ ấy!" Họ lên do thám thành
Ai. 3 Họ trở về với ông Giô-suê và nói: "Ðừng đưa cả dân lên!
Chỉ cần khoảng hai hoặc ba ngàn người lên mà đánh thành Ai. Ðừng làm khổ toàn
dân trong vụ này, vì bọn kia không đông mấy!"
4
Vậy
có chừng ba ngàn người trong dân đã lên đó, nhưng họ đã chạy trốn trước mặt
người thành Ai. 5 Người thành Ai đã giết khoảng ba mươi sáu người
của họ. Người thành Ai đuổi theo họ từ đàng trước cổng thành đến Sơ-va-rim, và
đánh bại họ ở chỗ dốc. Tâm thần của dân sợ hãi như muốn chảy tan ra như nước.
Ông
Giô-suê cầu nguyện
6
Ông
Giô-suê xé áo mình ra, và cùng với các kỳ mục Ít-ra-en sấp mặt xuống đất trước
Hòm Bia Ðức Chúa, cho đến chiều. Họ rắc bụi lên đầu. 7 Ông Giô-suê
nói: "Ôi! Lạy Chúa là Ðức Chúa, sao Ngài lại đem dân này qua sông Gio-đan
mà nộp chúng con vào tay người E-mô-ri để huỷ diệt chúng con? Giá chúng con
được định cư bên kia sông Gio-đan, thì có hơn không? 8 Xin đoái thương, lạy
Chúa, con biết nói gì đây, sau khi Ít-ra-en phải quay lưng chạy trốn các địch
thù? 9 Người Ca-na-an và mọi dân cư trong xứ sẽ nghe biết tin này. Họ sẽ quay
lại chống chúng con và xoá tên chúng con khỏi mặt đất. Khi đó, Ngài sẽ làm gì
để chứng tỏ danh Ngài vĩ đại?"
Ðức
Chúa trả lời
10
Ðức
Chúa phán với ông Giô-suê: "Ðứng dậy đi! Sao ngươi cứ sấp mặt xuống đất
như vậy? 11 Ít-ra-en đã phạm tội, hơn nữa, chúng đã vi phạm giao ước mà Ta đã
truyền cho chúng phải giữ; chúng đã dám lấy cả đồ vật bị án biệt hiến, chúng đã
dám lấy trộm, giấu đi và bỏ vào đồ đoàn của chúng! 12 Vì thế, con cái Ít-ra-en
sẽ không thể đương đầu với địch thù của chúng. Chúng sẽ quay lưng chạy trốn các
địch thù, vì chúng đã trở nên những kẻ mang án tru hiến. Ta sẽ không ở với các
ngươi nữa, nếu các ngươi không loại khỏi các ngươi những đồ vật bị án biệt hiến.
13 Ðứng dậy đi! Hãy làm cho dân được nên thánh. Ngươi sẽ nói: Anh em
hãy lo cho mình được nên thánh để chuẩn bị cho ngày mai, vì Ðức Chúa, Thiên
Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Hỡi Ít-ra-en, giữa các ngươi có một đồ vật bị
án biệt hiến. (Các) ngươi sẽ không thể đương đầu với địch thù của (các) ngươi,
bao lâu các ngươi không cất khỏi các ngươi đồ vật ấy. 14 Sáng mai,
các ngươi sẽ tiến đến theo từng chi tộc. Chi tộc nào Ðức Chúa đã dùng thăm mà
chỉ định, sẽ tiến đến theo từng thị tộc. Thị tộc nào Ðức Chúa đã dùng thăm mà
chỉ định, sẽ tiến đến theo từng gia đình. Gia đình nào Ðức Chúa đã dùng thăm mà
chỉ định, sẽ tiến đến từng người một. 15 Kẻ nào bị chỉ định bởi việc
bắt thăm vì có liên quan đến án biệt hiến, thì sẽ bị thiêu cùng với tất cả đồ
vật của nó; vì nó đã vi phạm giao ước của Ðức Chúa, và vì nó đã làm một điều ô
nhục trong Ít-ra-en."
Tìm
được thủ phạm và ra hình phạt
16
Sáng
hôm sau, ông Giô-suê dậy sớm và cho dân Ít-ra-en tiến đến theo chi tộc: chi tộc
Giu-đa bắt trúng thăm. 17 Ông cho các thị tộc Giu-đa tiến đến, và
thị tộc De-rác bắt trúng thăm; ông cho thị tộc De-rác tiến đến theo từng gia
đình; và gia đình Dáp-đi bắt trúng thăm. 18 Ông cho gia đình Dáp-đi
tiến đến từng người một, và A-khan, con ông Các-mi, cháu ông Dáp-đi, chắt ông
De-rác, thuộc chi tộc Giu-đa, bắt trúng thăm.
19
Ông
Giô-suê bảo A-khan: "Này ngươi, hãy tôn vinh Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en, và hãy suy tôn Người! Hãy thú thật với ta những gì ngươi đã làm, đừng
giấu giếm gì cả.” 20 A-khan trả lời ông Giô-suê: "Quả thật, con
đã đắc tội với Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đây là điều con đã làm: 21
Trong số chiến lợi phẩm, con trông thấy một chiếc áo khoác đẹp miền
Sin-a, hai ký bạc và một thỏi vàng cân nặng hơn nửa ký, vì lòng tham, con đã
lấy; các vật ấy được chôn dưới đất, ở giữa lều của con, và bạc thì ở bên
dưới."
22
Ông
Giô-suê sai người chạy tới lều A-khan; quả thật chiếc áo khoác được chôn trong
lều, còn bạc thì ở dưới. 23 Họ lấy tất cả ra khỏi lều, mang về cho
ông Giô-suê và toàn thể con cái Ít-ra-en, rồi đổ ra trước nhan Ðức Chúa.
24
Khi
ấy, ông Giô-suê đem A-khan, con ông De-rác đi, cùng với bạc, áo khoác, nén
vàng, cũng như con trai, con gái, bò lừa, chiên dê, lều trại và tất cả những gì
của nó. Toàn thể Ít-ra-en cùng đi với nó. Người ta đem chúng lên cánh đồng
A-kho.
25
Ông
Giô-suê bảo: "Sao ngươi lại gây hoạ cho chúng ta? Xin Ðức Chúa giáng hoạ
cho ngươi hôm nay!" Toàn thể Ít-ra-en ném đá A-khan. Họ ném đá và thiêu
những gì còn lại.
26
Rồi
người ta chất một đống đá lớn trên A-khan. Ðống đá ấy vẫn còn cho đến ngày nay.
Bấy giờ, Ðức Chúa nguôi cơn thịnh nộ. Vì thế, người ta gọi nơi này là
"cánh đồng A-kho" cho đến ngày nay.
Chương 08
4.
Ðánh Chiếm Thành Ai
Thiên
Chúa truyền lệnh cho ông Giô-suê
1
Ðức
Chúa phán với ông Giô-suê: "Ðừng hãi, đừng sợ! Hãy đem theo ngươi mọi chiến
sĩ. Ðứng dậy đi, tiến lên đánh thành Ai. Xem đây, Ta nộp vào tay ngươi vua
thành Ai, dân, thành và xứ của vua ấy. 2 Ngươi sẽ đối xử với thành
Ai và vua thành ấy như đã đối xử với Giê-ri-khô và vua thành ấy. Các ngươi chỉ
được chiếm cho mình chiến lợi phẩm và thú vật. Ngươi hãy đặt quân mai phục phía
sau thành để tấn công."
Mưu
kế của ông Giô-suê
3
Ông
Giô-suê trỗi dậy, cùng với mọi chiến sĩ lên đánh thành Ai. Ông chọn ba mươi
ngàn dũng sĩ, và đang đêm sai họ đi. 4 Ông ra lệnh này cho họ:
"Xem đây! Anh em sẽ mai phục phía sau thành để tấn công, nhưng đừng ở quá
xa, và tất cả anh em hãy sẵn sàng. 5 Còn tôi và toàn dân ở với tôi,
chúng tôi sẽ tiến lại gần thành. Khi chúng ra nghênh chiến với chúng ta như lần
đầu, chúng tôi sẽ chạy trốn trước mặt chúng. 6 Chúng sẽ chạy ra đuổi
theo chúng tôi, cho đến khi chúng tôi nhử chúng ra xa thành, vì chúng sẽ nói:
"Họ chạy trốn trước mặt chúng ta như lần đầu! Chúng tôi sẽ chạy trốn trước
mặt họ; 7 còn anh em, anh em sẽ đứng lên, rời chỗ mai phục và chiếm
thành. Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ nộp thành vào tay anh em. 8 Vậy
sau khi đoạt được thành, anh em sẽ phóng hoả đốt thành. Anh em phải làm theo
lời Ðức Chúa. Hãy coi! Ðó là mệnh lệnh tôi truyền cho anh em."
9
Ông
Giô-suê sai họ đi; họ đi đến chỗ mai phục và núp ở giữa Bết Ên và Ai, về phía
tây của thành, còn ông Giô-suê thì qua đêm ở giữa dân. 10 Sáng hôm
sau, ông Giô-suê dậy sớm, duyệt lại hàng ngũ của dân. Ông và các kỳ mục
Ít-ra-en tiến lên, đi trước dân để tấn công thành Ai. 11 Mọi chiến
sĩ ở với ông thì đi lên, tiến tới. Ðến trước mặt thành Ai, họ đóng trại ở phía
bắc thành, giữa họ và thành có một thung lũng. 12 Ông lấy chừng năm
ngàn người, cho họ mai phục giữa Bết Ên và Ai, phía tây thành. 13 Khi
dân đã dàn trận ở phía bắc thành, và đặt hậu quân ở phía tây, thì đêm ấy ông
Giô-suê đi ra giữa cánh đồng.
Cuộc
đánh chiếm thành Ai
14
Vua
thành Ai thấy thế, thì sáng hôm sau, vua và toàn dân trong thành vội vàng dậy
sớm, ra nghênh chiến với Ít-ra-en ở chỗ đã định, đối diện với A-ra-va. Nhưng
ông không biết là có quân mai phục đang chờ ông đằng sau thành. 15 Ông
Giô-suê và toàn dân Ít-ra-en để cho quân địch đánh, và họ tháo chạy về phía sa
mạc. 16 Toàn dân trong thành tập họp lại, đuổi theo. Chúng đuổi theo
ông Giô-suê và bị nhử ra xa thành. 17 Không một người nào trong
thành Ai và Bết Ên mà không chạy ra rượt theo Ít-ra-en, chúng để thành bỏ ngỏ
mà đuổi theo Ít-ra-en. 18 Ðức Chúa phán với ông Giô-suê: "Hãy
giơ ngọn lao ngươi đang cầm trong tay hướng về thành Ai, vì Ta sẽ nộp thành ấy
vào tay ngươi." Ông Giô-suê giơ ngọn lao đang cầm trong tay về phía thành.
19 Ông vừa giơ tay lên thì quân mai phục vội vàng trỗi dậy, rời khỏi
chỗ núp. Họ chạy vào và chiếm thành rồi vội vàng phóng hoả đốt thành.
20
Người
thành Ai quay lại, nhìn thấy khói từ thành bốc lên trời. Chúng không còn sức
chạy trốn đàng nào nữa, vì những người Ít-ra-en đang chạy trốn vào sa mạc quay
lại đánh những kẻ đuổi theo họ. 21 Thấy quân mai phục chiếm được
thành và thấy khói từ thành bốc lên, ông Giô-suê và toàn thể Ít-ra-en trở lại
đánh người thành Ai. 22 Những người khác ra khỏi thành đón đường
chúng, khiến chúng lọt vào giữa Ít-ra-en, bị chận cả hai đầu. Ít-ra-en giết
chúng, không để sót một tên, không để thoát một mống. 23 Vua thành
Ai bị bắt sống và bị điệu tới ông Giô-suê. 24 Khi Ít-ra-en đã giết
sạch dân thành Ai, kẻ ở ngoài đồng, cũng như kẻ ở trong sa mạc là nơi chúng
đuổi theo họ, khi tất cả, cho đến tên cuối cùng, đã ngã gục dưới lưỡi gươm, thì
toàn thể Ít-ra-en trở về thành Ai và dùng lưỡi gươm giết chúng. 25 Số
những kẻ ngã gục trong ngày đó, đàn ông cũng như đàn bà, tất cả lên tới mười
hai ngàn, mọi người đều là dân thành Ai.
Án
tru diệt và cuộc tàn phá thành Ai
26
Ông
Giô-suê cứ giơ tay cầm lao, không hạ xuống cho đến khi ông thi hành án tru diệt
tất cả thành Ai. 27 Người Ít-ra-en chỉ chiếm cho mình thú vật và
chiến lợi phẩm của thành ấy, theo lệnh Ðức Chúa đã truyền cho ông Giô-suê.
28
Ông
Giô-suê đã đốt thành Ai, khiến nó mãi mãi là một nơi điêu tàn, một chốn hoang
vu vẫn còn đến ngày nay. 29 Ông cho treo cổ vua thành Ai trên cây
cho đến chiều. Nhưng khi mặt trời lặn, ông ra lệnh hạ xác xuống khỏi cây và
quăng ở cửa thành. Người ta chất trên y một đống đá lớn vẫn còn cho đến ngày
nay.
5.
Dâng Hy Lễ Và Ðọc Sách Luật Trên Núi Ê-Van
Bàn
thờ bằng đá nguyên vẹn
30
Bấy
giờ, ông Giô-suê dựng bàn thờ kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, trên núi
Ê-van, 31 theo lệnh ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã truyền cho
con cái Ít-ra-en, như đã chép trong Sách Luật Mô-sê: đó là một bàn thờ bằng đá
nguyên vẹn, chưa có đồ sắt chạm tới. Trên đó, người ta dâng lễ toàn thiêu kính
Ðức Chúa và dâng lễ kỳ an.
Ðọc
Sách Luật
32
Ông
Giô-suê cho khắc bản sao Luật Mô-sê trên những tảng đá; ông Mô-sê đã viết Luật
đó trước mặt con cái Ít-ra-en. 33 Toàn thể Ít-ra-en, các bậc kỳ mục,
kinh sư và thẩm phán đều đứng hai bên Hòm Bia, đối diện với các tư tế Lê-vi
khiêng Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, người ngoại kiều cũng như người bản xứ,
một nửa đứng trước núi Gơ-ri-dim, một nửa đứng trước núi Ê-van, để theo lệnh
ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, dân Ít-ra-en được chúc phúc trước. 34 Sau
đó, ông Giô-suê đọc mọi lời của Lề Luật, - những lời chúc phúc và những lời
nguyền rủa -, theo như mọi điều đã ghi trong Sách Luật. 35 Không có
lời nào ông Mô-sê đã truyền viết ra, mà ông Giô-suê lại không đọc trước mặt
toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, gồm cả đàn bà, trẻ con và ngoại kiều cùng đi chung
với họ.
Chương 09
6.
Hiệp Ước Giữa Ít-Ra-En Và Người Ghíp-Ôn
Liên
minh chống Ít-ra-en
1
Nghe
tin ấy, tất cả các vua ở bên kia sông Gio-đan, trên miền núi, trong miền
Sơ-phê-la và ở vùng ven Biển Lớn cho đến tận Li-băng: các vua Khết, E-mô-ri,
Ca-na-an, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút, 2 hợp nhau để cùng chiến đấu
chống lại ông Giô-suê và Ít-ra-en.
Mưu
của người Ghíp-ôn
3
Người
Ghíp-ôn nghe biết những gì ông Giô-suê đã làm cho Giê-ri-khô và Ai, 4 thì
cũng dùng mưu. Chúng lên đường, mang theo lương thực, và cho lừa chở những
chiếc bị cũ, những bầu rượu bằng da cũ, thủng và được vá lại, 5 chân
mang dép cũ được khâu lại, mình mặc quần áo cũ; tất cả bánh dự trữ đều khô
cứng, nát vụn.
6
Chúng
đi gặp ông Giô-suê ở trại Ghin-gan; chúng nói với ông và người Ít-ra-en:
"Chúng tôi từ nơi xa đến, vậy bây giờ xin các ông ký hiệp ước với chúng
tôi.” 7 Người Ít-ra-en mới nói với người Khi-vi: "Biết đâu
(các) ông lại chẳng sống ngay giữa chúng tôi, thì (chúng) tôi ký hiệp ước với
các ông làm gì?” 8 Chúng nói với ông Giô-suê: "Chúng tôi là tôi
tớ của ông." Ông Giô-suê nói: "Các ông là ai, và từ đâu đến?” 9 Chúng
đáp: "Nghe biết danh tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, các tôi tớ của
ông đã từ một nước rất xa đến đây. Vì chúng tôi đã nghe nói về Người, về tất cả
những gì Người đã làm bên Ai-cập, 10 và về tất cả những gì Người đã
giáng cho hai vua người E-mô-ri ở bên kia sông Gio-đan, nghĩa là cho Xi-khôn,
vua Khét-bôn, và Ốc, vua Ba-san, ở Át-ta-rốt. 11 Các bậc kỳ mục của
chúng tôi và mọi người dân trong nước đã nói với chúng tôi: "Các anh hãy
mang theo lương thực đi đường mà đi đón họ; hãy nói với họ: Chúng tôi là tôi tớ
của các ông; vậy bây giờ xin các ông ký hiệp ước với chúng tôi. 12 Bánh
của chúng tôi đây này: khi chúng tôi đem ra khỏi nhà làm lương thực, ngày chúng
tôi ra đi để đến với các ông, nó còn nóng hổi, mà bây giờ nó đã khô cứng, nát
vụn! 13 Những bầu rượu kia, khi chúng tôi đổ đầy rượu vào, thì hãy còn mới, mà
nay đã thủng; quần áo và giày dép của chúng tôi đây đã cũ vì đường sá xa xôi.” 14
Người Ít-ra-en nhận một phần lương thực dự trữ ấy mà không thỉnh ý Ðức
Chúa qua lời sấm. 15 Ông Giô-suê để chúng được bình an, và ký hiệp
ước bảo đảm tính mạng của chúng. Và những người lãnh đạo cộng đồng thề ước với
chúng.
16
Ba
ngày sau khi ký hiệp ước với chúng, người Ít-ra-en nghe biết chúng là người
láng giềng và sống giữa họ. 17 Con cái Ít-ra-en rời nơi đó mà vào
thành của chúng ngày thứ ba; thành của chúng là Ghíp-ôn, Cơ-phi-ra, Bơ-ê-rốt,
Kia-giát Giơ-a-rim. 18 Con cái Ít-ra-en không giết chúng, vì các
người lãnh đạo cộng đồng đã thề ước với chúng nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa
của Ít-ra-en; nhưng toàn thể cộng đồng đã kêu trách những người lãnh đạo.
Quy
chế cho người Ghíp-ôn
19
Mọi
người lãnh đạo nói với toàn thể cộng đồng: "Chúng tôi đã nhân danh Ðức
Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, mà thề; nên bây giờ chúng ta không được đụng tới
chúng. 20 Chúng ta sẽ đối xử với chúng như thế này: Chúng ta sẽ để
cho chúng sống, và cơn thịnh nộ sẽ không giáng xuống chúng ta, vì chúng ta đã
thề ước với chúng như vậy.” 21 Những người lãnh đạo nói tiếp:
"Cứ để chúng sống, nhưng chúng phải chặt củi, múc nước cho toàn thể cộng
đồng." Những người lãnh đạo đã nói với chúng như thế. 22 Ông
Giô-suê triệu tập chúng lại và nói: "Tại sao các người đã lừa dối chúng
tôi mà nói: "Chúng tôi ở rất xa các ông", trong khi các người sống
giữa chúng tôi? 23 Bây giờ, các người là những kẻ bị nguyền rủa, tất cả các
người sẽ mãi mãi làm nô lệ, làm người chặt củi, múc nước cho Nhà của Thiên Chúa
tôi.” 24 Chúng trả lời ông Giô-suê: "Người ta đã kể đi kể lại
cho các tôi tớ ngài đây lệnh mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, đã truyền cho ông
Mô-sê, tôi trung của Người, là trao cho các ông tất cả xứ sở, và tiêu diệt
trước mặt các ông toàn thể dân cư trong xứ. Chúng tôi đã sợ cho tính mạng của
chúng tôi, chúng tôi rất sợ các ông, nên chúng tôi đã làm điều ấy. 25 Vậy
bây giờ chúng tôi đang ở trong tay ông, ông cứ đối xử với chúng tôi như ông
nghĩ thế nào là hay là phải!” 26 Ông đã đối xử với chúng như thế
này: ông đã cứu chúng khỏi tay con cái Ít-ra-en, và họ đã không giết chúng. 27
Nhưng ngày ấy ông Giô-suê bắt chúng chặt củi, múc nước để phục vụ cộng
đồng và bàn thờ của Ðức Chúa cho đến ngày nay, ở nơi Người sẽ chọn.
Chương 10
7.
Liên Minh Năm Vua E-Mô-Ri.
Ðánh
Chiếm Miền
Năm
vua đánh Ghíp-ôn
1
A-đô-ni
Xe-đéc, vua Giê-ru-sa-lem, nghe tin ông Giô-suê đã chiếm thành Ai, đã tru hiến
thành này, đã đối xử với thành Ai và vua thành này như với Giê-ri-khô và vua
thành ấy. Vua cũng nghe tin dân thành Ghíp-ôn đã cầu hoà với Ít-ra-en và đang
sống giữa Ít-ra-en. 2 Khi đó người ta hết sức sợ hãi, bởi vì Ghíp-ôn
là một thành lớn như một kinh thành. Quả thế, thành đó lớn hơn thành Ai, và mọi
người trong thành đều là những tay anh hùng. 3 A-đô-ni Xe-đéc, vua
Giê-ru-sa-lem, sai người đến nói với Hô-ham, vua Khép-rôn, với Pia-am, vua
Giác-mút, với Gia-phia, vua La-khít, và với Ðơ-via, vua Éc-lon: 4 "Xin
quý vị lên với tôi và cứu viện cho tôi, để chúng ta cùng đánh Ghíp-ôn, vì
Ghíp-ôn đã cầu hoà với Giô-suê và con cái Ít-ra-en.” 5 Năm vua
E-mô-ri là vua Giê-ru-sa-lem, vua Khép-rôn, vua Giác-mút, vua La-khít, vua
Éc-lon, đem quân liên minh với nhau và cùng đi lên. Họ bao vây Ghíp-ôn và tấn
công thành ấy.
Ông
Giô-suê đến cứu viện Ghíp-ôn
6
Dân
thành Ghíp-ôn đến trại Ghin-gan nói với ông Giô-suê: "Xin ngài đừng từ
chối tiếp tay cho các tôi tớ ngài. Xin ngài sớm lên với chúng tôi, giải thoát
chúng tôi, cứu viện chúng tôi, vì tất cả các vua E-mô-ri ở miền núi đều hợp
nhau chống lại chúng tôi.” 7 Ông Giô-suê rời Ghin-gan mà đi lên,
cùng với tất cả chiến sĩ và dũng sĩ. 8 Ðức Chúa phán với ông
Giô-suê: "Ðừng sợ chúng, vì Ta đã nộp chúng vào tay ngươi, không ai trong
bọn chúng sẽ đứng vững trước mặt ngươi.” 9 Sau khi từ Ghin-gan đi
lên suốt cả một đêm, ông Giô-suê bất thình lình đến nơi chúng đóng quân.
Ơn
trên phù hộ
10
Ðức
Chúa làm cho chúng tán loạn trước mặt Ít-ra-en. Và Ít-ra-en đã làm cho chúng
đại bại ở Ghíp-ôn. Họ đuổi theo chúng lên phía đèo Bết Khô-rôn, và đánh giết
chúng mãi cho đến A-dê-ca, cho đến Mác-kê-đa. 11 Khi chúng chạy trốn
trước mặt Ít-ra-en đến chân đèo Bết Khô-rôn, thì từ trời, Ðức Chúa cho rơi
những hòn đá lớn xuống trên chúng mãi cho đến A-dê-ca, khiến chúng phải chết.
Chúng chết vì cơn mưa đá nhiều hơn là vì gươm con cái Ít-ra-en giết. 12 Bấy
giờ, trong ngày Ðức Chúa nộp người E-mô-ri cho con cái Ít-ra-en, ông Giô-suê
thưa chuyện với Ðức Chúa. Trước mặt con cái Ít-ra-en, ông nói:
"Hỡi
mặt trời, hãy dừng lại trên thành Ghíp-ôn;
hỡi
mặt trăng, hãy dừng lại trên thung lũng Ai-gia-lôn!"
13
Mặt
trời liền dừng lại, mặt trăng lập tức đứng lại, cho đến khi dân đã trị tội các
địch thù.
14
Trước
đó và từ đó về sau, không có hôm nào như hôm ấy, ÐỨC CHÚA nghe lời một người
phàm, vì Ðức Chúa chiến đấu cho Ít-ra-en. 15 Ông Giô-suê và toàn dân
Ít-ra-en trở về trại ở Ghin-gan.
Năm
vua trốn trong hang Mác-kê-đa
16
Năm
vua đó tẩu thoát và trốn vào hang Mác-kê-đa. 17 Người ta báo tin cho
ông Giô-suê rằng: "Ðã tìm thấy năm vua trốn trong hang Mác-kê-đa.” 18
Ông Giô-suê nói: "Hãy lăn những tảng đá lớn để lấp cửa hang, và đặt
người ở đó canh giữ chúng. 19 Còn anh em, đừng đứng lại, hãy đuổi
theo kẻ thù, chặn đường triệt thoái, đừng cho chúng vào lại các thành của
chúng, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã nộp chúng vào tay anh em."
20
Sau
khi ông Giô-suê và con cái Ít-ra-en làm cho chúng hoàn toàn đại bại đến mức tận
tuyệt - trừ ít người trốn thoát vào được thành kiên cố của chúng -, 21 thì
toàn dân mới an toàn trở về trại với ông Giô-suê ở Mác-kê-đa; không một ai dám
hé môi nói phạm đến con cái Ít-ra-en.
22
Ông
Giô-suê nói: "Mở cửa hang, đem năm vua ấy ra đây cho tôi.” 23 Họ
đã làm như thế: họ đem năm vua ấy ra khỏi hang cho ông. Ðó là vua
Giê-ru-sa-lem, vua Khép-rôn, vua Giác-mút, vua La-khít, vua Éc-lon. 24 Khi
họ đã đem các vua ấy ra cho ông Giô-suê, thì ông triệu tập tất cả những người
Ít-ra-en lại, và nói với những tướng lãnh các chiến sĩ tháp tùng ông:
"Tiến lại gần đây, đặt chân lên cổ các vua này." Họ tiến lại gần và
đặt chân họ lên cổ chúng. 25 Ông Giô-suê nói: "Ðừng hãi, đừng
sợ; mạnh bạo lên, can đảm lên! Vì Ðức Chúa sẽ xử như thế này với mọi địch thù
mà anh em sẽ phải nghênh chiến.” 26 Sau đó, ông Giô-suê cho đánh và
giết chết chúng, rồi treo lên năm ngọn cây. Chúng bị treo trên cây cho đến
chiều.
27
Khi
mặt trời lặn, ông Giô-suê truyền hạ chúng xuống khỏi cây. Người ta quăng chúng
vào hang, nơi chúng đã trốn, và người ta đặt những tảng đá lớn nơi cửa hang.
Những tảng đá ấy còn mãi cho đến ngày nay.
Chiếm
các thành miền nam Ca-na-an
28
Ngày
hôm ấy, ông Giô-suê chiếm được Mác-kê-đa và dùng lưỡi gươm chém giết dân trong
thành cũng như vua của chúng. Ông tru hiến chúng cũng như mọi sinh vật trong
đó, không để một mạng nào sống sót. Ông đã xử với vua Mác-kê-đa như đã xử với
vua Giê-ri-khô.
29
Rồi
ông Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời Mác-kê-đa mà qua Líp-na. Ông giao
chiến với Líp-na. 30 Ðức Chúa cũng đã nộp Líp-na và cả vua thành ấy
vào tay Ít-ra-en. Ít-ra-en đã dùng lưỡi gươm chém giết dân trong thành cũng như
mọi sinh vật trong đó, không để một mạng nào sống sót. Ông đã xử với vua thành
đó như đã xử với vua thành Giê-ri-khô.
31
Ông
Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời Líp-na mà qua La-khít. Ông vây hãm và
tấn công thành. 32 Ðức Chúa nộp La-khít vào tay Ít-ra-en. Ít-ra-en
chiếm thành đó vào ngày thứ hai, và dùng lưỡi gươm chém giết dân trong thành
cũng như mọi sinh vật trong đó, y như đã xử với Líp-na. 33 Bấy giờ,
Hô-ram, vua Ghe-dê, lên cứu viện cho La-khít, nhưng ông Giô-suê đánh bại nó
cũng như dân của nó, đến nỗi không để một mạng nào sống sót. 34 Ông
Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời La-khít mà qua Éc-lon. Họ vây hãm và tấn
công thành. 35 Ngày ấy, họ chiếm thành và dùng lưỡi gươm chém giết
dân trong thành. Ngày ấy, ông tru hiến mọi sinh vật trong đó, y như đã xử với
La-khít.
36
Ông
Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en rời Éc-lon mà lên Khép-rôn. Họ tấn công
Khép-rôn. 37 Họ chiếm thành và dùng lưỡi gươm chém giết dân trong
thành, cũng như vua của thành đó, mọi thị trấn phụ thuộc và mọi sinh vật trong
đó. Ông không để một mạng nào sống sót, y như đã xử với Éc-lon. Ông tru hiến
thành ấy cũng như mọi sinh vật trong đó.
38
Ông
Giô-suê cùng với toàn thể Ít-ra-en quay sang Ðơ-via và tấn công thành đó. 39
Ông chiếm được thành Ðơ-via, bắt được vua, và chiếm mọi thị trấn phụ
thuộc của thành ấy. Họ đã dùng lưỡi gươm chém giết chúng và tru hiến mọi sinh
vật trong đó. Ông không để một mạng nào sống sót. Ông Giô-suê đã xử với thành
Khép-rôn, với Líp-na và vua của các thành ấy thế nào, thì cũng xử với Ðơ-via và
vua của thành ấy như vậy.
Tổng
kết về các cuộc chinh phục miền nam
40
Ông
Giô-suê đánh chiếm toàn xứ: miền núi, miền Ne-ghép, miền Sơ-phê-la, các Sườn
Núi, và giết tất cả các vua. Ông không để một mạng nào sống sót. Ông tru hiến
tất cả những gì có sinh khí, theo mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en. 41 Ông Giô-suê đánh chúng từ Ca-đê Bác-nê-a cho đến Ga-da,
cũng như toàn xứ Gô-sen cho đến Ghíp-ôn. 42 Ông Giô-suê đã giết tất
cả các vua đó, và chiếm đất của chúng, chỉ trong một trận đánh, vì Ðức Chúa,
Thiên Chúa của Ít-ra-en, đã chiến đấu cho Ít-ra-en. 43 Ông Giô-suê
và toàn thể Ít-ra-en trở về trại, ở Ghin-gan.
Chương 11
8.
Chinh Phục Miền Bắc Pa-Lét-Tin
Các
vua miền bắc liên minh với nhau
1
Khi
nghe tin đó, Gia-vin, vua Kha-xo, sai người đến với Giô-váp, vua Ma-đôn, với
Sim-rôn, vua Ác-sáp, 2 với các vua ở phía bắc trong miền núi và miền
A-ra-va phía nam Kin-na-rốt, trong miền Sơ-phê-la và trên mạn ngược Ðo, ở phía
tây, 3 với người Ca-na-an ở phía đông và phía tây, với người
E-mô-ri, Khết, Pơ-rít-di, Giơ-vút trên miền núi và Khi-vi ở dưới chân Khéc-môn,
trong xứ Mít-pa. 4 Chúng ra đi, chúng và tất cả các binh sĩ của
chúng, một đám dân đông đảo, nhiều như cát ngoài bãi biển, cùng với vô số ngựa
xe.
Chiến
thắng ở Mê-rôm
5
Tất
cả các vua đó liên minh với nhau thành một khối, kéo nhau đến đóng trại gần bờ
suối ở Mê-rôm, để giao chiến với Ít-ra-en. 6 Ðức Chúa phán với ông
Giô-suê: "Ðừng sợ chúng, vì ngày mai cũng vào giờ này, Ta sẽ nộp thây của
tất cả bọn chúng cho Ít-ra-en; ngươi sẽ chặt nhượng chân ngựa và phóng hoả đốt
chiến xa của chúng.” 7 Ông Giô-suê và mọi chiến sĩ bất thình lình ập
tới gần chúng ở bờ suối Mê-rôm và xông vào đánh. 8 Ðức Chúa nộp
chúng vào tay Ít-ra-en. Dân Ít-ra-en đánh chúng và đuổi theo chúng cho đến
Xi-đôn Ðại đô, cho đến Mít-rơ-phốt Ma-gim, và cho đến thung lũng Mít-pê, ở phía
đông, họ đánh chúng tới mức không để một mạng nào sống sót. 9 Ông
Giô-suê xử với chúng như Ðức Chúa đã phán với ông: Ông đã chặt nhượng chân ngựa
và phóng hoả đốt chiến xa.
Chiếm
Kha-xo và các thành khác ở phía bắc
10
Thuở
ấy, ông Giô-suê trở về, chiếm Kha-xo và dùng gươm giết vua thành đó, vì trước
kia Kha-xo là thủ đô của các vương quốc đó. 11 Họ dùng lưỡi gươm
chém giết mọi sinh vật trong thành, tru hiến chúng; không còn một sinh vật nào
sót lại; và ông đã phóng hoả đốt Kha-xo.
12
Ông
Giô-suê chiếm mọi thành của các vua đó và dùng lưỡi gươm chém giết tất cả các
vua của những thành đó. Ông tru hiến chúng, như ông Mô-sê tôi trung của Ðức
Chúa đã truyền.
13
Nhưng
Ít-ra-en không đốt thành nào xây dựng trên gò phế tích; chỉ có ông Giô-suê đốt
Kha-xo mà thôi. 14 Con cái Ít-ra-en chiếm cho mình mọi chiến lợi
phẩm của các thành ấy và thú vật; nhưng họ dùng lưỡi gươm chém giết mọi người,
đến mức tiêu diệt hết, không để một sinh vật nào sống sót.
Ông
Giô-suê thi hành mệnh lệnh của ông Mô-sê
15
Những
gì Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê, tôi trung của Người, thì ông Mô-sê truyền
lại cho ông Giô-suê, và ông Giô-suê đã làm như vậy. Ông không bỏ sót một điều
gì Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
Tổng
kết về các cuộc chinh phục miền bắc
16
Thế
là ông Giô-suê đã chiếm toàn xứ đó: miền núi, tất cả miền Ne-ghép, tất cả đất
Gô-sen, miền Sơ-phê-la, miền A-ra-va, miền núi Ít-ra-en và đồng bằng của miền
đó.
17
Từ
núi Trọc đi lên Xê-ia cho đến Ba-an Gát trong thung lũng Li-băng dưới chân núi
Khéc-môn, ông bắt được các vua của chúng, cho đánh và giết chết. 18 Trong
nhiều ngày, ông Giô-suê giao chiến với tất cả các vua đó. 19 Không
một thành nào làm hoà với con cái Ít-ra-en, ngoại trừ người Khi-vi cư ngụ ở
Ghíp-ôn. Nhờ chiến đấu, con cái Ít-ra-en đã lấy được mọi thành. 20 Quả
thế, Ðức Chúa đã quyết định làm cho dân ấy cứng lòng mà nghênh chiến với
Ít-ra-en, để Ít-ra-en tru hiến chúng, không ân xá cho chúng, và làm cho chúng
phải bị tiêu diệt, như Ðức Chúa đã truyền cho ông Mô-sê.
Ðánh
đuổi người A-nác
21
Thuở
ấy, ông Giô-suê đến đánh đuổi người A-nác khỏi miền núi: Khép-rôn, Ðơ-via,
A-náp, khỏi tất cả miền núi Giu-đa và Ít-ra-en. Ông Giô-suê tru hiến chúng và
các thành của chúng. 22 Không còn sót lại một người A-nác nào nữa
trong đất con cái Ít-ra-en, ngoại trừ ở Ga-da, Gát và Át-đốt. 23 Ông
Giô-suê chiếm trọn đất ấy y như Ðức Chúa đã phán với ông Mô-sê. Ông Giô-suê đã
ban đất ấy làm gia nghiệp cho Ít-ra-en, để các chi tộc chia nhau.
Và
xứ sở được sống yên hàn, hết nạn chiến tranh.
Chương 12
9.
Tổng Kết Về Cuộc Chiến Thắng
Các
Vua Ở Hai Bên Sông Gio-Ðan
Các
vua bại trận ở phía đông sông Gio-đan
1
Ðây
là các vua trong xứ đã bị con cái Ít-ra-en đánh bại và chiếm đất, bên kia sông
Gio-đan, phía mặt trời mọc, từ suối Ác-nôn đến núi Khéc-môn, và tất cả miền
A-ra-va ở phía đông: 2 Xi-khôn, vua E-mô-ri, đóng đô tại Khét-bôn.
Vua này cai trị vùng đất từ A-rô-e trên bờ suối Ác-nôn, kể cả lòng suối, một
nửa Ga-la-át, cho đến suối Giáp-bốc, ranh giới của con cái Am-mon; 3 miền
A-ra-va cho đến phía đông biển Kin-ne-rét, và cho đến phía đông biển A-ra-va,
-tức là Biển Muối, theo hướng Bết Ha Giơ-si-mốt, nằm ở phía nam chân núi
Pít-ga.
4
Rồi
Ốc, vua Ba-san, một người còn sống sót của dân Ra-pha, đóng đô tại Át-ta-rốt và
Ét-re-i. 5 Vua này cai trị miền núi Khéc-môn, Xan-kha và toàn miền
Ba-san cho đến ranh giới của người Gơ-sua và Ma-a-kha, và một nửa Ga-la-át cho
đến ranh giới của Xi-khôn, vua Khét-bôn. 6 Ông Mô-sê, tôi trung của
Ðức Chúa, và con cái Ít-ra-en đánh bại chúng. Ông Mô-sê, tôi trung của Ðức
Chúa, đã cho những người thuộc các chi tộc Rưu-vên, Gát và một nửa chi tộc
Mơ-na-se được chiếm đất của chúng làm sở hữu.
Các
vua bại trận ở phía tây sông Gio-đan
7
Và
sau đây là các vua trong xứ đã bị ông Giô-suê và con cái Ít-ra-en đánh bại bên
kia sông Gio-đan, ở phía tây, từ Ba-an Gát trong thung lũng Li-băng cho đến núi
Trọc đứng trên đường đi Xê-ia, và ông Giô-suê đã cho các chi tộc Ít-ra-en được
chiếm làm sở hữu để chia nhau: 8 trên miền núi, trong miền
Sơ-phê-la, tại A-ra-va, ở các Sườn Núi, trong sa mạc vùng Ne-ghép, nơi các
người Khết, E-mô-ri, Ca-na-an, Pơ-rít-di, Khi-vi và Giơ-vút:
9
Vua
Giê-ri-khô, một; vua Ai, bên cạnh Bết Ên, một,
10
vua
Giê-ru-sa-lem, một; vua Khép-rôn, một,
11
vua
Giác-mút, một; vua La-khít, một,
12
vua
Éc-lon, một; vua Ghe-de, một,
13
vua
Ðơ-via, một; vua Ghe-đe, một,
14
vua
Khoóc-ma, một; vua A-rát, một,
15
vua
Líp-na, một; vua A-đu-lam, một,
16
vua
Mác-kê-đa, một; vua Bết Ên, một,
17
vua
Táp-pu-ác, một; vua Khê-phe, một,
18
vua
A-phếch, một; vua La-sa-rôn, một,
19
vua
Ma-đôn, một; vua Kha-xo, một,
20
vua
Sim-rôn Mơ-rôn, một; vua Ác-sáp, một,
21
vua
Ta-nác, một; vua Mơ-ghít-đô, một,
22
vua
Ke-đét, một; vua Gióc-nơ-am núi Các-men, một,
23
vua
Ðo ở mạn ngược Ðo, một; vua Gô-gim ở Ghin-gan, một,
24
vua
Tia-xa, một; số tất cả các vua là ba mươi mốt.
Chương 13
II.
Phân Chia Ðất Ðai Cho Các Chi Tộc
1.
Mệnh Lệnh Của Thiên Chúa
Những
vùng đất còn phải chiếm
1
Khi
ông Giô-suê về già, tuổi đã cao, Ðức Chúa phán với ông: "Ngươi đã già nua
tuổi tác, mà đất đai còn phải chiếm thì lại quá nhiều. 2 Ðây là đất
còn lại:
"Mọi
địa hạt người Phi-li-tinh, tất cả vùng dân Gơ-sua, 3 từ Si-kho đối
diện với Ai-cập, cho đến ranh giới Éc-rôn ở phía bắc, cũng được coi là thuộc về
Ca-na-an; vùng đất của năm thủ lãnh Phi-li-tinh: Ga-da, Át-đốt, Át-cơ-lôn, Gát
và Éc-rôn; rồi vùng đất của người A-vim, 4 ở phía nam; trọn vùng đất
người Ca-na-an và Mơ-a-ra của người Xi-đôn cho đến A-phếch, đến ranh giới của
người E-mô-ri; 5 vùng đất của người Gơ-van và tất cả Li-băng phía
mặt trời mọc, từ Ba-an Gát ở chân núi Khéc-môn cho đến lối vào Cửa Ải
Kha-mát."
6
Tất
cả dân miền núi từ Li-băng đến Mít-rơ-phốt Ma-gim, mọi người Xi-đôn, chính Ta
sẽ xua đuổi chúng cho khuất mắt con cái Ít-ra-en. Ngươi chỉ có việc cho
Ít-ra-en bắt thăm để được đất làm gia nghiệp như Ta đã truyền cho ngươi. 7
Và bây giờ, ngươi hãy chia đất này làm gia nghiệp cho chín chi tộc và nửa
chi tộc Mơ-na-se.
2.
Các Chi Tộc Bên Kia Sông Gio-Ðan
Nhìn
tổng quát
8
Cùng
với nửa chi tộc Mơ-na-se còn lại, chi tộc Rưu-vên và chi tộc Gát đã nhận phần
gia nghiệp mà ông Mô-sê đã ban cho họ bên kia sông Gio-đan, phía đông, như ông
Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã ban cho họ: 9 từ A-rô-e trên bờ
suối Ác-nôn và thành nằm giữa thung lũng, toàn vùng cao nguyên Mê-đơ-va cho đến
Ði-vôn; 10 mọi thành của Xi-khôn, vua dân E-mô-ri, trị vì ở
Khét-bôn, cho đến ranh giới của con cái Am-mon, 11 Ga-la-át và lãnh
thổ của người Gơ-sua và người Ma-a-kha, tất cả núi Khéc-môn và toàn miền Ba-san
cho đến Xan-kha; 12 ở Ba-san, tất cả vương quốc của Ốc, là vua trị
vì ở Át-ta-rốt và Ét-re-i, và là người còn sống sót của dân Ra-pha. Ông Mô-sê
đã đánh bại và xua đuổi chúng đi. 13 Nhưng con cái Ít-ra-en không
xua đuổi được người Gơ-sua và người Ma-a-kha, khiến chúng còn sinh sống giữa
Ít-ra-en cho đến ngày nay. 14 Chỉ có chi tộc Lê-vi là không được
nhận phần gia nghiệp: các hoả tế dâng Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, là gia
nghiệp của chi tộc đó, như lời Người đã phán với họ.
Chi
tộc Rưu-vên
15
Ông
Mô-sê đã ban một phần đất cho chi tộc con cái ông Rưu-vên, theo các thị tộc của
họ. 16 Lãnh thổ của họ trải rộng từ A-rô-e, trên bờ suối Ác-nôn, với
thành nằm giữa thung lũng, cũng như toàn vùng cao nguyên, cho đến Mê-đơ-va, 17
Khét-bôn và mọi thành vùng cao nguyên: Ði-vôn, Ba-mốt Ba-an, Bết Ba-an
Mơ-ôn, 18 Gia-hát, Cơ-đê-mốt, Mê-pha-át, 19 Kia-gia-tha-gim,
Xíp-ma, Xe-rét Ha-sa-kha trên ngọn đồi nằm giữa đồng bằng, 20 Bết
Pơ-o, các sườn núi Pít-ga, Bết Ha Giơ-si-mốt, 21 mọi thành vùng cao
nguyên và toàn vương quốc của Xi-khôn, vua E-mô-ri, đang trị vì ở Khét-bôn. Ông
Mô-sê đã đánh bại vua này, cũng như các thủ lãnh Ma-đi-an, E-vi, Re-kem, Xua,
Khua và Re-va, là các chư hầu của Xi-khôn ở trong vùng đất đó. 22 Còn
thầy bói Bi-lơ-am, con ông Bơ-o, thì con cái Ít-ra-en đã lấy gươm giết chết,
cùng một lượt với những người bại trận. 23 Vậy lãnh thổ con cái ông
Rưu-vên là sông Gio-đan và vùng phụ cận. Các thành và làng mạc của những thành
ấy là gia nghiệp con cái ông Rưu-vên theo các thị tộc của họ.
Chi
tộc Gát
24
Ông
Mô-sê đã ban một phần đất cho chi tộc Gát, cho con cái ông Gát, theo các thị
tộc của họ. 25 Lãnh thổ của họ gồm có: Gia-de và tất cả các thành
miền Ga-la-át, nửa phần đất của con cái Am-mon cho đến A-rô-e, đối diện với
Ráp-ba, 26 từ Khét-bôn cho đến Ra-mát Ha Mít-pê và Bơ-tô-nim, từ
Ma-kha-na-gim cho đến lãnh thổ Lít-via, 27 và các thành trong thung
lũng: Bết Ha-ram, Bết Nim-ra, Xúc-cốt, Xa-phôn, phần còn lại thuộc vương quốc
của Xi-khôn, vua Khét-bôn, lấy sông Gio-đan làm ranh giới cho đến hết biển hồ
Kin-ne-rét, bên kia sông Gio-đan, về phía đông. 28 Các thành và làng
mạc của những thành ấy là gia nghiệp con cái ông Gát, theo các thị tộc của họ.
Nửa
chi tộc Mơ-na-se
29
Ông
Mô-sê đã ban một phần đất cho nửa chi tộc Mơ-na-se; đó là phần dành cho nửa chi
tộc Mơ-na-se, theo các thị tộc của họ. 30 Lãnh thổ của họ gồm có: từ
Ma-kha-na-gim, toàn miền Ba-san, toàn vương quốc của Ốc, vua Ba-san, mọi trại
của Gia-ia ở miền Ba-san, tức là sáu mươi thành. 31 Nửa miền
Ga-la-át, Át-ta-rốt và Ét-re-i, những thành trong vương quốc của vua Ốc ở
Ba-san; các thành ấy là phần của con cái ông Ma-khia, con ông Mơ-na-se, thực ra
là một nửa số con cái ông Ma-khia, theo các thị tộc của họ.
32
Ðó
là phần ông Mô-sê ban làm gia nghiệp, trong vùng thảo nguyên Mô-áp, bên kia
sông Gio-đan, đối diện với Giê-ri-khô, về phía đông. 33 Nhưng ông
Mô-sê không cho chi tộc Lê-vi được hưởng gia nghiệp. Chính Ðức Chúa, Thiên Chúa
của Ít-ra-en, là gia nghiệp của họ, như lời Người đã phán với họ.
Chương 14
3.
Ba Chi Tộc Lớn Ở Phía Tây Sông Gio-Ðan
Nhập
đề
1
Ðây
là phần gia nghiệp con cái Ít-ra-en đã lãnh nhận ở xứ Ca-na-an, phần gia nghiệp
mà tư tế E-la-da, ông Giô-suê con ông Nun, và những người đứng đầu gia tộc của
các chi tộc con cái Ít-ra-en, đã chia cho họ. 2 Chín chi tộc và một
nửa chi tộc đã bắt thăm và lãnh được gia nghiệp, theo mệnh lệnh của Ðức Chúa,
qua trung gian của ông Mô-sê. 3 Thật vậy, ông Mô-sê đã ban gia
nghiệp cho hai chi tộc và một nửa chi tộc ở bên kia sông Gio-đan; nhưng ông đã
không ban cho các người Lê-vi phần gia nghiệp giữa các chi tộc. 4 Ðó
là vì con cái ông Giu-se chia làm hai chi tộc: Mơ-na-se và Ép-ra-im; còn các
người Lê-vi thì không nhận được vùng đất trong xứ, ngoại trừ các thành để ở,
cùng với đồng cỏ cho súc vật và của cải thuộc về họ. 5 Ðức Chúa đã truyền
cho ông Mô-sê thế nào, thì con cái Ít-ra-en làm như vậy: họ đã phân chia đất
đai.
Phần
đất của ông Ca-lếp
6
Con
cái ông Giu-đa đến gần ông Giô-suê ở Ghin-gan. Ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne,
người Cơ-nát, nói với ông: "Ông biết lời Ðức Chúa đã phán với ông Mô-sê,
người của Thiên Chúa, về tôi và về ông ở Ca-đê Bác-nê-a. 7 Tôi được
bốn mươi tuổi khi ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, từ Ca-đê Bác-nê-a, sai tôi
đi do thám xứ này, và tôi đã thật lòng báo cáo cho ông ấy. 8 Những
người anh em cùng lên với tôi đã làm cho tâm thần của dân sợ hãi như muốn chảy
tan ra. Nhưng tôi đã trọn tình trọn nghĩa với Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi. 9
Ngày ấy, ông Mô-sê đã thề rằng: "Ðất mà chân anh dẫm lên chắc chắn
sẽ trở thành gia nghiệp của anh, của con cái anh cho đến muôn đời, vì anh đã
trọn tình trọn nghĩa với Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi. 10 Và bây
giờ, này Ðức Chúa đã để tôi sống như lời Người đã phán cách đây bốn mươi lăm
năm, kể từ khi Ðức Chúa nói lời đó với ông Mô-sê, thuở Ít-ra-en còn đi trong sa
mạc. Bây giờ, hôm nay đây tôi đã được tám mươi lăm tuổi. 11 Ngày hôm
nay, tôi vẫn còn khoẻ như ngày ông Mô-sê sai tôi đi. Sức lực tôi xưa thế nào,
bây giờ cũng vậy, để chiến đấu hay đi lại hoạt động. 12 Vậy giờ đây,
xin cho tôi núi này, núi Ðức Chúa đã nói đến trong ngày ấy, vì ông đã nghe nói
trong ngày ấy, là ở đấy có người A-nác và những thành trì kiên cố lớn lao. Nếu
Ðức Chúa ở với tôi, tôi sẽ xua đuổi chúng, như Ðức Chúa đã phán."
13
Ông
Giô-suê chúc phúc cho ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, và tặng Khép-rôn cho ông
làm gia nghiệp cho đến ngày nay. 14 Vì thế, Khép-rôn đã thành gia
nghiệp của ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, người Cơ-nát, vì ông đã trọn tình
trọn nghĩa với Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.
15
Ngày
trước, tên của Khép-rôn là Kia-giát Ác-ba. Ác-ba là người cao lớn nhất trong
dân A-nác.
Và
xứ sở được sống yên hàn, hết nạn chiến tranh.
Chương 15
Chi
tộc Giu-đa
1
Phần
chi tộc con cái Giu-đa bắt thăm được, để chia cho các thị tộc của họ, nằm ở
vùng giáp giới Ê-đôm trong sa mạc Xin, về phía nam, mãi tận cùng phía nam. 2
Ranh giới phía nam khởi sự từ cuối Biển Muối, chỗ biển ăn sâu vào phía
nam, 3 đi về phía nam dốc Ác-ráp-bim, băng qua Xin, trở lên phía nam
Ca-đê Bác-nê-a, rồi đi qua Khét-rôn, lên Át-đa và quay sang Các-ca, 4 sau
đó băng qua Át-môn, tới Suối Ai-cập, và dừng lại ở biển. "Ðó sẽ là ranh
giới phía nam của các ngươi.” 5 Ranh giới phía đông là Biển Muối cho
đến cửa sông Gio-đan. Ranh giới phía bắc bắt đầu từ chỗ Biển Muối tiếp giáp với
cửa sông Gio-đan, 6 đi lên Bết Khoóc-la, băng qua phía bắc Bết Ha
A-ra-va, rồi lại đi lên tảng đá Bô-han, Bô-han là con ông Rưu-vên, 7 rồi
đi lên Ðơ-via, từ cánh đồng A-kho, và ở phía bắc quay về Ghin-gan đối diện với
dốc A-đum-mim nằm ở phía nam Suối, sau đó qua vùng nước Ên Se-mét, và đi tới Ên
Rô-ghên, 8 kế đó lại đi lên thung lũng Ben Hin-nôm cho tới sườn đồi
phía nam Giơ-vút, tức là Giê-ru-sa-lem. Ranh giới đó lên tận đỉnh núi đối diện
với thung lũng Hin-nôm về phía tây, ở cực bắc cánh đồng Ra-pha, 9 sau
đó, từ đỉnh núi, lượn về phía mạch nước Nép-tô-ác và đi về các thành vùng núi
Ép-rôn, rồi lượn về phía Ba-a-la, tức là Kia-giát Giơ-a-rim. 10 Từ
Ba-a-la, ranh giới đó quay sang phía tây đến núi Xê-ia, đi dọc theo sườn núi
Giơ-a-rim phía bắc, tức là Cơ-xa-lôn, xuống tới Bết Se-mét và băng qua Tim-na, 11
rồi đi về sườn núi Éc-rôn phía bắc, sau đó lượn về phía Sích-ca-rôn, băng
qua núi Ba-a-la, đến tận Giáp-nơ-ên và dừng lại ở biển.
12
Ranh
giới phía tây là Biển Lớn và miền duyên hải. Ðó là ranh giới chung quanh phần
đất con cái Giu-đa, chia theo các thị tộc của họ.
Con
cái ông Ca-lếp chiếm đất Khép-rôn (Tl 1 :10 -15)
13
Người
ta chia cho ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne một phần đất ở giữa con cái ông
Giu-đa, theo mệnh lệnh Ðức Chúa ban cho ông Giô-suê: Kia-giát Ác-ba, tức là
Khép-rôn, - Ác-ba là cha ông A-nác. 14 Ông Ca-lếp đã đuổi ra khỏi đó
ba người con của ông A-nác: Sê-sai, A-khi-man và Tan-mai là con cháu ông A-nác.
15 Từ đó, ông lên đánh dân cư thành Ðơ-via. Tên của Ðơ-via trước kia
là Kia-giát Xê-phe. 16 Ông Ca-lếp nói: "Ai đánh và chiếm được
Kia-giát Xê-phe, thì tôi sẽ gả Ác-xa con gái tôi cho người ấy.” 17 Ót-ni-ên
con ông Cơ-nát em ông Ca-lếp, đã chiếm được thành, và ông Ca-lếp đã gả Ác-xa
con gái mình cho Ót-ni-ên. 18 Khi cô ta đến, Ót-ni-ên liền xúi cô
xin cha một thửa ruộng. Cô xuống lừa, và ông Ca-lếp hỏi cô: "Chuyện gì thế
con?” 19 Cô thưa: "Xin cha cho con một món quà. Vì cha đã cho
con đất Ne-ghép, thì xin cũng cho con cả suối nước nữa." Và ông đã cho cô
suối trên suối dưới.
20
Ðó
là gia nghiệp của chi tộc con cái ông Giu-đa, theo các thị tộc của họ.
Danh
sách các thành của chi tộc Giu-đa
21
Các
thành ở cuối phần đất của chi tộc con cái Giu-đa, ở vùng giáp giới Ê-đôm trong
miền Ne-ghép, là:
22
Ki-na,
Ði-mô-na, Át-a-đa, 23 Ke-đét, Kha-xo, Gít-nan, 24 Díp,
Te-lem, Bơ-a-lốt, 25 Kha-xo Kha-đát-ta, Cơ-ri-giốt, Khét-rôn tức là
Kha-xo, 26 A-mam, Sơ-ma, Mô-la-đa, 27 Khát-xa Gát-đa,
Khét-môn, Bết Pe-lét, 28 Khát-xa Su-an, Bơ-e Se-va, Bít-giốt-gia, 29
Ba-a-la, I-gim, E-xem, 30 En-tô-lát, Cơ-xin, Khoóc-ma, 31
Xích-lắc, Mát-man-na, Xan-xan-na, 32 Lơ-va-ốt, Sin-khim, A-gin,
và Rim-môn: đó là hai mươi chín thành và làng mạc của các thành ấy.
33
Trong
vùng Sơ-phê-la, thì có:
34
Da-nô-ác,
Ên Gan-nim, Táp-pu-ác, Ha Ê-nam, 35 Giác-mút, A-đu-lam, Xô-khô,
A-dê-ca, 36 Sa-a-ra-gim, A-đi-tha-gim, Ha Gơ-đê-ra và
Gơ-đê-rô-tha-gim: đó là mười bốn thành và làng mạc của các thành ấy.
37
Xơ-nan,
Kha-đa-xa, Mích-đan Gát, 38 Ði-lơ-an, Ha Mít-pê, Gióc-thơ-ên, 39
La-khít, Bót-cát, Éc-lon, 40 Cáp-bôn, Lác-mát, Kít-lít, 41
Gơ-đê-rốt, Bết Ða-gôn, Na-a-ma, Mác-kê-đa: đó là mười sáu thành và làng mạc
của các thành ấy.
42
Líp-na,
E-the, A-san, 43 Gíp-tác, Át-na, Nơ-xíp, 44 Cơ-i-la,
Ác-díp, Ma-rê-sa: đó là chín thành và làng mạc của các thành ấy.
45
Éc-rôn
với các thành phụ thuộc và làng mạc của các thành ấy, 46 từ Éc-rôn
cho đến biển, tất cả những vùng bên cạnh Át-đốt và các làng mạc; 47 Át-đốt,
các thành phụ thuộc và làng mạc của thành đó; Ga-da, các thành phụ thuộc và
làng mạc của thành đó, cho đến Suối Ai-cập, Biển Lớn làm ranh giới.
48
Trong
vùng núi thì có:
49
Ðan-na,
Kia-giát Xan-na, tức là Ðơ-via, 50 A-náp, Ét-tơ-mô-a, A-nim, 51
Gô-sen, Khô-lôn và Ghi-lô: đó là mười một thành và làng mạc của các thành
ấy.
52
A-ráp,
Ðu-ma, Ét-an, 53 Gia-num, Bết Táp-pu-ác, A-phê-ca, 54 Khum-ta,
Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn, Xi-o: đó là chín thành và làng mạc của các
thành ấy.
55
Ma-ôn,
Các-men, Díp, Giút-ta, 56 Gít-rơ-en, Gióc-đơ-am, Da-nô-ác, 57 Ha-ca-gin,
Ghíp-a và Tim-na: đó là mười thành và làng mạc của các thành ấy.
58
Khan-khun,
Bết Xua, Gơ-đo, 59 Ma-a-rát, Bết A-nốt và En-tơ-côn: đó là sáu thành
và làng mạc của các thành ấy.
(Tơ-cô-a,
Ép-ra-tha tức là Bê-lem, Pơ-o, Ê-tham, Cu-lon, Ta-tam, Xo-rét,
60
Kia-giát
Ba-an tức là Kia-giát Giơ-a-rim, Ha Ráp-ba: đó là hai thành và làng mạc của các
thành ấy.
61
Trong
sa mạc thì có:
Bết
Ha A-ra-va, Mít-đin, Xơ-kha-kha, 62 Níp-san, Thành Muối và Ên
Ghe-đi: đó là sáu thành và làng mạc của các thành ấy.
63
Nhưng
con cái ông Giu-đa đã không thể xua đuổi được người Giơ-vút ở tại Giê-ru-sa-lem.
Người Giơ-vút ở với con cái ông Giu-đa, tại Giê-ru-sa-lem cho đến ngày nay.
Chương 16
Con
cái ông Giu-se
1
Phần
con cái ông Giu-se bắt thăm được khởi đầu từ sông Gio-đan đối diện với
Giê-ri-khô, đến vùng nước Giê-ri-khô, về phía đông, băng qua sa mạc từ
Giê-ri-khô lên đến núi Bết Ên, 2 rồi từ Bết Ên, tới Lút và đi về
phía ranh giới của người Ác-ki ở A-ta-rốt, 3 sau đó xuống phía tây,
hướng tới ranh giới của người Giáp-lết, cho đến ranh giới Bết Khô-rôn Hạ và đến
Ghe-de, rồi dừng lại ở biển. 4 Ðó là gia nghiệp của hai con ông
Giu-se là Mơ-na-se và Ép-ra-im.
Chi
tộc Ép-ra-im
5
Ranh
giới con cái Ép-ra-im theo các thị tộc của họ, ranh giới phần gia nghiệp của họ
phía đông là từ Át-rốt Át-đa cho đến Bết Khô-rôn Thượng. 6 Ranh giới
đó đi tới biển, phía bắc có Mích-mơ-thát, phía đông hướng về Ta-a-nát Si-lô,
rồi băng qua đó, đi về phía đông Gia-nô-ác. 7 Từ Gia-nô-ác, ranh
giới đó đi xuống A-ta-rốt và Na-a-ra, gặp Giê-ri-khô, và đi tới sông Gio-đan. 8
Từ Táp-pu-ác, ranh giới đó tiến về suối Ca-na ở mạn tây, rồi dừng lại ở
biển. Ðó là gia nghiệp của chi tộc con cái Ép-ra-im, theo các thị tộc của họ, 9
ngoài ra còn có những thành dành cho con cái Ép-ra-im nằm giữa gia nghiệp
con cái Mơ-na-se: tất cả những thành và làng mạc của các thành ấy. 10 Nhưng
họ đã không xua đuổi được người Ca-na-an ở tại Ghe-de. Người Ca-na-an ở lại
giữa Ép-ra-im cho đến ngày nay, nhưng phải lo làm việc khổ sai.
Chương 17
Chi
tộc Mơ-na-se
1
Vì
ông Mơ-na-se là con đầu lòng ông Giu-se nên phần chi tộc Mơ-na-se bắt thăm được
thì thuộc về ông Ma-khia, con đầu lòng ông Mơ-na-se, và là cha ông Ga-la-át; vì
là một chiến sĩ, ông đã nhận được miền Ga-la-át và Ba-san. 2 Rồi đến
phần các con khác của ông Mơ-na-se, chia theo các thị tộc của họ: con cái ông
A-vi-e-de, con cái ông Khê-léc, con cái ông Át-ri-ên, con cái ông Se-khem, con
cái ông Khê-phe, con cái ông Sơ-mi-đa. Ðó là các con trai, con cái ông
Mơ-na-se, cháu ông Giu-se, theo các thị tộc của họ. 3 Ông
Xơ-lóp-khát, con ông Khê-phe, cháu ông Ga-la-át, chắt ông Ma-khia, chít ông
Mơ-na-se, không có con trai mà chỉ có con gái, đây là tên các cô: Mác-la, Nô-a,
Khoóc-la, Min-ca và Tia-xa. 4 Các cô đến gặp tư tế E-la-da, ông
Giô-suê, con ông Nun, và đến gặp các thủ lãnh, rồi thưa: "Ðức Chúa đã
truyền cho ông Mô-sê phải cho chúng tôi một phần gia nghiệp ở giữa anh em chúng
tôi." Theo mệnh lệnh của Ðức Chúa, người ta trao cho các cô một phần gia
nghiệp ở giữa các anh em của cha các cô. 5 Vậy ông Mơ-na-se bắt
trúng thăm, nhận được mười phần đất, không kể miền Ga-la-át và Ba-san ở bên kia
sông Gio-đan. 6 Thật thế, các con gái thuộc chi tộc Mơ-na-se nhận
được một phần gia nghiệp ở giữa các con trai trong chi tộc. Còn miền Ga-la-át
thì thuộc về những con trai khác trong chi tộc Mơ-na-se.
7
Ranh
giới của chi tộc Mơ-na-se, giáp giới phần đất A-se, bắt đầu từ Mích-mơ-thát đối
diện với Si-khem, rồi đi về phía nam tới chỗ dân Ên Táp-pu-ác ở. 8 Xứ
Táp-pu-ác thuộc về Mơ-na-se, nhưng thành Táp-pu-ác nằm ở ranh giới Mơ-na-se thì
thuộc về con cái Ép-ra-im. 9 Sau đó, ranh giới ấy đi xuống phía suối
Ca-na; phía nam suối có những thành thuộc về Ép-ra-im, các thành này nằm giữa
các thành của Mơ-na-se. Ranh giới của Mơ-na-se thì ở phía bắc suối và dừng lại
ở biển. 10 Phía nam thuộc về Ép-ra-im; còn phía bắc thuộc về
Mơ-na-se có biển làm ranh giới, bắc giáp A-se và đông giáp Ít-xa-kha. 11 Trong
phần đất của Ít-xa-kha và A-se, chi tộc Mơ-na-se còn có Bết San và các thành
phụ thuộc, Gíp-lơ-am và các thành phụ thuộc; chi tộc đó cũng có các dân cư
thành Ðo và các thành phụ thuộc, các dân cư thành Ên Ðo và các thành phụ thuộc,
các dân cư thành Ta-nác và các thành phụ thuộc, các dân cư thành Mơ-ghít-đô và
các thành phụ thuộc, và một phần ba thành Ne-phét. 12 Nhưng con cái
ông Mơ-na-se đã không thể chiếm được các thành đó, và người Ca-na-an quyết ở
lại trong xứ. 13 Tuy nhiên, khi trở nên hùng mạnh, con cái Ít-ra-en
bắt người Ca-na-an phải lo làm việc khổ sai, nhưng không thể đuổi chúng đi
được.
Con
cái ông Giu-se khiếu nại
14
Con
cái ông Giu-se nói với ông Giô-suê: "Tại sao ông cho (chúng) tôi chỉ được
bắt thăm có một lần, chỉ được một phần đất làm gia nghiệp, trong khi (chúng)
tôi là một dân đông đảo? Cho đến bây giờ, Ðức Chúa vẫn ban phúc lành cho
(chúng) tôi."15 Ông Giô-suê nói: "Nếu anh (em) là một dân đông đảo,
thì hãy lên rừng, và tại đó, đốn cây mà ở trong xứ người Pơ-rít-di và Ra-pha,
vì núi Ép-ra-im quá nhỏ đối với anh (em).” 16 Con cái ông Giu-se
nói: "Ở núi không có đủ chỗ cho chúng tôi; vả lại, mọi người Ca-na-an ở
đồng bằng, cũng như người Ca-na-an ở Bết San và ở các thành phụ thuộc, và người
Ca-na-an ở cánh đồng Gít-rơ-en đều có xe sắt.” 17 Ông Giô-suê nói
với nhà Giu-se, với Ép-ra-im và Mơ-na-se: "Anh em là một dân đông đảo và
hùng mạnh. Anh (em) không chỉ bắt thăm được một phần đất mà thôi. 18 Anh
(em) sẽ nhận được một ngọn núi, đó là một khu rừng và anh (em) sẽ đốn cây đi;
anh (em) sẽ kiểm soát được các lối ra vào, bởi vì anh (em) sẽ đuổi người
Ca-na-an đi, mặc dầu chúng có xe (sắt) và mạnh mẽ.
Chương 18
4.
Bảy Chi Tộc Khác
Chia
đất cho bảy chi tộc khác
1
Toàn
thể cộng đồng con cái Ít-ra-en tụ họp ở Si-lô, nơi họ đặt Lều Hội Ngộ. Xứ sở
phải khuất phục họ. 2 Trong số con cái Ít-ra-en, chỉ còn bảy chi tộc
chưa nhận phần gia nghiệp của họ. 3 Ông Giô-suê nói với con cái
Ít-ra-en: "Cho đến bao giờ anh em còn lơ là không đi chiếm xứ mà Ðức Chúa,
Thiên Chúa của cha ông anh em, đã ban cho anh em? 4 Anh em hãy chỉ định ba
người trong mỗi chi tộc. Tôi sẽ sai họ đi, họ sẽ lên đường rảo khắp xứ và phác
hoạ địa hình để chia phần gia nghiệp, rồi trở lại với tôi. 5 Họ sẽ
phân chia xứ sở làm bảy vùng đất. Giu-đa sẽ ở lại trong lãnh thổ của mình ở
phía nam, còn nhà Giu-se sẽ ở lại trong lãnh thổ của mình ở phía bắc. 6 Anh
em sẽ phác hoạ địa hình xứ sở đã chia làm bảy vùng đất, rồi đem lại đây cho
tôi. Chính tại đây, tôi sẽ cho anh em bắt thăm trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa
chúng ta. 7 Các người thuộc chi tộc Lê-vi sẽ không có phần ở giữa
anh em, vì chức tư tế Ðức Chúa ban cho họ làm phần gia nghiệp của họ. Còn Gát
và Rưu-vên và nửa chi tộc Mơ-na-se thì đã nhận phần gia nghiệp của họ ở bên kia
sông Gio-đan, bên phía đông, phần gia nghiệp mà ông Mô-sê, tôi trung của Ðức
Chúa, đã cho họ."
8
Những
người đó trỗi dậy và đi. Ông Giô-suê đã truyền cho những người đi phác hoạ địa
hình của xứ và nói: "Anh em hãy đi rảo khắp xứ và phác hoạ địa hình, rồi
trở lại với tôi. Chính tại đây tôi sẽ cho anh em bắt thăm trước nhan Ðức Chúa,
tại Si-lô.” 9 Những người ấy đi khắp nơi trong xứ, phác hoạ địa
hình, phân chia các thành trong xứ làm bảy vùng đất và ghi vào sổ, rồi trở về
với ông Giô-suê ở trại Si-lô. 10 Ông Giô-suê cho họ bắt thăm tại
Si-lô, trước nhan Ðức Chúa, và ở đó ông Giô-suê chia đất đai cho con cái
Ít-ra-en, theo các phần đã phân phối.
Chi
tộc Ben-gia-min
11
Trước
hết, chi tộc con cái Ben-gia-min, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được một
phần đất. Phần đất họ bắt thăm được nằm giữa phần đất con cái Giu-đa và con cái
Giu-se. 12 Ranh giới phía bắc khởi đầu từ sông Gio-đan, đi lên sườn
phía bắc Giê-ri-khô, rồi lên núi về phía tây và dừng lại ở sa mạc Bết A-ven. 13
Từ đó, ranh giới ấy đi về phía Lút, ở sườn phía nam, tức là Bết Ên, rồi
xuống Át-rốt Át-đa, trên ngọn núi ở phía nam Bết Khô-rôn Hạ. 14 Sau
đó, ranh giới lượn vòng và quay sang phía tây, hướng về phía nam từ núi đối
diện với Bết Khô-rôn ở phía nam, rồi dừng lại ở Kia-giát Ba-an, tức là Kia-giát
Giơ-a-rim, thành của con cái Giu-đa. Ðó là phía tây. 15 Về phía nam,
từ tận cùng Kia-giát Giơ-a-rim, ranh giới tiến về phía tây, tới mạch nước
Nép-tô-ác. 16 Ranh giới đi xuống cho đến hết ngọn núi đối diện với
thung lũng Ben Hin-nôm nằm trong cánh đồng Ra-pha ở phía bắc, rồi đi xuống
thung lũng Hin-nôm, bên sườn Giơ-vút ở phía nam, và đi xuống Ên Rô-ghên. 17
Sau đó, ranh giới lượn về phía bắc và tới Ên Se-mét, rồi tiến về
Gơ-li-lót đối điện với dốc A-đum-mim, đi xuống tảng đá Bô-han, Bô-han là con
ông Rưu-vên. 18 Ranh giới lại đi qua sườn phía bắc đối diện với
A-ra-va và đi xuống A-ra-va. 19 Rồi ranh giới đi qua sườn bắc Bết
Khoóc-la, dừng lại ở chỗ Biển Muối về phía bắc tiếp giáp với cửa sông Gio-đan
về phía nam. Ðó là ranh giới phía nam. 20 Sông Gio-đan làm thành
ranh giới phía đông. Ðó là phần gia nghiệp của con cái Ben-gia-min với ranh
giới chung quanh, chia theo các thị tộc của họ.
Các
thành của chi tộc Ben-gia-min
21
Các
thành của chi tộc con cái Ben-gia-min, theo các thị tộc của họ, là như sau:
Giê-ri-khô, Bết Khoóc-la, Ê-méc Cơ-xít, 22 Bết Ha A-ra-va, Xơ-ma-ra-gim,
23 Bết Ên A-vim, Pa-ra, Óp-ra, 24 Cơ-pha Ha Am-mô-ni,
Óp-ni, Ghe-va, - đó là mười hai thành và làng mạc của các thành ấy - 25
Ghíp-ôn, Ra-ma, Bơ-ê-rốt, 26 Ha Mít-pê, Cơ-phi-ra, Mốt-xa, 27 Re-kem,
Giếc-pơ-ên, Ta-ra-la, 28 Xê-la Ha-e-lép, Giơ-vút, tức là
Giê-ru-sa-lem, Ghíp-át, Kia-giát - đó là mười bốn thành và làng mạc của các
thành ấy -. Ðó là phần gia nghiệp của con cái Ben-gia-min, chia theo các thị
tộc của họ.
Chương 19
Chi
tộc Si-mê-ôn
1
Ông
Si-mê-ôn và chi tộc con cái Si-mê-ôn, tính theo các thị tộc của họ, bắt thăm
được phần thứ hai; phần gia nghiệp của họ nằm giữa phần gia nghiệp con cái
Giu-đa. 2 Phần gia nghiệp của họ gồm có: Bơ-e Se-va, Se-va, Mô-la-đa,
3 Khát-xa Su-an, Ba-la, E-xem, 4 En-tô-lát, Bơ-thun,
Khoóc-ma, 5 Xích-lắc, Bết Ha Mác-ca-vốt, Kha-xa Xu-xa, 6 Bết
Lơ-va-ốt, Sa-ru-khen, - đó là mười ba thành và làng mạc của các thành ấy -, 7
A-gin, Rim-môn, E-the, A-san, - đó là bốn thành và làng mạc của các thành
ấy -, 8 Cũng như mọi làng mạc chung quanh các thành đó cho đến
Ba-a-lát Bơ-e và Ra-mát Ne-ghép. Ðó là phần gia nghiệp của chi tộc con cái
Si-mê-ôn, chia theo các thị tộc của họ. 9 Phần gia nghiệp của con
cái Si-mê-ôn lấy từ phần đất của con cái Giu-đa, vì vùng đất này quá lớn đối
với con cái Giu-đa, nên con cái Si-mê-ôn nhận phần gia nghiệp ngay giữa gia
nghiệp của con cái Giu-đa.
Chi
tộc Dơ-vu-lun
10
Con
cái Dơ-vu-lun, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ ba. Ranh
giới phần gia nghiệp của họ đi đến tận Xa-rít, 11 đi lên về phía
tây, theo hướng Mác-a-la, gặp Ðáp-be-sét, rồi gặp suối đối diện với Gióc-nơ-am.
12 Từ Xa-rít, ranh giới đó trở về hướng đông, phía mặt trời mọc, cho
đến ranh giới Kít-lốt Ta-bo, tiến về Ða-vơ-rát và lên Gia-phia. 13 Từ
đó, ranh giới qua hướng đông, phía mặt trời mọc, ở Gát Khê-phe, ở Ít-ta Ca-xin,
đi tới Rim-môn và lượn về Nê-a. 14 Rồi ranh giới quay sang phía bắc
Khan-na-thôn và dừng lại ở thung lũng Gíp-tác Ên. 15 Ngoài ra, còn
có Cát-tát, Na-ha-lan, Sim-rôn, Gít-a-la và Bê-lem: đó là mười hai thành và
làng mạc của các thành ấy. 16 Các thành ấy và làng mạc của các thành
ấy là phần gia nghiệp của con cái Dơ-vu-lun, chia theo các thị tộc của họ.
Chi
tộc Ít-xa-kha
17
Ông
Ít-xa-kha và con cái ông, theo các thị tộc của họ bắt thăm được phần đất thứ tư.
18 Lãnh thổ của họ gồm có: Gít-rơ-en, Cơ-xu-lốt, Su-nêm, 19 Kha-pha-ra-gim,
Si-ôn, A-na-kha-rát, 20 Ha Ráp-bít, Kít-giôn, E-vét, 21 Re-mét,
Ên Gan-nim, Ên Khát-đa, Bết Pát-xết. 22 Ranh giới gặp Ta-bo,
Sa-kha-xi-ma và Bết Se-mét, rồi dừng lại ở sông Gio-đan: đó là mười sáu thành
và làng mạc của các thành ấy. 23 Các thành ấy và làng mạc của các
thành ấy là phần gia nghiệp của chi tộc con cái Ít-xa-kha, chia theo các thị
tộc của họ.
Chi
tộc A-se
24
Chi
tộc con cái A-se, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ năm. 25
Lãnh thổ của họ gồm có: Khen-cát, Kha-li, Be-ten, Ác-sáp, 26 A-lam-me-léc,
Am-át, Mi-sơ-an. Ranh giới đó gặp Các-men về phía tây và gặp Si-kho Líp-nát, 27
rồi lui về phía mặt trời mọc đến Bết Ða-gôn, gặp phần đất của Dơ-vu-lun
và thung lũng Gíp-tác Ên ở phía bắc, Bết Ha Ê-méc và Nơ-i-ên; ranh giới đó tiến
về Ca-vun ở phía trái, 28 tới Ép-rôn, Rơ-khốp, Kham-môn, Ca-na, cho
đến Xi-đôn Ðại Ðô. 29 Rồi ranh giới đó quay về Ra-ma, cho đến Tia,
một thành luỹ kiên cố, sau đó lại quay về Khô-xa và dừng lại ở Biển, ở
Mê-khe-ven, Ác-díp, 30 Um-ma, A-phếch và Rơ-khốp: đó là hai mươi
thành và các làng mạc của các thành ấy. 31 Các thành ấy và làng mạc
của các thành ấy là phần gia nghiệp của chi tộc con cái A-se, chia theo các thị
tộc của họ.
Chi
tộc Náp-ta-li
32
Con
cái Náp-ta-li, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ sáu. 33
Ranh giới của họ khởi đầu từ Khê-lép, từ cây Sồi ở Xa-a-nan-nim, đi qua
A-đa-mi Ha Ne-kép và Giáp-nơ-ên cho đến Lắc-cum, và dừng lại ở sông Gio-đan. 34
Rồi ranh giới đó quay về phía tây, đi qua Át-nốt Ta-vô, và từ đó đi tới
Khu-cốc, gặp phần đất của Dơ-vu-lun ở phía nam, gặp phần đất của A-se ở phía
tây và sông Gio-đan ở phía mặt trời mọc. 35 Các thành luỹ kiên cố
là: Hát-xít-đim, Xe, Kham-mát, Rắc-cát, Kin-ne-rét, 36 A-đa-ma,
Ra-ma, Kha-xo, 37 Ke-đét, Ét-re-i, Ên Kha-xo, 38 Giếc-ôn,
Mích-đan Ên, Kho-rem, Bết A-nát, Bết Se-mét: đó là mười chín thành và làng mạc
của các thành ấy. 39 Các thành ấy và các làng mạc của các thành ấy
là phần gia nghiệp của chi tộc con cái Náp-ta-li, chia theo các thị tộc của họ.
Chi
tộc Ðan
40
Chi
tộc con cái Ðan, theo các thị tộc của họ, bắt thăm được phần đất thứ bảy. 41
Lãnh thổ của phần gia nghiệp họ gồm có: Xo-rơ-a, Ét-ta-ôn, Ia Se-mét, 42
Sa-a-láp-bin, Ai-gia-lôn, Gít-la, 43 Ê-lôn, Tim-na, Éc-rôn, 44
En-tơ-kê, Ghíp-bơ-thôn, Ba-a-lát, 45 Giơ-hút, Bơ-nê Bơ-rắc,
Gát Rim-môn, 46 vùng nước Giác-côn, Rắc-côn, cùng với lãnh thổ đối
diện với Gia-phô. 47 Nhưng con cái Ðan vượt quá lãnh thổ của họ. Quả
thế, con cái Ðan tiến lên đánh Le-sem, chiếm thành này và dùng lưỡi gươm giết
chết cả thành. Họ chiếm thành và ở tại đó. Họ gọi Le-sem là Ðan, lấy tên Ðan,
cha của họ, mà đặt cho thành đó.
48
Các
thành ấy và làng mạc của các thành ấy là phần gia nghiệp của chi tộc con cái
Ðan, chia theo các thị tộc của họ.
49
Khi
đã chia xong đất đai theo ranh giới thành những phần gia nghiệp, con cái
Ít-ra-en tặng ông Giô-suê, con ông Nun, một phần gia nghiệp giữa họ. 50 Theo
mệnh lệnh của Ðức Chúa, họ tặng ông thành mà ông đã xin, là Tim-nát Xe-rác,
trong vùng núi Ép-ra-im: ông xây lại thành và ở tại đó.
5.
Kết Luận Về Việc Phân Chia Ðất Ðai
51
Ðó
là các phần gia nghiệp mà tư tế E-la-da, ông Giô-suê, con ông Nun, và các thủ
lãnh gia tộc của các chi tộc con cái Ít-ra-en đã dùng cách bắt thăm mà chia cho
họ ở Si-lô, trước nhan Ðức Chúa, tại cửa Lều Hội Ngộ. Như thế, họ đã làm xong
việc phân chia đất đai.
Chương 20
6.
Các Thành Ðặc Biệt
Các
thành trú ẩn
1
Ðức
Chúa phán với ông Giô-suê: 2 "Hãy nói với con cái Ít-ra-en: Các
ngươi hãy chỉ định cho mình những thành trú ẩn, như Ta đã dùng Mô-sê làm trung
gian mà phán với các ngươi. 3 Một kẻ sát nhân đã làm thiệt mạng một
người vì vô ý, vì lầm lẫn, sẽ có thể đến đó nương náu; những thành ấy sẽ là nơi
các ngươi trú ẩn để thoát khỏi tay người đòi nợ máu. 4 Kẻ sát nhân
sẽ tới một trong các thành ấy mà nương náu, đứng ở lối vào cổng thành và trình
cho các kỳ mục trong thành nghe sự việc của mình; những người này sẽ nhận nó
vào thành ở với họ, và chỉ cho nó một nơi cư ngụ giữa họ. 5 Nếu
người đòi nợ máu lùng bắt kẻ sát nhân, thì họ sẽ không nộp nó vào tay người ấy,
vì kẻ sát nhân đã làm thiệt mạng người thân cận do lầm lẫn, chứ không phải vì
trước kia đã có hận thù với người này. 6 Kẻ sát nhân sẽ ở trong
thành này cho đến khi ra trước cộng đồng để chịu xét xử, hay cho đến khi thượng
tế đương chức qua đời. Khi đó kẻ sát nhân có thể trở về thành, về nhà của nó,
về thành nó đã bỏ trốn."
7
Người
ta đã thánh hiến Ke-đét ở Ga-li-lê trong miền núi Náp-ta-li, Si-khem trong miền
núi Ép-ra-im, và Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn trong miền núi Giu-đa. 8 Và
bên kia sông Gio-đan đối diện với Giê-ri-khô, về phía đông, người ta chọn Be-xe
thuộc chi tộc Rưu-vên trong sa mạc, trên vùng cao nguyên, chọn Ra-mốt thuộc chi
tộc Gát, trong vùng Ga-la-át, và Gô-lan thuộc chi tộc Mơ-na-se trong vùng
Ba-san. 9 Ðó là những thành chỉ định cho mọi con cái Ít-ra-en và
người ngoại kiều ở giữa họ, để phàm ai đã vô ý làm thiệt mạng người nào, thì có
thể tới đó nương náu và khỏi phải chết do tay người đòi nợ máu, cho đến khi ra
trước mặt cộng đồng.
Chương 21
Các
thành của người Lê-vi
1
Những
người đứng đầu các gia tộc Lê-vi tới gặp tư tế E-la-da, ông Giô-suê con ông
Nun, và những người đứng đầu gia tộc của các chi tộc con cái Ít-ra-en, 2 Si-lô
trong đất Ca-na-an, và thưa rằng: "Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê làm trung
gian mà truyền phải cấp cho chúng tôi những thành để ở, những đồng cỏ cho thú
vật của chúng tôi.” 3 heo lệnh của Ðức Chúa, con cái Ít-ra-en đã lấy
một phần gia nghiệp của họ mà cho những người Lê-vi các thành sau đây và đồng
cỏ phụ thuộc. 4 ác thị tộc người Cơ-hát bắt thăm được phần của mình:
con cái tư tế A-ha-ron, trong số những người Lê-vi, được mười ba thành thuộc
các chi tộc Giu-đa, Si-mê-ôn và Ben-gia-min. 5 Còn những người con
khác của ông Cơ-hát thì bắt thăm được mười thành thuộc những thị tộc của các
chi tộc Ép-ra-im, Ðan và một nửa chi tộc Mơ-na-se. 6 Các con ông
Ghéc-sôn bắt thăm được mười ba thành thuộc những thị tộc của các chi tộc
Ít-xa-kha, A-se, Náp-ta-li và một nửa chi tộc Mơ-na-se ở Ba-san. 7 Các
con ông Mơ-ra-ri, theo các thị tộc của họ, được mười hai thành thuộc chi tộc
Rưu-vên, chi tộc Gát và chi tộc Dơ-vu-lun.
8
Con
cái Ít-ra-en đã dùng cách bắt thăm mà cấp cho các người Lê-vi những thành này
cùng với các đồng cỏ, như Ðức Chúa đã truyền qua trung gian ông Mô-sê.
Phần
dành cho người Cơ-hát
9
Con
cái Ít-ra-en đã lấy của chi tộc con cái Giu-đa và chi tộc con cái Si-mê-ôn mà
cấp cho các người Lê-vi những thành được chỉ đích danh sau đây. 10 Ðó
là phần của con cái A-ha-ron thuộc các thị tộc Cơ-hát, trong hàng con cái
Lê-vi, vì họ đã bắt thăm được phần đầu tiên. 11 Người ta cấp cho họ
Kia-giát Ác-ba, tức là Khép-rôn, -Ác-ba là cha ông A-nác-, trong miền núi
Giu-đa và các đồng cỏ chung quanh. 12 Còn đồng ruộng và làng mạc phụ
thuộc, thì người ta cấp cho ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, làm sở hữu. 13
Người ta cấp cho con cái tư tế A-ha-ron thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là
Khép-rôn với các đồng cỏ, cũng như Líp-na với các đồng cỏ, 14 Giát-tia
với các đồng cỏ, Ét-tơ-mô-a với các đồng cỏ, 15 Khô-lôn với các đồng
cỏ, Ðơ-via với các đồng cỏ, 16 A-gin với các đồng cỏ, Giút-ta với
các đồng cỏ, Bết Se-mét với các đồng cỏ: đó là chín thành thuộc hai chi tộc ấy.
17 Người ta lấy của chi tộc Ben-gia-min mà cấp cho họ bốn thành:
Ghíp-ôn với các đồng cỏ, Ghe-va với các đồng cỏ, 18 A-na-thốt với
các đồng cỏ, An-môn với các đồng cỏ. 19 Tổng số các thành của các tư
tế con cái ông A-ha-ron là mười ba thành với các đồng cỏ.
20
Còn
các thị tộc con cái Cơ-hát, những người Lê-vi còn lại trong số con cái Cơ-hát,
thì bắt thăm được các thành thuộc chi tộc Ép-ra-im. 21 Người ta cấp
cho họ thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Si-khem với các đồng cỏ, trong vùng núi
Ép-ra-im, Ghe-de với các đồng cỏ, 22 Kíp-xa-gim với các đồng cỏ, Bết
Khô-rôn với các đồng cỏ: bốn thành. 23 Người ta lấy của chi tộc Ðan
mà cấp cho họ bốn thành: En-tơ-kê với các đồng cỏ, Ghíp-bơ-thôn với các đồng cỏ,
24 Ai-gia-lôn với các đồng cỏ, Gát Rim-môn với các đồng cỏ. 25 Người
ta lấy của một nửa chi tộc Mơ-na-se mà cấp cho họ hai thành: Ta-nác với các
đồng cỏ, Gíp-lơ-am với các đồng cỏ. 26 Tổng số là mười thành với các
đồng cỏ cho các thị tộc còn lại của con cái Cơ-hát.
Phần
dành cho các con ông Ghéc-sôn
27
Phần
dành cho các con ông Ghéc-sôn, thuộc các thị tộc Lê-vi, lấy của một nửa chi tộc
Mơ-na-se thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Gô-lan ở Ba-san với các đồng cỏ, cũng
như Bơ-ét-tơ-ra với các đồng cỏ: hai thành. 28 Người ta lấy của chi
tộc Ít-xa-kha mà cấp cho họ bốn thành: Kít-giôn với các đồng cỏ, Ða-vơ-rát với
các đồng cỏ, 29 Giác-mút với các đồng cỏ, Ên Gan-nim với các đồng cỏ.
30 Người ta lấy của chi tộc A-se mà cấp cho họ bốn thành: Mi-sơ-an
với các đồng cỏ, Áp-đôn với các đồng cỏ, 31 Khen-cát với các đồng
cỏ, Rơ-khốp với các đồng cỏ. 32 Người ta lấy của chi tộc Náp-ta-li
mà cấp cho họ ba thành: thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Ke-đét ở Ga-li-lê với
các đồng cỏ, Kham-mốt Ðo với các đồng cỏ, Các-tan với các đồng cỏ. 33 Tổng
số các thành của người Ghéc-sôn theo các thị tộc của họ là mười ba thành với
các đồng cỏ.
Phần
dành cho các con ông Mơ-ra-ri
34
Phần
dành cho các thị tộc con cái Mơ-ra-ri, các người Lê-vi còn lại, thì người ta
lấy của chi tộc Dơ-vu-lun bốn thành: Gióc-nơ-am với các đồng cỏ, Các-ta với các
đồng cỏ, 35 Ðim-na với các đồng cỏ, Na-ha-lan với các đồng cỏ. 36
Ở bên kia sông Gio-đan, người ta lấy của chi tộc Rưu-vên mà cấp cho họ
bốn thành: thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Be-xe trong sa-mạc, trên vùng cao
nguyên, với các đồng cỏ, Gia-hát với các đồng cỏ, 37 Cơ-đê-mốt với
các đồng cỏ, Mê-pha-át với các đồng cỏ. 38 Người ta lấy của chi tộc
Gát mà cấp cho họ tất cả là bốn thành: thành trú ẩn cho kẻ sát nhân, là Ra-mốt
tại Ga-la-át với các đồng cỏ, Ma-kha-na-gim với các đồng cỏ, 39 Khét-bôn
với các đồng cỏ, Gia-de với các đồng cỏ. 40 Tổng số các thành dành
cho con cái Mơ-ra-ri theo các thị tộc của họ, cho các thị tộc Lê-vi còn lại,
các thành họ bắt thăm được, là mười hai thành.
41
Tổng
số các thành của người Lê-vi ở giữa các sở hữu của con cái Ít-ra-en là bốn mươi
tám thành và đồng cỏ phụ thuộc. 42 Mỗi thành trong số các thành đó
gồm có nội thành và đồng cỏ chung quanh. Tất cả mọi thành đó đều như thế.
7.
Tổng Kết Về Việc Phân Chia Ðất Ðai
Kết
luận về việc phân chia đất đai
43
Ðức
Chúa đã ban cho Ít-ra-en toàn miền đất mà Người đã thề là sẽ ban cho cha ông
họ. Họ đã chiếm được đất ấy và ở tại đó. 44 Ðức Chúa cho họ được
thảnh thơi mọi bề, đúng như Người đã thề với cha ông họ. Trong số mọi địch thù,
không ai chống nổi họ. Ðức Chúa đã nộp mọi địch thù vào tay họ. 45 Trong
mọi lời tốt lành Ðức Chúa đã phán với nhà Ít-ra-en, không một lời nào ra vô
hiệu: mọi lời đều ứng nghiệm.
Chương 22
III.
Cuối Ðời Ông Giô-Suê
1.
Các Chi Tộc Bên Kia Sông Gio-Ðan Trở Về.
Vấn
Ðề Bàn Thờ Của Họ.
Ðưa
quân của các chi tộc bên kia sông Gio-đan trở về
1
Bấy
giờ, ông Giô-suê triệu tập những người thuộc các chi tộc Rưu-vên, Gát và một
nửa chi tộc Mơ-na-se lại 2 và nói: "Anh em đã tuân giữ tất cả những gì ông
Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã truyền cho anh em, và anh em đã nghe lời tôi
mỗi khi tôi ra lệnh truyền cho anh em. 3 Cho đến nay, đã nhiều ngày
rồi, anh em đã không bỏ rơi anh em mình, và anh em đã cẩn thận giữ mệnh lệnh
của Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em. 4 Giờ đây, Ðức Chúa, Thiên Chúa
của anh em, đã ban cho anh em của anh em được an cư lạc nghiệp, như Người đã
phán với họ. Vậy bây giờ anh em hãy quay lại và đi về lều trại của anh em,
trong phần đất thuộc quyền sở hữu của anh em, mà ông Mô-sê, tôi trung của Ðức
Chúa, đã ban cho anh em bên kia sông Gio-đan. 5 Tuy nhiên, anh em
hãy hết sức cẩn thận thi hành mệnh lệnh và Lề Luật mà ông Mô-sê, tôi trung của
Ðức Chúa, đã truyền cho anh em: đó là yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em,
đi theo mọi đường lối của Người, giữ các mệnh lệnh của Người, gắn bó với Người
và phụng sự Người hết lòng, hết linh hồn anh em.” 6 Ông Giô-suê chúc
phúc cho họ và tiễn họ về lều trại của họ.
7
Ông
Mô-sê đã cấp cho nửa chi tộc Mơ-na-se một phần đất ở Ba-san; ông Giô-suê cấp
cho nửa chi tộc kia một phần đất khác ở giữa anh em của họ bên kia sông
Gio-đan, về phía tây. Khi tiễn chân họ trở về lều trại của họ, ông Giô-suê cũng
chúc phúc cho họ 8 và nói: "Anh em hãy trở về lều trại mình với những tài
sản lớn, với đoàn súc vật hết sức đông đúc, với bạc, vàng, đồng và sắt, với
quần áo nhiều vô kể. Anh em hãy chia cho anh em mình chiến lợi phẩm lấy được
của địch thù."
Xây
bàn thờ trên bờ sông Gio-đan
9
Con
cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se, từ giã con cái Ít-ra-en ở
Si-lô, trong đất Ca-na-an, mà lên đường trở về xứ Ga-la-át trong phần đất thuộc
quyền sở hữu của họ, đất họ đã chiếm làm của riêng, theo lệnh của Ðức Chúa mà
ông Mô-sê đã truyền lại. 10 Khi đến vùng sông Gio-đan thuộc đất
Ca-na-an, con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se xây ở đó một bàn
thờ bên bờ sông Gio-đan, một bàn thờ trông đồ sộ.
11
Nghe
tin đó, con cái Ít-ra-en nói: "Này con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi
tộc Mơ-na-se đã xây bàn thờ đối diện với đất Ca-na-an, trong vùng sông Gio-đan,
quay về phía con cái Ít-ra-en.” 12 Nghe tin đó, toàn thể cộng đồng
con cái Ít-ra-en tụ họp ở Si-lô để tiến lên đánh họ.
Con
cái Ít-ra-en trách móc các chi tộc ở phía tây
13
Con
cái Ít-ra-en cử người đến gặp con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc
Mơ-na-se ở xứ Ga-la-át. Ðó là ông Pin-khát, con của tư tế E-la-da 14 và mười
thủ lãnh cùng đi với ông, mỗi gia tộc trong mọi chi tộc Ít-ra-en một thủ lãnh.
Mỗi người đều đứng đầu gia tộc trong hàng ngũ Ít-ra-en. 15 Khi đến
với con cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se ở miền Ga-la-át, họ
nói rằng: 16 "Toàn thể cộng đồng của Ðức Chúa đã nói thế này:
Hôm nay anh em đã đắc tội với Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, và phản bội
Người, khi xây cho mình một bàn thờ. Hôm nay anh em đã nổi lên chống lại Người.
Sao lại có chuyện bất trung như vậy?
17
Chúng
ta đã phạm tội ở Pơ-o, như vậy chưa đủ sao? Cho đến ngày nay, chúng ta chưa gột
rửa được hết tội đó, mặc dầu tai ương đã giáng xuống cộng đồng của Ðức Chúa, 18
mà hôm nay anh em lại phản bội Ðức Chúa! Nếu hôm nay anh em nổi loạn
chống Ðức Chúa, thì ngày mai Người sẽ nổi cơn thịnh nộ với toàn thể cộng đồng
Ít-ra-en.
19
Nếu
phần đất thuộc quyền sở hữu của anh em là đất ô uế, anh em hãy qua bên vùng đất
thuộc quyền sở hữu của Ðức Chúa, nơi đặt Nhà Tạm của Ðức Chúa. Anh em hãy kiếm
đất làm sở hữu ở giữa chúng tôi. Nhưng chớ nổi lên chống Ðức Chúa, cũng đừng
nổi lên chống chúng tôi, mà xây một bàn thờ nào khác ngoài bàn thờ của Ðức
Chúa, Thiên Chúa chúng ta. 20 Khi A-khan, con cháu ông De-rác, phạm
tội bất trung lúc thi hành lệnh án biệt hiến, thì cơn thịnh nộ đã chẳng giáng
xuống toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, chứ không phải chỉ một mình hắn đã mất mạng
vì tội mình đó sao?"
Các
chi tộc bên kia sông Gio-đan tự biện hộ
21
Con
cái Rưu-vên, con cái Gát và nửa chi tộc Mơ-na-se trả lời cho những người đứng
đầu hàng ngũ Ít-ra-en rằng: 22 "Ðức Chúa, Thần các thần, Ðức
Chúa, Thần các thần, chính Người biết, và Ít-ra-en cũng phải biết: Nếu đó là
một cuộc nổi loạn hay là một tội bất trung đối với Ðức Chúa, thì xin Người đừng
cứu chúng tôi hôm nay. 23 Nếu chúng tôi xây một bàn thờ để phản bội
Ðức Chúa, mà dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, hay là dâng hy lễ kỳ an, thì xin
chính Ðức Chúa hỏi tội! 24 Nhưng không phải thế! Chúng tôi đã hành động như
vậy, vì lo âu trước một sự việc có thể xảy ra. Chúng tôi đã tự nhủ: Mai ngày,
con cái anh em có thể nói với con cái chúng tôi: Các anh có liên quan gì với
Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en? 25 Ðức Chúa đã đặt một ranh giới giữa chúng
tôi và các anh là con cái Rưu-vên và con cái Gát: đó là sông Gio-đan. Các anh
chẳng được chung phần với Ðức Chúa! Như thế, con cái anh em sẽ làm cho con cái
chúng tôi không còn kính sợ Ðức Chúa nữa!
26
Vì
vậy, chúng tôi tự nhủ: Ta hãy lo xây cho mình một bàn thờ, không phải để dâng
lễ toàn thiêu hoặc hy lễ, 27 nhưng để làm bằng chứng giữa chúng tôi
và anh em, giữa dòng dõi đôi bên, rằng chúng tôi chỉ lo việc phụng thờ Ðức
Chúa, với các lễ toàn thiêu, hy lễ và lễ kỳ an của chúng tôi, khi ở trước nhan
Người. Như thế, mai ngày con cái anh em sẽ không thể nói với con cái chúng tôi:
Các anh chẳng được chung phần với Ðức Chúa. 28 Chúng tôi tự nhủ: Giả
sử mai ngày họ nói như thế với chúng tôi, với chúng tôi hay dòng dõi chúng tôi,
thì chúng tôi sẽ nói: Hãy coi bàn thờ này, cha ông chúng tôi đã xây rập theo
mẫu bàn thờ kính Ðức Chúa, không phải để dâng lễ toàn thiêu hoặc hy lễ, mà là
để làm bằng chứng giữa chúng tôi và các anh. 29 Chúng tôi không hề
có ý muốn nổi lên chống Ðức Chúa và phản bội Người hôm nay, khi xây một bàn thờ
khác để dâng lễ toàn thiêu, lễ phẩm và hy lễ, ngoài bàn thờ kính Ðức Chúa, Thiên
Chúa chúng ta, ở trước Nhà Tạm của Người."
Hai
bên thoả hiệp với nhau
30
Sau
khi nghe con cái Rưu-vên, con cái Gát và con cái Mơ-na-se nói những lời ấy, tư
tế Pin-khát, các thủ lãnh của cộng đồng và những người đứng đầu hàng ngũ
Ít-ra-en cùng đi với ông, lấy làm vừa ý. 31 Ông Pin-khát, con của tư
tế E-la-da, nói với con cái Rưu-vên, con cái Gát và con cái Mơ-na-se: "Hôm
nay, chúng tôi biết là Ðức Chúa ngự giữa chúng ta, vì anh em đã không phạm tội
bất trung đó đối với Ðức Chúa; vì thế, anh em đã cứu con cái Ít-ra-en khỏi tay
Ðức Chúa."
32
Ông
Pin-khát, con của tư tế E-la-da, và các thủ lãnh từ giã con cái Rưu-vên, và con
cái Gát ở xứ Ga-la-át, mà trở về với con cái Ít-ra-en ở đất Ca-na-an, và kể lại
cho họ nghe sự việc. 33 Con cái Ít-ra-en lấy làm vừa ý về sự việc
đó. Con cái Ít-ra-en chúc tụng Thiên Chúa và không còn nói đến chuyện tiến lên
đánh con cái Rưu-vên và con cái Gát, để tàn phá vùng đất họ ở. 34 Con
cái Rưu-vên và con cái Gát gọi bàn thờ là "Bằng chứng", vì, theo họ
nói, "bàn thờ làm chứng giữa chúng ta rằng Ðức Chúa là Thiên Chúa."
Chương 23
2.
Diễn Từ Cuối Cùng Của Ông Giô-Suê
Ông
Giô-suê tóm kết công trình của mình
1
Lâu
ngày sau khi Ðức Chúa ban cho Ít-ra-en được thảnh thơi mọi bề, không còn thù
địch nào nữa, và khi ông Giô-suê đã già, tuổi đã cao, 2 thì ông
triệu tập toàn thể Ít-ra-en, các kỳ mục, những người đứng đầu, các thủ lãnh và
ký lục, rồi nói: "Tôi đã già nua tuổi tác. 3 Phần anh em, anh
em đã chứng kiến mọi sự mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, giáng xuống trên
mọi dân đó vì anh em, bởi Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã chiến đấu cho anh
em. 4 Anh em xem! Tôi đã cho các chi tộc của anh em bắt thăm được
đất của các dân còn sót lại đó làm gia nghiệp, cũng như của mọi dân tôi đã quét
sạch, từ sông Gio-đan cho đến Biển Lớn, phía mặt trời lặn. 5 Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ đẩy lui chúng cho khuất mắt anh em, sẽ trục
xuất chúng đi cho khuất mắt anh em. Anh em sẽ chiếm lấy đất đai của chúng, theo
như lời Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã phán.
Phải
sống thế nào giữa các dân ngoại
6
Vậy
anh em phải thật cương quyết tuân giữ và thực hành tất cả những gì ghi trong
Sách Luật Mô-sê, không đi trệch bên phải bên trái, 7 không lui tới
với những dân ấy, những dân còn sót lại giữa anh em. Anh em đừng kêu tên các
thần của chúng, đừng lấy tên các thần ấy mà thề. Ðừng phụng thờ chúng, đừng sụp
xuống lạy chúng. 8 Trái lại, anh em sẽ chỉ gắn bó với Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh em, như anh em đã làm cho đến ngày nay. 9 Ðức
Chúa đã trục xuất những dân lớn mạnh cho khuất mắt anh em, và không ai đã đứng
vững trước mặt anh em cho đến ngày nay. 10 Chỉ một người trong anh
em mà đuổi được cả ngàn người, vì chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, chiến
đấu cho anh em, theo lời Người đã phán với anh em. 11 Anh em phải
hết sức chú tâm yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em.
12
Nhưng
nếu anh em phản bội Ðức Chúa và gắn bó với những dân còn sót lại đang ở với anh
em đó, nếu anh em kết duyên kết nghĩa với chúng, nếu anh em lui tới với chúng
và chúng lui tới với anh em, 13 thì hãy biết chắc rằng Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh em, sẽ không còn tiếp tục trục xuất các dân đó cho khuất mắt
anh em: chúng sẽ thành dò lưới và cạm bẫy hại anh em, thành roi quất vào sườn
và gai đâm vào mắt, cho đến khi anh em biến khỏi mảnh đất tốt này mà Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh em, đã ban cho anh em.
14
Hôm
nay đây tôi bước vào đoạn đường mà mọi người trên đời này phải đi qua. Anh em
hãy nhìn nhận với tất cả tấm lòng và tâm hồn, là trong mọi lời tốt lành mà Ðức
Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã phán với anh em, không một lời nào đã ra vô hiệu:
mọi sự đã ứng nghiệm cho anh em; không một lời nào đã ra vô hiệu.
15
Như
mọi lời tốt lành mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã phán hứa cho anh em đều
ứng nghiệm, thì Ðức Chúa cũng sẽ làm cho mọi lời nguyền rủa anh em được ứng
nghiệm, cho đến khi anh em bị tiêu diệt khiến anh em không còn trên mảnh đất
tốt này mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã ban cho anh em.
16
Nếu
anh em vi phạm giao ước mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh
em phải giữ, để đi phụng thờ các thần khác và sụp xuống lạy chúng, thì Ðức Chúa
sẽ bừng bừng nổi cơn thịnh nộ chống lại anh em, và anh em sẽ mau chóng biến
khỏi đất tốt lành Người đã ban cho anh em."
Chương 24
3.
Ðại Hội Si-Khem
1
Ông
Giô-suê quy tụ ở Si-khem mọi chi tộc Ít-ra-en và triệu tập các kỳ mục Ít-ra-en,
các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa. 2 Ông
Giô-suê nói với toàn dân: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế
này: "Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến
Te-rác là cha của Áp-ra-ham và của Na-kho, đã phụng thờ các thần khác. 3 Ta
đã đem cha các ngươi là Áp-ra-ham từ bên kia Sông Cả mà dẫn đi khắp đất
Ca-na-an. Ta đã cho dòng dõi nó nên đông đúc và ban I-xa-ác cho nó. 4 Ta
đã ban Gia-cóp và Ê-xau cho I-xa-ác. Ta cho Ê-xau chiếm hữu núi Xê-ia. Còn
Gia-cóp và các con thì xuống Ai-cập. 5 Ta đã sai Mô-sê và A-ha-ron
đi; Ta đã dùng những việc Ta làm ở Ai-cập mà đánh phạt nước ấy, rồi Ta đã đưa
các ngươi ra khỏi đó. 6 Ta đã đưa cha ông các ngươi ra khỏi Ai-cập
và các ngươi đã tới biển. Người Ai-cập, với chiến xa và kỵ binh, đuổi theo cha
ông các ngươi cho đến Biển Sậy. 7 Họ kêu lên Ðức Chúa; Người cho
sương mù sa xuống giữa các ngươi và người Ai-cập, Người cho biển ập xuống vùi
lấp chúng đi. Mắt các ngươi đã chứng kiến những việc Ta đã làm ở Ai-cập. Các
ngươi đã ở lại lâu ngày trong sa mạc. 8 Ta đã đem các ngươi vào đất
người E-mô-ri. Chúng ở bên kia sông Gio-đan. Chúng đã giao chiến với các ngươi,
nhưng Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. Các ngươi đã chiếm đất của chúng, và
Ta đã tiêu diệt chúng trước mắt các ngươi. 9 Rồi Ba-lác, con của
Xíp-po, vua Mô-áp, đã đứng lên giao chiến với Ít-ra-en. Ba-lác đã cho mời
Bi-lơ-am, con của Bơ-o, đến nguyền rủa các ngươi. 10 Nhưng Ta đã
không muốn nghe Bi-lơ-am. Nó đã phải chúc phúc cho các ngươi, và Ta đã giải
thoát các ngươi khỏi tay Ba-lác.
11
Các
ngươi đã qua sông Gio-đan và tới Giê-ri-khô. Những người làm chủ Giê-ri-khô
giao chiến với các ngươi: đó là người E-mô-ri, Pơ-rít-di, Ca-na-an, Khết,
Ghia-ga-si, Khi-vi và Giơ-vút. Nhưng Ta đã nộp chúng vào tay các ngươi. 12
Ta đã thả ong bầu bay đi trước các ngươi; chúng đuổi hai vua E-mô-ri đi
cho khuất mắt các ngươi; chính ong bầu chứ không phải cung kiếm của (các) ngươi
đã đuổi chúng. 13 Ta ban cho các ngươi đất (các) ngươi đã không vất
vả khai phá, những thành các ngươi đã không xây mà được ở, những vườn nho và
vườn ô-liu các ngươi đã không trồng mà được ăn."
Ít-ra-en
chọn Ðức Chúa
14
"Bây
giờ anh em hãy kính sợ Ðức Chúa, hãy chân thành và trung tín phụng thờ Người.
Anh em hãy vất bỏ các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả và ở
Ai-cập, và hãy phụng thờ Ðức Chúa. 15 Nếu anh em không bằng lòng
phụng thờ Ðức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các
thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người
E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ
phụng thờ Ðức Chúa."
16
Dân
đáp lại: "Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Ðức Chúa để phụng thờ các thần
khác! 17 Vì chính Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với
cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi
những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi,
giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. 18 Ðức Chúa đã đuổi cho
khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mô-ri ở trong xứ. Về phần
chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng
tôi."
19
Ông
Giô-suê nói với dân: "Anh em sẽ không thể phụng thờ Ðức Chúa, vì Người là
Thiên Chúa thánh thiện, Thiên Chúa ghen tương; Người sẽ không dung thứ tội phản
nghịch cũng như tội lỗi của anh em đâu. 20 Nếu anh em lìa bỏ Ðức
Chúa để phụng thờ các thần ngoại, Người sẽ quay lại chống anh em, giáng hoạ
xuống anh em và tiêu diệt anh em, dù trước đây Người đã giáng phúc cho anh
em."
21
Dân
nói với ông Giô-suê: "Không đâu, chúng tôi quyết phụng thờ Ðức Chúa!” 22
Ông Giô-suê nói với dân: "Anh em hãy cam đoan với chính mình là anh
em đã chọn Ðức Chúa để phụng thờ." Họ nói: "Xin cam đoan!” 23 Ông
Giô-suê nói: "Bây giờ, anh em hãy vứt bỏ các thần ngoại đang ở với anh em,
và hướng lòng về Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.” 24 Dân nói với
ông Giô-suê: "Chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi,
và chúng tôi sẽ nghe lời Người."
Giao
ước Si-khem
25
Trong
ngày ấy, ông Giô-suê thay mặt dân kết giao ước, ông đưa ra quy luật và điều
luật ở Si-khem. 26 Ông Giô-suê viết những lời đó trong Sách Luật của
Thiên Chúa. Ông lấy một tảng đá lớn và dựng ở đó, dưới cây sồi trong nơi thánh
của Ðức Chúa. 27 Ông Giô-suê nói với toàn dân: "Ðây, tảng đá
này sẽ làm chứng về những điều chúng ta đã cam đoan, vì nó đã nghe mọi lời Ðức
Chúa phán với chúng ta. Nó sẽ làm chứng về những điều anh em đã cam đoan, kẻo
anh em chối bỏ Thiên Chúa của anh em.” 28 Ông Giô-suê giải tán dân
chúng, ai nấy trở về phần đất họ đã nhận làm gia nghiệp.
4.
Phụ Lục
Ông
Giô-suê qua đời
29
Sau
những biến cố đó, tôi trung của Ðức Chúa là ông Giô-suê, con ông Nun, từ trần,
thọ một trăm mười tuổi. 30 Người ta chôn cất ông tại thửa đất ông đã
nhận được làm gia nghiệp ở Tim-nát Xe-rác, trong vùng núi Ép-ra-im; phía bắc
núi Ga-át. 31 Ít-ra-en đã phụng thờ Ðức Chúa suốt thời gian ông
Giô-suê và các kỳ mục đến sau ông còn sống; những người này biết tất cả công
trình Ðức Chúa đã thực hiện cho Ít-ra-en.
Hài
cốt ông Giu-se. Tư tế E-la-da qua đời.
32
Hài
cốt ông Giu-se mà con cái Ít-ra-en đã đem lên từ Ai-cập, thì được chôn cất ở
Si-khem, trong thửa ruộng ông Gia-cóp đã mua của con ông Kha-mo, cha ông
Si-khem, với giá một trăm đồng bạc; đó là phần gia nghiệp của con cái ông
Giu-se. 33 Còn ông E-la-da, con ông A-ha-ron, sau khi chết thì được
chôn cất trên ngọn đồi của con ông là ông Pin-khát; đồi này đã được cấp cho ông
Pin-khát trong miền núi Ép-ra-im.
Thủ Lãnh
Chương 01
Lời
Dẫn Thứ Nhất
Kể
Sơ Lược Về Cuộc Ðịnh Cư Tại Ca-Na-An
Cuộc
định cư của Giu-đa, Si-mê-ôn, Ca-lếp và Kê-ni (Gs 15:13 -19)
1
Sau
khi ông Giô-suê từ trần, con cái Ít-ra-en đã thỉnh ý Ðức Chúa rằng: "Ai
trong chúng con sẽ lên đương đầu với quân Ca-na-an trước tiên để giao tranh với
chúng?” 2 Ðức Chúa phán: "Giu-đa sẽ lên: Này Ta đã trao đất ấy
vào tay nó.” 3 Giu-đa liền nói với Si-mê-ôn, anh mình, rằng:
"Mời anh cùng tôi lên phần đất tôi đã trúng thăm; chúng ta cùng chiến đấu
chống quân Ca-na-an; tới lượt tôi, tôi sẽ cùng anh đi đến phần đất anh đã trúng
thăm." Và Si-mê-ôn đã cùng đi với ông ta. 4 Vậy Giu-đa đi lên;
Ðức Chúa đã trao quân Ca-na-an và quân Pơ-rít-di vào tay họ; và tại Be-déc, họ
đã đánh bại mười ngàn người của chúng. 5 Họ đã gặp A-đô-ni Be-déc
tại Be-déc; họ liền tấn công y, đánh tan quân Ca-na-an và quân Pơ-rít-di. 6
A-đô-ni Be-déc tháo chạy, nhưng họ đã đuổi theo bắt được y, và chặt ngón
tay cái và ngón chân cái của y. 7 A-đô-ni Be-déc nói: "Bảy mươi
vua bị chặt ngón tay cái và ngón chân cái, đã ăn mót dưới gầm bàn của tôi. Tôi
đã xử sự thế nào, thì Thiên Chúa cũng xử lại với tôi như vậy." Họ đưa y
vào Giê-ru-sa-lem và y đã chết tại đó. 8 Con cái Giu-đa đã tấn công
Giê-ru-sa-lem, chiếm lấy thành, dùng gươm giết và nổi lửa đốt thành.
9
Sau
đó con cái Giu-đa đã xuống tấn công người Ca-na-an bấy giờ đang ở trên núi, ở
vùng Ne-ghép và vùng Sơ-phê-la. 10 Giu-đa cũng tiến đánh quân
Ca-na-an bấy giờ đang ở Khép-rôn, -tên của Khép-rôn trước kia là Kia-giát
Ác-ba- và họ đã đánh bại Sê-sai, A-khi-man và Tan-mai. 11 Từ đấy họ
tiến đánh dân cư thành Ðơ-via -tên của Ðơ-via trước kia là Kia-giát Xê-phe. 12
Ông Ca-lếp nói: "Ai đánh và chiếm được Kia-giát Xê-phe, tôi sẽ gả
Ác-xa con gái tôi cho người ấy.” 13 Ót-ni-ên con ông Cơ-nát, em ông
Ca-lếp, đã chiếm được thành; và ông Ca-lếp đã gả Ác-xa con gái mình cho
Ót-ni-ên. 14 Khi cô ta đến, Ót-ni-ên liền xúi cô xin cha một thửa
ruộng. Cô xuống lừa, và ông Ca-lếp hỏi cô: "Chuyện gì thế con?” 15 Cô
thưa: "Xin cha cho con một món quà: vì cha đã cho con đất Ne-ghép, thì xin
cũng cho con cả suối nước nữa." Ông Ca-lếp đã cho cô suối trên suối dưới. 16
Con cái ông Kê-ni, nhạc phụ ông Mô-sê, đã từ Thành Chà Là cùng với con
cái Giu-đa đi lên sa mạc Giu-đa, trong vùng Ne-ghép A-rát. Họ đã đi và đến ở
với dân ấy. 17 Giu-đa đã đi với Si-mê-ôn anh mình. Họ tấn công quân
Ca-na-an bấy giờ đang ở Xơ-phát và đã tru diệt chúng. Người ta đã gọi tên thành
ấy là Khoóc-ma. 18 Rồi Giu-đa chiếm Ga-da và vùng lân cận, chiếm
Át-cơ-lôn và vùng lân cận, chiếm Éc-rôn và vùng lân cận. 19 Ðức Chúa
phù trợ Giu-đa và ông đã chiếm giữ vùng núi; nhưng ông không trục xuất được dân
cư vùng đồng bằng, vì chúng có xe sắt. 20 Các ông đã cứ lời ông
Mô-sê mà giao Khép-rôn cho ông Ca-lếp, và ông này đã đuổi ba người con của
A-nác ra khỏi đó. 21 Còn những người Giơ-vút cư ngụ tại
Giê-ru-sa-lem, thì con cái Ben-gia-min đã không đánh đuổi họ; vì thế những
người Giơ-vút vẫn ở với con cái Ben-gia-min tại Giê-ru-sa-lem cho tới ngày nay.
Chiếm
Bết Ên
22
Nhà
Giu-se cũng tiến lên Bết Ên và Ðức Chúa ở với họ. 23 Nhà Giu-se đã
cho người do thám Bết Ên -tên thành này trước kia là Lút. 24 Các
thám tử gặp một người đàn ông từ trong thành đi ra, liền nói với người ấy:
"Chỉ cho chúng tôi lối vào thành; chúng tôi sẽ xử khoan hồng với anh!” 25
Người ấy chỉ cho họ lối vào thành, và họ đã dùng gươm tàn sát cả thành;
còn người ấy cùng với cả thị tộc thì họ để cho đi. 26 Người ấy ra đi
đến đất người Khết, xây một thành và đặt tên là Lút. Ðó là tên của thành ấy cho
tới ngày nay.
Các
chi tộc phía bắc
27
Mơ-na-se
không đánh thắng được Bết San và các vùng phụ thuộc, cũng như Ta-nác và các
vùng phụ thuộc, cũng chẳng đánh thắng được dân cư thành Ðo và các vùng phụ
thuộc, dân cư thành Gíp-lơ-am và các vùng phụ thuộc, dân cư thành Mơ-ghít-đô và
các vùng phụ thuộc. Người Ca-na-an quyết ở lại trong đất đó. 28 Nhưng
khi Ít-ra-en trở nên hùng cường, thì bắt người Ca-na-an làm nô dịch cho mình,
chứ không trục xuất được chúng. 29 Ép-ra-im không trục xuất được
người Ca-na-an cư ngụ ở Ghe-de, và người Ca-na-an vẫn sống giữa họ ở Ghe-de. 30
Dơ-vu-lun không trục xuất được dân cư thành Kít-rôn và dân cư thành
Na-ha-lôn; người Ca-na-an vẫn sống giữa họ, nhưng phải làm nô dịch cho họ. 31
A-se không trục xuất được dân cư thành Ác-cô, dân cư thành Xi-đôn,
Ác-láp, Ác-díp, Khen-ba, A-phích và Rơ-khốp. 32 Thế là người A-se cư
ngụ giữa người Ca-na-an đang sống trên đất ấy, vì họ đã không trục xuất được
chúng. 33 Náp-ta-li không trục xuất được dân cư thành Bết Se-mét và
dân cư thành Bết A-nát, nên họ cư ngụ giữa người Ca-na-an đang sống trong đất
ấy, nhưng dân cư thành Bết Se-mét và Bết A-nát đã phải làm nô dịch cho họ. 34
Người E-mô-ri đã dồn con cháu Ðan lên vùng núi, không để cho họ xuống
đồng bằng. 35 Người E-mô-ri quyết giữ vững Ha Khe-rét, Ai-gia-lôn và
Sa-an-vim; nhưng khi bàn tay nhà Giu-se đè nặng trên chúng, thì chúng đã phải
làm nô dịch cho họ. 36 Ranh giới của người E-mô-ri chạy dài từ dốc Ác-ráp-bim,
từ Núi Ðá trở lên.
Chương 02
Thần
sứ của Ðức Chúa cho Ít-ra-en biết trước những điều bất hạnh
1
Thần
sứ của Ðức Chúa từ Ghin-gan lên Bô-khim và nói: "Ta đã đưa các ngươi lên
từ Ai-cập và dẫn vào đất Ta đã thề ban cho tổ tiên các ngươi. Ta đã phán: Chẳng
bao giờ Ta phá huỷ Giao Ước của Ta với các ngươi. 2 Còn các ngươi
thì không được kết ước với dân cư trong xứ này; phải triệt hạ các bàn thờ của
chúng. Nhưng các ngươi đã không nghe lời Ta. Các ngươi đã làm gì thế? 3 Vậy Ta
bảo: Ta sẽ không đuổi chúng cho khuất mắt các ngươi, và chúng sẽ sống kè kè bên
các ngươi; các thần của chúng sẽ là cạm bẫy cho các ngươi.” 4 Khi
thần sứ của Ðức Chúa nói những lời ấy cho toàn thể con cái Ít-ra-en, thì dân oà
lên khóc. 5 Thế là người ta đặt tên cho nơi ấy là Bô-khim và họ đã
tế lễ kính Ðức Chúa tại đó.
Lời
Dẫn Thứ Hai
Nhận
Ðịnh Tổng Quát Về Thời Các Thủ Lãnh
Cuối
đời ông Giô-suê
6
Bấy
giờ ông Giô-suê giải tán dân chúng, và con cái Ít-ra-en ai nấy về nơi mình đã
trúng thăm làm gia nghiệp, để chiếm hữu đất đai. 7 Dân đã phục vụ
Ðức Chúa suốt thời ông Giô-suê và suốt thời các kỳ mục là những người sống lâu
sau ông Giô-suê, và đã chứng kiến tất cả những công cuộc vĩ đại Ðức Chúa đã
thực hiện cho Ít-ra-en. 8 Ông Giô-suê, con ông Nun, tôi trung của
Ðức Chúa, từ trần, thọ một trăm mười tuổi. 9 Người ta chôn cất ông
tại thửa đất ông đã nhận được làm gia nghiệp ở Tim-nát Khe-rét trong vùng núi
Ép-ra-im, phía bắc núi Ga-át. 10 Khi đến lượt cả thế hệ ấy về sum
họp với tổ tiên mình, thì xuất hiện một thế hệ kế tiếp không hề biết Ðức Chúa
và những công cuộc Người đã thực hiện cho Ít-ra-en.
Ý
nghĩa tôn giáo thời các thủ lãnh
11
Con
cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, và đã làm tôi các thần Ba-an. 12
Họ đã lìa bỏ Ðức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên, Ðấng đã đưa họ ra khỏi đất
Ai-cập, và họ đã đi theo các thần ngoại lai trong số các thần của các dân chung
quanh. Họ sụp lạy các thần ấy và chọc giận Ðức Chúa. 13 Họ đã lìa bỏ
Ðức Chúa để làm tôi thần Ba-an và các nữ thần Át-tô-rét. 14 Ðức Chúa
nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đã trao họ vào tay quân cướp cho chúng tha hồ
bóc lột; Người đã trao họ vào tay kẻ thù chung quanh, nên họ không thể đương
đầu nổi với kẻ thù. 15 Cứ mỗi lần họ xuất trận là tay Ðức Chúa giáng
hoạ trên họ, như Ðức Chúa đã phán và thề với họ. Họ lâm cảnh khốn cùng.
16
Bấy
giờ Ðức Chúa cho xuất hiện các thủ lãnh để giải thoát họ khỏi tay những kẻ cướp
phá họ. 17 Nhưng rồi các thủ lãnh của họ, họ cũng chẳng nghe mà cứ
đàng điếm với các thần ngoại lai và sụp lạy các thần đó. Họ vội từ bỏ con đường
cha ông họ đã đi, là tuân giữ mệnh lệnh của Ðức Chúa; họ đã không noi gương các
ngài. 18 Khi Ðức Chúa cho xuất hiện các thủ lãnh để giúp họ, thì Ðức
Chúa ở với vị thủ lãnh và Người cứu họ khỏi tay quân thù bao lâu vị thủ lãnh
còn sống, vì Ðức Chúa động lòng trắc ẩn trước những tiếng than khóc của họ, khi
họ bị đàn áp và ức hiếp. 19 Nhưng sau khi vị thủ lãnh qua đời thì họ
lại ra hư đốn hơn cả cha ông họ. Họ chạy theo các thần ngoại lai để làm tôi và
sụp lạy chúng, chứ không từ bỏ những hành vi và đường lối ngoan cố của họ.
Lý
do tồn tại của chư dân
20
Ðức
Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en; Người phán: "Vì lũ dân này đã vi phạm
giao ước Ta đã truyền cho cha ông chúng phải giữ, và chúng đã không nghe tiếng
Ta, 21 nên trong số các dân mà Giô-suê còn để lại khi từ trần, Ta cũng
sẽ không đuổi một dân nào cho khuất mắt chúng. 22 Ta sẽ dùng các dân
ấy để thử thách Ít-ra-en, xem chúng có tuân giữ đường lối Ðức Chúa như cha ông
chúng đã tuân giữ hay không. 23 Vậy Ðức Chúa đã để cho các dân ấy
tiếp tục tồn tại mà không vội trục xuất chúng, cũng chẳng trao chúng vào tay
ông Giô-suê.
Chương 03
1
Ðây
là các dân Ðức Chúa cho tồn tại, để dùng chúng mà thử thách tất cả những người
Ít-ra-en đã không biết các cuộc chiến tại Ca-na-an là gì, 2 chỉ cốt
cho các thế hệ con cái Ít-ra-en biết học việc binh đao, ít là cho những kẻ
trước đây chưa biết. 3 Năm vương hầu Phi-li-tinh và tất cả các người
Ca-na-an, người Xi-đôn, người Khi-vi ở trên vùng núi Li-băng, từ núi Ba-an
Khéc-môn đến Cửa Ải Kha-mát. 4 Chúng còn đó để thử thách Ít-ra-en,
xem họ có tuân giữ mệnh lệnh Ðức Chúa đã dùng ông Mô-sê mà truyền cho cha ông
họ hay không. 5 Vậy con cái Ít-ra-en đã sống giữa người Ca-na-an,
người Khết, người E-mô-ri, người Pơ-rít-di, người Khi-vi và người Giơ-vút. 6
Và họ đã cưới con gái của chúng, cũng như gả con gái mình cho chúng, và
họ đã làm tôi các thần của chúng.
Sự
Tích Các Thủ Lãnh
1.
Ông Ót-Ni-Ên
7
Con
cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa. Họ đã lìa bỏ Ðức Chúa, Thiên
Chúa của họ, và làm tôi các thần Ba-an và nữ thần A-sê-ra. 8 Ðức
Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đã trao họ vào tay Cu-san Rít-a-tha-gim,
vua A-ram Na-ha-ra-gim; con cái Ít-ra-en đã làm tôi Cu-san Rít-a-tha-gim tám
năm.
9
Con
cái Ít-ra-en kêu lên Ðức Chúa và Ðức Chúa cho xuất hiện một vị cứu tinh là ông
Ót-ni-ên, con ông Cơ-nát, em ông Ca-lếp, để cứu con cái Ít-ra-en; ông Ót-ni-ên
đã giải thoát họ. 10 Thần khí của Ðức Chúa ở trên ông, và ông đã
lãnh đạo Ít-ra-en. Ông xuất trận và Ðức Chúa đã trao Cu-san Rít-a-tha-gim, vua
A-ram, vào tay ông, và tay ông đè nặng lên Cu-san Rít-a-tha-gim. 11 Bấy
giờ lãnh thổ được bình an bốn mươi năm. Sau đó ông Ót-ni-ên, con ông Cơ-nát, từ
trần.
2.
Ông Ê-Hút
12
Con
cái Ít-ra-en lại làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, và Ðức Chúa đã tăng cường sức
mạnh cho Éc-lon, vua Mô-áp, chống Ít-ra-en, vì họ đã làm điều dữ trái mắt Ðức
Chúa. 13 Ông đã phối hợp với con cái Am-mon và A-ma-lếch, rồi tiến
quân, đánh bại Ít-ra-en và chiếm lấy Thành Chà Là của họ. 14 Con cái
Ít-ra-en phải làm tôi Éc-lon, vua Mô-áp, mười tám năm.
15
Bấy
giờ con cái Ít-ra-en kêu lên Ðức Chúa, Ðức Chúa liền cho xuất hiện một vị cứu
tinh là ông Ê-hút, con ông Ghê-ra, người Ben-gia-min, một người thuận tay trái.
Vậy con cái Ít-ra-en nhờ ông mang cống lễ nộp cho Éc-lon, vua Mô-áp. 16 Ông
Ê-hút làm cho mình một chiếc gươm hai lưỡi, dài một gô-mét, và cột dưới áo bên
hông phải. 17 Ông mang cống lễ nộp cho Éc-lon, vua Mô-áp; Éc-lon là
một người béo phị. 18 Sau khi đã trao cống lễ, ông cho đám người
mang cống lễ đi ra. 19 Còn chính ông, người đã viếng các tượng đá ở
Ghin-gan trở về, thì nói: "Thưa ngài, tôi có một điều bí mật muốn thưa với
ngài." Vua nói: "Im lặng!" Tất cả mọi người túc trực bên vua đều
ra ngoài. 20 Bấy giờ ông Ê-hút tới gần vua, lúc ấy đang ngồi ở phòng
mát phía trên dành riêng cho vua, và ông Ê-hút nói: "Tôi có một lời của
Thiên Chúa phải nói cho ngài." Vua liền bỏ ghế đứng lên. 21 Ông
Ê-hút thò tay trái, rút chiếc gươm từ hông phải, thọc vào bụng vua 22 lút cán,
mỡ bám chặt lưỡi gươm - vì ông Ê-hút không rút gươm khỏi bụng vua - và lưỡi
gươm lòi ra đằng mông. 23 Ông Ê-hút qua hành lang mà đi ra, sau khi
đã đóng các cửa phòng trên và khoá lại.
24
Ông
vừa đi ra thì các đầy tớ vua đi vào. Họ thấy các cửa phòng trên vẫn khoá thì
nói: "Hẳn là vua đang mắc việc cần trong phòng sau.” 25 Họ đợi
hoài mà không thấy mở cửa phòng trên; nên sau cùng họ lấy chìa khoá mở phòng
ra, thì kìa tôn chủ của họ nằm chết sóng sượt dưới đất.
26
Phần
ông Ê-hút đã tẩu thoát, lúc họ còn đang chờ. Ông đi qua các tượng đá mà trốn
chạy về hướng Ha Xơ-i-ra. 27 Vừa tới nơi, ông liền rúc tù và vang
khắp núi Ép-ra-im. Con cái Ít-ra-en cùng với ông từ núi tràn xuống; chính ông
đi tiên phong. 28 Ông bảo họ: "Hãy theo tôi, vì Ðức Chúa đã
trao vào tay anh em kẻ thù của anh em là người Mô-áp." Họ đi theo ông,
chiếm giữ các lối qua sông Gio-đan, không để lọt một người Mô-áp nào. 29 Thời
kỳ ấy họ hạ được khoảng mười ngàn người Mô-áp, tất cả những kẻ cường tráng và
dũng cảm, không sót một tên. 30 Ngày hôm ấy, Mô-áp đã bị bàn tay
Ít-ra-en hạ nhục, và lãnh thổ được bình an tám mươi năm.
3.
Ông Sam-Ga
31
Sau
ông là ông Sam-ga, con ông A-nát, ông đã dùng gậy thúc bò đánh giết sáu trăm
người Phi-li-tinh. Ông cũng là một vị cứu tinh của Ít-ra-en.
Chương 04
4.
Bà Ðơ-Vô-Ra Và Ông Ba-Rắc
1
Con
cái Ít-ra-en lại làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa sau khi ông Ê-hút từ trần, 2
nên Ðức Chúa trao họ vào tay Gia-vin, vua Ca-na-an, trị vì tại Kha-xo.
Tướng chỉ huy quân đội của ông là Xi-xơ-ra, cư ngụ ở Kha-rô-sét Ha Gô-gim.
3
Con
cái Ít-ra-en kêu lên Ðức Chúa, vì ông Gia-vin có đến chín trăm xe sắt, và ông
đã đàn áp con cái Ít-ra-en một cách tàn bạo suốt hai mươi năm trường.
Bà
Ðơ-vô-ra
4
Bà
Ðơ-vô-ra, một nữ ngôn sứ, vợ ông Láp-pi-đốt, thời ấy làm thủ lãnh xét xử
Ít-ra-en. 5 Bà ngồi xử dưới Cây Chà Là Ðơ-vô-ra, giữa Ra-ma và Bết
Ên, trên núi Ép-ra-im, và con cái Ít-ra-en đến với bà để bà xét xử cho. 6 Bà
sai người mời ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, từ Ke-đét thuộc Náp-ta-li tới, và
nói với ông: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, lại không nói với ông thế
này sao? Hãy đi chiêu mộ trong vùng núi Ta-bo lấy mười ngàn người trong số con
cái Náp-ta-li và trong số con cái Dơ-vu-lun để đi với ngươi. 7 Ta sẽ
dụ tướng Xi-xơ-ra, chỉ huy quân đội vua Gia-vin tiến về phía ngươi, bên suối
Ki-sôn, cùng với chiến xa và quân binh của nó, và Ta sẽ trao nó vào tay ngươi.”
8 Ông Ba-rắc nói với bà: "Nếu bà đi với tôi thì tôi đi, nếu bà
không đi với tôi thì tôi không đi.” 9 Bà trả lời: "Chắc chắn
tôi sẽ đi với ông. Có điều là trong chuyến đi này, vinh dự không thuộc về ông,
vì Ðức Chúa sẽ trao Xi-xơ-ra vào tay một người đàn bà." Bà Ðơ-vô-ra chỗi
dậy đi với ông Ba-rắc đến Ke-đét. 10 Ông Ba-rắc triệu tập Dơ-vu-lun
và Náp-ta-li tiến về Ke-đét. Mười ngàn người theo chân ông, cả bà Ðơ-vô-ra cũng
đi với ông.
Ông
Khe-ve, người Kê-ni
11
Ông
Khe-ve, người Kê-ni, đã tách khỏi Ca-in, khỏi con cái ông Khô-váp, nhạc phụ ông
Mô-sê, và đã dựng lều bên cây sồi tại Xa-an-na-gim, gần Ke-đét.
Xi-xơ-ra
bị đánh bại
12
Người
ta báo tin cho Xi-xơ-ra rằng: "Ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, đã lên núi
Ta-bo". 13 Tướng Xi-xơ-ra liền tập trung tất cả các chiến xa,
chín trăm xe sắt và toàn bộ lực lượng dưới quyền ông, đưa từ Kha-rô-sét Ha
Gô-gim đến suối Ki-sôn. 14 Bấy giờ bà Ðơ-vô-ra nói với ông Ba-rắc:
"Ðứng lên! Vì đây là ngày Ðức Chúa trao Xi-xơ-ra vào tay ông. Ðức Chúa lại
không xuất trận trước mặt ông sao?" Ông Ba-rắc từ núi Ta-bo đi xuống với
mười ngàn quân theo sau. 15 Ðức Chúa dùng gươm của ông Ba-rắc đánh
Xi-xơ-ra cùng với chiến xa và toàn thể doanh trại của ông này, khiến tất cả
phải tán loạn trước mặt ông Ba-rắc. Xi-xơ-ra tụt khỏi xe và chạy bộ mà trốn. 16
Ông Ba-rắc truy kích đoàn xe và quân binh cho đến Kha-rô-sét Ha Gô-gim.
Tất cả quân binh của Xi-xơ-ra đều ngã gục dưới lưỡi gươm của ông Ba-rắc, không
sót một tên.
Xi-xơ-ra
bị giết
17
Xi-xơ-ra
chạy bộ trốn về phía lều bà Gia-ên, vợ ông Khe-ve, người Kê-ni, vì lúc ấy đang
có hoà bình giữa Gia-vin, vua Kha-xo, với nhà Khe-ve, người Kê-ni. 18 Bà
Gia-ên ra đón Xi-xơ-ra, và nói với ông: "Thưa ngài, xin dừng lại, xin dừng
lại nơi đây, đừng sợ!" Ông dừng lại, đi theo bà vào lều; bà lấy tấm thảm
phủ lên ông. 19 Ông nói với bà: "Cho tôi xin chút nước uống, vì
tôi khát quá." Bà liền mở vò sữa, cho ông uống, rồi lại phủ kín ông. 20
Ông nói với bà: "Xin bà đứng ở cửa lều, hễ ai đến hỏi có người nào ở
đây không, thì bà nói: "Không.” 21 Nhưng bà Gia-ên, vợ ông
Khe-ve, lấy cái cọc lều, tay cầm búa, lặng lẽ đến bên Xi-xơ-ra, đóng cọc vào
màng tang ông, xuyên xuống đất, đang lúc ông ngủ say vì mệt. Thế là ông chết. 22
Ðang lúc ấy, ông Ba-rắc truy nã Xi-xơ-ra vừa tới, thì bà Gia-ên ra đón
ông và nói: "Lại đây, tôi cho ông xem người ông đang tìm." Ông đi
theo bà, thì này, Xi-xơ-ra nằm chết với cái cọc xuyên màng tang.
Ít-ra-en
được giải thoát
23
Hồi
đó Thiên Chúa hạ nhục Gia-vin, vua Ca-na-an, trước mặt con cái Ít-ra-en. 24
Bàn tay con cái Ít-ra-en ngày càng đè nặng trên Gia-vin, vua Ca-na-an,
cho đến khi họ tiễu trừ được Gia-vin, vua Ca-na-an.
Chương 05
Bài
ca của bà Ðơ-vô-ra và ông Ba-rắc
1
Ngày
hôm ấy bà Ðơ-vô-ra và ông Ba-rắc, con ông A-vi-nô-am, hát rằng:
2
"Trong
Ít-ra-en thuở chiến binh xoã tóc xung phong,
thuở
toàn dân tình nguyện lên đường,
các
bạn ơi, nào chúc tụng Ðức Chúa!
3
Nghe
đây, hỡi các vua! Hãy lắng tai, này các thủ lãnh!
Tôi
sẽ hát lên mừng Ðức Chúa,
sẽ
đàn ca kính Người là Thiên Chúa của Ít-ra-en.
4
Thân
lạy Ðức Chúa, khi Ngài ra khỏi Xê-ia,
khi
Ngài từ ruộng đồng Ê-đôm xuất phát,
thì
trái đất chuyển rung, các tầng trời tan chảy,
mây
cũng tan chảy thành mưa.
5
Núi
đồi chấn động trước nhan Ðức Chúa,
Xi-nai
cũng chấn động trước nhan Người
là
Thiên Chúa của Ít-ra-en.
6
Thời
Sam-ga, con ông A-nát,
thời
Gia-ên, còn đâu những đoàn khách lữ hành!
Những
kẻ xưa kia đi trên quan lộ
nay
lần mò theo những lối quanh co.
7
Trong
Ít-ra-en không còn thủ lãnh,
không
còn nữa cho tới khi bà đứng lên, hỡi bà Ðơ-vô-ra
bà
đứng lên, hỡi mẹ hiền trong Ít-ra-en!
8
Khi
người ta chọn những thần mới,
bấy
giờ chiến tranh đến ngay trước cửa,
khiên
mộc chẳng thấy, gươm giáo cũng không
trong
tay bốn mươi ngàn quân Ít-ra-en.
9
Lòng
tôi ngưỡng mộ các nhà chỉ huy Ít-ra-en,
những
kẻ trong dân tình nguyện lên đường.
Các
bạn ơi, nào chúc tụng Ðức Chúa!
10
Hỡi
những ai cỡi lừa trắng,
hỡi
những kẻ ngồi thảm hoa,
hỡi
khách bộ hành, hát lên đi!
11
Những
người chia nhau chiến lợi phẩm bên bồn nước,
hãy
cất tiếng ca ngợi hồng ân của Ðức Chúa,
những
hồng ân Người ban cho thủ lãnh Ít-ra-en,
bấy
giờ dân của Ðức Chúa ùa xuống các cửa.
12
Phấn
khởi lên! Phấn khởi lên nào! Ðơ-vô-ra hỡi!
Phấn
khởi lên! Phấn khởi lên nào! Hát một bài ca!
Ðứng
lên! Hỡi Ba-rắc!
Bỏ
tù kẻ bỏ tù ông! Hỡi con của A-vi-nô-am!
13
Bấy
giờ Ít-ra-en xuống cửa vì chính nghĩa của mình,
dân
của Ðức Chúa đã xuống như những vị anh hùng.
14
Các
lãnh tụ Ép-ra-im ở trong thung lũng,
trong
hàng ngũ theo ông, có Ben-gia-min.
Các
vị chỉ huy xuất thân từ Ma-khia,
từ
Dơ-vu-lun, những người nắm côn trượng.
15
Các
lãnh tụ Ít-xa-kha theo bà Ðơ-vô-ra.
Náp-ta-li
trung thành với Ba-rắc,
chạy
theo vết chân ông trong thung lũng.
Trong
các thị tộc của Rưu-vên,
bàn
bạc thì thật là sôi nổi!
16
"Sao
bạn cứ ở lì trong hốc đá, mải nghe tiếng sáo bên đàn chiên?
Trong
các thị tộc của Rưu-vên,
bàn
bạc thì thật là sôi nổi!
17
Ga-la-át
ở lại bên kia sông Gio-đan,
còn
Ðan, sao cứ sống trên tàu bè?
A-se
thì định cư miền duyên hải,
trong
các hải cảng, vẫn cứ nhởn nhơ!
18
Dơ-vu-lun,
dân coi nhẹ cái chết,
cùng
với Náp-ta-li, trên điểm cao chiến trường.
19
Các
vua đã tới, đã giao tranh,
các
vua Ca-na-an đã giao tranh
tại
Ta-nác, bên dòng suối Mơ-ghít-đô.
Chúng
đã không cướp được bạc làm chiến lợi phẩm.
20
Từ
trời cao, tinh tú đã giao tranh,
từ
trên quỹ đạo, tinh tú chống lại Xi-xơ-ra.
21
Dòng
suối Ki-sôn đã cuốn trôi chúng,
dòng
suối ngàn xưa, suối Ki-sôn.
Dũng
cảm tiến lên, hồn ta hỡi!
22
Bấy
giờ vó ngựa vang rền trên mặt đất,
đoàn
thiên lý mã phi nhanh, phi thật nhanh.
23
"Hãy
nguyền rủa Mê-rốt - thần sứ Ðức Chúa nói -,
nguyền
rủa, nguyền rủa các dân cư của nó.
Vì
chúng đã không đến yểm trợ Ðức Chúa,
yểm
trợ Ðức Chúa với các bậc anh hùng.
24
Phúc
thay bà Gia-ên, phu nhân ông Khe-ve, người Kê-ni,
hơn
các phụ nữ,
hơn
các phụ nữ trong lều trại, bà thật là có phúc.
25
Y
xin nước, bà cho sữa.
Bà
dâng sữa béo trong chén quý của hàng thượng lưu.
26
Rồi
tay trái cầm lấy chiếc cọc,
còn
tay phải nắm búa công nhân,
đánh
Xi-xơ-ra, đập cho bể đầu,
và
đâm thủng màng tang.
27
Dưới
chân bà, y ngã quỵ, té nhào, nằm sóng sượt,
dưới
chân bà, y ngã quỵ, té nhào;
ngã
quỵ nơi nào, té nhào nơi ấy, nằm bất động.
28
Qua
cửa sổ, một bà khác nghiêng mình kêu la,
đó
là mẹ của Xi-xơ-ra, nói qua song cửa:
"Sao
xe của con tôi mãi không về?
Sao
đoàn xe trận của con tôi về chậm thế?
29
Công
chúa khôn ngoan nhất của bà đã trả lời,
và
bà cứ nhẩm đi nhắc lại:
30
"Chắc
họ đã gặp may, và đang chia nhau chiến lợi phẩm:
một
hai nàng cho mỗi chiến binh,
và
nhiễu điều làm chiến lợi phẩm cho Xi-xơ-ra.
Một
hai tấm nhiễu điều thêu sặc sỡ,
choàng
lên cổ của người toàn thắng.
31
Lạy
Ðức Chúa! Mọi kẻ thù của Ngài
đều
tiêu vong như thế!
Còn
những ai yêu mến Ngài,
xin
cho họ rạng rỡ như mặt trời hừng đông."
Và
lãnh thổ bình an bốn mươi năm.
Chương 06
5.
Ông Ghít-Ôn Và Ông A-Vi-Me-Léc
A.
Thiên Chúa gọi ông Ghít-ôn
Người
Ma-đi-an áp bức dân Ít-ra-en
1
Con
cái Ít-ra-en đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, nên Ðức Chúa đã trao họ vào tay
người Ma-đi-an trong bảy năm. 2
Một
ngôn sứ can thiệp
7
Khi
con cái Ít-ra-en kêu lên Ðức Chúa về người Ma-đi-an, 8 thì Ðức Chúa
đã sai một vị ngôn sứ đến với con cái Ít-ra-en. Ông nói với họ: "Ðức Chúa,
Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: Chính Ta đã đưa các ngươi lên khỏi
Ai-cập, đã kéo các ngươi ra khỏi nhà nô lệ, 9 đã giải thoát các
ngươi khỏi tay Ai-cập, khỏi tay mọi kẻ áp bức các ngươi, và đã đuổi chúng cho
khuất mắt các ngươi, đã ban cho các ngươi đất đai của chúng. 10 Và
Ta đã phán với các ngươi: Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. Các ngươi
không được kính sợ các thần của người E-mô-ri, khi các ngươi cư ngụ trên đất
của chúng. Nhưng các ngươi đã không nghe tiếng Ta."
Thần
sứ của Ðức Chúa hiện ra với ông Ghít-ôn
11
Thần
sứ của Ðức Chúa đến và ngồi dưới cây tùng ở Óp-ra. Cây này là của ông Giô-át, thuộc
gia đình A-vi-e-de. Con ông là Ghít-ôn bấy giờ đang đập lúa trong bồn đạp nho
để tránh mặt người Ma-đi-an. 12 Thần sứ Ðức Chúa hiện ra với ông và
nói: "Chào chiến sĩ can trường! Ðức Chúa ở với ông.” 13 Ông
Ghít-ôn đáp: "Ôi, thưa Ngài, nếu Ðức Chúa ở với chúng tôi, thì sao chúng
tôi đến nông nỗi này? Ðâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng
tôi nghe, rằng: chẳng phải Ðức Chúa đã đưa chúng ta lên khỏi Ai-cập sao? Thế mà
bây giờ Ðức Chúa đã bỏ rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Ma-đi-an."
14
Bấy
giờ Ðức Chúa quay lại nhìn ông và nói: "Hãy mạnh bạo lên đường cứu
Ít-ra-en khỏi tay quân Ma-đi-an. Không phải chính Ta sai ngươi sao?” 15 Nhưng
ông đáp: "Ôi, thưa Ngài, con lấy gì mà cứu Ít-ra-en? Này dòng họ con thấp
kém nhất trong chi tộc Mơ-na-se, mà con lại nhỏ nhất trong nhà cha con.” 16
Ðức Chúa phán với ông: "Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân
Ma-đi-an như đánh có một người.” 17 Ông thưa: "Nếu Ngài thương
con thì xin cho con một dấu chứng tỏ Ngài đang nói với con. 18 Xin
Ngài đừng rời khỏi đây cho tới khi con trở lại, mang theo của lễ đặt trước nhan
Ngài." Người phán: "Ta sẽ ở lại cho tới khi ngươi trở về."
19
Ông
Ghít-ôn đi bắt một con dê non làm thịt, và lấy hai thùng bột làm mấy chiếc bánh
không men. Thịt thì ông để trong một cái rổ, còn nước cốt thì đựng trong một
cái thố. Rồi ông mang đến cho Người ở dưới cây tùng. Khi ông đến gần, 20 thì
Thần sứ Thiên Chúa nói với ông: "Hãy lấy thịt và bánh không men đặt trên
tảng đá này và rưới nước cốt lên." Ông đã làm như thế.
21
Thần
sứ của Ðức Chúa giơ đầu gậy đang cầm trong tay đụng vào thịt và bánh không men,
lửa liền từ tảng đá bốc lên, đốt cháy hết thịt cùng bánh không men. Thần sứ Ðức
Chúa biến khỏi mắt ông. 22 Ông Ghít-ôn thấy đó chính là Thần sứ Ðức
Chúa. Ông Ghít-ôn nói: "Chết tôi rồi, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng của tôi,
vì tôi đã thấy Thần sứ Ðức Chúa nhãn tiền!” 23 Nhưng Ðức Chúa phán
với ông: "Bình an cho ngươi! Ðừng sợ: ngươi không chết đâu.” 24 Tại
đó ông Ghít-ôn xây một bàn thờ kính Ðức Chúa, và ông gọi nơi ấy là Ðức Chúa -
Bình an. Cho đến ngày nay, bàn thờ ấy vẫn còn tại Óp-ra, đất của gia đình
A-vi-e-de.
Ông
Ghít-ôn triệt hạ Ba-an
25
Một
đêm kia Ðức Chúa phán bảo ông: "Hãy lấy con bò mộng của cha ngươi, con bò
bảy tuổi, rồi phá huỷ bàn thờ Ba-an của cha ngươi và chặt đứt cây cột thần bên
cạnh. 26 Ngươi sẽ xây bàn thờ kính Ðức Chúa, Thiên Chúa ngươi, trên
đỉnh của nơi kiên cố này, sắp xếp sao cho gọn ghẽ. Ngươi sẽ lấy con bò và dâng
làm lễ toàn thiêu với gỗ cây cột thần ngươi đã chặt.” 27 Vậy ông
Ghít-ôn mang theo mười người đầy tớ và làm như Ðức Chúa đã nói với ông. Tuy
nhiên, vì sợ người nhà của cha mình và những người trong thành, ông không dám
làm ban ngày, nên đã làm ban đêm. 28 Sáng hôm sau, khi những người
trong thành thức dậy, thì kìa bàn thờ Ba-an đã bị triệt hạ, cây cột thần cạnh
đó đã bị chặt, và con bò mộng thứ hai đã được dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn
thờ mới xây. 29 Họ nói với nhau: "Ai đã làm chuyện này
thế?" Rồi họ điều tra và tìm hiểu, thì ra là ông Ghít-ôn, con ông Giô-át,
đã làm chuyện đó. 30 Dân thành liền nói với ông Giô-át: "Ðưa
con ông ra đây! Nó phải chết, vì nó đã triệt hạ bàn thờ Ba-an và đã chặt đứt
cây cột thần bên cạnh.” 31 Ông Giô-át nói với tất cả mọi người đứng
trước mặt ông: "Các anh bênh quyền lợi của Ba-an ư? Hay là các anh tính
cứu thần đó? Kẻ nào bênh quyền lợi Ba-an sẽ phải chết trước khi trời rạng sáng.
Nếu Ba-an là thần thì Ba-an cứ tự biện hộ. Ghít-ôn đã phá bàn thờ của Ba-an đó.”
32 Ngày hôm ấy, người ta gọi ông Ghít-ôn là Giơ-rúp-ba-an, mà rằng:
"Xin Ba-an đối phó với hắn, vì hắn đã triệt hạ bàn thờ của người."
Kêu
gọi chiến đấu
33
Tất
cả các người Ma-đi-an, người A-ma-lếch và người Phương Ðông đều nhất tề tập
hợp; họ băng qua sông và đóng trại tại đồng bằng Gít-rơ-en.34 Ông Ghít-ôn được
đầy thần khí của Ðức Chúa; ông rúc tù và, và người A-vi-e-de quy tụ lại sau
lưng ông. 35 Ông sai sứ giả kêu gọi mọi người trong chi tộc
Mơ-na-se, và họ quy tụ lại sau lưng ông; ông sai sứ giả kêu gọi mọi người trong
chi tộc A-se, Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, họ cũng đều tiến lên đón ông.
Lông
cừu làm điềm báo
36
Ông
Ghít-ôn thưa với Thiên Chúa: "Nếu đúng là Ngài sẽ dùng tay con để cứu
Ít-ra-en như Ngài đã phán, 37 thì này đây con đặt một mớ lông cừu
trong sân lúa: nếu chỉ có sương trên lông cừu mà thôi, còn tất cả mặt đất đều
khô, thì con biết Ngài sẽ dùng tay con để cứu Ít-ra-en như Ngài đã phán.” 38
Và đã xảy ra như vậy. Sáng hôm sau ông dậy sớm, bóp mớ lông cừu, vắt cho
sương chảy ra đầy một chén nước. 39 Ông Ghít-ôn lại thưa với Thiên
Chúa: "Xin Ngài đừng thịnh nộ với con, để con được nói một lần nữa. Xin
cho con được trắc nghiệm bằng lông cừu một lần nữa thôi: chỉ có lông cừu là
khô, còn tất cả mặt đất đều đẫm sương.” 40 Ðêm ấy Thiên Chúa đã làm
như vậy. Chỉ có lông cừu là khô, còn tất cả mặt đất đều đẫm sương.
Chương 07
B.
Ông Ghít-ôn giao chiến bên tây ngạn sông Gio-đan
Ðức
Chúa rút bớt quân số của ông Ghít-ôn
1
Ông
Giơ-rúp-ba-an, tức Ghít-ôn, cũng như toàn dân đang ở với ông, thức dậy thật
sớm, và ông đóng trại gần Ên Kha-rốt; còn trại quân Ma-đi-an thì nằm ở phía bắc
trại ông, sát đồi Mô-re, trong đồng bằng. 2 Ðức Chúa phán bảo ông:
"Ðám dân ở với ngươi quá đông; Ta không trao quân Ma-đi-an vào tay chúng
được, kẻo Ít-ra-en lại tự phụ phạm đến Ta, khi cho rằng "Chính tay tôi đã
cứu tôi. 3 Vậy ngươi hãy công bố cho dân nghe: "Ai sợ hãi và
run khiếp thì hãy về đi!" Và ông Ghít-ôn đã thử họ: hai mươi ngàn người
trong dân rút lui, còn lại mười ngàn.
4
Ðức
Chúa phán với ông Ghít-ôn: "Dân này vẫn còn đông. Hãy bảo chúng xuống gần
nước, ở đó Ta sẽ thử chúng. Kẻ nào Ta nói với ngươi "người này sẽ đi với
ngươi" thì kẻ đó sẽ đi với ngươi. Còn tất cả những ai Ta nói với ngươi
"người này không đi với ngươi", kẻ đó sẽ không được đi.” 5 Vậy
ông Ghít-ôn đem đám dân ấy đến gần nước, và Ðức Chúa phán với ông Ghít-ôn:
"Tất cả những ai thè lưỡi tớp nước như chó, ngươi hãy để riêng ra, tất cả
những ai quỳ xuống mà uống cũng vậy.” 6 Số người dùng tay đưa nước
lên miệng mà tớp là ba trăm. Tất cả số dân còn lại đều quỳ xuống mà uống nước. 7
Bấy giờ Ðức Chúa phán với ông Ghít-ôn: "Với ba trăm người đã tớp
nước, Ta sẽ cứu các ngươi, và sẽ trao quân Ma-đi-an vào tay ngươi. Còn tất cả
những người khác thì hãy rút lui, ai về nhà nấy.” 8 Người ta giữ lại
vò lương thực của đám dân, cùng với các tù và. Sau đó, ông Ghít-ôn cho tất cả
con cái Ít-ra-en trở về, ai nấy về lều mình, chỉ giữ lại ba trăm người. Doanh
trại của người Ma-đi-an nằm phía dưới trại của ông, trong đồng bằng.
Ðiềm
báo thắng trận
9
Ðêm
ấy Ðức Chúa phán với ông: "Ðứng lên! Ði xuống doanh trại, vì Ta sẽ trao nó
vào tay ngươi. 10 Nhưng nếu ngươi sợ không dám xuống, thì hãy đi
xuống trại với Pu-ra, đầy tớ ngươi. 11 Ngươi sẽ nghe ngóng xem chúng
nói gì; sau đó tay ngươi sẽ ra cứng rắn, và ngươi sẽ xuống đánh trại." Vậy
chính ông đã cùng với Pu-ra, đầy tớ ông, xuống tới đầu tiền đồn của trại.
12
Quân
Ma-đi-an, A-ma-lếch và toàn quân Phương Ðông nằm đầy đồng bằng, nhiều vô kể như
châu chấu, và số lạc đà của chúng không đếm nổi, như cát trên bờ biển. 13 Ông
Ghít-ôn tới nơi, thì này một tên đang kể cho đồng đội một giấc chiêm bao. Hắn
nói: "Ðây là giấc chiêm bao tôi đã nằm mơ: một tấm bánh lúa mạch lăn trong
trại Ma-đi-an, tới một chiếc lều, đụng vào lều thì nó ngã xuống, cuốn chỏng
gọng cái lều lên, thế là cái lều đổ.” 14 Người đồng đội hoạ theo và
nói: "Ðây chỉ có thể là chiếc gươm của Ghít-ôn, con Giô-át, người
Ít-ra-en. Thiên Chúa đã trao người Ma-đi-an và cả doanh trại vào tay ông ta.” 15
Khi nghe kể giấc chiêm bao và lời giải thích, ông Ghít-ôn sấp mình xuống,
đoạn trở về trại Ít-ra-en và nói: "Ðứng lên! Vì Ðức Chúa đã trao vào tay
anh em doanh trại Ma-đi-an."
Cuộc
đột kích
16
Bấy
giờ ông chia ba trăm người thành ba cánh quân, trao vào tay mọi người tù và, vò
rỗng có đuốc bên trong. 17 Ông bảo họ: "Hãy nhìn và làm theo
tôi. Khi tới đầu trại, tôi làm gì thì các anh cứ làm theo! 18 Tôi sẽ rúc tù và
cùng một lúc với tất cả những người đi với tôi; bấy giờ các anh cũng rúc tù và
khắp quanh trại và cùng hô: Vì Ðức Chúa! Vì Ghít-ôn!"
19
Ông
Ghít-ôn cùng với một trăm người theo ông đi tới đầu trại vào đầu canh hai, lúc
vừa thay người canh; họ rúc tù và, đồng thời đập bể những chiếc vò đang cầm
trong tay. 20 Bấy giờ cả ba cánh quân đều rúc tù và, đập bể vò; tay
trái nắm chắc đuốc, tay phải cầm tù và rúc lên, rồi họ cùng hô: "Vì Ðức
Chúa, vì Ghít-ôn, vung kiếm lên!” 21 Chung quanh trại, ai nấy đứng
yên tại chỗ. Cả trại tán loạn, la ó và chạy trốn. 22 Trong lúc ba
trăm người rúc tù và thì Ðức Chúa làm cho mỗi người trong khắp trại quay gươm
giết bạn mình. Cả doanh trại đều trốn chạy về phía Xơ-rê-ra cho đến Bết Ha
Sít-ta, bên bờ suối A-vên Mơ-khô-la, đối diện với Táp-bát.
Truy
kích
23
Bấy
giờ từ Náp-ta-li, A-se và toàn thể Mơ-na-se, các người Ít-ra-en họp nhau lại và
rượt đuổi quân Ma-đi-an. 24 Ông Ghít-ôn sai sứ giả đi kêu gọi khắp
vùng núi Ép-ra-im: "Hãy xuống đón đầu quân Ma-đi-an, chiếm cứ các nguồn
nước của chúng, cho đến Bết Ba-ra và sông Gio-đan." Tất cả các người
Ép-ra-im đều họp lại chiếm lấy các nguồn nước cho đến Bết Ba-ra và sông Gio-đan.
25 Họ bắt được hai tướng của Ma-đi-an là Ô-rếp và Dơ-ếp; họ giết
Ô-rếp tại tảng đá Ô-rếp, còn Dơ-ếp thì giết tại bồn ép nho Dơ-ếp. Họ còn rượt
theo quân Ma-đi-an và mang thủ cấp của Ô-rếp và Dơ-ếp từ bên kia sông Gio-đan
về cho ông Ghít-ôn.
Chương 08
Ép-ra-im
kêu trách
1
Những
người Ép-ra-im nói với ông: "Ông đối xử với chúng tôi như vậy nghĩa là thế
nào? Ông đã không thèm gọi chúng tôi, khi ông lên đường đánh quân
Ma-đi-an." Họ đã công kích ông dữ dội. 2 Nhưng ông nói với họ:
"Việc tôi đã làm sánh sao được với các anh? Thứ mà Ép-ra-im ăn mót, lại
không tốt hơn cả mùa trái của A-vi-e-de sao? 3 Thiên Chúa đã trao vào tay các
anh các thủ lãnh Ma-đi-an là Ô-rếp và Dơ-ếp, thì tôi có thể làm gì sánh được
với các anh?" Nghe ông nói thế, họ mới nguôi giận.
C.
Ông Ghít-ôn giao chiến bên kia sông Gio-đan. Ông từ trần.
Ông
Ghít-ôn vượt sông Gio-đan truy lùng địch
4
Tới
sông Gio-đan, ông Ghít-ôn sang sông cùng với ba trăm người theo ông, rất mệt
mỏi nhưng vẫn truy lùng quân địch. 5 Ông nói với các người Xúc-cốt:
"Làm ơn cho đám người theo tôi mấy tấm bánh, vì họ đã mệt mỏi rồi, mà tôi
thì còn phải truy lùng De-vác và Xan-mun-na, vua Ma-đi-an.” 6 Nhưng
các thủ lãnh Xúc-cốt trả lời: "Số mạng của De-vác và Xan-mun-na nay đã nằm
gọn trong tay ông rồi sao, mà chúng tôi phải cấp bánh cho quân đội của ông?” 7
Ông Ghít-ôn đáp: "Ðã vậy thì một khi Ðức Chúa trao De-vác và
Xan-mun-na vào tay ta rồi, ta sẽ lấy gai rừng và cây ké mà xé xác các ngươi!” 8
Từ đấy, ông đi lên Pơ-nu-ên, và lại nói với người ta như vậy, nhưng những
người Pơ-nu-ên trả lời y như những người Xúc-cốt. 9 Ông cũng nói với
người Pơ-nu-ên rằng: "Khi ta trở về bình an vô sự, ta sẽ triệt hạ tháp
này."
De-vác
và Xan-mun-na bại trận
10
De-vác
và Xan-mun-na lúc ấy đang ở Các-co cùng với đạo quân của họ, chừng mười lăm
ngàn người, đó là số còn lại trong toàn bộ doanh trại con cái Phương Ðông. Vì
mười hai ngàn mạng biết tuốt gươm đã gục ngã. 11 Ông Ghít-ôn tiến
lên theo con đường của dân du mục, ở phía đông Nô-vác và Gióc-bô-ha, và đã tấn
công trại khi trại cứ tưởng là an toàn. 12 De-vác và Xan-mun-na chạy
trốn, nhưng ông đã đuổi kịp và bắt được cả hai vua Ma-đi-an là De-vác và
Xan-mun-na, gây khiếp đảm cho toàn bộ doanh trại.
Ông
Ghít-ôn báo thù
13
Sau
trận chiến, ông Ghít-ôn, con ông Giô-át trở về qua ngả đường lên Khe-rét. 14
Ông bắt một thiếu niên thuộc dân Xúc-cốt và tra hỏi nó. Nó viết cho ông
tên các thủ lãnh Xúc-cốt, và các kỳ mục trong dân là bảy mươi bảy người. 15
Vậy ông đến với người Xúc-cốt và nói: "Ðây là De-vác và Xa-mun-na!
Vì chúng, các ngươi đã đay nghiến ta mà rằng: "Số mạng của De-vác và
Xan-mun-na nay đã nằm gọn trong tay ông rồi sao, mà chúng tôi phải cấp bánh cho
những người mệt mỏi của ông?” 16 Ông bắt các kỳ mục trong thành, lấy
gai rừng và cây ké mà dạy cho những người Xúc-cốt một bài học. 17 Tháp
Pơ-nu-ên, ông cũng triệt hạ, và tàn sát cả những người trong thành. 18 Ông
nói với De-vác và Xan-mun-na: "Những kẻ các ngươi đã tàn sát ở Ta-bo là
người thế nào?" Chúng thưa: "Ông thế nào, họ cũng vậy; người nào cũng
có vẻ hoàng tử.” 19 Ông nói: "Họ là anh em cùng mẹ với ta đó.
Thề có Ðức Chúa hằng sống! Giả như các ngươi để họ sống, thì ta chẳng sát hại
các ngươi đâu!” 20 Rồi ông bảo người con cả của ông Gie-the:
"Ðứng lên! Giết chúng đi!" Nhưng chàng thiếu niên sợ không dám tuốt
gươm, vì cậu còn trẻ. 21 De-vác và Xan-mun-na liền nói: "Vậy
thì chính nhà ngươi đứng lên giết chúng ta đi, vì anh hùng đâu có sợ
chết!" Ông Ghít-ôn đứng lên hạ sát De-vác và Xan-mun-na, rồi tháo lấy
những chiếc vòng đeo cổ các con lạc đà của chúng.
Cuối
đời ông Ghít-ôn
22
Người
Ít-ra-en nói với ông Ghít-ôn: "Xin ông cai trị chúng tôi, cả ông cũng như
con cháu ông, vì ông đã giải thoát chúng tôi khỏi tay quân Ma-đi-an.” 23 Ông
Ghít-ôn trả lời: "Chính tôi sẽ không cai trị, mà con tôi cũng không cai
trị anh em, nhưng Ðức Chúa sẽ cai trị anh em.” 24 Ông Ghít-ôn nói
với họ: "Tôi xin anh em một điều là mỗi người cho tôi một cái nhẫn trong
số chiến lợi phẩm của mình." Sở dĩ như vậy là vì những người bại trận là
dân Ít-ma-ên, nên chúng mang nhẫn vàng. 25 Những người ấy đáp:
"Hẳn là chúng tôi sẽ tặng ông rồi." Họ trải chiếc áo choàng ra, và
mỗi người bỏ vào đấy một chiếc nhẫn đã chiếm được. 26 Trọng lượng số
nhẫn vàng ông đã xin được là mười bảy ký vàng, không kể các vòng khuyên, các
hoa tai và những chiếc áo điều các vua Ma-đi-an vẫn mặc, và không kể các vòng
đeo cổ các con lạc đà của chúng. 27 Ông Ghít-ôn lấy số vàng đó làm
một tượng ê-phốt và đặt trong thành của ông tại Óp-ra; và toàn thể Ít-ra-en đã
đàng điếm với nó, nên nó hoá cái bẫy cho ông Ghít-ôn và nhà ông.
28
Ma-đi-an
bị hạ nhục trước mặt con cái Ít-ra-en; chúng không còn ngẩng đầu lên được nữa.
Dưới thời ông Ghít-ôn, lãnh thổ được bình an bốn mươi năm. 29 Ông
Giơ-rúp-ba-an, con ông Giô-át, lui về sống cảnh điền viên. 30 Ông
Ghít-ôn sinh được bảy mươi người con, vì ông có nhiều vợ. 31 Ông có
người tỳ thiếp ở Si-khem, bà cũng sinh cho ông một con trai; và ông đặt tên cho
nó là A-vi-me-léc. 32 Ông Ghít-ôn, con ông Giô-át, qua đời sau khi
hưởng tuổi già hạnh phúc, và được chôn cất trong phần mộ của ông Giô-át, thân
phụ ông, tại Óp-ra của dòng họ A-vi-e-de.
Ít-ra-en
lại suy sụp
33
Sau
khi ông Ghít-ôn qua đời, con cái Ít-ra-en lại đàng điếm với các Ba-an, và tôn
Ba-an Bơ-rít làm thiên chúa của mình. 34 Con cái Ít-ra-en không nhớ
Ðức Chúa là Thiên Chúa của mình, Ðấng đã giải thoát họ khỏi tay mọi thù địch
chung quanh. 35 Họ cũng chẳng đối xử nhân nghĩa với nhà ông
Giơ-rúp-ba-an, tức Ghít-ôn, mà đền đáp tất cả những điều tốt lành ông đã làm
cho Ít-ra-en.
Chương 09
D.
Vương triều của A-vi-me-léc
1
A-vi-me-léc,
con ông Giơ-rúp-ba-an, đến Si-khem gặp bà con bên ngoại, và nói với họ, cùng cả
gia tộc bên ngoại rằng: 2 "Xin bà con hỏi các thân hào Si-khem
xem: điều nào tốt cho các vị? Ðể cho bảy mươi người, tức là tất cả các con ông
Giơ-rúp-ba-an cai trị các vị, hay là để một người cai trị các vị mà thôi? Xin
các vị nhớ cho rằng tôi là anh em ruột thịt của các vị.” 3 Bà con
bên ngoại dùng chính những lời đó nói về A-vi-me-léc cho toàn thể thân hào
Si-khem nghe, và lòng họ nghiêng về A-vi-me-léc, vì họ nói: "Ông ấy là bà
con của chúng ta.” 4 Vậy họ trao cho ông bảy mươi se-ken bạc, lấy
của đền Ba-an Bơ-rít, A-vi-me-léc dùng tiền ấy thuê những đứa vô lại cùng bọn
du đãng, và chúng theo ông. 5 Thế là ông đến nhà cha mình tại Óp-ra,
hạ sát các anh em, tức là bảy mươi người con của ông Giơ-rúp-ba-an, trên cùng
một tảng đá; chỉ sót có Giô-tham, con út của ông Giơ-rúp-ba-an, vì anh ta lẩn
trốn được. 6 Bấy giờ tất cả thân hào Si-khem cùng toàn dân Bết Mi-lô
họp lại, kéo đến tôn A-vi-me-léc lên làm vua, bên cạnh cây sồi trước bia đá ở
Si-khem.
Ngụ
ngôn của ông Giô-tham
7
Khi
người ta báo tin ấy cho ông Giô-tham, ông liền lên đứng trên đỉnh núi
Gơ-ri-dim, cất tiếng gọi và nói với những người kia rằng: "Hỡi các thân
hào Si-khem! Hãy nghe tôi đây, thì Thiên Chúa cũng sẽ nghe các người.
8
Cây
cối đã lên đường đi xức dầu phong một vua cai trị chúng. Chúng nói với cây
ô-liu: "Hãy làm vua cai trị chúng tôi!
9
Nhưng
cây ô-liu nói với chúng: "Chẳng lẽ tôi lại từ bỏ dầu của tôi là thứ đã
từng làm cho thần minh và người đời được tôn trọng, mà đi đu đưa trên cây cối
hay sao?
10
Cây
cối liền nói với cây vả: "Hãy đến làm vua cai trị chúng tôi!
11
Nhưng
cây vả bảo chúng: "Chẳng lẽ tôi lại từ bỏ vị ngọt và trái ngon của tôi mà
đi đu đưa trên cây cối hay sao?
12
Bấy
giờ cây cối nói với cây nho: "Hãy đến làm vua cai trị chúng tôi!
13
Nhưng
cây nho bảo chúng: "Chẳng lẽ tôi lại từ bỏ rượu của tôi là thứ đã từng làm
cho thần minh và người đời phấn khởi, mà đi đu đưa trên cây cối hay sao?
14
Tất
cả cây cối liền nói với bụi gai: "Hãy đến làm vua cai trị chúng tôi!
15
Bụi
gai trả lời cây cối: "Nếu quả thật các ngươi xức dầu phong ta làm vua cai
trị các ngươi, thì hãy tới nương náu dưới bóng ta; bằng không, lửa sẽ bốc ra từ
bụi gai và sẽ thiêu rụi các cây bá hương Li-băng!
16
Các
người có đối xử thành thật và trọn đạo khi tôn A-vi-me-léc lên làm vua không?
Các người có đối xử tốt với ông Giơ-rúp-ba-an và nhà ông ấy không? Có đối xử
với ông xứng với công lao của ông không? 17 Cha tôi đã chiến đấu vì các người,
đã liều mạng để giải thoát các người khỏi tay quân Ma-đi-an. 18 Thế
mà ngày nay các người lại phản bội nhà cha tôi, tàn sát con cái ông, tất cả bảy
mươi người trên cùng một tảng đá, rồi đặt đứa con người tỳ thiếp của ông là
A-vi-me-léc lên làm vua cai trị các thân hào Si-khem, vì y là bà con của các
người. 19 Vậy, nếu ngày hôm nay các người đã đối xử thành thật và
trọn đạo với ông Giơ-rúp-ba-an và nhà ông, thì cứ việc vui vì A-vi-me-léc, và
mong sao y cũng được vui vì các người. 20 Bằng không, thì xin cho
một ngọn lửa phát ra từ A-vi-me-léc để thiêu huỷ các thân hào Si-khem cùng với
dân Bết Mi-lô, và xin cho một ngọn lửa phát ra từ các thân hào Si-khem và dân
Bết Mi-lô để thiêu huỷ A-vi-me-léc nữa!” 21 Rồi ông Giô-tham chạy về
phía Bơ-e và trú ngụ tại đây, vì sợ A-vi-me-léc, người anh em của ông.
Si-khem
phản loạn chống A-vi-me-léc
22
A-vi-me-léc
cầm quyền cai trị Ít-ra-en ba năm. 23 Rồi Thiên Chúa gây một thần
khí bất hoà giữa A-vi-me-léc và các thân hào Si-khem, khiến các thân hào Si-khem
phản lại A-vi-me-léc. 24 Như vậy là để báo phục tội giết bảy mươi
người con ông Giơ-rúp-ba-an, và để làm cho máu họ đổ xuống trên A-vi-me-léc,
người anh em đã giết họ, và đổ xuống trên các thân hào Si-khem, những người đã
tiếp tay với y, để y giết anh em mình. 25 Các thân hào Si-khem đã
đặt những ổ mai phục trên các ngọn núi, để cướp bóc tất cả những người đi ngang
qua đó. Người ta báo tin ấy cho A-vi-me-léc biết.
26
Bấy
giờ ông Ga-an, con ông E-vét, cùng đi với anh em ông, và họ qua Si-khem; các
thân hào Si-khem tín nhiệm ông. 27 Họ ra vườn hái nho, rồi đạp ép và
tổ chức vui chơi. Họ vào đền các thần minh của họ, ăn uống và nguyền rủa
A-vi-me-léc. 28 Ông Ga-an, con ông E-vét nói: "A-vi-me-léc là
ai, và Si-khem là ai mà chúng ta làm tôi nó? Nó chẳng phải là con
Giơ-rúp-ba-an, và đại diện của nó chẳng phải là Dơ-vun sao? Các người hãy làm
tôi con cái Kha-mo, cha của Si-khem; còn chúng tôi, việc gì chúng tôi phải làm
tôi nó? 29 Ai sẽ trao dân này vào tay tôi, để tôi loại trừ A-vi-me-léc? Và tôi
nói với nó: "Hãy tăng thêm quân của mi và ra đây!"
30
Ông
Dơ-vun, tổng trấn thành, nghe những lời ông Ga-an, con ông E-vét nói, thì nổi
giận. 31 Ông lập mưu sai sứ đến nói với A-vi-me-léc rằng: "
34
Ðang
đêm, A-vi-me-léc cùng với quân lính của ông chỗi dậy, chia thành bốn nhóm mai
phục gần Si-khem. 35 Ông Ga-an, con ông E-vét, đi ra và dừng lại ở
lối vào cổng thành. A-vi-me-léc cùng với quân lính của ông từ chỗ mai phục chỗi
dậy. 36 Ông Ga-an thấy đám dân thì nói với ông Dơ-vun: "Ðây là
đám dân từ các đỉnh núi xuống." Nhưng ông Dơ-vun nói: "Ðó là bóng núi
mà ông lại trông ra như người ta.” 37 Ông Ga-an còn lên tiếng nói:
"Ðây là những người từ rốn đất mà xuống, còn nhóm kia thì từ con đường Cây
Sồi Các Thầy Bói mà đến.” 38 Bấy giờ ông Dơ-vun nói với ông:
"Ðâu rồi cái miệng ngươi từng nói: A-vi-me-léc là ai mà chúng ta làm tôi
nó? Ðây chẳng phải là đám dân ngươi đã khinh dể sao? Bây giờ ngươi hãy đi ra mà
giao chiến với nó.” 39 Ông Ga-an đi ra, dẫn đầu các thân hào
Si-khem, giao chiến với A-vi-me-léc. 40 Nhưng A-vi-me-léc đuổi đánh
ông, và ông Ga-an phải trốn chạy. Nhiều người gục chết trước khi tới được lối
vào cổng.41 Sau đó A-vi-me-léc cư ngụ ở A-ru-ma; còn ông Dơ-vun thì trục xuất
ông Ga-an và anh em ông, không cho ở Si-khem nữa.
Triệt
hạ thành và tháp Si-khem
42
Hôm
sau đám người kia đi ra cánh đồng, và người ta báo cho A-vi-me-léc biết. 43
Ông lấy dân của mình chia thành ba nhóm và sắp xếp một cuộc mai phục
ngoài đồng. Ông nhìn, và này đám người kia đi ra khỏi thành; ông chỗi dậy tiến
đánh chúng tơi bời. 44 A-vi-me-léc cùng với quân lính của ông ập tới
chặn lối vào cổng thành, còn hai nhóm kia thì ập tới tất cả những kẻ ở ngoài
đồng và đánh chúng tơi bời. 45 Suốt ngày hôm ấy A-vi-me-léc tấn công
thành. Ông đã chiếm được thành và tàn sát tất cả dân cư, rồi triệt hạ và rắc
muối lên thành. 46 Nghe tin đó, các thân hào Mích-đan Si-khem liền
xuống hầm đền thờ En Bơ-rít. 47 Người ta báo tin cho A-vi-me-léc
biết là tất cả thân hào Mích-đan Si-khem đã họp nhau lại. 48 Bấy giờ
A-vi-me-léc lên núi Xan-môn cùng với tất cả quân lính của ông. Ông cầm rìu chặt
một cành cây, giơ lên, rồi đặt xuống vai mình, và nói với quân lính của ông:
"Các anh thấy tôi làm gì, thì cứ làm như tôi, mau lên!” 49 Mọi
người đều chặt, mỗi người một cành cây. Họ đi theo A-vi-me-léc, đặt cành cây
trên hầm, rồi nổi lửa đốt hầm, làm cho mọi người ở Mích-đan Si-khem chết hết,
khoảng chừng một ngàn người, cả đàn ông lẫn đàn bà.
A-vi-me-léc
tấn công Tê-vết và bị tử trận
50
Sau
đó A-vi-me-léc đi đến Tê-vết, đóng trại đối diện với Tê-vết và chiếm thành ấy. 51
Có một ngọn tháp kiên cố ở giữa thành và tất cả đàn ông, đàn bà cùng toàn
thể các thân hào trong thành đều trốn vào tháp ấy; họ ẩn náu bên trong và leo
lên lầu của ngọn tháp. 52 A-vi-me-léc đi tới và tấn công tháp; ông
đến sát lối vào tháp để châm lửa đốt. 53 Bấy giờ một người đàn bà
liệng một phiến đá cối xuống đầu A-vi-me-léc làm ông bể sọ. 54 Ông
liền gọi chàng thanh niên cận vệ của mình và bảo: "Hãy tuốt gươm giết ta
đi, kẻo người ta lại nói về ta rằng: Một người đàn bà đã giết hắn." Người
cận vệ đâm ông, và ông đã chết. 55 Người Ít-ra-en thấy A-vi-me-léc
đã chết thì bỏ đi, ai nấy về nhà mình.
56
Thế
là Thiên Chúa đã báo oán A-vi-me-léc vì sự dữ ông đã gây cho thân phụ mình là
giết bảy mươi người anh em. 57 Và Thiên Chúa đã báo oán những người
Si-khem vì tất cả sự dữ họ đã gây ra. Như thế là đã ứng nghiệm nơi họ lời chúc
dữ của Giô-tham, con ông Giơ-rúp-ba-an.
Chương 10
Ông
Gíp-Tác Và Các thủ Lãnh Nhỏ
6.
Ông Tô-La
1
Sau
A-vi-me-léc, có ông Tô-la con ông Pu-a, cháu ông Ðô-đô, người Ít-xa-kha, đã
xuất hiện để cứu Ít-ra-en. Ông cư ngụ tại Sa-mia, vùng núi Ép-ra-im. 2 Ông
làm thủ lãnh Ít-ra-en được hai mươi ba năm, thì qua đời và được chôn cất tại
Sa-mia.
7.
Ông Gia-Ia
3
Sau
ông Tô-la, thì có ông Gia-ia, người Ga-la-át, xuất hiện, làm thủ lãnh Ít-ra-en
hai mươi hai năm. 4 Ông có ba mươi người con, cỡi ba mươi con lừa và
coi ba mươi thành, mà người ta đặt tên là Kha-vốt Gia-ia; những thành đó còn
cho tới ngày nay trong đất Ga-la-át.
5
Rồi
ông Gia-ia qua đời và được chôn cất tại Ca-môn.
8.
Ông Gíp-Tác
Ít-ra-en
bị người Am-mon đàn áp
6
Con
cái Ít-ra-en lại làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa và làm tôi các thần Ba-an và
Át-tô-rét, các thần của người A-ram, các thần của người Xi-đôn, các thần của
người Mô-áp, các thần của con cái Am-mon và các thần của người Phi-li-tinh; họ
đã lìa bỏ Ðức Chúa và không làm tôi Người nữa. 7 Ðức Chúa nổi cơn
thịnh nộ với Ít-ra-en và đã trao họ vào tay người Phi-li-tinh và vào tay con
cái Am-mon. 8 Trong thời ấy, suốt mười tám năm, chúng hành hạ và áp
bức con cái Ít-ra-en, tức là toàn thể con cái Ít-ra-en ở bên kia sông Gio-đan,
trong đất người E-mô-ri tại Ga-la-át. 9 Con cái Am-mon vượt sông
Gio-đan để giao chiến với cả Giu-đa, Ben-gia-min và nhà Ép-ra-im nữa, khiến
Ít-ra-en phải lâm cảnh khốn cùng. 10 Bấy giờ con cái Ít-ra-en mới
kêu lên Ðức Chúa rằng: "Chúng con đã xúc phạm đến Ngài, bởi vì chúng con
đã lìa bỏ Thiên Chúa của chúng con mà làm tôi các Ba-an.” 11 Ðức
Chúa phán với con cái Ít-ra-en: "Khi người Ai-cập, người E-mô-ri, con cái
Am-mon, người Phi-li-tinh, 12 người Xi-đôn, người A-ma-lếch và người
Ma-đi-an áp bức các ngươi, và các ngươi kêu lên Ta, thì Ta đã chẳng cứu các
ngươi khỏi tay chúng sao? 13 Nhưng các ngươi đã lìa bỏ Ta và làm tôi các thần
khác; vì thế, Ta sẽ không cứu các ngươi nữa. 14 Ði mà kêu lên các
thần các ngươi đã chọn; chúng sẽ cứu các ngươi lúc các ngươi bị cơ cực!” 15
Con cái Ít-ra-en mới thưa cùng Ðức Chúa: "Chúng con đã phạm tội. Xin
Ngài cứ xử với chúng con sao cho đẹp mắt Ngài; nhưng hôm nay xin cứu chúng con.”
16 Họ cất bỏ, không giữ lại những thần ngoại bang nữa, và họ làm tôi
Ðức Chúa, vì thế Người không dằn lòng được trước sự đau khổ của Ít-ra-en.
17
Con
cái Am-mon tập họp lại và đóng trại ở Ga-la-át. Con cái Ít-ra-en cũng hội lại
và đóng trại ở Mít-pa. 18 Dân chúng và các thủ lãnh Ga-la-át nói với
nhau: "Ai là người sẽ xung phong giao chiến với con cái Am-mon? Người ấy
sẽ đứng đầu toàn thể dân cư Ga-la-át."
Chương 11
Ông
Gíp-tác đặt điều kiện
1
Ông
Gíp-tác, người Ga-la-át, bấy giờ là một dũng sĩ. Ông là con của một gái điếm.
Ông Ga-la-át sinh ra Gíp-tác. 2 Nhưng vợ ông Ga-la-át cũng sinh cho
ông những người con khác nữa. Các người con của bà này khi lớn lên đã đuổi
Gíp-tác đi, và nói với ông: "Mày không có phần gia nghiệp trong nhà của
cha chúng tao, vì mày là con của một mụ khác.” 3 Ông Gíp-tác liền bỏ
trốn, không ở với các anh nữa. Ông cư ngụ tại đất Tốp; những đứa vô lại kết
đảng với ông Gíp-tác và cùng với ông tung hoành.
4
Sau
đó một thời gian, con cái Am-mon giao chiến với Ít-ra-en. 5 Và khi
con cái Am-mon giao chiến với Ít-ra-en, thì các kỳ mục Ga-la-át đi tìm ông
Gíp-tác ở đất Tốp. 6 Họ nói với ông Gíp-tác: "Xin ông đến chỉ
huy chúng tôi giao chiến với con cái Am-mon.” 7 Ông Gíp-tác trả lời
các kỳ mục Ga-la-át: "Nào chẳng phải chính các ông đã ghét tôi và đuổi tôi
ra khỏi nhà cha tôi sao? Vì cớ gì bây giờ các ông lại đến với tôi, lúc các ông
lâm cảnh khốn cùng?” 8 Các kỳ mục Ga-la-át nói với ông Gíp-tác:
"Ấy vậy bây giờ chúng tôi mới phải quay về với ông; xin ông đến với chúng
tôi, ông sẽ giao chiến với con cái Am-mon, sẽ thành người lãnh đạo chúng tôi,
tức là toàn thể dân cư Ga-la-át.” 9 Ông Gíp-tác nói với các kỳ mục
Ga-la-át: "Nếu các ông đưa tôi về để giao chiến với con cái Am-mon, và Ðức
Chúa trao chúng vào tay tôi, thì tôi sẽ là người lãnh đạo các ông.” 10 Các
kỳ mục Ga-la-át nói với ông Gíp-tác: "Xin Ðức Chúa chứng giám cho chúng
ta, nếu chúng tôi không làm như lời ông nói.” 11 Rồi ông Gíp-tác
cùng đi với các kỳ mục Ga-la-át, và dân đã đặt ông làm người lãnh đạo và chỉ
huy họ; ông Gíp-tác lặp lại tất cả các lời ông đã nói, trước nhan Ðức Chúa tại
Mít-pa.
Ông
Gíp-tác điều đình với con cái Am-mon
12
Ông
Gíp-tác sai sứ giả đến nói với vua dân Am-mon rằng: "Giữa tôi với ông có
chuyện gì mà ông lại đến chống tôi, để giao chiến với xứ sở tôi?” 13 Vua
dân Am-mon nói với các sứ giả của ông Gíp-tác: "Tại sao, khi lên khỏi
Ai-cập, Ít-ra-en lại chiếm đất của ta, từ Ác-nôn cho tới Giáp-bốc và tới sông
Gio-đan? Bây giờ muốn yên thì trả lại đi!” 14 Ông Gíp-tác lại sai sứ
giả đến với vua dân Am-mon lần nữa 15 và thưa: "Ông Gíp-tác nói thế này:
Ít-ra-en không chiếm đất của Mô-áp cũng như đất của con cái Am-mon, 16 vì
khi đi lên khỏi Ai-cập, Ít-ra-en đã đi con đường sa mạc tới Biển Sậy và đã đến
Ca-đê. 17 Bấy giờ Ít-ra-en sai sứ giả đến thưa với vua Ê-đôm rằng: Xin
cho phép tôi đi qua đất của ngài. Nhưng vua Ê-đôm không nghe. Ít-ra-en cũng sai
người đến với vua Mô-áp, nhưng ông này cũng chẳng nghe; Ít-ra-en đành lưu lại
Ca-đê. 18 Sau đó, họ đã theo con đường sa mạc đi bọc xứ Ê-đôm và
Mô-áp, tới phía đông đất Mô-áp, và đóng trại bên kia Ác-nôn, nhưng không vào
biên giới Mô-áp vì Ác-nôn là biên giới Mô-áp. 19 Rồi Ít-ra-en sai sứ
giả đến gặp ông Xi-khôn, vua dân E-mô-ri, trị vì tại Khét-bôn và thưa với ông:
Xin cho phép tôi đi qua đất của ngài để tới nơi tôi phải đến. 20 Thế
nhưng ông Xi-khôn đã không tin mà cho Ít-ra-en đi qua biên giới của ông; ông
Xi-khôn lại còn triệu tập toàn dân, đóng trại tại Gia-hát và giao chiến với
Ít-ra-en. 21 Và Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đã trao ông
Xi-khôn và toàn dân của ông vào tay Ít-ra-en, và Ít-ra-en đã đánh chúng tơi
bời. Rồi Ít-ra-en chiếm hết đất của dân E-mô-ri cư ngụ trên đất ấy. 22 Họ
cũng chiếm tất cả các biên giới của người E-mô-ri từ Ác-nôn tới Giáp-bốc, và từ
sa mạc tới sông Gio-đan. 23 Bây giờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en đã trục xuất người E-mô-ri khỏi Ít-ra-en dân của Người, thì liệu ông
có trục xuất được nó không? 24 Cái mà thần Cơ-mốt của ông, ban cho ông làm sở
hữu, ông lại không chiếm hữu sao? Cũng thế, tất cả những gì Ðức Chúa, Thiên
Chúa của chúng tôi đã truất hữu của những dân sở hữu, trước mặt chúng tôi, thì
chúng tôi chiếm hữu. 25 Nay liệu ông có hơn gì ông Ba-lác, con ông
Xíp-po, vua Mô-áp không? Ông ta có tranh chấp nổi với Ít-ra-en, hay là đánh bại
được nó không? 26 Khi Ít-ra-en định cư tại Khét-bôn và các thị trấn phụ thuộc,
tại A-rô-e và các thị trấn phụ thuộc, tại tất cả các thành nằm trên các nhánh
của Ác-nôn đã ba trăm năm, thì tại sao lúc bấy giờ các người không chiếm lại?
27 Tôi đã không xúc phạm đến ông, còn ông đã xử tệ với tôi là giao chiến với
tôi. Xin Ðức Chúa, Ðấng phán xét, hôm nay phân xử giữa con cái Ít-ra-en và con
cái Am-mon.” 28 Nhưng vua dân Am-mon không nghe những lời ông
Gíp-tác sai người nói với vua.
Ông
Gíp-tác khấn và thắng trận
29
Thần
khí của Ðức Chúa ở trên ông Gíp-tác và ông đã sang Ga-la-át và Mơ-na-se, rồi
qua Mít-pa Ga-la-át, và từ Mít-pa Ga-la-át ông qua đánh con cái Am-mon. 30
Ông Gíp-tác khấn hứa với Ðức Chúa rằng: "Nếu Ngài trao con cái
Am-mon vào tay con, 31 thì - khi con đã thắng con cái Am-mon mà trở
về bình an - hễ người nào ra khỏi cửa nhà con để đón con, người đó sẽ thuộc về
Ðức Chúa, và con sẽ dâng nó làm lễ toàn thiêu.” 32 Ông Gíp-tác qua
bên con cái Am-mon để giao chiến với chúng, và Ðức Chúa đã trao chúng vào tay
ông. 33 Ông đánh chúng tơi bời từ A-rô-e cho tới gần Min-nít, tất cả
là hai mươi thành, và cho tới A-vên Cơ-ra-mim. Thật là một cuộc đại bại: con
cái Am-mon bị hạ nhục trước mặt con cái Ít-ra-en.
34
Khi
ông Gíp-tác trở về Mít-pa, về nhà ông, thì này con gái ông ra đón ông, vừa đánh
trống vừa nhảy múa. Cô là con gái độc nhất của ông: ngoài cô ra, ông không có
con trai con gái nào khác. 35 Thoạt nhìn thấy cô, ông liền xé áo và
nói: "Ôi, con gái của cha, thật con làm khổ cha rồi! Chính con lại ở trong
số những kẻ gây bất hạnh cho cha! Cha đã trót mở miệng khấn hứa cùng Ðức Chúa
và không thể rút lại được.” 36 Cô thưa với ông: "Thưa cha, cha
đã trót mở miệng khấn hứa cùng Ðức Chúa, thì cha cứ thi hành cho con như lời
cha đã khấn hứa, vì Ðức Chúa đã cho cha trả thù được con cái Am-mon, kẻ thù của
cha.” 37 Cô lại nói với cha: "Xin cha cho con điều này là hoãn
cho con hai tháng để con đi lang thang trên các núi đồi, mà khóc cho đời con
gái của con cùng với các bạn con.” 38 Ông nói: "Con cứ
đi", và ông để cho cô đi hai tháng. Cô ra đi cùng với các bạn, khóc cho
đời con gái của cô trên các núi đồi. 39 Hết hai tháng, cô trở về với
cha, và ông thi hành cho cô lời ông đã khấn hứa. Cô chưa biết đến việc vợ
chồng. Và đã thành mọi tục lệ trong Ít-ra-en, là 40 hằng năm các cô gái
Ít-ra-en đi khóc thương con gái ông Gíp-tác, người Ga-la-át, mỗi năm bốn ngày.
Chương 12
Chiến
tranh giữa Ép-ra-im và Ga-la-át. Ông Gíp-tác qua đời.
1
Người
Ép-ra-im tập hợp lại, vượt sông tới Xa-phôn và nói với ông Gíp-tác: "Tại
sao ông vượt sông đánh con cái Am-mon, mà lại không gọi chúng tôi cùng đi?
Chúng tôi sẽ nổi lửa đốt nhà ông cho ông chết luôn!” 2 Ông Gíp-tác
nói với họ: "Tôi và dân tôi phải tranh chấp ác liệt với con cái Am-mon.
Tôi đã cầu cứu các người, mà các người đã chẳng cứu tôi khỏi tay chúng. 3 Tôi
thấy không ai cứu, nên đã liều mạng vượt sông đánh con cái Am-mon, và Ðức Chúa
đã trao tay chúng vào tay tôi. Vậy tại sao hôm nay các người lại lên gây chiến
với tôi?” 4 Ông Gíp-tác tập hợp tất cả các người Ga-la-át và giao
chiến với Ép-ra-im. Người Ga-la-át đánh Ép-ra-im tơi bời, vì Ép-ra-im đã nói:
"Này quân Ga-la-át! Tụi bay chỉ là người Ép-ra-im đào thoát, ăn bám cả
Ép-ra-im lẫn Mơ-na-se.” 5 Ga-la-át chiếm giữ các khúc cạn trên sông
Gio-đan, nơi Ép-ra-im có thể qua. Khi có người Ép-ra-im đào thoát nói:
"Cho tôi qua", thì những người Ga-la-át hỏi: "Anh có phải là
người Ép-ra-im không?" Nếu hắn đáp: "Không", 6 thì họ
bảo: "Hãy nói: Síp-bô-lét." Nếu hắn nói: "Xíp-bô-lét", vì
hắn không nói đúng được, thì bấy giờ họ bắt lấy hắn mà giết, gần khúc cạn trên
sông Gio-đan. Thời gian đó, bốn mươi hai ngàn người Ép-ra-im đã ngã gục.
7
Ông
Gíp-tác làm thủ lãnh Ít-ra-en sáu năm, rồi ông Gíp-tác, người Ga-la-át, qua đời
và được chôn cất trong thành của mình, ở Ga-la-át.
9.
Ông Íp-Xan
8
Sau
ông Gíp-tác, thì có ông Íp-xan, người Bê-lem, làm thủ lãnh Ít-ra-en. 9 Ông
có ba mươi người con trai và ba mươi người con gái. Ông gả các cô cho người
ngoại bang, và hỏi ba mươi người vợ cho các con trai ông, cũng người ngoại
bang. Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en bảy năm. 10 Rồi ông Íp-xan qua đời
và được chôn cất tại Bê-lem.
10.
Ông Ê-Lôn
11
Sau
ông Íp-xan, thì có ông Ê-lôn, người Dơ-vu-lun, làm thủ lãnh Ít-ra-en. Ông làm
thủ lãnh mười năm. 12 Rồi ông Ê-lôn, người Dơ-vu-lun, qua đời và
được chôn cất tại Ai-gia-lôn, trong đất Dơ-vu-lun.
11.
Ông Áp-Ðôn
13
Sau
ông Ê-lôn, thì có ông Áp-đôn, con ông Hi-lên, người Pia-a-thôn, làm thủ lãnh
Ít-ra-en. 14 Ông có bốn mươi con trai và ba mươi cháu trai, cỡi bảy
mươi con lừa. Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en tám năm. 15 Rồi ông Áp-đôn,
con ông Hi-lên, người Pia-a-thôn, qua đời và được chôn cất tại Pia-a-thôn,
trong đất Ép-ra-im, trên núi của người A-ma-lếch.
Chương 13
12.
Ông Sam-Sôn
Truyền
tin ông Sam-sôn ra đời
1
Con
cái Ít-ra-en lại làm sự dữ trái mắt Ðức Chúa, và Ðức Chúa đã trao họ vào tay
người Phi-li-tinh bốn mươi năm.
2
Có
một người đàn ông ở Xo-rơ-a, thuộc chi tộc Ðan, tên là Ma-nô-ác. Vợ ông son sẻ
và không sinh con. 3 Sứ giả của Ðức Chúa hiện ra với người vợ và nói
với bà: "Này, bà là người son sẻ và không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và
sinh một con trai. 4 Vậy bây giờ phải kiêng cữ: đừng uống rượu và
thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch. 5 Vì này bà sẽ
có thai và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con
trẻ sẽ là một na-dia của Thiên Chúa từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu cứu
Ít-ra-en khỏi tay người Phi-li-tinh.” 6 Bà đi vào và nói với chồng
rằng: "Một người của Thiên Chúa đã đến gặp tôi; hình dáng của người như
hình dáng một sứ giả của Thiên Chúa, rất đáng sợ. Tôi đã không dám hỏi người từ
đâu tới; và danh tánh người, người cũng không tiết lộ cho tôi. 7 Nhưng
người nói với tôi: "Này bà sẽ có thai và sẽ sinh một con trai; bây giờ bà
phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh
sạch, vì con trẻ ấy sẽ là một na-dia của Thiên Chúa, từ lòng mẹ cho đến ngày nó
chết."
Thiên
sứ hiện ra lần thứ hai
8
Ông
Ma-nô-ác khẩn cầu Ðức Chúa, ông nói: "Thưa Ngài, xin vui lòng cho người
của Thiên Chúa mà Ngài đã sai, đến với chúng con một lần nữa, và dạy chúng con
phải làm gì cho đứa trẻ sẽ sinh ra.” 9 Thiên Chúa nghe tiếng ông
Ma-nô-ác, và sứ giả của Ðức Chúa lại đến gặp vợ ông, lúc bà đang ở ngoài đồng,
khi ông Ma-nô-ác, chồng bà, không có mặt ở đó. 10 Bà vội vã chạy đi
báo cho chồng, và nói với ông: "Này người đã gặp tôi hôm trước, lại hiện
ra với tôi nữa.” 11 Ông Ma-nô-ác đứng dậy đi theo vợ, đến gặp người
kia và nói: "Ngài có phải là người đã nói với bà này không?" Người ấy
đáp: "Chính tôi.” 12 Ông Ma-nô-ác nói: "Khi xảy ra như
ngài nói, thì đứa bé phải giữ luật nào, và nó phải làm gì?” 13 Sứ
giả của Ðức Chúa nói với ông Ma-nô-ác: "Tất cả những điều tôi đã nói với
bà ấy thì bà ấy phải giữ. 14 Tất cả những gì bởi cây nho mà ra, thì
bà không được ăn, cũng không được uống rượu và thức có men; tất cả những gì
không thanh sạch, thì bà không được ăn. Mọi điều tôi đã truyền, thì bà phải tuân
giữ.” 15 Ông Ma-nô-ác thưa với sứ giả của Ðức Chúa: "Xin cho
phép chúng tôi giữ ngài lại và dọn hầu ngài một con dê tơ!” 16 Sứ
giả của Ðức Chúa nói với ông Ma-nô-ác: "Ông có giữ tôi lại, tôi cũng chẳng
ăn bánh của ông; nhưng nếu ông dọn lễ toàn thiêu kính Ðức Chúa, thì ông hãy
dâng lên Người đi", vì ông Ma-nô-ác không biết người ấy là sứ giả của Ðức
Chúa. 17 Bấy giờ ông Ma-nô-ác nói với sứ giả của Ðức Chúa: "Xin
ngài cho biết quý danh, để khi xảy ra như ngài nói, chúng tôi sẽ trọng đãi
ngài!” 18 Sứ giả của Ðức Chúa nói với ông: "Sao ông lại hỏi tên
tôi? Ðó là một điều bí nhiệm.” 19 Bấy giờ ông Ma-nô-ác bắt một con
dê tơ và lấy tế phẩm, để dâng làm lễ toàn thiêu trên tảng đá kính Ðức Chúa,
Ðấng đã thực hiện những kỳ công, rồi ông Ma-nô-ác và bà vợ đứng nhìn. 20 Khi
ngọn lửa từ bàn thờ bốc lên trời, thì sứ giả của Ðức Chúa cũng lên theo trong
ngọn lửa của bàn thờ, trước sự chứng kiến của ông Ma-nô-ác và vợ ông; họ phục
lạy sát đất. 21 Sứ giả của Ðức Chúa không hiện ra với ông Ma-nô-ác
và vợ ông nữa. Bấy giờ ông Ma-nô-ác mới biết vị đó chính là sứ giả của Ðức Chúa.
22 Ông Ma-nô-ác liền nói với vợ: "Chúng ta chết mất thôi, vì đã
thấy Thiên Chúa.” 23 Nhưng vợ ông nói với ông: "Nếu Ðức Chúa có
ý định giết chúng ta, thì Người đã chẳng nhận lễ toàn thiêu và tế phẩm từ tay
chúng ta, đã chẳng cho chúng ta thấy tất cả những điều ấy, và mới đây đã chẳng
cho chúng ta nghe một điều như thế.” 24 Bà sinh được một con trai và
đặt tên là Sam-sôn. Ðứa bé lớn lên, và Ðức Chúa chúc lành cho nó. 25 Thần
khí Ðức Chúa bắt đầu tác động trên Sam-sôn tại Trại Ðan giữa Xo-rơ-a và
Ét-ta-ôn.
Chương 14
Ông
Sam-sôn kết hôn
1
Ông
Sam-sôn xuống Tim-na và để ý đến một phụ nữ trong số các con gái của người
Phi-li-tinh tại Tim-na. 2 Ông trở lên và báo cho cha mẹ rằng:
"Con đã để ý đến một phụ nữ trong số con gái của người Phi-li-tinh tại
Tim-na. Vậy xin cha mẹ cưới cô ấy cho con.” 3 Cha ông cũng như mẹ
ông nói: "Trong số con gái của bà con mày và trong tất cả dân tao, không
có phụ nữ hay sao mà mày lại đi lấy vợ trong đám người Phi-li-tinh không cắt bì
ấy?" Nhưng ông Sam-sôn trả lời cha: "Xin cha cứ cưới cô ấy cho con,
vì nàng vừa mắt con.” 4 Cha mẹ ông không biết rằng việc đó là do Ðức
Chúa xui khiến, bởi lẽ Người đang tìm cớ cho người Phi-li-tinh gây chuyện, vì
thời ấy người Phi-li-tinh đang đô hộ Ít-ra-en.
5
Ông
Sam-sôn xuống Tim-na, và khi ông tới các vườn nho ở Tim-na, thì này một con sư
tử con rống lên và chồm ra phía ông. 6 Bấy giờ thần khí của Ðức Chúa
ập xuống trên ông; ông dùng tay không xé nó ra như xé một con dê con; nhưng ông
không cho cha mẹ hay việc ông đã làm. 7 Sau đó ông xuống chuyện trò
với người phụ nữ và nàng vừa mắt Sam-sôn. 8 Ít lâu sau, ông trở lại
cưới nàng. Ông rẽ qua để xem xác chết con sư tử, thì này có một đàn ong đậu
trong bộ xương con sư tử và cả mật nữa. 9 Ông móc ra và cầm trong
tay, vừa đi vừa ăn. Rồi khi về nhà, ông biếu cha mẹ và cha mẹ ông cũng ăn.
Nhưng ông không cho cha mẹ biết là ông đã móc mật ong từ bộ xương con sư tử. 10
Sau đó cha ông đã xuống gặp người phụ nữ và tại đó ông Sam-sôn làm một
bữa tiệc, vì các trai tráng vẫn làm như thế. 11 Khi thấy ông, người
ta đã cử ba mươi người trong số bạn hữu để ở với ông.
Ông
Sam-sôn ra câu đố
12
Ông
Sam-sôn nói với họ: "Tôi ra cho các anh một câu đố. Nếu trong bảy ngày
tiệc, các anh giải được câu đố ấy và tìm ra câu đáp, thì tôi sẽ tặng các anh ba
mươi chiếc áo lụa quý và ba mươi chiếc khác để thay. 13 Nếu các anh
không giải được, thì các anh phải cho tôi ba mươi chiếc áo lụa quý và ba mươi
chiếc khác để thay." Họ nói với ông: "Anh ra câu đố đi; chúng tôi
nghe đây!” 14 Ông liền nói với họ:
"Thức
ăn xuất tự người dùng,
ngọt
ngào xuất tự sức hùng, là chi?"
Nhưng
sau ba ngày họ vẫn không giải được câu đố.
15
Ngày
thứ tư họ nói với vợ ông Sam-sôn: "Hãy dụ chồng chị để anh ấy giải nghĩa
câu đố cho chúng tôi, nếu không, chúng tôi sẽ nổi lửa đốt cả chị lẫn nhà cha
chị. Có phải để bóc lột chúng tôi mà các người đã mời chúng tôi tới đây hay
không?” 16 Vợ ông Sam-sôn khóc tỉ tê bên ông. Nàng nói: "Anh
chỉ có ghét em thôi, chẳng yêu em chút nào. Anh ra câu đố cho đồng bào em, mà
lại không giải cho em." Ông nói với nàng: "Này, cha mẹ anh, anh cũng
còn không giải cho, huống chi là em!” 17 Nhưng nàng khóc tỉ tê bên
ông suốt bảy ngày tiệc. Ngày thứ bảy ông đã giải nghĩa cho nàng, vì nàng quấy
rầy ông; và nàng giải câu đố cho đồng bào mình.
18
Ngày
thứ bảy, trước khi mặt trời lặn, người trong thành nói với ông:
"Cái
gì ngọt quá mật ong,
khoẻ
hơn sư tử thì ông chịu hàng! "
Ông
bảo họ:
"Không
cày với bò cái của ta,
tụi
bay đã chẳng tìm ra câu này!"
19
Bấy
giờ thần khí của Ðức Chúa ập xuống trên ông; ông liền xuống Át-cơ-lôn và giết
ba mươi người trong bọn họ, lột áo của những người ấy, rồi trao những áo để
thay cho những kẻ đã giải được câu đố. Ông bừng bừng nổi giận trở về nhà cha
ông. 20 Còn vợ của ông Sam-sôn, thì được gán cho một người đã làm
phù rể cho ông.
Chương 15
Ông
Sam-sôn đốt mùa màng của người Phi-li-tinh
1
Ít
lâu sau, vào mùa gặt lúa miến, ông Sam-sôn mang một con dê tơ đến thăm vợ. Ông
nói: "Tôi muốn vào phòng ngủ của vợ tôi"; nhưng bố vợ không cho ông
vào. 2 Bố vợ nói: "Thật sự tôi tưởng là anh đã chán ghét nó,
nên tôi đã trao nó cho người đã làm phù rể cho anh. Con em nó lại chẳng khá hơn
nó sao? Vậy để con em thay cho chị nó đi!” 3 Ông Sam-sôn nói với họ:
"Lần này thì tôi vô tội đối với người Phi-li-tinh, nếu tôi làm hại chúng.”
4 Ông Sam-sôn đi bắt ba trăm con chó sói; lấy đuốc, rồi cột ngược
đuôi con này với đuôi con kia và buộc một chiếc đuốc giữa hai đuôi. 5 Ông
châm lửa vào đuốc và lùa sói vào đồng lúa chín của người Phi-li-tinh, thiêu rụi
từ gốc rạ cho đến bông lúa, thiêu cả nho và ô-liu nữa.
6
Người
Phi-li-tinh hỏi: "Ai đã làm chuyện này?" Và người ta đáp: "Ðó là
Sam-sôn, con rể của ông người Tim-na, vì ông ấy đã đem vợ hắn gán cho người phù
rể của hắn." Những người Phi-li-tinh đi lên, nổi lửa đốt cả nàng lẫn cha
nàng. 7 Ông Sam-sôn nói với họ: "Vì chúng bay đã làm như thế,
thì tao sẽ trả thù cho được mới thôi.” 8 Ông đánh cho chúng một trận
tơi bời, khiến chúng bị thảm bại. Rồi ông xuống ở trong một hốc đá tại Ê-tham.
Hàm
lừa
9
Người
Phi-li-tinh lên đóng trại ở Giu-đa và tràn ra tới Lê-khi.
10
Người
Giu-đa nói với chúng: "Tại sao các anh lại lên chống chúng tôi? "
Chúng đáp; "Ðể bắt trói Sam-sôn; chúng tôi lên để xử với hắn như hắn đã xử
với chúng tôi” 11 Ba ngàn người Giu-đa xuống hốc đá ở Ê-tham, nói
với ông Sam-sôn: "Ông không biết là người Phi-li-tinh đang đô hộ chúng ta
sao? Ông đã làm gì cho chúng tôi thế?" Ông trả lời họ: "Chúng xử với
tôi làm sao, tôi cũng xử với chúng như vậy!” 12 Họ nói: "Chúng
tôi xuống bắt trói và nộp ông cho người Phi-li-tinh!" Ông Sam-sôn nói với
họ: "Các anh phải thề với tôi là chính các anh sẽ không đập chết tôi.” 13
Họ đáp: "Chúng tôi chỉ bắt trói và nộp ông cho chúng thôi; chứ giết
ông thì chúng tôi không giết." Rồi họ dùng hai chiếc dây thừng mới mà trói
ông và xốc ông lên khỏi hốc đá.
14
Ông
vào đến Lê-khi, thì người Phi-li-tinh reo hò ra đón ông. Bấy giờ khi thần khí
của Ðức Chúa ập xuống trên ông, thì những chiếc dây thừng trên cánh tay ông tựa
như những sợi chỉ cháy xèo trong lửa và dây cột tay ông đều tuột xuống. 15
Vớ được một hàm lừa còn tươi, ông đưa tay lượm lấy và dùng nó đánh chết
một ngàn người. 16 Ông Sam-sôn nói:
"Với
một hàm lừa ta đã giết chúng từng đống,
với
một hàm lừa ta đánh chết cả ngàn tên."
17
Nói
xong ông liệng chiếc hàm khỏi tay, và gọi nơi ấy là Ra-mát Lê-khi. 18 Ông
khát quá, nên kêu cầu Ðức Chúa rằng: "Ngài là Ðấng đã dùng tay tôi tớ Ngài
thực hiện cuộc chiến thắng vĩ đại này, mà chẳng lẽ giờ đây con lại phải chết
khát và rơi vào tay những kẻ không cắt bì?” 19 Bấy giờ Thiên Chúa xẻ
khe đá ở Lê-khi, nước liền vọt ra; ông uống, thấy hồi sức và tỉnh táo lại. Bởi
thế người ta gọi nơi ấy là Ên Ha-cô-rê; suối ấy vẫn còn ở Lê-khi cho tới ngày
nay. 20 Ông Sam-sôn làm thủ lãnh Ít-ta-en hai mươi năm trong thời
người Phi-li-tinh cai trị.
Chương 16
Chuyện
xảy ra ở cổng thành Ga-da
1
Ông
Sam-sôn đến Ga-da. Tại đây ông gặp một cô điếm và đi với cô. 2 Người
ta báo cho những người Ga-da rằng: "Sam-sôn đã tới đây." Họ liền bao
vây và rình ông suốt đêm ấy ở cổng thành. Họ ở yên suốt đêm mà rằng: "Ðợi
đến tảng sáng, ta sẽ giết hắn.” 3 Nhưng ông Sam-sôn nằm ngủ tới nửa
đêm, và giữa đêm ông trỗi dậy, nắm lấy cánh cổng thành cùng với hai cây cột,
nhổ luôn cả then ngang, rồi vác lên vai, đi trên đỉnh núi đối diện với
Khép-rôn.
Ông
Sam-sôn bị Ða-li-la phản trắc
4
Sau
đó ông phải lòng một phụ nữ tên là Ða-li-la, ở thung lũng Xô-rếch. 5 Các
vương hầu Phi-li-tinh lên gặp cô ta. Họ nói với nàng: "Cô hãy dụ hắn xem
bởi đâu hắn có sức mạnh như thế, và chúng tôi phải dùng cách nào mới trị được
hắn, trói làm sao mới khống chế được hắn, rồi mỗi người chúng tôi sẽ cho cô một
ngàn mốt bạc."
6
Ða-li-la
nói với ông Sam-sôn: "Nào cho em biết, em xin anh: bởi đâu anh có sức mạnh
như thế? Trói làm sao mới khống chế anh được?” 7 Ông Sam-sôn đáp:
"Nếu trói anh bằng bảy dây cung mới, chưa phơi khô, thì anh sẽ mất sức và
trở nên như bất cứ một người nào khác.” 8 Các vương hầu Phi-li-tinh
đem đến cho nàng bảy dây cung mới chưa phơi khô; nàng dùng các dây ấy trói ông
lại, 9 đang khi cho người rình sẵn trong phòng. Nàng nói với ông:
"Này anh Sam-sôn! Quân Phi-li-tinh đấy!" Ông liền giật đứt các dây
cung như sợi đay đứt khi đụng vào lửa. Thế là sức mạnh của ông không bị tiết
lộ.
10
Bấy
giờ Ða-li-la nói với ông Sam-sôn: "Anh chỉ xí gạt em thôi, toàn nói xạo
không à! Bây giờ hãy cho em biết, em xin anh: phải dùng cái gì mới trói được
anh?” 11 Ông nói với nàng: "Nếu trói chặt anh bằng những dây
thừng mới, chưa dùng vào việc gì, thì anh sẽ mất sức và trở nên như bất cứ một
người nào khác.” 12 Ða-li-la liền lấy những dây thừng mới, trói ông
lại, rồi nói: "Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh đấy!" Ðang khi cho
người rình sẵn trong phòng. Nhưng ông đã giựt bung các dây thừng đó khỏi cánh
tay như giựt một sợi chỉ.
13
Ða-li-la
lại nói với ông Sam-sôn: "Ðến bây giờ mà anh vẫn còn xí gạt em, toàn nói
xạo không à! Hãy cho em biết phải dùng cái gì mới trói được anh!" Ông nói
với nàng: "Nếu em kết tóc trên đầu anh thành bảy bím, rồi cột vào dây
thừng của khung dệt, đóng cọc siết cho chặt, thì anh sẽ mất sức và trở nên như
bất cứ người nào khác.” 14 Vậy nàng làm cho ông ngủ, đoạn kết tóc trên
đầu ông thành bảy bím rồi cột vào dây thừng của khung dệt và đóng cọc siết cho
chặt. Nàng nói với ông: "Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh đấy!" Ông
tỉnh giấc và bứng cả cọc, cả khung dệt, lẫn dây thừng của khung dệt.
15
Nàng
lại nói với ông: "Làm sao anh nói là anh yêu em, trong khi anh không thật
lòng với em? Ðây là lần thứ ba anh xí gạt em và không tỏ cho em biết: bởi đâu
anh có sức mạnh như thế?” 16 Vì ngày nào nàng cũng dùng hết lời lẽ
mà nài ép và làm khổ ông, khiến ông héo hắt đến chết được, 17 ông
thổ lộ hết tâm can với nàng, và nói: "Dao cạo chưa hề đụng đến đầu anh, vì
anh là một na-dia của Thiên Chúa từ lúc còn trong lòng mẹ. Nếu anh bị cạo đầu
thì anh sẽ mất sức ngay, trở nên yếu nhược và như mọi người khác.” 18 Ða-li-la
thấy rằng ông đã thổ lộ hết tâm can với nàng, liền sai người đi gọi các vương
hầu Phi-li-tinh và nói: "Lần này các ông hãy lên, vì anh ấy đã thổ lộ hết
tâm can với tôi." Các vương hầu Phi-li-tinh liền lên gặp nàng, mang sẵn
bạc trong tay. 19 Vậy nàng làm cho ông ngủ trên đầu gối mình, rồi
kêu người cạo bảy bím tóc trên đầu ông; nàng bắt đầu khống chế ông, và ông đã
mất sức. 20 Nàng nói: "Này anh Sam-sôn, quân Phi-li-tinh
đấy!" Ông tỉnh giấc và nói: "Mình sẽ bung ra như mọi lần và lại thoát
thôi." Nhưng ông đâu có biết: Ðức Chúa không còn ở với ông nữa. 21 Quân
Phi-li-tinh bắt lấy ông, móc mắt và giải ông xuống Ga-da. Chúng chập xích đồng
lại, cột ông và bắt ông kéo cối xay trong nhà tù.
Ông
Sam-sôn trả thù rồi chết
22
Nhưng
rồi từ cái đầu bị cạo trọc, tóc ông lại mọc ra. 23 Các vương hầu
Phi-li-tinh họp lại để long trọng tế thần Ða-gôn của chúng và ăn mừng. Chúng
nói:
"Thần
của ta đã trao vào tay ta tên Sam-sôn, kẻ thù của ta."
24
Khi
nhìn thấy ông, dân chúng reo hò tung hô thần của chúng và nói:
"Thần
của ta đã trao vào tay ta tên Sam-sôn, kẻ thù của ta,
kẻ
tàn phá xứ sở ta, kẻ tăng thêm số tử vong của ta."
25
Trong
khi lòng hả hê, chúng nói: "Hãy gọi Sam-sôn ra làm trò tiêu khiển cho
chúng ta!" Vậy chúng kêu ông Sam-sôn từ nhà tù đến; và ông làm trò tiêu
khiển trước mặt chúng. Rồi chúng đặt ông đứng giữa các cột. 26 Bấy
giờ ông Sam-sôn nói với cậu thiếu niên đang dắt tay ông: "Cậu dẫn tôi đi
và cho tôi sờ vào các cột cái chống đỡ toà nhà, để tôi dựa lưng.” 27 Toà
nhà lúc đó đầy chật đàn ông đàn bà. Tất cả các vương hầu Phi-li-tinh đều ở đó,
và trên sân thượng có khoảng ba ngàn đàn ông đàn bà đang coi ông Sam-sôn làm
trò tiêu khiển. 28 Ông Sam-sôn kêu cầu Ðức Chúa và thưa: "Lạy
Ðức Chúa là Chúa Thượng của con, xin nhớ đến con và ban sức cho con lần này nữa
thôi, ôi lạy Thiên Chúa, để chỉ đánh một trận là con trả thù được quân
Phi-li-tinh đã móc mắt con.” 29 Bấy giờ ông Sam-sôn rờ vào hai chiếc
cột ở giữa, là những cột cái chống đỡ toà nhà, và ông tì vào các cột ấy, tay
mặt bên này, tay trái bên kia. 30 Rồi ông Sam-sôn nói: "Ðành
chết với bọn Phi-li-tinh vậy!" Ðoạn ông dùng sức đẩy mạnh, và toà nhà sụp
đổ đè các vương hầu và tất cả dân chúng có mặt ở đó. Thành ra số người ông giết
được khi ông chết lại đông hơn số người ông đã giết được khi còn sống. 31 Anh
em ông và cả nhà cha ông xuống đưa ông về chôn cất giữa Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn
trong phần mộ ông Ma-nô-ác, cha ông. Ông làm thủ lãnh Ít-ra-en được hai mươi
năm.
Chương 17
Phụ
Lục
1.
Nhà Thờ Của Ông Mi-Kha Và Nhà Thờ Của Họ Ðan
Nhà
thờ tư của ông Mi-kha
1
Xưa
có một người thuộc vùng núi Ép-ra-im, tên là Mi-kha-giơ-hu. 2 Ông
thưa với bà mẹ: "Số bạc một ngàn một trăm thỏi mà người ta đã lấy mất của
mẹ, khiến mẹ chửi rủa và mẹ cũng đã nói cho con nghe, thì này số bạc đó, con
đang giữ đây; chính con đã lấy đó." Mẹ ông liền nói: "Xin Ðức Chúa
chúc lành cho con tôi!” 3 Ông trả lại mẹ ông số bạc một ngàn một
trăm thỏi, nhưng mẹ ông nói: "Chính tay mẹ đã dâng hiến trọn số bạc này
cho Ðức Chúa, để con của mẹ dùng làm một tượng, một hình đúc bằng kim khí. Vậy
bây giờ mẹ đưa lại cho con."
4
Nhưng
ông trả số bạc lại cho mẹ. Mẹ ông giữ lấy hai trăm thỏi, rồi trao cho thợ đúc,
người này làm một tượng, một hình đúc, đặt tại nhà ông Mi-kha-giơ-hu. 5 Ông
Mi-kha này có một nhà thờ; ông đã làm một ê-phốt và các te-ra-phim, rồi phong
cho một người trong các con làm tư tế cho ông. 6 Thời đó Ít-ra-en
không có vua, ai muốn làm gì thì làm.
7
Có
một thanh niên, người Bê-lem Giu-đa, thuộc chi tộc Giu-đa. Anh là một thầy
Lê-vi ở đó như khách trú. 8 Người ấy đi khỏi thành Bê-lem Giu-đa để
tìm chỗ cư trú. Trên đường đi, anh vào vùng núi Ép-ra-im đến nhà ông Mi-kha. 9
Ông Mi-kha nói với anh: "Anh từ đâu tới?" Anh nói với ông:
"Tôi là một người Lê-vi thuộc Bê-lem Giu-đa; tôi đi tìm chỗ cư trú.” 10
Ông Mi-kha nói với anh: "Xin ở lại đây với tôi, để làm sư phụ và tư
tế cho tôi. Phần tôi, mỗi năm tôi sẽ cung cấp cho anh mười thỏi bạc, áo mặc và
lương thực cần dùng.” 11 Thầy Lê-vi đồng ý ở lại với ông; người trẻ
tuổi ấy được ông coi như một trong các con ông. 12 Ông Mi-kha phong
cho thầy Lê-vi làm tư tế; người trẻ tuổi ấy trở thành tư tế của ông và ở trong
nhà ông Mi-kha. 13 Ông Mi-kha nói: "Bây giờ tôi biết Ðức Chúa
sẽ phù hộ tôi vì tôi đã có một thầy Lê-vi làm tư tế."
Chương 18
Những
người thuộc chi tộc Ðan đi kiếm đất
1
Thời
ấy Ít-ra-en không có vua. Cũng thời ấy chi tộc Ðan đang tìm đất làm gia nghiệp
để định cư, vì cho tới ngày đó họ không được lãnh phần gia nghiệp riêng giữa
các chi tộc Ít-ra-en. 2 Vậy con cái Ðan sai năm người dũng cảm trong
thị tộc của họ, ra khỏi ranh giới Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn, rảo quanh khắp xứ để do
thám. Họ nói với những người này: "Các anh hãy đi do thám đất đai."
Năm người đi vào vùng núi Ép-ra-im. Ðến gần nhà ông Mi-kha và qua đêm tại đây. 3
Vì họ ở cạnh nhà ông Mi-kha, nên đã nhận ra tiếng của chàng thanh niên
Lê-vi; họ đã rẽ qua đó và nói với anh: "Ai đã bảo anh tới đây? Anh làm gì
ở đây? Chuyện gì đã xảy ra cho anh tại đây?” 4 Anh trả lời họ:
"Ông Mi-kha đã làm cho tôi thế này thế này: ông đã thuê tôi và tôi đã trở
thành tư tế của ông.” 5 Họ nói với anh: "Xin anh thỉnh vấn
Thiên Chúa cho chúng tôi biết công cuộc chúng tôi đang theo đuổi có thành tựu
hay không.” 6 Thầy tư tế bảo họ: "Các anh cứ đi bình an; Ðức
Chúa để mắt nhìn xem công cuộc các anh đang theo đuổi."
7
Năm
người ấy ra đi. Họ vào La-gít và thấy dân chúng ở đây an cư lạc nghiệp theo kiểu
người Xi-đôn, yên lành và an tâm, không thiếu hụt gì trong xứ. Dân chúng thừa
hưởng của cải, lại ở xa người Xi-đôn, và không có chuyện gì với ai cả. 8 Năm
người ấy trở về với anh em ở Xo-rơ-a và Ét-ta-ôn. Anh em họ hỏi: "Thế nào?”
9 Họ đáp: "Ðứng lên! Chúng ta hãy lên đánh chúng! Vì chúng tôi
đã thấy xứ đó: Thật là tuyệt vời! Thế mà các anh cứ điềm nhiên! Ðừng chần chừ
nữa: đi đi, vào chiếm lấy xứ ấy! 10 Tới nơi các anh sẽ gặp một dân yên lành,
một xứ mênh mông bốn bề bát ngát. Chắc chắn là Thiên Chúa đã trao đất ấy vào
tay các anh: Ðó là một nơi không thiếu hụt gì trên mặt đất."
Cuộc
di dân của họ Ðan
11
Vậy
một số người thuộc chi tộc Ðan, là sáu trăm người được võ trang để chiến đấu,
đã rời khỏi nơi ấy, từ Xo-rơ-a và từ Ét-ta-ôn. 12 Họ tiến lên đóng
trại tại Kia-giát Giơ-a-rim miền Giu-đa. Bởi thế người ta gọi nơi ấy là Trại
Ðan cho tới ngày nay. Nơi ấy ở phía tây Kia-giát Giơ-a-rim. 13 Từ
đấy họ qua vùng núi Ép-ra-im và đến tận nhà ông Mi-kha.
14
Năm
người đã đi thăm dò đất La-gít lên tiếng nói với anh em họ: "Các anh biết
không? Trong các ngôi nhà đó có một ê-phốt, mấy te-ra-phim, một tượng, một hình
đúc bằng kim khí. Vậy bây giờ các anh nghĩ xem phải làm gì.” 15 Họ
rẽ qua hướng đó, vào nhà thầy Lê-vi trẻ tuổi, trong nhà ông Mi-kha, và chào hỏi
thầy, 16 đang khi sáu trăm người trong số con cái họ Ðan, được võ
trang để chiến đấu, chực sẵn ở ngưỡng cửa. 17 Năm người đã đi thăm
dò đất và đã vào đấy, liền lấy tượng, ê-phốt, te-ra-phim và hình đúc bằng kim
khí đang khi thầy tư tế chực sẵn ở ngưỡng cửa cùng với sáu trăm người được võ
trang để chiến đấu. 18 Vậy những người ấy đã vào nhà ông Mi-kha lấy
tượng, ê-phốt, te-ra-phim và hình đúc bằng kim khí. Nhưng thầy tư tế nói với
họ: "Các anh làm gì thế?” 19 Họ bảo thầy: "Im! Lấy tay bịt
miệng lại và đi theo chúng tôi, thầy sẽ là sư phụ và tư tế của chúng tôi. Thầy
làm tư tế cho gia đình của một người hơn là cho cả một chi tộc và một thị tộc
trong Ít-ra-en sao?” 20 Thầy Tư tế, lòng đầy phấn khởi, liền cầm lấy
ê-phốt, te-ra-phim và hình đúc bằng kim khí, rồi nhập đoàn với họ.
21
Họ
lui gót ra đi. Họ để đàn bà, con trẻ, súc vật và hành lý đi trước. 22 Khi
những người ấy đã đi xa nhà ông Mi-kha, thì hàng xóm láng giềng của ông Mi-kha
tri hô lên, và rượt theo con cái Ðan. 23 Họ gọi theo con cái Ðan;
những người này quay lại, nói với ông Mi-kha: "Chuyện gì mà ông la ó thế?”
24 Ông trả lời: "Các ngươi đánh cắp tượng thần ta đã làm, lại
còn rước cả tư tế đi, thì ta còn gì nữa? Vậy mà còn hỏi "Chuyện gì
thế", thế là thế nào?” 25 Con cái Ðan đáp: "Ðừng bắt chúng
tôi phải nghe ông nói nữa, kẻo những kẻ bực bội sẽ tấn công các người, và ông
cùng gia đình ông sẽ mất mạng.” 26 Rồi con cái Ðan tiếp tục đi. Còn
ông Mi-kha, thấy họ mạnh hơn mình, thì quay gót trở về nhà.
Chiếm
La-gít. Thiết lập họ Ðan và nhà thờ.
27
Các
người ấy lấy tượng ông Mi-kha đã làm, và đem theo thầy tư tế đã ở với ông; rồi
họ đánh La-gít, chống một dân yên lành và an tâm. Họ dùng lưỡi kiếm chém giết
dân ấy và nổi lửa đốt thành. 28 Không có ai tiếp cứu, vì thành ấy ở
xa Xi-đôn và không có liên hệ gì với ai cả. Thành ấy nằm trong thung lũng gần
Bết Rơ-khốp. Họ xây lại thành và định cư ở đấy. 29 Họ đặt tên thành
là Ðan, theo tên ông tổ của họ là Ðan, con của ông Ít-ra-en. Thực ra trước kia
tên thành là La-gít. 30 Con cái Ðan dựng tượng ấy lên mà thờ. Ông
Giơ-hô-na-than, con ông Ghéc-sôm, cháu ông Mơ-na-se, ông và con cái ông làm tư
tế cho họ Ðan mãi tới ngày dân trong nước bị lưu đày. 31 Vậy tượng
ông Mi-kha đã làm, thì họ dựng lên mà thờ, trong suốt thời gian có nhà Thiên
Chúa ở Si-lô.
Chương 19
2.
Tội Ác Của Dân Ghíp-A.
Chiến
Tranh Chống Ben-Gia-Min.
Người
Lê-vi vùng Ép-ra-im và cô tỳ thiếp
1
Thời
ấy -thời Ít-ra-en chưa có vua- có một người Lê-vi cư trú trong thung lũng vùng
núi Ép-ra-im. Người ấy lấy một phụ nữ Bê-lem Giu-đa làm tỳ thiếp. 2 Người
tỳ thiếp giận chồng, bỏ về nhà cha mình tại Bê-lem Giu-đa. Nàng lưu lại đây một
thời gian là bốn tháng. 3 Chồng nàng lên đường đi tìm nàng để năn
nỉ, mong đưa nàng về với mình. Cùng đi với chàng, có một người đầy tớ và hai
con lừa. Nàng dẫn chàng vào nhà cha mình. Khi thấy chàng, người cha của thiếu
phụ vui mừng ra đón chàng. 4 Ông bố vợ, cha của thiếu phụ, giữ chàng
lại, nên chàng ở với ông ba ngày. Họ ăn uống và qua đêm tại đó. 5 Ngày
thứ tư, chàng dậy sớm và chuẩn bị lên đường, thì cha của thiếu phụ nói với con
rể: "Anh dùng chút bánh lót dạ đã, rồi hãy đi.” 6 Họ ngồi xuống
và cả hai cùng ăn uống với nhau. Ðoạn cha của thiếu phụ lại nói với anh ta:
"Mời anh ở lại qua đêm cho thoải mái.” 7 Khi người ấy đứng lên
đi, thì ông bố vợ nài ép, nên chàng ở lại qua đêm nữa. 8 Ngày thứ
năm chàng dậy sớm để lên đường, nhưng cha của thiếu phụ nói: "Mời anh ăn
lót dạ đã." Thế là họ lại kéo dài tới xế chiều và cả hai cùng ăn với nhau.
9 Khi người ấy đứng lên đi cùng với người tỳ thiếp và tên đầy tớ,
thì bố vợ, cha của thiếu phụ, nói với chàng: "Này trời đã về chiều, hãy
qua đêm đã! Ðây ngày sắp tàn, hãy qua đêm tại đây cho thoải mái. Ngày mai các
người sẽ dậy sớm lên đường và anh sẽ về lều của anh.” 10 Nhưng người
ấy không muốn ở lại qua đêm; chàng đứng lên và đi cho tới khi nhìn thấy Giơ-vút
tức là Giê-ru-sa-lem. Cùng đi với chàng có hai con lừa đã thắng yên, người tỳ
thiếp và tên đầy tớ của chàng.
Tội
ác của dân Ghíp-a
11
Khi
họ đến gần Giơ-vút, thì lúc ấy, giờ đã quá muộn. Người đầy tớ nói với chủ:
"Thưa ngài, chúng ta nên rẽ vào thành của người Giơ-vu-xi mà qua đêm tại
đó.” 12 Người chủ trả lời: "Chúng ta sẽ không rẽ vào một thành
nào của người xa lạ, vì những người đó không phải là con cái Ít-ra-en; chúng ta
cứ đi cho tới Ghíp-a.” 13 Chàng còn nói với tên đầy tớ: "Ði!
Chúng ta hãy tới một trong các nơi kia; chúng ta sẽ nghỉ đêm tại Ghíp-a hoặc
Ra-ma.” 14 Vậy họ tiếp tục đi; khi họ tới sát Ghíp-a thuộc
Ben-gia-min thì mặt trời lặn. 15 Họ liền ghé vào Ghíp-a để qua đêm.
Chàng vào ngồi ở công trường thành phố, nhưng không ai mời họ về nhà nghỉ đêm.
16
Chiều
đến bỗng có một cụ già đi làm ruộng về. Cụ là người vùng núi Ép-ra-im, nhưng cư
trú ở Ghíp-a; còn người địa phương thì là con cái Ben-gia-min. 17 Cụ
già ngước mắt lên và thấy người lữ khách ở công trường thành phố, liền nói với
người ấy: "Anh đi đâu, và từ đâu tới?” 18 Chàng trả lời:
"Chúng tôi từ Bê-lem Giu-đa đi về thung lũng vùng núi Ép-ra-im, quê tôi ở
đấy. Tôi đã đến Bê-lem Giu-đa và bây giờ đang trên đường trở về nhà. Thế nhưng
chẳng người nào đón tiếp tôi cả. 19 Cỏ rơm cho lừa ăn, tôi có sẵn,
cả bánh và rượu để tôi, nữ tỳ của ông và thằng bé đi theo tôi tớ của ông dùng,
cũng đều có, không thiếu thứ gì.” 20 Cụ già nói: "Chúc anh bình
an! Anh cần gì, cứ để tôi lo; chỉ xin anh đừng nghỉ đêm ở công trường.” 21
Vậy cụ đưa chàng vào nhà mình và vất rơm cho lừa ăn. Họ rửa chân rồi ăn
uống.
22
Ðang
lúc họ ăn uống vui vẻ như vậy, thì này có những người dân trong thành, những kẻ
vô lại, bao vây nhà ấy, vừa đập cửa dồn dập, vừa nói với cụ già là gia chủ:
"Hãy đưa người đàn ông đã vào nhà ông ra đây cho chúng tôi chơi!” 23 Cụ
chủ nhà ra gặp chúng và nói: "Này anh em, tôi van anh em đừng làm chuyện
ác đức! Một khi người đàn ông này đã vào nhà tôi rồi, thì xin các anh đừng làm
điều bỉ ổi. 24 Này tôi có đứa con gái còn trinh, và người tỳ thiếp
của anh ta nữa. Tôi đưa họ ra cho các anh cưỡng hiếp và xử với họ thế nào tuỳ
ý. Còn đối với người này thì đừng làm điều bỉ ổi ấy.” 25 Nhưng đám
người đó không thèm nghe. Bấy giờ người kia dẫn tỳ thiếp của mình ra ngoài cho
chúng chơi. Chúng cưỡng hiếp nàng suốt đêm cho tới sáng, và lúc rạng đông mới
buông tha.
26
Gần
sáng, khi người đàn bà trở về, thì nàng té xỉu ngay lối vào nhà cụ già, nơi
chồng nàng đang trọ. Nàng nằm đấy cho tới sáng hẳn. 27 Sáng ngày ra
chồng nàng dậy, mở cửa và chuẩn bị lên đường, thì này người đàn bà, tỳ thiếp
của chàng nằm bên cửa nhà, hai tay vắt trên ngưỡng cửa. 28 Chàng gọi
nàng: "Dậy đi! Chúng ta lên đường", nhưng không một tiếng trả lời.
Bấy giờ chàng xốc nàng lên lừa, rồi khởi hành về nhà. 29 Về tới nhà,
chàng lấy dao đem chặt người tỳ thiếp ra từng mảnh, thành mười hai phần, rồi
gởi đi khắp lãnh thổ Ít-ra-en. 30 Mọi người, ai thấy cũng đều nói:
"Chưa xảy ra và chưa hề thấy như thế bao giờ, kể từ ngày con cái Ít-ra-en
từ đất Ai-cập đi lên cho tới nay. Hãy suy nghĩ xem, hãy bàn luận và lên
tiếng!"
Chương 20
Người
Ít-ra-en trả thù tội ác Ghíp-a
1
Tất
cả cộng đồng con cái Ít-ra-en, từ Ðan tới Bơ-e Se-va và đất Ga-la-át, họp lại,
muôn người như một, bên cạnh Ðức Chúa ở Mít-pa. 2 Các người đứng đầu
toàn dân và các chi tộc Ít-ra-en, đều tham dự công hội của Dân Thiên Chúa, tất
cả là 400.000 bộ binh biết tuốt gươm. 3 Con cái Ben-gia-min nghe tin
rằng con cái Ít-ra-en đã lên Mít-pa. Con cái Ít-ra-en nói: "Hãy kể đi! Tội
ác đó đã xảy ra thế nào?” 4 Bấy giờ người Lê-vi, chồng của người đàn
bà đã bị giết, lên tiếng nói: "Tôi cùng với người tỳ thiếp đến Ghíp-a
thuộc Ben-gia-min để nghỉ đêm. 5 Các thân hào Ghíp-a đã xông đến phá
tôi, và suốt đêm bao vây nhà tôi ở, để hại tôi, vì họ định giết tôi. Còn người
tỳ thiếp của tôi thì họ cưỡng hiếp cho đến chết. 6 Vậy tôi đã đem
chặt người tỳ thiếp của tôi ra từng phần, rồi gởi đi khắp lãnh thổ thuộc gia
nghiệp Ít-ra-en, bởi vì những người ấy đã làm một điều sỉ nhục và bỉ ổi trong
Ít-ra-en. 7 Này đây, tất cả quý vị là con cái Ít-ra-en, hãy trao đổi
ý kiến và quyết định tại đây.” 8 Toàn dân, muôn người như một, đứng
lên nói: "Không ai được về lều, không ai được trở lại nhà! 9 Bây giờ,
chúng ta sẽ làm thế này đối với Ghíp-a, là rút thăm xem ai sẽ lên tấn công nó!
10 Trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en, cứ 100 người thì lấy 10, 1.000 thì lấy
100, 10.000 thì lấy 1.000, để tải lương cho dân quân, là những người khi đến
nơi sẽ xử với Ghíp-a thuộc Ben-gia-min, tương xứng với điều bỉ ổi nó đã làm tại
Ít-ra-en.” 11 Như thế tất cả mọi người Ít-ra-en đã họp nhau muôn
người như một, để chống lại thành ấy.
Người
Ben-gia-min ngoan cố
12
Các
chi tộc Ít-ra-en sai người đi nói với toàn thể chi tộc Ben-gia-min: "Tội
ác như vậy đã xảy ra nơi các người là thế nào? 13 Bây giờ hãy nộp những con
người đó, những kẻ vô lại ở Ghíp-a, để chúng tôi xử tử chúng và khử trừ tội ác
khỏi Ít-ra-en." Nhưng con cái Ben-gia-min không muốn nghe lời con cái
Ít-ra-en là anh em mình.
Giao
tranh đầu tiên
14
Bấy
giờ con cái Ben-gia-min từ các thành tập họp lại ở Ghíp-a để đi giao chiến với
con cái Ít-ra-en. 15 Ngày hôm ấy, con cái Ben-gia-min từ các thành
được kiểm tra là 26.000 người biết tuốt gươm, không kể dân cư ở Ghíp-a. 16
Trong tất cả đám dân đó có 700 tinh binh thuận tay trái; những người này
đều có thể dùng ná bắn một hòn đá trúng một sợi tóc mà không sai trệch. 17
Con cái Ít-ra-en cũng được kiểm tra, tổng số là 400.000 người biết tuốt
gươm, không kể Ben-gia-min; tất cả đều là chiến binh. 18 Họ chỗi dậy
tiến lên Bết Ên để thỉnh vấn Thiên Chúa. Con cái Ít-ra-en hỏi: "Ai trong
chúng con sẽ lên trước để giao chiến với con cái Ben-gia-min?" Ðức Chúa
phán: "Giu-đa lên trước.” 19 Sáng sớm con cái Ít-ra-en tiến lên
đóng trại tấn công Ghíp-a. 20 Người Ít-ra-en ra đi giao chiến với
Ben-gia-min, và người Ít-ra-en dàn trận chống Ghíp-a. 21 Con cái
Ben-gia-min từ Ghíp-a xông ra, và hôm ấy họ giết được 22 000 người Ít-ra-en nằm
ngổn ngang trên mặt đất. 22 Nhưng đạo quân Ít-ra-en phục hồi được
khí thế và lại dàn trận để chiến đấu tại chính nơi đã dàn trận hôm trước. 23
Sở dĩ như thế là vì con cái Ít-ra-en đã lên kêu khóc trước nhan Ðức Chúa
cho đến chiều và thỉnh vấn Ðức Chúa rằng: "Con còn phải giao tranh chống
con cái Ben-gia-min, anh em con nữa không?" Ðức Chúa trả lời: "Tiến
lên đánh nó đi!” 24 Ngày thứ hai con cái Ít-ra-en tới gần con cái
Ben-gia-min. 25 Nhưng ngày thứ hai này Ben-gia-min từ Ghíp-a cũng
xông ra ứng chiến, và trong số con cái Ít-ra-en họ còn giết được 18.000 người
nằm ngổn ngang trên mặt đất, toàn là những người biết tuốt gươm. 26 Bấy
giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây
trước nhan Ðức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu
và lễ kỳ an lên trước nhan Ðức Chúa. 27 Con cái Ít-ra-en đã thỉnh
vấn Ðức Chúa - thời bấy giờ ở đấy có Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa, 28 và
có ông Pin-khát con ông E-la-da, cháu ông A-ha-ron, túc trực trước Hòm Bia - họ
hỏi rằng: "Con còn phải lâm trận chống con cái Ben-gia-min, anh em con nữa
hay là thôi?" Ðức Chúa trả lời: "Các ngươi cứ lên, vì sáng mai Ta sẽ
trao chúng vào tay (các) ngươi."
Ben-gia-min
bại trận
29
Bấy
giờ Ít-ra-en đặt quân phục kích bao vây Ghíp-a. 30 Ngày thứ ba, con
cái Ít-ra-en tiến lên đánh con cái Ben-gia-min, và dàn trận tấn công Ghíp-a như
nhữmg lần trước. 31 Con cái Ben-gia-min xông ra ứng chiến với đạo
quân ấy và bị nhử ra xa thành. Như những lần trước, chúng bắt đầu giết một số
người Ít-ra-en, chừng ba mươi mạng trong đám dân quân ấy, trên những con đường,
ngả thì lên Bết Ên, ngả thì đi đến Ghíp-a, giữa đồng trống. 32 Con
cái Ben-gia-min bảo nhau: "Bọn chúng lại bị ta đánh cho tháo chạy như lần
trước"; nhưng con cái Ít-ra-en lại tự nhủ: "Trốn chạy đi! Ta sẽ nhử
chúng ra xa thành, tới các con đường ấy.” 33 Mọi người Ít-ra-en từ
vị trí của mình vùng lên và dàn trận tại Ba-an Ta-ma, đồng thời những người
Ít-ra-en mai phục cũng từ vị trí của mình vùng lên ở phía tây Ghe-va. 34 Vậy
10.000 tinh binh được chọn từ khắp Ít-ra-en tiến đến ngay trước Ghíp-a. Giao
tranh dữ dội xảy ra, mà người Ben-gia-min không hay biết tai hoạ đang ập xuống
trên mình. 35 Ðức Chúa đánh cho Ben-gia-min tháo chạy trước
Ít-ra-en, và hôm đó con cái Ít-ra-en đã giết được 25.100 người Ben-gia-min,
toàn là những người biết tuốt gươm.
36
Con
cái Ben-gia-min thấy mình bị đánh bại, nhưng người Ít-ra-en nhường đất lại cho
người Ben-gia-min, vì họ tin tưởng ở quân mai phục họ đã đặt bao vây Ghíp-a. 37
Quân mai phục tấn công chớp nhoáng Ghíp-a; họ xông ra và dùng gươm tàn
sát cả thành. 38 Giữa người Ít-ra-en và quân mai phục đã có lời hẹn
rằng quân mai phục sẽ đốt lửa cho khói bốc lên khỏi thành làm hiệu. 39 Người
Ít-ra-en sẽ rút khỏi trận địa, khi người Ben-gia-min bắt đầu giết một số chừng
ba mươi người Ít-ra-en, vì chúng nói: "Chắc chắn là nó hoàn toàn bị ta
đánh bại như lần trước.” 40 Rồi một cột khói làm hiệu bắt đầu bốc
lên khỏi thành. Người Ben-gia-min liền quay trở lại, thì này toàn thành như lửa
bốc cháy ngút trời. 41 Bấy giờ người Ít-ra-en quay lại phản công,
khiến người Ben-gia-min khiếp vía, vì thấy tai hoạ đang ập xuống trên mình.
42
Chúng
quay đầu chạy về phía sa mạc để trốn người Ít-ra-en, nhưng trận chiến cũng lan
tới chúng, và chúng bị những người từ các thành xông ra tiêu diệt giữa đường. 43
Họ vây chặt người Ben-gia-min, rượt bắt không ngừng và đè bẹp chúng cho
đến khi trông thấy Ghíp-a, về hướng mặt trời mọc. 44 Phía
Ben-gia-min có 18.000 người ngã gục, tất cả đều là dũng sĩ. 45 Còn
những kẻ quay đầu chạy trốn vào sa mạc, về phía Tảng đá Rim-môn, thì người ta
giết tỉa được 5.000 trên các nẻo đường; họ bám sát chúng cho tới Ghít-ôm và
giết thêm được 2.000 nữa. 46 Những người Ben-gia-min đã ngã gục hôm
ấy tính tất cả là 25.000 biết tuốt gươm, toàn là dũng sĩ. 47 Những
kẻ quay đầu chạy trốn vào sa mạc tới được Tảng đá Rim-môn là 600 người; chúng ở
tảng đá Rim-môn bốn tháng. 48 Người Ít-ra-en trở lại đánh con cái
Ben-gia-min; họ dùng gươm tàn sát từ đàn ông trong thành cho đến súc vật và tất
cả những gì họ gặp. Tới thành nào, họ cũng đều phóng hoả.
Chương 21
Người
Ít-ra-en hối hận
1
Người
Ít-ra-en đã thề tại Mít-pa rằng: "Không ai trong chúng ta sẽ gả con gái
mình cho người Ben-gia-min.” 2 Dân chúng đến Bết Ên và ở lại đó
trước nhan Thiên Chúa cho đến chiều; họ cất tiếng khóc nức nở. 3 Họ
nói: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, tại sao lại xảy ra chuyện
này, là ngày nay Ít-ra-en mất đi một chi tộc?” 4 Sáng hôm sau, dân
dậy sớm và lập bàn thờ ở đó, rồi dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an. 5 Con
cái Ít-ra-en nói: "Trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en, ai là người đã không
lên dự công hội chầu Ðức Chúa?" vì ai đã không lên chầu Ðức Chúa ở Mít-pa,
thì đã có lời thề long trọng chống lại kẻ ấy rằng: "Chắc chắn nó phải
chết."
6
Thấy
tội nghiệp cho Ben-gia-min anh em mình, con cái Ít-ra-en nói: "Hôm nay một
chi tộc đã bị cắt đứt khỏi Ít-ra-en. 7 Chúng ta sẽ làm gì để tìm vợ
cho những kẻ còn sống sót, vì chúng ta đã thề nhân danh Ðức Chúa là không gả
con gái mình cho chúng?"
Các
trinh nữ Gia-vết được trao cho người Ben-gia-min
8
Họ
lại hỏi: "Trong các chi tộc Ít-ra-en có ai đã không lên chầu Ðức Chúa ở
Mít-pa?" Thì ra chẳng có ai thuộc Gia-vết thuộc Ga-la-át đã lên trại, dự
công hội. 9 Quả thật khi người ta kiểm tra dân chúng, thì ở đấy
không có ai là người thuộc dân cư Gia-vết thuộc Ga-la-át cả. 10 Bấy
giờ cộng đồng ở đó sai 12.000 người trong số các dũng sĩ và truyền cho họ rằng:
"Các anh hãy dùng gươm đi giết dân cư Gia-vết thuộc Ga-la-át, kể cả đàn bà
con nít. 11 Ðây là điều các anh sẽ làm: tất cả đàn ông đàn bà đã
biết chuyện vợ chồng, các anh sẽ tru hiến hết.” 12 Trong số dân cư
Gia-vết thuộc Ga-la-át, họ tìm được bốn trăm thiếu nữ còn trinh, nghĩa là chưa
ăn nằm với đàn ông, và đã đem các cô về trại Si-lô trong đất Ca-na-an. 13 Toàn
thể cộng đồng sai người đi nói chuyện với con cái Ben-gia-min ở Tảng đá Rim-môn
và đề nghị hoà hoãn với họ. 14 Bấy giờ người Ben-gia-min trở về và
người ta trao cho họ những phụ nữ còn sống sót trong số các phụ nữ Gia-vết
thuộc Ga-la-át, nhưng không tìm được đủ số cho họ.
Bắt
cóc các cô gái Si-lô
15
Dân
chúng thấy tội nghiệp cho Ben-gia-min, vì Ðức Chúa đã làm cho các chi tộc
Ít-ra-en bị một vết nứt rạn. 16 Bấy giờ các kỳ mục của cộng đồng
nói: "Chúng ta sẽ làm gì để tìm vợ cho những kẻ còn sống sót, vì các phụ
nữ Ben-gia-min đã bị tiêu diệt?” 17 Họ nói: "Ben-gia-min sẽ
chiếm phần còn sót lại, để một chi tộc không bị xoá khỏi Ít-ra-en, 18 Thế
mà chúng ta lại không thể gả con gái mình cho chúng được!" Sở dĩ như vậy
vì con cái Ít-ra-en đã thề rằng: "Vô phúc cho ai gả con gái cho
Ben-gia-min!"
19
Nhưng
họ lại nói: "Này hàng năm có lễ kính Ðức Chúa tại Si-lô, mạn bắc Bết Ên,
phía đông con đường từ Bết Ên lên Si-khem và phía nam Lơ-vô-na. 20 Vậy
họ truyền cho con cái Ben-gia-min: "Các anh vào các vườn nho mà ẩn nấp. 21
Khi thấy các cô gái Si-lô đi ra múa hát với nhau, thì các anh cũng đi ra
khỏi vườn nho, mỗi người bắt một cô trong đám con gái Si-lô ấy, đem về làm vợ,
rồi đi về đất Ben-gia-min. 22 Nếu cha các cô hoặc anh các cô có tới
kỳ kèo với chúng tôi, thì chúng tôi sẽ nói với họ: "Xin thông cảm với
chúng tôi mà hiểu cho họ, vì mỗi người chúng tôi đã không bắt một cô đem về làm
vợ trong lúc đánh nhau, mà các anh cũng chẳng gả các cô ấy cho họ; nếu gả, thì
các anh đã mắc lỗi rồi."
23
Con
cái Ben-gia-min đã làm như thế. Họ đã lấy vợ trong đám các cô múa hát bị bắt
cóc, tương đương với số người của họ, và trở về phần gia nghiệp của mình. Họ
xây thành và cư ngụ ở đó.
24
Còn
con cái Ít-ra-en lúc bấy giờ cũng rời khỏi đó, ai nấy về chi tộc và thị tộc của
mình: mỗi người rời khỏi đó mà về phần gia nghiệp của mình.
25
Thời
đó Ít-ra-en không có vua. Ai muốn làm gì thì làm.
Rút
Chương 01
Rút
và bà Na-o-mi
1
Vào
thời các thủ lãnh cai trị, một nạn đói xảy ra trong xứ. Có một người cùng với
vợ và hai con trai bỏ Bê-lem miền Giu-đa mà đến ở trong cánh đồng Mô-áp. 2
Tên người đàn ông là Ê-li-me-léc, tên người vợ ấy là Na-o-mi và tên của
hai con trai là Mác-lôn và Kin-giôn. Họ là người Ép-ra-tha thuộc xứ Bê-lem miền
Giu-đa. Họ đến cánh đồng Mô-áp và ở lại đó. 3 Rồi ông Ê-li-me-léc,
chồng bà Na-o-mi, chết đi, còn lại bà Na-o-mi và hai đứa con. 4 Hai
người này lấy vợ Mô-áp, một người tên là Oóc-pa, người kia tên là Rút. Họ ở lại
đó chừng mười năm. 5 Rồi Mác-lôn và Kin-giôn cả hai đều chết, còn
lại bà Na-o-mi mất chồng, mất con. 6 Bà lên đường cùng với hai người
con dâu, bỏ cánh đồng Mô-áp mà trở về quê hương, vì tại cánh đồng Mô-áp, bà
nghe nói là Ðức Chúa đã viếng thăm dân Người và cho họ có bánh ăn. 7 Vậy
bà cùng với hai con dâu ra khỏi nơi họ đã ở mà lên đường trở về xứ Giu-đa.
8
Bà
Na-o-mi nói với hai con dâu: "Thôi, mỗi người chúng con hãy trở về nhà mẹ
mình. Xin Ðức Chúa tỏ lòng thương chúng con, như chúng con đã tỏ lòng thương
những người quá cố và mẹ! 9 Xin Ðức Chúa cho mỗi người chúng con tìm được cuộc
sống an nhàn dưới mái nhà một người chồng!" Rồi bà ôm hôn hai con dâu. Họ
oà lên khóc. 10 Họ thưa: "Chúng con muốn cùng mẹ trở về với dân
của mẹ.” 11 Bà Na-o-mi nói: "Các con ơi, về đi, theo mẹ làm gì?
Trong lòng mẹ còn con trai nào nữa đâu mà gả chồng cho các con. 12 Về
đi, các con ơi! Ði đi! Mẹ quá già rồi, không còn tái giá được nữa. Cho dù mẹ có
nói được: mẹ còn hy vọng, ngay đêm nay sẽ lấy chồng và sinh được con trai, 13
thì chẳng lẽ chúng con cứ đợi mãi cho đến khi chúng lớn lên? Chẳng lẽ
chúng con cứ ở vậy, không chịu lấy chồng? Không, các con ơi! Tình cảnh chúng
con làm mẹ cay đắng lắm, vì tay Ðức Chúa giáng phạt mẹ.” 14 Hai
người con dâu lại oà lên khóc. Oóc-pa ôm hôn từ giã mẹ chồng, còn Rút thì cứ
khắng khít theo bà.
15
Bà
Na-o-mi nói: "Kìa chị dâu con trở về với dân tộc của nó và các thần của
nó. Con cũng vậy, hãy theo chị dâu con mà về đi!” 16 Rút đáp:
"Xin mẹ đừng ép con bỏ mẹ mà trở về, không theo mẹ nữa, vì
mẹ
đi đâu, con đi đó,
mẹ
ở đâu, con ở đó,
dân
của mẹ là dân của con,
Thiên
Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con.
17
Mẹ
chết ở đâu, con chết ở đó,
và
nơi đó con sẽ được chôn cất.
Xin
Ðức Chúa phạt con thế này
và
thêm thế kia nữa,
nếu
con lìa xa mẹ
mà
không phải vì cái chết!"
18
Thấy
Rút cứ một mực đi với mình, bà Na-o-mi không còn nói gì về chuyện đó nữa. 19
Hai mẹ con cùng đi cho đến khi tới Bê-lem. Họ tới Bê-lem, làm cả thành
xôn xao. Các người phụ nữ hỏi: "Có phải bà Na-o-mi đấy không?” 20 Bà
nói: "Ðừng gọi tôi là Na-o-mi nữa, hãy gọi tôi là Ma-ra, vì Ðấng Toàn Năng
đã bắt tôi phải chịu quá nhiều cay đắng. 21 Tôi ra đi, của cải dư
đầy, Ðức Chúa đem tôi về hai bàn tay trắng! Gọi tôi là Na-o-mi làm gì, trong
khi Ðức Chúa đã làm cho tôi tủi nhục, Ðấng Toàn Năng đã để tôi đau khổ?"
22
Thế
là từ cánh đồng Mô-áp, bà Na-o-mi trở về cùng với con dâu người Mô-áp là Rút.
Họ đã đến Bê-lem vào đầu mùa gặt lúa mạch.
Chương 02
Cô
Rút trong đồng ruộng của ông Bô-át
1
Bà
Na-o-mi có một thân nhân bên họ nhà chồng, một người khá giàu, thuộc thị tộc
Ê-li-me-léc. Người ấy tên là Bô-át. 2 Rút, người Mô-áp, nói với bà
Na-o-mi: "Xin mẹ để con đi ra ruộng mót lúa đằng sau người nào có lòng
nhân từ đoái nhìn con." Bà trả lời: "Con cứ đi đi.” 3 Nàng
đi và đến ruộng mót lúa đằng sau thợ gặt. Nàng may mắn gặp được một thửa ruộng
của ông Bô-át, người trong thị tộc Ê-li-me-léc. 4 Và kìa ông Bô-át từ
Bê-lem đến, nói với thợ gặt: "Xin Ðức Chúa ở cùng các anh!" Họ nói:
"Xin Ðức Chúa giáng phúc cho ông!” 5 Ông Bô-át nói với người
tôi tớ trông coi thợ gặt: "Cô kia là người của ai thế?” 6 Người
tôi tớ trông coi thợ gặt trả lời: "Ðó là một thiếu phụ Mô-áp, người đã
cùng với bà Na-o-mi từ cánh đồng Mô-áp trở về. 7 Cô đã nói:
"Cho phép tôi mót và nhặt những bông lúa đằng sau thợ gặt. Cô ấy đã đến và
ở lại từ sáng tới giờ: Cô ấy chẳng chịu nghỉ ngơi chút nào."
8
Ông
Bô-át nói với Rút: "Này con, con có nghe không? Ðừng đi mót ở ruộng nào
khác, cũng đừng rời khỏi đây, nhưng cứ theo sát các tớ gái của ta. 9 Con
nhìn thửa ruộng chúng gặt và cứ đi theo chúng. Nào ta đã chẳng ra lệnh cho các
tôi tớ không được đụng tới con sao? Nếu khát, con cứ đến chỗ để bình mà uống
nước các tôi tớ đã múc.” 10 Rút liền cúi rạp xuống đất mà lạy ông,
rồi nói: "Sao con lại được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn và quan tâm đến,
dù con là một người ngoại quốc?” 11 Ông Bô-át đáp: "Người ta đã
kể lại cho ta nghe tất cả những gì con đã làm cho mẹ chồng sau khi chồng con
mất, cũng như chuyện con đã bỏ cả cha mẹ và quê hương, mà đến với một dân trước
kia con không hề biết tới. 12 Xin Ðức Chúa trả công cho con vì những
gì con đã làm! Chớ gì Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, thưởng công bội hậu cho
con, Người là Ðấng cho con ẩn náu dưới cánh Người!” 13 Nàng nói:
"Thưa ông, ước gì con được ông lấy lòng nhân từ đoái nhìn, vì ông đã an ủi
con và nói những lời thân ái với nữ tỳ của ông, mặc dù con không đáng làm một
nữ tỳ của ông."
14
Ðến
bữa ăn, ông Bô-át nói với nàng: "Con lại gần đây, lấy bánh chấm vào nước
dấm mà ăn." Nàng ngồi bên cạnh thợ gặt. Ông Bô-át đưa cho nàng một mớ lúa
rang. Nàng ăn no và còn để dành nữa. 15 Rồi nàng trỗi dậy mót lúa.
Ông Bô-át ra lệnh này cho các tôi tớ của ông: "Cho dù cô ấy có mót ngay
giữa những bó lúa đi nữa, các anh cũng đừng nhục mạ cô ấy. 16 Hơn
nữa, các anh hãy để ý rút vài bông lúa ra khỏi đống lúa đã gặt và để lại cho cô
ấy mót. Ðừng trách móc cô ấy làm gì.” 17 Nàng mót trong ruộng cho
đến chiều, rồi đập lúa đã mót. Tất cả được gần hai thùng lúa mạch.
18
Nàng
đem lúa trở về thành và mẹ chồng thấy những gì nàng đã mót được. Rồi nàng lấy
ra, đưa cho bà những gì nàng để dành sau khi ăn no. 19 Mẹ chồng nói
với nàng: "Hôm nay con đã mót ở đâu? Con đã làm ở đâu? Xin Thiên Chúa
giáng phúc cho người đã quan tâm đến con!" Nàng cho mẹ chồng biết mình đã
làm ở ruộng người nào. Nàng nói: "Người đã cho con làm ở ruộng mình hôm
nay tên là Bô-át.” 20 Bà Na-o-mi nói với con dâu: "Xin Ðức Chúa
giáng phúc cho ông ấy, Người là Ðấng đã không từ chối tỏ lòng nhân nghĩa đối
với kẻ sống và kẻ chết!" Bà lại nói: "Ông ấy là bà con gần của chúng
ta, ông ấy là một trong những người bảo tồn dòng dõi của chúng ta.” 21 Rút
người Mô-áp thưa: "Ông ấy còn nói với con: "Con cứ theo sát các tôi
tớ của ta cho đến khi chúng gặt hái xong tất cả.” 22 Bà Na-o-mi bảo
con dâu là Rút: "Con ơi, tốt hơn là con cứ đi ra với các tớ gái của ông
ấy, để khỏi bị người ta ngược đãi trong ruộng khác.” 23 Vậy nàng
theo sát các tớ gái của ông Bô-át để mót, cho đến hết mùa gặt lúa mạch và lúa
mì. Và nàng vẫn ở với mẹ chồng.
Chương 03
Ông
Bô-át nằm ngủ
1
Bà
mẹ chồng Na-o-mi nói với Rút: "Con ơi, mẹ chẳng có bổn phận tìm cho con
một chốn an nhàn để con được hạnh phúc sao? 2 Mà ông Bô-át không phải là chỗ bà
con gần của chúng ta đó ư? Con lại đã chẳng ở với các tớ gái của ông ấy sao?
Này, đêm nay ông phải rê lúa mạch dưới sân lúa. 3 Vậy con tắm rửa
đi, xức dầu thơm, khoác áo choàng vào, rồi xuống sân lúa. Con đừng cho ông nhận
ra con trước khi ông ăn uống xong. 4 Khi ông đi ngủ, con hãy để ý
xem ông nằm chỗ nào, rồi đến lật góc chăn phủ chân ông mà nằm xuống. Ông sẽ cho
con biết con phải làm gì.” 5 Rút thưa với bà: "Mẹ dạy gì, con
sẽ làm tất cả."
6
Nàng
xuống sân lúa và làm đúng như mẹ chồng đã dạy. 7 Ông Bô-át ăn uống
xong, lòng vui tươi hớn hở. Ông đi ngủ ở đầu đống lúa. Rút nhẹ nhàng đi tới đó,
lật góc chăn phủ chân ông và nằm xuống. 8 Vào giữa đêm, ông Bô-át
rùng mình; ông trở mình thì thấy một phụ nữ nằm dưới chân. 9 Ông
hỏi: "Chị là ai?" Nàng đáp: "Con là Rút, tớ gái của ông. Xin ông
giăng vạt áo choàng ra mà phủ lấy tớ gái của ông, vì ông là người bảo tồn dòng
dõi.” 10 Ông nói: "Này con, xin Ðức Chúa ban phúc lành cho con!
Việc hiếu nghĩa thứ hai con đã làm còn có giá hơn việc trước: con đã không chạy
theo các người trai trẻ, dù họ nghèo hay giàu. 11 Giờ đây, hỡi con,
con đừng sợ. Tất cả những điều con sẽ nói, ta sẽ làm cho con. Vì mọi người hội
họp ở cửa thành này đều biết con là một phụ nữ đức hạnh. 12 Quả
thật, hiện nay ta là người bảo tồn dòng dõi, nhưng còn có người bảo tồn dòng
dõi họ hàng với con gần hơn ta. 13 Con cứ qua đêm ở đây. Sáng mai,
nếu người ấy muốn dùng quyền bảo tồn dòng dõi đối với con thì tốt, người ấy cứ
việc; nếu người ấy không muốn thì, có Ðức Chúa hằng sống, ta thề sẽ dùng quyền
đó! Hãy ngủ đi cho đến sáng.” 14 Nàng đã ngủ dưới chân ông cho đến
sáng. Tờ mờ sáng, lúc chưa ai nhận ra ai, nàng đã chỗi dậy. Ông tự nhủ:
"Không được để cho người ta biết là người phụ nữ này đã đến sân lúa.” 15
Ông nói: "Hãy đưa vạt áo choàng của con ra, và cầm chắc lấy." Nàng
cầm chắc rồi, thì ông đong cho nàng sáu đấu lúa mạch, rồi đặt lên vai nàng. Sau
đó, nàng đi vào thành.
16
Nàng
về đến nhà mẹ chồng, mẹ chồng hỏi: "Thế nào, con?" Nàng thuật lại cho
mẹ chồng nghe tất cả những gì người đó đã làm cho nàng. 17 Nàng nói:
"Ông ấy đã cho con sáu đấu lúa mạch này, vì ông nói: "Con không được
trở về nhà mẹ chồng tay không.” 18 Bà nói: "Này con, con cứ ở
nhà cho đến khi biết việc này ngã ngũ ra sao, vì ông ấy sẽ không chịu ở yên
đâu, cho đến khi lo xong việc đó nội ngày hôm nay."
Chương 04
Ông
Bô-át cưới cô Rút
1
Ông
Bô-át lên cửa thành và ngồi ở đó. Và này, người bảo tồn dòng dõi mà ông Bô-át
đã nói tới, đi ngang qua. Ông Bô-át nói: "Này ông ơi, mời ông đến và ngồi
xuống đây." Người ấy đến và ngồi xuống. 2 Ông Bô-át chọn lấy
mười người trong số các kỳ mục của thành và nói: "Mời các ông ngồi lại
đây." Họ ngồi xuống. 3 Ông nói với người bảo tồn dòng dõi:
"Bà Na-o-mi từ cánh đồng Mô-áp mới về, định bán thửa ruộng của người anh
em chúng ta là Ê-li-me-léc. 4 Phần tôi, tôi nghĩ là cần phải báo cho
ông biết rằng: trước mặt quý vị hiện diện ở đây và các kỳ mục trong dân, ông
hãy tậu thửa ruộng ấy! Nếu ông muốn dùng quyền bảo tồn dòng dõi của ông, thì
xin hãy dùng; bằng không thì xin tuyên bố cho tôi biết, vì ngoài ông ra, không
ai có quyền bảo tồn dòng dõi; còn tôi thì chỉ đứng sau ông." Người ấy nói:
"Vâng, tôi sẽ dùng quyền bảo tồn đó.” 5 Ông Bô-át nói:
"Ngày nào ông tậu ruộng chính tay bà Na-o-mi bán, thì lúc đó ông cũng phải
lấy cả cô Rút người Mô-áp, vợ của người quá cố, để gia nghiệp người đó mãi mãi
mang tên người đó.” 6 Người bảo tồn dòng dõi nói: "Thế thì tôi
không thể dùng quyền bảo tồn đó được, để khỏi làm hại gia nghiệp của tôi. Xin
ông thay tôi mà dùng quyền đó, vì tôi không thể dùng được."
7
Theo
phong tục thời xưa tại Ít-ra-en, khi có chuyện liên quan đến quyền bảo tồn hay
việc đổi chác, để xác nhận việc đó, thì người này cởi dép trao cho người kia.
Ðó là cách chứng nhận tại Ít-ra-en. 8 Người bảo tồn dòng dõi nói với
ông Bô-át: "Ông hãy tậu cho ông đi", rồi người ấy cởi dép ra.
9
Ông
Bô-át nói với các kỳ mục và toàn dân: "Hôm nay, xin quý vị làm chứng cho
là tôi tậu từ tay bà Na-o-mi tất cả những gì thuộc về ông Ê-li-me-léc, tất cả
những gì thuộc về Kin-giôn và Mác-lôn. 10 Và cả Rút người Mô-áp, vợ
của Mác-lôn nữa, tôi cũng lấy làm vợ, để gia nghiệp người quá cố mãi mãi mang
tên người đó, và để người đó khỏi bị xoá tên trong đám bà con họ hàng, cũng như
trong số dân cư tụ họp tại cửa thành. Hôm nay, quý vị làm chứng cho điều đó.” 11
Toàn dân ở cửa thành và các kỳ mục đáp: "Chúng tôi xin làm chứng!
Xin Ðức Chúa cho người phụ nữ sắp vào nhà ông được nên giống như bà Ra-khen và
bà Lê-a, cả hai bà này đã xây dựng nhà Ít-ra-en!
Chúc
ông được giàu có ở Ép-ra-tha!
Chúc
ông được nổi tiếng ở Bê-lem!
12
Chớ
gì dòng dõi mà Ðức Chúa sẽ ban cho ông, nhờ người thiếu phụ này, làm cho nhà
của ông được nên giống như nhà của ông Pe-rét, là người con mà bà Ta-ma đã sinh
cho ông Giu-đa!"
13
Vậy
ông Bô-át lấy cô Rút, và nàng trở thành vợ ông. Ông đến với nàng. Nhờ ơn Ðức
Chúa, nàng đã thụ thai và sinh một con trai. 14 Các phụ nữ nói với
bà Na-o-mi: "Chúc tụng Ðức Chúa, Ðấng hôm nay đã không để cho bà phải
thiếu người bảo tồn dòng dõi: tên tuổi con trẻ sẽ được tung hô tại Ít-ra-en! 15
Nó sẽ giúp bà lấy lại sức sống, và sẽ là người nâng đỡ bà trong tuổi già, vì
người con dâu biết yêu quý bà đã sinh ra nó, nàng quý giá hơn bảy đứa con trai.”
16 Bà Na-o-mi bế đứa trẻ lên và ôm vào lòng. Chính bà nuôi nấng đứa
trẻ đó.
17
Các
bà hàng xóm láng giềng đặt tên cho đứa trẻ và nói: "Bà Na-o-mi đã sinh
được một cháu trai." Họ đặt tên cho nó là Ô-vết. Ðó là cha của ông Gie-sê,
là ông nội vua Ða-vít.
Gia
phả vua Ða-vít
18
Ðây
là dòng dõi của ông Pe-rét:
Pe-rét
sinh Khét-rôn. 19 Khét-rôn sinh Ram; Ram sinh Am-mi-na-đáp. 20 Am-mi-na-đáp
sinh Nác-sôn; Nác-sôn sinh Xan-môn. 21 Xan-môn sinh Bô-át; Bô-át
sinh Ô-vết; 22 Ô-vết sinh Gie-sê; Gie-sê sinh Ða-vít.
Sa-mu-en 1
Chương 01
I.
Ông Sa-Mu-En
1.
Thời Thơ Ấu Của Ông Sa-Mu-En
Hành
hương Si-lô
1
Có
một người quê thành Ra-ma-tha-gim Xô-phim, thuộc miền núi Ép-ra-im, tên là
En-ca-na, con ông Giơ-rô-kham; ông Giơ-rô-kham là con ông Ê-li-hu, ông Ê-li-hu
là con ông Tô-khu, ông Tô-khu là con ông Xúp, người Ép-ra-tha. 2 Người
ấy có hai vợ, một bà tên là An-na, một bà tên là Pơ-nin-na. Bà Pơ-nin-na có
con, còn bà An-na không có con. 3 Hằng năm, người ấy từ thành mình
lên thờ lạy và dâng hy lễ cho Ðức Chúa các đạo binh tại Si-lô. Ở đó có hai con
trai ông Ê-li là Khóp-ni và Pin-khát làm tư tế của Ðức Chúa.
4
Ðến
ngày ông En-ca-na dâng hy lễ, ông thường chia các phần cho bà Pơ-nin-na, vợ ông,
và cho các con trai con gái bà ấy. 5 Còn bà An-na, thì ông chia cho
một phần ngon, vì ông yêu bà, mặc dù Ðức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được.
6 Bà kia, đối thủ của bà, cứ chọc tức bà, để hạ nhục bà, vì Ðức Chúa
đã làm cho bà không sinh sản được. 7 Ông vẫn làm như thế năm này qua
năm nọ, mỗi lần bà lên Nhà của Ðức Chúa; còn bà kia cứ chọc tức bà như thế. Bà
khóc và không chịu ăn. 8 Ông En-ca-na, chồng bà, bảo bà:
"An-na, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Ðối với
em, anh lại không hơn mười đứa con trai sao?"
Bà
An-na cầu nguyện
9
Bà
An-na đứng dậy sau khi họ đã ăn uống tại Si-lô. Tư tế Ê-li đang ngồi trên ghế ở
cửa đền thờ Ðức Chúa. 10 Tâm hồn cay đắng, bà cầu nguyện với Ðức
Chúa và khóc nức nở. 11 Bà khấn hứa rằng: "Lạy Ðức Chúa các đạo
binh, nếu Ngài đoái nhìn đến nỗi khổ cực của nữ tỳ Ngài đây, nếu Ngài nhớ đến
con và không quên nữ tỳ Ngài, nếu Ngài cho nữ tỳ Ngài một mụn con trai, thì con
sẽ dâng nó cho Ðức Chúa mọi ngày đời nó, và dao cạo sẽ không đụng tới đầu
nó."
12
Vì
bà cứ cầu nguyện lâu trước nhan Ðức Chúa, nên ông Ê-li để ý đến miệng bà. 13
Bà An-na thầm thĩ trong lòng: chỉ có môi bà mấp máy, không nghe thấy
tiếng bà. Ông Ê-li nghĩ rằng bà say rượu. 14 Ông Ê-li bảo bà:
"Bà còn say đến bao giờ? Hãy lo dã rượu đi!” 15 Bà An-na trả
lời rằng: "Không, thưa ngài, tôi chỉ là một người đàn bà tâm thần đau khổ.
Tôi đã không uống rượu và đồ uống có men, tôi chỉ thổ lộ tâm can trước nhan Ðức
Chúa. 16 Xin đừng coi nữ tỳ ngài đây là đứa vô lại: chỉ vì quá lo âu
phiền muộn mà tôi đã nói cho đến bây giờ.” 17 Ông Ê-li trả lời rằng:
"Bà hãy đi về bình an. Xin Thiên Chúa của Ít-ra-en ban cho bà điều bà đã
xin Người!” 18 Bà thưa: "Ước chi nữ tỳ của ngài đây được đẹp
lòng ngài!" Rồi người đàn bà ra đi; bà dùng bữa và nét mặt bà không còn như
trước nữa.
Ông
Sa-mu-en sinh ra và được thánh hiến
19
Sáng
hôm sau, họ dậy sớm và sụp lạy trước nhan Ðức Chúa, rồi trở về nhà ở Ra-ma. Ông
En-ca-na ăn ở với bà An-na, vợ mình, và Ðức Chúa đã nhớ đến bà. 20 Ngày
qua tháng lại, bà An-na thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Sa-mu-en,
vì bà nói: "Tôi đã xin Ðức Chúa được nó.” 21 Người chồng là
En-ca-na lên với cả gia đình để dâng hy lễ thường niên cho Ðức Chúa và để giữ
trọn lời khấn hứa của mình. 22 Bà An-na không lên, vì bà nói với
chồng: "Ðợi cho đến khi đứa trẻ cai sữa đã. Khi đó em sẽ đưa nó đi, nó sẽ
ra mắt Ðức Chúa và sẽ ở lại đó mãi mãi.” 23 Ông En-ca-na, chồng bà,
bảo bà: "Em nghĩ thế nào là phải thì cứ làm; cứ ở lại cho đến khi cai sữa
cho nó. Chỉ xin Ðức Chúa thực hiện lời Người." Người đàn bà ở lại và cho
con bú cho đến khi cai sữa cho nó.
24
Sau
khi cai sữa cho con, bà đưa nó lên với mình, mang theo một con bò mộng ba tuổi,
hai thùng bột và một bầu da đầy rượu. Bà đưa con vào Nhà Ðức Chúa tại Si-lô;
đứa trẻ còn nhỏ lắm. 25 Họ sát tế con bò và đưa đứa trẻ đến với ông
Ê-li. 26 Bà nói: "Thưa ngài, xin thứ lỗi, tôi xin lấy mạng sống
ngài mà thề: tôi là người đàn bà đã đứng bên ngài, tại đây, để cầu nguyện với
Ðức Chúa. 27 Tôi đã cầu nguyện để được đứa trẻ này, và Ðức Chúa đã
ban cho tôi điều tôi đã xin Người. 28 Ðến lượt tôi, tôi xin nhượng
nó lại cho Ðức Chúa. Mọi ngày đời nó, nó sẽ được nhượng cho Ðức Chúa." Và
ở đó, họ thờ lạy Ðức Chúa.
Chương 02
Bài
ca của bà An-na
1
Bà
An-na cầu nguyện và nói:
"Tâm
hồn con hoan hỷ vì Ðức Chúa,
nhờ
Ðức Chúa, con ngẩng đầu hiên ngang.
Con
mở miệng nhạo báng quân thù:
Vâng,
con vui sướng vì được Ngài cứu độ.
2
Chẳng
có Ðấng thánh nào như Ðức Chúa,
chẳng
một ai khác, ngoại trừ Ngài,
chẳng
có Núi Ðá nào như Thiên Chúa chúng ta.
3
Các
người chớ nhiều lời huênh hoang tự đắc,
miệng
đừng thốt ra điều ngạo mạn,
vì
Ðức Chúa là Thiên Chúa quán thông,
mọi
hành vi, chính Người xét xử.
4
Cung
nỏ người hùng bị bẻ tan,
kẻ
yếu sức lại trở nên hùng dũng.
5
Người
no phải làm mướn kiếm ăn,
còn
kẻ đói được an nhàn thư thái.
Người
hiếm hoi thì sinh năm đẻ bảy,
mẹ
nhiều con lại ủ rũ héo tàn.
6
Ðức
Chúa là Ðấng cầm quyền sinh tử,
đẩy
xuống âm phủ rồi lại kéo lên.
7
Ðức
Chúa bắt phải nghèo và cho giàu có,
Người
hạ xuống thấp, Người cũng nhắc lên cao.
8
Kẻ
mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi,
ai
nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro,
đặt
ngồi chung với hàng quyền quý,
tặng
ngai vinh hiển làm sản nghiệp riêng.
Vì
nền móng địa cầu là của Ðức Chúa,
Người
đặt cả hoàn vũ lên trên.
9
Chúa
gìn giữ bước chân người trung hiếu,
còn
ác nhân bị tiêu diệt trong chốn mịt mù,
vì
con người đâu phải mạnh mà thắng.
10
Kẻ
thù Ðức Chúa sẽ bị đập tan,
từ
trời cao, người cho sấm sét giáng trên đầu.
Ðức
Chúa xét xử khắp cùng cõi đất,
ban
quyền năng cho đức vua Người chọn,
nêu
uy thế đấng Người đã xức dầu tấn phong."
11
Ông
En-ca-na về nhà ở Ra-ma. Còn đứa trẻ thì phụng sự Ðức Chúa, có tư tế Ê-li trông
nom.
Các
con trai ông Ê-li
12
Các
con trai ông Ê-li là những tên vô lại, chúng không biết gì đến Ðức Chúa 13 và
đến quyền lợi các tư tế được hưởng trên dân. Mỗi khi có ai dâng hy lễ, thì đầy
tớ của tư tế đến, tay cầm xiên ba răng, trong lúc người ta đang nấu thịt. 14
Nó thọc vào vạc, vào nồi, vào chảo hay vào niêu; hễ xiên đưa lên được
miếng nào, thì tư tế lấy cho mình. Chúng vẫn làm như thế với tất cả những người
Ít-ra-en đến đó, tại Si-lô. 15 Cả trước khi người ta đốt mỡ cho cháy
nghi ngút, thì đầy tớ của tư tế đến và bảo người dâng hy lễ: "Ðưa thịt đây
để quay cho tư tế! Người không lấy thịt ông đã nấu đâu, chỉ lấy thịt sống thôi!”
16 Người kia có nói: "Ðể người ta đốt mỡ cho cháy nghi ngút
trước đã, rồi anh thích gì thì cứ lấy", thì nó bảo: "Không, phải đưa
ngay bây giờ! Nếu không, tôi dùng sức mạnh mà lấy.” 17 Tội của những
người thanh niên này rất lớn trước nhan Ðức Chúa, vì những người ấy khinh
thường lễ phẩm dâng Ðức Chúa.
Ông
Sa-mu-en tại Si-lô
18
Sa-mu-en
phụng sự trước nhan Ðức Chúa, cậu bé mặc ê-phốt vải gai. 19 Mẹ cậu
vẫn may cho cậu một áo khoác nhỏ và đưa lên cho cậu mỗi năm, khi bà cùng chồng
lên dâng hy lễ thường niên. 20 Ông Ê-li chúc phúc cho ông En-ca-na
và vợ ông này rằng: "Xin Ðức Chúa cho người đàn bà này sinh con cái cho
ông, để thay thế đứa con đã nhượng cho Ðức Chúa." Rồi hai ông bà trở về
nhà. 21 Ðức Chúa viếng thăm bà An-na; bà thụ thai và sinh được ba
trai hai gái, còn cậu bé Sa-mu-en thì lớn lên bên cạnh Ðức Chúa.
Lại
nói về các con ông Ê-li
22
Ông
Ê-li đã già lắm. Ông nghe nói các con ông đối xử thế nào với toàn thể Ít-ra-en;
ông còn nghe nói chúng nằm với những phụ nữ phục vụ ở cửa Lều Hội Ngộ. 23 Ông
nói với chúng: "Sao các con lại làm những điều ấy, những điều xấu mà cha
nghe toàn dân nói? 24 Không, các con ơi, tiếng kháo láo cha nghe dân Ðức Chúa
đồn thổi thì không tốt đẹp gì. 25 Nếu một người có tội với một
người, thì Thiên Chúa sẽ phân xử cho; nhưng nếu một người có tội với Ðức Chúa
thì ai sẽ cầu nguyện cho nó?" Nhưng chúng không chịu nghe lời cha chúng,
vì Ðức Chúa muốn làm cho chúng phải chết.
26
Còn
cậu bé Sa-mu-en thì càng lớn lên và đẹp lòng cả Ðức Chúa lẫn người ta.
Báo
trước hình phạt
27
Một
người của Thiên Chúa đến gặp ông Ê-li và nói với ông: "Ðức Chúa phán thế
này: Ta đã chẳng tỏ mình ra một cách rõ ràng cho nhà của cha ngươi, khi chúng ở
dưới quyền triều đình Pha-ra-ô bên Ai-cập đó sao? 28 Ta đã chọn chúng trong mọi
chi tộc Ít-ra-en, để chúng làm tư tế cho Ta, bước lên bàn thờ của Ta, đốt hương
cho cháy nghi ngút, mang ê-phốt trước nhan Ta, và Ta đã ban cho nhà cha ngươi
mọi hoả tế của con cái Ít-ra-en. 29 Tại sao ngươi lại coi thường hy
lễ và lễ phẩm dành cho Ta, là những thứ Ta đã truyền dâng trong nơi Ta ngự? Tại
sao ngươi lại coi trọng các con ngươi hơn Ta, mà cả cha con béo mập ra, vì ăn
những thứ ngon nhất trong mọi lễ phẩm của Ít-ra-en, dân Ta?
30
"Vì
vậy -sấm ngôn của Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en- quả Ta có nói là nhà của
ngươi và nhà cha ngươi sẽ đi trước nhan Ta mãi mãi, nhưng giờ đây - sấm ngôn
của Ðừc Chúa - không đời nào! Vì những kẻ coi trọng Ta thì Ta coi trọng, còn
những kẻ khinh dể Ta thì bị khinh thường. 31 Này sắp đến những ngày
Ta sẽ chặt cánh tay ngươi và cánh tay của nhà cha ngươi, khiến cho không còn
người già trong nhà của ngươi. 32 Ngươi sẽ trông thấy một đối thủ
nơi Ta ngự, trong khi tại Ít-ra-en mọi sự đều tốt đẹp, và trong nhà ngươi sẽ
không bao giờ có người già nữa. 33 Tuy nhiên, Ta sẽ không loại mọi
người của ngươi khỏi bàn thờ Ta, như vậy mắt ngươi sẽ mỏi mòn, tâm hồn ngươi sẽ
kiệt sức, và tất cả con cháu trong nhà ngươi sẽ phải chết giữa tuổi thành nhân.
34
"Ðiều
xảy ra cho hai con trai ngươi, Khóp-ni và Pin-khát, sẽ là dấu cho ngươi: cả hai
sẽ chết trong cùng một ngày. 35 Ta sẽ cho xuất hiện một tư tế trung
kiên để phục vụ Ta, nó sẽ hành động theo lòng Ta và ý muốn của Ta; Ta sẽ xây
cho nó một nhà kiên cố, và ngày ngày nó sẽ đi trước người được Ta xức dầu tấn
phong. 36 Bất cứ ai còn sót lại trong nhà ngươi sẽ đến sụp lạy nó để
được một đồng bạc và một ổ bánh, và sẽ nói với nó: "Xin vui lòng nhận tôi
vào làm một chức vụ tư tế nào đó, để tôi có miếng bánh ăn."
Chương 03
Thiên
Chúa gọi ông Sa-mu-en
1
Cậu
bé Sa-mu-en phụng sự Ðức Chúa, có ông Ê-li trông nom. Thời ấy, lời Ðức Chúa thì
hiếm và thị kiến cũng không hay xảy ra. 2 Một ngày kia, ông Ê-li
đang ngủ ở chỗ ông, mắt ông đã bắt đầu mờ, ông không còn thấy nữa. 3 Ðèn
của Thiên Chúa chưa tắt và Sa-mu-en đang ngủ trong đền thờ Ðức Chúa, nơi có đặt
Hòm Bia Thiên Chúa. 4 Ðức Chúa gọi Sa-mu-en. Cậu thưa: "Dạ, con
đây!” 5 Rồi chạy lại với ông Ê-li và thưa: "Dạ, con đây, thầy
gọi con." Ông bảo: "Thầy không gọi con đâu. Con về ngủ đi." Cậu
bèn đi ngủ. 6 Ðức Chúa lại gọi Sa-mu-en lần nữa. Sa-mu-en dậy, đến
với ông Ê-li và thưa: "Dạ, con đây, thầy gọi con." Ông bảo:
"Thầy không gọi con đâu, con ạ. Con về ngủ đi.” 7 Bấy giờ
Sa-mu-en chưa biết Ðức Chúa, và lời Ðức Chúa chưa được mặc khải cho cậu. 8
Ðức Chúa lại gọi Sa-mu-en lần thứ ba. Cậu dậy, đến với ông Ê-li và thưa:
"Dạ, con đây, thầy gọi con." Bấy giờ ông Ê-li hiểu là Ðức Chúa gọi
cậu bé. 9 Ông Ê-li nói với Sa-mu-en: "Con về ngủ đi, và hễ có
ai gọi con thì con thưa: "Lạy Ðức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang
lắng nghe." Sa-mu-en về ngủ ở chỗ của mình.
10
Ðức
Chúa đến, đứng đó và gọi như những lần trước: "Sa-mu-en! Sa-mu-en!"
Sa-mu-en thưa: "Xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” 11 Ðức
Chúa phán với Sa-mu-en: "Này Ta sắp làm một điều tại Ít-ra-en mà bất cứ ai
nghe nói cũng phải ù cả hai tai. 12 Ngày ấy, để phạt Ê-li, Ta sẽ
thực hiện mọi điều Ta đã phán về nhà nó, từ đầu đến cuối. 13 Ta báo
cho nó là Ta vĩnh viễn kết án nhà nó vì lỗi của nó: Nó biết các con nó nguyền
rủa Thiên Chúa mà đã không sửa dạy chúng. 14 Vì vậy Ta thề với nhà
Ê-li: nhà Ê-li sẽ không bao giờ được xá lỗi, dù là bằng hy lễ hay lễ
phẩm."
15
Sa-mu-en
cứ ngủ cho đến sáng, rồi mở các cửa của Nhà Ðức Chúa. Sa-mu-en sợ không dám kể
lại thị kiến cho ông Ê-li. 16 Ông Ê-li gọi Sa-mu-en và nói:
"Sa-mu-en, con ơi!" Cậu thưa: "Dạ, con đây!” 17 Ông
nói: "Người đã phán với con điều gì? Thầy xin con đừng giấu thầy. Xin
Thiên Chúa phạt con thế này và còn thêm thế kia nữa, nếu con giấu thầy một điều
nào trong tất cả những lời Người đã phán với con.” 18 Sa-mu-en kể
lại cho ông mọi điều, không giấu ông điều nào. Ông nói: "Người là Ðức Chúa.
Xin Người cứ làm điều Người cho là tốt."
19
Sa-mu-en
lớn lên. Ðức Chúa ở với ông và Người không để cho một lời nào của Người ra vô
hiệu. 20 Toàn thể Ít-ra-en, từ Ðan tới Bơ-e Se-va, biết rằng ông
Sa-mu-en được Ðức Chúa tín nhiệm cho làm ngôn sứ của Người. 21 Ðức
Chúa tiếp tục hiện ra ở Si-lô, vì Ðức Chúa dùng lời của Ðức Chúa mà tự mặc khải
cho ông Sa-mu-en ở Si-lô.
Chương 04
1
và
lời của ông Sa-mu-en đến với toàn thể Ít-ra-en.
2.
Hòm Bia Bị Người Phi-Li-Tinh Chiếm Ðoạt
Ít-ra-en
bị đánh bại và Hòm Bia bị chiếm đoạt
2
Người
Phi-li-tinh dàn quân đối diện với quân Ít-ra-en, cuộc chiến trở nên ác liệt và
Ít-ra-en bị người Phi-li-tinh đánh bại: tại mặt trận, ở ngoài đồng, chúng đã
giết chừng bốn ngàn người. 3 Khi dân trở về trại, các kỳ mục
Ít-ra-en nói: "Sao hôm nay Ðức Chúa để chúng ta bị người Phi-li-tinh đánh
bại? Chúng ta hãy đi Si-lô lấy Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa về: Hòm Bia sẽ đến
giữa chúng ta và sẽ cứu chúng ta khỏi bàn tay quân thù.” 4 Dân sai
người đi Si-lô; từ đó họ mang về Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa các đạo binh,
Ðấng ngự trên các thần hộ giá; ở đó, bên cạnh Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa,
có hai con ông Ê-li là Khóp-ni và Pin-khát. 5 Khi Hòm Bia Giao Ước
của Ðức Chúa xuống trại, toàn thể Ít-ra-en hò reo vang dội khiến đất rung
chuyển. 6 Người Phi-li-tinh nghe thấy tiếng hò reo thì hỏi nhau:
"Tiếng hò reo vang dội ấy trong trại bọn Híp-ri là gì vậy?" Chúng
biết là Hòm Bia Ðức Chúa đã đến trại. 7 Người Phi-li-tinh sợ hãi, vì
chúng nói: "Một vị thần đã đến trại!" Chúng bảo nhau: "Khốn thân
ta, vì trước đây không có như vậy! 8 Khốn thân ta! Ai sẽ giải thoát ta khỏi tay
những thần hùng mạnh ấy? Ðó là những thần đã dùng mọi thứ đòn mà đánh phạt
người Ai-cập trong sa mạc. 9 Hỡi người Phi-li-tinh, can đảm lên, hãy
tỏ ra là nam nhi, kẻo phải làm nô lệ cho bọn Híp-ri như chúng đã làm nô lệ cho
anh em. Hãy tỏ ra là nam nhi và chiến đấu!” 10 Người Phi-li-tinh
giao chiến. Ít-ra-en bị đánh bại và ai nấy chạy trốn về lều của mình. Ðó là một
đòn rất đau: về phía Ít-ra-en có ba mươi ngàn bộ binh tử trận. 11 Hòm
Bia Thiên Chúa bị chiếm đoạt, và hai con ông Ê-li là Khóp-ni và Pin-khát bị
giết.
Ông
Ê-li qua đời
12
Một
người thuộc chi tộc Ben-gia-min từ mặt trận chạy về, và ngay hôm đó tới Si-lô,
áo quần xé rách, đầu thì rắc đất. 13 Khi người ấy đến thì ông Ê-li
đang ngồi trên ghế ở bên đường mà ngóng trông. Vì lòng ông bồn chồn lo sợ cho
Hòm Bia Thiên Chúa. Người kia vào loan tin trong thành, và cả thành kêu gào lên.
14 Nghe tiếng kêu la, ông Ê-li hỏi: "Sao có tiếng ồn ào như
thế?" Người kia vội vàng đến báo tin cho ông Ê-li. 15 Ông Ê-li
đã chín mươi tám tuổi, mắt ông cứng đờ, ông không thấy được nữa. 16 Người
kia nói với ông Ê-li: "Tôi từ mặt trận về. Tôi đã từ mặt trận trốn về hôm
nay." Ông hỏi: "Cái gì đã xảy ra vậy con?” 17 Người đưa
tin trả lời rằng: "Ít-ra-en đã chạy trốn quân Phi-li-tinh; dân đại bại,
hai con ông là Khóp-ni và Pin-khát đã chết, và Hòm Bia Thiên Chúa đã bị chiếm
đoạt.” 18 Người kia vừa nhắc tới Hòm Bia Thiên Chúa, thì ông từ ghế
ngã ngửa xuống, bên cạnh cửa, giập gáy mà chết, vì ông đã già lại nặng cân. Ông
đã làm thủ lãnh xét xử Ít-ra-en bốn mươi năm.
Vợ
Pin-khát chết
19
Con
dâu ông, tức là vợ của Pin-khát, đang có thai và sắp sinh. Nghe tin Hòm Bia bị
chiếm đoạt, cha chồng và chồng chết, nàng khuỵu xuống và sinh con, vì lên cơn
đau đột ngột. 20 Lúc nàng sắp chết, những người đàn bà đứng quanh
bảo nàng: "Cô đừng sợ, vì cô đã sinh được một con trai!" Nhưng nàng
không trả lời và không để tâm đến. 21 Nàng gọi đứa trẻ là I-kha-vốt,
và nói: "Vinh quang đã bị cướp khỏi Ít-ra-en", vì Hòm Bia Thiên Chúa đã
bị chiếm đoạt, vì cha chồng và chồng nàng đã chết. 22 Nàng nói:
"Vinh quang đã bị cướp khỏi Ít-ra-en", vì Hòm Bia Thiên Chúa đã bị
chiếm đoạt.
Chương 05
Người
Phi-li-tinh gặp rủi ro vì Hòm Bia
1
Người
Phi-li-tinh chiếm đoạt Hòm Bia Thiên Chúa và đưa từ E-ven Ha E-de về thành
Át-đốt. 2 Người Phi-li-tinh lấy Hòm Bia, đưa vào nhà của thần Ða-gôn
và đặt bên cạnh thần Ða-gôn. 3 Hôm sau, người Át-đốt dậy sớm và kìa
Ða-gôn ngã sấp mặt xuống đất, trước Hòm Bia Ðức Chúa. Chúng đem Ða-gôn đặt vào
chỗ cũ. 4 Sáng hôm sau chúng dậy sớm và kìa Ða-gôn lại ngã sấp mặt
xuống đất, trước Hòm Bia Ðức Chúa. Ðầu Ða-gôn và hai bàn tay đã bị chặt, thì ở
trên ngưỡng cửa, chỉ còn lại thân Ða-gôn. 5 Vì thế, cho đến ngày hôm
nay, ở Át-đốt, các tư tế Ða-gôn và tất cả những ai vào Nhà của Ða-gôn không
giẫm lên ngưỡng cửa Ða-gôn.
6
Bàn
tay Ðức Chúa đè nặng trên người Át-đốt, Người làm cho chúng phải điêu linh, và
mắc những khối u, tại Át-đốt và trong lãnh thổ. 7 Thấy vậy, người
Át-đốt nói: "Ðừng để Hòm Bia Thiên Chúa Ít-ra-en ở lại với chúng ta, vì
Người đã ra tay đối xử nghiệt ngã với chúng ta và với thần Ða-gôn của chúng ta;
8 chúng sai người đi mời tất cả các vương hầu người Phi-li-tinh đến
với chúng. Chúng nói: "Chúng tôi phải làm gì với Hòm Bia Thiên Chúa
Ít-ra-en?" Các vương hầu trả lời: "Phải di chuyển Hòm Bia Thiên Chúa
Ít-ra-en đến Gát." Họ đã di chuyển Hòm Bia Thiên Chúa Ít-ra-en đi. 9 Sau
khi di chuyển Hòm Bia, tay Ðức Chúa giáng xuống trên thành. Chúng vô cùng hoảng
sợ. Ðức Chúa đánh phạt người trong thành, từ bé đến lớn: khối u mọc trên khắp
người chúng. 10 Chúng gửi Hòm Bia Thiên Chúa đến Éc-rôn. Nhưng khi
Hòm Bia đến Éc-rôn thì người Éc-rôn kêu lên rằng: "Họ di chuyển Hòm Bia
Thiên Chúa Ít-ra-en đến với (chúng) ta, để giết (chúng) ta và dân (chúng) ta.” 11
Chúng sai người đi mời tất cả các vương hầu người Phi-li-tinh đến. Chúng
nói: "Các ông hãy trả lại Hòm Bia Thiên Chúa Ít-ra-en; Hòm Bia phải trở về
chỗ cũ, để Hòm Bia đừng giết (chúng) tôi và dân (chúng) tôi!" Thật vậy,
trong toàn thành, người ta hoảng sợ trước cái chết, vì bàn tay Thiên Chúa giáng
rất mạnh xuống trên đó. 12 Những người không chết thì bị mắc những
khối u, và tiếng kêu của thành đã thấu tới trời.
Chương 06
Trả
lại Hòm Bia
1
Hòm
Bia Ðức Chúa ở trong lãnh thổ người Phi-li-tinh bảy tháng. 2 Người
Phi-li-tinh mời các tư tế và thầy bói đến và hỏi: "Chúng tôi phải làm gì
với Hòm Bia Ðức Chúa? Xin cho chúng tôi biết phải trả Hòm Bia về chỗ cũ bằng
cách nào.” 3 Họ đáp: "Nếu anh em trả lại Hòm Bia Thiên Chúa
Ít-ra-en, thì đừng trả lại không, nhưng phải nộp cho Người một của lễ đền tội.
Bấy giờ anh em sẽ khỏi bệnh và sẽ biết tại sao tay của Người đã không tha anh
em.” 4 Người Phi-li-tinh hỏi: "Của lễ đền tội chúng tôi phải
nộp cho Người là gì?" Họ đáp: "Năm cái khối u bằng vàng và năm con
chuột bằng vàng, tính theo số các vương hầu người Phi-li-tinh, vì cũng một tai
hoạ đã giáng xuống trên tất cả anh em và trên các vương hầu của anh em. 5 Anh
em hãy làm những hình ảnh các khối u của anh em, và hình ảnh các con chuột đang
phá phách xứ sở, và hãy tôn vinh Thiên Chúa Ít-ra-en. May ra Người sẽ nhẹ tay
với anh em, với các thần của anh em và xứ sở anh em. 6 Tại sao anh
em để lòng mình ra nặng nề cứng cỏi, như người Ai-cập và Pha-ra-ô đã để lòng
chúng ra nặng nề cứng cỏi? Khi Người thị uy với chúng, chúng đã chẳng phải để
cho Ít-ra-en đi sao? 7 Bây giờ hãy đóng một cỗ xe mới và bắt hai con bò sữa
chưa hề mang ách. Hãy lấy hai con bò đó mà thắng xe, và hãy tách con chúng ra
mà đưa về nhà. 8 Anh em hãy đem Hòm Bia Ðức Chúa đặt lên xe. Còn các
đồ bằng vàng anh em nộp cho Người làm của lễ đền tội, thì hãy để vào một cái
tráp ở bên cạnh, rồi hãy để cho Hòm Bia đi. 9 Anh em sẽ xem: nếu Hòm
Bia theo hướng lãnh thổ mình mà lên Bết Se-mét, thì chính là Người đã gây ra
cho chúng ta đại hoạ này. Nếu không, chúng ta sẽ biết là chẳng phải tay Người
đã đánh chúng ta, mà chỉ là chuyện tình cờ xảy đến cho chúng ta."
10
Những
người ấy làm như vậy. Chúng bắt hai con bò sữa mà thắng xe, còn bò con thì nhốt
ở nhà. 11 Chúng đặt Hòm Bia Ðức Chúa lên xe, cùng với cái tráp đựng
các con chuột bằng vàng và hình ảnh các khối u của chúng.
12
Các
con bò cái thẳng đường đi về hướng Bết Se-mét. Chúng cứ theo một đường mà đi,
vừa đi vừa rống, không đi trệch bên phải bên trái. Các vương hầu người
Phi-li-tinh đi theo sau chúng cho đến ranh giới Bết Se-mét.
Hòm
Bia tại Bết Se-mét
13
Người
Bết Se-mét đang gặt lúa mì trong thung lũng. Ngước mắt lên, họ nhìn thấy Hòm
Bia, và khi nhìn thấy, họ vui mừng. 14 Cỗ xe đến cánh đồng ông
Giơ-hô-su-a người Bết Se-mét, và dừng lại ở đó. Ở đó có một tảng đá lớn. Họ bổ
gỗ xe ra, còn những con bò cái thì họ dâng Ðức Chúa làm lễ toàn thiêu. 15 Các
thầy Lê-vi đưa Hòm Bia Ðức Chúa xuống, cùng với cái tráp bên cạnh, trong đó có
các đồ vật bằng vàng. Họ đặt tất cả lên tảng đá lớn. Người Bết Se-mét dâng
những lễ toàn thiêu và tiến những hy lễ lên Ðức Chúa, ngày hôm đó. 16 Năm
vương hầu người Phi-li-tinh thấy vậy, cũng trở về Éc-rôn ngày hôm đó. 17 Ðây
là các u bướu bằng vàng người Phi-li-tinh đã nộp cho Ðức Chúa làm lễ đền tội:
một cho Át-đốt, một cho Ga-da, một cho Át-cơ-lôn, một cho Gát, một cho Éc-rôn. 18
Ngoài ra còn có các con chuột bằng vàng, tính theo số tất cả các thành
người Phi-li-tinh thuộc về năm vương hầu, từ thành kiên cố cho đến làng bỏ ngỏ.
Tảng đá lớn trên đó người ta đã đặt Hòm Bia Ðức Chúa là bằng chứng cho đến ngày
hôm nay, trong cánh đồng ông Giơ-hô-su-a người Bết Se-mét. 19 Người
đã đánh phạt những người Bết Se-mét vì họ đã nhìn thấy Hòm Bia Ðức Chúa. Trong
dân, Người đã đánh phạt bảy mươi người. Dân để tang vì Ðức Chúa đã đánh dân một
đòn đau.
Hòm
Bia tại Kia-giát Giơ-a-rim
20
Người
Bết Se-mét nói: "Ai có thể đứng vững trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa thánh
thiện này? Khi rời chúng tôi, Người sẽ lên với ai?” 21 Họ sai sứ giả
đến với dân cư thành Kia-giát Giơ-a-rim và nói: "Người Phi-li-tinh đã trả
lại Hòm Bia Ðức Chúa. Hãy xuống mà đưa lên với anh em."
Chương 07
1
Người
Kia-giát Giơ-a-rim đến và đưa Hòm Bia Ðức Chúa lên. Họ đưa Hòm Bia vào nhà ông
A-vi-na-đáp, ở trên đồi, và thánh hiến E-la-da, con ông, để giữ Hòm Bia Ðức
Chúa.
Ông
Sa-mu-en làm thủ lãnh và cứu dân
2
Từ
ngày Hòm Bia được đặt ở Kia-giát Giơ-a-rim, một thời gian dài trôi qua: đã hai
mươi năm rồi. Toàn thể nhà Ít-ra-en thiết tha hướng về Ðức Chúa. 3 Bấy
giờ ông Sa-mu-en nói với toàn thể nhà Ít-ra-en rằng: "Nếu anh em hết lòng
trở về với Ðức Chúa, thì hãy loại bỏ các thần ngoại bang và các nữ thần
Át-tô-rét ra khỏi anh em; hãy hướng lòng anh em về với Ðức Chúa và phụng sự một
mình Người, thì Người sẽ giải thoát anh em khỏi tay người Phi-li-tinh.” 4 Con
cái Ít-ra-en loại bỏ các thần Ba-an và các nữ thần Át-tô-rét và chỉ phụng sự
một mình Ðức Chúa.
5
Ông
Sa-mu-en nói: "Hãy tập hợp toàn thể Ít-ra-en về Mít-pa: tôi sẽ cầu nguyện
với Ðức Chúa cho anh em.” 6 Họ tập hợp về Mít-pa. Họ múc nước và đổ
ra trước nhan Ðức Chúa. Ngày hôm ấy họ ăn chay và nói tại đó: "Chúng tôi
đắc tội với Ðức Chúa." Ông Sa-mu-en làm thủ lãnh xét xử con cái Ít-ra-en
tại Mít-pa.
7
Khi
người Phi-li-tinh nghe tin con cái Ít-ra-en tập hợp về Mít-pa, thì các vương
hầu người Phi-li-tinh lên đánh Ít-ra-en. Con cái Ít-ra-en nghe tin và sợ người
Phi-li-tinh. 8 Con cái Ít-ra-en nói với ông Sa-mu-en: "Xin ông
chớ ngừng kêu lên Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi, để người cứu chúng tôi khỏi
tay người Phi-li-tinh!” 9 Ông Sa-mu-en bắt một con chiên sữa và dâng
toàn bộ làm lễ toàn thiêu lên Ðức Chúa. Rồi ông Sa-mu-en kêu lên Ðức Chúa cho
Ít-ra-en và Ðức Chúa đã đáp lời ông. 10 Trong khi ông Sa-mu-en dâng
lễ toàn thiêu thì người Phi-li-tinh tiến lại giao chiến với Ít-ra-en. Nhưng
ngày hôm đó Ðức Chúa giáng sấm sét ầm ầm xuống người Phi-li-tinh; Người khiến
chúng tán loạn và chúng bị Ít-ra-en đánh bại. 11 Người Ít-ra-en ra
khỏi Mít-pa, đuổi theo quân Phi-li-tinh và đánh chúng đến tận bên dưới Bết Ca. 12
Ông Sa-mu-en lấy một tảng đá và đặt giữa Mít-pa và Cái Răng. Ông đặt tên
tảng đá là E-ven Ha E-de và nói: "Cho đến chỗ này, Ðức Chúa đã cứu giúp
chúng ta."
13
Người
Phi-li-tinh bị hạ nhục và không còn đến lãnh thổ Ít-ra-en nữa. Tay Ðức Chúa đè
trên người Phi-li-tinh suốt đời ông Sa-mu-en. 14 Các thành mà người
Phi-li-tinh đã chiếm của Ít-ra-en lại trở về với Ít-ra-en, từ Éc-rôn đến Gát,
và Ít-ra-en đã giải phóng lãnh thổ họ khỏi tay người Phi-li-tinh. Có hoà bình
giữa Ít-ra-en và người E-mô-ri.
15
Ông
Sa-mu-en làm thủ lãnh xét xử Ít-ra-en mọi ngày trong đời ông. 16 Năm
này qua năm nọ, ông đi một vòng Bết Ên, Ghin-gan, Mít-pa, và ông xét xử
Ít-ra-en tại tất cả những nơi ấy. 17 Rồi ông trở về Ra-ma vì nhà ông
ở đó và ông xét xử Ít-ra-en ở đó. Tại đây ông dựng một bàn thờ để kính Ðức
Chúa.
Chương 08
II.
Ông Sa-Mu-En Và Ông Sa-Un
1.
Thiết Lập Chế Ðộ Quân Chủ
Dân
xin một vua
1
Khi
ông Sa-mu-en đã già, ông đặt các con trai ông làm thủ lãnh Ít-ra-en. 2 Con
đầu lòng của ông tên là Giô-en, con thứ hai tên là A-vi-gia. Họ làm thủ lãnh
tại Bơ-e Se-va. 3 Các con trai ông không đi theo đường lối của ông,
chúng ngả theo lợi lộc, nhận quà hối lộ và làm sai lệch công lý. 4 Toàn
thể các kỳ mục tập hợp lại và đến với ông Sa-mu-en ở Ra-ma. 5 Họ nói
với ông: "Ông coi, ông già rồi, và các con ông lại không đi theo đường lối
của ông. Vậy bây giờ, xin ông lập cho chúng tôi một vua để vua xét xử chúng tôi,
như trong tất cả các dân tộc.” 6 Ông Sa-mu-en bực mình vì lời họ
nói: "Xin ông cho chúng tôi một vua để xét xử chúng tôi." Và ông
Sa-mu-en đã cầu nguyện với Ðức Chúa. 7 Ðức Chúa phán với ông
Sa-mu-en: "Ngươi cứ nghe theo tiếng của dân trong mọi điều chúng nói với
ngươi, vì không phải chúng gạt bỏ ngươi, mà là chúng gạt bỏ Ta, không chịu để
Ta làm vua của chúng. 8 Chúng xử sự với ngươi như chúng vẫn xử sự từ
ngày Ta đưa chúng lên từ Ai-cập cho đến ngày hôm nay: Chúng đã bỏ Ta mà phụng
sự những thần khác. 9 Vậy bây giờ ngươi cứ nghe theo tiếng chúng.
Chỉ có điều là ngươi phải long trọng cảnh cáo chúng và nói cho chúng biết quyền
hành của nhà vua sẽ cai trị chúng."
Những
bất tiện của chế độ quân chủ
10
Ông
Sa-mu-en nói lại mọi lời của Ðức Chúa cho dân bấy giờ đang xin ông một vua. 11
Ông nói: "Ðây là quyền hành của nhà vua sẽ cai trị anh em. Các con
trai anh em, ông sẽ bắt mà cắt đặt vào việc trông coi xe và ngựa của ông, và
chúng sẽ chạy đàng trước xe của ông. 12 Ông sẽ đặt chúng làm người
chỉ huy một ngàn và chỉ huy năm mươi, sẽ bắt chúng cày đất cho ông, gặt lúa cho
ông, chế tạo vũ khí cho ông và dụng cụ cho xe của ông. 13 Các con
gái anh em, ông sẽ bắt vào làm thợ chế nước hoa, nấu ăn và làm bánh. 14 Ðồng
ruộng, vườn nho, vườn cây ô-liu tốt nhất của anh em, ông sẽ lấy mà cho bề tôi
của ông. 15 Lúa thóc và vườn nho của anh em, ông sẽ đánh thuế thập
phân mà cho các thái giám và bề tôi của ông. 16 Các tôi tớ nam nữ,
các người trai tráng khá nhất của anh em, các con lừa của anh em, ông sẽ bắt mà
dùng vào việc của ông. 17 Chiên dê của anh em, ông sẽ đánh thuế thập
phân. Còn chính anh em sẽ làm nô lệ cho ông. 18 Ngày ấy, anh em sẽ
kêu than vì vua của anh em mà anh em đã chọn cho mình, nhưng ngày ấy Ðức Chúa
sẽ không đáp lời anh em."
19
Nhưng
dân không chịu nghe theo tiếng ông Sa-mu-en. Họ nói: "Không! Phải có một
vua cai trị chúng tôi! 20 Cả chúng tôi cũng sẽ giống như mọi dân tộc. Vua chúng
tôi sẽ xét xử chúng tôi, sẽ dẫn đầu chúng tôi và sẽ lãnh đạo các cuộc chiến của
chúng tôi.” 21 Ông Sa-mu-en nghe tất cả những lời của dân và nói lại
những lời ấy cho Ðức Chúa nghe. 22 Ðức Chúa phán với ông Sa-mu-en:
"Hãy nghe theo tiếng chúng, và hãy đặt một vua cai trị chúng." Ông
Sa-mu-en nói với người Ít-ra-en: "Ai nấy hãy về thành của mình."
Chương 09
Ông
Sa-un đi tìm lừa của cha
1
Có
một người thuộc chi tộc Ben-gia-min tên là Kít, con ông A-vi-ên; ông A-vi-ên là
con ông Xơ-ro; ông Xơ-ro là con ông Bơ-khô-rát; ông Bơ-khô-rát là con ông
A-phi-ác; ông A-phi-ác là con một người Ben-gia-min. Ông Kít là một người có
thế giá. 2 Ông có một người con trai tên là Sa-un, một người trẻ và
đẹp trai; trong số con cái Ít-ra-en, không có người nào đẹp trai hơn ông. Ông
cao hơn toàn dân từ vai trở lên.
3
Các
con lừa cái của ông Kít, cha ông Sa-un, bị lạc; ông Kít bảo ông Sa-un, con ông:
"Con hãy đem một trong các người đầy tớ đi với con và lên đường đi tìm
lừa.” 4 Ông Sa-un đi qua miền núi Ép-ra-im, rồi đi qua đất Sa-li-sa,
mà không tìm thấy. Họ đi qua đất Sa-a-lim: cũng không thấy gì. Ông đi qua đất
Ben-gia-min, mà không tìm thấy. 5 Khi họ đến đất Xúp, ông Sa-un nói
với người đầy tớ đi với mình: "Nào, chúng ta hãy trở về, kẻo cha tôi không
còn nghĩ đến lừa mà lại lo cho chúng ta.” 6 Người đầy tớ nói với
ông: "Này, trong thành kia có một người của Thiên Chúa; ông là người có uy
tín: tất cả những gì ông nói đều chắc chắn xảy ra. Bây giờ chúng ta hãy đi đến
đó. May ra ông ấy sẽ chỉ cho chúng ta phải đi đường nào.” 7 Ông
Sa-un nói với người đầy tớ: "Ðược, chúng ta đi! Nhưng chúng ta sẽ đem gì
đến biếu ông ấy? Bị chúng ta hết bánh rồi, chúng ta không có quà đem biếu người
của Thiên Chúa. Chúng ta có gì nào?” 8 Người đầy tớ lại trả lời ông
Sa-un: "Ðây tôi có sẵn trong tay một chỉ bạc. Tôi sẽ tặng người của Thiên
Chúa và ông ấy sẽ chỉ cho chúng ta con đường của chúng ta.” 9 - Ngày
xưa, tại Ít-ra-en, khi người nào đi thỉnh ý Ðức Chúa thì nói thế này: "Nào
chúng ta đến với thầy thị kiến", vì "ngôn sứ" ngày nay thì ngày
xưa gọi là "thầy thị kiến". - 10 Ông Sa-un nói với đầy tớ: "Anh
nói phải. Nào chúng ta đi! " Rồi họ đi đến thành trong đó có người của Thiên
Chúa.
Ông
Sa-un gặp ông Sa-mu-en
11
Họ
đang lên dốc dẫn đến thành thì gặp những cô gái đi ra múc nước; họ hỏi các cô:
"Thầy thị kiến có ở đây không?” 12 Các cô trả lời họ rằng:
"Có, ngay trước mặt ông kia kìa, ông đi mau lên, vì hôm nay ông ấy đến thành,
và hôm nay có hy lễ cho dân ở nơi cao. 13 Vào thành là các ông sẽ
gặp ông ấy trước khi ông ấy lên nơi cao để dùng bữa: dân sẽ không dùng bữa
trước khi ông ấy đến, vì ông ấy là người chúc phúc cho hy lễ; sau đó các khách
mời sẽ dùng bữa. Vậy bây giờ các ông lên đi, các ông sẽ gặp ông ấy ngay lập
tức."
14
Họ
lên thành. Khi họ vào trong thành, thì thấy ông Sa-mu-en đang đi ra đón họ để
lên nơi cao. 15 Một ngày trước khi ông Sa-un đến, Ðức Chúa đã mặc
khải cho ông Sa-mu-en rằng: 16 "Ngày mai, vào giờ này, Ta sẽ
sai một người xứ Ben-gia-min đến với ngươi, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm
người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en, và nó sẽ cứu dân Ta khỏi tay người
Phi-li-tinh, vì Ta đã nhìn thấy dân Ta, và tiếng rên siết của nó đã thấu tới
Ta.” 17 Khi ông Sa-mu-en thấy ông Sa-un thì Ðức Chúa mách bảo ông:
"Ðây là người mà Ta đã nói với ngươi: chính nó sẽ cai trị dân Ta.” 18
Ông Sa-un lại gần ông Sa-mu-en ở giữa cửa thành và nói: "Xin ông làm
ơn cho tôi biết nhà thầy thị kiến ở đâu.” 19 Ông Sa-mu-en trả lời
ông Sa-un rằng: "Tôi là thầy thị kiến đây. Ông hãy lên nơi cao, trước mặt
tôi. Các ông sẽ dùng bữa với tôi hôm nay. Sáng mai tôi sẽ để cho ông đi và sẽ
nói cho ông biết tất cả những gì đang làm ông bận tâm. 20 Còn những
con lừa cái của ông đã lạc ba ngày nay, ông đừng để tâm, vì đã tìm thấy rồi. Vả
lại, mọi cái quý nhất trong Ít-ra-en thuộc về ai? Chẳng phải là thuộc về ông và
nhà cha ông hay sao?” 21 Ông Sa-un trả lời rằng: "Tôi chẳng
phải là một người Ben-gia-min, chi tộc nhỏ nhất trong Ít-ra-en sao? Thị tộc tôi
chẳng phải là hèn mọn nhất trong các thị tộc của chi tộc Ben-gia-min sao? Sao
ông lại nói với tôi như thế?"
22
Ông
Sa-mu-en dẫn ông Sa-un và người đầy tớ ông này, đưa vào phòng và cho họ một chỗ
ở hàng đầu những khách mời, khoảng ba mươi người. 23 Ông Sa-mu-en
bảo người đầu bếp: "Hãy dọn phần tôi đã trao cho anh, khi bảo anh để riêng
ra.” 24 Người đầu bếp mang cái đùi và cái đuôi ra đặt trước mặt ông
Sa-un. Ông Sa-mu-en nói: "Ðây là phần để lại, dọn ra cho ông. Mời ông ăn,
vì nó được giữ lại cho ông nhân dịp này là dịp tôi mời dân." Ngày hôm đó,
ông Sa-un dùng bữa với ông Sa-mu-en. 25 Sau đó, từ nơi cao, họ xuống
thành, và ông Sa-mu-en nói chuyện với ông Sa-un trên sân thượng.
Ông
Sa-un được xức dầu phong vương
26
Hôm
sau, họ dậy sớm. Khi hừng đông ló rạng, ông Sa-mu-en gọi ông Sa-un đang ở trên
sân thượng và nói: "Mời ông dậy, tôi sẽ tiễn ông đi." Ông Sa-un dậy,
rồi cả hai người, ông và ông Sa-mu-en, ra ngoài. 27 Khi họ đang
xuống đến cuối thành thì ông Sa-mu-en nói với ông Sa-un: "Xin ông bảo
người đầy tớ đi qua trước chúng ta." - Người ấy đi qua - "Còn ông,
bây giờ xin ông đứng lại để tôi nói cho ông nghe lời của Thiên Chúa."
Chương 10
1
Ông
Sa-mu-en lấy lọ dầu và đổ trên đầu ông Sa-un, rồi hôn ông và nói: "Chẳng
phải Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong ông làm người lãnh đạo cơ nghiệp của Người
sao? 2 Hôm nay, khi từ biệt tôi mà đi, ông sẽ gặp hai người đàn ông gần mộ bà
Ra-khen, ở ranh giới Ben-gia-min, tại Xen-xác. Họ sẽ nói với ông: "Các con
lừa cái ông đang đi tìm, đã tìm được rồi, và bây giờ cha ông đã quên chuyện các
con lừa, nhưng đang lo cho các ông và tự hỏi: Tôi phải làm gì cho con trai tôi?
3 Từ đó đi xa hơn nữa, ông sẽ đến Cây Sồi Ta-bo, ở đó ba người đàn ông sẽ gặp
ông, họ đang lên với Thiên Chúa ở Bết Ên, một người mang ba con dê con, một
người mang ba cái bánh, một người mang một bầu da đầy rượu. 4 Họ sẽ
vấn an ông, sẽ biếu ông hai cái bánh và ông sẽ nhận từ tay họ. 5 Sau
đó, ông sẽ đến Ghíp-a của Thiên Chúa, là nơi có viên trấn thủ Phi-li-tinh. Tại
đó, khi ông vào thành, ông sẽ gặp một nhóm ngôn sứ đang từ nơi cao xuống, trước
mặt họ có đàn hạc, trống, sáo, đàn cầm, và họ đang lên cơn xuất thần ngôn sứ. 6
Bấy giờ thần khí Ðức Chúa sẽ nhập vào ông, ông sẽ lên cơn xuất thần ngôn
sứ cùng với họ, và ông sẽ biến thành một người khác. 7 Vậy khi các
dấu ấy xảy đến cho ông, thì ông hãy tuỳ cơ ứng biến, vì Thiên Chúa ở với ông. 8
Ông hãy xuống Ghin-gan trước tôi; phần tôi, tôi sẽ xuống gặp ông, để dâng
những lễ toàn thiêu và tiến những hy lễ kỳ an. Xin ông đợi bảy ngày, cho đến
khi tôi tới. Tôi sẽ cho ông biết ông phải làm gì."
Ông
Sa-un trở về
9
Ông
Sa-un vừa quay lưng bỏ ông Sa-mu-en mà đi, thì Thiên Chúa biến đổi lòng ông, và
tất cả các dấu đó đã xảy ra ngày hôm ấy. 10 Khi họ đến Ghíp-a thì
thấy một nhóm ngôn sứ đi về phía họ. Thần khí Thiên Chúa nhập vào ông, và ông
lên cơn xuất thần ngôn sứ ở giữa họ. 11 Tất cả những người quen biết
ông trước kia đều thấy ông: ông làm ngôn sứ với những ngôn sứ! Trong dân người
ta bảo nhau: "Cái gì đã xảy ra cho con ông Kít? Ông Sa-un mà cũng ở trong
số các ngôn sứ sao?” 12 Một người ở đó lên tiếng hỏi: "Ai là
cha của họ vậy?" Vì thế có câu ngạn ngữ rằng: "Ông Sa-un mà cũng ở
trong số các ngôn sứ sao?"
13
Khi
hết cơn xuất thần ngôn sứ, thì ông Sa-un đi lên nơi cao. 14 Chú ông
Sa-un hỏi ông và người đầy tớ: "Các anh đã đi đâu vậy?" Ông Sa-un trả
lời: "Chúng cháu đi tìm các con lừa cái, nhưng không thấy gì, nên đã đến
gặp ông Sa-mu-en.” 15 Chú ông Sa-un nói: "Cháu hãy kể lại cho
chú nghe ông Sa-mu-en đã nói gì với hai người.” 16 Ông Sa-un trả lời
chú: "Ông ấy chỉ báo cho chúng cháu là đã tìm thấy con lừa cái rồi."
Nhưng về chuyện làm vua, thì ông không kể lại cho chú điều ông Sa-mu-en đã nói.
Ông
Sa-un trúng thăm làm vua
17
Ông
Sa-mu-en triệu tập dân đến với Ðức Chúa ở Mít-pa. 18 Ông nói với con
cái Ít-ra-en: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán như sau: Chính Ta
đã đưa các ngươi lên từ Ai-cập và đã giải thoát các ngươi khỏi tay người Ai-cập
và khỏi tay mọi vương quốc đang áp bức các ngươi. 19 Còn các ngươi,
hôm nay các ngươi đã gạt bỏ Thiên Chúa của các ngươi, Ðấng cứu các ngươi khỏi
mọi tai hoạ và mọi cơn ngặt nghèo của các ngươi, và các ngươi đã thưa với
Người: "Xin Ngài lập một vua cai trị chúng tôi. Vậy bây giờ hãy đến đứng
trước mặt Ðức Chúa theo chi tộc và thị tộc.” 20 Ông Sa-mu-en cho mọi
chi tộc Ít-ra-en tiến đến và chi tộc Ben-gia-min trúng thăm. 21 Ông
cho chi tộc Ben-gia-min tiến đến theo thị tộc, và thị tộc Mát-ri trúng thăm.
Rồi ông Sa-un con ông Kít trúng thăm. Họ tìm ông mà không thấy.
22
Họ
lại thỉnh ý Ðức Chúa: "Thưa còn người nào đến đây nữa không?" Ðức
Chúa trả lời: "Nó đây này, nó đang lẩn trốn trong đống hành lý.” 23 Họ
chạy đến, lôi ông từ đó ra, và ông đến đứng giữa dân. Ông cao hơn toàn dân từ
vai trở lên. 24 Ông Sa-mu-en nói với toàn dân: "Anh em đã xem
thấy người Ðức Chúa chọn chưa? Trong toàn dân không có ai được như ông."
Toàn dân reo hò và nói: "Vạn tuế đức vua!"
25
Ông
Sa-mu-en nói cho dân biết quyền hành vua chúa, ghi chép vào một quyển sách và
đặt trước nhan Ðức Chúa. Rồi ông Sa-mu-en cho toàn dân ai nấy về nhà mình.
26
Ông
Sa-un cũng đi về nhà ở Ghíp-a. Cùng đi với ông có những người can đảm đã được
Ðức Chúa cảm hoá tâm hồn. 27 Nhưng có những tên vô lại đã nói:
"Làm sao hắn cứu chúng ta được?" Chúng coi thường ông và không đem
quà biếu ông. Nhưng ông làm như không nghe thấy.
Chương 11
Thắng
người Am-mon
1
Na-khát,
người Am-mon, lên bao vây thành Gia-vết, miền Ga-la-át. Mọi người Gia-vết nói
với Na-khát: "Xin ông lập giao ước với chúng tôi, và chúng tôi sẽ làm tôi
ông.” 2 Na-khát, người Am-mon, nói với họ: "Ta sẽ lập giao ước
với các ngươi với điều kiện này là ta sẽ chọc thủng mắt phải của tất cả các
ngươi. Ta sẽ bắt toàn thể Ít-ra-en phải chịu điều sỉ nhục đó.” 3 Các
kỳ mục Gia-vết nói với ông: "Xin để cho chúng tôi bảy ngày. Chúng tôi sẽ
sai sứ giả đi khắp lãnh thổ Ít-ra-en, và nếu không có ai cứu chúng tôi, thì
chúng tôi sẽ ra hàng ông.” 4 Các sứ giả đến Ghíp-a, thành của ông
Sa-un, và nói những lời ấy cho dân nghe. Toàn dân oà lên khóc.
5
Và
này ông Sa-un từ ngoài đồng về theo sau đàn bò. Ông hỏi: "Có gì mà dân
khóc vậy? " Họ kể lại cho ông những lời người Gia-vết nói. 6 Khi
ông Sa-un nghe những lời ấy, thần khí của Ðức Chúa nhập vào ông, và ông bừng
bừng nổi giận. 7 Ông bắt một cặp bò, xả thịt và gửi các sứ giả mang
đi khắp lãnh thổ Ít-ra-en với lời này: "Ai không theo Sa-un và Sa-mu-en ra
trận, thì bò của nó sẽ bị như thế này." Ðức Chúa gieo kinh hoàng xuống
trên dân, và họ đã ra trận, muôn người như một. 8 Ông Sa-un duyệt
binh tại Be-déc: Con cái Ít-ra-en là ba trăm ngàn và người Giu-đa là ba mươi
ngàn. 9 Ông nói với các sứ giả đã đến: "Các ông hãy nói với
người Gia-vết thế này: Ngày mai, vào lúc mặt trời nóng nhất, anh em sẽ được cứu
viện." Các sứ giả về báo tin cho người Gia-vết, khiến họ vui mừng. 10
Người Gia-vết nói với Na-khát: "Ngày mai, chúng tôi sẽ ra hàng các
ông, và các ông cứ xử với chúng tôi theo mọi điều các ông coi là tốt."
11
Hôm
sau, ông Sa-un chia dân ra thành ba cánh quân. Họ vào giữa trại khi gần sáng và
đánh người Am-mon cho đến lúc nóng nực nhất trong ngày. Những tên sống sót thì
tán loạn không còn có lấy hai tên ở với nhau.
Ông
Sa-un được tôn làm vua
12
Dân
nói với ông Sa-mu-en: "Ai là người nói: "Sa-un mà lại làm vua cai trị
chúng tôi sao"? Các ông hãy nộp chúng cho chúng tôi xử tử.” 13 Ông
Sa-un nói: "Không ai sẽ bị xử tử hôm nay, vì hôm nay Ðức Chúa đã chiến
thắng tại Ít-ra-en.” 14 Ông Sa-mu-en nói với dân: "Nào, chúng
ta đi Ghin-gan và khai mạc vương quyền mới ở đó."
15
Toàn
dân đi Ghin-gan. Ở đó, trước nhan Ðức Chúa, tại Ghin-gan, họ đã tôn ông Sa-un
làm vua, và ở đó họ dâng những hy lễ kỳ an trước nhan Ðức Chúa. Ở đó, ông Sa-un
và mọi người Ít-ra-en đã liên hoan tưng bừng.
Chương 12
Ông
Sa-mu-en nhường chỗ cho ông Sa-un
1
Ông
Sa-mu-en nói với toàn thể Ít-ra-en: "Ðây tôi đã nghe theo tiếng của anh em
trong mọi điều anh em nói với tôi, và tôi đã đặt một vua cai trị anh em. 2
Bây giờ, đây là vua dẫn đầu anh em. Phần tôi, tôi đã già nua tóc bạc, và
các con trai tôi, chúng đang ở giữa anh em đó. Tôi đã dẫn đầu anh em, từ lúc
tôi còn trẻ cho đến hôm nay. 3 Này tôi đây. Hãy cáo tội tôi trước
mặt Ðức Chúa và trước mặt vị Người đã xức dầu tấn phong: tôi đã lấy bò của ai,
lấy lừa của ai? Tôi đã bóc lột ai, áp bức ai? Tôi đã nhận quà đút lót từ tay ai
để nhắm mắt làm ngơ cho nó? Tôi sẽ trả lại cho anh em.” 4 Họ trả
lời: "Ông đã không bóc lột chúng tôi, không áp bức chúng tôi, không lấy cái
gì từ tay ai.” 5 Ông nói với họ: "Có Ðức Chúa làm chứng trước
mặt anh em, và có vị Người đã xức dầu tấn phong cũng làm chứng hôm nay, rằng
anh em đã không tìm thấy gì nơi tay tôi." Họ trả lời: "Vâng, có Người
làm chứng."
6
Ông
Sa-mu-en nói với dân: "Phải, chính Thiên Chúa, Ðấng đã cho ông Mô-sê và
ông A-ha-ron xuất hiện và đã đưa cha ông anh em lên từ đất Ai-cập. 7 Bây
giờ, anh em hãy đứng đây, để tôi tranh tụng với anh em trước mặt Ðức Chúa về
mọi hồng ân Ðức Chúa đã ban cho anh em và cha ông anh em. 8 Sau khi
ông Gia-cóp vào Ai-cập, thì cha ông anh em đã kêu gào lên Ðức Chúa, và Ðức Chúa
đã sai ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến; các ông đã đưa cha ông anh em ra khỏi
Ai-cập và định cư họ ở nơi này. 9 Nhưng họ đã quên Ðức Chúa, Thiên
Chúa của họ, nên Người đã trao họ vào tay Xi-xơ-ra, tổng chỉ huy quân đội thành
Kha-xo, vào tay người Phi-li-tinh và vào tay vua Mô-áp, và chúng đã giao tranh
với họ. 10 Họ đã kêu lên Ðức Chúa và nói: "Chúng tôi đã phạm
tội, vì chúng tôi đã bỏ Ðức Chúa, đã phụng thờ các thần Ba-an và các nữ thần
Át-tô-rét. Giờ đây, xin giải thoát chúng tôi khỏi tay quân thù và chúng tôi sẽ
phụng thờ Ngài. 11 Ðức Chúa đã sai các ông Giơ-rúp-ba-an, Bơ-đan,
Gíp-tác và Sa-mu-en đến; Người đã giải thoát anh em khỏi tay thù địch chung
quanh và anh em đã được sống yên hàn.
12
"Nhưng
khi anh em thấy Na-khát, vua của con cái Am-mon, đến đánh anh em, thì anh em đã
nói với tôi: "Không! Phải có một vua cai trị chúng tôi! Trong khi chính
Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là vua anh em. 13 Bây giờ, đây là
vua anh em đã chọn, đã xin; Ðức Chúa đã ban một vua cai trị anh em đó. 14 Nếu
anh em kính sợ Ðức Chúa và phụng thờ Người, nếu anh em nghe theo tiếng Người và
không cưỡng lệnh Ðức Chúa, thì cả anh em, cả vua của anh em sẽ theo Ðức Chúa,
Thiên Chúa của anh em. 15 Nhưng nếu anh em không nghe theo tiếng Ðức
Chúa, nếu anh em cưỡng lệnh Ðức Chúa, thì bàn tay Ðức Chúa sẽ đè trên anh em
cũng như trên cha ông anh em.
16
Bây
giờ, một lần nữa, hãy đứng đây và xem điều vĩ đại Ðức Chúa sắp thực hiện trước
mắt anh em. 17 Hiện nay đang là mùa gặt lúa mì phải không? Tôi sẽ
kêu cầu Ðức Chúa và Người sẽ cho sấm nổ mưa rơi. Anh em hãy hiểu và thấy rằng
anh em đã làm một điều rất xấu xa trái mắt Ðức Chúa, khi đòi có vua.” 18 Ông
Sa-mu-en kêu cầu Ðức Chúa và Người cho sấm nổ mưa rơi ngày hôm đó. Toàn dân rất
kính sợ Ðức Chúa và ông Sa-mu-en. 19 Toàn dân nói với ông Sa-mu-en:
"Xin ông cầu nguyện với Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, cho các tôi tớ ông
đây, để chúng tôi khỏi chết, vì ngoài mọi tội lỗi của chúng tôi, chúng tôi còn
làm thêm điều xấu xa là đòi có vua."
20
Ông
Sa-mu-en nói với dân: "Ðừng sợ! Chính anh em đã làm tất cả điều xấu xa ấy.
Tuy nhiên, anh em đừng có bỏ không theo Ðức Chúa, mà hãy phụng thờ Ðức Chúa hết
lòng. 21 Ðừng có bỏ mà theo những cái hư không, chúng chẳng ích gì
và chẳng giải thoát được ai, vì chúng chỉ là hư không. 22 Thật vậy,
Ðức Chúa sẽ không bỏ rơi dân Người, vì danh vĩ đại của Người, vì Ðức Chúa đã
muốn làm cho anh em thành dân của Người. 23 Phần tôi, không đời nào
tôi phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa là thôi cầu nguyện cho anh em. Tôi sẽ cho anh
em biết đường ngay nẻo chính. 24 Chỉ có một điều là anh em hãy kính
sợ Ðức Chúa và trung tín phụng thờ Người hết lòng: anh em hãy xem việc vĩ đại
Người đã làm giữa anh em. 25 Nhưng nếu anh em cứ làm điều xấu xa,
thì cả anh em lẫn vua của anh em sẽ bị huỷ diệt."
Chương 13
2.
Những Năm Ðầu Của Triều Ðại Sa-Un
Nổi
dậy chống người Phi-li-tinh
1
Ông
Sa-un được... tuổi khi lên làm vua, và ông đã làm vua cai trị Ít-ra-en được hai
năm. 2 Vua Sa-un chọn lấy ba ngàn người Ít-ra-en: hai ngàn ở với vua
Sa-un tại Mích-mát và trong núi Bết Ên, một ngàn ở với ông Giô-na-than tại
Ghíp-a thuộc Ben-gia-min, số còn lại trong dân thì vua cho ai nấy về lều mình.
3
Ông
Giô-na-than hạ viên trấn thủ Phi-li-tinh ở Ghe-va và người Phi-li-tinh nghe biết.
Vua Sa-un cho thổi tù và trong toàn xứ. Ông nói: "Các người Híp-ri hãy
nghe đây!” 4 Toàn thể Ít-ra-en nghe tin rằng: vua Sa-un đã hạ viên
trấn thủ Phi-li-tinh, và Ít-ra-en cũng đã trở nên đáng ghét đối với người
Phi-li-tinh. Dân liền tập hợp lại sau lưng vua Sa-un ở Ghin-gan. 5 Người
Phi-li-tinh họp nhau lại để giao tranh với Ít-ra-en. Chúng có ba ngàn chiến xa,
sáu ngàn kỵ binh và quân đông như cát ngoài bãi biển. Chúng lên đóng trại ở
Mích-mát, về phía đông Bết A-ven. 6 Người Ít-ra-en thấy mình lâm cảnh
ngặt nghèo vì dân bị siết chặt. Dân trốn vào trong các hang, động, khe đá, hầm
hố và hồ chứa nước. 7 Người Híp-ri đi qua sông Gio-đan sang đất Gát
và Ga-la-át.
Ông
Sa-mu-en đoạn giao với vua Sa-un
Vua
Sa-un vẫn còn ở Ghin-gan và sau lưng vua toàn dân run sợ. 8 Vua đợi
bảy ngày, theo thời hạn ông Sa-mu-en đã ấn định, nhưng ông Sa-mu-en không đến
Ghin-gan, và dân bỏ vua Sa-un đi tản mác. 9 Vua Sa-un bảo: "Hãy
đem lễ vật toàn thiêu và những lễ vật kỳ an đến cho ta." Và vua đã dâng lễ
toàn thiêu.
10
Vua
vừa dâng lễ toàn thiêu xong, thì này ông Sa-mu-en đến. Vua Sa-un ra đón chào
ông. 11 Ông Sa-mu-en hỏi: "Ngài đã làm gì thế?" Vua Sa-un
trả lời: "Khi tôi thấy dân bỏ tôi đi tản mác, còn ông lại không đến đúng
thời hạn và người Phi-li-tinh họp nhau ở Mích-mát, 12 thì tôi đã tự
bảo: "Bây giờ người Phi-li-tinh sắp kéo xuống Ghin-gan đánh tôi mà tôi
không làm cho nét mặt Ðức Chúa dịu lại, nên buộc lòng tôi phải dâng lễ toàn
thiêu.” 13 Ông Sa-mu-en nói với vua Sa-un: "Ngài đã hành động
ngu xuẩn! Ngài đã không giữ mệnh lệnh Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài, đã truyền.
Nếu ngài đã giữ thì bây giờ Ðức Chúa đã làm cho vương quyền của ngài được vững
bền mãi mãi. 14 Nhưng bây giờ vương quyền của ngài sẽ không đứng
vững. Ðức Chúa đã tìm cho mình một kẻ như lòng Người mong muốn, và Ðức Chúa đã
đặt kẻ ấy làm người lãnh đạo dân Người, bởi vì ngài đã không giữ điều Ðức Chúa
truyền cho ngài.” 15 Ông Sa-mu-en đứng dậy và từ Ghin-gan lên Ghíp-a
thuộc Ben-gia-min. Vua Sa-un duyệt đám quân binh đang ở với vua: khoảng sáu
trăm người.
Chuẩn
bị giao chiến
16
Vua
Sa-un, ông Giô-na-than, con vua, và đám quân binh đang ở với hai ông thì giữ
Ghe-va thuộc Ben-gia-min, còn người Phi-li-tinh thì đóng trại ở Mích-mát. 17
Ðạo quân tiễu trừ, chia thành ba toán, xuất phát từ trại Phi-li-tinh: một
toán đi về hướng Óp-ra, ở xứ Su-an, 18 một toán đi về hướng Bết
Khô-rôn, một toán đi về hướng ranh giới ở bên trên thung lũng Linh Cẩu, về phía
sa mạc.
19
Bấy
giờ trong toàn đất Ít-ra-en không tìm được một thợ rèn, vì người Phi-li-tinh đã
tự bảo: "Không thể để bọn Híp-ri chế tạo gươm hay giáo.” 20 Toàn
thể người Ít-ra-en xuống chỗ người Phi-li-tinh để rèn, người thì lưỡi cày, kẻ
thì cái cuốc, cái rìu hay cái đục. 21 Giá tiền công là hai chỉ bạc
cho lưỡi cày và cái cuốc, một chỉ bạc để mài rìu và sửa gậy thúc bò. 22 Vì
vậy trong ngày giao tranh, không tìm được một cây gươm cây giáo ở tay người nào
thuộc đám quân binh đang ở với vua Sa-un và ông Giô-na-than. Chỉ vua Sa-un và
ông Giô-na-than, con vua, mới có.
23
Người
Phi-li-tinh ra đóng đồn trên ải Mích-mát.
Chương 14
Ông
Giô-na-than tấn công đồn Phi-li-tinh
1
Một
hôm, ông Giô-na-than, con vua Sa-un, bảo người hầu cận: "Nào đi, ta sang
đồn người Phi-li-tinh ở bên kia." Nhưng ông không báo cho cha ông biết. 2
Vua Sa-un bấy giờ đang ngồi ở ranh giới Ghíp-a, dưới cây lựu ở Mích-rôn,
và đám quân binh đang ở với vua khoảng sáu trăm người. 3 Ông
A-khi-gia, con ông A-khi-túp, lúc ấy mang ê-phốt; ông A-khi-túp là anh ông
I-kha-vót; ông I-kha-vót là con ông Pin-khát; ông Pin-khát là con ông Ê-li, tư
tế của Ðức Chúa ở Si-lô. Quân binh không biết là ông Giô-na-than đã đi.
4
Trên
những ải mà ông Giô-na-than tìm cách vượt qua để tới đồn Phi-li-tinh, có hai
đỉnh đá nhọn, một đỉnh bên này, một đỉnh bên kia; một đỉnh tên là Bô-xét, một
đỉnh tên là Xen-ne; 5 một đỉnh đứng phía bắc, đối diện với Mích-mát,
một đỉnh đứng phía nam, đối diện với Ghe-va. 6 Ông Giô-na-than bảo
người hầu cận: "Nào ta sang phía đồn bọn không cắt bì kia. Biết đâu Ðức
Chúa sẽ hành động giúp ta, vì không gì ngăn cản Ðức Chúa cứu, dù số người nhiều
hay ít.” 7 Người hầu cận nói: "Ông nghĩ gì trong lòng thì hãy
làm như vậy. Ông cứ đi, tôi đây xin một lòng theo ông.” 8 Ông
Giô-na-than nói: "Này ta sang phía bọn người ấy, và sẽ để chúng thấy ta. 9
Nếu chúng bảo: "Ðứng lại! Ðợi chúng tao đến chỗ chúng mày đã",
thì ta sẽ đứng tại chỗ và sẽ không lên phía chúng. 10 Nhưng nếu
chúng bảo: "Lên đây với chúng tao! , thì ta sẽ lên, vì Ðức Chúa đã trao
chúng vào tay ta. Ðó là dấu hiệu cho ta.” 11 Vậy cả hai người để đồn
Phi-li-tinh thấy mình. Người Phi-li-tinh nói: "Kìa bọn Híp-ri đang chui ra
khỏi hang hốc chúng trốn.” 12 Những người trong đồn nói với ông
Giô-na-than và người hầu cận: "Lên đây với chúng tao, chúng tao sẽ cho
chúng mày biết tay!" Ông Giô-na-than nói với người hầu cận: "Hãy lên
theo tôi, vì Ðức Chúa đã trao chúng vào tay Ít-ra-en.” 13 Ông
Giô-na-than dùng cả tay cả chân mà leo lên, còn người hầu cận thì theo sau.
Chúng ngã gục trước mặt ông Giô-na-than, và người hầu cận đằng sau ông kết liễu
đời chúng. 14 Ðòn đầu tiên mà ông Giô-na-than và người hầu cận giáng
xuống, đã giết chừng hai mươi người, trên diện tích bằng nửa luống cày của một
sào đất.
Cuộc
chiến lan rộng
15
Sự
kinh hãi lan rộng khắp nơi: trong trại, ngoài đồng và trong toàn dân. Ðồn binh
và đạo quân tiễu trừ cũng kinh hãi. Ðất rung chuyển và đó là một sự kinh hãi
Thiên Chúa gieo xuống. 16 Lính canh của vua Sa-un tại Ghíp-a thuộc
Ben-gia-min quan sát và thấy đám đông chạy tán loạn. 17 Vua Sa-un
nói với dân đang ở với mình: "Hãy điểm quân và xem ai đã bỏ đây mà
đi." Họ điểm quân và thấy thiếu ông Giô-na-than và người hầu cận của ông.
18
Vua
Sa-un nói với ông A-khi-gia: "Hãy đem Hòm Bia Thiên Chúa lại gần", vì
hồi ấy Hòm Bia Thiên Chúa ở với con cái Ít-ra-en. 19 Ðang khi vua
Sa-un nói với tư tế thì trại Phi-li-tinh mỗi lúc một thêm náo động. Vua Sa-un
nói với tư tế: "Rút tay lại!” 20 Vua Sa-un và tất cả quân binh
đang ở với vua tập hợp lại và ra chiến trường: kìa chúng rút gươm chém nhau và
vô cùng hoảng sợ. 21 Những người Híp-ri trước đó đã theo người
Phi-li-tinh và lên trại với chúng, cũng trở mặt mà theo người Ít-ra-en đang ở
với vua Sa-un và ông Giô-na-than. 22 Tất cả những người Ít-ra-en đã
trốn lên núi Ép-ra-im, nghe tin người Phi-li-tinh chạy trốn, cũng đuổi theo sát
gót mà đánh. 23 Ngày ấy Ðức Chúa đã cứu Ít-ra-en.
Ông
Giô-na-than vi phạm một lệnh cấm của vua Sa-un
Cuộc
giao tranh vượt quá Bết A-ven. 24 Ngày đó người Ít-ra-en mệt lử, vì
vua Sa-un đã ràng buộc dân bằng lời thề nguyền sau đây: "Khốn cho kẻ nào
ăn gì từ bây giờ cho đến chiều, trước khi ta trả thù xong các kẻ thù của
ta!" Toàn dân không ai nếm một chút gì.
25
Toàn
dân trong xứ vào rừng. Trên mặt đất có mật ong. 26 Dân vào rừng, và
kìa có mật ong đang chảy; nhưng không ai dám nhúng tay vào đưa lên miệng, vì
dân sợ lời thề. 27 Ông Giô-na-than đã không nghe thấy cha ông bắt
dân thề. Ông nhúng đầu cây gậy đang cầm trong tay vào tầng mật ong rồi đưa tay
lên miệng; mắt ông liền sáng ra. 28 Bấy giờ một người trong dân lên
tiếng nói: "Cha ông đã long trọng bắt dân thề và nói: "Khốn cho kẻ
nào ăn gì hôm nay. Và dân đã kiệt sức.” 29 Ông Giô-na-than nói:
"Cha tôi đã gây tai hoạ cho xứ sở. Anh em coi: mắt tôi sáng ra vì tôi đã
nếm chút mật này. 30 Giả như hôm nay dân đã được ăn phần chiến lợi
phẩm tìm thấy nơi quân thù, thì có phải là đòn giáng xuống người Phi-li-tinh đã
mạnh hơn không?"
Dân
phạm lỗi về nghi thức
31
Hôm
ấy họ đánh người Phi-li-tinh từ Mích-mát đến Ai-gia-lôn. Dân đã kiệt sức, 32
nên xông vào lấy chiến lợi phẩm: họ bắt chiên dê, bò bê, giết ngay trên
đất và ăn thịt có máu. 33 Người ta báo tin cho vua Sa-un rằng:
"Kìa dân đang phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa là ăn thịt có máu." Vua
nói: "Các người đã phản bội. Hãy lập tức vần đến cho ta một tảng đá lớn!” 34
Vua Sa-un nói: "Hãy chia nhau đi đến với dân và bảo họ mỗi người
phải đem lại cho ta con bò hay con chiên, con dê của mình. Các người phải giết nó
ở đây và ăn thịt, và đừng phạm tội nghịch cùng Ðức Chúa là ăn thịt có
máu." Ðêm ấy, toàn dân mỗi người đem đến con bò họ có trong tay và họ giết
tại đó. 35 Vua Sa-un dựng một bàn thờ để kính Ðức Chúa: đó là bàn
thờ đầu tiên ông dựng để kính Ðức Chúa.
Ông
Giô-na-than có lỗi nhưng được dân cứu
36
Vua
Sa-un nói: "Chúng ta hãy xuống đuổi theo người Phi-li-tinh ban đêm, và hãy
cướp phá chúng cho đến khi trời sáng, đừng để cho một tên nào sống sót."
Họ nói: "Ðiều ngài cho là tốt, xin ngài cứ làm." Vị tư tế nói:
"Chúng ta hãy lại gần Thiên Chúa, ngay tại chỗ này.” 37 Vua
Sa-un thỉnh ý Thiên Chúa: "Con có nên xuống đuổi theo người Phi-li-tinh
không? Ngài có trao chúng vào tay người Ít-ra-en không?" Nhưng ngày hôm ấy
Người không trả lời vua. 38 Vua Sa-un nói: "Tất cả các cột trụ
của dân, hãy lại gần đây, hãy xem xét cho kỹ tội của ngày hôm nay là ở chỗ nào.
39 Có Ðức Chúa hằng sống, Ðấng cứu Ít-ra-en! Dù là chính
Giô-na-than, con ta, thì chắc chắn nó cũng sẽ phải chết." Toàn dân không
có ai trả lời vua. 40 Vua nói với toàn thể Ít-ra-en: "Các người
hãy ở một bên, còn ta và Giô-na-than, con ta, sẽ ở một bên." Toàn dân nói
với vua Sa-un: "Ðiều ngài coi là tốt, xin ngài cứ làm."
41
Vua
Sa-un thưa với Ðức Chúa: "Lạy Thiên Chúa của Ít-ra-en, xin cho biết đầy
đủ." Ông Giô-na-than và vua Sa-un bị trúng thăm, còn dân thì thoát. 42
Vua Sa-un nói: "Hãy rút thăm giữa ta và Giô-na-than, con ta."
Ông Giô-na-than bị trúng thăm.
43
Vua
Sa-un bảo ông Giô-na-than: "Hãy kể cho cha biết con đã làm gì." Ông
Giô-na-than kể cho cha biết, ông nói: "Quả con đã có nếm chút mật ở đầu
chiếc gậy con cầm ở tay. Con đây, con sẵn sàng chết.” 44 Vua Sa-un
nói: "Xin Thiên Chúa phạt tôi thế này, và còn thêm thế kia nữa! ... Ðúng
chắc chắn con sẽ phải chết, Giô-na-than ơi!” 45 Dân nói với vua
Sa-un: "Sao? Ông Giô-na-than, người đã thực hiện cuộc chiến thắng vĩ đại
này trong Ít-ra-en, mà phải chết ư? Không đời nào! Có Ðức Chúa hằng sống. Không
một sợi tóc nào trên đầu Giô-na-than sẽ rụng xuống đất, vì hôm nay ông đã hành
động cùng với Thiên Chúa." Thế là dân đã giải thoát ông Giô-na-than và ông
không phải chết.
46
Vua
Sa-un đi lên, không đuổi theo người Phi-li-tinh nữa; còn người Phi-li-tinh thì
về xứ mình.
Tóm
tắt về triều đại vua Sa-un
47
Khi
vua Sa-un nắm được vương quyền cai trị Ít-ra-en, vua giao chiến với mọi kẻ thù
tứ phía: với Mô-áp, với con cái Am-mon, với Ê-đôm, với các vua Xô-va, với người
Phi-li-tinh; quay về phía nào, vua cũng thắng. 48 Vua biểu dương sức
mạnh, đánh người A-ma-lếch và giải thoát Ít-ra-en khỏi tay kẻ cướp phá họ.
49
Các
con trai vua Sa-un là ông Giô-na-than, ông Gít-vi và ông Man-ki Su-a; còn các
con gái vua, thì cô chị tên là Mê-ráp, cô em tên là Mi-khan. 50 Vợ
vua Sa-un tên là A-khi-nô-am, con gái ông A-khi-ma-át. Tướng chỉ huy quân đội
của vua tên là Áp-ne, con ông Ne, ông này là chú vua Sa-un. 51 Ông
Kít, cha vua Sa-un, và ông Ne, cha ông Áp-ne, đều là con ông A-vi-ên.
52
Suốt
đời vua Sa-un, luôn có chiến tranh kịch liệt với người Phi-li-tinh. Hễ thấy ai
là dũng sĩ hay người can đảm, thì vua Sa-un đều thu dụng.
Chương 15
Thánh
chiến chống người A-ma-lếch
1
Ông
Sa-mu-en nói với vua Sa-un: "Tôi đã được Ðức Chúa sai đến xức dầu tấn
phong ngài làm vua cai trị dân Người là Ít-ra-en. Giờ đây ngài hãy nghe những
lời Ðức Chúa phán. 2 Ðức Chúa các đạo binh phán thế này: Ta sắp hạch
tội A-ma-lếch về cách nó đã đối xử với Ít-ra-en khi chặn đường Ít-ra-en đang từ
Ai-cập lên. 3 Giờ đây, ngươi hãy đi đánh A-ma-lếch. Các ngươi phải
tru hiến tất cả những gì thuộc về nó. Ngươi không được tha chết cho nó. Ngươi
phải giết từ đàn ông đến đàn bà, từ nhi đồng đến trẻ con đang bú, từ bò đến
chiên dê, từ lạc đà đến lừa."
4
Vua
Sa-un triệu tập dân và duyệt binh tại Tơ-la-im: hai trăm ngàn bộ binh và mười
ngàn người Giu-đa. 5 Vua Sa-un đến thành của A-ma-lếch và mai phục
trong thung lũng. 6 Vua Sa-un nói với người Kê-ni: "Các người
hãy đi, hãy ly khai, hãy bỏ hàng ngũ người A-ma-lếch, kẻo ta cũng coi các người
như bọn chúng, vì các người đã lấy tình mà đối xử với toàn thể con cái Ít-ra-en
khi họ ra khỏi Ai-cập." Người Kê-ni liền ly khai hàng ngũ A-ma-lếch.
7
Vua
Sa-un đã đánh A-ma-lếch từ Kha-vi-la cho đến Sua, 8 bắt sống A-gác,
vua A-ma-lếch, và dùng lưỡi gươm mà tru hiến toàn dân. 9 Nhưng vua
Sa-un và toàn dân đã tha chết cho A-gác, cho những con tốt nhất trong đoàn
chiên dê và bò, các con mập, các chiên con và tất cả những gì tốt; họ không
muốn tru hiến chúng. Còn tất cả các con vật xấu xí và vô giá trị, thì họ đã tru
hiến.
Vua
Sa-un bị Ðức Chúa từ bỏ
10
Có
lời Ðức Chúa phán với ông Sa-mu-en rằng: 11 "Ta hối hận đã đặt
Sa-un làm vua, vì nó đã bỏ không theo Ta và không thi hành các lệnh của
Ta." Ông Sa-mu-en buồn bực, và suốt đêm ông kêu lên Ðức Chúa.
12
Sáng
hôm sau, ông Sa-mu-en dậy sớm để đi gặp vua Sa-un. Người ta báo tin cho ông
Sa-mu-en rằng: "Vua Sa-un đã đi Các-men, đã dựng một đài kỷ niệm, rồi bỏ nơi
đó, đi xa hơn, và xuống Ghin-gan.” 13 Ông Sa-mu-en đến với vua
Sa-un. Vua Sa-un nói: "Xin Ðức Chúa chúc phúc cho ông. Tôi đã thi hành
lệnh của Ðức Chúa.” 14 Ông Sa-mu-en nói: "Thế thì tiếng chiên
dê bên tai tôi và tiếng bò rống tôi nghe là gì vậy?” 15 Vua Sa-un
trả lời: "Người ta đã đưa chúng từ nơi người A-ma-lếch về, vì dân đã tha
chết cho những con tốt nhất trong đàn chiên dê và bò, để làm hy lễ dâng Ðức
Chúa, Thiên Chúa của ông; những con còn lại, chúng tôi đã tru hiến."
16
Ông
Sa-mu-en nói với vua Sa-un: "Thôi! Tôi sẽ báo cho ngài biết điều Ðức Chúa
đã phán với tôi đêm qua." Vua Sa-un bảo: "Xin ông cứ nói.” 17 Ông
Sa-mu-en nói: "Dù ngài tự coi mình là nhỏ bé, ngài chẳng phải là đầu của
các chi tộc Ít-ra-en sao? Ðức Chúa đã xức dầu phong ngài làm vua cai trị
Ít-ra-en. 18 Ðức Chúa đã sai ngài lên đường và phán: "Hãy đi,
ngươi phải tru hiến quân tội lỗi là bọn A-ma-lếch ấy, và phải giao chiến với
chúng cho đến khi tận diệt chúng. 19 Tại sao ngài đã không nghe theo
tiếng Ðức Chúa? Tại sao ngài đã xông vào lấy chiến lợi phẩm và làm điều dữ trái
mắt Ðức Chúa?” 20 Vua Sa-un nói với ông Sa-mu-en: "Tôi đã nghe
theo tiếng Ðức Chúa. Tôi đã đi theo con đường Ðức Chúa sai tôi đi. Tôi đã đưa
A-gác, vua A-ma-lếch, về và đã tru hiến A-ma-lếch. 21 Trong số chiến
lợi phẩm là chiên dê và bò, trong số những vật bị tru hiến, dân đã lấy những
con tốt nhất để làm hy lễ dâng Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, tại
Ghin-gan."
22
Ông
Sa-mu-en nói:
"Ðức
Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ
như
ưa thích người ta vâng lời Ðức Chúa không?
Này,
vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ,
lắng
nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu.
23
Phản
nghịch cũng có tội như bói toán,
ngoan
cố là tội ác giống như thờ ngẫu tượng.
Bởi
vì ngài đã gạt bỏ lời của Ðức Chúa,
nên
Người đã gạt bỏ ngài, không cho làm vua nữa."
Vua
Sa-un xin tha thứ nhưng không được
24
Vua
Sa-un nói với ông Sa-mu-en: "Tôi đã phạm tội, vì đã vi phạm lệnh Ðức Chúa
và các lời của ông. Lý do là vì tôi đã sợ dân và nghe theo tiếng họ. 25 Giờ
đây, xin ông vui lòng tha tội cho tôi và trở lại cùng với tôi, để tôi phục
xuống lạy Ðức Chúa.” 26 Ông Sa-mu-en trả lời vua Sa-un: "Tôi sẽ
không trở lại cùng với ngài, vì ngài đã gạt bỏ lời Ðức Chúa; Ðức Chúa đã gạt bỏ
ngài, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa.” 27 Khi ông Sa-mu-en
quay mặt để đi thì vua Sa-un níu vạt áo khoác của ông và áo bị giật rách. 28
Ông Sa-mu-en nói với vua: "Hôm nay Ðức Chúa đã giật vương quyền
Ít-ra-en ra khỏi ngài và đã ban cho một người khác tốt hơn ngài. 29 Ðấng
là Vinh Dự của Ít-ra-en không lừa dối cũng không hối hận, vì Người đâu phải là
con người để mà hối hận.” 30 Vua nói: "Tôi đã phạm tội, nhưng
giờ đây xin ông kính trọng tôi trước mặt các kỳ mục trong dân của tôi và trước
mặt Ít-ra-en. Xin ông trở lại cùng với tôi để tôi phục xuống lạy Ðức Chúa,
Thiên Chúa của ông.” 31 Ông Sa-mu-en trở lại, theo sau vua Sa-un, và
vua Sa-un đã phục xuống lạy Ðức Chúa.
Vua
A-gác bị giết. Ông Sa-mu-en ra đi.
32
Ông
Sa-mu-en nói: "Hãy đem A-gác, vua A-ma-lếch lại cho tôi." A-gác vui
vẻ đến với ông và nói: "Hẳn là ta thoát được cái chết cay đắng.” 33 Ông
Sa-mu-en nói:
"Cũng
như gươm của ngươi đã cướp con của những người đàn bà,
thì
giữa các người đàn bà,
mẹ
ngươi cũng sẽ bị cướp con như vậy!"
Rồi
ông Sa-mu-en xé xác A-gác trước nhan Ðức Chúa, tại Ghin-gan.
34
Ông
Sa-mu-en đi Ra-ma, còn vua Sa-un lên nhà mình tại Ghíp-a, thành của vua Sa-un. 35
Cho đến chết, ông Sa-mu-en không gặp lại vua Sa-un nữa: ông Sa-mu-en khóc
thương vua Sa-un, vì Ðức Chúa hối hận đã đặt Sa-un làm vua cai trị Ít-ra-en.
Chương 16
III.
Vua Sa-Un Và Ông Ða-Vít
1.
Ông Ða-Vít Trong Triều Ðình
Ông
Ða-vít được xức dầu phong vương
1
Ðức
Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ,
khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu
đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã
thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua.” 2 Ông
Sa-mu-en thưa: "Con đi thế nào được? Vua Sa-un mà nghe biết thì vua sẽ
giết con! " Ðức Chúa phán: "Ngươi hãy đem theo một con bò cái tơ và
hãy nói: "Tôi tới đây là để dâng hy lễ lên Ðức Chúa. 3 Ngươi sẽ
mời Gie-sê đến dự hy lễ; phần Ta, Ta sẽ cho ngươi biết điều ngươi phải làm, và
ngươi sẽ xức dầu tấn phong cho Ta kẻ Ta sẽ nói cho ngươi hay."
4
Ông
Sa-mu-en làm điều Ðức Chúa đã phán; ông đến Bê-lem và các kỳ mục trong thành
run sợ ra đón ông. Họ nói: "Ông đến có phải là để đem bình an không?” 5
Ông trả lời: "Bình an! Tôi tới đây là để dâng hy lễ lên Ðức Chúa.
Các ông hãy thanh tẩy mình và đến dự hy lễ với tôi." Ông thanh tẩy ông
Gie-sê và các con trai ông ấy và mời họ đến dự hy lễ.
6
Khi
họ đến, ông thấy Ê-li-áp, ông nghĩ: "Ðúng rồi! Người Ðức Chúa xức dầu tấn
phong đang ở trước mặt Ðức Chúa đây!” 7 Nhưng Ðức Chúa phán với ông
Sa-mu-en: "Ðừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã
gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều
mắt thấy, còn Ðức Chúa thì thấy tận đáy lòng.” 8 Ông Gie-sê gọi
A-vi-na-đáp và cho cậu đi qua trước mặt Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói:
"Cả người này, Ðức Chúa cũng không chọn.” 9 Ông Gie-sê cho
Sa-ma đi qua, nhưng ông Sa-mu-en nói: "Cả người này, Ðức Chúa cũng không
chọn.” 10 Ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông
Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: "Ðức Chúa không chọn
những người này.” 11 Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê: "Các con ông
có mặt đầy đủ chưa?" Ông Gie-sê trả lời: "Còn cháu út nữa, nó đang
chăn chiên." Ông Sa-mu-en liền nói với ông Gie-sê: "Xin ông cho người
đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó tới đây.” 12 Ông
Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt
xinh xắn. Ðức Chúa phán với ông Sa-mu-en: "Ðứng dậy, xức dầu tấn phong nó
đi! Chính nó đó!” 13 Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở
giữa các anh của cậu. Thần khí Ðức Chúa nhập vào Ða-vít từ ngày đó trở đi. Ông
Sa-mu-en đứng dậy và đi Ra-ma.
Ông
Ða-vít vào phục vụ vua Sa-un
14
Thần
khí Ðức Chúa rời khỏi vua Sa-un và một thần khí xấu từ Ðức Chúa đến ám vua. 15
Triều thần nói với vua Sa-un: "Ngài thấy đó, một thần khí xấu của
Thiên Chúa ám ngài. 16 Xin ngài truyền. Bề tôi của ngài đang ở trước
mặt ngài: họ sẽ tìm một người biết gảy đàn, và khi thần khí xấu của Thiên Chúa
xuống trên ngài, thì người ấy sẽ gảy đàn và ngài sẽ cảm thấy dễ chịu.” 17 Vua
Sa-un nói với triều thần: "Các người hãy đi tìm cho ta một tay gảy đàn
giỏi và đưa đến cho ta.” 18 Một người trong đám gia nhân thưa rằng:
"Tôi biết ông Gie-sê người Bê-lem, có một người con trai biết gảy đàn. Anh
ta là một dũng sĩ can đảm, một chiến binh, một người có tài ăn nói, đẹp trai,
và Ðức Chúa ở với anh.” 19 Vua Sa-un sai sứ giả đến với ông Gie-sê
và nói với ông: "Ngươi hãy gửi cho ta Ða-vít, con ngươi, đứa chăn chiên.” 20
Ông Gie-sê bắt một con lừa, cho chở bánh, một bầu da rượu, và một con dê
con, rồi sai Ða-vít, con ông, mang đến cho vua Sa-un. 21 Ða-vít đến
với vua Sa-un và chầu chực trước mặt vua. Vua thương cậu lắm và cậu trở thành
người hầu cận của vua. 22 Vua Sa-un sai người đến nói với ông
Gie-sê: "Hãy để Ða-vít chầu chực trước mặt ta, vì nó được đẹp lòng ta.” 23
Như vậy, khi thần khí Thiên Chúa xuống trên vua Sa-un, thì Ða-vít cầm đàn
và gảy. Bấy giờ vua Sa-un nguôi bệnh, cảm thấy dễ chịu, và thần khí xấu rời
khỏi vua.
Chương 17
Go-li-át
thách thức quân đội Ít-ra-en
1
Người
Phi-li-tinh tập trung quân đội để giao chiến. Chúng tập trung ở Xô-khô thuộc
Giu-đa và đóng trại giữa Xô-khô và A-dê-ca, tại E-phét Ðam-mim. 2 Vua
Sa-un và người Ít-ra-en cũng tập trung, đóng trại trong thung lũng Cây Vân
Hương, và dàn trận đối diện với người Phi-li-tinh. 3 Người
Phi-li-tinh đứng trên núi bên này, còn người Ít-ra-en đứng trên núi bên kia,
giữa họ là thung lũng.
4
Một
đấu thủ từ doanh trại Phi-li-tinh tiến ra. Tên nó là Go-li-át, người thành Gát.
Nó cao khoảng ba thước, 5 đầu đội mũ chiến bằng đồng, mình mặc áo
giáp vảy cá; áo giáp ấy bằng đồng, nặng năm mươi ký. 6 Chân nó mang
tấm che bằng đồng, vai đeo cây lao bằng đồng. 7 Cán giáo của nó như
trục khung cửi thợ dệt; và mũi giáo của nó bằng sắt, nặng sáu ký. Ði trước mặt
nó là người mang thuẫn.
8
Nó
đứng lại và gọi hàng ngũ Ít-ra-en. Nó bảo họ: "Sao chúng bay ra dàn trận?
Ta đây chẳng phải là người Phi-li-tinh, còn chúng bay chẳng phải là bề tôi
Sa-un sao? Hãy chọn lấy một người và nó hãy xuống đây với ta. 9 Nếu
nó đủ mạnh để chiến đấu với ta và hạ được ta, thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng
bay. Còn nếu ta mạnh hơn nó và hạ được nó, thì chúng bay sẽ làm nô lệ chúng tao
và sẽ hầu hạ chúng tao.” 10 Tên Phi-li-tinh lại nói: "Ta đây,
hôm nay ta thách hàng ngũ Ít-ra-en: Hãy đưa ra cho ta một người, để chiến đấu
tay đôi!” 11 Khi vua Sa-un và toàn thể Ít-ra-en nghe tên Phi-li-tinh
nói những lời ấy thì họ kinh khiếp sợ hãi lắm.
Ông
Ða-vít đến trại
12
Ða-vít
là con một người Ép-ra-tha ở Bê-lem thuộc Giu-đa; ông này tên là Gie-sê và có
tám người con trai. Thời vua Sa-un, ông đã già và giữa người ta, ông là người
có tuổi. 13 Ba con trai lớn của ông Gie-sê đã ra đi; họ đi theo vua
Sa-un để đánh giặc. Ba con trai của ông đã đi đánh giặc tên là: Ê-li-áp, trưởng
nam, A-vi-na-đáp, thứ hai, và Sam-ma, thứ ba. 14 Ða-vít là người nhỏ
nhất, ba anh lớn đã đi theo vua Sa-un. 15 Ða-vít đi đi về về từ chỗ
vua Sa-un đến Bê-lem, để chăn chiên cho cha. 16 Sáng nào chiều nào
tên Phi-li-tinh cũng tiến ra và đứng như thế suốt bốn mươi ngày. 17 Ông
Gie-sê bảo Ða-vít, con ông: "Con mang cho các anh con hai thùng gié lúa
rang với mười cái bánh này, và chạy đến trại các anh con. 18 Còn
mười miếng bánh sữa này thì con đưa cho viên chỉ huy ngàn quân. Con hãy hỏi
thăm sức khoẻ các anh và lấy một vật của các anh làm bằng. 19 Vua
Sa-un và các anh con, cũng như toàn thể các người Ít-ra-en, ở thung lũng Cây
Vân Hương, đang giao chiến với người Phi-li-tinh."
20
Sáng
hôm sau, Ða-vít dậy sớm, để chiên dê lại cho một người giữ, rồi khăn gói lên
đường như ông Gie-sê đã dạy. Cậu đến trại binh lúc quân đội đang ra trận và reo
hò giao chiến. 21 Người Ít-ra-en và người Phi-li-tinh dàn quân, trận
tuyến đối nhau. 22 Ða-vít để hành lý lại, giao cho người giữ đồ, rồi
chạy ra trận tuyến, đến vấn an các anh.
23
Cậu
còn đang nói với họ, thì kìa từ trận tuyến Phi-li-tinh, tên đấu thủ tiến lên,
nó là Go-li-át, người Phi-li-tinh, quê ở Gát. Nó nói những lời như trước và
Ða-vít nghe thấy. 24 Vừa thấy tên đó, mọi người Ít-ra-en trốn xa nó
và sợ hãi lắm. 25 Một người Ít-ra-en nói: "Anh em có thấy người
đang tiến lên đó không? Nó tiến lên là để thách thức Ít-ra-en đấy. Ai mà hạ được
nó thì nhà vua sẽ cho của cải dư dật, sẽ gả con gái cho và sẽ cho gia đình
người ấy được miễn sưu thuế tại Ít-ra-en.” 26 Ða-vít hỏi những người
đang đứng với cậu rằng: "Người ta sẽ làm gì cho kẻ hạ được tên Phi-li-tinh
ấy và cất nỗi ô nhục khỏi Ít-ra-en? Thật vậy, tên Phi-li-tinh không cắt bì kia
là ai mà dám thách thức hàng ngũ của Thiên Chúa Hằng Sống?” 27 Dân
trả lời cậu như trên, họ nói: "Người ta sẽ làm như thế cho kẻ hạ được
nó."
28
Ê-li-áp,
anh cả của cậu, nghe thấy cậu nói chuyện với những người ấy. Ê-li-áp nổi giận
với Ða-vít và nói: "Mày xuống đây làm gì? Mày bỏ mấy con chiên kia trong
sa mạc cho ai? Tao, tao biết mày hỗn láo và xấu bụng: mày xuống chỉ để xem đánh
nhau!” 29 Ða-vít trả lời: "Em có làm gì đâu? Nói chuyện cũng
không được sao?” 30 Cậu bỏ anh đến với người khác, và cũng hỏi như
thế. Người ta cũng trả lời như trước. 31 Người ta đã nghe các lời
Ða-vít nói và thuật lại cho vua Sa-un. Vua cho gọi Ða-vít đến.
Ông
Ða-vít tình nguyện nhận lời thách thức
32
Ða-vít
nói với vua Sa-un: "Ðừng ai ngã lòng vì nó. Tôi tớ ngài đây sẽ đi chiến
đấu với tên Phi-li-tinh ấy.” 33 Vua Sa-un nói với Ða-vít: "Con
không thể đến với tên Phi-li-tinh ấy để chiến đấu với nó, vì con chỉ là một đứa
trẻ, còn nó là một chiến binh từ khi còn trẻ."
34
Ða-vít
thưa với vua Sa-un: "Tôi tớ ngài là người chăn chiên dê cho cha. Khi sư tử
hay gấu đến tha đi một con chiên trong bầy gia súc, 35 thì con ra
đuổi theo nó, đánh nó và giật con chiên khỏi mõm nó. Nó mà chồm lên con, thì
con nắm lấy râu nó, đánh cho nó chết. 36 Tôi tớ ngài đã đánh cả sư
tử lẫn gấu, thì tên Phi-li-tinh không cắt bì này cũng sẽ như một trong các con
vật đó, vì nó đã thách thức các hàng ngũ của Thiên Chúa hằng sống.” 37 Ða-vít
nói: "Ðức Chúa là Ðấng đã giật con khỏi vuốt sư tử và vuốt gấu, chính
Người sẽ giật con khỏi tay tên Phi-li-tinh này." Vua Sa-un nói với Ða-vít:
"Con hãy đi, xin Ðức Chúa ở với con!” 38 Vua Sa-un lấy y phục
của mình mặc cho Ða-vít, đội mũ chiến bằng đồng lên đầu và mặc áo giáp cho cậu.
39 Ða-vít đeo gươm của vua ngoài y phục rồi thử bước đi, vì cậu
không quen. Ða-vít nói với vua Sa-un: "Con không thể bước đi với những thứ
này được, vì con không quen." Rồi Ða-vít bỏ những thứ đó ra.
Cuộc
chiến tay đôi
40
Cậu
cầm gậy trong tay, chọn lấy năm hòn đá cuội dưới suối, bỏ vào túi chăn chiên,
vào bị của cậu, rồi tay cầm dây phóng đá, cậu tiến về phía tên Phi-li-tinh. 41
Tên Phi-li-tinh từ từ tiến lại gần Ða-vít, đi trước mặt nó là người mang
thuẫn. 42 Tên Phi-li-tinh nhìn, và khi thấy Ða-vít, nó khinh dể cậu,
vì cậu còn trẻ, có mái tóc hung và đẹp trai. 43 Tên Phi-li-tinh nói
với Ða-vít: "Tao là chó hay sao mà mầy cầm gậy đến với tao?" Và tên
Phi-li-tinh lấy tên các thần của mình mà nguyền rủa Ða-vít. 44 Tên
Phi-li-tinh nói với Ða-vít: "Ðến đây với tao, tao sẽ đem thịt mày làm mồi
cho chim trời và dã thú.” 45 Ða-vít bảo tên Phi-li-tinh: "Mày
mang gươm, mang giáo, cầm lao mà đến với tao. Còn tao, tao đến với mày nhân
danh Ðức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Ít-ra-en mà mày thách
thức. 46 Ngay hôm nay Ðức Chúa sẽ nộp mày vào tay tao, tao sẽ hạ mày
và làm cho đầu mày lìa khỏi thân. Ngay hôm nay tao sẽ đem xác chết của quân đội
Phi-li-tinh làm mồi cho chim trời và dã thú. Toàn cõi đất sẽ biết rằng có một
Thiên Chúa che chở Ít-ra-en, 47 và toàn thể đại hội này sẽ biết rằng
không phải nhờ gươm, nhờ giáo mà Ðức Chúa ban chiến thắng, vì chiến đấu là việc
của Ðức Chúa và Người sẽ trao chúng mày vào tay chúng tao!"
48
Khi
tên Phi-li-tinh bắt đầu xông lên và đến gần để đương đầu với Ða-vít, thì Ða-vít
vội vàng chạy từ trận tuyến ra để đương đầu với tên Phi-li-tinh. 49 Ða-vít
thọc tay vào bị, rút từ đó ra một hòn đá, rồi dùng dây phóng mà ném trúng vào
trán tên Phi-li-tinh. Hòn đá cắm sâu vào trán, khiến nó ngã sấp mặt xuống đất. 50
Thế là Ða-vít thắng tên Phi-li-tinh nhờ dây phóng và hòn đá. Cậu hạ tên
Phi-li-tinh và giết nó. Nhưng trong tay Ða-vít không có gươm. 51 Ða-vít
chạy lại, đứng trên xác tên Phi-li-tinh, lấy gươm của nó, rút khỏi bao, kết
liễu đời nó và dùng gươm chặt đầu nó.
Người
Phi-li-tinh thấy người hùng của mình đã chết thì chạy trốn. 52 Người
Ít-ra-en và Giu-đa xông lên, reo hò và đuổi theo người Phi-li-tinh cho đến lối
vào thung lũng và cho đến cửa thành Éc-rôn. Thây người Phi-li-tinh ngã gục trên
đường Sa-a-ra-gim, cho đến Gát và Éc-rôn. 53 Sau khi ráo riết đuổi
theo người Phi-li-tinh, con cái Ít-ra-en quay trở lại cướp phá trại chúng. 54
Ða-vít lấy đầu tên Phi-li-tinh và đem về Giê-ru-sa-lem; còn các vũ khí
của nó thì đặt trong lều mình.
Sau
khi chiến thắng, Ða-vít ra trình diện vua Sa-un
55
Khi
vua Sa-un thấy Ða-vít ra đương đầu với tên Phi-li-tinh, thì hỏi ông Áp-ne,
tướng chỉ huy quân đội: "Ðứa trẻ ấy là con ai, Áp-ne?" Ông Áp-ne trả
lời: "Thưa đức vua, tôi xin lấy mạng sống ngài mà thề, tôi không biết!” 56
Vua nói: "Hỏi xem thiếu niên ấy là con ai."
57
Lúc
Ða-vít trở về sau khi hạ tên Phi-li-tinh, ông Áp-ne đón cậu, dẫn cậu đến trước
mặt vua Sa-un, tay cậu xách cái đầu tên Phi-li-tinh. 58 Vua Sa-un
hỏi cậu: "Hỡi người thanh niên, con là con ai?" Ða-vít trả lời:
"Con là con của tôi tớ ngài là Gie-sê, người Bê-lem."
Chương 18
1
Ông
Ða-vít vừa nói với vua Sa-un xong thì tâm hồn ông Giô-na-than gắn bó với tâm
hồn ông Ða-vít, và ông Giô-na-than yêu mến ông như chính mình. 2 Hôm
ấy vua Sa-un giữ ông Ða-vít lại và không cho về nhà cha ông. 3 Ông
Giô-na-than lập giao ước với ông Ða-vít, vì ông yêu mến ông ấy như chính mình. 4
Ông Giô-na-than cởi chiếc áo khoác đang mặc mà cho ông Ða-vít, cho áo,
cho cả gươm, cả cung, cả thắt lưng của ông. 5 Khi ông Ða-vít ra
trận, mọi nơi vua Sa-un sai ông đi, ông đều thành công, và vua Sa-un đặt ông
chỉ huy các chiến binh. Ông vừa lòng toàn dân và cả triều thần vua Sa-un nữa.
Vua
Sa-un bắt đầu ghen tị
6
Lúc
quân dân đến, khi ông Ða-vít hạ được tên Phi-li-tinh trở về, thì phụ nữ từ hết
mọi thành của Ít-ra-en kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con,
với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. 7 Phụ nữ vui đùa ca hát rằng:
"Vua
Sa-un hạ được hàng ngàn,
ông
Ða-vít hàng vạn."
8
Vua
Sa-un giận lắm, và bực mình vì lời ấy. Vua nói: "Người ta cho Ða-vít hàng
vạn, còn ta thì họ cho hàng ngàn. Nó chỉ còn thiếu ngôi vua nữa thôi!” 9 Từ
ngày đó về sau, vua Sa-un nhìn Ða-vít với con mắt ghen tị.
10
Ngày
hôm sau, một thần khí xấu của Thiên Chúa nhập vào vua Sa-un, và vua lên cơn
xuất thần ngôn sứ ở giữa nhà. Ông Ða-vít đang gảy đàn như mọi ngày và vua Sa-un
cầm cây giáo trong tay. 11 Vua Sa-un phóng cây giáo và nói: "Ta
phải đâm Ða-vít, ghim nó vào tường mới được." Nhưng hai lần Ða-vít tránh
được.
12
Vua
Sa-un sợ ông Ða-vít, bởi vì Ðức Chúa ở với ông và đã rời khỏi vua Sa-un. 13
Vua Sa-un đẩy ông đi xa và đặt ông làm người chỉ huy ngàn quân. Ông dẫn
đầu dân. 14 Ông Ða-vít thành công trong mọi công việc và Ðức Chúa ở
với ông. 15 Thấy ông thành công lớn, vua Sa-un sợ ông. 16 Nhưng
toàn thể Ít-ra-en và Giu-đa mến ông Ða-vít, vì ông dẫn đầu họ.
Ông
Ða-vít cưới vợ
17
Vua
Sa-un nói với ông Ða-vít: "Ðây con gái lớn của ta là Mê-ráp, ta sẽ gả nó
cho con. Nhưng con hãy tỏ ra là một người can đảm phục vụ ta và hãy chiến đấu
những cuộc chiến của Ðức Chúa." Vua Sa-un tự bảo: "Mình đừng tự tay
hại nó, nhưng để tay người Phi-li-tinh hại nó.” 18 Ông Ða-vít-thưa
với vua Sa-un: "Con là gì, và dòng họ con, thị tộc của cha con là gì trong
Ít-ra-en, mà con được làm rể đức vua?” 19 Nhưng đến lúc phải gả cô
Mê-ráp, con gái vua Sa-un, cho ông Ða-vít, thì cô lại được gả cho ông Át-ri-ên,
người Mơ-khô-la.
20
Cô
Mi-khan, con gái vua Sa-un, yêu ông Ða-vít. Người ta cho vua hay và vua thấy
điều đó là phải. 21 Vua Sa-un tự bảo: "Mình sẽ gả con gái cho
nó, để con này thành cạm bẫy cho nó, và tay người Phi-li-tinh hại nó." Vậy
vua Sa-un nói với ông Ða-vít lần thứ hai: "Hôm nay con sẽ là rể của ta.” 22
Vua Sa-un ra lệnh cho triều thần: "Hãy nói nhỏ với Ða-vít rằng:
"Nhà vua có cảm tình với ông và triều thần ai cũng mến ông. Bây giờ ông
hãy làm rể nhà vua.” 23 Triều thần vua Sa-un nói lại những lời ấy
cho ông Ða-vít nghe. Ông Ða-vít nói: "Các ông coi chuyện làm rể nhà vua là
chuyện không đáng kể ư? Tôi, tôi chỉ là một người nghèo không đáng kể.” 24
Triều thần vua Sa-un thưa lại với vua rằng: "Ông Ða-vít đã nói những
lời như thế.” 25 Vua Sa-un nói: "Các ngươi hãy nói với
Ða-vít-thế này: Nhà vua không đòi sính lễ nào khác ngoài một trăm bao quy đầu
người Phi-li-tinh, để trả thù quân địch của nhà vua." Vua Sa-un tính dùng
tay người Phi-li-tinh mà hạ ông Ða-vít.
26
Triều
thần vua Sa-un thuật lại cho ông Ða-vít những lời ấy. Ông Ða-vít thấy chuyện
làm rể vua là phải. Chưa hết hạn, 27 ông Ða-vít đã lên đường, đi với
người của ông. Ông hạ hai trăm người Phi-li-tinh, rồi đem bao quy đầu của chúng
về, đếm đủ cho vua, để làm rể vua. Bấy giờ vua Sa-un gả cô Mi-khan, con gái
vua, cho ông Ða-vít.
28
Thấy
thế, vua Sa-un hiểu rằng Ðức Chúa ở với ông Ða-vít và cô Mi-khan, con vua, yêu
ông. 29 Vua Sa-un càng thêm sợ ông Ða-vít, và vua Sa-un trở thành kẻ
thù của ông Ða-vít suốt đời. 30 Các thủ lãnh người Phi-li-tinh ra
trận, nhưng mỗi khi chúng ra trận, thì ông Ða-vít thành công hơn mọi bề tôi vua
Sa-un, khiến danh tiếng ông lừng lẫy.
Chương 19
Ông
Giô-na-than can thiệp cho ông Ða-vít
1
Vua
Sa-un nói với ông Giô-na-than, con vua, và với toàn thể triều thần về ý định
giết ông Ða-vít. Nhưng ông Giô-na-than, con vua Sa-un, lại rất có cảm tình với
ông Ða-vít. 2 Ông Giô-na-than báo cho ông Ða-vít rằng: "Vua
Sa-un, cha tôi, đang tìm cách giết anh. Vậy sáng mai anh hãy coi chừng, hãy ở
nơi kín đáo và ẩn mình đi. 3 Phần tôi, tôi sẽ đi ra, sẽ đứng cạnh
cha tôi trong cánh đồng, nơi anh đang trốn, tôi sẽ nói với cha tôi về anh. Thấy
thế nào, tôi sẽ báo cho anh."
4
Ông
Giô-na-than nói tốt cho ông Ða-vít với vua Sa-un, cha mình; ông nói với vua:
"Xin đức vua đừng phạm tội hại tôi tớ ngài là Ða-vít, vì anh ấy đã không
phạm tội hại ngài, và các hành động của anh là điều rất lợi cho ngài. 5 Anh
đã liều mạng và hạ được tên Phi-li-tinh, và Ðức Chúa đã thắng lớn để bảo vệ
toàn thể Ít-ra-en. Ngài đã thấy và đã vui mừng. Vậy sao ngài lại phạm tội đổ
máu vô tội, mà vô cớ giết Ða-vít?” 6 Vua Sa-un nghe theo lời ông
Giô-na-than, và vua Sa-un thề rằng: "Có Ðức Chúa hằng sống, ta thề: nó sẽ
không bị giết.” 7 Ông Giô-na-than gọi ông Ða-vít đến và ông
Giô-na-than thuật lại tất cả những điều ấy; rồi ông Giô-na-than dẫn ông Ða-vít
đến với vua Sa-un, và ông Ða-vít lại phục vụ vua như trước.
2.
Ông Ða-Vít Trốn Ði
Vua
Sa-un toan sát hại ông Ða-vít
8
Chiến
tranh lại tái diễn, ông Ða-vít ra trận và chiến đấu với người Phi-li-tinh. Ông
đánh chúng một đòn đau và chúng chạy trốn trước mặt ông. 9 Một thần
khí xấu của Ðức Chúa xuống trên vua Sa-un. Vua đang ở trong nhà, tay cầm cây
giáo, còn ông Ða-vít đang gảy đàn. 10 Vua Sa-un tìm cách dùng cây
giáo ghim ông Ða-vít vào tường, nhưng ông này tránh được, và vua cắm cây giáo vào
tường. Ông Ða-vít chạy đi và trốn thoát đêm ấy.
Bà
Mi-khan cứu ông Ða-vít
11
Vua
Sa-un sai lính biệt phái đến nhà ông Ða-vít để canh chừng ông và sáng hôm sau
giết ông. Bà Mi-khan, vợ ông, báo cho ông rằng: "Nếu anh không thoát thân
đêm nay, thì ngày mai anh sẽ bị giết.” 12 Bà Mi-khan thả ông Ða-vít
xuống qua cửa sổ. Ông đi trốn và thoát được.
13
Bà
Mi-khan lấy tượng thần, đặt lên giường, để ở phía đầu một tấm lông dê, rồi lấy
áo phủ lên. 14 Vua Sa-un sai lính biệt phái đến bắt ông Ða-vít,
nhưng bà Mi-khan bảo họ: "Ông ấy đang bệnh.” 15 Vua Sa-un sai
lính biệt phái đến để xem ông Ða-vít ra sao; vua bảo họ: "Cứ để nó trên
giường mà khiêng lên cho ta, để ta giết nó.” 16 Lính biệt phái vào
thì thấy tượng thần trên giường, với tấm lông dê ở phía đầu! 17 Vua Sa-un nói
với bà Mi-khan: "Sao con đánh lừa cha như thế? Con đã để cho kẻ thù cha đi
và nó đã thoát được!" Bà Mi-khan thưa với vua Sa-un: "Anh ấy bảo con:
"Ðể cho anh đi, nếu không anh sẽ giết em!"
Vua
Sa-un đến tìm ông Ða-vít tại nhà ông Sa-mu-en
18
Sau
khi đã trốn đi và thoát được, ông Ða-vít đến với ông Sa-mu-en tại Ra-ma, và nói
hết cho ông này biết vua Sa-un đã đối xử với mình như thế nào. Rồi ông và ông
Sa-mu-en đến Nai-giốt. 19 Người ta báo cho vua Sa-un rằng: "Kìa
ông Ða-vít đang ở Nai-giốt thuộc Ra-ma.” 20 Vua Sa-un sai lính biệt
phái đến bắt ông Ða-vít. Họ thấy đoàn ngôn sứ đang lên cơn xuất thần ngôn sứ,
có ông Sa-mu-en đứng đầu. Thần khí Thiên Chúa xuống trên các lính biệt phái của
vua Sa-un, và cả những người này cũng lên cơn xuất thần ngôn sứ. 21 Người
ta báo cho vua Sa-un, vua lại sai các lính biệt phái khác đến, và cả những
người này cũng lên cơn xuất thần ngôn sứ. Vua lại sai nhóm lính biệt phái thứ
ba, và cả những người này cũng lên cơn xuất thần ngôn sứ.
22
Vua
liền đích thân đi Ra-ma và đến bể nước lớn tại Xe-khu. Vua hỏi rằng: "Ông
Sa-mu-en và Ða-vít ở đâu?" Người ta trả lời: "Ở Nai-giốt thuộc Ra-ma.”
23 Vua đi tới đó, tới Nai-giốt thuộc Ra-ma. Thần khí Thiên Chúa cũng
xuống trên vua, và vua vừa đi vừa lên cơn xuất thần ngôn sứ cho tới khi vua đến
Nai-giốt thuộc Ra-ma. 24 Cả vua cũng cởi áo ra, cả vua cũng lên cơn
xuất thần ngôn sứ trước mặt ông Sa-mu-en. Rồi cứ ở trần như vậy, vua ngã vật
xuống, nằm suốt ngày suốt đêm hôm ấy. Vì thế mới có câu: "Ông Sa-un mà
cũng ở trong số các ngôn sứ sao? "
Chương 20
Ông
Giô-na-than giúp ông Ða-vít trốn thoát
1
Ông
Ða-vít trốn khỏi Nai-giốt thuộc Ra-ma, và đến nói trước mặt ông Giô-na-than:
"Tôi đã làm gì, tôi có lỗi gì, có tội gì với cha anh, mà người lại tìm hại
mạng sống tôi?” 2 Ông Giô-na-than trả lời: "Không đời nào! Anh
sẽ không chết đâu! Anh xem: cha tôi không làm điều gì, lớn hay nhỏ, mà không
tiết lộ cho tôi. Vậy sao cha tôi lại giấu tôi điều này? Không có chuyện đó đâu!”
3 Ông Ða-vít nói lại và thề: "Cha anh thừa biết tôi được đẹp
lòng anh, nên đã tự bảo: "Giô-na-than không được biết điều này, kẻo nó
buồn phiền. Có Ðức Chúa hằng sống, có anh đang sống đó, tôi xin thề: giữa tôi
và cái chết chỉ còn một bước.” 4 Ông Giô-na-than nói với ông Ða-vít:
"Lòng anh muốn sao, tôi sẽ làm cho anh như vậy.” 5 Ông Ða-vít
trả lời ông Giô-na-than: "Mai là ngày đầu tháng, và tôi phải ngồi ăn với
đức vua. Anh sẽ để cho tôi đi và tôi sẽ ẩn ngoài đồng cho đến chiều ngày kia. 6
Nếu cha anh thấy vắng tôi, anh cứ nói: "Anh Ða-vít đã nài nẵng xin
phép con chạy về Bê-lem, thành của anh, vì ở đó có hy lễ hằng năm cho toàn thị
tộc. 7 Nếu người nói: "Tốt lắm", thì tôi tớ anh đây được
bình an. Nhưng nếu người nổi giận, thì anh nên biết rằng người đã quyết tâm làm
điều ác. 8 Xin anh lấy tình mà xử với tôi tớ anh đây, vì anh đã nhân
danh Ðức Chúa mà lập giao ước với tôi tớ anh. Nếu tôi có lỗi, thì chính anh hãy
giết tôi đi, chứ sao lại đưa tôi đến với cha anh?” 9 Ông Giô-na-than
nói: "Không đời nào anh được nghĩ thế! Vì nếu tôi biết rằng cha tôi đã
quyết tâm làm điều ác để hại anh, chẳng lẽ tôi lại không báo cho anh biết sao?”
10 Ông Ða-vít nói với ông Giô-na-than: "Ai sẽ báo cho tôi biết,
nếu cha anh trả lời anh cách cứng cỏi?"
11
Ông
Giô-na-than bảo ông Ða-vít: "Nào chúng ta ra ngoài đồng", và cả hai
ra ngoài đồng. 12 Ông Giô-na-than nói với ông Ða-vít: "Có Ðức
Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en chứng giám! Ngày mai ngày kia, vào giờ này, tôi
sẽ dò ý cha tôi. Nếu mọi sự tốt đẹp cho Ða-vít, mà bấy giờ tôi lại không sai
người đến tiết lộ cho anh, 13 thì xin Ðức Chúa phạt Giô-na-than thế
này, và còn thêm thế kia nữa! Còn nếu cha tôi muốn làm điều ác hại anh, thì tôi
sẽ tiết lộ cho anh, sẽ để cho anh đi, và anh sẽ đi bình an. Xin Ðức Chúa ở với
anh như đã ở với cha tôi! 14 Nếu tôi còn sống, thì xin anh lấy tình mà xử với
tôi như Ðức Chúa đòi hỏi. Còn nếu tôi chết, 15 thì xin anh đừng dứt
bỏ tình nghĩa với gia đình tôi mãi mãi, ngay cả khi Ðức Chúa loại bỏ các kẻ thù
của Ða-vít khỏi mặt đất, không sót một tên.” 16 Ông Giô-na-than lập
giao ước với nhà ông Ða-vít và nói: "Xin Ðức Chúa hỏi tội các kẻ thù của
Ða-vít!” 17 Ông Giô-na-than còn bắt ông Ða-vít thề, vì tình yêu của
ông đối với ông Ða-vít: thật vậy, ông yêu Ða-vít như yêu chính mình.
18
Ông
Giô-na-than bảo ông Ða-vít: "Mai là ngày đầu tháng, người ta sẽ thấy vắng
anh vì chỗ anh trống. 19 Ngày kia, anh sẽ xuống mau, sẽ đến chỗ anh
đã ẩn ngày xảy ra vụ đó và sẽ ngồi bên cạnh tảng đá E-den. 20 Còn
tôi, tôi sẽ bắn ba mũi tên về một phía, làm như nhắm vào một cái bia. 21 Tôi
sẽ sai người đầy tớ: "Ði tìm các mũi tên đi! Nếu tôi bảo người đầy tớ:
"Ðây này, các mũi tên ở đằng sau ngươi, nhặt đi! thì anh hãy đến: anh được
bình an, và không có gì cả. Có Ðức Chúa hằng sống, tôi xin thề. 22 Nhưng
nếu tôi nói với người thiếu niên thế này: "Kia kìa, các mũi tên ở đằng
trước ngươi! thì anh hãy đi, vì Ðức Chúa bảo anh đi. 23 Còn lời mà
tôi và anh, chúng ta đã nói với nhau, thì có Ðức Chúa chứng giám giữa tôi và
anh mãi mãi."
24
Vậy
ông Ða-vít ẩn ngoài đồng. Ðến ngày đầu tháng, nhà vua ngồi bàn dùng bữa. 25
Nhà vua ngồi chỗ mình, như mọi khi, ở chỗ gần vách. Ông Giô-na-than ngồi
đối diện. Ông Áp-ne ngồi bên cạnh vua Sa-un, còn chỗ ông Ða-vít thì trống. 26
Hôm đó, vua Sa-un không nói gì, vì vua tự bảo: "Ðó là chuyện tình
cờ. Nó không thanh sạch, hẳn nó không thanh sạch.” 27 Hôm sau ngày
đầu tháng, ngày thứ hai, chỗ ông Ða-vít vẫn trống. Vua Sa-un hỏi ông
Giô-na-than, con vua: "Tại sao cả hôm qua lẫn hôm nay, con trai ông Gie-sê
không đến dùng bữa?” 28 Ông Giô-na-than trả lời vua Sa-un: "Anh
Ða-vít đã nài nẵng xin phép con về Bê-lem. 29 Anh ấy đã nói:
"Xin để cho tôi đi, vì chúng tôi có hy lễ của thị tộc trong thành, và anh
tôi đã ra lệnh cho tôi về. Bây giờ nếu tôi được đẹp lòng anh, xin anh cho tôi
đi khỏi đây để về thăm các anh tôi. Vì thế anh ấy không đến bàn ăn của đức
vua."
30
Vua
Sa-un nổi cơn thịnh nộ với ông Giô-na-than, và vua nói với ông: "Thằng con
của mụ đàn bà hư thân mất nết kia! Tao lại không biết mày cặp kè với thằng con
trai lão Gie-sê, để mày phải nhục và con mẹ đã đẻ ra mày cũng phải nhục sao? 31
Thật vậy, bao lâu thằng con trai lão Gie-sê còn sống trên mặt đất, thì mày và
vương quyền của mày sẽ không vững đâu. Bây giờ hãy sai người đi bắt nó về đây
cho tao, vì nó đáng chết.” 32 Ông Giô-na-than thưa với vua Sa-un,
cha của ông, và nói: "Sao lại giết anh ấy? Anh ấy đã làm gì?” 33 Vua
Sa-un phóng cây giáo vào ông Giô-na-than, để đâm ông, và ông biết rằng cha ông
đã quyết định giết ông Ða-vít. 34 Nổi giận bừng bừng, ông
Giô-na-than đứng lên khỏi bàn ăn, và ngày thứ hai sau ngày đầu tháng đó, ông
không dùng bữa, vì ông buồn cho ông Ða-vít, bởi lẽ cha ông đã xử bất công với
ông ấy.
35
Sáng
hôm sau, ông Giô-na-than ra ngoài đồng, đến chỗ đã hẹn với ông Ða-vít, có một
đầy tớ nhỏ đi với ông. 36 Ông bảo đầy tớ: "Ngươi chạy đi tìm
những mũi tên ta bắn!" Người đầy tớ chạy đi, và ông bắn mũi tên sao cho
vượt qua nó. 37 Người đầy tớ đến chỗ mũi tên ông Giô-na-than vừa
bắn. Ông Giô-na-than kêu ở phía sau người đầy tớ, ông nói: "Mũi tên không
phải ở đằng trước ngươi sao"? 38 Ông Giô-na-than kêu ở phía sau: "Mau
lên, lẹ lên, đừng đứng lại!" Người đầy tớ của ông Giô-na-than lượm mũi tên
và đến với chủ. 39 Người đầy tớ không biết gì hết, chỉ có ông
Giô-na-than và ông Ða-vít biết sự việc.
40
Ông
Giô-na-than giao vũ khí cho người đầy tớ và bảo: "Ði mang về thành.” 41
Người đầy tớ về rồi, ông Ða-vít đứng dậy từ phía nam, sấp mặt xuống đất
ba lần, rồi hai ông hôn nhau và cùng khóc, cho đến khi ông Ða-vít nén được cơn
xúc động. 42 Ông Giô-na-than nói với ông Ða-vít: "Anh hãy đi
bình an, vì cả hai chúng ta đã nhân danh Ðức Chúa mà thề rằng: Ðức Chúa sẽ ở
giữa tôi và anh, giữa dòng dõi tôi và dòng dõi anh, mãi mãi!"
Chương 21
1
Ông
Ða-vít đứng dậy và ra đi, còn ông Giô-na-than thì trở về thành.
Ông
Ða-vít dừng lại ở Nốp
2
Ông
đến Nốp gặp tư tế A-khi-me-léc. Ông A-khi-me-léc run sợ ra đón ông Ða-vít và
hỏi ông: "Sao ông chỉ có một mình, không ai đi theo?” 3 Ông
Ða-vít nói với tư tế A-khi-me-léc: "Ðức vua đã giao cho tôi một nhiệm vụ
và bảo tôi: "Không ai được biết gì về sứ mệnh và nhiệm vụ ta giao cho
ngươi. Các đầy tớ thì tôi đã hẹn đến chỗ kia rồi. 4 Bây giờ ông có
sẵn gì không? Xin ông cho tôi năm cái bánh hay có gì cũng được.” 5 Tư
tế trả lời ông Ða-vít rằng: "Tôi không có sẵn bánh thường, chỉ có bánh
thánh hiến, miễn là các đầy tớ đã giữ mình, không gần gũi đàn bà."
6
Ông
Ða-vít trả lời tư tế rằng: "Phải, chúng tôi bị cấm không được gần gũi đàn
bà, như xưa nay, mỗi khi tôi ra trận: các đầy tớ đã giữ thân thể cho được
thánh. Ðây là một chuyến đi thường, nhưng quả thật hôm nay họ đã giữ thân thể
cho được thánh.” 7 Bấy giờ tư tế cho ông của thánh, vì ở đó không có
bánh nào khác ngoài bánh tiến, thứ bánh đặt trước nhan Ðức Chúa, mà người ta
lấy đi để đặt bánh nóng vào, trong ngày thay bánh.
8
Chính
hôm ấy, ở đó có một người trong các bề tôi vua Sa-un, bị giữ lại trước nhan Ðức
Chúa. Nó tên là Ðô-ếch, người Ê-đôm, và đứng đầu các người chăn chiên của vua
Sa-un.
9
Ông
Ða-vít nói với ông A-khi-me-léc: "Ông không có sẵn ở đây một cây giáo hay
một thanh gươm ư? Tôi đã không mang theo cả gươm lẫn vũ khí của tôi, vì việc
của đức vua quá khẩn cấp!” 10 Tư tế nói: "Có thanh gươm của tên
Go-li-át người Phi-li-tinh, ông đã hạ tại thung lũng Cây Vân Hương; thanh gươm
đó ở kia, bọc trong một áo choàng, đàng sau ê-phốt. Nếu ông muốn lấy, thì cứ
lấy, vì ngoài nó ra, ở đây không có gươm nào khác." Ông Ða-vít nói:
"Ðó là thanh gươm có một không hai. Ông hãy đưa cho tôi."
Ông
Ða-vít đến với người Phi-li-tinh
11
Ông
Ða-vít lên đường và ngày hôm đó trốn vua Sa-un. Ông đến gặp A-khít, vua thành
Gát. 12 Triều thần vua A-khít thưa với vua: "Tên này chẳng phải
là Ða-vít, vua xứ đó sao? Người ta đã chẳng múa nhảy hát mừng nó rằng:
"Vua
Sa-un hạ được hàng ngàn,
ông
Ða-vít hàng vạn"?"
13
Ông
Ða-vít suy nghĩ về những lời ấy, và sợ A-khít, vua thành Gát lắm. 14 Bấy
giờ ông giả dại trước mắt chúng, và trong tay chúng, ông làm bộ khùng: ông viết
nguệch ngoạc trên các cánh cửa và để dãi chảy xuống râu.
15
Vua
A-khít bảo triều thần: "Ðấy các ngươi thấy nó là một thằng điên. Tại sao
các ngươi lại đưa nó đến với ta? 16 Ta đâu thiếu người điên mà các ngươi còn
đưa tên này đến để nó làm thằng điên bên ta? Tên này mà lại vào nhà ta ư?
Chương 22
3.
Ông Ða-Vít Cầm Ðầu Một Bọn Thủ Hạ
Ông
Ða-vít bắt đầu cuộc sống nay đây mai đó
1
Ông
Ða-vít đi khỏi đó và trốn thoát vào hang A-đu-lam. Các anh ông và tất cả nhà
cha ông nghe tin và xuống đó với ông. 2 Bấy giờ tất cả những người
cùng khốn, mắc nợ, bất mãn đều quy tụ quanh ông, và ông trở thành thủ lãnh của
họ. Có khoảng chừng bốn trăm người ở với ông.
3
Từ
nơi ấy ông Ða-vít đi Mít-pê thuộc Mô-áp. Ông nói với vua Mô-áp: "Xin cho
cha mẹ tôi sang với các ông cho đến khi tôi biết Thiên Chúa sẽ làm gì cho tôi.”
4 Ông dẫn họ đến trước mặt vua Mô-áp, và họ ở lại với vua suốt thời
gian ông Ða-vít ở trong nơi ẩn náu.
5
Ngôn
sứ Gát nói với Ða-vít: "Ông đừng ở lại trong nơi ẩn náu, hãy ra đi và trở
về miền Giu-đa." Ông Ða-vít ra đi và đến rừng Khe-rét.
Các
tư tế thành Nốp bị tàn sát
6
Vua
Sa-un nghe tin là người ta đã tìm ra ông Ða-vít và những người ở với ông. Vua
Sa-un đang ngồi ở Ghíp-a, dưới cây liễu bách, tại nơi cao, tay cầm cây giáo, có
toàn thể triều thần đứng bên. 7 Vua Sa-un nói với triều thần đang
đứng bên: "Nghe đây, hỡi các người Ben-gia-min, có phải thằng con của
Gie-sê cũng sẽ cho tất cả các ngươi những cánh đồng và vườn nho, sẽ đặt các
ngươi làm chỉ huy một ngàn và chỉ huy một trăm quân không? 8 Sao tất cả các
ngươi đã âm mưu chống lại ta? Không có ai tiết lộ cho ta, khi con ta lập giao
ước với thằng con của Gie-sê; không ai trong các ngươi buồn cho ta, khi con ta
xui người đầy tớ của ta nổi lên gài bẫy hại ta, như hôm nay!"
9
Ðô-ếch,
người Ê-đôm, đang đứng bên triều thần vua Sa-un, lên tiếng nói: "Tôi đã
thấy thằng con của Gie-sê đến Nốp gặp ông A-khi-me-léc, con ông A-khi-túp. 10
Ông A-khi-me-léc đã thỉnh ý Ðức Chúa cho nó, đã tiếp tế lương thực cho
nó, và còn cho nó thanh gươm của Go-li-át, người Phi-li-tinh.” 11 Nhà
vua sai người đi đòi tư tế A-khi-me-léc, con ông A-khi-túp đến, cùng với toàn
thể nhà cha ông, là các tư tế ở Nốp. Tất cả những người đó đến với vua.
12
Vua
Sa-un nói: "Nghe đây, hỡi con của A-khi-túp." Ông đáp: "Thưa
chúa thượng, tôi đây.” 13 Vua Sa-un nói với ông: "Tại sao ngươi
và thằng con của Gie-sê, các ngươi đã âm mưu chống lại ta? Ngươi đã cho nó bánh
và gươm, lại thỉnh ý Thiên Chúa cho nó, để nó nổi lên gài bẫy hại ta, như hôm
nay?” 14 Ông A-khi-me-léc thưa với vua rằng: "Trong triều thần
của ngài, có ai trung tín như ông Ða-vít, con rể của nhà vua, chỉ huy cận vệ
của ngài, người được kính nể trong triều đình? 15 Có phải hôm nay tôi mới bắt
đầu thỉnh ý Thiên Chúa cho ông ấy? Không đời nào! Xin đức vua đừng buộc tội tôi
tớ ngài và toàn thể nhà cha tôi, vì tôi tớ ngài không biết một điều gì, lớn hay
nhỏ, về tất cả chuyện này.” 16 Vua nói: "A-khi-me-léc, ngươi sẽ
phải chết, ngươi và toàn thể nhà cha ngươi."
17
Vua
bảo các thị vệ đang đứng bên: "Hãy đi xử tử các tư tế của Ðức Chúa, vì cả
chúng cũng tiếp tay cho Ða-vít: chúng biết nó trốn đi mà không báo cho
ta." Nhưng triều thần không muốn tra tay giết các tư tế của Ðức Chúa. 18
Vua mới bảo Ðô-ếch: "Hãy đi giết các tư tế." Ðô-ếch, người
Ê-đôm, đi và chính nó giết các tư tế. Ngày hôm ấy, nó đã xử tử tám mươi lăm
người mặc ê-phốt vải gai. 19 Còn Nốp, thành của các tư tế, vua đã
dùng gươm mà giết từ đàn ông đến đàn bà, từ nhi đồng đến trẻ con đang bú, và
bò, lừa, chiên dê.
20
Chỉ
có một người là con ông A-khi-me-léc và là cháu ông A-khi-túp, thoát được.
Người ấy tên là Ép-gia-tha. Ông trốn đi theo ông Ða-vít. 21 Ông
Ép-gia-tha báo tin cho ông Ða-vít là vua Sa-un đã giết các tư tế của Ðức Chúa. 22
Ông Ða-vít nói với ông Ép-gia-tha: "Hôm ấy, tôi biết là Ðô-ếch,
người Ê-đôm, có ở đó và chắc chắn nó sẽ báo cho vua Sa-un. Chính tôi đã là
nguyên do khiến cả nhà cha ông phải thiệt mạng. 23 Ông cứ ở lại với
tôi, đừng sợ: ai tìm hại mạng sống ông là tìm hại mạng sống tôi. Ở bên tôi, ông
sẽ được bảo vệ."
Chương 23
Ông
Ða-vít đến Cơ-i-la
1
Người
ta báo tin cho ông Ða-vít biết rằng: "Kìa người Phi-li-tinh đang tấn công
Cơ-i-la và cướp phá các sân lúa.” 2 Ông thỉnh ý Ðức Chúa rằng:
"Con có nên đi không và có đánh bại được những tên Phi-li-tinh này
không?" Ðức Chúa phán với ông Ða-vít: "Cứ đi, ngươi sẽ đánh bại người
Phi-li-tinh và cứu được Cơ-i-la.” 3 Người của ông Ða-vít nói với
ông: "Ở đây, tại Giu-đa, mà chúng ta còn sợ hãi, huống chi là đi Cơ-i-la,
xông vào trận tuyến người Phi-li-tinh!” 4 Ông Ða-vít lại thỉnh ý Ðức
Chúa một lần nữa. Ðức Chúa trả lời ông rằng: "Ðứng lên! Hãy xuống Cơ-i-la,
vì Ta sắp trao người Phi-li-tinh vào tay ngươi.” 5 Ông Ða-vít cùng
với người của ông đi Cơ-i-la; ông tấn công người Phi-li-tinh, dẫn những bầy gia
súc của chúng đi và đánh chúng một đòn đau. Thế là ông Ða-vít cứu được dân
thành Cơ-i-la.
6
Khi
ông Ép-gia-tha, con ông A-khi-me-léc, trốn đến với ông Ða-vít, ông đã xuống
Cơ-i-la, tay cầm ê-phốt.
7
Người
ta báo tin cho vua Sa-un là ông Ða-vít đã vào Cơ-i-la, vua Sa-un nói:
"Thiên Chúa đã nộp nó vào tay ta, vì nó đã tự nhốt mình khi vào một thành
có cửa đóng then cài.” 8 Vua Sa-un triệu tập toàn dân đi giao chiến
để xuống Cơ-i-la vây ông Ða-vít và người của ông. 9 Ông Ða-vít biết
rằng chính để hại ông mà vua Sa-un đang ngầm mưu điều ác, ông bảo tư tế
Ép-gia-tha: "Ðem ê-phốt lại đây!” 10 Ông Ða-vít thưa: "Lạy
Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, tôi tớ Ngài đây đã nghe nói rằng vì con, vua
Sa-un đang tìm cách đến Cơ-i-la để phá huỷ thành này. 11 Các thân
hào Cơ-i-la có nộp con vào tay vua không? Vua Sa-un có xuống, như tôi tớ Ngài
đã nghe nói không? Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, xin cho tôi tớ Ngài
biết." Ðức Chúa phán: "Nó sẽ xuống.” 12 Ông Ða-vít lại
hỏi: "Các thân hào Cơ-i-la có nộp con và người của con vào tay vua Sa-un
không?" Ðức Chúa phán: "Chúng sẽ nộp.” 13 Ông Ða-vít đứng
lên cùng với người của ông, khoảng chừng sáu trăm người; họ ra khỏi Cơ-i-la và
đi lang thang. Người ta báo cho vua Sa-un là ông Ða-vít đã trốn thoát khỏi
Cơ-i-la, và vua thôi không ra trận nữa.
14
Ông
Ða-vít ở trong sa mạc, trên các đỉnh núi; ông ở trong núi, trong sa mạc Díp.
Trong suốt thời gian ấy, vua Sa-un tìm ông, nhưng Thiên Chúa không trao ông vào
tay vua.
Ông
Ða-vít ở Khoóc-sa. Ông Giô-na-than tới gặp.
15
Ông
Ða-vít thấy rằng vua Sa-un đã ra trận để tìm hại mạng sống ông. Ông Ða-vít ở
trong sa mạc Díp, tại Khoóc-sa. 16 Ông Giô-na-than, con vua Sa-un,
lên đường, đến gặp ông Ða-vít tại Khoóc-sa và khuyến khích ông nhân danh Thiên
Chúa. 17 Ông nói với ông Ða-vít: "Anh đừng sợ, vì bàn tay vua
Sa-un, cha tôi, sẽ không đụng tới anh được. Chính anh sẽ làm vua cai trị
Ít-ra-en, còn tôi sẽ làm phó cho anh; cả vua Sa-un, cha tôi, cũng biết như thế.”
18 Hai người lập giao ước trước nhan Ðức Chúa. Ông Ða-vít ở lại
Khoóc-sa, còn ông Giô-na-than thì đi về nhà.
Ông
Ða-vít thoát tay vua Sa-un
19
Có
những người vùng Díp lên gặp vua Sa-un tại Ghíp-a và thưa: "Ða-vít chẳng
trốn giữa chúng tôi, ở những đỉnh núi, tại Khoóc-sa, trên đồi Kha-khi-la ở phía
nam hoang địa đó sao? 20 Bây giờ, thưa đức vua, khi nào ngài muốn xuống thì xin
cứ xuống. Phận sự của chúng tôi là nộp nó vào tay đức vua.” 21 Vua
Sa-un nói: "Xin Ðức Chúa chúc phúc cho các ngươi, vì các ngươi đã động
lòng thương xót tôi. 22 Các ngươi hãy đi, điều tra nữa cho chắc
chắn; hãy tìm cho biết và xem nó đặt chân ở đâu, có ai đã thấy nó ở đấy không,
vì người ta nói với tôi rằng nó xảo quyệt lắm. 23 Các ngươi hãy xem
và tìm cho biết hết những nơi nó ẩn, những chỗ nó núp. Khi đã chắc rồi, thì hãy
trở lại gặp ta, và ta sẽ đi với các ngươi. Nếu như nó có ở trong xứ, thì ta sẽ
truy nã nó trong mọi thị tộc Giu-đa.” 24 Họ lên đường và đi Díp
trước vua Sa-un. Ông Ða-vít và người của ông thì ở trong sa mạc Ma-ôn, trong
thung lũng phía nam hoang địa. 25 Vua Sa-un và người của vua đi tìm
ông. Người ta báo tin cho ông Ða-vít, ông xuống Tảng Ðá và ở trong sa mạc
Ma-ôn. Vua Sa-un nghe biết thì đuổi theo ông Ða-vít trong sa mạc Ma-ôn. 26
Vua Sa-un đi phía sườn núi bên này, còn ông Ða-vít và người của ông đi
phía sườn núi bên kia. Ông Ða-vít vội vàng ra đi để thoát vua Sa-un. Vua Sa-un
và người của vua đang bao vây ông Ða-vít và người của ông để bắt họ, 27 thì
một người đưa tin đến nói với vua Sa-un: "Xin đức vua đến mau, vì người
Phi-li-tinh đã tràn vào xứ.” 28 Vua Sa-un thôi không đuổi theo ông
Ða-vít nữa, để ra nghênh chiến với người Phi-li-tinh. Vì thế người ta gọi chỗ
ấy là Tảng Ðá Phân Ly.
Chương 24
Ông
Ða-vít tha chết cho vua Sa-un
1
Ông
Ða-vít lên khỏi chỗ đó và ở trên những đỉnh núi Ên Ghe-đi. 2 Sau khi
vua Sa-un đuổi người Phi-li-tinh và trở về, người ta báo tin cho vua rằng:
"Này Ða-vít đang ở trong sa mạc Ên Ghe-đi.” 3 Vua Sa-un lấy
trong toàn thể Ít-ra-en ba ngàn quân tinh nhuệ, và lên đường để tìm bắt ông
Ða-vít và người của ông, ở phía đông các Mỏm Ðá Sơn Dương. 4 Vua đến
các bãi quây chiên dê bên đường. Ở đó có một cái hang và vua Sa-un vào đó để đi
việc cần. Ông Ða-vít và người của ông đang ngồi ở cuối hang. 5 Người
của ông Ða-vít nói với ông: "Ðây là ngày Ðức Chúa phán với ông: "Này
ta trao kẻ thù của ngươi vào tay ngươi, ngươi sẽ đối xử với nó thế nào tuỳ
ý." Ông Ða-vít đứng dậy và cắt vạt áo khoác của vua Sa-un. 6 Sau
đó, ông Ða-vít áy náy trong lòng vì đã cắt vạt áo của vua Sa-un. 7 Ông
bảo người của ông: "Xin Ðức Chúa đừng để tôi làm điều này cho chúa thượng
của tôi, đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong, là tra tay hại vua, vì người là
đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong.” 8 Nhờ những lời ấy, ông Ða-vít
đã ngăn chặn người của ông, không để cho họ xông vào vua Sa-un.
Vua
Sa-un đứng lên, ra khỏi hang và lên đường. 9 Sau đó, ông Ða-vít đứng
lên, ra khỏi hang và kêu đằng sau vua Sa-un rằng: "Thưa đức vua là chúa
thượng con!" Vua Sa-un ngoái lại đằng sau. Ông Ða-vít sấp mặt sát đất mà
lạy. 10 Ông Ða-vít nói với vua Sa-un: "Tại sao cha lại nghe lời
người ta nói rằng Ða-vít đang tìm cách hại cha? 11 Hôm nay đây, chính mắt cha
thấy Ðức Chúa đã trao cha vào tay con, hôm nay, trong hang; người ta nói đến chuyện
giết cha, nhưng con đã thương hại cha và nói: "Tôi sẽ không tra tay hại
chúa thượng tôi, vì người là đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong. 12 Thưa
cha, xin nhìn xem, vâng, xin nhìn xem vạt áo choàng của cha trong tay con. Vì
con đã cắt áo choàng của cha và không giết cha, thì xin cha biết và thấy cho
rằng tay con không làm điều ác, điều lỗi, và con đã không phạm tội hại cha,
trong khi cha mưu toan lấy mạng sống con. 13 Xin Ðức Chúa phân xử
giữa con và cha và xin Ðức Chúa phạt cha để trả thù cho con, nhưng tay con sẽ
không đụng đến cha. 14 Như tục ngữ người xưa có nói: "Ðiều ác
từ kẻ ác mà ra", nên tay con sẽ không đụng đến cha. 15 Ðức vua
Ít-ra-en đã ra trận để đánh ai? Cha đuổi theo ai? Một con chó chết! Một con bọ
chét! 16 Ðức Chúa sẽ là trọng tài, Người sẽ phân xử giữa con và cha. Xin Người
nhìn xem và biện hộ cho con, xin Người phân xử để con thoát khỏi tay cha!"
17
Khi
ông Ða-vít nói với vua Sa-un những lời đó xong, thì vua Sa-un hỏi: "Ða-vít
con cha, có phải tiếng của con đấy không?" Rồi vua Sa-un oà lên khóc. 18
Vua nói với ông Ða-vít: "Con công chính hơn cha, vì con xử tốt với
cha, còn cha thì xử ác với con. 19 Hôm nay con đã tỏ ra là con làm
điều tốt cho cha, vì Ðức Chúa đã nộp cha vào tay con mà con đã không giết cha. 20
Có ai gặp kẻ thù của mình mà cứ để nó đi yên lành không? Xin Ðức Chúa
thưởng con vì điều tốt con làm cho cha hôm nay. 21 Giờ đây cha biết
rằng chắc chắn con sẽ làm vua và vương quyền Ít-ra-en sẽ vững mãi trong tay con.
22 Vậy giờ đây con hãy lấy Ðức Chúa mà thề với cha là sẽ không loại
trừ dòng dõi cha sau này, và sẽ không xoá bỏ tên tuổi cha khỏi nhà của tổ phụ
cha.” 23 Ông Ða-vít thề với vua Sa-un. Rồi vua Sa-un đi về nhà, còn
ông Ða-vít và người của ông thì đi lên nơi ẩn náu.
Chương 25
Ông
Sa-mu-en qua đời
1
Ông
Sa-mu-en qua đời. Toàn thể Ít-ra-en tập hợp lại cử hành tang lễ cho ông. Họ
chôn cất ông tại quê nhà ông, ở Ra-ma.
Chuyện
ông Na-van và bà A-vi-ga-gin
Ông
Ða-vít lên đường và xuống sa mạc Pa-ran.
2
Ở
Ma-ôn có một người có cơ sở làm ăn tại Các-men. Người ấy rất giàu: ông có ba
ngàn con cừu và một ngàn con dê. Ông đang ở Các-men để xén lông cừu của ông. 3
Ông ấy tên là Na-van, còn vợ ông tên là A-vi-ga-gin. Người vợ thì khôn
khéo và có duyên, người chồng thì cứng cỏi và ưa làm điều ác; ông ta là người
Ca-lếp.
4
Trong
sa mạc, ông Ða-vít nghe tin là ông Na-van đang xén lông cừu của ông ấy. 5 Ông
Ða-vít sai mười đầy tớ đi. Ông bảo các đầy tớ: "Các anh hãy lên Các-men,
đến gặp ông Na-van và nhân danh tôi vấn an ông ấy. 6 Các anh hãy nói
với người anh em tôi thế này: "Chúc ông được bình an, chúc gia đình ông
được bình an, chúc ông vạn sự bình an! 7 Bây giờ tôi nghe tin là có thợ đang
xén lông cừu cho ông. Khi người chăn súc vật của ông ở với chúng tôi, chúng tôi
đã không quấy nhiễu họ, họ đã không bị mất mát gì trong suốt thời gian ở
Các-men. 8 Ông cứ hỏi đầy tớ ông, họ sẽ nói cho ông biết. Mong rằng
đầy tớ tôi được đẹp lòng ông, vì chúng tôi đã tới vào một ngày lễ. Xin vui lòng
cho các đầy tớ ông và cho Ða-vít, con ông, cái gì ông sẵn có trong
tay"."
9
Các
đầy tớ ông Ða-vít đến và nói lại với ông Na-van tất cả những lời ấy nhân danh
ông Ða-vít, rồi họ đợi. 10 Ông Na-van trả lời cho tôi tớ ông Ða-vít
rằng: "Ða-vít là ai? Con ông Gie-sê là ai? Ngày nay có nhiều tôi tớ trốn
chủ mà đi. 11 Chẳng lẽ tôi lại phải lấy bánh của tôi, nước của tôi,
các con vật tôi đã làm thịt cho thợ xén lông của tôi, mà cho những người tôi
không biết từ đâu đến sao?” 12 Các đầy tớ ông Ða-vít quay lại đường
cũ và trở về. Khi đến nơi, họ thuật lại cho ông Ða-vít tất cả những lời đó. 13
Ông Ða-vít bảo người của ông: "Mỗi người hãy đeo gươm của mình
vào!" Mỗi người đã đeo gươm của mình, ông Ða-vít cũng đeo gươm của ông. Có
khoảng chừng bốn trăm người lên theo ông Ða-vít, còn hai trăm thì ở lại giữ đồ
đạc.
14
Một
trong số các đầy tớ báo tin cho bà A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van rằng: "Này,
ông Ða-vít đã sai người từ sa mạc đến chào ông chủ, và ông chủ đã xông vào họ. 15
Những người ấy rất tốt với chúng tôi. Chúng tôi đã không bị quấy nhiễu,
đã không mất mát gì, suốt thời gian chúng tôi di chuyển bên họ, khi chúng tôi ở
ngoài đồng. 16 Họ đã là thành luỹ bảo vệ chúng tôi, cả đêm lẫn ngày,
suốt thời gian chúng tôi ở với họ mà chăn chiên dê. 17 Bây giờ xin
bà biết cho và xem phải làm gì, vì người ta đã quyết định hại ông chủ và cả nhà
ông. Còn ông ấy thì là một tên vô lại, không nói chuyện với ông ấy được."
18
Bà
A-vi-ga-gin vội vàng lấy hai trăm cái bánh, hai bầu da đầy rượu, năm con cừu đã
làm thịt, năm thúng gié lúa rang, một trăm bánh nho khô và hai trăm bánh vả, và
chất lên lưng lừa. 19 Bà bảo đầy tớ: "Các anh hãy đi đằng trước
tôi, còn tôi, tôi theo sau các anh." Nhưng bà không nói cho chồng bà là
ông Na-van biết.
20
Bà
đang cỡi lừa đi xuống, khuất sau ngọn núi thì kìa ông Ða-vít và người của ông
đang xuống về phía bà, và bà đã gặp họ. 21 Ông Ða-vít tự bảo:
"Thật uổng công tôi đã giữ tất cả những gì thuộc về tên này trong sa mạc,
và không để mất một cái gì của nó. Nó đã lấy oán đền ơn. 22 Xin
Thiên Chúa phạt các kẻ thù của Ða-vít thế này và còn thêm thế kia nữa, nếu cho
đến sáng mai, trong tất cả những người thuộc về nó, tôi còn để lại một tên đàn
ông con trai nào!” 23 Thấy ông Ða-vít, bà A-vi-ga-gin vội vàng xuống
lừa, sấp mình xuống trước mặt ông Ða-vít và sụp lạy sát đất. 24 Bà
phục xuống dưới chân ông và nói: "Thưa đức ông, tôi xin chịu tội! Nữ tỳ
ngài xin được nói thấu tai ngài! Xin ngài nghe nữ tỳ ngài nói. 25 Xin
đức ông đừng để tâm đến Na-van, kẻ vô lại ấy, vì tên nó thế nào, thì nó như
vậy: tên nó là Ngu và cái ngu gắn liền với nó. Nhưng tôi, nữ tỳ ngài, đã không
trông thấy các đầy tớ mà đức ông sai đến. 26 Giờ đây, thưa đức ông,
có Ðức Chúa hằng sống, và có ngài đang sống đó, Ðức Chúa đã ngăn cản không cho
ngài đi đến chỗ đổ máu và tự tay trả thù. Bây giờ, ước chi kẻ thù ngài, các kẻ
tìm cách hại đức ông, phải bị như Na-van! 27 Giờ đây, món quà này mà tớ nữ của
ngài đã đem đến cho đức ông, xin được giao cho các đầy tớ đi theo chân đức ông.
28 Xin vui lòng xá lỗi cho nữ tỳ ngài. Thật vậy, Ðức Chúa chắc chắn
sẽ làm cho đức ông một nhà kiên cố, vì đức ông chiến đấu những cuộc chiến của
Ðức Chúa, và suốt đời ngài, người ta không tìm được nơi ngài một điều ác nào. 29
Có người đứng lên để đuổi theo ngài và tìm hại mạng sống ngài, nhưng mạng
sống của đức ông sẽ được bọc trong bọc những kẻ sống bên Ðức Chúa, Thiên Chúa
của ngài; còn mạng sống các kẻ thù ngài, thì Ðức Chúa dùng dây phóng đá mà
phóng đi. 30 Vậy khi Ðức Chúa làm cho đức ông tất cả điều tốt lành
Người đã nói về ngài, và đặt ngài làm người lãnh đạo Ít-ra-en, 31 thì
đức ông sẽ không phải ân hận và áy náy lương tâm vì đã đổ máu vô cớ và trả thù
cho chính mình. Khi Ðức Chúa xử tốt với đức ông, thì xin ngài nhớ đến nữ tỳ
ngài."
32
Ông
Ða-vít nói với bà A-vi-ga-gin: "Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en,
hôm nay đã sai bà đến gặp tôi! 33 Bà được chúc phúc vì bà khôn ngoan, bà được
chúc phúc vì hôm nay đã giữ không cho tôi đi tới chỗ đổ máu và tự tay trả thù. 34
Nhưng có Ðức Chúa hằng sống là Thiên Chúa Ít-ra-en, Ðấng đã ngăn cản
không cho tôi làm hại bà! Giả như bà đã không vội vàng đến gặp tôi, thì cho đến
khi trời sáng, sẽ không còn lại một tên đàn ông con trai nào của Na-van.” 35
Ông Ða-vít nhận từ tay bà những gì bà mang đến cho ông, và ông nói với
bà: "Bà hãy lên nhà bà bình an. Bà xem đây: tôi đã nghe theo tiếng bà và
đã nể bà.” 36 Bà A-vi-ga-gin về với ông Na-van. Kìa ông đang mở tiệc
ở nhà ông, một bữa tiệc vương giả! Lòng ông Na-van vui vẻ. Ông say khướt nên bà
không kể lại cho ông điều gì, dù nhỏ hay lớn, cho đến khi trời sáng. 37 Sáng
hôm sau, khi ông Na-van tỉnh rượu, vợ ông mới kể lại cho ông các sự việc ấy.
Tim ông chết lặng trong lồng ngực, ông cứng đờ ra như đá. 38 Khoảng
mười ngày sau, Ðức Chúa đánh phạt ông Na-van và ông chết.
39
Ông
Ða-vít nghe tin ông Na-van đã chết, thì nói: "Chúc tụng Ðức Chúa, Ðấng đã
biện hộ cho tôi, khi tôi bị Na-van sỉ nhục, và đã ngăn không cho tôi tớ Người
làm điều ác. Còn điều ác Na-van đã làm, thì Ðức Chúa đã đổ lại trên đầu
nó."
Ông
Ða-vít sai người đi hỏi bà A-vi-ga-gin làm vợ. 40 Tôi tớ Ða-vít đến
với bà A-vi-ga-gin tại Các-men và nói với bà rằng: "Ông Ða-vít sai chúng
tôi đến xin cưới bà làm vợ.” 41 Bà đứng dậy, sấp mặt xuống đất và
nói: "Này nữ tỳ ngài xin làm tớ nữ để rửa chân cho tôi tớ của đức ông.” 42
Bà A-vi-ga-gin vội vã đứng dậy, lên lừa và có năm tớ gái theo chân bà. Bà
đi theo những người ông Ða-vít sai đến. Bà đã trở thành vợ ông.
43
Ông
Ða-vít cũng đã cưới bà A-khi-nô-am, người Gít-rơ-en. Cả hai bà đều là vợ ông. 44
Vua Sa-un đã gả bà Mi-khan là con gái vua và là vợ ông Ða-vít, cho ông
Pan-ti, con ông La-gít, người Ga-lim.
Chương 26
Ông
Ða-vít tha chết cho vua Sa-un
1
Người
vùng Díp đến gặp vua Sa-un tại Ghíp-a và thưa: "Ða-vít chẳng trốn trên đồi
Kha-khi-la, đối diện với hoang địa đó sao?” 2 Vua Sa-un lên đường và
xuống sa mạc Díp, cùng với ba ngàn quân tinh nhuệ của Ít-ra-en, để tìm bắt ông
Ða-vít trong sa mạc Díp. 3 Vua Sa-un đóng trại trên đồi Kha-khi-la,
đối diện với hoang địa, ở bên đường, còn ông Ða-vít thì ở trong sa mạc. Thấy
vua Sa-un đến đuổi theo ông trong sa mạc, 4 ông Ða-vít sai người đi
do thám và ông biết là vua Sa-un chắc chắn đã đến. 5 Ông Ða-vít lên
đường và đến nơi vua Sa-un đóng trại. Ông Ða-vít trông thấy chỗ vua Sa-un và
ông Áp-ne, con ông Ne, tướng chỉ huy quân đội của vua, đang nằm. Vua Sa-un nằm
trong trại binh; còn quân binh thì đóng trại chung quanh ông.
6
Ông
Ða-vít lên tiếng hỏi ông A-khi-me-léc, người Khết, và ông A-vi-sai là con bà Xơ-ru-gia
và là anh ông Giô-áp: "Ai muốn cùng tôi xuống chỗ vua Sa-un đóng
trại?" Ông A-vi-sai thưa: "Cháu xin xuống với cậu.” 7 Ðang
đêm, ông Ða-vít và ông A-vi-sai đến chỗ quân binh. Vua Sa-un đang nằm ngủ trong
trại binh, cây giáo của vua cắm xuống đất, ở phía đầu vua, còn ông Áp-ne và
quân binh thì nằm chung quanh.
8
Ông
A-vi-sai nói với ông Ða-vít: "Hôm nay Thiên Chúa đã nộp kẻ thù của cậu vào
tay cậu. Bây giờ, xin cho cháu dùng giáo ghim nó xuống đất, một nhát thôi; cháu
không cần đâm nhát thứ hai.” 9 Ông Ða-vít nói với ông A-vi-sai:
"Ðừng giết vua! Có ai tra tay hại đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong mà vô
sự đâu?” 10 Ông Ða-vít nói: "Có Ðức Chúa hằng sống! Chính Ðức
Chúa sẽ đánh phạt vua, hoặc khi ngày của vua đến mà vua phải chết, hoặc khi vua
xuống giao chiến mà vua thiệt mạng. 11 Nhưng xin Ðức Chúa đừng bao
giờ để tôi tra tay hại đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong! Bây giờ anh hãy lấy
cây giáo ở phía đầu vua, cùng với bình nước, rồi chúng ta đi.” 12 Ông
Ða-vít lấy cây giáo và bình nước ở phía đầu vua Sa-un, rồi cả hai người ra đi.
Không ai thấy, không ai hay, không ai thức dậy. Họ đều ngủ cả, vì Ðức Chúa đã
cho một giấc ngủ mê ập xuống trên họ.
13
Ông
Ða-vít đi sang phía bên kia và đứng trên đỉnh núi, ở đàng xa; có một khoảng
cách lớn giữa họ. 14 Ông Ða-vít gọi quân binh và ông Áp-ne, con ông
Ne, rằng: "Ông không trả lời sao, ông Áp-ne?" Ông Áp-ne trả lời rằng:
"Ngươi là ai mà dám gọi đức vua?” 15 Ông Ða-vít nói với ông
Áp-ne: "Ông không phải là nam nhi sao? Và trong Ít-ra-en, có ai được như
ông? Vậy tại sao ông đã không canh giữ đức vua, chúa thượng của ông? Có một
người dân đã đến để giết đức vua, chúa thượng của ông. 16 Ðiều ông
đã làm, thật không tốt. Có Ðức Chúa hằng sống! Các ông đáng chết vì đã không
canh giữ chúa thượng của các ông, đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong. Bây giờ
hãy xem: cây giáo của đức vua đâu rồi, và bình nước ở phía đầu người đâu
rồi?"
17
Vua
Sa-un nhận ra tiếng ông Ða-vít và nói: "Ða-vít con cha, có phải tiếng của
con đấy không?" Ông Ða-vít nói: "Thưa đức vua là chúa thượng của con,
vâng, tiếng con đó!” 18 Rồi ông nói: "Tại sao chúa thượng lại
đuổi theo tôi tớ ngài? Con đã làm gì và tay con đã làm điều gì ác? 19 Bây giờ
xin đức vua là chúa thượng của con vui lòng nghe tôi tớ ngài nói. Nếu là Ðức
Chúa đã xúi ngài chống con, thì xin Người ngửi mùi thơm của lễ phẩm. Nhưng nếu
là người phàm, thì xin cho chúng bị nguyền rủa trước nhan Ðức Chúa, vì chúng đã
xua đuổi con hôm nay, không cho con được dự phần cơ nghiệp của Ðức Chúa, khi
chúng bảo: "Hãy đi mà thờ các thần khác! 20 Bây giờ xin cho máu con đừng
chảy xuống đất xa nhan Ðức Chúa, vì đức vua Ít-ra-en đã ra trận để tìm bắt một
con bọ chét, như người ta đuổi theo một con chim cuốc trong vùng núi."
21
Vua
Sa-un nói: "Cha thật đắc tội! Ða-vít con cha, trở về đi! Cha sẽ không hại
con nữa, bởi vì ngày hôm nay con đã coi mạng sống của cha là quý. Phải, cha đã
hành động ngu xuẩn, cha đã sai lỗi nặng nề!” 22 Ông Ða-vít trả lời:
"Cây giáo của đức vua đây. Một trong các đầy tớ hãy sang mà lấy. 23 Xin
Ðức Chúa thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự công chính và lòng trung thành
của họ: hôm nay Ðức Chúa đã nộp cha vào tay con, nhưng con đã không muốn tra
tay hại đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong. 24 Hôm nay con đã coi
trọng mạng sống cha, thì xin Ðức Chúa cũng coi trọng mạng sống con như vậy, và
giải thoát con khỏi mọi cảnh ngặt nghèo."
25
Vua
Sa-un nói với ông Ða-vít: "Ða-vít con cha ơi, con được chúc phúc! Chắc
chắn con sẽ làm việc lớn, và sẽ thành công." Ông Ða-vít tiếp tục con đường
của mình, còn vua Sa-un thì trở về nhà.
Chương 27
4.
Ông Ða-Vít Ðến Với Người Phi-Li-Tinh
Ông
Ða-vít trốn đi Gát
1
Ông
Ða-vít tự bảo: "Giờ đây, một ngày nào đó, tôi sẽ phải mất mạng bởi tay vua
Sa-un. Không gì tốt hơn cho tôi là thoát sang đất người Phi-li-tinh. Vua Sa-un
sẽ thôi không tìm bắt tôi trong toàn lãnh thổ Ít-ra-en nữa, và tôi sẽ thoát
khỏi tay vua.” 2 Ông Ða-vít lên đường và cùng với sáu trăm người
theo ông, sang với vua thành Gát là A-khít, con ông Ma-ốc. 3 Ông
Ða-vít ở lại với vua A-khít tại Gát, cùng với các người của ông, mỗi người với
gia đình mình, ông Ða-vít với hai bà vợ là bà A-khi-nô-am người Gít-rơ-en, và
bà A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van người Các-men. 4 Người ta báo cho vua
Sa-un là ông Ða-vít đã trốn đi Gát, và vua không còn tìm bắt ông Ða-vít nữa.
Ông
Ða-vít làm chư hầu người Phi-li-tinh
5
Ông
Ða-vít nói với vua A-khít: "Nếu tôi được đẹp lòng ngài, thì xin cho tôi
một chỗ trong thành nào đó ở vùng quê để tôi ở. Tôi tớ ngài ở gần ngài trong
hoàng thành sao được?” 6 Ngay hôm đó, vua A-khít cho ông thành
Xích-lắc; vì vậy Xích-lắc thuộc về các vua Giu-đa cho đến ngày nay. 7 Thời
gian ông Ða-vít ở vùng quê Phi-li-tinh là một năm bốn tháng.
8
Ông
Ða-vít và người của ông lên cướp phá vùng đất của người Gơ-sua, người Ghe-de và
người A-ma-lếch, vì đó là những dân ở miền ấy từ xa xưa, trên đường vào Sua cho
đến tận Ai-cập. 9 Ông Ða-vít đánh phá vùng đất ấy và không để một
người đàn ông hay đàn bà nào sống sót; ông lấy chiên dê bò lừa, lạc đà và quần
áo, rồi trở về và đến gặp vua A-khít. 10 Vua A-khít hỏi: "Hôm
nay các ông đi cướp phá ở đâu?" Ông trả lời là ở vùng Ne-ghép của Giu-đa,
hoặc ở vùng Ne-ghép của người Giơ-rác-mơ-ên, hoặc ở vùng Ne-ghép của người
Kê-ni. 11 Ông Ða-vít không để một người đàn ông hay đàn bà nào sống
sót mà đem về Gát; ông nói: "Sợ chúng báo cáo có hại cho chúng ta mà nói:
"Ông Ða-vít đã làm như thế"." Ðó là cách xử sự của ông Ða-vít
trong thời gian ông ở tại vùng quê Phi-li-tinh. 12 Vua A-khít tin
ông Ða-vít; vua nói: "Nó đã làm cho nó trở nên đáng ghét đối với Ít-ra-en,
dân của nó, và nó sẽ là tôi tớ ta mãi mãi."
Chương 28
Người
Phi-li-tinh đi đánh Ít-ra-en
1
Thời
ấy, người Phi-li-tinh tập hợp quân đội để ra trận giao chiến với Ít-ra-en. Vua
A-khít nói với ông Ða-vít: "Ông phải biết rằng ông và người của ông sẽ ra
quân với tôi.” 2 Ông Ða-vít nói với vua A-khít: "Thế thì ngài
sẽ biết tôi tớ ngài làm được gì." Vua A-khít bảo ông Ða-vít: "Vậy tôi
sẽ đặt ông làm người hộ vệ tôi suốt đời."
Vua
Sa-un và bà đồng bóng tại Ên Ðo
3
Ông
Sa-mu-en đã qua đời, toàn thể Ít-ra-en đã cử hành tang lễ cho ông và chôn cất
ông ở Ra-ma, thành của ông. Vua Sa-un trục xuất các người đồng bóng và thầy bói
ra khỏi xứ.
4
Người
Phi-li-tinh tập hợp lại và đến đóng trại ở Su-nêm. Vua Sa-un tập hợp toàn thể
Ít-ra-en, và họ đóng trại ở Ghin-bô-a. 5 Vua Sa-un thấy trại của
người Phi-li-tinh thì sợ và tim ông đập mạnh. 6 Ông thỉnh ý Ðức Chúa
nhưng Ðức Chúa không trả lời, dù bằng giấc mộng, bằng thẻ u-rim, hay qua trung
gian ngôn sứ. 7 Vua Sa-un bảo triều thần: "Hãy tìm cho ta một
bà đồng bóng, để ta thỉnh ý bà ấy." Triều thần nói với vua: "Thưa có
một bà đồng bóng ở Ên Ðo."
8
Vua
Sa-un cải trang, mặc áo khác rồi ra đi, có hai người cùng đi với vua. Ðang đêm,
họ đến nhà người đàn bà, và vua nói: "Xin bà ngồi đồng mà bói cho tôi, và
hãy gọi lên cho tôi người tôi sẽ nói cho bà biết.” 9 Người đàn bà
nói với vua: "Này chính ông biết điều vua Sa-un đã làm: vua đã diệt trừ
các người đồng bóng và các thầy bói trong xứ. Vậy tại sao ông lại gài bẫy hại
tôi để làm cho tôi phải chết?” 10 Vua Sa-un lấy Ðức Chúa mà thề với
bà ấy: "Có Ðức Chúa hằng sống, tôi xin thề rằng bà sẽ không mắc lỗi trong
việc này.” 11 Người đàn bà nói: "Tôi phải gọi ai lên cho
ông?" Vua trả lời: "Bà gọi ông Sa-mu-en lên cho tôi."
12
Người
đàn bà trông thấy ông Sa-mu-en và rú lên. Người đàn bà nói với vua Sa-un:
"Tại sao ngài lại đánh lừa tôi? Ngài là vua Sa-un!” 13 Vua nói
với bà: "Ðừng sợ! Bà đã trông thấy gì?" Người đàn bà trả lời vua
Sa-un: "Tôi đã trông thấy một thần linh đang từ đất đi lên.” 14 Vua
hỏi: "Hình dáng thế nào?" Bà đáp: "Một cụ già đi lên, mình quấn
áo choàng." Vua Sa-un biết đó là ông Sa-mu-en, liền sấp mặt sát đất mà lạy.
15 Ông Sa-mu-en hỏi vua Sa-un: "Tại sao ngài lại gọi tôi lên mà
quấy rầy tôi?" Vua Sa-un trả lời: "Tôi lâm vào cảnh rất ngặt nghèo.
Người Phi-li-tinh đang giao chiến với tôi, và Thiên Chúa đã rời khỏi tôi: Người
không trả lời tôi nữa, dù qua trung gian ngôn sứ, hay qua giấc mộng. Vậy tôi đã
gọi ông, để ông cho tôi biết tôi phải làm gì.” 16 Ông Sa-mu-en nói:
"Tại sao ngài thỉnh ý tôi, trong khi Ðức Chúa đã rời khỏi ngài và đã trở
nên thù địch với ngài? 17 Ðức Chúa đã hành động như Người đã dùng tôi mà phán:
Ðức Chúa đã giật vương quyền ra khỏi tay ngài và ban cho một người khác là
Ða-vít. 18 Bởi vì ngài đã không nghe tiếng Ðức Chúa và đã không trút
cơn thịnh nộ của Người xuống A-ma-lếch, cho nên hôm nay Ðức Chúa đã xử với ngài
như thế. 19 Cùng với ngài, Ðức Chúa sẽ trao cả Ít-ra-en nữa vào tay
người Phi-li-tinh. Ngày mai, ngài và các con trai ngài sẽ ở với tôi. Cả quân
đội Ít-ra-en nữa, Ðức Chúa cũng sẽ trao vào tay người Phi-li-tinh."
20
Lập
tức vua Sa-un ngã sóng sượt xuống đất: vua quá sợ hãi vì lời ông Sa-mu-en nói.
Hơn nữa, vua không còn sức, vì suốt ngày suốt đêm hôm ấy đã không ăn gì. 21
Người đàn bà đến bên vua Sa-un và thấy vua quá kinh hoàng thì nói với
vua: "Ngài coi, nữ tỳ ngài đã nghe theo ngài. Tôi đã liều mạng và vâng
nghe những lời ngài truyền cho tôi. 22 Vậy bây giờ, xin ngài cũng
vui lòng nghe theo nữ tỳ ngài: tôi xin dọn cho ngài miếng bánh, và xin ngài ăn
để có sức tiếp tục lên đường.” 23 Vua từ chối và nói: "Ta sẽ
không ăn đâu." Các người theo hầu cũng như người đàn bà nài nỉ vua, nên
vua nghe theo họ. Vua trỗi dậy từ dưới đất và ngồi lên giường. 24 Người
đàn bà có một con bê béo trong nhà. Bà vội vàng làm thịt, lấy bột mà nhồi, rồi
nướng bánh không men. 25 Bà dọn ra trước mặt vua Sa-un và trước mặt
các người theo hầu vua. Họ ăn rồi đứng dậy và đi ngay đêm ấy.
Chương 29
Các
người chỉ huy Phi-li-tinh cho ông Ða-vít về
1
Người
Phi-li-tinh tập họp toàn thể quân đội tại A-phếch, còn người Ít-ra-en thì đóng
trại tại suối nước ở Gít-rơ-en. 2 Các vương hầu người Phi-li-tinh
dẫn đầu các đoàn một trăm, một ngàn quân đi diễu hành; ông Ða-vít và người của
ông diễu hành sau cùng với vua A-khít. 3 Các người chỉ huy
Phi-li-tinh hỏi: "Bọn Híp-ri kia là gì vậy?" Vua A-khít nói với các
người chỉ huy Phi-li-tinh: "Ðó là Ða-vít, tôi tớ ông Sa-un, vua Ít-ra-en,
chứ ai! Hắn ở với tôi từ một hai năm nay, và tôi không thấy nơi hắn điều gì
đáng trách, từ ngày hắn về đầu hàng tôi cho đến hôm nay.” 4 Các
người chỉ huy Phi-li-tinh nổi giận với vua và nói: "Ông hãy cho người ấy
về, nó hãy về nơi ông đã chỉ định cho nó. Nó không được cùng với chúng ta xuống
giao chiến, kẻo nó trở nên địch thủ của chúng ta trong chiến trận. Nó sẽ dùng
gì mà lấy lòng chúa thượng nó, nếu không phải là dùng đầu của những người này?
5 Tên này chẳng phải là Ða-vít mà người ta đã múa nhảy hát mừng rằng:
"Vua
Sa-un hạ được hàng ngàn,
ông
Ða-vít hàng vạn"?"
6
Vua
A-khít gọi ông Ða-vít lại và nói với ông: "Có Ðức Chúa hằng sống, ông là
người ngay thẳng. Tôi lấy làm vui thấy ông cùng với tôi ra vào chiến đấu, vì
tôi không thấy điều gì xấu nơi ông, từ ngày ông đến với tôi cho đến ngày hôm
nay. Nhưng ông không được lòng các vương hầu. 7 Vậy ông hãy về và ra
đi bình an. Ông đừng làm điều gì phật lòng các vương hầu người Phi-li-tinh.” 8
Ông Ða-vít nói với vua: "Tôi đã làm gì? Từ ngày tôi phục vụ ngài cho
đến hôm nay ngài đã thấy điều gì đáng trách nơi tôi tớ ngài, khiến tôi không
thể đến giao chiến với các kẻ thù của đức vua là chúa thượng tôi?” 9 Vua
A-khít trả lời ông Ða-vít: "Tôi biết ông đẹp lòng tôi như một sứ giả của
Thiên Chúa. Có điều là các người chỉ huy Phi-li-tinh đã nói: "Nó không
được cùng với chúng ta lên giao chiến. 10 Vậy sáng mai ông hãy dậy
sớm, cũng như các tôi tớ của chủ ông đã đến với ông. Các ông hãy dậy sớm, và
khi trời sáng, hãy ra đi."
11
Ông
Ða-vít dậy sớm cùng với người của ông, để ra đi ngay từ sáng sớm và trở về đất
Phi-li-tinh. Còn người Phi-li-tinh thì lên Gít-rơ-en.
Chương 30
Ông
Ða-vít tiến đánh người A-ma-lếch
1
Sang
ngày thứ ba, khi ông Ða-vít và người của ông đến Xích-lắc, thì người A-ma-lếch
đã cướp phá miền Ne-ghép và thành Xích-lắc. Chúng phá phách Xích-lắc và phóng
hoả đốt thành. 2 Chúng bắt đàn bà và mọi người trong thành, từ nhỏ
đến lớn, làm tù, nhưng không giết ai. Chúng dẫn họ đi và tiếp tục lên đường. 3
Khi ông Ða-vít và người của ông đến thành thì thấy thành đã bị phóng hoả,
và vợ cùng con trai con gái của họ đã bị bắt làm tù. 4 Ông Ða-vít và
quân binh ở với ông oà lên khóc cho đến khi không còn sức khóc nữa. 5 Hai
bà vợ của ông Ða-vít cũng bị bắt làm tù, đó là bà A-khi-nô-am người Gít-rơ-en,
và bà A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van người Các-men.
6
Ông
Ða-vít lâm vào cảnh rất ngặt nghèo vì người ta bàn chuyện ném đá ông; thật vậy,
tâm hồn ai cũng cay đắng khi nghĩ đến con trai con gái của mình. Nhưng ông
Ða-vít lấy lại can đảm, nhờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông. 7 Ông
Ða-vít bảo tư tế Ép-gia-tha, con ông A-khi-me-léc: "Xin ông đem ê-phốt lại
đây cho tôi." Ông Ép-gia-tha đem ê-phốt lại cho ông Ða-vít. 8 Ông
Ða-vít thỉnh ý Ðức Chúa rằng: "Con có nên rượt theo bọn cướp đó không? Con
có đuổi kịp chúng không?" Người phán với ông: "Cứ rượt theo, vì ngươi
sẽ đuổi kịp và chắc chắn ngươi sẽ giải thoát được tù.” 9 Ông Ða-vít
đi cùng với sáu trăm người theo ông; khi họ đến khe nước Bơ-xo thì một số người
đã dừng lại. 10 Ông tiếp tục rượt theo cùng với bốn trăm người. Hai
trăm người đã dừng lại vì quá mệt, không đủ sức sang qua khe nước Bơ-xo.
11
Người
ta thấy một tên Ai-cập ngoài đồng, liền bắt đem đến ông Ða-vít. Họ cho nó bánh,
nó ăn, rồi họ cho nó uống nước. 12 Họ cho nó một miếng bánh vả và
hai chùm nho khô. Ăn xong, nó hoàn hồn, vì đã ba ngày ba đêm nó chẳng ăn uống
gì. 13 Ông Ða-vít hỏi nó: "Anh là người của ai và quê ở
đâu?" Nó đáp: "Tôi là một thanh niên Ai-cập, nô lệ của một người
A-ma-lếch. Chủ tôi bỏ tôi lại vì tôi ngã bệnh, nay đã ba ngày. 14 Chúng
tôi đã cướp phá vùng Ne-ghép của người Cơ-rê-thi, vùng Ne-ghép của Giu-đa và
vùng Ne-ghép của Ca-lếp, và chúng tôi đã phóng hoả đốt Xích-lắc.” 15 Ông
Ða-vít nói: "Anh có muốn đưa tôi xuống chỗ bọn cướp ấy không?" Nó
đáp: "Ông hãy lấy Thiên Chúa mà thề với tôi là ông sẽ không giết tôi, và
sẽ không nộp tôi vào tay chủ tôi, thì tôi sẽ đưa ông xuống chỗ bọn cướp
đó."
16
Nó
đưa ông xuống, và kìa chúng đang tản mác khắp miền, chè chén, ăn mừng số chiến
lợi phẩm lớn đã cướp được ở đất Phi-li-tinh và ở đất Giu-đa. 17 Ông
Ða-vít đánh giết chúng từ hừng đông cho đến chiều hôm sau. Không tên nào thoát,
trừ bốn trăm thanh niên cưỡi lạc đà chạy trốn. 18 Ông Ða-vít giải
thoát tất cả những gì người A-ma-lếch đã cướp; ông cũng giải thoát hai bà vợ
của ông. 19 Họ không mất gì: từ người nhỏ đến người lớn, con trai,
con gái họ, chiến lợi phẩm và tất cả những gì chúng đã lấy của họ, ông Ða-vít
đem về tất cả. 20 Ông Ða-vít lấy tất cả chiên dê và bò. Người ta đi
trước, dẫn theo đàn vật và nói: "Ðây là chiến lợi phẩm của ông Ða-vít!"
21
Ông
Ða-vít đến chỗ hai trăm người đã quá mệt, không đủ sức đi theo ông Ða-vít, và
đã bị bỏ lại ở khe nước Bơ-xo. Họ ra đón ông Ða-vít và đón quân binh đi với
ông. Ông Ða-vít cùng với quân binh lại gần và vấn an họ. 22 Nhưng
tất cả những kẻ xấu và những tên vô lại trong đám người đã đi với ông Ða-vít
lên tiếng nói: "Bởi vì họ đã không đi với chúng tôi, nên chúng tôi sẽ
không cho họ phần chiến lợi phẩm chúng tôi đã lấy lại được, ngoại trừ vợ con
của mỗi người. Họ hãy dẫn những người ấy mà đi.” 23 Nhưng ông Ða-vít
nói: "Thưa anh em, đừng làm như thế với những thứ Ðức Chúa đã ban cho
chúng ta. Người đã gìn giữ chúng ta và trao vào tay chúng ta bọn cướp đến tấn
công chúng ta. 24 Ai có thể nghe anh em trong việc này? Vì
Phần
của người xuống giao chiến thế nào,
phần
của người ở lại giữ đồ đạc cũng vậy:
họ
sẽ cùng nhau chia phần."
25
Từ
ngày đó về sau, ông đặt điều ấy thành luật lệ và quy định cho Ít-ra-en cho đến
ngày nay.
26
Khi
ông Ða-vít đến Xích-lắc, ông gửi những phần chiến lợi phẩm cho các kỳ mục
Giu-đa, đồng bào của ông, mà nói: "Ðây là quà tặng anh em, lấy từ chiến
lợi phẩm cướp được của các kẻ thù Ðức Chúa.” 27 Ông gửi cho: những
người ở Bết Ên, những người ở Ra-mốt Ne-ghép, những người ở Giát-tia, 28 những
người ở A-rô-e, những người ở Xíp-mốt, những người ở Ét-tơ-mô-a, 29 những
người ở Các-men, những người ở các thành người Giơ-rác-mơ-ên, những người ở các
thành người Kê-ni, 30 những người ở Khoóc-ma, những người ở Bô
A-san, những người ở A-tác, 31 những người ở Khép-rôn, và tất cả
những nơi ông Ða-vít và người của ông đã thường qua lại.
Chương 31
Trận
Ghin-bô-a. Vua Sa-un tử trận. (1 Sb 10:1-12)
1
Người
Phi-li-tinh giao chiến với Ít-ra-en. Người Ít-ra-en chạy trốn trước mặt người
Phi-li-tinh và bị tử thương ngã gục trên núi Ghin-bô-a. 2 Người
Phi-li-tinh bám sát vua Sa-un cùng các con trai vua, và chúng giết ông
Giô-na-than, ông A-vi-na-đáp và ông Man-ki Su-a, các con vua Sa-un. 3 Áp
lực của mặt trận dồn về phía vua Sa-un. Lính bắn cung nhận ra vua. Vua rất run
sợ khi thấy lính bắn cung. 4 Vua Sa-un bảo người hầu cận: "Rút
gươm ra và đâm ta đi, kẻo bọn không cắt bì ấy đến đâm ta và ngạo ta."
Nhưng người hầu cận không dám vì quá sợ. Vua Sa-un mới lấy gươm ra và lao vào
mũi gươm. 5 Người hầu cận thấy vua đã chết cũng lao mình vào mũi
gươm của anh ta và chết theo vua. 6 Thế là vua Sa-un, với ba con
trai, người hầu cận và mọi người của vua đều cùng chết ngày hôm đó. 7 Người
Ít-ra-en ở bên kia thung lũng và ở bên kia sông Gio-đan, thấy người Ít-ra-en
chạy trốn và vua Sa-un cùng các con vua đã chết, thì bỏ các thành của họ mà
chạy trốn. Người Phi-li-tinh đến và chiếm cứ các thành ấy.
8
Ngày
hôm sau, người Phi-li-tinh đến lột các xác chết, thì tìm thấy vua Sa-un và ba
người con trai nằm trên núi Ghin-bô-a. 9 Chúng chặt đầu vua và tước
võ khí của vua. Rồi chúng sai người rảo quanh khắp xứ Phi-li-tinh, để báo tin
mừng cho đền thần của chúng và cho dân. 10 Chúng đặt võ khí của vua
Sa-un trong đền các thần Át-tô-rét, còn thi hài vua thì chúng bêu ở tường thành
Bết San.
11
Khi
dân thành Gia-vết miền Ga-la-át nghe biết cách người Phi-li-tinh đã đối xử với
vua Sa-un, 12 thì tất cả các người can đảm đã lên đường, đi suốt
đêm, lấy thi hài vua và thi hài các con vua khỏi tường thành Bết San, rồi trở
về Gia-vết và thiêu tại đó.13 Họ lấy hài cốt và chôn dưới cây liễu bách ở Gia-vết,
rồi ăn chay bảy ngày.
Sa-mu-en 2
Chương 01
Ông
Ða-vít nghe tin vua Sa-un chết
1
Sau
khi vua Sa-un chết, ông Ða-vít đánh thắng người A-ma-lếch trở về, và ở lại
Xích-lắc hai ngày. 2 Sang ngày thứ ba, có một người từ trại, từ bên
vua Sa-un đến, áo quần xé rách, đầu thì rắc đất. Khi đến gần ông Ða-vít, anh ta
sấp mình xuống đất và sụp lạy. 3 Ông Ða-vít hỏi anh: "Anh từ
đâu đến?" Anh trả lời ông: "Tôi đã chạy thoát từ trại Ít-ra-en.” 4
Ông Ða-vít nói với anh: "Chuyện gì đã xảy ra? Kể lại cho tôi
đi!" Anh nói: "Dân đã bỏ chiến trường mà chạy trốn; nhiều người trong
dân tử trận, cả vua Sa-un và con vua là ông Giô-na-than cũng đã chết."
5
Ông
hỏi người thanh niên đưa tin cho ông: "Làm sao anh biết được vua Sa-un và
con vua là ông Giô-na-than đã chết?” 6 Người thanh niên đưa tin cho
ông trả lời: "Tình cờ tôi ở trên núi Ghin-bô-a và thấy vua Sa-un đang tựa
vào cây giáo của vua, có chiến xa và kỵ binh bám sát vua. 7 Vua quay
lại, thấy tôi và gọi tôi. Tôi thưa: "Dạ, tôi đây!” 8 Vua hỏi
tôi: "Ngươi là ai?" Tôi thưa: "Tôi là người A-ma-lếch.” 9 Vua
bảo tôi: "Ngươi hãy đứng bên ta và kết liễu đời ta, vì ta bị choáng váng,
mặc dầu sinh lực vẫn còn nguyên vẹn nơi ta.” 10 Vậy tôi đứng bên vua
và kết liễu đời vua, vì biết rằng vua sẽ không sống được sau khi thất trận. Tôi
đã lấy huy hiệu trên đầu vua và cái vòng trên cánh tay vua và đem lại đây cho
chúa thượng."
11
Ông
Ða-vít nắm lấy áo mình mà xé ra, tất cả những người ở với ông cũng vậy. 12
Họ cử hành tang lễ, khóc lóc và ăn chay cho đến chiều để tỏ lòng thương
tiếc vua Sa-un và ông Giô-na-than, con vua, thương tiếc dân Ðức Chúa và nhà
Ít-ra-en, vì những người này đã ngã gục dưới lưỡi gươm.
13
Ông
Ða-vít hỏi người thanh niên báo tin cho ông: "Ngươi quê ở đâu?" Anh
đáp: "Tôi là con một người ngoại kiều A-ma-lếch.” 14 Ông Ða-vít
nói với anh: "Ngươi không sợ sao mà dám tra tay sát hại người Ðức Chúa đã
xức dầu tấn phong?” 15 Ông Ða-vít gọi một trong các đầy tớ và nói:
"Lại gần mà giết nó đi." Người này đâm anh ta và anh ta chết. 16
Ông Ða-vít bảo anh ta: "Máu ngươi đổ xuống đầu ngươi, vì chính miệng
ngươi đã cáo tội ngươi, khi ngươi nói: "Chính tôi đã kết liễu cuộc đời của
người Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong"."
Ông
Ða-vít làm văn tế khóc vua Sa-un và ông Giô-na-than
17
Bấy
giờ ông Ða-vít đọc bài văn tế này khóc vua Sa-un và ông Giô-na-than, con vua. 18
Ông nói: Ðể dạy cho con cái Giu-đa. Bài Cây Cung, được ghi chép trong
sách Người Công Chính.
19
"Hỡi
Ít-ra-en, trên các đồi của ngươi,
những
người con ưu tú đã bỏ mình.
Than
ôi! Anh hùng nay ngã gục!
20
Các
người đừng báo tin cho thành Gát,
đừng
công bố trong các phố phường Át-cơ-lôn,
kẻo
con gái người Phi-li-tinh vui mừng,
con
gái bọn không cắt bì hớn hở!
21
Hỡi
núi đồi Ghin-bô-a,
ước
gì trên các ngươi chẳng còn mưa rơi sương đọng,
chẳng
còn những cánh đồng phì nhiêu,
vì
tại đó khiên thuẫn các anh hùng đã bị vứt bỏ!
Khiên
thuẫn của Sa-un không được bôi dầu,
22
nhưng
vấy máu những người bị đâm,
dính
mỡ các anh hùng;
cây
cung của Giô-na-than không lùi lại,
thanh
gươm của Sa-un không trở về vô hiệu quả.
23
Sa-un
và Giô-na-than,
ôi
những con người dễ thương, dễ mến,
sống
chẳng xa nhau, chết cũng chẳng rời,
nhanh
hơn chim bằng, mạnh hơn sư tử!
24
Thiếu
nữ Ít-ra-en hỡi, hãy khóc Sa-un,
người
đã mặc cho các cô vải điều lộng lẫy,
đính
trên áo các cô đồ trang sức bằng vàng.
25
Than
ôi! Các anh hùng đã ngã gục giữa lúc giao tranh!
Trên
các đồi của ngươi, Giô-na-than đã bỏ mình!
26
Giô-na-than,
anh hỡi, lòng tôi se lại vì anh!
Tôi
thương anh biết mấy!
Tình
anh đối với tôi thật diệu kỳ hơn cả tình nhi nữ.
27
Than
ôi! Anh hùng nay ngã gục, võ khí đã tan tành! "
Chương 02
IV.
Vua Ða-Vít
1.
Vua Ða-Vít Trị Vì Giu-Ða
Ông
Ða-vít được xức dầu phong vương tại Khép-rôn
1
Sau
đó, ông Ða-vít thỉnh ý Ðức Chúa: "Con có nên đi lên một trong các thành
Giu-đa không?" Ðức Chúa phán với ông: "Cứ lên." Ông Ða-vít nói:
"Con phải lên đâu?" Người phán: "Lên Khép-rôn.” 2 Ông
Ða-vít lên đó, cùng với hai bà vợ, là bà A-khi-nô-am người Gít-rơ-en, và bà
A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van người Các-men. 3 Còn những người đi theo
ông, ông Ða-vít cũng đưa họ lên, mỗi người cùng với gia đình mình, và họ ở các
thành vùng Khép-rôn. 4 Người Giu-đa kéo đến, và tại đó, họ xức dầu
tấn phong ông Ða-vít làm vua nhà Giu-đa.
Vua
Ða-vít sai sứ giả đi Gia-vết
5
Vua
Ða-vít sai sứ giả đến với người Gia-vết miền Ga-la-át và nói với họ: "Xin
Ðức Chúa chúc phúc cho anh em, vì anh em đã làm việc nghĩa ấy với chúa thượng
của anh em là vua Sa-un, và đã chôn cất vua. 6 Giờ đây, xin Ðức Chúa
lấy tình thương và lòng thành tín mà đối xử với anh em. Cả tôi nữa, tôi cũng sẽ
lấy lòng tốt như vậy mà đối xử với anh em, vì anh em đã làm điều ấy. 7 Giờ
đây, anh em hãy mạnh bạo lên, hãy tỏ ra là những người can đảm, vì chúa thượng
của anh em là vua Sa-un đã chết. Còn tôi thì nhà Giu-đa đã xức dầu tấn phong
làm vua của họ.
Ông
Áp-ne tôn ông Ít-bô-sét làm vua Ít-ra-en
8
Ông
Áp-ne là con ông Ne và là tướng chỉ huy quân đội vua Sa-un, đã rước ông
Ít-bô-sét, con vua Sa-un, đưa sang Ma-kha-na-gim, 9 và tôn làm vua
miền Ga-la-át, dân A-su-ri, miền Gít-rơ-en, Ép-ra-im, Ben-gia-min và toàn thể
Ít-ra-en. 10 Ông Ít-bô-sét, con vua Sa-un, được bốn mươi tuổi khi
lên làm vua Ít-ra-en, và trị vì hai năm. Chỉ có nhà Giu-đa theo vua Ða-vít. 11
Thời gian vua Ða-vít làm vua tại Khép-rôn, cai trị nhà Giu-đa, là bảy năm
sáu tháng.
Giu-đa
và Ít-ra-en giao chiến. Trận Ghíp-ôn.
12
Ông
Áp-ne, con ông Ne, cùng bề tôi vua Ít-bô-sét, con vua Sa-un, ra quân từ
Ma-kha-na-gim, tiến về phía Ghíp-ôn. 13 Ông Giô-áp, con bà
Xơ-ru-gia, cùng bề tôi vua Ða-vít, ra quân từ Khép-rôn và gặp họ gần hồ
Ghíp-ôn. Một phe đóng ở bên này hồ, một phe đóng ở bên kia.
14
Ông
Áp-ne nói với ông Giô-áp: "Các trai tráng hãy đứng dậy và đấu trước mặt
chúng ta!" Ông Giô-áp nói: "Họ hãy đứng dậy!” 15 Họ đứng
lên và đi qua cho người ta đếm: mười hai người Ben-gia-min thuộc phía vua
Ít-bô-sét, con vua Sa-un, mười hai người trong số bề tôi vua Ða-vít. 16 Mỗi
người túm lấy đầu đối thủ của mình và lấy gươm đâm vào sườn đối thủ, khiến họ
đều cùng ngã gục. Người ta gọi nơi ấy là Thửa Ðất Ðá Tảng; thửa đất ấy ở
Ghíp-ôn.
17
Ngày
hôm ấy, cuộc giao tranh diễn ra rất ác liệt. Ông Áp-ne và người Ít-ra-en bị bề
tôi vua Ða-vít đánh bại. 18 Ở đó có ba con trai bà Xơ-ru-gia là ông
Giô-áp, ông A-vi-sai và ông A-xa-hên. Ông A-xa-hên có đôi chân lanh lẹ như sơn
dương ngoài đồng. 19 Ông A-xa-hên đuổi theo ông Áp-ne, chạy sau ông
ấy, không trệch bên phải bên trái. 20 Ông Áp-ne ngoái lại và hỏi:
"Có phải mày đó không, A-xa-hên?" Ông này trả lời: "Tao đây.” 21
Ông Áp-ne bảo ông ấy: "Mày hãy đi trệch sang bên phải hay bên trái,
túm lấy một đứa trong các đầy tớ kia và lột lấy áo của nó." Nhưng ông
A-xa-hên không chịu ngưng đuổi theo ông ấy. 22 Ông Áp-ne lại bảo ông
A-xa-hên lần nữa rằng: "Mày hãy ngưng đuổi theo tao. Mày muốn tao quật mày
xuống đất sao? Tao sẽ còn mặt mũi nào mà nhìn Giô-áp, anh mày được?” 23 Nhưng
ông A-xa-hên từ chối không chịu ngưng, nên ông Áp-ne lấy giáo đâm ngược vào
bụng ông ấy, và giáo xuyên qua lưng. Ông ngã xuống đó và chết ngay tại chỗ. Mọi
kẻ đến chỗ ông A-xa-hên ngã xuống chết, thì dừng lại.
24
Ông
Giô-áp và ông A-vi-sai đuổi theo ông Áp-ne. Khi mặt trời lặn, họ tới đồi Am-ma,
ở phía đông Ghi-ác, trên đường đi sa mạc Ghíp-ôn. 25 Con cái
Ben-gia-min tập hợp lại sau lưng ông Áp-ne, họ làm thành một khối và đóng trên
một đỉnh đồi. 26 Ông Áp-ne gọi ông Giô-áp và nói: "Chẳng lẽ cứ
để gươm chém giết mãi sao? Ông không biết rằng rốt cuộc chỉ là cay với đắng ư?
Ðến bao giờ ông mới bảo quân binh thôi không đuổi theo anh em của họ nữa?” 27
Ông Giô-áp nói: "Có Thiên Chúa hằng sống! Ông mà không nói, thì mãi
đến sáng quân binh mới thôi không đuổi theo anh em của họ.” 28 Ông
Giô-áp cho thổi tù và, tất cả quân binh dừng lại, không đuổi theo Ít-ra-en nữa,
và họ không còn tiếp tục giao chiến.
29
Ông
Áp-ne và người của ông đi trong vùng A-ra-va suốt đêm ấy, họ sang sông Gio-đan,
đi xuyên qua cả vùng Bít-rôn và tới Ma-kha-na-gim. 30 Ông Giô-áp
thôi không đuổi theo ông Áp-ne; ông tập hợp toàn thể quân binh lại; trong số bề
tôi vua Ða-vít thiếu mười chín người và ông A-xa-hên. 31 Bề tôi vua
Ða-vít đã hạ được ba trăm sáu mươi người trong số người Ben-gia-min và người
của ông Áp-ne, và những người này đã chết. 32 Người ta mang ông
A-xa-hên đi và chôn cất ông trong mộ của cha ông, tại Bê-lem. Ông Giô-áp và
người của ông đi suốt đêm, và khi trời sáng thì đến Khép-rôn.
Chương 03
1
Chiến
tranh kéo dài giữa nhà Sa-un và nhà Ða-vít. Vua Ða-vít ngày càng mạnh thêm, còn
nhà Sa-un thì ngày càng yếu đi.
Các
con vua Ða-vít sinh ra tại Khép-rôn (1 Sb 3:1-3)
2
Tại
Khép-rôn, vua Ða-vít đã sinh được những người con trai: con đầu lòng là Am-nôn,
do bà A-khi-nô-am người Gít-rơ-en; 3 người thứ hai là Ki-láp, do bà
A-vi-ga-gin, vợ ông Na-van người Các-men; người thứ ba là Áp-sa-lôm, do bà
Ma-a-kha, ái nữ của Tan-mai, vua Gơ-sua; 4 người thứ tư là
A-đô-ni-gia, do bà Khác-ghít; người thứ năm là Sơ-phát-gia, do bà A-vi-tan; 5
người thứ sáu là Gít-rơ-am, do bà Éc-la, vợ vua Ða-vít. Ðó là những người
con trai vua Ða-vít đã sinh được tại Khép-rôn.
Ông
Áp-ne đoạn giao với vua Ít-bô-sét
6
Trong
khi có chiến tranh giữa nhà Sa-un và nhà Ða-vít, ông Áp-ne củng cố địa vị trong
nhà Sa-un. 7 Vua Sa-un trước kia có người tỳ thiếp tên là Rít-pa,
con gái ông Ai-gia. Vua Ít-bô-sét nói với ông Áp-ne: "Tại sao ông đi lại
với tỳ thiếp của cha tôi?” 8 Ông Áp-ne giận lắm vì những lời vua
Ít-bô-sét và nói: "Tôi là đầu chó của Giu-đa sao? Hôm nay tôi lấy tình
nghĩa mà đối xử với nhà của vua Sa-un, cha ngài, với anh em của người và với
các bạn của người; tôi đã không để ngài rơi vào tay Ða-vít. Thế mà hôm nay ngài
lại bắt lỗi tôi về chuyện một người đàn bà! 9 Xin Thiên Chúa phạt Áp-ne thế này
và còn thêm thế kia nữa, nếu tôi không làm cho Ða-vít điều Ðức Chúa đã thề với
ông ấy, 10 là cất vương quyền khỏi nhà Sa-un và thiết lập ngai vàng
của Ða-vít trên Ít-ra-en và trên Giu-đa, từ Ðan đến Bơ-e Se-va!” 11 Vua
Ít-bô-sét không thể đáp lại ông Áp-ne một lời, vì vua sợ ông.
Ông
Áp-ne điều đình với vua Ða-vít
12
Ông
Áp-ne sai sứ giả thay mặt mình đến nói với vua Ða-vít: "Ðất này thuộc về
ai?" Ông nói: "Ngài hãy lập giao ước với tôi, tôi sẽ giúp ngài một
tay để làm cho toàn thể Ít-ra-en quay về với ngài.” 13 Vua đáp:
"Tốt. Tôi sẽ lập giao ước với ông. Tôi chỉ xin ông một điều: ông sẽ không
được ra mắt tôi, nếu ông không đem đến cho tôi bà Mi-khan, con gái vua Sa-un,
khi ông đến ra mắt tôi.” 14 Vua Ða-vít sai sứ giả đến nói với vua
Ít-bô-sét, con vua Sa-un: "Hãy trả lại tôi vợ tôi là Mi-khan, người tôi đã
nộp một trăm bao qui đầu người Phi-li-tinh để cưới.” 15 Vua
Ít-bô-sét sai người đến nhà chồng bà là ông Pan-ti-ên, con ông La-gít, để đem
bà về. 16 Chồng bà đi với bà; ông vừa đi theo vừa khóc, cho đến
Ba-khu-rim. Ông Áp-ne bảo ông ấy: "Thôi, về đi!" Ông ấy trở về.
17
Ông
Áp-ne ngỏ lời với các kỳ mục Ít-ra-en: "Ðã từ lâu, anh em ao ước được ông
Ða-vít làm vua. 18 Vậy bây giờ anh em hãy hành động, vì Ðức Chúa đã
phán về ông Ða-vít rằng: "Chính nhờ tay Ða-vít, tôi tớ Ta, mà Ta sẽ cứu
Ít-ra-en, dân Ta, khỏi tay người Phi-li-tinh và khỏi tay mọi kẻ thù của
nó".” 19 Ông Áp-ne cũng đã nói cho người Ben-gia-min nghe. Rồi
ông Áp-ne đi Khép-rôn nói cho vua Ða-vít nghe tất cả những gì Ít-ra-en và toàn
thể nhà Ben-gia-min coi là tốt.
20
Ông
Áp-ne đến với vua Ða-vít tại Khép-rôn, có hai mươi người cùng đi với ông. Vua
Ða-vít làm tiệc đãi ông Áp-ne và những người cùng đi với ông. 21 Ông
Áp-ne nói với ông Ða-vít: "Tôi sẽ lên đường đi tập hợp toàn thể Ít-ra-en
về cho đức vua là chúa thượng tôi. Họ sẽ lập giao ước với ngài và ngài sẽ làm
vua cai trị mọi nơi lòng ngài ao ước." Vua Ða-vít cho ông Áp-ne về, và ông
ra đi bình an.
Ông
Áp-ne bị giết
22
Trong
khi đó, các bề tôi vua Ða-vít cùng với ông Giô-áp đi hành quân trở về, đem theo
chiến lợi phẩm rất lớn. Ông Áp-ne không còn ở với vua Ða-vít tại Khép-rôn, vì
vua đã cho ông về, và ông đã ra đi bình an. 23 Khi ông Giô-áp và
toàn thể quân đội cùng đi với ông trở về, người ta báo tin cho ông Giô-áp rằng:
"Ông Áp-ne, con ông Ne, đã đến gặp nhà vua. Nhà vua đã cho ông ấy về, và
ông đã ra đi bình an.” 24 Ông Giô-áp đến gặp vua và nói: "Ngài
đã làm gì thế? Kìa, Áp-ne đã đến gặp ngài. Tại sao ngài cho nó về và nó đã ra
đi như vậy? 25 Ngài thừa biết Áp-ne, con ông Ne: nó đến chính là để lừa dối
ngài, để biết đường đi nước bước của ngài, và để biết tất cả những gì ngài
làm!"
26
Ở
nhà vua Ða-vít ra, ông Giô-áp sai người chạy theo ông Áp-ne. Tới bể nước Xi-ra,
họ mời ông trở lại, nhưng vua Ða-vít không biết gì. 27 Khi ông Áp-ne
về đến Khép-rôn, ông Giô-áp kéo riêng ông vào phía trong cửa thành, như để nói
chuyện thân mật với ông. Tại đó ông Giô-áp đâm vào bụng ông ấy, và ông ấy đã
chết để trả nợ máu ông A-xa-hên, em ông Giô-áp. 28 Sau đó, vua
Ða-vít nghe biết sự việc thì nói: "Ta và vương quốc của ta mãi mãi vô can
trước mặt Ðức Chúa về máu ông Áp-ne, con ông Ne. 29 Ước gì máu đó đổ
xuống đầu Giô-áp và xuống toàn thể nhà cha nó! Ước gì trong nhà Giô-áp không
bao giờ hết người mắc bệnh lậu hay phong hủi, người chỉ biết cầm con suốt,
người ngã gục dưới lưỡi gươm hay người thiếu bánh ăn!” 30 Ông Giô-áp
và ông A-vi-sai, anh ông, đã giết ông Áp-ne, bởi vì ông này đã giết ông
A-xa-hên, em của họ, trong trận Ghíp-ôn. 31 Vua Ða-vít nói với ông
Giô-áp và toàn thể quân binh theo ông: "Hãy xé áo mình ra, quấn áo vải thô
và cử hành tang lễ cho ông Áp-ne." Vua Ða-vít theo sau đòn cáng. 32 Người
ta chôn cất ông Áp-ne tại Khép-rôn. Vua oà lên khóc bên mộ ông Áp-ne, và toàn
dân cũng khóc.
33
Vua
làm bài văn tế khóc ông Áp-ne; vua nói:
"Há
Áp-ne lại phải chết cái chết của một thằng ngu?
34
Hỡi
ông, tay ông không bị trói,
chân
ông chẳng bị xiềng.
Như
người ta ngã gục
trước
những quân gian ác,
ông
đã phải ngã gục!"
Toàn
dân lại khóc ông.
35
Toàn
dân đến ép vua Ða-vít ăn đôi chút khi còn ban ngày. Nhưng vua Ða-vít thề rằng:
"Xin Thiên Chúa phạt tôi thế này và còn thêm thế kia nữa, nếu tôi nếm bánh
hay bất cứ cái gì trước khi mặt trời lặn!” 36 Toàn dân ghi nhận điều
đó và tán thành, như toàn dân vẫn tán thành mọi điều vua làm. 37 Hôm
ấy, toàn dân và toàn thể Ít-ra-en biết rằng không phải do lệnh vua mà ông
Áp-ne, con ông Ne, đã bị giết. 38 Vua nói với triều thần: "Các
ngươi không biết rằng, hôm nay, một vị tướng, một vĩ nhân đã ngã gục tại
Ít-ra-en sao? 39 Phần ta, hôm nay, ta còn yếu thế, tuy đã được xức dầu phong
vương, nhưng những người này là các con bà Xơ-ru-gia, thì cứng cỏi hơn ta. Xin
Ðức Chúa đáp trả kẻ làm điều ác, xứng với lòng độc ác của nó! "
Chương 04
Vua
Ít-bô-sét bị giết
1
Khi
người con vua Sa-un nghe tin ông Áp-ne đã chết tại Khép-rôn, thì tay chân rụng
rời; toàn thể Ít-ra-en cũng kinh hoàng. 2 Người con vua Sa-un có hai
tướng cướp, một thằng tên là Ba-a-na, một thằng tên là Rê-kháp. Chúng là con
ông Rim-môn người thành Bơ-ê-rốt, và thuộc chi tộc Ben-gia-min, vì cả Bơ-ê-rốt
cũng được kể như thuộc Ben-gia-min. 3 Người Bơ-ê-rốt đã trốn đến
Ghít-ta-gim và là ngoại kiều ở đó cho đến ngày nay. 4 Ông
Giô-na-than, con vua Sa-un, có một con trai bại hai chân. Nó được năm tuổi khi
người ta từ Gít-rơ-en đến báo tin về vua Sa-un và ông Giô-na-than. Vú nuôi mang
nó đi trốn, nhưng trong lúc chị hoảng hốt chạy trốn, nó ngã và bị què. Nó tên
là Mơ-phi-bô-sét.
5
Các
con ông Rim-môn người Bơ-ê-rốt, là Rê-kháp và Ba-a-na, đã lên đường và đã đến
nhà vua Ít-bô-sét vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Vua đang nằm ngủ trưa. 6
Chúng vào tận trong nhà, như để xúc lúa mì, đâm vào bụng vua, rồi Rê-kháp
và Ba-a-na, anh nó, trốn thoát. 7 Khi chúng vào nhà thì vua đang nằm
trên giường tại phòng ngủ, chúng đâm chết vua rồi chặt đầu. Rồi chúng mang đầu
vua và đi theo đường A-ra-va suốt đêm. 8 Chúng đem đầu vua Ít-bô-sét
đến cho vua Ða-vít tại Khép-rôn và nói với vua: "Ðây là đầu của Ít-bô-sét,
con vua Sa-un, kẻ thù của ngài, người đã tìm hại mạng sống ngài. Hôm nay Ðức
Chúa đã cho đức vua là chúa thượng tôi trả thù vua Sa-un và dòng dõi vua
ấy."
9
Vua
Ða-vít trả lời Rê-kháp và Ba-a-na, anh nó, là những người con ông Rim-môn người
Bơ-ê-rốt; vua nói: "Có Ðức Chúa hằng sống, Ðấng đã giải thoát ta khỏi mọi
cảnh ngặt nghèo! 10 Kẻ đưa tin cho ta rằng vua Sa-un đã chết, và coi mình là
người đưa tin mừng, thì ta đã túm lấy và giết đi ở Xích-lắc, để thưởng công nó
đã đem tin mừng. 11 Phương chi khi những kẻ ác ôn đã giết một người
công chính trong nhà người ấy, trên giường người ấy! Há bây giờ ta lại không
hỏi tội các ngươi về máu tay các ngươi đã đổ ra, và không khử trừ các ngươi
khỏi mặt đất sao?” 12 Vua Ða-vít ra lệnh cho đầy tớ. Họ giết chúng,
chặt tay chặt chân, rồi treo gần hồ Khép-rôn. Còn đầu vua Ít-bô-sét thì họ đem
đi và chôn trong mộ ông Áp-ne tại Khép-rôn.
Chương 05
2.
Vua Ða-Vít Trị Vì Giu-Ða Và Ít-Ra-En
Vua
Ða-vít được xức dầu tấn phong làm vua Ít-ra-en (1 Sb 11:1-3)
1
Toàn
thể các chi tộc Ít-ra-en đến gặp vua Ða-vít tại Khép-rôn và thưa: "Chúng
tôi đây là cốt nhục của ngài. 2 Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un làm
vua cai trị chúng tôi, chính ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Ít-ra-en.
Ðức Chúa đã phán với ngài: "Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en, dân Ta,
chính ngươi sẽ là người lãnh đạo Ít-ra-en.” 3 Toàn thể kỳ mục
Ít-ra-en đến gặp vua tại Khép-rôn. Vua Ða-vít lập giao ước với họ tại Khép-rôn,
trước nhan Ðức Chúa. Rồi họ xức dầu tấn phong Ða-vít làm vua Ít-ra-en.
4
Vua
Ða-vít được ba mươi tuổi khi lên làm vua, và trị vì bốn mươi năm. 5 Tại
Khép-rôn, vua trị vì Giu-đa bảy năm sáu tháng. Tại Giê-ru-sa-lem, vua trị vì
toàn thể Ít-ra-en và Giu-đa ba mươi ba năm.
Chiếm
Giê-ru-sa-lem (1 Sb 11:4-9)
6
Vua
và người của vua tiến về Giê-ru-sa-lem đánh người Giơ-vút là dân bản xứ. Chúng
nói với vua Ða-vít: "Ông sẽ không vào đây được, vì người mù người què sẽ
đẩy lui ông." Nghĩa là: "Ông Ða-vít sẽ không vào đây được.” 7 Vua
Ða-vít đã chiếm được đồn luỹ Xi-on, đó là Thành vua Ða-vít. 8 Ngày
hôm đó, vua Ða-vít nói: "Mọi kẻ muốn đánh người Giơ-vút, thì hãy qua đường
hầm mà tấn công người mù người què, những kẻ mà lòng vua Ða-vít ghét." Vì
thế có câu: "Người mù người què sẽ không được vào Ðền.” 9 Vua
Ða-vít đóng tại đồn luỹ và gọi đó là Thành vua Ða-vít. Rồi vua Ða-vít xây chung
quanh, từ nền Mi-lô vào phía trong. 10 Vua Ða-vít ngày càng mạnh
thế, và Ðức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, ở với vua.
11
Ông
Khi-ram, vua thành Tia, sai sứ giả đến với vua Ða-vít, đem theo gỗ bá hương,
thợ mộc, thợ đẽo đá xây, và họ đã xây nhà cho vua Ða-vít. 12 Vua
Ða-vít biết rằng Ðức Chúa đã đặt mình làm vua cai trị Ít-ra-en, và vì dân Người
là Ít-ra-en, Người đã làm cho vương quyền của vua được vinh hiển.
Các
con vua Ða-vít sinh ra tại Giê-ru-sa-lem (1 Sb 14:3-7)
13
Sau
khi từ Khép-rôn tới, vua Ða-vít lấy thêm tỳ thiếp và vợ ở Giê-ru-sa-lem, và vua
Ða-vít sinh thêm con trai con gái. 14 Ðây là tên những người vua
sinh được tại Giê-ru-sa-lem: Sam-mu-a, Sô-váp, Na-than, Sa-lô-môn, 15 Gíp-kha,
Ê-li-su-a, Ne-phéc, Gia-phia,16 Ê-li-sa-ma, En-gia-đa và Ê-li-phe-lét.
Chiến
thắng quân Phi-li-tinh (1 Sb 14:8-16)
17
Khi
quân Phi-li-tinh nghe biết là người ta đã xức dầu tấn phong vua Ða-vít làm vua
Ít-ra-en, thì toàn thể quân Phi-li-tinh lên tìm bắt vua Ða-vít. Vua Ða-vít nghe
tin liền xuống nơi ẩn náu. 18 Quân Phi-li-tinh đến và tràn vào thung
lũng người Ra-pha. 19 Vua Ða-vít thỉnh ý Ðức Chúa: "Con có nên
tiến đánh quân Phi-li-tinh không? Ngài có trao chúng vào tay con không?"
Ðức Chúa trả lời vua Ða-vít: "Cứ lên, vì chắc chắn ta sẽ trao quân
Phi-li-tinh vào tay ngươi.” 20 Vua Ða-vít đến Ba-an Pơ-ra-xim, và
vua Ða-vít đánh bại chúng ở đó. Vua nói: "Ðức Chúa đã chọc thủng quân thù
trước mặt tôi, như chỗ bị nước chọc thủng." Vì thế, người ta đặt tên cho
nơi ấy là Ba-an Pơ-ra-xim. 21 Chúng đã bỏ lại đó các tượng thần của
chúng, và vua Ða-vít và người của vua đã mang đi.
22
Một
lần nữa, quân Phi-li-tinh lại lên và tràn vào thung lũng người Ra-pha. 23 Vua
Ða-vít thỉnh ý Ðức Chúa; Người phán: "Ðừng lên, nhưng hãy đi vòng, đánh
tập hậu, và tấn công chúng từ phía lùm cây sếu. 24 Khi nào ngươi
nghe tiếng chân bước trên ngọn các cây sếu, bấy giờ ngươi hãy mau mau tấn công,
vì bấy giờ Ðức Chúa sẽ ra trận trước mặt ngươi để đánh quân đội Phi-li-tinh.” 25
Vua Ða-vít làm như Ðức Chúa đã truyền cho vua, và vua đã đánh bại người
Phi-li-tinh từ Ghe-va cho đến lối vào Ghe-de.
Chương 06
Rước
Hòm Bia về Giê-ru-sa-lem (1 Sb 13:1-14; 15:25 -16:3.43)
1
Vua
Ða-vít lại quy tụ toàn thể tinh binh Ít-ra-en: ba mươi ngàn người. 2 Từ
Ba-a-lê Giu-đa, vua Ða-vít lên đường và cùng đi với toàn dân đang ở với vua, để
đưa Hòm Bia Thiên Chúa từ đó lên, Hòm Bia mang danh Ðức Chúa các đạo binh, Ðấng
ngự trên các thần hộ giá. 3 Người ta đặt Hòm Bia Thiên Chúa lên một
cỗ xe mới và mang đi từ nhà ông A-vi-na-đáp ở trên đồi. Các con ông A-vi-na-đáp
là Út-da và Ác-giô điều khiển cỗ xe mới. 4 Họ đưa xe đi từ nhà ông
A-vi-na-đáp ở trên đồi, trên xe có Hòm Bia Thiên Chúa, còn ông Ác-giô đi trước
Hòm Bia. 5 Vua Ða-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en vui đùa trước nhan
Ðức Chúa, với mọi thứ nhạc cụ bằng gỗ trắc bá, với đàn cầm đàn sắt, trống con,
chũm choẹ, thanh la.
6
Khi
đoàn người tới sân lúa Na-khôn, thì ông Út-da giơ tay ra về phía Hòm Bia Thiên
Chúa và giữ lại, vì bò trượt chân. 7 Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ với
ông Út-da, và Thiên Chúa đánh phạt ông tại chỗ vì lầm lỗi đó. Ông chết tại đó,
bên Hòm Bia Thiên Chúa. 8 Vua Ða-vít buồn bực vì Ðức Chúa đã đột phá
hại ông Út-da. Người ta gọi nơi ấy là Pe-rét Út-da cho đến ngày nay.
9
Ngày
hôm đó, vua Ða-vít sợ Ðức Chúa, ông nói: "Hòm Bia Ðức Chúa đến với tôi thế
nào được?” 10 Vua Ða-vít không muốn đưa Hòm Bia Ðức Chúa về với mình
trong Thành vua Ða-vít, nên cho chuyển hướng sang nhà ông Ô-vết Ê-đôm, người
thành Gát. 11 Hòm Bia Ðức Chúa ở nhà ông Ô-vết Ê-đôm người thành Gát,
ba tháng, và Ðức Chúa giáng phúc cho ông Ô-vết Ê-đôm cùng cả nhà ông.
12
Người
ta báo tin cho vua Ða-vít rằng: "Vì Hòm Bia Thiên Chúa, Ðức Chúa đã giáng
phúc cho nhà ông Ô-vết Ê-đôm cùng tất cả những gì thuộc về ông." Vua
Ða-vít liền đi và rước Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông Ô-vết Ê-đôm lên Thành vua
Ða-vít, trong niềm hân hoan. 13 Khi những người khiêng Hòm Bia của
Ðức Chúa đi được sáu bước, thì vua sát tế một con bò và một con bê béo. 14
Vua Ða-vít quấn ê-phốt vải gai, nhảy múa hết sức mình trước nhan Ðức Chúa.
15 Vua Ða-vít và toàn thể nhà Ít-ra-en rước Hòm Bia Ðức Chúa lên
giữa tiếng hò reo với tiếng tù và. 16 Khi Hòm Bia Ðức Chúa vào Thành
vua Ða-vít, bà Mi-khan, con gái vua Sa-un, từ cửa sổ nhìn xuống thấy vua Ða-vít
nhảy múa quay cuồng trước nhan Ðức Chúa, thì sinh lòng khinh dể. 17 Người
ta đưa Hòm Bia Ðức Chúa đặt vào chỗ đã dọn giữa lều vua Ða-vít đã dựng sẵn. Vua
Ða-vít dâng lên trước nhan Ðức Chúa những lễ toàn thiêu và những lễ kỳ an. 18
Khi đã hoàn tất việc dâng các lễ toàn thiêu và lễ kỳ an, vua Ða-vít nhân
danh Ðức Chúa các đạo binh chúc phúc cho dân. 19 Rồi vua phân phát
cho toàn dân, cho tất cả đám đông Ít-ra-en, đàn ông cũng như đàn bà, mỗi người
một cái bánh ngọt, một phần thịt và một cái bánh nho. Rồi toàn dân ai nấy về
nhà mình.
20
Khi
vua Ða-vít trở về để chúc phúc cho nhà mình, bà Mi-khan, con gái vua Sa-un, ra
đón vua và nói: "Vua Ít-ra-en hôm nay thật là danh giá, khi để hở hang
trước mắt các nữ tỳ của tôi tớ mình, như một đứa vô danh tiểu tốt để hở hang!” 21
Vua Ða-vít nói với bà Mi-khan: "Trước nhan Ðức Chúa, Ðấng đã chọn
tôi thay vì thân phụ bà và cả nhà thân phụ bà, để đặt tôi làm người lãnh đạo
dân Ðức Chúa là Ít-ra-en, trước nhan Ðức Chúa tôi sẽ vui đùa. 22 Tôi
sẽ còn hạ mình hơn thế nữa, tôi sẽ coi mình là thấp hèn; nhưng đối với các nữ
tỳ mà bà nói, đối với chúng, tôi sẽ được danh giá.” 23 Và bà
Mi-khan, con gái vua Sa-un, không có con cho đến ngày chết.
Chương 07
Lời
sấm của ông Na-than (1 Sb 17:1-15)
1
Khi
vua được yên cửa yên nhà và Ðức Chúa đã cho vua được thảnh thơi mọi bề, không
còn thù địch nào nữa, 2 thì vua nói với ngôn sứ Na-than: "Ông
xem, tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Thiên Chúa thì ở trong lều
vải.” 3 Ông Na-than thưa với vua: "Tất cả những gì ngài ấp ủ
trong lòng, xin ngài cứ đi mà thực hiện, vì Ðức Chúa ở với ngài."
4
Nhưng
ngay đêm ấy, có lời Ðức Chúa phán với ông Na-than rằng:
5
"Hãy
đi nói với tôi tớ của Ta là Ða-vít: Ðức Chúa phán thế này: Ngươi mà xây nhà cho
Ta ở sao? 6 Thật vậy, từ ngày Ta đưa con cái Ít-ra-en lên từ Ai-cập cho tới
ngày hôm nay, Ta không hề ở trong một ngôi nhà, nhưng Ta đã nay đây mai đó
trong một cái lều và trong một nhà tạm. 7 Trong suốt thời gian rày
đây mai đó với toàn thể con cái Ít-ra-en, có bao giờ Ta đã lên tiếng hỏi một
trong các thủ lãnh Ít-ra-en mà Ta đã đặt lên chăn dắt dân Ta là Ít-ra-en:
"Sao các ngươi không xây cho Ta một ngôi nhà bằng gỗ bá hương? 8 Bây giờ
ngươi hãy nói với tôi tớ Ta là Ða-vít như sau: Ðức Chúa các đạo binh phán thế
này: Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người
lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en. 9 Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi;
mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ cho khuất mắt ngươi. Ta sẽ làm cho tên tuổi
ngươi lẫy lừng, như tên tuổi những bậc vĩ nhân trên mặt đất. 10 Ta
sẽ cho dân Ta là Ít-ra-en một chỗ ở, Ta sẽ định cư chúng, và chúng sẽ ở luôn
tại đó, chúng sẽ không còn run sợ, và quân gian ác cũng không còn tiếp tục áp
bức chúng như thuở ban đầu, 11 kể từ thời Ta đặt các thủ lãnh cai
quản dân Ta là Ít-ra-en. Ta sẽ cho ngươi được thảnh thơi, không còn thù địch
nào nữa, Ðức Chúa báo cho ngươi biết là Ðức Chúa lập cho ngươi một nhà. 12
Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ
cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do chính ngươi sinh ra-, và
Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. 13 Chính nó sẽ xây
một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi.
14 Ðối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. Khi nó phạm
lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó bằng roi của người phàm, bằng đòn của con người. 15
Tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó, như Ta đã cho rời khỏi Sa-un, kẻ
Ta đã bắt rời khỏi mặt ngươi. 16 Nhà của ngươi và vương quyền của
ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi
mãi."
17
Ông
Na-than đã nói lại với vua Ða-vít, đúng y như tất cả những lời ấy và tất cả thị
kiến ấy.
Vua
Ða-vít cầu nguyện (1 Sb 17:16 -27)
18
Vua
Ða-vít vào ngồi chầu trước nhan Ðức Chúa và thưa: "Lạy Ðức Chúa là Chúa
Thượng, con là ai và nhà của con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? 19
Nhưng lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho
nhà của tôi tớ Ngài một tương lai lâu dài. Phải chăng đó là luật chung cho con
người, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng? 20 Ða-vít còn nói được gì thêm với Ngài?
Ngài biết tôi tớ Ngài, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng! 21 Vì lời Ngài đã phán và
theo như lòng Ngài muốn, Ngài đã thực hiện tất cả công trình vĩ đại này, để làm
cho tôi tớ Ngài được biết. 22 Vì thế, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng,
Ngài thật vĩ đại: không ai sánh được như Ngài; và không có Thiên Chúa nào khác
ngoại trừ Ngài, theo như mọi điều tai chúng con đã từng được nghe. 23 Dưới
đất có một dân tộc nào được như dân Ngài là Ít-ra-en? Thiên Chúa đã đến cứu
chuộc dân này để làm thành dân của Ngài, đặt tên cho nó, thực hiện cho nó những
điều vĩ đại và khủng khiếp, hầu xua đuổi các dân tộc và các thần của chúng cho
khuất mắt dân mà Ngài đã cứu chuộc từ Ai-cập về cho mình. 24 Ngài đã
lập Ít-ra-en, dân Ngài, để nó thành dân Ngài mãi mãi; còn Ngài, lạy Ðức Chúa,
Ngài đã trở thành Thiên Chúa của chúng. 25 Giờ đây, lạy Ðức Chúa là
Thiên Chúa, lời Ngài đã phán về tôi tớ Ngài và nhà của nó, xin Ngài giữ mãi
mãi, và xin hành động như Ngài đã phán. 26 Danh Ngài sẽ vĩ đại mãi
mãi và người ta sẽ nói: "Ðức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa thống trị
Ít-ra-en. Nhà của tôi tớ Ngài là Ða-vít sẽ vững bền trước nhan Ngài. 27 Thật
vậy, lạy Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en, chính Ngài đã mặc khải
cho tôi tớ Ngài rằng: Ta sẽ xây cho ngươi một nhà. Vì thế tôi tớ Ngài đủ can
đảm dâng lên Ngài lời cầu nguyện ấy. 28 Giờ đây, lạy Ðức Chúa là
Chúa Thượng, chính Ngài là Thiên Chúa, những lời Ngài phán là chân lý, và Ngài
đã hứa ban cho tôi tớ Ngài điều tốt đẹp ấy. 29 Vậy giờ đây, cúi xin
Ngài giáng phúc cho nhà của tôi tớ Ngài, để nhà ấy được tồn tại mãi trước nhan
Ngài. Bởi vì, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài đã phán, và nhờ Ngài
giáng phúc mà nhà của tôi tớ Ngài sẽ được chúc lành mãi mãi."
Chương 08
Các
cuộc chiến tranh thời vua Ða-vít (1 Sb 18:1-13)
1
Sau
đó, vua Ða-vít đánh bại người Phi-li-tinh, hạ nhục chúng và đoạt quyền bá chủ
từ tay người Phi-li-tinh. 2 Vua đánh bại người Mô-áp, bắt chúng nằm
rạp xuống đất và lấy dây đo: vua đo hai dây để giết và đủ một dây để cho sống.
Người Mô-áp phải làm nô lệ cho vua Ða-vít và triều cống vua.
3
Vua
Ða-vít đánh bại vua nước Xô-va là Ha-đát-e-de, con ông Rơ-khốp, khi vua này đi
tái lập chủ quyền trên vùng Sông Cả. 4 Vua Ða-vít bắt được của vua
ấy một ngàn bảy trăm kỵ binh và hai mươi ngàn bộ binh; và vua Ða-vít đã cắt gân
chân tất cả những con ngựa kéo xe, chỉ chừa lại một trăm. 5 Người
A-ram ở Ða-mát đến cứu viện Ha-đát-e-de, vua Xô-va, nhưng vua Ða-vít đã hạ của
A-ram hai mươi ngàn người. 6 Vua Ða-vít đặt những trấn thủ cai trị
người A-ram ở Ða-mát; người A-ram phải làm nô lệ cho vua Ða-vít và triều cống
vua. Ðức Chúa đã cho vua Ða-vít đi đâu thắng đó. 7 Vua Ða-vít lấy
các khiên vàng mà tôi tớ vua Ha-đát-e-de mang, và đưa về Giê-ru-sa-lem. 8 Tại
Be-tác và Bê-rô-thai, các thành của vua Ha-đát-e-de, vua Ða-vít đã lấy được rất
nhiều đồng.
9
Tô-i,
vua Kha-mát, nghe tin vua Ða-vít đã đánh bại toàn thể quân đội vua Ha-đát-e-de.
10 Vua Tô-i sai con là Giô-ram đến với vua Ða-vít để vấn an và chúc
mừng vua vì đã chiến đấu với vua Ha-đát-e-de và đánh bại vua ấy, vì vua
Ha-đát-e-de là kẻ thù của vua Tô-i. Giô-ram mang theo những đồ bạc, đồ vàng và
đồ đồng. 11 Các đồ ấy, vua Ða-vít cũng đã thánh hiến cho Ðức Chúa,
cùng với bạc và vàng vua đã thánh hiến, bạc vàng của mọi dân tộc vua đã khuất
phục, 12 là: A-ram, Mô-áp, con cái Am-mon, người Phi-li-tinh và
A-ma-lếch, cũng như từ chiến lợi phẩm thu được của vua Xô-va là Ha-đát-e-de,
con ông Rơ-khốp.
13
Vua
Ða-vít làm cho danh mình lẫy lừng, lúc trở về sau khi đánh bại mười tám ngàn
người Ê-đôm trong thung lũng Muối. 14 Vua Ða-vít đặt các trấn thủ
tại Ê-đôm; vua đặt các trấn thủ trong toàn xứ Ê-đôm, và toàn dân Ê-đôm phải làm
nô lệ cho vua Ða-vít. Ðức Chúa đã cho vua Ða-vít đi đâu thắng đó.
Việc
cai trị vương quốc (1 Sb 18:14 -17)
15
Vua
Ða-vít trị vì toàn thể Ít-ra-en. Vua Ða-vít thực hiện điều chính trực công minh
cho toàn dân. 16 Ông Giô-áp, con bà Xơ-ru-gia, chỉ huy quân đội. Ông
Giơ-hô-sa-phát, con ông A-khi-lút, làm quốc vụ khanh. 17 Ông Xa-đốc,
con ông A-khi-túp, và ông A-khi-me-léc con ông Ép-gia-tha, làm tư tế. Ông
Xơ-ra-gia làm ký lục. 18 Ông Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa,
chỉ huy quân Cơ-rê-thi và quân Pơ-lê-thi. Các con trai vua Ða-vít làm tư tế.
Chương 09
3.
Gia Ðình Vua Ða-Vít. Việc Kế Thừa Ngôi Vua.
A.
Mơ-phi-bô-sét
Vua
Ða-vít xử tốt với con trai ông Giô-na-than
1
Vua
Ða-vít nói: "Nhà Sa-un có còn người nào sống sót không? Vì ông
Giô-na-than, ta sẽ lấy tình mà đối xử với người ấy.” 2 Nhà Sa-un có
một người tôi tớ tên là Xi-va. Người ta mời ông đến gặp vua Ða-vít. Vua hỏi
ông: "Ngươi là Xi-va phải không? " Ông thưa: "Chính tôi tớ ngài
đây.” 3 Vua bảo ông: "Nhà Sa-un không còn người nào nữa sao, để
ta lấy tình mà đối xử với người ấy như Thiên Chúa đòi hỏi?" Ông Xi-va trả
lời vua: "Vẫn còn một người con trai của ông Giô-na-than, bị bại hai chân.”
4 Vua hỏi ông: "Ông ấy ở đâu?" Ông Xi-va trả lời vua:
"Ông ấy đang ở nhà ông Ma-khia, con ông A-mi-ên, tại Lô Ðơ-va.” 5 Vua
Ða-vít sai người đi đón ông về từ nhà ông Ma-khia, con ông Am-mi-ên, tại Lô
Ðơ-va.
6
Khi
ông Mơ-phi-bô-sét, con ông Giô-na-than, cháu vua Sa-un, đến gặp vua Ða-vít, ông
cúi rạp xuống mà lạy. Vua Ða-vít gọi: "Mơ-phi-bô-sét!" Ông thưa:
"Dạ, tôi tớ ngài đây!” 7 Vua Ða-vít bảo ông: "Ðừng sợ! Vì
ông Giô-na-than, cha cháu, ta muốn lấy tình mà đối xử với cháu. Ta sẽ trả cho
cháu tất cả ruộng đất của vua Sa-un, ông của cháu. Phần cháu, cháu sẽ luôn luôn
dùng bữa tại bàn ăn của ta.” 8 Ông lạy và nói: "Tôi tớ ngài là
gì, mà ngài quay về phía một con chó chết như cháu?"
9
Vua
Ða-vít gọi ông Xi-va, đầy tớ vua Sa-un, và bảo ông: "Tất cả những gì thuộc
về vua Sa-un và thuộc về toàn thể nhà Sa-un, ta ban cho con trai của chủ ngươi.
10 Ngươi, con cái ngươi và tôi tớ ngươi sẽ cày cấy đất đai cho ông
ấy. Ngươi sẽ thu hoạch và cái đó sẽ là lương thực cho con của chủ ngươi ăn. Còn
ông Mơ-phi-bô-sét, con của chủ ngươi, ông sẽ luôn luôn dùng bữa tại bàn ăn của
ta." Ông Xi-va có mười lăm con trai và hai mươi tôi tớ. 11 Ông
Xi-va thưa vua: "Tất cả những gì đức vua là chúa thượng tôi truyền cho tôi
tớ ngài, tôi tớ ngài sẽ làm như thế." Vậy ông Mơ-phi-bô-sét ăn tại bàn của
vua, như một trong các hoàng tử. 12 Ông Mơ-phi-bô-sét có một con
trai nhỏ tên là Mi-kha. Mọi người ở trong nhà ông Xi-va đều là tôi tớ ông
Mơ-phi-bô-sét. 13 Nhưng ông Mơ-phi-bô-sét ở Giê-ru-sa-lem, vì ông
luôn luôn ăn tại bàn của vua. Ông bị què hai chân.
Chương 10
B.
Chiến tranh với Am-mon. Vua Sa-lô-môn sinh ra.
Người
Am-mon làm nhục sứ giả vua Ða-vít (1 Sb 19:1-5)
1
Sau
đó, vua của con cái Am-mon qua đời, và Kha-nun, con vua ấy, lên ngôi kế vị. 2
Vua Ða-vít nói: "Ta sẽ lấy tình mà đối xử với vua Kha-nun, con vua
Na-khát, như cha vua ấy đã lấy tình mà đối xử với ta. Vua Ða-vít sai bề tôi
chuyển lời chia buồn với vua ấy về vua cha. Nhưng khi bề tôi vua Ða-vít đến đất
con cái Am-mon, 3 thì các tướng lãnh của con cái Am-mon thưa với vua
Kha-nun, chúa thượng của chúng: "Ngài tưởng là Ða-vít kính trọng vua cha
khi sai người đến chia buồn với ngài sao? Chẳng phải Ða-vít đã sai bề tôi đến
với ngài là để quan sát thành, dò thám và lật đổ thành sao?” 4 Vua
Kha-nun liền bắt bề tôi vua Ða-vít, cạo một nửa râu và cắt một nửa áo của họ
cho đến mông, rồi thả về. 5 Người ta báo tin cho vua Ða-vít, vua sai
người đi đón họ, vì những người ấy nhục nhã lắm. Vua bảo: "Các ngươi cứ ở
lại Giê-ri-khô chờ cho râu mọc lại rồi hãy về."
Chiến
dịch thứ nhất đánh người Am-mon (1 Sb 19:6-15)
6
Con
cái Am-mon thấy rằng mình đã trở nên đáng ghét đối với vua Ða-vít. Con cái
Am-mon đã sai người đi thuê của dân A-ram ở Bết Rơ-khốp và dân A-ram ở Xô-va:
hai mươi ngàn bộ binh; của vua thành Ma-a-kha: một ngàn người; của dân thành
Tốp: mười hai ngàn người. 7 Vua Ða-vít nghe tin thì sai ông Giô-áp
đi với toàn thể đạo binh các dũng sĩ. 8 Con cái Am-mon tiến ra và
dàn trận ở lối vào cửa thành. Quân A-ram Xô-va, quân A-ram Rơ-khốp, quân Tốp và
quân Ma-a-kha thì đóng riêng ngoài đồng. 9 Ông Giô-áp thấy rằng mình
phải đối phó với mặt trận cả phía trước lẫn phía sau, nên đã chọn trong toàn
thể tinh binh của Ít-ra-en một số người và dàn trận đối diện với người A-ram. 10
Phần quân còn lại, ông giao cho ông A-vi-sai, anh ông, để dàn trận đối
diện với con cái Am-mon. 11 Ông nói: "Nếu người A-ram mạnh hơn
tôi, thì bác sẽ cứu viện tôi. Còn nếu con cái Am-mon mạnh hơn bác, thì tôi sẽ
đến cứu viện bác. 12 Can đảm lên, chúng ta hãy tỏ ra can đảm, vì dân
chúng ta và vì các thành của Thiên Chúa chúng ta! Xin Ðức Chúa thực hiện điều
Người coi là tốt!” 13 Ông Giô-áp và quân binh của ông tiến lên giao
chiến với quân A-ram, và chúng chạy trốn trước mặt họ. 14 Khi con
cái Am-mon thấy quân A-ram chạy trốn, thì chúng cũng chạy trốn trước mặt ông
A-vi-sai và rút về thành. Sau khi thắng con cái Am-mon, ông Giô-áp trở về Giê-ru-sa-lem.
Thắng
quân A-ram (1 Sb 19:16 -19)
15
Người
A-ram thấy mình bị Ít-ra-en đánh bại, thì họp lại với nhau. 16 Vua
Ha-đát-e-de sai người đi chiêu mộ người A-ram ở bên kia Sông Cả. Chúng đến
Khê-lam, có Sô-vác, tướng chỉ huy quân đội của vua Ha-đát-e-de, cầm đầu. 17
Người ta báo tin cho vua Ða-vít. Vua quy tụ toàn thể Ít-ra-en, vượt sông
Gio-đan và đến Khê-lam. Người A-ram dàn trận đối diện với vua Ða-vít và giao
chiến với vua. 18 Người A-ram chạy trốn trước mặt Ít-ra-en. Vua
Ða-vít tiêu diệt của người A-ram bảy trăm chiến xa và bốn mươi ngàn kỵ binh.
Còn Sô-vác, tướng chỉ huy quân đội, thì bị vua hạ và chết tại đó. 19 Tất
cả các vua chư hầu của vua Ha-đát-e-de thấy mình bị Ít-ra-en đánh bại, thì cầu
hoà với Ít-ra-en và làm tôi họ. Người A-ram sợ không dám cứu viện con cái
Am-mon nữa.
Chương 11
Chiến
dịch thứ hai đánh người Am-mon. Vua Ða-vít phạm tội.
1
Lúc
xuân về, thời mà các vua ra quân, vua Ða-vít sai ông Giô-áp đi, cùng với các bề
tôi của vua và toàn thể Ít-ra-en. Họ giết hại con cái Am-mon và vây hãm Ráp-ba.
Còn vua Ða-vít thì ở lại Giê-ru-sa-lem.
2
Vào
một buổi chiều, vua Ða-vít từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân
thượng đền vua. Từ sân thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng nhan
sắc tuyệt vời. 3 Vua Ða-vít sai người đi điều tra về người đàn bà,
và người ta nói: "Ðó chính là bà Bát Se-va, con gái ông Ê-li-am, vợ ông
U-ri-gia người Khết.” 4 Vua Ða-vít sai lính biệt phái đến đón nàng.
Nàng đến với vua và vua nằm với nàng; khi ấy nàng mới thanh tẩy sau thời kỳ ô
uế. Rồi nàng trở về nhà. 5 Người đàn bà thụ thai. Nàng sai người đến
báo tin cho vua Ða-vít rằng: "Tôi có thai."
6
Vua
Ða-vít sai người đến nói với ông Giô-áp: "Hãy sai U-ri-gia, người Khết, về
gặp ta." Ông Giô-áp sai ông U-ri-gia về gặp vua Ða-vít. 7 Khi
ông U-ri-gia đến với vua, vua Ða-vít hỏi thăm về ông Giô-áp, về quân binh, về
chiến sự. 8 Rồi vua Ða-vít bảo ông U-ri-gia: "Hãy xuống nhà của
ngươi và rửa chân." Ông U-ri-gia ra khỏi đền vua, có người bưng ra một
phần thức ăn của nhà vua theo sau. 9 Nhưng ông U-ri-gia nằm ở cửa
đền vua với tất cả các bề tôi của chúa thượng ông, và ông không xuống nhà mình.
10
Người
ta báo tin cho vua Ða-vít rằng: "Ông U-ri-gia đã không xuống nhà
ông." Vua Ða-vít hỏi ông U-ri-gia: "Chẳng phải ngươi đi đường xa mới
về ư? Tại sao ngươi không xuống nhà của ngươi?” 11 Ông U-ri-gia thưa
với vua Ða-vít: "Hòm Bia cũng như Ít-ra-en và Giu-đa đang ở lều, chủ tướng
tôi là ông Giô-áp và các bề tôi của chúa thượng đang đóng trại ở ngoài đồng
trống, mà tôi đây lại về nhà ăn uống và nằm với vợ tôi sao? Tôi xin lấy mạng
sống của ngài, lấy chính mạng sống của ngài mà thề: tôi sẽ không làm điều ấy!” 12
Vua Ða-vít bảo ông U-ri-gia: "Hãy ở lại đây hôm nay nữa, ngày mai ta
sẽ cho ngươi đi." Ông U-ri-gia ở lại Giê-ru-sa-lem ngày hôm đó. Ngày hôm
sau, 13 vua Ða-vít mời ông; ông ăn uống trước mặt vua, và vua cho
ông uống say. Ðến chiều, ông ra nằm giường của ông cùng với các bề tôi của chúa
thượng ông, nhưng không xuống nhà mình.
14
Sáng
hôm sau, vua Ða-vít viết thư cho ông Giô-áp và gửi ông U-ri-gia mang đi. 15
Trong thư, vua viết rằng: "Hãy đặt U-ri-gia ở hàng đầu, chỗ mặt trận
nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết.” 16 Ông
Giô-áp đang thám sát thành liền để ông U-ri-gia ở chỗ ông biết là có quân hùng
mạnh nhất. 17 Người trong thành xông ra, giao chiến với ông Giô-áp.
Một số người trong quân binh, trong các bề tôi vua Ða-vít đã ngã gục, và ông
U-ri-gia, người Khết, cũng chết.
18
Ông
Giô-áp sai người về báo cho vua Ða-vít biết tất cả diễn tiến trận đánh. 19
Ông ra lệnh cho người lính biệt phái rằng: "Khi anh kể tất cả diễn
tiến trận đánh cho đức vua xong, 20 nếu cơn giận đức vua nổi lên và
người hỏi anh: "Tại sao các ngươi lại đến gần thành mà giao chiến? Các
ngươi không biết là người ta bắn từ trên tường thành xuống sao? 21 Ai đã hạ
A-vi-me-léc, con ông Giơ-rúp-be-sét? Chẳng phải một người đàn bà đã liệng xuống
ông một thớt cối đá và ông đã chết tại Tê-vết đó sao? Tại sao các ngươi lại đến
gần tường thành?, thì anh sẽ nói: "Tôi tớ ngài là ông U-ri-gia, người
Khết, cũng đã chết"."
22
Người
lính biệt phái ra đi và đến báo cho vua Ða-vít biết mọi điều ông Giô-áp đã sai
anh về nói. 23 Người lính biệt phái nói với vua Ða-vít: "Những
người ấy đã mạnh hơn chúng tôi và đã xông ra đánh chúng tôi ở ngoài đồng, nhưng
chúng tôi đã đẩy lui chúng cho đến lối vào cửa thành. 24 Từ trên
tường thành, lính bắn cung đã bắn xuống các bề tôi của ngài. Một số bề tôi đức
vua đã chết, cả tôi tớ ngài là ông U-ri-gia, người Khết, cũng đã chết."
25
Vua
Ða-vít bảo người lính biệt phái: "Hãy nói với ông Giô-áp thế này:
"Ðừng bực mình về chuyện ấy, vì việc binh đao là thế: khi thì người này,
khi thì người kia bị chém. Hãy mạnh mẽ tấn công và phá huỷ thành. Ngươi hãy
khích lệ ông ấy."
26
Vợ
ông U-ri-gia nghe tin ông U-ri-gia, chồng mình, đã chết, thì làm ma cho chồng. 27
Khi tang lễ đã qua, vua Ða-vít sai người đi đón nàng về nhà mình. Nàng
trở thành vợ vua và sinh cho vua một con trai. Nhưng hành động của vua Ða-vít
không đẹp lòng Ðức Chúa.
Chương 12
Ngôn
sứ Na-than trách vua Ða-vít. Vua hối hận.
1
Ðức
Chúa sai ông Na-than đến với vua Ða-vít. Ông vào gặp vua và nói với vua:
"Có
hai người ở trong cùng một thành,
một
người giàu, một người nghèo.
2
Người
giàu thì có chiên dê và bò, nhiều lắm.
3
Còn
người nghèo chẳng có gì cả,
ngoài
con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua.
Ông
nuôi nó, nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông,
nó
ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông,
ngủ
trong lòng ông: ông coi nó như một đứa con gái.
4
Có
khách đến thăm người giàu,
ông
này tiếc của, không bắt chiên dê hay bò của mình
mà
làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông.
Ông
bắt con chiên cái của người nghèo
mà
làm thịt đãi người đến thăm ông."
5
Vua
Ða-vít bừng bừng nổi giận với người ấy và nói với ông Na-than: "Có Ðức
Chúa hằng sống! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết! 6 Nó phải đền gấp bốn con
chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót.” 7 Ông
Na-than nói với vua Ða-vít: "Kẻ đó chính là ngài! Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en, phán thế này: Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị
Ít-ra-en, chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Sa-un. 8 Ta đã
ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng
ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Ít-ra-en và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu
mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. 9 Vậy
tại sao ngươi lại khinh dể lời Ðức Chúa mà làm điều dữ trái mắt Người? Ngươi đã
dùng gươm đâm U-ri-gia, người Khết; vợ y, ngươi đã cướp làm vợ ngươi; còn chính
y, ngươi đã dùng gươm của con cái Am-mon mà giết. 10 Ấy vậy, gươm sẽ
không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và
cướp vợ của U-ri-gia, người Khết, làm vợ ngươi.
11
"Ðức
Chúa phán thế này: Ta sắp dùng chính nhà của ngươi mà gây hoạ cho ngươi. Ta sẽ
bắt các vợ của ngươi trước mắt ngươi mà cho một người khác, và nó sẽ nằm với
các vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch nhật. 12 Thật vậy, ngươi đã
hành động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước mặt toàn thể Ít-ra-en và
giữa thanh thiên bạch nhật."
13
Bấy
giờ vua Ða-vít nói với ông Na-than: "Tôi đắc tội với Ðức Chúa." Ông
Na-than nói với vua Ða-vít: "Về phía Ðức Chúa, Người đã bỏ qua tội của
ngài; ngài sẽ không phải chết. 14 Thế nhưng vì trong việc này ngài
đã cả gan khinh thị Ðức Chúa, nên đứa trẻ ngài sinh được, chắc chắn sẽ phải
chết.” 15 Rồi ông Na-than trở về nhà.
Con
bà Bát Se-va chết. Vua Sa-lô-môn chào đời.
16
Vua
Ða-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà
ngủ đêm thì nằm dưới đất. 17 Các kỳ mục trong nhà của vua nài nỉ xin
vua trỗi dậy, nhưng vua không chịu và cũng chẳng ăn chút gì với họ. 18 Ðến
ngày thứ bảy, đứa bé chết. Triều thần vua Ða-vít sợ không dám báo tin cho vua
biết là đứa bé đã chết, vì họ bảo nhau: "Khi đứa trẻ còn sống, chúng ta đã
nói với đức vua và người đã không nghe chúng ta. Bây giờ làm thế nào để nói với
người là đứa bé đã chết? Hẳn người sẽ làm liều!” 19 Thấy triều thần
thì thầm với nhau, vua Ða-vít hiểu là đứa bé đã chết. Vua Ða-vít hỏi triều
thần: "Có phải đứa bé chết rồi không?" Họ thưa: "Vâng, chết
rồi!"
20
Bấy
giờ vua Ða-vít từ dưới đất trỗi dậy, tắm rửa, xức dầu thơm, thay quần áo; rồi
vua vào Nhà Ðức Chúa mà phủ phục. Trở về nhà, vua yêu cầu người ta dọn bữa, và
vua đã ăn. 21 Triều thần nói với vua: "Ngài làm gì vậy? Khi đứa
bé còn sống, thì ngài ăn chay và khóc lóc vì nó. Khi đứa bé chết rồi, thì ngài
lại trỗi dậy và dùng bữa!” 22 Vua trả lời: "Bao lâu đứa bé còn
sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: "Biết đâu Ðức Chúa sẽ thương
xót ta và đứa bé sẽ sống! 23 Bây giờ nó chết rồi, ta ăn chay làm gì? Hỏi rằng
ta còn có thể làm cho nó trở lại được không? Ta đi đến với nó, chứ nó không trở
lại với ta."
24
Vua
Ða-vít an ủi bà Bát Se-va, vợ mình. Vua đến với nàng và nằm với nàng. Nàng sinh
một con trai và vua gọi tên nó là Sa-lô-môn. Ðức Chúa yêu thương nó, 25 và
sai ngôn sứ Na-than đến cho biết điều đó. Vì Ðức Chúa, ông gọi tên nó là
Giơ-đi-đơ-gia.
Hạ
thành Ráp-ba (1 Sb 20:1-3)
26
Ông
Giô-áp tấn công thành Ráp-ba của con cái Am-mon và hạ được hoàng thành. 27
Ông Giô-áp sai lính biệt phái về nói với vua Ða-vít: "Tôi đã tấn
công Ráp-ba, tôi còn hạ được cả thành dưới, chỗ có nhiều nước. 28 Giờ
đây, xin ngài tập hợp số quân binh còn lại, bao vây và chiếm thành, kẻo chính
tôi sẽ hạ thành và nó sẽ mang tên tôi.” 29 Vua Ða-vít tập hợp toàn
thể quân binh, đi Ráp-ba, tấn công và hạ thành. 30 Vua lột vương
miện trên đầu vua chúng, vương miện cân nặng ba mươi ký vàng và có một viên
ngọc quý; viên ngọc ấy được đặt trên đầu vua Ða-vít. Vua lấy đi rất nhiều chiến
lợi phẩm của thành. 31 Còn dân trong thành thì vua đưa đi và bắt
phải làm những việc dùng đến cưa, cuốc sắt, rìu sắt, và phải đúc gạch. Vua xử
như thế với mọi thành của con cái Am-mon. Rồi vua Ða-vít và toàn thể quân binh
trở về Giê-ru-sa-lem.
Chương 13
C.
Truyện Áp-sa-lôm
Am-nôn
làm nhục em gái là Ta-ma
1
Sau
đó xảy ra chuyện này. Áp-sa-lôm, con trai vua Ða-vít, có một cô em gái xinh
đẹp, tên là Ta-ma. Am-nôn, con trai vua Ða-vít, yêu cô. 2 Am-nôn
khắc khoải đến ốm tương tư vì Ta-ma, em gái cậu, bởi cô là gái còn trinh và
Am-nôn thấy không có cách làm gì được cô. 3 Am-nôn có người bạn tên
là Giô-na-đáp, con ông Sim-a, ông này là anh vua Ða-vít. Giô-na-đáp là người
rất khôn lanh. 4 Cậu hỏi Am-nôn: "Này hoàng tử, sao mà sáng nào
cũng bơ phờ như thế? Không nói cho anh biết được sao?" Am-nôn nói với cậu:
"Em yêu Ta-ma, em gái của Áp-sa-lôm em trai em.” 5 Giô-na-đáp
bảo cậu: "Chú cứ nằm trên giường và giả bệnh. Cha của chú sẽ đến thăm chú,
chú sẽ thưa với người: "Xin cho phép Ta-ma, em con, đến lo việc ăn uống
cho con: em con sẽ làm món ăn trước mắt con, để con thấy, và sẽ tự tay mang đến
cho con ăn".” 6 Am-nôn đi nằm và giả bệnh. Vua đến thăm, và
Am-nôn thưa với vua: "Xin cho phép Ta-ma, em con, đến làm trước mắt con
hai cái bánh và tự tay mang đến cho con dùng.” 7 Vua Ða-vít sai
người đến nhà cô Ta-ma mà bảo: "Con hãy đến nhà Am-nôn, anh con, và làm
món ăn cho anh.” 8 Ta-ma đến nhà Am-nôn, anh cô. Cậu đang nằm. Cô
lấy bột, nhào, làm bánh trước mắt cậu và đem chiên. 9 Rồi cô cầm
chảo và đổ bánh ra trước mặt cậu, nhưng cậu từ chối không chịu ăn. Am-nôn nói:
"Hãy bảo mọi người ra khỏi đây." Mọi người ra khỏi đó. 10 Am-nôn
bảo Ta-ma: "Em đưa món ăn vào trong phòng, và tự tay mang đến cho anh
dùng." Ta-ma lấy những cái bánh cô đã làm, và đưa vào phòng cho Am-nôn,
anh cô. 11 Cô đang bưng đến cho cậu thì cậu nắm lấy cô và nói với
cô: "Ðến đây em, nằm với anh đi!” 12 Cô bảo cậu: "Ðừng,
anh! Ðừng cưỡng hiếp em; vì không được phép làm điều ấy trong Ít-ra-en. Chớ làm
chuyện đồi bại ấy. 13 Em đây, em sẽ mang nỗi hổ nhục của em đi đâu?
Còn anh, anh sẽ bị coi như một tên đồi bại trong Ít-ra-en. Bây giờ, xin anh cứ
thưa với đức vua, người sẽ không từ chối gả em cho anh đâu.” 14 Nhưng
cậu không muốn nghe lời cô. Mạnh hơn cô, cậu cưỡng hiếp cô và nằm với cô.
15
Bấy
giờ Am-nôn đâm ra ghét cô, ghét thậm tệ: cậu còn ghét cô hơn là đã yêu cô.
Am-nôn bảo cô: "Ðứng dậy! Cút đi!” 16 Cô nói với cậu:
"Ðừng, đuổi em như vậy còn ác hơn là điều ác anh vừa làm đối với em."
Nhưng cậu không muốn nghe cô. 17 Cậu gọi người đầy tớ hầu hạ cậu và
bảo: "Ðuổi cô này ra khỏi đây và khoá cửa lại sau khi cô ấy ra.” 18 Bấy
giờ cô đang mặc áo chùng dài tay, vì các công chúa còn trinh thường mặc như
thế. Người hầu của cậu cho cô ra ngoài, rồi khoá cửa lại sau khi cô ra.
19
Ta-ma
lấy tro bụi rắc lên đầu, xé cái áo chùng dài tay cô đang mặc, đặt tay lên đầu,
vừa đi vừa kêu la. 20 Áp-sa-lôm, anh cô, hỏi cô: "Có phải thằng
Am-nôn, anh của em, đã nằm với em không? Bây giờ, em ơi, nín đi: nó là anh của
em. Ðừng để tâm vào chuyện này." Ta-ma ở vậy trong nhà của Áp-sa-lôm, anh
cô. 21 Vua Ða-vít nghe biết tất cả sự việc ấy thì giận lắm. 22 Áp-sa-lôm
không nói bất cứ điều gì với Am-nôn, bởi lẽ Áp-sa-lôm ghét Am-nôn vì chuyện
cưỡng hiếp Ta-ma, em cậu.
Áp-sa-lôm
ám sát Am-nôn rồi trốn đi
23
Hai
năm sau, nhân dịp Áp-sa-lôm thuê thợ xén lông cừu tại Ba-an Kha-xo, gần
Ép-ra-im, Áp-sa-lôm mời tất cả các hoàng tử. 24 Áp-sa-lôm vào gặp
vua và thưa: "Tôi tớ ngài có thuê thợ xén lông cừu. Kính xin đức vua và
triều thần đến với tôi tớ ngài.” 25 Vua nói với Áp-sa-lôm:
"Không được, con ạ, chúng ta không nên đi cả, kẻo thành gánh nặng cho
con." Cậu nài nỉ vua, nhưng vua không muốn đi. Vua chúc phúc cho cậu. 26
Áp-sa-lôm nói: "Vậy ít là xin cho anh Am-nôn của con đi với chúng
con." Vua hỏi cậu: "Nó đi với con làm gì?” 27 Áp-sa-lôm
nài nỉ vua, nên vua cho Am-nôn và tất cả các hoàng tử đi với cậu.
28
Áp-sa-lôm
ra lệnh cho các đầy tớ của cậu rằng: "Các ngươi hãy để ý! Khi rượu đã làm
cho lòng Am-nôn vui vẻ, và ta bảo các ngươi: "Hạ Am-nôn! , thì các ngươi
hãy giết chết nó. Ðừng sợ! Chẳng phải là chính ta ra lệnh cho các ngươi sao?
Can đảm lên, hãy tỏ ra là những người dũng cảm!” 29 Các đầy tớ của
Áp-sa-lôm đã xử với Am-nôn như Áp-sa-lôm đã ra lệnh. Tất cả các hoàng tử đứng
lên, mỗi người cưỡi la của mình mà chạy trốn.
30
Khi
họ còn đang trên đường, thì có tin báo về cho vua Ða-vít rằng: "Áp-sa-lôm
đã hạ tất cả các hoàng tử, không người nào sống sót.” 31 Vua đứng
dậy, xé áo ra và nằm xuống đất. Toàn thể triều thần đứng chung quanh đều xé áo
ra. 32 Nhưng Giô-na-đáp, con ông Sim-a là anh vua Ða-vít, lên tiếng
nói: "Xin chúa thượng đừng nói rằng người ta đã giết chết tất cả các cậu
hoàng tử. Chỉ một mình Am-nôn chết thôi, vì Áp-sa-lôm đã quyết định điều ấy từ
ngày Ta-ma, em gái mình bị cưỡng hiếp. 33 Giờ đây, xin đức vua là
chúa thượng tôi đừng có tưởng rằng tất cả các hoàng tử đã chết. Không, chỉ một
mình Am-nôn chết thôi. 34 Còn Áp-sa-lôm thì đã trốn đi."
Người
đầy tớ đứng cạnh ngước mắt lên nhìn thì thấy một đám đông đi trên con đường sau
lưng mình, bên sườn núi. 35 Giô-na-đáp nói với vua: "Kìa, các
hoàng tử đang đến. Việc đã xảy ra như lời tôi tớ ngài nói.” 36 Cậu
vừa nói xong thì này các hoàng tử đến. Họ oà lên khóc. Cả vua và toàn thể triều
thần cũng lớn tiếng than khóc. 37 Còn Áp-sa-lôm thì trốn đi và đến
với ông Tan-mai, là con ông Am-mi-hút và là vua xứ Gơ-sua. Ngày ngày vua để
tang con.
Ông
Giô-áp điều đình cho Áp-sa-lôm trở về
38
Áp-sa-lôm
đã trốn đi, đến Gơ-sua và ở đó ba năm. 39 Vua Ða-vít hết giận
Áp-sa-lôm, vì vua đã khuây khoả được nỗi buồn mất Am-nôn.
Chương 14
1
Ông
Giô-áp, con bà Xơ-ru-gia, biết rằng lòng vua hướng về Áp-sa-lôm. 2 Ông
Giô-áp sai người đi Tơ-cô-a tìm một người đàn bà khôn lanh và bảo bà ấy:
"Xin bà giả bộ để tang: bà hãy mặc áo tang, đừng xức dầu thơm, và làm như
một người đàn bà đã từ lâu để tang một người chết. 3 Rồi bà đến gặp
đức vua và thưa với người lời lẽ thế này." Ông Giô-áp đặt lời lẽ vào miệng
bà.
4
Vậy
người đàn bà Tơ-cô-a đến nói với vua. Bà sấp mặt xuống đất mà lạy rồi thưa:
"Thưa đức vua, xin cứu tôi với!” 5 Vua hỏi bà: "Ngươi có
chuyện gì?" Bà thưa: "Than ôi! Tôi là đàn bà goá, chồng tôi đã chết. 6
Nữ tỳ ngài có hai con trai. Hai đứa xô xát ở ngoài đồng, không có ai can
ngăn chúng. Ðứa này đánh đứa kia và giết chết nó. 7 Và này toàn thể
thị tộc đã đứng lên chống lại nữ tỳ ngài và bảo: "Bà hãy nộp kẻ đã hạ
người anh em mình. Chúng tôi sẽ bắt nó chết để đền mạng người anh em nó đã
giết, và sẽ tiêu diệt luôn cả người thừa kế. Họ sẽ dập tắt chút than hồng còn
sót lại cho tôi, không để cho chồng tôi được duy trì tên tuổi và còn người nối
dõi trên mặt đất.” 8 Vua nói với người đàn bà: "Ngươi cứ về
nhà. Chính ta sẽ ra lệnh về việc của ngươi.” 9 Người đàn bà Tơ-cô-a
thưa vua: "Thưa đức vua là chúa thượng tôi, tội đổ xuống đầu tôi và xuống
nhà cha tôi! Còn đức vua và ngai vàng của người thì vô can.” 10 Vua
nói: "Kẻ nào nói gì với ngươi, cứ đưa nó đến với ta, và nó sẽ không còn
đụng tới ngươi nữa.” 11 Bà nói: "Xin đức vua lấy Ðức Chúa,
Thiên Chúa của ngài, mà thề, để kẻ đòi nợ máu đừng gây thêm chết chóc, và người
ta đừng tiêu diệt con trai tôi." Vua nói: "Có Ðức Chúa hằng sống!
Không một sợi tóc nào của con trai ngươi sẽ rơi xuống đất!"
12
Người
đàn bà nói: "Xin cho nữ tỳ ngài được thưa với đức vua là chúa thượng tôi
một lời." Vua bảo: "Cứ nói.” 13 Người đàn bà nói:
"Vậy tại sao ngài lại tính một chuyện có hại cho dân Thiên Chúa như thế?
Vì đã nói lời ấy, nên đức vua giống như một kẻ mắc tội, nếu đức vua không cho
kẻ ngài đã đày biệt xứ được trở về. 14 Thật vậy, thế nào chúng ta
cũng phải chết, như nước chảy xuống đất không thể hốt lại được. Nhưng Thiên
Chúa không lấy sự sống đi và Người định liệu cho kẻ bị đày biệt xứ khỏi bị biệt
xứ xa Người.
15
"Giờ
đây, nếu tôi đến thưa điều ấy với đức vua là chúa thượng tôi, chính là vì dân
đã làm cho tôi sợ. Nữ tỳ ngài tự nhủ: "Tôi phải thưa với đức vua, may ra
đức vua sẽ làm điều nữ tỳ người nói. 16 Thật vậy, đức vua sẽ nhận
lời mà giải thoát nữ tỳ người khỏi bàn tay kẻ muốn tiêu diệt tôi cùng với con
trai tôi, không cho hưởng cơ nghiệp của Thiên Chúa". 17 Nữ tỳ
ngài tự nhủ: "Ước chi lời của đức vua là chúa thượng tôi làm tôi yên lòng,
vì đức vua là chúa thượng tôi khác nào sứ giả Thiên Chúa để lắng nghe điều
thiện điều ác. Xin Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài, ở với ngài."
18
Vua
trả lời người đàn bà rằng: "Ðừng giấu ta điều ta sắp hỏi ngươi."
Người đàn bà nói: "Xin đức vua là chúa thượng tôi cứ nói.” 19 Vua
hỏi: "Có phải bàn tay ông Giô-áp ở với ngươi trong tất cả việc này
không?" Người đàn bà thưa rằng: "Thưa đức vua là chúa thượng tôi, tôi
xin lấy mạng sống ngài mà thề: không ai có thể đi trệch bên phải bên trái ra
khỏi mọi điều đức vua là chúa thượng tôi đã nói. Phải, chính tôi tớ ngài là ông
Giô-áp đã truyền cho tôi và đã đặt vào miệng nữ tỳ ngài mọi lời ấy. 20 Chính
là để cho sự việc có một bộ mặt khác mà tôi tớ ngài là ông Giô-áp đã làm việc
đó. Nhưng sự khôn ngoan của chúa thượng sánh được với sự khôn ngoan của sứ giả
Thiên Chúa: ngài biết tất cả những gì xảy ra trên mặt đất."
21
Vua
bảo ông Giô-áp: "Ðược, ta làm ngay điều đó. Cứ đi, dẫn cậu Áp-sa-lôm về.” 22
Ông Giô-áp sấp mặt xuống đất mà lạy và chúc phúc cho vua. Ông Giô-áp nói:
"Ngày hôm nay tôi tớ ngài biết rằng tôi được đẹp lòng đức vua là chúa
thượng tôi, vì đức vua đã làm theo như lời của tôi tớ ngài.” 23 Ông
Giô-áp lên đường đi Gơ-sua và đưa Áp-sa-lôm về Giê-ru-sa-lem. 24 Vua
nói: "Nó hãy lui về nhà nó và sẽ không được gặp mặt ta." Áp-sa-lôm
lui về nhà mình và không được gặp mặt vua.
Một
vài chi tiết về Áp-sa-lôm
25
Trong
toàn thể Ít-ra-en, không có ai đẹp trai như Áp-sa-lôm, khiến người ta hết lời
ca tụng: từ bàn chân cho tới đỉnh đầu không có một khuyết điểm nào. 26 Khi
y cạo đầu -cuối mỗi năm y cạo đầu, vì tóc đè nặng trên đầu y và phải cạo- tóc
đầu y cân nặng hai ký, theo quả cân của nhà vua. 27 Áp-sa-lôm sinh
được ba con trai, và một con gái tên là Ta-ma. Nàng là một phụ nữ có nhan sắc.
Áp-sa-lôm
được tha thứ
28
Áp-sa-lôm
ở Giê-ru-sa-lem hai năm mà không được gặp mặt vua. 29 Áp-sa-lôm sai
người tìm ông Giô-áp để cử ông đến gặp vua, nhưng ông không chịu đến gặp y. Y
lại sai người đi tìm một lần nữa, nhưng ông không chịu đến. 30 Y bảo
các tôi tớ: "Hãy xem cánh đồng của ông Giô-áp, ở bên cánh đồng của ta, ông
ấy trồng lúa mạch ở đó. Hãy đi nổi lửa mà đốt." Tôi tớ của Áp-sa-lôm đã
nổi lửa đốt cánh đồng. 31 Ông Giô-áp đứng lên và đến nhà Áp-sa-lôm
mà hỏi y: "Tại sao tôi tớ của chú nổi lửa đốt cánh đồng của tôi?” 32 Áp-sa-lôm
nói với ông Giô-áp: "Anh xem: tôi đã sai người đến mời anh tới đây, để cử
anh đi thưa với đức vua: "Con từ Gơ-sua về làm gì? Thà con vẫn ở đó còn
hơn. Bây giờ tôi muốn được gặp mặt đức vua. Nếu tôi có lỗi gì, xin người cứ
giết tôi đi!” 33 Ông Giô-áp vào gặp vua và báo cho vua biết. Vua cho
gọi Áp-sa-lôm. Y vào gặp vua, sấp mặt xuống đất trước mặt vua mà lạy. Vua hôn
Áp-sa-lôm.
Chương 15
Thủ
đoạn của Áp-sa-lôm
1
Sau
đó, Áp-sa-lôm đóng cho mình một cỗ xe, với những con ngựa và năm mươi người hộ
tống. 2 Áp-sa-lôm dậy sớm và đứng ở bên đường vào cửa thành. Mỗi khi
người nào có kiện cáo mà đến với vua để xin xét xử, thì Áp-sa-lôm gọi người ấy
lại mà hỏi: "Ông người thành nào?" Người kia thưa: "Tôi tớ ngài
thuộc chi tộc này, chi tộc nọ trong Ít-ra-en.” 3 Áp-sa-lôm bảo người
ấy: "Ông xem: vụ kiện của ông đúng và hợp lý, nhưng không có ai thay mặt
đức vua để nghe ông đâu.” 4 Áp-sa-lôm nói: "Phải chi có ai đặt
tôi làm thẩm phán trong xứ này! Tất cả những người có kiện cáo và cần xét xử,
sẽ đến với tôi, và tôi sẽ xử công minh cho họ.” 5 Khi có người đến
lạy y thì y đưa tay ra, giữ lấy người ấy mà hôn. 6 Áp-sa-lôm làm như
thế với mọi người Ít-ra-en đến xin vua xét xử. Và Áp-sa-lôm đã mua chuộc lòng
người Ít-ra-en.
Áp-sa-lôm
làm loạn
7
Sau
bốn năm, Áp-sa-lôm thưa với vua: "Xin cho phép con đi Khép-rôn để con giữ
trọn lời đã khấn hứa với Ðức Chúa, 8 vì khi còn ở Gơ-sua miền A-ram,
tôi tớ ngài đã có lời khấn hứa rằng: "Nếu quả thực Ðức Chúa cho con trở về
Giê-ru-sa-lem, thì con sẽ thờ phượng Ðức Chúa".” 9 Vua bảo y:
"Con đi bình an." Y lên đường đi Khép-rôn.
10
Áp-sa-lôm
sai người bí mật đến tất cả các chi tộc Ít-ra-en mà nói: "Khi anh em nghe
thấy tiếng tù và thì hãy nói: Áp-sa-lôm đã lên ngôi vua tại Khép-rôn!” 11 Cùng
với Áp-sa-lôm có hai trăm người đi từ Giê-ru-sa-lem; họ là những khách được
mời, vô tình mà đến, không hay biết gì về chuyện đó. 12 Khi dâng các
hy lễ, Áp-sa-lôm sai người đi tìm A-khi-thô-phen, người thành Ghi-lô, cố vấn
của vua Ða-vít, và triệu y về từ thành của y là Ghi-lô. Bọn mưu phản thêm mạnh
và dân theo Áp-sa-lôm ngày càng đông.
Vua
Ða-vít chạy trốn
13
Người
đưa tin đến nói với vua Ða-vít: "Lòng người Ít-ra-en đã theo Áp-sa-lôm.” 14
Vua Ða-vít bảo toàn thể triều thần ở với vua tại Giê-ru-sa-lem:
"Ðứng lên! Chúng ta chạy trốn đi, vì chúng ta sẽ không thoát được
Áp-sa-lôm. Ði cho mau, kẻo chẳng mấy chốc nó đuổi kịp chúng ta, giáng tai hoạ
xuống chúng ta và dùng lưỡi gươm giết dân thành.” 15 Triều thần thưa
với vua: "Ðức vua là chúa thượng chọn cái gì, các tôi tớ ngài đây xin sẵn
sàng!” 16 Vua đi ra và cả nhà theo chân, nhưng vua để lại mười người
tỳ thiếp để giữ nhà. 17 Vua đi ra và toàn dân theo chân, họ dừng lại
ở ngôi nhà cuối cùng. 18 Toàn thể triều thần đi qua, sát bên cạnh
vua, tất cả quân Cơ-rê-thi, tất cả quân Pơ-lê-thi và tất cả quân Gát -tức là
sáu trăm người đã theo chân vua từ Gát đến- đi qua trước mặt vua. 19 Vua
nói với ông Ít-tai, người Gát: "Tại sao cả ngươi nữa cũng đi với chúng ta?
Hãy trở về và ở với nhà vua, bởi vì ngươi là người nước ngoài, ngươi còn bỏ quê
hương mà sống lưu vong. 20 Ngươi mới đến hôm qua, mà hôm nay ta lại
bắt ngươi phải đi lang thang với chúng ta, trong khi ta đi mà chẳng biết đi
đâu! Hãy trở về và đưa các anh em ngươi trở về cùng với ngươi. Xin Ðức Chúa lấy
tình thương và lòng thành tín mà đối xử với ngươi.” 21 Ông Ít-tai
trả lời vua rằng: "Có Ðức Chúa hằng sống và có đức vua là chúa thượng tôi
đang sống, tôi thề: đức vua là chúa thượng tôi ở đâu, thì dù sống dù chết, tôi
tớ ngài cũng ở đó!” 22 Vua Ða-vít bảo ông Ít-tai: "Hãy đi
qua!" Ông Ít-tai, người Gát, đã đi qua cùng với tất cả những người của ông
và mọi trẻ con theo ông. 23 Cả xứ khóc to tiếng và toàn dân đi qua.
Vua đi qua thung lũng Kít-rôn, và toàn dân đi qua phía trước con đường vào sa
mạc.
Hòm
Bia ở lại Giê-ru-sa-lem
24
Và
có cả ông Xa-đốc, và cùng với ông, có tất cả các thầy Lê-vi khiêng Hòm Bia Giao
Ước của Thiên Chúa. Họ đặt Hòm Bia Thiên Chúa xuống, và ông Ép-gia-tha tiến
lên, cho đến khi toàn dân ra khỏi thành đã đi qua hết. 25 Vua bảo
ông Xa-đốc: "Hãy đưa Hòm Bia Thiên Chúa về thành. Nếu ta được đẹp lòng Ðức
Chúa, thì Người sẽ đưa ta trở về và cho ta thấy Hòm Bia và nơi Người ngự. 26
Nhưng nếu Người nói là Người không thương ta nữa, thì này ta đây, Người
cứ làm cho ta điều Người cho là tốt.” 27 Vua nói với tư tế Xa-đốc:
"Ngươi thấy không? Cứ trở về thành bình an. Có hai con trai của các ngươi
ở với các ngươi: A-khi-ma-át, con của ngươi, và Giô-na-than, con của Ép-gia-tha.
28 Các ngươi xem: ta sẽ nán lại ở các chỗ qua sông vào sa mạc, chờ
khi có lời các ngươi gửi đến báo tin cho ta.” 29 Ông Xa-đốc và ông
Ép-gia-tha đưa Hòm Bia Thiên Chúa về Giê-ru-sa-lem, và họ ở lại đó.
Vua
Ða-vít nhờ ông Khu-sai giúp
30
Vua
Ða-vít lên dốc Cây Ô-liu, vừa lên vừa khóc, đầu trùm khăn, chân đi đất, và toàn
dân đi với vua ai cũng đầu trùm khăn, vừa lên vừa khóc. 31 Người ta
báo tin cho vua Ða-vít rằng: "A-khi-thô-phen ở trong đám những người âm
mưu cùng với Áp-sa-lôm." Vua Ða-vít nói: "Lạy ÐỨC CHÚA, xin làm cho
lời bàn của A-khi-thô-phen ra vô hiệu!"
32
Khi
vua Ða-vít lên tới đỉnh, nơi người ta thờ lạy Thiên Chúa, thì này ông Khu-sai,
người Ác-ki, đón gặp vua, áo chùng ông xé rách, đầu thì rắc đất. 33 Vua
Ða-vít nói với ông: "Nếu ông qua đây với ta, thì ông sẽ nên gánh nặng cho
ta. 34 Nhưng nếu ông trở về thành và nói với Áp-sa-lôm: "Thưa
đức vua, tôi là tôi tớ ngài; trước đây tôi là tôi tớ cha ngài, còn bây giờ tôi
là tôi tớ ngài", thì ông sẽ phá cho ta lời bàn của A-khi-thô-phen. 35
Nào các tư tế Xa-đốc và Ép-gia-tha sẽ chẳng có ở đó với ông sao? Tất cả
những gì nghe được từ đền vua, ông sẽ báo cho các tư tế Xa-đốc và Ép-gia-tha. 36
Họ có hai người con trai ở đó với họ là A-khi-ma-át, con Xa-đốc và
Giô-na-than, con Ép-gia-tha. Các ông sẽ nhờ chúng báo cho ta mọi điều các ông
nghe được.” 37 Ông Khu-sai, bạn vua Ða-vít, vào thành khi Áp-sa-lôm
đến Giê-ru-sa-lem.
Chương 16
Vua
Ða-vít và ông Xi-va
1
Khi
vua Ða-vít đi qua đỉnh được một chút, thì có ông Xi-va, đầy tớ ông
Mơ-phi-bô-sét đón gặp vua, dẫn theo hai con lừa thồ chở hai trăm cái bánh, một
trăm chùm nho khô, một trăm trái cây và một bầu da đầy rượu. 2 Vua
Ða-vít hỏi ông Xi-va: "Ngươi định làm gì với những thứ này?" Ông
Xi-va trả lời: "Lừa thì để cho hoàng gia cưỡi, bánh và trái cây thì để cho
các đầy tớ ăn, rượu thì để cho người mệt lả trong sa mạc uống.” 3 Vua
hỏi: "Người con của chủ ngươi đâu?" Ông Xi-va thưa với vua: "Ông
ấy ở lại Giê-ru-sa-lem, vì ông tự bảo: "Hôm nay nhà Ít-ra-en sẽ trả lại
cho ta vương quyền của cha ta.” 4 Vua bảo ông Xi-va: "Vậy tất
cả những gì là của Mơ-phi-bô-sét thì là của ngươi." Ông Xi-va nói:
"Tôi xin bái tạ. Ước chi tôi được đẹp lòng ngài, thưa đức vua là chúa
thượng tôi."
Sim-y
nguyền rủa vua Ða-vít
5
Khi
vua Ða-vít đến Ba-khu-rim thì kìa có một người từ đó đi ra. Y thuộc cùng một
thị tộc với nhà Sa-un, và tên là Sim-y, con ông Ghê-ra. Y vừa đi ra vừa nguyền
rủa. 6 Y ném đá vào vua Ða-vít và tất cả bề tôi vua, mặc dầu có toàn
thể quân đội và toàn thể các dũng sĩ ở bên phải và bên trái vua. 7 Sim-y
nói thế này trong lời nguyền rủa của y: "Cút đi, cút đi, tên khát máu,
thằng vô lại! 8 Ðức Chúa đã đổ xuống đầu mày tất cả máu của nhà Sa-un, người đã
bị mày chiếm ngôi, và Ðức Chúa đã trao vương quyền vào tay Áp-sa-lôm, con mày.
Và này, mày phải tai hoạ, vì mày là tên khát máu!” 9 Ông A-vi-sai,
con bà Xơ-ru-gia, thưa với vua: "Tại sao thằng chó chết này dám nguyền rủa
đức vua là chúa thượng tôi? Xin cho tôi qua chặt đầu nó!” 10 Vua
nói: "Chuyện của ta can gì đến các ngươi, hỡi các con bà Xơ-ru-gia? Nếu nó
nguyền rủa và nếu Ðức Chúa bảo nó: "Hãy nguyền rủa Ða-vít", thì ai
dám hỏi: "Tại sao mày làm như thế?” 11 Vua Ða-vít nói với ông
A-vi-sai và tất cả bề tôi: "Này con trai ta, do chính ta sinh ra mà còn
tìm hại mạng sống ta, huống chi là tên Ben-gia-min này! Cứ để nó nguyền rủa,
nếu Ðức Chúa đã bảo nó. 12 May ra Ðức Chúa sẽ đoái nhìn đến nỗi khổ
cực của ta và Ðức Chúa sẽ trả lại cho ta hạnh phúc, thay vì lời nguyền rủa của
nó hôm nay.” 13 Vua Ða-vít và người của vua vẫn đi trên đường, còn
Sim-y thì đi ở sườn núi, song song với vua, vừa đi vừa nguyền rủa và ném đá,
song song với vua; y làm bụi tung lên. 14 Vua và toàn dân theo vua
đi tới nơi thì mệt lả. Họ nghỉ lấy sức tại đó.
Ông
Khu-sai đến với Áp-sa-lôm
15
Áp-sa-lôm
và toàn thể quân binh người Ít-ra-en vào Giê-ru-sa-lem, có A-khi-thô-phen cùng
đi. 16 Khi ông Khu-sai, người Ác-ki, bạn vua Ða-vít, đến gặp
Áp-sa-lôm, thì ông Khu-sai nói với Áp-sa-lôm: "Vạn tuế đức vua! Vạn tuế
đức vua!” 17 Áp-sa-lôm hỏi ông Khu-sai: "Tình nghĩa của ông đối
với người bạn ông là như thế ư? Tại sao ông không đi với bạn ông?” 18 Ông
Khu-sai nói với ông Áp-sa-lôm: "Ðức Chúa, cũng như dân này và tất cả mọi
người Ít-ra-en đã chọn ai, thì tôi sẽ thuộc về người ấy và ở với người ấy. 19
Thứ đến, tôi sẽ phục vụ ai, nếu không phải là con của người ấy? Tôi đã
phục vụ cha ngài thế nào, thì tôi cũng sẽ phục vụ ngài như vậy."
Áp-sa-lôm
và các tỳ thiếp của vua Ða-vít
20
Áp-sa-lôm
bảo A-khi-thô-phen: "Các ngươi hãy bàn nhau xem chúng ta phải làm gì.” 21
A-khi-thô-phen nói với Áp-sa-lôm: "Xin ngài hãy đến với các tỳ thiếp
mà cha ngài đã để lại giữ nhà. Toàn thể Ít-ra-en sẽ nghe biết rằng ngài đã trở
nên đáng ghét đối với cha ngài, và mọi người theo ngài sẽ mạnh bạo lên.” 22
Người ta căng lều cho Áp-sa-lôm trên sân thượng, và Áp-sa-lôm đến với các
tỳ thiếp của cha mình trước mắt toàn thể Ít-ra-en. 23 Lời bàn mà
A-khi-thô-phen đưa ra trong những ngày ấy thì giống như lời Thiên Chúa phán,
khi người ta thỉnh ý. Mọi lời bàn của A-khi-thô-phen đều có giá trị như thế đối
với cả vua Ða-vít lẫn Áp-sa-lôm.
Chương 17
Ông
Khu-sai làm hỏng kế hoạch của A-khi-thô-phen
1
A-khi-thô-phen
nói với Áp-sa-lôm: "Xin để tôi tuyển mười hai ngàn người, tôi sẽ lên đường
đuổi theo Ða-vít ngay đêm nay. 2 Tôi sẽ đến tấn công ông ấy, trong
lúc ông ấy kiệt sức, tay chân rụng rời, tôi sẽ làm cho ông khiếp sợ, toàn dân
theo ông sẽ bỏ trốn, và tôi sẽ hạ một mình nhà vua. 3 Tôi sẽ đưa
toàn dân về với ngài. Hạ được người mà ngài đang tìm thì cũng như làm cho mọi
người trở về: toàn dân sẽ được bình an.” 4 Áp-sa-lôm và toàn thể các
kỳ mục Ít-ra-en thấy lời đó là phải.
5
Nhưng
Áp-sa-lôm nói: "Hãy mời cả ông Khu-sai, người Ác-ki, để chúng ta cũng nghe
cả ông ấy nữa, xem ông nói gì.” 6 Ông Khu-sai đến gặp Áp-sa-lôm.
Áp-sa-lôm nói với ông rằng: "Ông A-khi-thô-phen đã nói như vậy. Chúng ta
có nên làm điều ông ấy nói không? Nếu không thì chính ông nói đi.” 7 Ông
Khu-sai nói với Áp-sa-lôm: "Lần này lời bàn ông A-khi-thô-phen đưa ra
không hay.” 8 Rồi ông Khu-sai nói: "Ngài biết rằng cha ngài và
người của ông là những dũng sĩ và họ cay đắng trong tâm hồn như gấu mẹ mất con
ngoài đồng. Cha ngài là một chiến binh, ông sẽ không nghỉ đêm với dân. 9 Bây
giờ chắc ông đang ẩn núp trong một hầm hố hay một nơi nào đó. Nếu ngay từ đầu
có những người phe ta ngã gục, chắc chắn có người sẽ nghe biết và sẽ nói:
"Dân theo Áp-sa-lôm đã bị bại! 10 Bấy giờ cả người can đảm, có gan như gan
sư tử, cũng sẽ nản lòng, vì toàn thể Ít-ra-en biết rằng cha ngài là một dũng sĩ
và những kẻ theo ông là người can đảm. 11 Vậy tôi xin bàn thế này:
toàn thể Ít-ra-en, từ Ðan tới Bơ-e Se-va sẽ tập trung về với ngài, đông như cát
ngoài bãi biển, và ngài sẽ đích thân đi đánh trận. 12 Chúng ta sẽ
đến đánh ông tại bất cứ nơi nào ông đang ở, chúng ta sẽ đậu trên ông như sương
rơi trên đất đai, và ông cũng như những người theo ông sẽ không còn sót lại một
ai. 13 Nếu ông tập trung vào một thành, toàn thể Ít-ra-en sẽ đem dây
thừng đến thành đó và chúng ta sẽ lôi thành ấy xuống thung lũng, đến nỗi không
còn tìm thấy ở đó một hòn sỏi.” 14 Áp-sa-lôm và tất cả các người
Ít-ra-en nói: "Lời bàn của ông Khu-sai, người Ác-ki, hay hơn lời bàn của
ông A-khi-thô-phen." Thật vậy, Ðức Chúa đã quyết định phá lời bàn hay của
A-khi-thô-phen, để đem tai hoạ đến cho Áp-sa-lôm.
15
Ông
Khu-sai nói với các tư tế Xa-đốc và Ép-gia-tha: "A-khi-thô-phen đã bàn thế
này thế này với Áp-sa-lôm và các kỳ mục Ít-ra-en; còn tôi, tôi đã bàn thế kia
thế kia. 16 Bây giờ các ông hãy mau sai người đi báo tin cho vua
Ða-vít rằng: "Xin đức vua đừng dừng lại đêm nay tại các vùng đất hoang
trong sa mạc, nhưng ngài phải đi qua ngay, kẻo đức vua và toàn dân theo người
sẽ bị tiêu diệt"."
Ðược
tin báo, vua Ða-vít qua sông Gio-đan.
17
Giô-na-than
và A-khi-ma-át đứng sẵn ở Ên Rô-ghên. Một nữ tỳ đi báo tin cho họ, rồi họ đi
báo tin cho vua Ða-vít, họ không vào thành, vì không được để người ta nhìn thấy.
18 Nhưng một thanh niên thấy họ và báo cho Áp-sa-lôm. Cả hai vội
vàng đi và đến nhà một người ở Ba-khu-rim, người này có một cái giếng trong
sân. Họ xuống đó. 19 Vợ người ấy lấy tấm bố, trải ra trên miệng
giếng rồi rải hạt lên trên. Chẳng ai hay biết gì.
20
Các
tôi tớ Áp-sa-lôm vào nhà bà ấy và hỏi: "A-khi-ma-át và Giô-na-than
đâu?" Bà trả lời chúng: "Họ đã đi qua sông." Chúng tìm nhưng
không thấy, nên trở về Giê-ru-sa-lem. 21 Sau khi chúng đi rồi, thì
hai người lên khỏi giếng và đi báo tin cho vua Ða-vít. Họ nói với vua Ða-vít:
"Xin các ngài lên đường và mau mau qua sông, bởi vì A-khi-thô-phen đã bàn
thế này để hại các ngài.” 22 Vua Ða-vít và tất cả quân binh theo vua
đã lên đường qua sông Gio-đan. Khi trời sáng, mọi người đã qua sông, không sót
một ai.
23
A-khi-thô-phen
thấy người ta không làm theo lời bàn của mình thì thắng lừa, lên đường đi về
nhà, trong thành mình. Y thu xếp việc nhà, rồi thắt cổ tự tử. Y được chôn cất
trong phần mộ của cha y.
Áp-sa-lôm
qua sông Gio-đan. Vua Ða-vít tại Ma-kha-na-gim.
24
Vua
Ða-vít đến Ma-kha-na-gim, trong khi Áp-sa-lôm và toàn thể người Ít-ra-en cùng
với y qua sông Gio-đan. 25 Áp-sa-lôm đã đặt A-ma-xa chỉ huy quân đội
thay ông Giô-áp. A-ma-xa là con trai một người đàn ông tên là Gít-ra, người
Ít-ra-en; người này đã đi lại với bà A-vi-ga-gin là con gái ông Na-khát và là
chị em với bà Xơ-ru-gia, mẹ ông Giô-áp. 26 Ít-ra-en và Áp-sa-lôm
đóng trại ở đất Ga-la-át.
27
Khi
vua Ða-vít đến Ma-kha-na-gim, thì ông Sô-vi con ông Na-khát, từ thành Ráp-ba
của con cái Am-mon, ông Ma-khia con ông Am-mi-ên, từ Lô Ðơ-va, và ông
Bác-di-lai người Ga-la-át, từ Rốc-lim, 28 đem giường, chậu, bát đĩa,
lúa mì, lúa mạch, bột, gié lúa rang, đậu tằm, đậu nâu, 29 mật ong,
sữa chua, chiên dê và bê sữa, đến dâng cho vua Ða-vít và dân ở với vua, vì họ
nói: "Dân đói, mệt lả và khát trong sa mạc."
Chương 18
Phe
Áp-sa-lôm bại trận
1
Vua
Ða-vít duyệt đám quân binh theo ông và đặt những người chỉ huy một ngàn, chỉ
huy một trăm quân, để điều khiển họ. 2 Vua Ða-vít sai quân binh đi:
một phần ba giao cho ông Giô-áp, một phần ba giao cho ông A-vi-sai, là con bà
Xơ-ru-gia và là em ông Giô-áp, một phần ba giao cho ông Ít-tai, người Gát. Vua
nói với quân binh: "Ta sẽ đích thân ra trận với các ngươi.” 3 Nhưng
quân binh nói: "Ngài không được ra trận; vì nếu chúng tôi chạy trốn, người
ta sẽ không để tâm đến chúng tôi, nếu một nửa số chúng tôi chết, người ta sẽ
không để tâm đến chúng tôi, còn ngài, ngài bằng mười ngàn người chúng tôi; vậy
tốt hơn là ngài cứ ở trong thành mà tiếp viện chúng tôi. “ 4 Vua nói
với họ: "Ta sẽ làm điều các ngươi coi là tốt." Vua đứng ở bên cửa
thành, trong khi quân binh kéo ra từng đơn vị một trăm, một ngàn. 5 Vua
ra lệnh cho ông Giô-áp, ông A-vi-sai và ông Ít-tai rằng: "Vì ta, hãy nhẹ
tay với cậu Áp-sa-lôm!" Toàn thể quân binh nghe thấy vua ra lệnh cho tất
cả các tướng về Áp-sa-lôm.
6
Quân
binh ra ngoài đồng nghênh chiến với Ít-ra-en, và cuộc giao tranh xẩy ra trong
rừng Ép-ra-im. 7 Tại đó, quân binh Ít-ra-en bị bề tôi vua Ða-vít
đánh bại. Hôm ấy là một ngày đại bại: hai mươi ngàn người chết tại đó. 8 Cuộc
giao tranh tản ra khắp xứ, và ngày hôm ấy quân binh chết vì rừng nhiều hơn là
chết vì gươm.
Áp-sa-lôm
chết
9
Áp-sa-lôm
bị bề tôi vua Ða-vít bắt gặp. Áp-sa-lôm đang cưỡi con la đi vào dưới một cây
vân hương lớn, cành lá chằng chịt. Ðầu y mắc vào cây vân hương và y bị treo
giữa trời và đất, còn con la y cưỡi thì đi mất. 10 Một người trông
thấy và báo tin cho ông Giô-áp: "Này, tôi thấy Áp-sa-lôm treo trên một cây
vân hương.” 11 Ông Giô-áp nói với người đã báo tin cho ông:
"Này, anh đã thấy, sao anh không hạ nó ngay tại chỗ? Như thế, hẳn ta đã
phải cho anh ba lượng bạc và một cái thắt lưng rồi!” 12 Người kia
nói với ông Giô-áp: "Giả như người ta cân ngay vào tay tôi ba trăm lượng
bạc, tôi cũng không dám ra tay hại hoàng tử, vì chính tai chúng tôi đã nghe đức
vua ra lệnh cho ông, ông A-vi-sai và ông Ít-tai rằng: "Dù là ai đi nữa,
các người cũng phải giữ gìn cậu Áp-sa-lôm! 13 Cho dù tôi liều mạng làm điều
thất trung ấy, thì cũng chẳng có gì giấu được đức vua, còn ông, ông sẽ đứng xa.”
14 Ông Giô-áp nói: "Tôi không mất thời giờ với anh như thế
nữa", rồi ông cầm lấy ba cây thương trong tay, đâm vào tim Áp-sa-lôm, khi
y vẫn còn sống, treo trên cây vân hương. 15 Rồi mười thanh niên,
người hầu cận của ông Giô-áp, xúm lại đánh Áp-sa-lôm và giết y.
16
Ông
Giô-áp cho thổi tù và, cùng lúc đó quân binh thôi không đuổi theo Ít-ra-en nữa,
vì ông Giô-áp đã giữ quân binh lại. 17 Người ta đem Áp-sa-lôm quăng
vào một cái hố lớn trong rừng, rồi chất một đống đá rất lớn lên trên. Toàn thể
Ít-ra-en đã chạy trốn, ai nấy về lều mình.
18
Khi
còn sống, Áp-sa-lôm đã khởi công dựng cho mình một tấm bia trong thung lũng Nhà
Vua, vì y tự bảo: "Tôi không có con trai để lưu truyền tên tuổi." Y
đã lấy tên mình mà đặt cho tấm bia ấy. Người ta còn gọi là "đài
Áp-sa-lôm" cho đến ngày nay.
Vua
Ða-vít được tin Áp-sa-lôm chết
19
A-khi-ma-át,
con ông Xa-đốc, nói: "Xin cho phép tôi chạy đi báo tin mừng cho đức vua là
Ðức Chúa đã phân xử để đức vua thoát khỏi tay các kẻ thù của đức vua.” 20 Ông
Giô-áp nói với anh: "Hôm nay, anh sẽ không phải là người đem tin mừng. Hôm
khác, anh sẽ đem tin mừng, nhưng hôm nay anh sẽ không đem tin mừng, vì lý do là
hoàng tử đã chết.” 21 Ông Giô-áp bảo một người Cút: "Ði báo cho
đức vua điều anh đã thấy." Người Cút sụp xuống lạy ông Giô-áp rồi chạy đi.
22 Một lần nữa, A-khi-ma-át, con ông Xa-đốc, lại nói với ông Giô-áp:
"Ra sao thì ra! Xin cho phép tôi cũng chạy theo người Cút." Ông
Giô-áp nói: "Chạy làm gì, con ơi? Ðem tin mừng đó chẳng lợi lộc gì cho con
đâu!” 23 Anh nói: "Ra sao thì ra! Tôi cứ chạy đi!" Ông
bảo: "Thì chạy đi!" A-khi-ma-át chạy theo con đường vùng sông Gio-đan
và vượt qua người Cút.
24
Vua
Ða-vít đang ngồi giữa hai cửa thành. Người lính canh đi tới sân thượng cửa
thành, trên tường thành. Anh ngước mặt lên nhìn thì thấy một người đang chạy
một mình. 25 Người lính canh kêu lên và báo tin cho vua. Vua nói:
"Nếu nó chỉ có một mình, tức là nó có tin mừng để báo." Trong khi
người này tiếp tục đi đến gần, 26 thì người lính canh thấy một người
khác đang chạy. Anh gọi người giữ cửa và nói: "Kìa, một người nữa đang
chạy một mình." Vua nói: "Cả người ấy cũng báo tin mừng.” 27 Người
lính canh nói: "Tôi thấy kiểu chạy của người thứ nhất như kiểu chạy của
anh A-khi-ma-át, con ông Xa-đốc." Vua nói: "Anh ta là một người tốt,
anh đến để đem tin mừng, tin tốt đấy!"
28
A-khi-ma-át
kêu lên và nói với vua: "Kính chúc bình an! " Rồi anh sấp mặt xuống
đất lạy vua và nói: "Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa của ngài, đã nộp
những kẻ giơ tay chống lại đức vua là chúa thượng của con!” 29 Vua
hỏi: "Cậu Áp-sa-lôm có được bình an không?" A-khi-ma-át trả lời:
"Con thấy có đông người xôn xao khi ông Giô-áp sai một tôi tớ đức vua và
tôi tớ ngài đây, nhưng con không biết có chuyện gì.” 30 Vua nói:
"Hãy lui ra một bên và đứng đó." Anh lui ra một bên và đứng chờ.
31
Bấy
giờ người Cút đến. Người Cút nói: "Xin đức vua là chúa thượng tôi nghe tin
mừng. Hôm nay Ðức Chúa đã phân xử để ngài thoát khỏi tay tất cả những kẻ đứng
lên chống lại ngài.” 32 Ðức vua hỏi người Cút: "Cậu Áp-sa-lôm
có được bình an không?" Người Cút trả lời: "Ước chi các kẻ thù của
đức vua là chúa thượng tôi và mọi kẻ đứng lên chống lại ngài để làm hại ngài,
đều phải chung một số phận như cậu ấy! "
Chương 19
Vua
Ða-vít khóc con
1
Vua
Ða-vít run rẩy, đi lên lầu trên cửa thành và khóc. Vua vừa đi vừa nói:
"Áp-sa-lôm con ơi, con ơi, Áp-sa-lôm con ơi! Phải chi cha chết thay con!
Áp-sa-lôm con ơi, con ơi!” 2 Người ta báo cho ông Giô-áp: "Kìa
đức vua đang khóc, đang khóc thương Áp-sa-lôm!” 3 Hôm ấy, chiến
thắng đã trở thành tang tóc cho toàn thể quân binh, vì hôm ấy, quân binh được
nghe nói rằng: "Ðức vua buồn phiền vì mất con.” 4 Hôm ấy, quân
binh lén lút vào thành như một đám quân binh lén lút về, xấu hổ vì đã trốn chạy
trong khi giao chiến. 5 Còn vua thì che mặt và lớn tiếng kêu:
"Áp-sa-lôm con ơi, Áp-sa-lôm con ơi, con ơi!"
6
Ông
Giô-áp vào gặp vua trong nhà và nói: "Hôm nay ngài làm bẽ mặt tất cả bề
tôi ngài, là những kẻ hôm nay đã cứu sống ngài, cứu sống các con trai con gái
ngài, cứu sống các bà vợ và cứu sống các tỳ thiếp của ngài. 7 Ngài
yêu những kẻ ghét ngài và ghét những kẻ yêu ngài. Vâng, hôm nay ngài đã cho
thấy rằng tướng với binh chẳng là gì cả đối với ngài, vì hôm nay tôi biết, nếu
Áp-sa-lôm còn sống và tất cả chúng tôi có chết hôm nay thì ngài cũng coi là
đương nhiên. 8 Giờ đây, xin ngài đứng lên và ra uỷ lạo bề tôi ngài,
vì tôi xin lấy Ðức Chúa mà thề: nếu ngài không ra, thì sẽ không còn ai ở lại
với ngài đêm nay, và đối với ngài, đó sẽ là một tai hoạ lớn hơn mọi tai hoạ đã
xảy đến cho ngài, từ lúc ngài còn trẻ cho đến bây giờ.” 9 Vua đứng
lên và ra ngồi ở cửa thành. Người ta báo cho toàn thể quân binh rằng: "Kìa
đức vua đang ngồi ở cửa thành", và toàn thể quân binh đến trước mặt vua.
Chuẩn
bị đưa vua Ða-vít trở về
10
Trong
tất cả các chi tộc Ít-ra-en, toàn dân tranh luận với nhau, họ nói: "Ðức
vua đã giải thoát chúng ta khỏi bàn tay kẻ thù, người đã cứu chúng ta khỏi bàn
tay người Phi-li-tinh, và bây giờ người đã phải trốn khỏi xứ để thoát Áp-sa-lôm.
11 Còn Áp-sa-lôm, người mà chúng ta đã xức dầu tôn lên làm vua chúng
ta, thì đã tử trận. Bây giờ, sao anh em còn ngồi yên đó mà không đưa đức vua
về?"
12
Vua
Ða-vít sai người đi nói với các tư tế Xa-đốc và Ép-gia-tha rằng: "Các
ngươi hãy nói với các kỳ mục Giu-đa rằng: "Tại sao anh em lại là những
người cuối cùng để đưa đức vua về nhà người, trong khi điều mà toàn thể
Ít-ra-en nói đã đến tai đức vua tại nhà người? 13 Anh em là những anh em của
tôi, anh em là cốt nhục của tôi. Vậy tại sao anh em lại là những người cuối
cùng để đưa đức vua về? 14 Các ngươi hãy nói với A-ma-xa: "Ngươi chẳng
phải là cốt nhục của ta sao? Xin Thiên Chúa phạt ta thế này và còn thêm thế kia
nữa, nếu ngươi không mãi mãi là tướng quân chỉ huy quân đội ta, thay cho
Giô-áp!” 15 Vua làm cho mọi người Giu-đa, muôn người như một, phải
xiêu lòng, và họ sai người đến nói với vua: "Xin ngài và toàn thể bề tôi
trở về!"
Trên
đường về. Sim-y đón vua Ða-vít.
16
Vậy
vua trở về và tới sông Gio-đan. Người Giu-đa tới Ghin-gan để đón vua và đưa vua
qua sông Gio-đan. 17 Sim-y, con ông Ghê-ra, người Ben-gia-min ở
Ba-khu-rim, vội vàng xuống với người Giu-đa để đón vua Ða-vít. 18 Cùng
với y có một ngàn người Ben-gia-min. Ông Xi-va, đầy tớ nhà Sa-un, và cùng với
ông, mười lăm con trai và hai mươi đầy tớ, ào tới sông Gio-đan trước vua. 19
Họ đưa bè sang để đón hoàng gia qua và làm điều vua coi là tốt.
20
Y
thưa với vua: "Xin chúa thượng đừng hạch tội tôi. Xin đừng nhớ đến tội tôi
tớ ngài đã phạm ngày đức vua là chúa thượng tôi ra khỏi Giê-ru-sa-lem. Xin đức
vua đừng để tâm đến. 21 Quả thật, tôi tớ ngài biết rằng mình đã phạm
tội. Nhưng này, hôm nay tôi là người đầu tiên trong toàn thể nhà Giu-se đã tới
đón đức vua là chúa thượng tôi."
22
Ông
A-vi-sai, con bà Xơ-ru-gia, lên tiếng nói: "Có phải vì thế mà Sim-y, kẻ đã
nguyền rủa đấng Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong, không bị xử tử sao?” 23 Vua
Ða-vít nói: "Chuyện của ta can gì đến các ngươi, hỡi các con bà Xơ-ru-gia,
khiến hôm nay các ngươi trở nên người chống đối ta? Hôm nay mà lại có người
trong Ít-ra-en bị xử tử sao? Ta chẳng biết rằng hôm nay ta là vua Ít-ra-en sao?”
24 Vua nói với Sim-y: "Ngươi sẽ không phải chết." Và vua
đã thề với y.
Ông
Mơ-phi-bô-sét
25
Ông
Mơ-phi-bô-sét, con cháu vua Sa-un, xuống đón vua. Ông đã không cắt móng chân,
không xén râu ria, không giặt áo, từ ngày vua đi cho đến ngày vua về bình an. 26
Vậy khi ông tới Giê-ru-sa-lem để đón vua, thì vua hỏi ông: "Tại sao
ngươi đã không đi với ta, Mơ-phi-bô-sét?” 27 Ông trả lời: "Thưa
đức vua là chúa thượng tôi, người đầy tớ của tôi đã đánh lừa tôi. Thật vậy, tôi
tớ ngài đã tự bảo: "Ta sẽ thắng cho mình con lừa cái, ta sẽ cưỡi lừa và đi
với đức vua", vì tôi tớ ngài bị què. 28 Nó đã vu khống tôi tớ
ngài trước mặt đức vua là chúa thượng tôi. Nhưng đức vua là chúa thượng tôi
khác nào sứ giả Thiên Chúa, xin ngài cứ làm điều ngài coi là tốt. 29 Thật
vậy, đối với đức vua là chúa thượng tôi, tất cả nhà cha tôi chỉ toàn những
người đáng chết; thế mà đức vua lại đặt tôi tớ ngài vào số những kẻ ăn tại bàn
của ngài. Tôi còn quyền gì nữa? Tôi còn có thể kêu xin đức vua gì nữa?” 30
Vua bảo ông: "Ngươi còn nói những chuyện ấy làm gì nữa? Ta bảo:
ngươi và Xi-va, các ngươi hãy chia đất với nhau.” 31 Ông
Mơ-phi-bô-sét nói với vua: "Nó cứ lấy cả đi, vì nay đức vua là chúa thượng
tôi đã trở về nhà bình an."
Ông
Bác-di-lai
32
Ông
Bác-di-lai, người Ga-la-át, đã từ Rốc-lim xuống. Ông đã qua sông Gio-đan với
vua, để tiễn vua gần sông Gio-đan. 33 Ông Bác-di-lai bấy giờ đã già
lắm, ông được tám mươi tuổi. Chính ông đã cấp dưỡng cho vua, khi vua ở
Ma-kha-na-gim, vì ông là người rất giàu. 34 Vua nói với ông
Bác-di-lai: "Ông hãy đi tiếp với ta, ta sẽ đưa ông về ở với ta tại
Giê-ru-sa-lem và sẽ cấp dưỡng cho ông.” 35 Ông Bác-di-lai trả lời
vua: "Tôi còn sống được bao nhiêu năm nữa, để lên Giê-ru-sa-lem cùng với
đức vua? 36 Hôm nay, tôi đã tám mươi tuổi rồi. Tôi còn phân biệt được tốt xấu
nữa không? Tôi tớ ngài còn thưởng thức được của ăn thức uống nữa không? Tôi còn
nghe được giọng hát của các nam ca sĩ với nữ ca sĩ nữa không? Tôi tớ ngài còn
trở nên gánh nặng cho đức vua là chúa thượng tôi làm gì nữa? 37 Tôi tớ ngài sẽ
chỉ đi với đức vua mấy bước qua sông Gio-đan. Ðức vua ban cho tôi phần thưởng
đó làm gì? 38 Xin cho phép tôi tớ ngài trở về, để được chết trong thành của tôi
bên phần mộ cha mẹ tôi. Ðây có tôi tớ ngài là Kim-ham. Xin cho nó đi tiếp với
đức vua là chúa thượng tôi, ngài cứ làm cho nó điều ngài coi là tốt.” 39 Vua
nói: "Kim-ham sẽ đi tiếp với ta. Ta sẽ làm cho nó điều ông coi là tốt, và
tất cả những gì ông muốn xin ta, ta sẽ làm cho ông.” 40 Toàn dân qua
sông Gio-đan, và vua cũng qua. Vua hôn ông Bác-di-lai và chúc phúc cho ông, rồi
ông trở về nhà.
Giu-đa
và Ít-ra-en tranh nhau đón vua
41
Vua
đi tiếp tới Ghin-gan và Kim-ham đi tiếp với vua. Toàn dân Giu-đa cũng như một
nửa dân Ít-ra-en đã đưa vua đi qua. 42 Mọi người Ít-ra-en đến gặp
vua và nói với vua: "Tại sao anh em chúng tôi, những người Giu-đa, đã bắt
cóc và đưa đức vua cùng với hoàng gia và mọi người phò Ða-vít qua sông Gio-đan?”
43 Mọi người Giu-đa trả lời người Ít-ra-en: "Vì đức vua là bà
con gần với tôi. Sao anh lại tức giận vì điều ấy? Chúng tôi đâu có ăn bám đức
vua, hoặc được người mang đến cho cái gì?” 44 Người Ít-ra-en trả lời
người Giu-đa rằng: "Tôi có quyền trên đức vua gấp mười lần, ngay cả trên
vua Ða-vít, tôi cũng có quyền hơn anh. Sao anh lại khinh tôi? Tôi chẳng phải là
người đầu tiên nói đến chuyện đưa đức vua của tôi về sao?" Nhưng lời lẽ
của người Giu-đa thì cứng cỏi hơn lời lẽ của người Ít-ra-en.
Chương 20
Se-va
làm loạn
1
Tình
cờ ở đó có một đứa vô lại tên là Se-va, con của Bích-ri, người Ben-gia-min. Y
thổi tù và và nói:
"Chúng
ta không chung phần với Ða-vít, chúng ta chẳng chung gia tài với con của
Gie-sê. Hỡi Ít-ra-en, ai nấy về lều mình!"
2
Mọi
người Ít-ra-en bỏ vua Ða-vít mà lên theo Se-va, con của Bích-ri. Nhưng người
Giu-đa thì theo sát vua của họ, từ sông Gio-đan tới Giê-ru-sa-lem.
3
Vua
Ða-vít về nhà tại Giê-ru-sa-lem. Vua bắt mười người tỳ thiếp mà vua đã để lại
giữ nhà, và cho họ vào một nhà có người canh giữ. Vua cấp dưỡng cho họ nhưng
không đi lại với họ. Họ bị giam cho tới ngày chết, goá bụa khi chồng vẫn sống.
Ông
A-ma-xa bị giết
4
Vua
bảo ông A-ma-xa: "Trong vòng ba ngày, ngươi hãy triệu tập các người Giu-đa
lại cho ta, rồi ngươi hãy có mặt ở đây.” 5 Ông A-ma-xa đi triệu tập
Giu-đa, nhưng ông đã chậm trễ quá hạn vua ấn định. 6 Vua Ða-vít nói
với ông A-vi-sai: "Bây giờ, Se-va, con của Bích-ri, sẽ làm hại chúng ta
hơn Áp-sa-lôm. Phần ngươi, hãy đem các bề tôi của chúa thượng ngươi mà đuổi
theo nó, kẻo nó tìm được những thành kiên cố và thoát khỏi tầm mắt chúng ta.” 7
Theo ông ra trận, có người của ông Giô-áp, quân Cơ-rê-thi, quân Pơ-lê-thi
và toàn thể các dũng sĩ. Họ từ Giê-ru-sa-lem đi ra để đuổi theo Se-va, con của
Bích-ri. 8 Khi họ ở gần tảng đá lớn tại Ghíp-ôn, thì ông A-ma-xa đến
trước mặt họ. Ông Giô-áp mặc quân phục, trên có một thắt lưng với một thanh
gươm để trong bao đeo ngang lưng. Khi ông bước ra thì gươm rơi xuống. 9 Ông
Giô-áp nói với ông A-ma-xa: "Thưa anh, anh có được bình an không?"
Rồi ông Giô-áp đưa tay phải cầm lấy râu ông A-ma-xa mà hôn. 10 Ông
A-ma-xa không để ý đến thanh gươm ở trong tay ông Giô-áp. Ông này dùng gươm đâm
vào bụng ông A-ma-xa, khiến ruột gan lòi ra rơi xuống đất. Ông không cần đâm
nhát thứ hai mà ông A-ma-xa cũng chết. Rồi ông Giô-áp và anh ông là A-vi-sai
đuổi theo Se-va, con của Bích-ri.
11
Một
người trong các đầy tớ ông Giô-áp đứng bên ông A-ma-xa và nói: "Ai thích
ông Giô-áp, ai phò vua Ða-vít, hãy theo ông Giô-áp!” 12 Ông A-ma-xa
nằm giữa đường cái, mình bê bết máu, và người kia thấy dân ai cũng đứng lại.
Anh lôi ông A-ma-xa từ đường cái xuống cánh đồng và phủ một cái áo lên trên, vì
anh thấy ai đến bên ông cũng đứng lại. 13 Khi anh đã đem ông ra khỏi
đường cái, thì ai nấy đều đi qua luôn theo ông Giô-áp, để đuổi bắt Se-va, con
của Bích-ri.
Cuộc
nổi loạn chấm dứt
14
Y
đi qua tất cả các chi tộc Ít-ra-en cho đến A-vên Bết Ma-a-kha. Mọi người Bê-rim
tụ tập lại và cũng theo y vào thành. 15 Người ta đến vây hãm y trong
thành A-vên Bết Ma-a-kha. Họ đắp luỹ đánh thành, luỹ đó dựa vào tường ngoài.
Tất cả quân binh theo ông Giô-áp đang tìm cách phá sập tường thành, 16 thì
một người đàn bà khôn lanh từ trong thành gọi ra: "Nghe đây, nghe đây! Xin
nói với ông Giô-áp: Mời ông đến gần đây. Tôi muốn nói với ông.” 17 Ông
Giô-áp đến gần chỗ bà. Người đàn bà hỏi: "Có phải ông là ông Giô-áp
không?" Ông đáp: "Tôi đây." Bà nói với ông: "Xin nghe những
lời của nữ tỳ ông." Ông nói: "Tôi nghe đây.” 18 Bà nói
rằng: "Người xưa quen nói: "Cứ đến A-vên mà thỉnh ý, và như vậy là
xong việc. 19 Chúng tôi thuộc số những người hiền hoà và trung tín
nhất tại Ít-ra-en. Còn ông, ông lại tìm cách giết hại một thành, một thành mẹ
tại Ít-ra-en. Sao ông muốn tiêu diệt cơ nghiệp của Ðức Chúa?” 20 Ông
Giô-áp trả lời rằng: "Không đời nào! Không đời nào tôi muốn tiêu diệt hay
phá huỷ! 21 Không phải vậy đâu! Nhưng một người từ miền núi Ép-ra-im, tên là
Se-va, con của Bích-ri, đã giơ tay chống lại vua Ða-vít. Các người hãy nộp nó,
một mình nó thôi, thì tôi sẽ rút đi không vây thành nữa." Người đàn bà nói
với ông Giô-áp: "Ðây, đầu nó sẽ được ném qua tường thành xuống cho ông.” 22
Với sự khôn ngoan của mình, người đàn bà đến gặp toàn dân. Người ta chặt
đầu Se-va, con của Bích-ri, và ném xuống cho ông Giô-áp. Ông cho thổi tù và, rồi
họ bỏ thành mà phân tán đi, ai nấy về lều mình, còn ông Giô-áp thì về
Giê-ru-sa-lem với vua.
Các
quan trong triều vua Ða-vít (2 Sm 8:16 -18)
23
Ông
Giô-áp chỉ huy toàn thể quân đội Ít-ra-en. Ông Bơ-na-gia, con ông
Giơ-hô-gia-đa, chỉ huy quân Cơ-rê-thi và quân Pơ-lê-thi. 24 Ông
A-đô-ram phụ trách việc lao dịch. Ông Giơ-hô-sa-phát, con ông A-khi-lút, làm
quốc vụ khanh. 25 Ông Sơ-va làm ký lục. Ông Xa-đốc và ông Ép-gia-tha
làm tư tế. 26 Cả ông I-ra, người Gia-ia, cũng là tư tế của vua
Ða-vít.
Chương 21
V.
Phụ Lục
Nạn
đói. Dòng dõi vua Sa-un bị xử tử.
1
Vào
thời vua Ða-vít, xảy ra một nạn đói kéo dài ba năm. Vua tìm kiếm thánh nhan Ðức
Chúa và Ðức Chúa phán: "Tại Sa-un và nhà của nó có nợ máu, vì nó đã xử tử
người thành Ghíp-ôn.” 2 Vua triệu tập người Ghíp-ôn đến và nói với
họ. - Người Ghíp-ôn không phải là con cái Ít-ra-en, nhưng thuộc số người
E-mô-ri còn sót lại. Con cái Ít-ra-en đã có lời thề với họ, nhưng vua Sa-un, vì
lòng nhiệt thành với con cái Ít-ra-en và Giu-đa, đã tìm cách đánh giết họ. - 3
Vua Ða-vít nói với người Ghíp-ôn: "Ta phải làm gì cho các ngươi, và phải
lấy gì làm lễ xá tội, để các ngươi chúc phúc cho cơ nghiệp của Ðức Chúa?” 4
Người Ghíp-ôn nói với vua Ða-vít: "Giữa chúng tôi với vua Sa-un và
nhà của vua ấy, không có chuyện bạc vàng. Cũng chẳng có chuyện chúng tôi muốn
giết chết ai trong Ít-ra-en." Vua nói: "Các ngươi nói gì, ta sẽ làm
như vậy cho các ngươi.” 5 Họ thưa với vua: "Con người đã tận
diệt chúng tôi và định huỷ diệt chúng tôi, để chúng tôi không còn tồn tại trên
lãnh thổ Ít-ra-en, 6 thì xin người ta nộp cho chúng tôi bảy người
trong số con cháu của người ấy, và chúng tôi sẽ treo chúng trước mặt Ðức Chúa
tại Ghíp-a thành của vua Sa-un, là người Ðức Chúa tuyển chọn." Vua nói:
"Ta sẽ nộp.” 7 Vua tha chết cho ông Mơ-phi-bô-sét, con ông
Giô-na-than là con vua Sa-un, vì giữa hai người, nghĩa là giữa vua Ða-vít và
ông Giô-na-than, con vua Sa-un, có lời thề trước mặt Ðức Chúa. 8 Vua
bắt Ác-mô-ni và Mơ-phi-bô-sét là hai người con trai mà bà Rít-pa, con gái ông
Ai-gia, đã sinh cho vua Sa-un, và bắt năm người con trai của bà Mi-khan, con
gái vua Sa-un, đã sinh cho ông Át-ri-ên, con ông Bác-di-lai người Mơ-khô-la. 9
Vua nộp chúng vào tay người Ghíp-ôn, và họ treo chúng trên núi, trước
nhan Ðức Chúa. Chúng đã mất mạng, cả bảy người một trật. Chúng đã bị xử tử vào
những ngày đầu mùa gặt, khi người ta khởi sự gặt lúa mạch.
10
Bà
Rít-pa, con gái ông Ai-gia, lấy tấm vải thô và trải ra trên tảng đá, từ đầu mùa
gặt cho đến khi mưa từ trời trút xuống trên chúng. Bà không để cho chim trời
đậu xuống trên chúng ban ngày hay dã thú đụng tới chúng ban đêm. 11 Người
ta báo cho vua Ða-vít biết hành động của bà Rít-pa, con gái ông Ai-gia, tỳ
thiếp của vua Sa-un. 12 Vua Ða-vít đến lấy hài cốt vua Sa-un và hài
cốt ông Giô-na-than, con vua ấy, từ tay các thân hào thành Gia-vết miền
Ga-la-át. Các người này đã lấy trộm xác hai cha con vua, từ quảng trường Bết
San, nơi người Phi-li-tinh đã treo hai cha con, vào ngày người Phi-li-tinh hạ
vua Sa-un ở Ghin-bô-a. 13 Vua đưa hài cốt vua Sa-un và hài cốt ông
Giô-na-than, con vua ấy, từ đó lên. Người ta cũng thu hài cốt của những người
đã bị treo 14 và mai táng cùng với hài cốt của vua Sa-un và của ông
Giô-na-than, con vua ấy, ở đất Ben-gia-min, tại Xê-la, trong phần mộ ông Kít,
cha của vua ấy. Người ta đã làm mọi điều vua truyền. Sau đó, Thiên Chúa đã
thương đến xứ sở.
Các
anh hùng trong cuộc chiến chống người Phi-li-tinh (1 Sb 20:4-8)
15
Lại
có giao tranh giữa người Phi-li-tinh và Ít-ra-en. Vua Ða-vít cùng với bề tôi
xuống chiến đấu với người Phi-li-tinh. Vua Ða-vít đã mệt mỏi. 16 Có
tên Gít-bi Bơ-nốp, một người con cháu Ra-pha; cây giáo đồng của nó cân nặng ba
ký, nó trang bị toàn đồ mới và nói tới chuyện hạ vua Ða-vít. 17 Nhưng
ông A-vi-sai, con bà Xơ-ru-gia, đã đến giúp vua. Ông đâm tên Phi-li-tinh và
giết nó. Bấy giờ người của vua Ða-vít thề mà nói với vua: "Ngài sẽ không
ra trận với chúng tôi nữa, kẻo ngài dập tắt ngọn đèn của Ít-ra-en."
18
Sau
đó lại có giao tranh ở Gốp với người Phi-li-tinh. Bấy giờ ông Xíp-bơ-khai,
người Khu-sa, hạ tên Xáp, con cháu Ra-pha.
19
Lại
có giao tranh ở Gốp với người Phi-li-tinh. Ông En-kha-nan, con ông Gia-rê
O-ghim, người Bê-lem, hạ tên Go-li-át, người Gát; cán giáo của nó như trục
khung cửi thợ dệt.
20
Lại
có giao tranh ở Gát. Có một người cao lớn, tay chân đều có sáu ngón, vị chi hai
mươi bốn ngón; nó cũng là con cháu Ra-pha. 21 Nó thách Ít-ra-en, và
ông Giơ-hô-na-than, con ông Sim-a là anh vua Ða-vít, đã hạ nó.
22
Bốn
tên ấy là con cháu Ra-pha, ở Gát, và chúng đã ngã gục do tay vua Ða-vít và do
tay bề tôi của vua.
Chương 22
Thánh
vịnh của vua Ða-vít (Thi 18:1-50)
1
Vua
Ða-vít dâng lên Ðức Chúa những lời của bài ca này, vào ngày Ðức Chúa đã giải
thoát vua khỏi bàn tay mọi kẻ thù của vua và khỏi bàn tay vua Sa-un. 2 Vua
nói:
"Lạy
Ðức Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Ðấng giải thoát con;
3
Lạy
Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn,
là
khiên mộc, là Ðấng cứu độ quyền năng,
là
thành trì bảo vệ, là chốn con nương mình,
là
Ðấng cứu độ con, Ngài cứu con khỏi quân tàn bạo.
4
Tôi
kêu cầu Ðức Chúa, là Ðấng xứng muôn lời ngợi khen,
và
tôi được cứu thoát khỏi quân thù.
5
Sóng
tử thần dồn dập chung quanh,
thác
diệt vong làm tôi kinh hãi,
6
màng
lưới âm ty bủa vây tứ phía,
bẫy
tử thần ập xuống trên tôi.
7
Lúc
ngặt nghèo tôi kêu cầu Ðức Chúa,
kêu
cầu Người là Thiên Chúa của tôi.
Từ
thánh điện, Người nghe tiếng tôi cầu cứu,
lời
tôi khẩn nguyện vọng đến tai Người.
8
Trái
đất bỗng ầm ầm rung chuyển,
nền
móng các tầng trời chấn động lung lay, vì Chúa nổi lôi đình.
9
Từ
thánh nhan Người, khói bốc lửa thiêu,
và
than hồng tung toé.
10
Chúa
nghiêng trời ngự xuống, chân đạp lớp mây mù,
11
ngự
trên thần hộ giá, Người bay
và
xuất hiện trên cánh gió.
12
Chúa
dùng bóng tối chung quanh,
dùng
khối nước tụ và mây đen nghịt, để làm trướng che Người.
13
Từ
chớp loé đi trước mặt Chúa, than hồng cháy bừng lên.
14
Ðức
Chúa nổi sấm từ trời, Ðấng Tối Cao lớn tiếng.
15
Người
bắn tên, khiến địch thù tán loạn,
phóng
chớp ra làm chúng phải tan tành.
16
Lòng
đại dương xuất hiện, thềm lục địa phơi trần,
khi
thấy Ðức Chúa doạ nạt ngăm đe và bừng bừng nổi giận.
17
Từ
chốn cao vời, Chúa đưa tay nắm lấy,
vớt
tôi lên khỏi nước lũ mênh mông,
18
cứu
tôi thoát đối phương tàn bạo, và kẻ thù mạnh thế hơn tôi.
19
Chúng
tấn công tôi ngày tôi lâm nạn,
nhưng
Ðức Chúa thương bênh đỡ phù trì,
20
Người
kéo tôi ra chỗ thảnh thơi,
vì
yêu thương tôi nên Người giải thoát.
21
Ðức
Chúa xử tốt với tôi bởi tôi sống ngay lành,
Người
ban thưởng cho tôi vì tay tôi trong sạch.
22
Chính
bởi tôi đã theo đường lối Ðức Chúa,
không
lỗi đạo cùng Thiên Chúa tôi thờ.
23
Mọi
quyết định của Người luôn ở trước mặt tôi,
thánh
chỉ Người truyền, tôi không lìa bỏ.
24
Trước
mặt Chúa, tôi là kẻ thập toàn, và tránh xa tội lỗi.
25
Ðức
Chúa thưởng cho tôi bởi tôi sống ngay lành,
và
vì tôi trong sạch như mắt người đã thấy.
26
Lạy
Chúa, Ngài tín trung với kẻ tín trung,
xử
tuyệt hảo với người tuyệt hảo.
27
Ngài
ở liêm khiết cùng người liêm khiết,
nhưng
dùng mưu mẹo với kẻ gian ngoan.
28
Vì
Chúa cứu độ dân nghèo hèn,
quắc
mắt nhìn xuống kẻ tự cao.
29
Vâng,
Ngài là ngọn đèn của con, lạy Ðức Chúa,
Ðức
Chúa soi chiếu vào đời con tăm tối mịt mù.
30
Cậy
sức Ngài, con tấn công bọn giặc,
nhờ
ơn Ngài là Thiên Chúa của con,
con
vượt thành vượt luỹ.
31
Ðường
lối Thiên Chúa quả là toàn thiện,
lời
Ðức Chúa hứa được chứng nghiệm tỏ tường.
Chính
Người là khiên che thuẫn đỡ
cho
những ai ẩn náu bên Người.
32
Ngoài
Ðức Chúa, hỏi ai là Thiên Chúa?
Ai
là núi đá độ trì, ngoài Thiên Chúa của ta?
33
Chính
Thiên Chúa là nơi trú ẩn vững chắc của tôi,
mở
ra cho tôi đường lối thiện toàn.
34
Chúa
cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân nai,
Người
đặt tôi đứng vững trên đỉnh núi,
35
tập
cho tôi thạo phép binh đao,
luyện
đôi tay rành nghề cung nỏ.
36
Lạy
Chúa, Ngài ban ơn cứu độ làm khiên mộc chở che con,
săn
sóc ân cần giúp con lớn mạnh.
37
Ðường
con đi, Chúa mở rộng thênh thang,
chân
con bước không bao giờ lảo đảo.
38
Con
đuổi theo, huỷ diệt quân thù,
chỉ
trở về khi chúng bị dẹp tan;
39
con
dẹp tan chúng, đánh cho quỵ, không sao dậy nữa,
chúng
ngã gục, nằm dưới chân con.
40
Chúa
làm cho con nên hùng dũng để xông ra chiến trường,
Ngài
cho con đè bẹp đối phương.
41
Ngài
bắt cừu địch con quay lưng chạy trốn;
con
tiêu diệt những kẻ oán thù con.
42
Chúng
kêu cứu mà không ai cứu chữa,
kêu
lên Ðức Chúa, nhưng Chúa chẳng đáp lời.
43
Con
nghiền tan chúng như bụi đất,
giẫm
nát, chà đạp chúng như bùn ở ngoài đường.
44
Dân
của con phản loạn, Ngài cứu con thoát khỏi,
vẫn
giữ con làm đầu các nước;
dân
xa lạ phải thần phục con,
45
người
nước ngoài cầu thân nịnh bợ,
vừa
nghe con ra lệnh, chúng đã tuân hành;
46
người
nước ngoài tiêu tan nhuệ khí,
từ
trong đồn luỹ, run rẩy kéo nhau ra.
47
Ðức
Chúa vạn vạn tuế!
Chúc
tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn.
Tôn
vinh Thiên Chúa là núi đá độ trì tôi,
48
là
Thượng đế giúp tôi rửa sạch hận thù,
đặt
chư dân ở dưới quyền tôi.
49
Lạy
Chúa, Ngài gỡ con ra khỏi tay thù địch,
cho
thắng cả đối phương, cứu khỏi người tàn bạo.
50
Vì
thế giữa muôn dân, con cảm tạ Ngài, lạy Ðức Chúa,
dâng
điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa.
51
Chúa
ban nhiều chiến thắng lớn lao
cho
Ðức Vua chính Người đã lập.
Chúa
hằng ưu ái Ðấng Người đã xức dầu tấn phong,
là
Ða-vít cùng dòng dõi đến muôn đời."
Chương 23
Những
lời cuối cùng của vua Ða-vít
1
Ðây
là những lời cuối cùng của vua Ða-vít:
"Sấm
ngôn của vua Ða-vít, con ông Gie-sê,
sấm
ngôn của người được đặt lên cao,
của
người được Thiên Chúa nhà Gia-cóp xức dầu tấn phong,
của
người ca sĩ được Ít-ra-en ái mộ.
2
Thần
khí Ðức Chúa dùng tôi mà phán,
lời
Người ở trên lưỡi tôi.
3
Thiên
Chúa của Ít-ra-en đã nói,
Núi
Ðá của Ít-ra-en đã phán cùng tôi:
Ai
cai trị con người với đức công minh,
ai
cai trị với lòng kính sợ Thiên Chúa,
4
thì
khác nào ánh ban mai lúc mặt trời mọc,
một
buổi sáng không mây,
ánh
sáng chói loà sau cơn mưa,
làm
cỏ xanh mọc lên từ lòng đất.
5
Nhà
Ða-vít bên Thiên Chúa chẳng như thế sao,
vì
Người đã lập với tôi một giao ước vĩnh cửu,
được
sắp đặt chi li và được duy trì?
Mọi
chiến thắng của tôi và mọi ước vọng,
Người
chẳng làm cho nẩy mầm đó sao?
6
Nhưng
phường vô lại đều như gai bị vứt bỏ:
người
ta chẳng bắt chúng bằng tay.
7
Người
nào đụng đến chúng,
phải
mang sắt và cán giáo nơi mình,
chúng
sẽ bị quăng vào lửa mà thiêu rụi tại chỗ."
Các
dũng sĩ của vua Ða-vít (1 Sb 11:10-41)
8
Ðây
là tên các dũng sĩ của vua Ða-vít: ông Ít-bô-sét, một người Tác-cơ-môn, đứng
đầu Bộ Ba; chính ông đã vung giáo đâm chết tám trăm người cùng một lúc. 9 Kế
đến là ông E-la-da, con ông Ðô-đô, con một người A-khô-ác. Ông ở trong số ba
dũng sĩ đi theo vua Ða-vít khi họ thách người Phi-li-tinh, lúc chúng tập trung
tại đó để giao chiến. Người Ít-ra-en đã rút đi, 10 nhưng ông đứng
vững và chém giết người Phi-li-tinh, cho đến khi bàn tay ông mệt mỏi dính chặt
vào gươm. Và ngày đó Ðức Chúa đã thắng lớn. Quân binh trở lại phía sau ông,
nhưng chỉ là để lột các xác chết. 11 Sau ông là ông Sam-ma, con ông
A-ghê, người Ha-ra. Người Phi-li-tinh đã tập trung thành một đạo quân. Ở đó có
một thửa đất trồng toàn đậu nâu. Quân binh đã chạy trốn người Phi-li-tinh, 12
nhưng ông đứng giữa thửa đất, đuổi người Phi-li-tinh ra khỏi đó, và đánh
bại chúng. Ðức Chúa đã thắng lớn.
13
Ba
người trong Nhóm Ba Mươi làm thành một tốp đi xuống và đến gặp vua Ða-vít ở
hang A-đu-lam, vào mùa gặt. Một đạo quân Phi-li-tinh đóng trại ở thung lũng
người Ra-pha. 14 Vua Ða-vít bấy giờ đang ở nơi ẩn náu, còn người
Phi-li-tinh bấy giờ đóng đồn ở Bê-lem. 15 Vua Ða-vít ước ao và nói:
"Phải chi có ai cho ta uống nước lấy ở giếng tại cổng thành Bê-lem!” 16
Ba dũng sĩ đã đột nhập trại Phi-li-tinh, lấy nước ở giếng tại cổng thành
Bê-lem, đưa về cho vua Ða-vít. Nhưng vua không muốn uống mà đổ nước ấy làm lễ
rưới dâng Ðức Chúa. 17 Vua nói: "Xin Ðức Chúa đừng để ta làm
điều ấy! Ðó là máu của những người đã liều mạng đi lấy!" Vậy vua không
muốn uống nước. Ðó là việc ba dũng sĩ đã làm.
18
Ông
A-vi-sai, em ông Giô-áp, con bà Xơ-ru-gia, là người chỉ huy Nhóm Ba Mươi. Chính
ông đã vung giáo đâm chết ba trăm người, và được nổi danh trong Nhóm Ba Mươi. 19
Ông được vinh dự nhất trong Nhóm Ba Mươi, nên ông được đứng đầu, nhưng
không được vào Bộ Ba.
20
Ông
Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa, con một người dũng cảm, nhiều thành tích,
xuất thân từ Cáp-xơ-ên. Chính ông đã hạ sát hai anh hùng Mô-áp. Chính ông đã
xuống đập chết con sư tử ở trong giếng vào một ngày có tuyết. 21 Chính
ông đã hạ một tên Ai-cập tướng mạo khác thường. Tên Ai-cập cầm giáo trong tay.
Ông xuống đánh nó với một cây gậy, cướp giáo khỏi tay tên Ai-cập và lấy giáo
của nó mà giết nó. 22 Ðó là những việc ông Bơ-na-gia-hu, con ông
Giơ-hô-gia-đa đã làm, và ông được nổi danh trong Nhóm Ba Mươi dũng sĩ. 23 Ông
được vinh dự nhất trong Nhóm Ba Mươi, nhưng không được vào Bộ Ba. Vua Ða-vít
đặt ông vào số cận vệ của vua.
24
A-xa-hên,
em của Giô-áp, ở trong Nhóm Ba Mươi, En-kha-nan, con của Ðô-đô, người Bê-lem, 25
Sam-ma, người Kha-rốt, Ê-li-ca, người Kha-rốt, 26 Khe-lét,
người Pan-ti, I-ra, con của Ích-kết, người Tơ-cô-a, 27 A-vi-e-de,
người A-na-thốt, Mơ-vun-nai, người Khu-sa, 28 Xan-môn, người
A-khô-khi, Ma-rai, người Nơ-tô-pha, 29 Khê-lép, con của Ba-a-na,
người Nơ-tô-pha, Ít-tai, con của Ri-vai, quê ở Ghíp-a thuộc con cái Ben-gia-min,
30 Bơ-na-gia-hu, người Pia-a-thôn, Hít-đai, quê ở khe núi Ga-át, 31
A-vi An-vôn, người A-ra-va, Át-ma-vét, người Bác-khum, 32 En-giác-ba,
người Sa-an-vôn, các con của Gia-sên: Giơ-hô-na-than, 33 Sam-ma,
người Ha-ra, A-khi-am, con của Sa-ra, người A-ra-ri, 34 Ê-li-phe-lét,
con của A-khát-bai, người Ma-a-kha, Ê-li-am, con của A-khi-thô-phen, người
Ghi-lô, 35 Khét-rai, người Các-men, Pa-a-rai, người A-ráp, 36 Gích-an,
con của Na-than, quê Xô-va, Ba-ni, người Gát, 37 Xe-léc, người
Am-mon, Nác-rai, người Bơ-ê-rốt, người hầu cận của Giô-áp là con bà Xơ-ru-gia, 38
I-ra, người Gít-ri, Ga-rếp, người Gít-ri, 39 U-ri-gia, người
Khết. Tất cả là ba mươi bảy.
Chương 24
Cuộc
điều tra dân số (1 Sb 21:1-6)
1
Ðức
Chúa lại nổi giận với Ít-ra-en, và Người xúi giục vua Ða-vít gây hoạ cho họ.
Người phán: "Hãy đi đếm dân Ít-ra-en và người Giu-đa.” 2 Vua
bảo ông Giô-áp, tướng chỉ huy quân lực, đang ở với vua: "Hãy rảo khắp các
chi tộc Ít-ra-en, từ Ðan tới Bơ-e Se-va, và điều tra nhân khẩu để ta biết dân
số.” 3 Ông Giô-áp thưa với vua: "Ước chi Ðức Chúa, Thiên Chúa
của ngài, làm cho dân tăng lên gấp trăm lần con số hiện nay, và ước chi chính
mắt của đức vua là chúa thượng tôi được thấy! Nhưng tại sao đức vua là chúa
thượng tôi lại muốn điều ấy?” 4 Tuy nhiên, lời vua buộc ông Giô-áp
và các tướng chỉ huy quân lực; ông Giô-áp và các tướng chỉ huy quân lực đang ở
trước mặt vua đã ra đi điều tra dân số Ít-ra-en.
5
Họ đi
qua sông Gio-đan và đóng trại ở A-rô-e, ở phía nam của thành nằm giữa thung
lũng Gát, rồi đi về phía Gia-de. 6 Họ đến miền Ga-la-át và Vùng đất
thấp ở Khót-si, rồi đến Ðan Gia-an và vòng về Xi-đôn. 7 Họ đến Tia,
một thành luỹ kiên cố, và mọi thành của người Khi-vi và của người Ca-na-an, rồi
họ ra vùng Ne-ghép của Giu-đa, tại Bơ-e Se-va. 8 Họ đã rảo qua khắp
xứ, và sau chín tháng hai mươi ngày, họ về Giê-ru-sa-lem. 9 Ông
Giô-áp nộp cho vua con số của cuộc điều tra dân số: Ít-ra-en có tám trăm ngàn
chiến binh biết tuốt gươm, và Giu-đa có năm trăm ngàn.
Bệnh
dịch. Thiên Chúa tha thứ. (1 Sb 21:7-17)
10
Vua
Ða-vít áy náy trong lòng sau khi đã kiểm tra dân số như vậy. Vua Ða-vít thưa
cùng Ðức Chúa: "Con đã phạm tội nặng khi làm như thế. Giờ đây, lạy Ðức
Chúa, xin bỏ qua lỗi lầm của tôi tớ Ngài, vì con đã hành động rất ngu xuẩn.” 11
Sáng hôm sau, khi vua Ða-vít dậy, đã có lời Ðức Chúa phán với ngôn sứ
Gát, thầy chiêm của vua Ða-vít, rằng: 12 "Hãy đi nói với
Ða-vít: Ðức Chúa phán thế này: "Ta đưa ra cho ngươi ba điều. Ngươi hãy
chọn lấy một trong ba, và Ta sẽ thực hiện cho ngươi.” 13 Vậy ông Gát
đến gặp vua Ða-vít, báo cho vua và nói: "Ngài muốn điều gì xảy ra: hoặc
bảy năm đói trong toàn nước ngài, hoặc ba tháng chạy trốn trước mặt kẻ thù đuổi
theo ngài, hoặc ba ngày ôn dịch? Bây giờ xin ngài suy nghĩ xem tôi phải trả lời
thế nào cho Ðấng đã sai tôi.” 14 Vua Ða-vít nói với ông Gát:
"Tôi lâm vào cảnh rất ngặt nghèo. Thà chúng ta sa vào tay Ðức Chúa còn
hơn, vì lòng thương của Người bao la, nhưng ước chi tôi đừng sa vào tay người
phàm!"
15
Ðức
Chúa giáng ôn dịch xuống Ít-ra-en từ sáng hôm đó cho đến lúc đã định, và từ Ðan
tới Bơ-e Se-va, có bảy mươi ngàn người trong dân đã chết. 16 Thiên
sứ đưa tay về phía Giê-ru-sa-lem để tàn phá thành, nhưng Ðức Chúa hối tiếc vì
tai hoạ đó, và Người bảo thiên sứ có nhiệm vụ tiêu diệt dân: "Ðủ rồi! Bây
giờ rút tay lại." Thiên sứ của Ðức Chúa đang ở gần sân lúa của ông
A-rau-na, người Giơ-vút. 17 Vua Ða-vít thưa với Ðức Chúa, khi thấy
thiên sứ có nhiệm vụ đánh phạt dân, ông nói: "Ngài coi, chính con đã phạm
tội, chính con có lỗi; nhưng đàn chiên đó đã làm gì? Xin tay Ngài cứ đè trên
con và nhà cha con!"
Vua
Ða-vít dựng bàn thờ (1 Sb 21:18 -27)
18
Ngày
hôm đó, ông Gát đến gặp vua Ða-vít và nói với vua: "Xin ngài lên dựng một
bàn thờ để kính Ðức Chúa tại sân lúa của ông A-rau-na, người Giơ-vút.” 19 Vua
Ða-vít đi lên theo lời ông Gát, như Ðức Chúa đã truyền. 20 Ông
A-rau-na nhìn xuống, thấy vua và bề tôi đang đi qua phía mình. Ông A-rau-na
liền đi ra và sấp mặt xuống đất lạy vua. 21 Ông A-rau-na nói:
"Chẳng hay đức vua là chúa thượng tôi đến gặp tôi tớ người có mục đích
gì?" Vua Ða-vít nói: "Ðến mua sân lúa của ngươi và xây một bàn thờ để
kính Ðức Chúa, hầu chấm dứt tai ương đang làm hại dân.” 22 Ông
A-rau-na thưa với vua Ða-vít: "Xin đức vua là chúa thượng tôi cứ lấy sân
lúa và dâng lên cái gì ngài coi là tốt. Ngài xem: đây có bò làm lễ toàn thiêu,
có bàn đạp lúa và ách bò làm củi. 23 Thưa đức vua, tất cả những cái
đó, A-rau-na xin dâng đức vua." Ông A-rau-na thưa với vua: "Xin Ðức
Chúa, Thiên Chúa của ngài, khứng nhận cho ngài!"
24
Nhưng
vua nói với ông A-rau-na: "Không! Ta muốn mua của ngươi, giá cả sòng
phẳng, và ta không muốn dâng lên Ðức Chúa, Thiên Chúa của ta, những lễ toàn
thiêu mà ta không mất tiền mua." Vua Ða-vít đã trả mười lăm lượng bạc để
mua sân lúa và bò. 25 Vua Ða-vít xây một bàn thờ ở đó để kính Ðức
Chúa và dâng những lễ toàn thiêu và những lễ kỳ an. Ðức Chúa đã thương đến xứ
sở, và tai ương đã chấm dứt không làm hại Ít-ra-en nữa.
Các Vua 1
Chương 01
I.
Việc Kế Vị Vua Ða-Vít
Tuổi
già của vua Ða-vít và những âm mưu của A-đô-ni-gia-hu
1
Vua
Ða-vít đã già nua, tuổi tác; áo mặc bao nhiêu cũng không đủ ấm. 2 Các
bề tôi của vua mới thưa vua rằng: "Xin được tìm cho đức vua, chúa thượng
của hạ thần một cô trinh nữ, để nàng túc trực bên ngài và săn sóc cho ngài; có
nàng nằm trong lòng ngài, ngài sẽ cảm thấy ấm.” 3 Vậy họ đã tìm khắp
nơi trong toàn cõi Ít-ra-en để kiếm một thiếu nữ trẻ đẹp, và họ đã gặp cô
A-vi-sác, người Su-nêm. Họ dẫn nàng vào chầu vua. 4 Ðó là một thiếu
nữ cực kỳ xinh đẹp; thế là nàng trở thành người săn sóc và hầu hạ vua; nhưng
vua vẫn để nàng trinh nguyên. 5 Còn hoàng tử A-đô-ni-gia, con của bà
Khác-ghít, thì tự xưng vương mà rằng: "Ta sẽ làm vua!" Chàng sắm xe,
ngựa, và kiếm được năm mươi người chạy đàng trước mình. 6 Suốt đời
chàng, vua cha không hề cấm cản chàng, như nói: "Sao con lại làm
thế?" Vả lại trông chàng cũng khôi ngô tuấn tú, và bà mẹ chàng đã sinh ra
chàng sau Áp-sa-lôm. 7 Chàng móc nối với ông Giô-áp, con bà
Xơ-ru-gia và với tư tế Ép-gia-tha; họ đã theo phe A-đô-ni-gia. 8 Còn
tư tế Xa-đốc, ông Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa, ngôn sứ Na-than, ông
Sim-y, ông Rê-y và các anh hùng của vua Ða-vít, không ai ủng hộ A-đô-ni-gia-hu.
9
Khi
A-đô-ni-gia-hu sát tế chiên, bò và dê béo gần tảng đá Dô-khe-lét bên cạnh Ên
Rô-ghên, thì chàng mời tất cả các hoàng tử anh em mình cùng tất cả nhân sĩ
Giu-đa đang phục vụ nhà vua. 10 Nhưng ngôn sứ Na-than, ông
Bơ-na-gia-hu, các anh hùng và cả Sa-lô-môn em chàng, chàng cũng không mời.
Âm
mưu của ông Na-than và bà Bát Se-va
11
Bấy
giờ ông Na-than nói với bà Bát Se-va mẹ của Sa-lô-môn: "Bà không nghe biết
sao: A-đô-ni-gia-hu, con bà Khác-ghít đã làm vua, mà vua Ða-vít chúa thượng của
chúng ta không hay biết gì hết? 12 Bây giờ, này, tôi xin góp ý với bà để bà tự
cứu lấy mạng mình và mạng Sa-lô-môn con bà nữa. 13 Bà hãy đi yết
kiến vua Ða-vít và thưa với người: "Thưa đức vua, chúa thượng của tiện
thiếp, nào chẳng phải chính ngài đã thề với tiện thiếp rằng: Chắc chắn
Sa-lô-môn, con của ái khanh sẽ lên kế vị trên ngai báu ta? Vậy tại sao hoàng tử
A-đô-ni-gia-hu lại đã làm vua? 14 Này, khi bà còn đang ở đó hầu chuyện đức vua,
thì tôi sẽ vào sau, và bổ túc cho lời bà."
15
Bà
Bát Se-va vào chầu vua tại ngự phòng. (Vua đã quá già, và nàng A-vi-sác, người
Su-nêm, hầu hạ vua). 16 Bà Bát Se-va quỳ gối phủ phục trước mặt vua;
vua hỏi: "Có chuyện gì thế, ái khanh?” 17 Bà thưa với vua:
"Thưa chúa thượng, ngài đã nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài mà thề
với nữ tỳ của ngài rằng: "Sa-lô-môn con của ái khanh sẽ làm vua kế vị ta
trên ngai báu của ta. 18 Nhưng bây giờ, này, A-đô-ni-gia đã làm vua,
thế mà đức vua chúa thượng của tiện thiếp vẫn không hay biết. 19 Hoàng
tử đã sát tế bò, bê béo, chiên cừu nhiều vô kể, rồi mời tất cả các hoàng tử,
mời tư tế Ép-gia-tha, ông Giô-áp chỉ huy quân đội; còn Sa-lô-môn tôi tớ ngài
thì hoàng tử không mời. 20 Nhưng, chính nơi ngài, tâu đức vua chúa
thượng của tiện thiếp, nơi ngài toàn thể Ít-ra-en đều để mắt trông chờ, xem
ngài sẽ phán quyết cho ai lên kế vị ngài trên ngai báu của đức vua chúa thượng
của tiện thiếp. 21 Thành ra khi đức vua chúa thượng của tiện thiếp
đã an nghỉ với tổ tiên, thì tiện thiếp cùng với Sa-lô-môn con của tiện thiếp sẽ
phải mang tội."
22
Bà
còn đang trình bày với vua, thì ngôn sứ Na-than đến. 23 Người ta báo
tin cho vua hay có ngôn sứ Na-than đến. Ông đi vào phủ phục trước mặt vua, mặt
sát đất. 24 Ông Na-than nói: "Thưa đức vua chúa thượng tôi, thế
ra chính ngài đã phán quyết: "A-đô-ni-gia-hu sẽ làm vua kế vị ta, nó sẽ
ngồi trên ngai của ta. 25 Vì hôm nay hoàng tử đã xuống sát tế bò, bê
béo, chiên cừu nhiều vô kể, rồi mời tất cả các hoàng tử, các người chỉ huy quân
đội, tư tế Ép-gia-tha. Này họ đang ăn uống trước mặt hoàng tử ấy và hoan hô:
"Vua A-đô-ni-gia-hu muôn năm! 26 Còn bề tôi ngài là hạ thần đây, rồi tư tế
Xa-đốc, ông Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa cũng như Sa-lô-môn bề tôi của
ngài, thì hoàng tử không mời. 27 Nếu sự việc này đã do đức vua chúa
thượng tôi quyết định, thì đúng là ngài đã không cho các bề tôi của ngài biết:
ai sẽ lên kế vị trên ngai báu của đức vua chúa thượng tôi."
28
Vua
Ða-vít lên tiếng nói: "Mời Bát Se-va vào cho ta." Bà vào chầu vua và
đứng trước mặt vua. 29 Bấy giờ vua thề và nói: "Ta thề nhân
danh Ðức Chúa, Ðấng đã giải thoát ta khỏi mọi cơn quẫn bách: 30 đúng
như ta đã thề với ái khanh nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, rằng
Sa-lô-môn của ái khanh sẽ làm vua kế vị ta; chính nó sẽ ngự trên ngai ta, thay
thế ta, và ngay hôm nay ta sẽ thi hành như thế.” 31 Bà Bát Se-va quỳ
xuống phủ phục trước mặt vua, mặt sát đất, và nói: "Ðức vua Ða-vít chúa
thượng của tiện thiếp muôn muôn năm!” 32 Vua Ða-vít nói: "Gọi
vào đây cho ta tư tế Xa-đốc, ngôn sứ Na-than, ông Bơ-na-gia-hu con ông
Giơ-hô-gia-đa." Những người này vào chầu vua. 33 Vua nói với
họ: "Hãy đưa các bề tôi của chúa thượng các ngươi đi theo các ngươi; để
Sa-lô-môn con ta cỡi con la cái của ta, rồi đưa nó xuống Ghi-khôn. 34 Ở
đấy tư tế Xa-đốc và ngôn sứ Na-than sẽ xức dầu phong nó làm vua Ít-ra-en; các
ngươi sẽ rúc tù và và hô: "Vua Sa-lô-môn muôn năm! 35 Rồi các ngươi sẽ
theo nó đi lên, nó sẽ vào ngự trên ngai của ta, nó sẽ làm vua thay thế ta, vì
nó chính là người mà ta đã đặt lên cai quản Ít-ra-en và Giu-đa.” 36 Ông
Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa thưa lại với vua và nói: "A-men, xin
Ðức Chúa, Thiên Chúa của đức vua chúa thượng của hạ thần phán như vậy! 37 Xin
Ðức Chúa cũng ở với vua Sa-lô-môn như đã ở với đức vua chúa thượng của hạ thần
và làm cho ngai báu của người trở nên vĩ đại hơn ngai báu của đức vua Ða-vít
chúa thượng của hạ thần."
38
Tư
tế Xa-đốc, ngôn sứ Na-than, ông Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa, cùng với
quân Cơ-rê-thi và Pơ-lê-thi đi xuống; họ để hoàng tử Sa-lô-môn cỡi con la cái
của vua Ða-vít và đưa hoàng tử xuống Ghi-khôn. 39 Tư tế Xa-đốc lấy
sừng đựng dầu từ Nhà Lều và xức cho Sa-lô-môn. Người ta đã rúc tù và; toàn dân
hô: "Vua Sa-lô-môn muôn năm!” 40 Toàn dân tiến lên theo sau
vua. Dân chúng thổi sáo và reo vui đến nỗi đất cũng chuyển động vì tiếng hò la
của họ.
A-đô-ni-gia-hu
khiếp sợ
41
Ông
A-đô-ni-gia-hu cùng tất cả các người được mời đang ở với ông, vừa ăn xong, thì
nghe thấy; ông Giô-áp nghe tiếng tù và, thì nói: "Tiếng gì làm náo động
nội thành vậy?” 42 Họ còn đang nói, thì này, ông Giô-na-than con tư
tế Ép-gia-tha đi vào; ông A-đô-ni-gia-hu liền nói: "Vào đi, vì anh là một
dũng sĩ và là người mang tin mừng.” 43 Ông Giô-na-than trả lời và
nói với ông A-đô-ni-gia-hu: "Nguy to! Ðức vua Ða-vít chúa thượng của chúng
ta đã đặt Sa-lô-môn làm vua! 44 Ðức vua đã sai tư tế Xa-đốc, ngôn sứ Na-than,
ông Bơ-na-gia-hu con ông Giơ-hô-gia-đa, quân Cơ-rê-thi và Pơ-lê-thi cùng đi với
ông; họ để ông cỡi con la cái của đức vua. 45 Tư tế Xa-đốc và ngôn
sứ Na-than đã xức dầu phong ông làm vua, tại Ghi-khôn; rồi họ hò la kéo lên và
cả thành náo động. Ðó là tiếng ồn ào mà quý vị đã nghe thấy. 46 Hơn
nữa, Sa-lô-môn còn được ngồi trên ngai vua. 47 Quần thần đến chúc
mừng vua Ða-vít chúa thượng của chúng ta rằng: "Xin Thiên Chúa của ngài
làm cho danh Sa-lô-môn rạng ngời hơn danh ngài, cho ngai báu của người vĩ đại
hơn ngai báu của ngài." Vua phủ phục trên long sàng. 48 Vua nói
như thế này: "Chúc tụng Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Ðấng hôm nay đã
ban cho mắt ta được thấy trong dòng dõi ta có người ngồi trên ngai ta!"
49
Bấy
giờ tất cả những người được A-đô-ni-gia-hu mời đều run sợ; họ đứng lên, bỏ đi,
mỗi người một ngả. 50 Còn A-đô-ni-gia-hu, vì sợ Sa-lô-môn, đã đứng
lên đi bám chặt lấy góc bàn thờ. 51 Người ta báo tin cho Sa-lô-môn
rằng: "Này A-đô-ni-gia-hu sợ vua Sa-lô-môn, nên đã bám chặt lấy góc bàn
thờ mà nói: "Hôm nay xin vua Sa-lô-môn thề hứa với tôi là người sẽ không
dùng gươm giết tôi tớ người.” 52 Sa-lô-môn nói: "Nếu ông ấy là
người lương thiện, thì không một sợi tóc nào trên đầu ông sẽ rơi xuống đất; còn
nếu người ta phát giác ông có tội, thì ông sẽ phải chết.” 53 Rồi vua
Sa-lô-môn truyền đưa ông xuống khỏi bàn thờ; ông đến sấp mình trước vua
Sa-lô-môn, và Sa-lô-môn bảo ông: "Về nhà ngươi đi!"
Chương 02
Di
chúc của vua Ða-vít
1
Khi
thấy mình đã gần đất xa trời, vua Ða-vít truyền dạy Sa-lô-môn con mình rằng: 2
"Cha sắp bước vào đoạn đường mà mọi người trên đời phải đi qua; con
hãy can đảm lên và sống cho xứng bậc nam nhi. 3 Hãy tuân giữ các
huấn lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của con, mà đi theo đường lối của Người, là
giữ các giới răn, mệnh lệnh, luật pháp, và chỉ thị của Người, như đã ghi trong
Luật Mô-sê. Như thế con sẽ thành công trong mọi việc con làm và trong mọi hướng
con đi, 4 và Ðức Chúa sẽ thực hiện lời Người đã phán với cha rằng:
"Nếu con cái ngươi sống cho phải đạo là hết lòng hết dạ bước đi trung thực
trước nhan Ta, thì ngươi sẽ không bao giờ thiếu người ngự trên ngai Ít-ra-en. 5
Con cũng đã biết Giô-áp, con của Xơ-ru-gia, đã làm gì cho cha, nó đã làm
gì cho hai người chỉ huy quân đội Ít-ra-en là Áp-ne, con của Ne, và A-ma-xa,
con của Gie-the; nó đã giết họ. Như thế trong thời bình nó đã đổ máu người như
trong thời chiến, làm cho đai lưng và giầy nó mang vấy máu chiến tranh. 6 Con
sẽ đối xử theo sự khôn ngoan của con, và đừng để cho đầu bạc của nó xuống âm
phủ bình an. 7 Còn đối với các con của Bác-di-lai, người Ga-la-át,
thì con sẽ cư xử nhân hậu, cho chúng được hưởng lộc của con, vì khi cha trốn
Áp-sa-lôm anh con, nó đã tiếp cứu cha như thế. 8 Và này, con còn vụ
Sim-y, con của Ghê-ra, người Ben-gia-min, thuộc Ba-khu-rim. Nó đã chửi rủa cha
thậm tệ hôm cha đến Ma-kha-na-gim; nhưng rồi nó lại xuống đón gặp cha ở sông
Gio-đan, và cha đã nhân danh Ðức Chúa mà thề với nó rằng: "Ta sẽ không
dùng gươm giết ngươi. 9 Nhưng con, con đừng để nó vô can, bởi vì con
là người khôn ngoan, và biết phải xử với nó như thế nào để bắt nó xuống âm phủ
với đầu bạc vấy máu."
10
Vua
Ða-vít đã an nghỉ với tổ tiên ông, và được chôn cất trong Thành vua Ða-vít. 11
Thời gian vua Ða-vít trị vì Ít-ra-en là bốn mươi năm: vua trị vì tại
Khép-rôn bảy năm và tại Giê-ru-sa-lem ba mươi ba năm.
Ông
A-đô-ni-gia-hu bị giết
12
Vua
Sa-lô-môn ngự trên ngai vua Ða-vít, thân phụ ông, và vương quyền của ông thật
là vững chắc. 13 Ông A-đô-ni-gia-hu, con bà Khác-ghít, đến gặp bà
Bát Se-va, mẹ vua Sa-lô-môn; bà hỏi ông: "Anh đến nói chuyện bình an
chứ?" Ông thưa: "Bình an.” 14 Ông nói tiếp: "Tôi có
việc muốn thưa với bà." Bà đáp: "Anh cứ nói.” 15 Ông nói:
"Hẳn bà cũng biết là vương quyền phải thuộc về tôi; và toàn thể Ít-ra-en
đều hướng về tôi, trông chờ tôi làm vua. Nhưng vương quyền ấy đã xoay chiều và
thuộc về em tôi, vì Ðức Chúa đã muốn như thế. 16 Vậy bây giờ tôi chỉ
có một điều xin bà, bà đừng ngoảnh mặt đi." Bà bảo ông: "Anh cứ nói.”
17 Ông liền nói: "Xin bà nói với vua Sa-lô-môn - vì người không
ngoảnh mặt từ chối bà đâu - xin người ban cho tôi nàng A-vi-sác, người Su-nêm,
làm vợ.” 18 Bà Bát Se-va nói: "Ðược, tôi sẽ thưa với vua hộ
anh.” 19 Bà Bát Se-va vào yết kiến vua Sa-lô-môn để thưa chuyện với
vua giúp A-đô-ni-gia-hu. Vua đứng lên, ra đón và sấp mình chào bà; đoạn vua
ngồi trên ngai, đồng thời cũng truyền đặt một ngai cho bà thái hậu, bà ngồi bên
hữu vua. 20 Bà nói: "Có một điều nhỏ mọn mẹ xin với con; con
đừng ngoảnh mặt đi." Vua nói với bà: "Thưa mẹ, mẹ cứ xin, vì con sẽ
không ngoảnh mặt từ chối mẹ.” 21 Bà liền nói: "Xin cho nàng
A-vi-sác, người Su-nêm, được làm vợ A-đô-ni-gia-hu, anh con.” 22 Vua
Sa-lô-môn trả lời và nói với mẹ: "Sao mẹ lại xin nàng A-vi-sác, người
Su-nêm, cho A-đô-ni-gia-hu? Mẹ xin cho anh ấy vương quyền luôn đi, vì anh ấy là
anh con mà, và đã có tư tế Ép-gia-tha cũng như Giô-áp, con Xơ-ru-gia, ủng hộ.” 23
Rồi vua Sa-lô-môn lấy danh Ðức Chúa mà thề: "Xin Thiên Chúa phạt ta
thế này và thế kia nữa, nếu A-đô-ni-gia-hu không mất mạng vì câu nói đó!” 24
Vậy bây giờ, có Ðức Chúa hằng sống! Ðấng đã làm cho ta được vững, và đặt
ta trên ngai Ða-vít phụ vương ta, Người cũng đã tạo lập cho ta một triều đại
như Người đã phán, ta thề rằng ngay hôm nay A-đô-ni-gia-hu sẽ phải chết!” 25
Ðoạn vua Sa-lô-môn sai ông Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa, đi hạ sát
ông A-đô-ni-gia-hu và ông này đã chết.
Số
phận ông Ép-gia-tha và ông Giô-áp
26
Còn
tư tế Ép-gia-tha thì vua bảo: "Ngươi hãy về A-na-thốt với ruộng đất của
ngươi, vì ngươi là con người đáng chết, nhưng hôm nay ta không giết ngươi, bởi
vì ngươi đã khiêng Hòm Bia của Ðức Chúa là Chúa Thượng ta, trước mặt Ða-vít phụ
vương ta, và ngươi đã chia sẻ mọi nỗi gian lao với phụ vương ta.” 27 Thế
là ông Sa-lô-môn cách chức ông Ép-gia-tha không cho làm tư tế Ðức Chúa nữa,
khiến cho lời Ðức Chúa đã phán về gia đình Ê-li tại Si-lô nên ứng nghiệm.
28
Hay
tin ấy, ông Giô-áp, người đã từng theo phe A-đô-ni-gia, tuy không ngả theo
Áp-sa-lôm, liền trốn vào Lều của Ðức Chúa và bám chặt lấy góc bàn thờ. 29 Người
ta báo tin cho Sa-lô-môn biết là ông Giô-áp đã trốn vào Lều của Ðức Chúa, và
này ông đang ở bên cạnh bàn thờ. Vua Sa-lô-môn sai ông Bơ-na-gia-hu, con ông
Giơ-hô-gia-đa và bảo: "Ði hạ sát hắn!” 30 Ông Bơ-na-gia-hu vào
Lều của Ðức Chúa và nói với ông Giô-áp: "Ðức vua phán thế này: Ði
ra!" Nhưng ông đáp: "Không, tôi sẽ chết ở đây." Ông Bơ-na-gia-hu
tường trình sự việc với vua: "Giô-áp đã nói và trả lời tôi như thế.” 31
Vua nói với ông: "Cứ làm như hắn nói; hạ sát hắn, rồi chôn hắn đi.
Như thế, ngươi sẽ làm cho ta và nhà cha ta được sạch vết máu vô tội Giô-áp đã
đổ ra. 32 Xin Ðức Chúa làm cho máu hắn lại đổ trên đầu hắn, vì hắn
đã hạ sát hai người công chính và tốt lành hơn hắn; hắn đã dùng gươm thủ tiêu
họ mà Ða-vít, thân phụ ta, không hay biết: đó là ông Áp-ne, con ông Ne, chỉ huy
quân đội Ít-ra-en, và ông A-ma-xa, con ông Gie-the, chỉ huy quân đội Giu-đa. 33
Như thế máu của họ lại đổ trên đầu Giô-áp và trên đầu dòng dõi hắn đến
muôn đời; còn Ða-vít và dòng dõi người, cũng như triều đại và ngai báu của
người sẽ được Ðức Chúa ban bình an đến muôn đời.” 34 Bấy giờ ông
Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa, đi lên, hạ sát, rồi chôn ông Giô-áp tại
nhà ông này trong sa mạc. 35 Vua đặt ông Bơ-na-gia-hu con ông
Giơ-hô-gia-đa thay thế ông Giô-áp đứng đầu quân đội và tư tế Xa-đốc thay thế
ông Ép-gia-tha.
Sim-y
thất lời và bị giết
36
Vua
sai người gọi Sim-y đến và bảo: "Ngươi hãy xây cho mình một ngôi nhà tại
Giê-ru-sa-lem mà ở, và không được rời khỏi đây, để đi bất cứ nơi nào khác. 37
Ngày nào ngươi rời khỏi đó và qua suối Kít-rôn, thì ngày ấy ngươi biết
chắc rằng ngươi sẽ phải chết; máu ngươi sẽ đổ trên đầu ngươi.” 38 Sim-y
thưa với vua: "Lời ngài nói thật là phải. Ðức vua, chúa thượng tôi, đã nói
thế nào, thì xin ngài cứ thi hành như vậy với bề tôi của ngài." Và Sim-y
cư ngụ lâu ngày tại Giê-ru-sa-lem.
39
Nhưng
rồi sau ba năm có hai người đầy tớ của Sim-y bỏ trốn, đến với ông A-khít, con
ông Ma-a-kha, vua Gát; và người ta báo cho Sim-y: "Này, các đầy tớ của ông
đang ở Gát.” 40 Sim-y liền trỗi dậy, thắng lừa, đi Gát, đến nhà ông
A-khít, để tìm đầy tớ; ông đến đó và đưa các đầy tớ của mình từ Gát trở về. 41
Người ta báo cho vua Sa-lô-môn biết Sim-y đã bỏ Giê-ru-sa-lem đi Gát và
đã trở về.
42
Vua
mới sai người gọi Sim-y đến và bảo: "Ta lại đã không bắt ngươi lấy Ðức
Chúa mà thề và ta đã cảnh giác ngươi rằng: ngày nào ngươi rời khỏi đây và đi
bất cứ nơi nào khác, thì ngươi biết chắc rằng ngươi sẽ phải chết; ngươi cũng đã
thưa với ta: "Lời ngài nói thật là phải, tôi xin tuân hành. 43 Vậy,
tại sao ngươi không giữ lời đã thề trước mặt Ðức Chúa và lệnh ta đã truyền cho
ngươi?” 44 Rồi vua nói với Sim-y: "Chính ngươi đã biết tất cả
sự độc ác - hẳn lòng ngươi quá rõ - mà ngươi đã làm cho Ða-vít thân phụ ta; xin
Ðức Chúa làm cho sự độc ác của ngươi lại giáng xuống đầu ngươi. 45 Còn
vua Sa-lô-môn thì được chúc phúc, và ngai báu của Ða-vít bền vững trước nhan
Ðức Chúa đến muôn đời.” 46 Vua ra lệnh cho ông Bơ-na-gia-hu con ông
Giơ-hô-gia-đa, và ông đã đi hạ sát Sim-y và y đã chết.
Vua
Sa-lô-môn nắm vững vương quyền trong tay.
Chương 03
II.
Tiểu Sử Sa-Lô-Môn Ðại Ðế
1.
Sa-Lô-Môn, Con Người Khôn Ngoan
Tiểu
dẫn
1
Sa-lô-môn
thành con rể của Pha-ra-ô vua Ai-cập, vì đã cưới công chúa vua Ai-cập, và đưa
nàng về Thành của Ða-vít, cho đến khi hoàn thành việc xây cất cung điện của
ông, cũng như Ðền Thờ Ðức Chúa và tường thành quanh Giê-ru-sa-lem. 2 Chỉ
có điều là dân chúng vẫn tế lễ trên các nơi cao, vì cho đến nay ông vẫn chưa
xây được ngôi đền nào kính Danh Ðức Chúa. 3 Tuy Sa-lô-môn yêu mến
Ðức Chúa, bước theo các lời chỉ dạy của Ða-vít, thân phụ ông; nhưng ông vẫn tế
lễ và đốt hương trên các nơi cao.
Giấc
mộng ở Ghíp-ôn (2 Sb 1:3-12)
4
Vua
đi Ghíp-ôn để tế lễ vì chỗ ấy là nơi cao quan trọng nhất; Sa-lô-môn dâng một
ngàn lễ vật toàn thiêu trên bàn thờ ấy. 5 Tại Ghíp-ôn, đang đêm Ðức
Chúa hiện ra báo mộng cho vua Sa-lô-môn, Thiên Chúa phán: "Ngươi cứ xin
đi, Ta sẽ ban cho.” 6 Vua Sa-lô-môn thưa: "Chính Ngài đã lấy
lòng nhân hậu lớn lao mà xử với tôi tớ Chúa là Ða-vít thân phụ con, như người
đã bước đi trước nhan Chúa cách trung thực, công chính, với tâm hồn ngay thẳng.
Chúa đã duy trì lòng nhân hậu lớn lao ấy đối với người, khi ban cho người có
một đứa con ngồi trên ngai của người hôm nay. 7 Và bây giờ, lạy Ðức
Chúa là Thiên Chúa của con, chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa đây lên ngôi kế vị
Ða-vít, thân phụ con, mặc dầu con chỉ là một thanh niên bé nhỏ, không biết cầm
quyền trị nước. 8 Con lại ở giữa dân mà Chúa đã chọn, một dân đông
đúc, đông không kể xiết, cũng không đếm nổi. 9 Xin ban cho tôi tớ
Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải
trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế?”
10 Chúa hài lòng vì vua Sa-lô-môn đã xin điều đó. 11 Thiên
Chúa phán với vua: "Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho
được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết,
nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, 12 thì này, Ta làm
theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi
trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp. 13
Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang,
đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các vua được như ngươi. 14 Và
nếu ngươi bước theo các đường lối của Ta, là tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh
của Ta, như Ða-vít thân phụ ngươi, thì Ta sẽ kéo dài ngày đời của ngươi.” 15
Sa-lô-môn tỉnh dậy, thì ra đó là một giấc mộng. Ông trở về Giê-ru-sa-lem
và đứng trước Hòm Bia Giao Ước của Chúa; ông thượng tiến lễ toàn thiêu, dâng lễ
kỳ an và thết tất cả các bề tôi của mình một bữa tiệc.
Vua
Sa-lô-môn xử kiện
16
Bấy
giờ có hai người gái điếm vào chầu vua. Khi đứng trước mặt vua, 17 thì
một người nói: "Ôi, thưa chúa thượng tôi, tôi và người đàn bà này cùng ở
một nhà; và tôi sinh một đứa con, trong lúc chị này cùng ở đó với tôi. 18 Tôi
sinh được ba ngày, thì người đàn bà này cũng sinh. Chúng tôi ở chung với nhau;
ngoài hai chúng tôi ra, không có ai khác trong nhà. 19 Ðêm nọ, đứa
con của chị này chết, vì chị đè lên nó; 20 giữa đêm chị thức dậy, và
trong khi nữ tỳ của ngài vẫn ngủ, thì chị bế đứa con của tôi đang nằm cạnh tôi,
và đặt trong lòng mình, còn đứa con đã chết của chị, chị đặt vào lòng tôi. 21
Ðến sáng khi tôi thức dậy cho con bú, thì này đứa bé đã chết. Nhưng khi
tôi nhìn kỹ nhờ ánh sáng ban ngày, thì ra nó không phải là đứa con tôi đã sinh
ra.” 22 Người đàn bà kia trả lời: "Không phải thế, vì con tôi
còn sống, con chị mới là đứa chết." Nhưng người này lại nói: "Không
phải, con chị mới là đứa chết, đứa sống là con tôi." Và họ cãi nhau trước
mặt vua. 23 Bấy giờ vua nói: "Chị này bảo: "Ðứa sống này
là con tôi, con chị mới là đứa chết. Chị kia đáp lại: "Không phải thế, con
chị mới là đứa chết, nhưng con tôi còn sống.” 24 Rồi vua ra lệnh:
"Ðưa cho ta chiếc gươm." Người ta đưa tới trước mặt vua một chiếc
gươm. 25 Và vua quyết định: "Phân đứa trẻ còn sống ra làm hai,
và cho mỗi người một nửa!” 26 Bấy giờ người mẹ của đứa trẻ còn sống,
động lòng thương con mình, liền thưa với vua: "Ôi! thưa chúa thượng tôi,
xin ngài cho chị ấy đứa trẻ còn sống; còn giết chết nó, thì xin đừng!"
Người kia nói: "Chẳng phải con tôi, cũng chẳng phải con chị, cứ chia ra!” 27
Bấy giờ vua lên tiếng nói: "Trao đứa trẻ còn sống cho người nói
trước, và đừng giết nó, chính nàng mới là mẹ nó.” 28 Toàn thể
Ít-ra-en nghe biết vụ án vua đã xử, đều kính sợ vua, vì thấy rằng Thiên Chúa đã
phú bẩm cho vua một sự khôn ngoan lạ lùng để người xét xử.
Chương 04
& 05
04
Các
viên chức cao cấp của vua Sa-lô-môn
1
Vua
Sa-lô-môn cai trị toàn cõi Ít-ra-en. 2 Và đây là các viên chức của
vua: A-dác-gia-hu, con của Xa-đốc, làm tư tế.
3
Ê-li-khô-rép
và A-khi-gia, hai người con của Si-sa làm ký lục.
Giơ-hô-sa-phát,
con của A-khi-lút, làm ngự sử.
4
Bơ-na-gia-hu,
con của Giơ-hô-gia-đa, chỉ huy quân đội.
Xa-đốc
và Ép-gia-tha làm tư tế.
5
A-dác-gia-hu,
con của Na-than, chỉ huy các trưởng vùng.
Da-vút,
con tư tế Na-than, làm cố vấn của vua.
6
A-khi-sa
đặc trách cung điện.
A-đô-ni-ram,
con của Áp-đa, đặc trách dân công.
Các
trưởng vùng của vua Sa-lô-môn
7
Vua
Sa-lô-môn có mười hai trưởng vùng trên toàn cõi Ít-ra-en. Họ cống hiến lương
thực cho vua và triều đình, hằng năm mỗi người cống hiến một tháng.
8
Ðây
là danh sách họ:
Con
ông Khua trong vùng núi Ép-ra-im.
9
Con
ông Ðe-ke, ở Ma-cát, Sa-an-vim, Bết Se-mét và Ê-lôn cho đến Bết Kha-nan.
10
Con
ông Khe-xét tại A-rúp-bốt; Xô-khô và tất cả miền Khê-phe cũng thuộc quyền ông.
11
Con
ông A-vi-na-đáp coi tất cả cao nguyên vùng Ðo. Vợ ông là công chúa Ta-phát, ái
nữ của vua Sa-lô-môn.
12
Ông
Ba-a-na, con ông A-khi-lút coi Ta-nác, Mơ-ghít-đô đến tận bên kia Gióc-mơ-am và
tất cả Bết San gần Xác-than, bên dưới Gít-rơ-en từ Bết San cho đến A-vên
Mơ-khô-la.
13
Con
ông Ghe-ve tại Ra-mốt Ga-la-át; ông coi các thôn làng của ông Gia-ia con ông
Mơ-na-se nằm trong miền Ga-la-át, và vùng đất Ác-gốp tại Ba-san, tất cả là sáu
mươi thành lớn có tường vây và then cài bằng đồng.
14
Ông
A-khi-na-đáp, con ông Ít-đô, ở Ma-kha-na-gim.
15
Ông
A-khi-ma-át tại Náp-ta-li; ông cũng cưới công chúa Ba-xơ-mát, ái nữ của vua
Sa-lô-môn làm vợ.
16
Ông
Ba-a-na, con ông Khu-sai, ở A-se và Bơ-a-lốt.
17
Ông
Giơ-hô-sa-phát, con ông Pa-ru-ác, ở Ít-xa-kha.
18
Ông
Sim-y, con ông Ê-la, ở Ben-gia-min.
19
Ông
Ghe-ve, con ông U-ri, trong đất Ga-la-át, đất của Xi-khôn vua dân E-mô-ri và Ốc
vua Ba-san.
Và
trong xứ chỉ có một trưởng vùng.
05
7
Các
trưởng vùng này, mỗi người một tháng, cống hiến lương thực cho vua Sa-lô-môn và
cho tất cả những người được lui tới bàn ăn của vua Sa-lô-môn, họ không để cho
vua phải thiếu gì. 8 Lúa mạch và rơm rạ cho ngựa tải đồ và ngựa
trận, nơi nào có nhu cầu, họ cũng phải cung cấp, theo mức quy định cho mỗi
người. 2 Thực phẩm cung cấp cho vua Sa-lô-môn mỗi ngày là: sáu trăm
thùng tinh bột, một ngàn hai trăm thùng bột thường, 3 mười con bò
thịt và hai mươi con bò nuôi, một trăm con cừu, không kể nai, linh dương, sơn
dương và chim gáy béo để ăn thịt. 4 Vì vua thống trị khắp Vùng bên
kia Sông Cả, từ Típ-xác đến Ga-da, thống trị hết, các vua bên kia Sông Cả, và
vua sống bình an với mọi vùng ranh giới chung quanh. 5 Giu-đa và
Ít-ra-en được an cư, mỗi người dưới cây nho và cây vả của mình, từ Ðan tới Bơ-e
Se-va trong suốt thời vua Sa-lô-môn cai trị.
04
20
Giu-đa
và Ít-ra-en thật đông dân, đông như cát ngoài bãi biển. Họ ăn, họ uống và vui
sướng thoả thuê.
05
1
Vua
Sa-lô-môn có quyền trên tất cả các nước, từ Sông Cả đến đất của người
Phi-li-tinh, và đến ranh giới Ai-cập. Họ phải triều cống và phục vụ vua
Sa-lô-môn suốt đời vua. 6 Vua Sa-lô-môn có bốn ngàn ngăn chuồng cho
ngựa kéo và mười hai ngàn con ngựa cưỡi.
Danh
tiếng vua Sa-lô-môn
9
Thiên
Chúa cho vua Sa-lô-môn được dồi dào khôn ngoan, thông thạo, và một trái tim bao
la như cát ngoài bãi biển. 10 Sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn trổi
vượt hơn sự khôn ngoan của tất cả mọi người Phương Ðông và hơn tất cả sự khôn
ngoan của Ai-cập. 11 Ông khôn ngoan hơn bất cứ ai, hơn ông Ê-than
người Ét-ra, hơn ông Hê-man, ông Can-côn, ông Ðác-đa, ba người con của ông
Ma-khôn; danh tiếng vua đồn ra khắp các dân tộc chung quanh. 12 Vua
đọc được ba ngàn câu cách ngôn, và các bài ca của vua là một ngàn không trăm lẻ
năm bài. 13 Vua nói về các thứ cây, từ cây bá hương ở Li-băng cho
tới cây ngưu tất mọc ở bờ tường; vua cũng bàn tới các thú vật, các loài chim,
các thứ rắn rết và các loại cá. 14 Từ mọi dân tộc, thiên hạ kéo tới
nghe sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn; vua nhận được tặng phẩm của tất cả các
vua trên mặt đất đã nghe biết sự khôn ngoan của vua.
2.
Sa-Lô-Môn, Con Người Xây Cất.
Chuẩn
bị xây Ðền Thờ (2 Sb 2:2-15)
15
Khi-ram,
vua thành Tia, sai bề tôi của mình đến yết kiến vua Sa-lô-môn, khi vua biết ông
được xức dầu phong vương kế vị thân phụ ông; vì vua Khi-ram vốn là bạn thân của
vua Ða-vít lúc sinh thời. 16 Vua Sa-lô-môn sai sứ đi thưa với vua
Khi-ram rằng: 17 "Ngài biết là Ða-vít thân phụ tôi không thể
xây Ðền Thờ kính danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của người được, vì chiến tranh bao
bọc tư bề, bao lâu Ðức Chúa chưa cho người đè bẹp quân thù dưới chân. 18 Nay
thì Ðức Chúa cho tôi được bốn bề yên ổn, không có người chống đối, cũng chẳng
gặp số phận rủi ro. 19 Vậy tôi nghĩ phải xây một Ðền Thờ kính danh
Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi, như Ðức Chúa đã phán bảo Ða-vít thân phụ tôi
rằng: "Con của ngươi, người Ta sẽ cho kế vị ngươi trên ngai báu, chính nó
sẽ xây Ðền Thờ kính Danh Ta. 20 Vậy bây giờ, xin ngài ra lệnh đốn
cho tôi những cây bá hương Li-băng. Bề tôi của tôi sẽ hợp tác với bề tôi của ngài,
và tôi sẽ trả tiền công cho bề tôi của ngài, như ngài ấn định. Hẳn ngài đã rõ
không ai trong chúng tôi biết đốn cây như người Xi-đôn.” 21 Khi nghe
những lời của vua Sa-lô-môn, vua Khi-ram rất đỗi vui mừng và nói: "Hôm nay
xin chúc tụng Ðức Chúa, vì Người đã ban cho Ða-vít một người con khôn ngoan cai
trị dân đông đảo này.” 22 Rồi vua Khi-ram sai người đến nói với vua
Sa-lô-môn: "Tôi đã nghe biết điều ngài sai sứ giả đến nói với tôi. Tôi sẽ
thi hành mọi ước muốn của ngài về gỗ bá hương và gỗ trắc. 23 Bề tôi
của tôi sẽ đưa những thứ đó từ Li-băng xuống biển; tôi sẽ đóng bè ngoài biển,
chở tới chỗ ngài yêu cầu, ở đấy tôi sẽ phá bè và ngài sẽ lấy đi. Còn ngài, xin
cũng thực hiện điều tôi ước muốn, là cung cấp thực phẩm cho triều đình tôi.” 24
Thế là vua Khi-ram cung cấp cho vua Sa-lô-môn tất cả gỗ bá hương và gỗ
trắc như vua Sa-lô-môn muốn. 25 Và vua Sa-lô-môn trao cho vua
Khi-ram bốn trăm ngàn thùng lúa miến làm lương thực cho triều đình của vua này,
với bốn mươi ngàn thùng dầu nguyên chất. Vua Sa-lô-môn cung cấp cho vua Khi-ram
như thế hằng năm. 26 Ðức Chúa cho vua Sa-lô-môn được khôn ngoan như
Người đã phán với vua; vua Sa-lô-môn và vua Khi-ram giao hảo với nhau và hai
bên đã kết ước.
27
Vua
Sa-lô-môn ra lệnh cho toàn thể Ít-ra-en đi dân công: có ba mươi ngàn người đi
dân công. 28 Vua sai họ thay phiên nhau đi Li-băng mỗi tháng mười
ngàn người, họ ở Li-băng một tháng, rồi ở nhà hai tháng. Ông A-đô-ni-ram đặc
trách dân công. 29 Vua Sa-lô-môn có bảy mươi ngàn phu khuân vác và
tám mươi ngàn thợ đục đá trong núi, 30 không kể những người chỉ huy
do các trưởng vùng của vua Sa-lô-môn đặt phụ trách công việc; số người này là
ba ngàn ba trăm người: họ điều khiển dân chúng tiến hành công việc 31 Vua ra
lệnh phải đẽo những phiến đá lớn, đá lựa riêng để xây nền móng Ðền thờ, được
đục đẽo vuông vắn. 32 Thợ nề của vua Sa-lô-môn cùng với thợ nề của
vua Khi-ram và những người Gơ-van đẽo và chuẩn bị sẵn sàng gỗ đá để xây Ðền
Thờ.
Chương 06
Xây
cất Ðền Thờ
1
Năm
thứ bốn trăm tám mươi từ khi con cái Ít-ra-en ra khỏi đất Ai-cập, năm thứ tư
triều đại vua Sa-lô-môn cai trị Ít-ra-en tháng Diu tức là tháng thứ hai, vua
xây Ðền Thờ kính Ðức Chúa. 2 Ðền vua Sa-lô-môn xây kính Ðức Chúa dài
ba mươi thước, rộng mười thước và cao mười lăm thước. 3 Tiền đình ở
trước gian Cung Thánh của Ðền Thờ dài mười thước nằm theo chiều rộng của Ðền
Thờ, rộng năm thước nằm theo chiều dài của Ðền Thờ. 4 Vua làm Ðền
Thờ có cửa sổ với khung và chấn song. 5 Vua xây dựa vào tường Ðền
Thờ một cái chái bọc các tường chung quanh gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh, và
làm các tầng chái chung quanh. 6 Tầng dưới rộng hai thước rưỡi, tầng
giữa rộng ba thước, và tầng thứ ba rộng ba thước rưỡi, vì chung quanh Ðền Thờ,
phía ngoài, vua đã xây thụt vào để khỏi đóng đà vào tường Ðền Thờ. 7 Khi
xây Ðền Thờ, người ta dùng đá đẽo toàn khối, đang khi xây, trong Ðền Thờ không
hề nghe thấy tiếng búa tiếng rìu, hay bất cứ dụng cụ nào bằng sắt. 8 Cửa
vào tầng giữa nằm bên hông phải Ðền Thờ, và người ta dùng thang xoáy đi lên
tầng giữa; rồi từ tầng giữa lên tầng ba. 9 Khi xây Ðền Thờ xong, vua
dùng gỗ bá hương chạm trổ mỹ thuật mà đóng trần Ðền Thờ. 10 Rồi vua
xây hành lang chung quanh Ðền Thờ, cao hai thước rưỡi, và được nối liền với Ðền
Thờ bằng những cái đà gỗ bá hương. 11 Có lời Ðức Chúa phán bảo vua
Sa-lô-môn rằng: 12 "Vì Ðền Thờ ngươi đang xây đây, nếu ngươi
tiến bước theo các giới răn, thực hành các huấn lệnh của Ta và tuân giữ các
mệnh lệnh Ta truyền, mà bước theo các điều ấy, thì Ta sẽ thực hiện cho ngươi
các lời Ta đã phán với Ða-vít, thân phụ ngươi. 13 Ta sẽ lưu ngự giữa
con cái Ít-ra-en; Ta sẽ không bỏ Ít-ra-en, dân Ta.” 14 Vua Sa-lô-môn
đã hoàn thành việc xây cất Ðền Thờ.
Trần
thiết bên trong - Nơi Cực Thánh (2 Sb 3:8-9)
15
Vua
dùng ván bá hương ghép mặt trong của Ðền Thờ, từ nền cho tới đà của trần nhà;
như thế toàn bộ mặt trong của Ðền Thờ được ghép gỗ; nền nhà thì vua lát ván gỗ
trắc. 16 Vua dùng ván bá hương lát mười thước phần sau của Ðền Thờ,
từ nền cho tới trần nhà; và dành phần đó làm Ðơ-via, tức là Nơi Cực Thánh. 17
Cung Thánh, tức là Hê-can, ở trước Ðơ-via, được hai mươi thước. 18 Gỗ
bá hương ghép bên trong Cung Thánh được trạm trổ hình trái mướp đắng và nhành
hoa; toàn là gỗ bá hương, chứ không thấy đá. 19 Vua lập một Nơi Cực
Thánh ở giữa Ðền Thờ, phía trong, để đặt Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa. 20
Nơi Cực Thánh dài mười thước, rộng mười thước, và cao mười thước, và vua
dát vàng ròng; vua cũng làm bàn thờ bằng gỗ bá hương. 21 Vua
Sa-lô-môn dát vàng ròng phía trong Cung Thánh, trước Nơi Cực Thánh vua cũng dát
vàng. 22 Tất cả Ðền Thờ vua đều dát vàng, không trừ một chỗ nào; bàn
thờ Nơi Cực Thánh vua cũng dát toàn vàng.
Các
Kê-ru-bim (2 Sb 3:10 -14)
23
Trong
Nơi Cực Thánh vua làm hai Kê-ru-bim bằng gỗ ô-liu, cao năm thước. 24 Một
cánh của một Kê-ru-bim dài hai thước rưỡi, cánh kia cũng hai thước rưỡi; thành
ra từ đầu cánh này tới đầu cánh kia là năm thước. 25 Kê-ru-bim thứ
hai cũng đo được năm thước; hai Kê-ru-bim có một kích thước và hình thể như
nhau. 26 Chiều cao của một Kê-ru-bim là năm thước; Kê-ru-bim thứ hai
cũng thế. 27 Vua đặt các Kê-ru-bim ở giữa Nhà, phía bên trong; cánh
xoè ra: một cánh của Kê-ru-bim thứ nhất đụng tường bên này, và một cánh của
Kê-ru-bim thứ hai đụng tường bên kia; hai cánh khác giao nhau ở giữa Nhà, cánh
nọ chạm cánh kia. 28 Vua cũng dát vàng các Kê-ru-bim. 29 Trên
khắp các tường chung quanh Nhà, vua chạm trổ những hình Kê-ru-bim, hình cây chà
là và nhành hoa, cả trong lẫn ngoài. 30 Sàn Nhà, vua cũng dát vàng,
cả phía trong lẫn phía ngoài.
Cửa
- Sân
31
Ở
lối vào Nơi Cực Thánh, vua làm cánh cửa bằng gỗ ô-liu quý, khung cửa có năm
cạnh. 32 Trên hai cánh cửa bằng gỗ ô-liu, vua chạm trổ những hình
Kê-ru-bim, hình cây chà là và nhành hoa, rồi vua dát vàng; vua trải mỏng vàng
trên các Kê-ru-bim và các cây chà là. 33 Cửa vào Cung Thánh, vua
cũng làm như thế; trụ khung cửa bằng gỗ ô-liu, nhưng có bốn cạnh, 34 hai
cánh cửa bằng gỗ trắc: một cánh có hai tấm xoay được, và cánh kia cũng có hai
tấm xoay được. 35 Vua chạm trổ hình Kê-ru-bim, hình cây chà là và
nhành hoa, và dát vàng hoàn toàn khít với hình nổi.
36
Vua
xây sân trong: ba hàng đá, đục đẽo mỹ thuật và một hàng thanh gỗ trắc.
Thời
gian xây Ðền Thờ
37
Năm
thứ tư, tháng Diu, người ta đặt nền móng Ðền Thờ Ðức Chúa; 38 năm
thứ mười một, tháng Bun, tức là tháng thứ tám, công trình xây cất Ðền Thờ, cả
quy mô lẫn chi tiết, đều được hoàn thành. Vua đã xây cất Ðền Thờ trong bảy năm.
Chương 07
Cung
điện vua Sa-lô-môn
1
Vua
Sa-lô-môn xây dựng cung điện của mình mất mười ba năm mới xong. 2 Vua
đã xây Cung Rừng Li-băng, dài năm mươi thước, rộng hai mươi lăm thước, cao mười
lăm thước, với bốn hàng cột bằng gỗ bá hương; trên các cột có ghép các thanh gỗ
bá hương. 3 Trần nhà bằng gỗ bá hương được đặt trên bốn mươi lăm
chiếc đà, mỗi khoang mười lăm chiếc, có cột chống đỡ. 4 Ba hàng cửa
sổ, hàng này đối diện với hàng kia, thành bộ ba. 5 Tất cả các cửa và
khung cửa đều có bốn cạnh, bên này đối diện với bên kia, thành bộ ba. 6 Vua
cũng làm hành lang nhiều cột, dài hai mươi lăm thước, rộng mười lăm thước, và
phía mặt tiền hành lang có một mái hiên với tường hoa. 7 Vua còn làm
hành lang đặt ngai vàng, là nơi vua xét xử, và cũng là hành lang công lý, được
ghép gỗ bá hương từ sàn tới mái nhà. 8 Và cung điện nơi vua cư ngụ
cũng như sân bên trong hành lang, đều cùng một kiểu như nhau. Còn phòng vua làm
cho ái nữ Pha-ra-ô mà vua đã cưới làm vợ, thì cũng giống như các hành lang ấy.
9
Tất
cả đều bằng đá phiến, đẽo gọt theo kích thước và xẻ bằng cưa, bên trong cũng
như bên ngoài, từ nền cho tới kèo nhà. 10 Nền nhà lát đá hảo hạng,
đá lớn, đá rộng năm thước và đá rộng bốn thước.11 Phần trên thì bằng đá quý,
đẽo gọt theo kích thước và bằng gỗ bá hương. 12 Chung quanh sân lớn
có ba hàng đá đẽo và một hàng ván bá hương; sân trong Ðền Thờ Ðức Chúa và tiền
đình cung điện cũng vậy.
Ông
thợ đồng Khi-ram
13
Vua
Sa-lô-môn sai người đi Tia mời ông Khi-ram đến; 14 ông là con một bà
goá thuộc chi tộc Náp-ta-li; thân phụ ông là người Tia và làm thợ gò đồng. Ông
rất khôn ngoan, thành thạo và tài khéo trong mọi công việc thuộc nghề đồng. Vậy
ông vào chầu vua Sa-lô-môn và làm mọi công việc của vua.
Các
trụ đồng (2 Sb 3:15 -17)
15
Ông
đúc hai trụ đồng; trụ thứ nhất cao chín thước; lấy dây mà đo chu vi trụ thì
được sáu thước; trụ thứ hai cũng thế. 16 Ông đúc hai đầu trụ bằng
đồng, để đặt trên các trụ, chiều cao của đầu trụ thứ nhất là hai thước rưỡi,
chiều cao của đầu trụ thứ hai cũng hai thước rưỡi. 17 Ông làm những
màng lưới mắt cáo, kiểu lưới bằng thừng xoắn lại, kết thành những dây hoa đeo
lên đầu trụ nằm trên đỉnh trụ, bảy dây hoa cho đầu trụ thứ nhất và bảy dây hoa
cho đầu trụ thứ hai. 18 Ông làm hai hàng trái thạch lựu chung quanh
lưới mắt cáo bọc đầu trụ nằm trên đỉnh trụ, và đầu trụ thứ hai ông cũng làm như
thế. 19 Còn các đầu trụ trên đỉnh trụ thì ông làm tất cả theo hình
bông huệ, dài hai thước. 20 Phần thượng các đầu trụ trên hai trụ,
sát với bầu trụ, ông cũng làm một hàng hai trăm trái thạch lựu chung quanh cả
hai đầu trụ. 21 Ông dựng cột tiền đình của Cung Thánh, ông dựng cột
bên phải và đặt tên là Gia-khin, rồi dựng cột bên trái và gọi là Bô-át. 22
Trên đầu các cột ông làm hình bông huệ. Công việc làm cột thế là hoàn
tất.
Bể
nước bằng đồng (2 Sb 4:2-5)
23
Ông
đúc một bể nước rộng năm thước từ mép nọ tới mép kia, hình tròn, cao hai thước
rưỡi; lấy dây mà đo chu vi của bể thì được mười lăm thước. 24 Bên
dưới mép bể có những hình trái mướp đắng chạy vòng quanh bể, cứ nửa thước là
mười trái, khắp chung quanh bể; hai hàng trái mướp đắng cùng đúc một lượt với
bể. 25 Bể được đặt trên mười hai con bò: ba con quay mặt về hướng
Bắc, ba con quay mặt về hướng Tây, ba con quay mặt về hướng Nam, và ba con quay
mặt về hướng Ðông; bể đặt bên trên chúng, và các phần mông của chúng đều quay
vào trong. 26 Chiều dày của bể là một tấc, và mép nó giống như mép
một cái chén hình hoa huệ. Bể chứa được bốn ngàn thùng.
Giàn
lăn và bồn nước bằng đồng
27
Ông
làm mười giàn bằng đồng; mỗi cái dài hai thước, rộng hai thước và cao một thước
rưỡi. 28 Các giàn ấy được làm như thế này: giàn có những đòn ngang
ghép thành khung. 29 Trên những đòn ngang ghép thành khung ấy có
khắc hình sư tử, bò và Kê-ru-bim; trên các khung, phía trên phía dưới các con
sư tử và bò có những nhành hoa rủ xuống như đeo. 30 Mỗi giàn có bốn
bánh xe bằng đồng, với những cái trục; bốn chân của nó có bờ vai đỡ bồn nước;
các bờ vai này đều được đúc và bên kia mỗi bờ vai là những nhành hoa. 31 Bên
trong vòng là cái miệng giàn cao nửa thước; miệng nó tròn, đo được bảy tấc
rưỡi. Trên miệng nó cũng có những hình nổi. Các đòn ngang thì lại vuông chứ
không tròn. 32 Bên dưới các đòn ngang có bốn bánh xe; các chốt bánh
xe được gắn với giàn; chiều cao của mỗi bánh xe là bảy tấc rưỡi. 33 Người
ta làm các bánh xe này cũng như bánh xe thường; chốt, vành, thang bánh xe và
đùm bánh xe, tất cả đều đúc. 34 Có bốn bờ vai ở bốn góc của mỗi
giàn; các bờ vai này được gắn thành một với giàn. 35 Trên đỉnh giàn
có một vòng tròn cao hai tấc rưỡi; trên đỉnh giàn những cái mộng và các đòn
ngang làm thành một khối với giàn. 36 Trên mặt các mộng, ông trạm
trổ hình các Kê-ru-bim, sư tử và những trái chà là; giữa khoảng cách mỗi vật có
những nhành hoa chạy chung quanh. 37 Ông làm mười giàn đều như thế:
cùng đúc một kiểu, một kích thước, một hình thể như nhau.
38
Ông
làm mười bồn nước bằng đồng; mỗi bồn chứa được tám mươi thùng, và mỗi bồn cao
hai thước; mỗi bồn được đặt trên một trong mười giàn. 39 Ông đặt năm
giàn bên hông phải Ðền Thờ và năm giàn bên hông trái; còn bể thì ông đặt bên
phải Ðền Thờ, hướng đông nam.
Vật
dụng trong Ðền Thờ - Tóm lược (2 Sb 4:11 -5:1)
40
Ông
Khi-ram làm những chiếc vạc, những cái xẻng và bình rảy. Ông Khi-ram hoàn thành
tất cả công trình mà ông đã thực hiện cho vua Sa-lô-môn trong Ðền Thờ Ðức Chúa:
41
Hai
trụ, các bầu của các đầu trụ trên hai đỉnh trụ, hai màng lưới bọc hai bầu của
các đầu trụ trên đỉnh trụ. 42 Bốn trăm trái thạch lựu cho hai màng
lưới, mỗi màng lưới hai hàng thạch lựu, để bọc hai bầu của các đầu trụ trên
đỉnh trụ.
43
Mười
cái giàn và mười cái bồn đặt trên giàn.
44
Một
cái bể và mười hai con bò đỡ phía dưới.
45
Những
cái vạc, xẻng và bình rảy.
46
Vua
đúc các vật ấy tại đồng bằng Gio-đan, trên mặt đất sét, giữa Xúc-cốt và
Xác-than. 47 Vua Sa-lô-môn xếp đặt tất cả các vật ấy, chúng nhiều vô
kể, nên không tính được số lượng đồng.
48
Vua
Sa-lô-môn đã làm tất cả các vật dụng cho Ðền Thờ Ðức Chúa: bàn thờ bằng vàng,
bàn đặt bánh tiến cũng bằng vàng. 49 Các chân đèn: năm chiếc bên
phải và năm chiếc bên trái, trước Nơi Cực Thánh, tất cả bằng vàng ròng; hoa, đèn,
kéo cắt bấc đều bằng vàng; 50 chén, dao, bình rảy, bình hương, khay
đựng tro bằng vàng ròng; các chốt cánh cửa Ðền Thờ bên trong, tức là Nơi Cực
Thánh, và các chốt cánh cửa Ðền Thờ, tức là Cung Thánh, cũng bằng vàng.
51
Thế
là hoàn thành toàn bộ công trình mà vua Sa-lô-môn đã thực hiện cho Ðền Thờ Ðức
Chúa. Vua Sa-lô-môn đưa vào đó các vật thánh mà vua Ða-vít, thân phụ ông đã
dâng: bạc, vàng, các vật dụng; vua đặt các vật ấy trong kho Ðền Thờ Ðức Chúa.
Chương 08
Di
chuyển Hòm Bia Giao Ước (2 Sb 5:2-10)
1
Bấy
giờ vua Sa-lô-môn triệu tập bên mình, tại Giê-ru-sa-lem, các kỳ mục Ít-ra-en,
gồm tất cả các người đứng đầu các chi tộc cùng các trưởng tộc con cái Ít-ra-en,
để đưa Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa lên, từ Thành vua Ða-vít tức là Xi-on. 2
Mọi người Ít-ra-en tập hợp lại bên vua Sa-lô-môn trong tháng Ê-ta-nim tức
là tháng thứ bảy để mừng Lễ. 3 Tất cả các kỳ mục Ít-ra-en đều tới;
các tư tế thì khiêng Hòm Bia, 4 và đưa Hòm Bia của Ðức Chúa cũng như
Lều Hội Ngộ và tất cả các vật dụng thánh trong Lều lên. Các tư tế và các thầy
Lê-vi đưa những thứ ấy lên. 5 Vua Sa-lô-môn và toàn thể cộng đồng
Ít-ra-en tụ họp lại bên cạnh vua trước Hòm Bia, sát tế chiên bò nhiều vô kể,
không sao đếm nổi. 6 Các tư tế đưa Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa vào
nơi đã dành sẵn trong cung Ðơ-via của Ðền Thờ, tức là Nơi Cực Thánh, dưới cánh
các Kê-ru-bim. 7 Quả vậy, các Kê-ru-bim xoè cánh ra bên trên Hòm
Bia, che phía trên Hòm Bia và các đòn khiêng. 8 Các đòn này dài đến
nỗi từ Cung Thánh, trước Nơi Cực Thánh, có thể nhìn thấy các đầu đòn, nhưng từ
bên ngoài thì không thấy được. Các đòn này vẫn còn đó cho tới ngày nay. 9 Trong
Hòm Bia không có gì ngoài hai Bia đá ông Mô-sê đã đặt vào đó, trên núi Khô-rếp,
khi Ðức Chúa lập Giao Ước với con cái Ít-ra-en vào thời họ ra khỏi đất Ai-cập.
Thiên
Chúa ngự xuống Ðền Thờ (2 Sb 5:11-6:2)
10
Khi
các tư tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Ðền Thờ Ðức Chúa. 11 Các
tư tế không thể tiếp tục thi hành nhiệm vụ được vì đám mây: quả thật, vinh
quang Ðức Chúa đã tràn ngập Ðền Thờ Ðức Chúa.
12
Bấy
giờ vua Sa-lô-môn nói:
"Ðức
Chúa đã phán: Người sẽ ngự trong đám mây dày đặc. Vâng,
13
Con
đã xây cho Ngài một ngôi nhà cao sang. Một nơi để Ngài ngự muôn đời."
Vua
Sa-lô-môn hiệu triệu dân chúng (2Sb 6 :3-11)
14
Rồi
vua quay mặt lại chúc lành cho toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, trong khi cả cộng
đồng Ít-ra-en đều đứng. 15 Vua nói: "Chúc tụng Ðức Chúa, Thiên
Chúa của Ít-ra-en, Ðấng đã ra tay hoàn thành điều chính miệng Người đã phán với
Ða-vít, thân phụ ta, rằng: 16 "Từ ngày Ta đưa Ít-ra-en dân Ta
ra khỏi Ai-cập, Ta đã không chọn một thành nào trong tất cả các chi tộc
Ít-ra-en để xây một ngôi nhà kính Danh Ta ở đó, nhưng Ta đã chọn Ða-vít đứng
đầu Ít-ra-en dân Ta. 17 Vậy Ða-vít thân phụ ta đã có ý xây một ngôi
nhà để kính Danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. 18 Nhưng Ðức
Chúa lại phán với Ða-vít thân phụ ta: "Ngươi định tâm xây một ngôi nhà để
kính Danh Ta; ngươi định tâm như thế là tốt. 19 Có điều là ngươi sẽ
không xây nhà ấy, mà con của ngươi, kẻ từ lòng ngươi sinh ra, chính nó sẽ xây
nhà để kính Danh Ta. 20 Ðức Chúa đã thực hiện lời Người phán; ta đã
lên kế vị Ða-vít thân phụ ta và ngồi trên ngai Ít-ra-en, như Ðức Chúa đã phán;
ta đã xây nhà để kính Danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en; 21 tại
đó, ta đã chỉ định một nơi để đặt Hòm Bia có Giao Ước của Ðức Chúa, giao ước
Người đã thiết lập với cha ông chúng ta, khi Người đưa họ ra khỏi đất Ai-cập.
Vua
Sa-lô-môn cầu nguyện (2 Sb 6:12 -20)
22
Vua
Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ của Ðức Chúa, trước toàn thể cộng đồng Ít-ra-en,
giơ hai tay lên trời và 23 thưa: "Lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en,
chốn trời cao cũng như nơi đất thấp, chẳng có thần nào giống như Ngài. Ngài vẫn
giữ giao ước và tình thương đối với các tôi tớ Ngài, khi họ hết lòng bước đi
trước nhan Ngài. 24 Ngài đã giữ lời Ngài đã phán tôi tớ Ngài là
Ða-vít thân phụ con, vì điều chính miệng Ngài phán, thì tay Ngài đã thực hiện,
như thấy hôm nay. 25 Giờ đây, lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en,
xin Ngài cũng giữ điều Ngài đã hứa với tôi tớ Ngài là Ða-vít thân phụ con là:
"Bao lâu con cái ngươi giữ đúng đường lối của chúng, là bước đi trước nhan
Ta như ngươi đã bước đi trước nhan Ta, thì ngươi sẽ không bao giờ thiếu người
ngồi trên ngai báu Ít-ra-en. 26 Vậy, lạy Thiên Chúa của Ít-ra-en,
xin thực hiện lời Ngài đã phán với Ða-vít thân phụ con. 27 Có thật
Thiên Chúa cư ngụ dưới đất chăng? Này, trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi
Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây! 28 Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của con!
Xin đoái đến lời tôi tớ Chúa cầu xin khẩn nguyện, mà lắng nghe tiếng kêu cầu
của tôi tớ Ngài dâng trước tôn nhan hôm nay. 29 Xin Ngài để mắt nhìn
đến ngôi nhà này đêm ngày, nhìn đến nơi này, vì Ngài đã phán "Danh Ta sẽ ở
đấy"; xin Ngài lắng nghe lời nguyện tôi tớ Ngài dâng ở nơi đây."
Cầu
cho dân (2 Sb 6:21 -31)
30
Xin
nghe lời nài van của tôi tớ Ngài và của Ít-ra-en dân Ngài dâng lên ở nơi đây.
Từ trời, nơi Ngài ngự, xin lắng nghe; xin lắng nghe và tha thứ.
31
Nếu
có ai xúc phạm đến đồng loại, và người ta lấy lời thề độc mà buộc nó phải đến
thề trước Bàn Thờ của Ngài trong Ðền Thờ này, 32 thì từ trời xin
Ngài lắng nghe và hành động; xin phân xử cho các tôi tớ Ngài, là lên án kẻ có
lỗi mà bắt nó phải cúi đầu chịu tội; còn người vô tội thì Ngài minh oan cho họ
được vô can.
33
Nếu
Ít-ra-en dân Ngài bị quân thù đánh bại vì đã xúc phạm đến Ngài, và nếu họ trở
lại với Ngài mà tuyên xưng Danh Ngài và cầu xin, khẩn nài trong Ðền Thờ này, 34
thì từ trời xin Ngài lắng nghe, thứ tha tội lỗi Ít-ra-en dân Ngài và đưa
họ về đất Ngài đã ban cho cha ông họ.
35
Khi
trời đóng lại và không có mưa vì họ đã xúc phạm đến Ngài, nếu họ cầu nguyện nơi
đây, tuyên xưng Danh Ngài, bỏ tội lỗi mà trở về, vì Ngài đã làm cho họ khổ cực,
36 thì từ trời xin Ngài lắng nghe và tha thứ tội lỗi cho các tôi tớ
Ngài và cho Ít-ra-en dân Ngài, để họ thấy con đường lành phải theo, và xin cho
mưa nhuần tưới xuống trên phần đất Ngài đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
37
Khi
trong xứ có nạn đói kém, dịch hạch, khi mùa màng hư hoại, khi có nạn châu chấu
cào cào, khi quân thù vây hãm một thành nào của họ, trong bất cứ tai hoạ hay
bệnh tật nào; 38 mọi lời cầu nguyện, khấn xin của bất cứ ai hoặc
toàn thể Ít-ra-en dân Ngài dâng lên, vì thấy lương tâm cắn rứt mà giơ tay hướng
về Ðền Thờ này, 39 thì từ trời là nơi Ngài ngự, xin Ngài lắng nghe
và tha thứ; xin Ngài hành động và ban ơn cho mỗi người tuỳ theo lối sống của
họ, bởi vì Ngài biết lòng họ, quả thật chỉ mình Ngài biết rõ lòng con cái loài
người, 40 ngõ hầu họ kính sợ Ngài, bao lâu họ còn sống trên phần đất
mà Ngài đã ban cho cha ông chúng con.
Phụ
trương (2 Sb 6:32 -39)
41
Ngay
cả với người ngoại kiều, không thuộc về Ít-ra-en dân Ngài, nếu nó từ phương xa
tới vì Danh Ngài, - 42 vì người ta sẽ nghe biết Danh Ngài cao cả, bàn tay Ngài
dũng mãnh và cánh tay Ngài giương cao -, nếu nó đến cầu nguyện trong Ðền Thờ
này, 43 thì từ trời nơi Ngài ngự xin Ngài lắng nghe và thực hiện mọi
điều kẻ ngoại kiều ấy kêu xin, để cho mọi dân trên mặt đất nhận biết Danh Ngài
và kính sợ Ngài, như Ít-ra-en dân Ngài và để họ biết là Danh Ngài được kêu cầu
nơi Ðền Thờ con đã xây lên đây.
44
Nếu
dân Ngài xuất trận chống quân thù theo đường lối Ngài sai họ đi, và nếu họ cầu
nguyện với Ðức Chúa, hướng về kinh thành Ngài đã chọn, và Ðền Thờ con đã xây
kính Danh Ngài, 45 thì từ trời xin Ngài nghe lời họ cầu nguyện van
xin mà xét xử công minh cho họ.
46
Nếu
họ xúc phạm đến Ngài - thật thì không người nào mà không phạm tội -, khiến Ngài
phải thịnh nộ với họ, mà trao họ cho địch, và những kẻ chiến thắng đày họ sang
một xứ thù địch, xa hay gần; 47 nhưng rồi trên đất lưu đày, họ hồi
tâm trở lại và van xin Ngài trên đất lưu đày rằng: "Chúng con đã phạm tội,
đã làm điều gian ác, chúng con thật đáng tội! 48 Nếu trên đất địch, nơi họ bị
lưu đày, họ hết lòng hết sức trở về với Ngài, và cầu nguyện với Ngài; hướng về
xứ sở Ngài đã ban cho tổ tiên họ, về kinh thành Ngài đã chọn, và Ðền Thờ con đã
xây kính Danh Ngài, 49 thì từ trời, nơi Ngài ngự, xin Ngài nghe lời
họ cầu nguyện van xin mà xét xử công minh cho họ, 50 và tha cho dân
tội xúc phạm đến Ngài cũng như mọi tội phản bội đối với Ngài; xin Ngài tỏ lòng
thương xót họ trước mặt quân chiến thắng, khiến chúng cũng phải thương xót họ, 51
vì họ là dân, là gia nghiệp của Ngài, gia nghiệp Ngài đã đưa ra từ
Ai-cập, từ giữa lò nung sắt.
Kết
thúc lời nguyện - Chúc lành cho dân
52
Vậy,
lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, xin ghé mắt nhìn đến tôi tớ Ngài đang nài van, đến
Ít-ra-en dân Ngài đang cầu nguyện, mà lắng nghe mọi điều họ kêu xin, 53 vì,
từ giữa mọi dân tộc trên mặt đất, Ngài đã tách họ ra làm sản nghiệp riêng, như
Ngài đã dùng ông Mô-sê tôi tớ Ngài mà phán, khi đưa cha ông chúng con ra khỏi
Ai-cập."
54
Sau
khi dâng tất cả những lời cầu nguyện và nài van ấy lên Ðức Chúa, thì vua
Sa-lô-môn phủ phục rồi đứng lên trước bàn thờ Ðức Chúa, giơ hai tay lên trời, 55
quay xuống, cất lớn tiếng chúc lành cho toàn thể cộng đoàn Ít-ra-en: 56
"Chúc tụng Ðức Chúa, Ðấng đã ban cho Ít-ra-en dân Người được nghỉ
ngơi, đúng y như Người đã phán, không sai một lời nào trong tất cả những lời
tốt lành Người đã dùng ông Mô-sê, tôi tớ Người, mà phán. 57 Xin Ðức
Chúa là Thiên Chúa chúng ta, ở cùng chúng ta như Người đã ở với tổ tiên chúng
ta; xin Người đừng để mặc, cũng đừng bỏ rơi chúng ta, 58 nhưng xin
hướng lòng chúng ta về với Người, để chúng ta bước đi trên mọi nẻo đường của
Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, giới răn và luật pháp Người đã truyền cho tổ
tiên chúng ta. 59 Ước chi những lời ta khẩn khoản dâng lên Ðức Chúa,
Thiên Chúa chúng ta ở trước Tôn Nhan Người đêm ngày, để Người bênh vực quyền
lợi tôi tớ Người và quyền lợi Ít-ra-en dân Người, ngày này qua ngày khác. 60
Như thế mọi dân trên mặt đất sẽ nhìn nhận Ðức Chúa chính là Thiên Chúa, không
có Chúa nào khác. 61 Các ngươi phải hết lòng với Ðức Chúa, Thiên
Chúa chúng ta mà bước đi theo các giới răn và tuân giữ các mệnh lệnh của Người
như ngày hôm nay."
Hiến
tế trong ngày Cung hiến Ðền Thờ (2Sb 7 :4-10)
62
Vua
cùng toàn thể Ít-ra-en dâng hy lễ trước nhan Ðức Chúa. 63 Vua
Sa-lô-môn sát tế hai mươi hai ngàn con bò và một trăm hai mươi ngàn con chiên
làm lễ kỳ an dâng lên Ðức Chúa; vua và toàn thể con cái Ít-ra-en cung hiến Ðền
Thờ Ðức Chúa. 64 Ngày hôm ấy, vua thánh hiến phần giữa của Tiền đình
ở trước Nhà Ðức Chúa; chính tại đây, vua dâng lễ toàn thiêu, lễ phẩm và mỡ của
lễ kỳ an, vì bàn thờ bằng đồng trước nhan Ðức Chúa quá nhỏ không đủ chứa lễ
toàn thiêu, lễ phẩm và mỡ của lễ kỳ an. 65 Dịp này, vua Sa-lô-môn
cùng với toàn thể Ít-ra-en mừng lễ trước nhan Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng ta
trong bảy ngày, rồi bảy ngày nữa là mười bốn ngày. Thật là một công hội vĩ đại
quy tụ từ lối vào Cửa Ải Kha-mát tới suối Ai-cập. 66 Ngày thứ tám,
vua giải tán dân. Họ cầu chúc vua khang an rồi ai nấy trở về lều mình, lòng vui
mừng hân hoan vì mọi sự tốt lành Ðức Chúa đã làm cho Ða-vít tôi tớ Người và
Ít-ra-en dân Người.
Chương 09
Thiên
Chúa lại hiện ra với vua Sa-lô-môn (2 Sb 7:11 -22)
1
Sau
khi vua Sa-lô-môn hoàn tất việc xây Ðền Thờ Ðức Chúa và cung điện nhà vua, cùng
mọi công trình vua dự tính, 2 thì Ðức Chúa lại hiện ra với vua lần
thứ hai, giống y như lần hiện ra với vua ở Ghíp-ôn. 3 Ðức Chúa phán
với vua: "Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện và van nài trước nhan Ta; Ta đã
thánh hoá ngôi nhà này mà ngươi đã xây để cho Danh Ta ngự ở đó muôn đời; Ta sẽ
nhìn xem và ưa thích ở đấy mọi ngày. 4 Còn ngươi, nếu ngươi bước đi
trước nhan Ta, như Ða-vít thân phụ ngươi, với tâm hồn trong sạch và ngay thẳng,
mà thi hành mọi điều Ta truyền cho ngươi và tuân giữ các giới răn và luật pháp
của Ta, 5 thì Ta sẽ củng cố ngai vàng của ngươi trên Ít-ra-en đến
muôn đời, như Ta đã hứa với Ða-vít, thân phụ ngươi, rằng: "Ngươi sẽ không
thiếu người ngự trên ngai Ít-ra-en". 6 Nhưng nếu các ngươi và
con cháu các ngươi tráo trở bỏ đường lối của Ta, không giữ các mệnh lệnh, các
giới răn Ta đã đặt cho các ngươi, lại đi làm tôi các thần ngoại và thờ lạy
chúng, 7 thì Ta sẽ tiêu diệt Ít-ra-en khỏi phần đất mà Ta đã ban cho
chúng; còn Ðền Thờ Ta đã thánh hoá để kính Danh Ta, Ta sẽ loại trừ khỏi nhan Ta,
và Ít-ra-en sẽ thành bia miệng cho mọi dân tộc đàm tiếu; 8 Ðền Thờ
này sẽ thành đống hoang tàn, khiến mọi kẻ qua lại phải sững sờ, huýt sáo mà
nói: "Tại sao Ðức Chúa đã xử như thế với đất nước và Ðền Thờ này? 9 Người
ta sẽ trả lời: Tại chúng đã bỏ Ðức Chúa Thiên Chúa của chúng, Ðấng đã đưa tổ
tiên chúng ra khỏi đất Ai-cập; chúng đã gắn bó với các thần ngoại, sụp lạy và
làm tôi các thần ấy, nên Ðức Chúa đã giáng xuống trên chúng tất cả tai hoạ
này."
Buôn
bán với vua Khi-ram (2 Sm 8:1-2)
10
Trong
hai mươi năm vua Sa-lô-môn xây hai ngôi nhà, là Ðền Thờ Ðức Chúa và cung điện
nhà vua, 11 thì Khi-ram vua Tia cung cấp cho vua Sa-lô-môn gỗ bá
hương, gỗ trắc và vàng tuỳ thích; còn vua Sa-lô-môn thì trao cho vua Khi-ram
hai mươi thành trong miền Ga-li-lê. 12 Từ Tia vua Khi-ram đi ra xem
các thành vua Sa-lô-môn đã trao cho, nhưng vua không thích các thành ấy. 13
Vua nói: "Này ông anh, thành gì mà ông cho tôi vậy? " Rồi vua
gọi các thành ấy là "đất Ca-vun" cho tới ngày nay. 14 Vua
Khi-ram gửi tới cho vua Sa-lô-môn ba ngàn sáu trăm ký vàng.
Dân
công để xây cất (2 Sb 8:3-11)
15
Ðây
là dịch vụ dân công vua Sa-lô-môn đã đặt ra để xây Ðền Thờ Ðức Chúa, cung điện
của mình, công trình Mi-lô, tường thành Giê-ru-sa-lem, Kha-xo, Mơ-ghít-đô và
Ghe-de. 16 Pha-ra-ô vua Ai-cập đã tiến quân chiếm Ghe-de, thiêu huỷ
thành và sát hại dân Ca-na-an cư ngụ ở đó; rồi vua tặng làm của hồi môn cho ái
nữ là phu nhân của vua Sa-lô-môn. 17 Vua Sa-lô-môn xây dựng lại
Ghe-de và Bết Khô-rôn Hạ,18 rồi Ba-a-lát và Ta-ma ở sa mạc, trong xứ, 19 và
tất cả các thành làm kho dự trữ mà vua Sa-lô-môn sẵn có, các thành giữ xe trận,
các thành nuôi ngựa và tất cả những gì vua Sa-lô-môn muốn xây cất ở
Giê-ru-sa-lem, ở Li-băng và trong toàn lãnh thổ thuộc quyền vua. 20 Tất
cả những người còn sót lại thuộc các dân E-mô-ri, Khết, Pơ-rít-di, Khi-vi và
Giơ-vút, những người không phải là con cái Ít-ra-en, 21 những người
này đã để lại con cháu chúng trong xứ, vì con cái Ít-ra-en không tiêu diệt hết
được. Vua Sa-lô-môn bắt tất cả những người đó phải lao động khổ sai đến ngày
nay. 22 Phần con cái Ít-ra-en vua Sa-lô-môn không bắt ai phải làm nô
dịch cho vua; họ là những chiến sĩ, những cận thần, những tướng lãnh, những
viên chức, những người chỉ huy chiến xa và kỵ binh của vua. 23 Họ
chỉ huy các đốc công phụ trách công trình của vua Sa-lô-môn, tất cả là năm trăm
năm mươi người, giám sát dân chúng làm việc trong các công trình. 24 Khi
công chúa của Pha-ra-ô từ Thành Ða-vít lên cung điện đã xây cho bà, thì vua
Sa-lô-môn bắt đầu xây công trình Mi-lô.
Phục
vụ Ðền Thờ (2 Sb 8:12 -16)
25
Mỗi
năm ba lần, vua Sa-lô-môn dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an trên bàn thờ vua đã
dựng lên để kính Ðức Chúa; vua thường đốt hương trên bàn thờ trước nhan Ðức
Chúa. Thế là vua chu toàn bổn phận đối với Ðền Thờ.
3.
Vua Sa-Lô-Môn, Nhà Kinh Doanh
Vua
Sa-lô-môn, người tổ chức thương thuyền (2 Sb 8:17 -18)
26
Ngoài
ra, vua Sa-lô-môn còn trang bị một đoàn tàu tại E-xi-ôn Ghe-ve, gần Ê-lát, bên
bờ Biển Sậy trong đất Ê-đôm. 27 Vua Khi-ram phái tới đoàn tàu các
tôi tớ của mình là những thủy thủ thạo nghề biển, cùng với các tôi tớ của vua
Sa-lô-môn. 28 Họ đi Ô-phia, mang vàng về và nộp cho vua Sa-lô-môn,
tất cả là mười hai tấn.
Chương 10
Cuộc
viếng thăm của nữ hoàng Sơ-va (2 Sb 9:1-12)
1
Nữ
hoàng Sơ-va nghe biết vua Sa-lô-môn nổi tiếng vì danh Ðức Chúa, thì đến đặt câu
đố để thử tài vua. 2 Bà đến Giê-ru-sa-lem cùng với đoàn tuỳ tùng
đông đảo, nhiều lạc đà chở đầy hương liệu, và một số lượng rất lớn vàng cùng đá
quý. Bà vào hội kiến với vua Sa-lô-môn và nói với vua tất cả những gì bà suy
nghĩ trong lòng. 3 Vua Sa-lô-môn giải đáp tất cả những vấn đề bà đưa
ra; không có chuyện gì là bí ẩn mà vua không giải đáp được cho bà. 4 Nữ
hoàng Sơ-va thấy tất cả sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn và cung điện vua đã xây,
5 những món ăn trên bàn của vua, dinh thự của quần thần, cung cách
và trang phục của họ, các thứ rượu của vua, các lễ toàn thiêu vua tiến dâng tại
Ðền Thờ Ðức Chúa, bà hết hồn, 6 bà nói với vua: "Những điều tôi
đã nghe nói ở nước tôi về ngài và sự khôn ngoan của ngài quả là sự thật. 7
Tôi đã không tin những điều người ta nói, cho tới khi tôi đến và thấy tận
mắt; nhưng thực ra người ta cho tôi biết chưa tới một nửa. Ngài còn khôn ngoan
và giàu có hơn tiếng đồn tôi đã nghe. 8 Phúc thay thần dân của ngài!
Phúc thay quần thần của ngài, những kẻ luôn luôn được túc trực trước mặt ngài
và nghe biết sự khôn ngoan của ngài! 9 Chúc tụng Ðức Chúa Thiên Chúa của ngài,
Ðấng đã ưu ái đặt ngài lên ngai Ít-ra-en; chính vì lòng yêu thương Ít-ra-en đến
muôn đời, mà Ðức Chúa đã đặt ngài làm vua, để ngài thi hành luật pháp và công
lý.” 10 Và bà tặng vua ba ngàn sáu trăm ký vàng, một số rất lớn
hương liệu và đá quý. Chưa từng có một số lượng hương liệu nhiều như nữ hoàng
Sơ-va đã tặng vua Sa-lô-môn. 11 Cả đoàn tàu của vua Khi-ram, mang
vàng từ Ô-phia về, cũng đưa rất nhiều gỗ đàn hương và đá quý từ Ô-phia về nữa. 12
Vua dùng gỗ đàn hương làm các cột trụ Ðền Thờ Ðức Chúa, cung điện nhà
vua, đàn lia đàn hạc cho các ca sĩ; thứ gỗ đàn hương ấy không còn và cũng không
thấy nữa cho tới ngày nay. 13 Vua Sa-lô-môn tặng lại nữ hoàng Sơ-va
tất cả những gì bà ngỏ ý thích, chưa kể những gì vua tặng bà xứng với danh vua
Sa-lô-môn hào hiệp. Sau đó bà lui gót, cùng với đoàn tuỳ tùng trở về xứ sở.
Sự
giàu sang của vua Sa-lô-môn (2 Sb 9:13 -24)
14
Số
vàng vua Sa-lô-môn thu nhập hàng năm là hai mươi ngàn ký, 15 không
kể vàng do khách vãng lai, do các thương gia, do tất cả các vua Ả-rập và các
quan thái thú trong nước đem nộp. 16 Vua Sa-lô-môn làm hai trăm
chiếc thuẫn lớn bằng vàng gò; mỗi chiếc thuẫn phải dùng tới sáu ký vàng. 17
Vua còn làm ba trăm chiếc thuẫn nhỏ bằng vàng gò; mỗi chiếc mất một ký
rưỡi vàng. Và vua đặt các thuẫn ấy trong Cung Rừng Li-băng. 18 Vua
lại làm một cái ngai lớn bằng ngà và dát vàng ròng rất tinh vi. 19 Ngai
có sáu cấp, phần trên của lưng ngai thì tròn; hai bên chỗ ngồi có tay tựa, đứng
sát tay tựa là hai con sư tử, 20 và mười hai con sư tử đứng trên sáu
cấp ở hai bên. Chẳng vương quốc nào làm được như thế.
21
Tất
cả các chén để uống của vua Sa-lô-môn đều bằng vàng, và tất cả các vật dụng
trong Cung Rừng Li-băng cũng bằng vàng ròng. Không có bạc, vì thời vua
Sa-lô-môn bạc không có giá trị gì cả. 22 Quả vậy, vua Sa-lô-môn có
một đoàn tàu biển đi Tác-sít, cùng với đoàn tàu của vua Khi-ram; và cứ ba năm
một lần, đoàn tàu Tác-sít đến, mang theo vàng, bạc, ngà, khỉ và công. 23 Vua
Sa-lô-môn là người trổi vượt hơn tất cả các đế vương trên mặt đất về sự giàu có
và khôn ngoan. 24 Thiên hạ ai nấy đều mong diện kiến vua Sa-lô-môn
để được nghe sự khôn ngoan mà Thiên Chúa đã ban cho vua. 25 Mỗi vị
đều mang lễ vật: đồ bạc, đồ vàng, y phục, vũ khí, hương liệu, ngựa và lừa. Cứ
thế từ năm này qua năm khác.
Xa
mã của vua Sa-lô-môn (2 Sb 1:24-17; 9:25-28)
26
Vua
Sa-lô-môn tập trung xe và ngựa, xe có một ngàn bốn trăm cỗ, và ngựa có mười hai
ngàn con. Vua để chúng ở các thành có xe, bên cạnh vua tại Giê-ru-sa-lem. 27
Vua đã làm cho bạc ở Giê-ru-sa-lem ra thường như sỏi đá, còn bá hương thì
nhiều như sung ở miền Sơ-phê-la. 28 Ngựa của vua Sa-lô-môn được nhập
từ Ai-cập và Cơ-vê. Các thương gia của vua đến tận Cơ-vê mua ngựa theo đúng giá.
29 Một chiếc xe bán ra từ Ai-cập là sáu trăm se-ken bạc, và một con
ngựa là một trăm năm mươi. Ðối với tất cả các vua Khết và các vua A-ram, nhờ
các thương gia làm trung gian mua vào, thì cũng thế.
Chương 11
4.
Bóng Mây Ðen Trên Vương Quốc
Các
hậu phi của vua Sa-lô-môn
1
Vua
Sa-lô-môn yêu nhiều người đàn bà ngoại bang; ngoài ái nữ của Pha-ra-ô, còn có
các bà thuộc dân Mô-áp, Am-mon, Ê-đôm, Xi-đôn, Khết, 2 những dân mà
Ðức Chúa đã truyền cho con cái Ít-ra-en là "các ngươi không được đi lại
với chúng, và chúng cũng chẳng được đi lại với các ngươi; vì chắc chắn chúng sẽ
làm cho lòng các ngươi ngả theo các thần của chúng." Nhưng vua Sa-lô-môn
thì lại mê những người đàn bà ấy; 3 vua có bảy trăm bà vợ chính thức
và ba trăm cung phi. Và các bà ấy làm cho lòng vua ra hư hỏng. 4 Quả
vậy, khi vua Sa-lô-môn về già, các bà vợ của vua đã làm cho lòng vua ngả theo
các thần ngoại; lòng vua không còn chung thủy với Ðức Chúa Thiên Chúa của vua,
như lòng phụ vương Ða-vít nữa. 5 Vua Sa-lô-môn đi theo nữ thần
Át-tô-rét của dân Xi-đôn, theo thần Min-côm ghê tởm của dân Am-mon. 6 Như
thế, vua Sa-lô-môn làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, chứ không theo Ðức Chúa trọn
vẹn như phụ vương Ða-vít. 7 Bấy giờ vua Sa-lô-môn xây trên núi đối
diện với Giê-ru-sa-lem một nơi cao cho thần Cơ-mốt ghê tởm của dân Mô-áp, cho
thần Mô-léc ghê tởm của con cái Am-mon. 8 Vua làm như thế với tất cả
các bà vợ ngoại đạo của vua; họ đốt hương và sát tế kính các thần của họ.
9
Ðức
Chúa nổi giận với vua Sa-lô-môn, vì lòng vua rời xa Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en, Ðấng đã hiện ra với vua hai lần, 10 và truyền cho vua là
đừng đi theo các thần ngoại, nhưng vua không giữ điều Ðức Chúa đã truyền. 11
Ðức Chúa phán với vua Sa-lô-môn: "Vì ngươi đã như vậy và đã không
giữ giao ước cũng như các giới răn Ta truyền cho ngươi, thì chắc chắn Ta sẽ
giựt lấy vương quốc ngươi mà trao cho một thuộc hạ của ngươi. 12 Tuy
nhiên, vì thân phụ ngươi, Ta sẽ không làm điều đó trong đời ngươi, nhưng sẽ
giựt vương quốc khỏi tay con của ngươi. 13 Hơn nữa, vì nể Ða-vít tôi
tớ Ta, và vì Giê-ru-sa-lem, thành đô Ta đã chọn, Ta sẽ không giựt lấy cả vương
quốc, nhưng sẽ để lại cho con của ngươi một chi tộc."
Những
kẻ thù bên ngoài
14
Ðức
Chúa xui khiến cho có một người chống lại vua Sa-lô-môn: đó là Ha-đát người
Ê-đôm, thuộc hoàng tộc Ê-đôm. 15 Khi vua Ða-vít đã đánh bại Ê-đôm và
ông Giô-áp chỉ huy quân đội lên chôn cất các tử thi, thì ông tàn sát mọi đàn
ông con trai ở Ê-đôm. 16 Quả vậy, ông Giô-áp cùng toàn thể Ít-ra-en
đã ở lại đấy sáu tháng cho tới khi tiêu diệt hoàn toàn mọi đàn ông con trai ở
Ê-đôm. 17 Bấy giờ, Ha-đát cùng với mấy người Ê-đôm trong số các tôi
tớ của cha mình đã chạy trốn được sang Ai-cập, vì lúc đó Ha-đát là một thiếu
niên. 18 Chúng rời Ma-đi-an và tới Pa-ran; từ Pa-ran chúng lấy một
số người đi theo mình xuống Ai-cập, vào chầu Pha-ra-ô vua Ai-cập; vua này cung
cấp cho chúng nhà ở, bảo đảm lương thực và cho chúng cả đất đai nữa. 19 Ha-đát
rất được lòng Pha-ra-ô, nên vua gả em gái vợ mình cho ông, tức là em gái bà
Tác-pơ-nết hay là Bà Hoàng. 20 Em gái bà Tác-bơ-nết sinh ra cho ông
một người con tên là Gơ-nu-vát; bà Tác-pơ-nết nuôi nấng người con này ngay
trong cung điện Pha-ra-ô. Gơ-nu-vát sống trong cung điện Pha-ra-ô giữa các con
cái Pha-ra-ô. 21 Ðang khi ở Ai-cập, Ha-đát nghe tin vua Ða-vít đã an
nghỉ với tổ tiên và tướng Giô-áp chỉ huy quân đội cũng đã chết, thì thưa với
Pha-ra-ô: "Xin để tôi về đất nước tôi.” 22 Pha-ra-ô nói với
ông: "Ở với ta, ngươi có thiếu gì mà phải tìm về đất nước ngươi? "
Ông thưa: "Không thiếu gì, nhưng xin cứ để tôi đi.” 25b Ðiều ác của Ha-đát
là ông gớm ghét Ít-ra-en mà ông lại làm vua cai trị Ê-đôm.
23
Thiên
Chúa còn xui khiến cho vua có một địch thủ là Rơ-dôn, con của En-gia-đa, người
đã bỏ chủ mình là Ha-đát-e-de, vua Xô-va mà trốn. 24 Một số người tụ
họp bên ông và ông trở thành đầu đảng. Vì vua Ða-vít muốn tiêu diệt họ, nên ông
đến Ða-mát cư ngụ tại đó và làm vua ở Ða-mát. 25 Ông thù nghịch với
Ít-ra-en suốt thời vua Sa-lô-môn.
Cuộc
nổi dậy của Gia-róp-am
26
Ông
Gia-róp-am là con ông Nơ-vát, người Ép-ra-im, thuộc Xơ-rê-đa; bà Xơ-ru-a mẹ ông
là một quả phụ. Ông đã từng phục vụ vua Sa-lô-môn, nhưng lại nổi dậy chống vua.
27 Chuyện ông nổi dậy chống vua như sau:
28
Bấy
giờ Gia-róp-am là người có khả năng. Vua Sa-lô-môn thấy chàng trai ấy đảm đang
công việc, thì đặt chàng phụ trách toàn thể dân công nhà Giu-se. 29 Một
hôm, khi Gia-róp-am từ Giê-ru-sa-lem đi ra, thì dọc đường gặp ngôn sứ
A-khi-gia, người Si-lô; ông này khoác một chiếc áo choàng mới. Lúc ấy chỉ có
hai ông ở ngoài đồng. 30 Ông A-khi-gia lấy chiếc áo mới mình đang
mặc, xé ra làm mười hai mảnh. 31 Rồi ông nói với Gia-róp-am:
"Anh cầm lấy mười mảnh, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en phán như sau:
"Này Ta sẽ giựt vương quốc khỏi tay Sa-lô-môn để trao cho ngươi mười chi
tộc. 32 Nó vẫn còn được một chi tộc, vì nể Ða-vít, tôi tớ Ta, và vì
Giê-ru-sa-lem thành đô Ta đã chọn trong tất cả chi tộc Ít-ra-en. 33 Vì
nó đã bỏ Ta mà thờ lạy thần Át-tô-rét của dân Xi-đôn, thần Cơ-mốt của Mô-áp,
thần Min-côm của con cái Am-mon, và không đi theo đường lối của Ta, là thi hành
điều chính trực trước nhan Ta, cũng như các giới răn và luật pháp của Ta như
Ða-vít thân phụ nó. 34 Nhưng Ta sẽ không cất hết vương quốc khỏi tay
nó, mà sẽ để nó làm thủ lãnh cho đến cuối đời, vì nể Ða-vít tôi tớ Ta, người Ta
đã chọn, kẻ đã tuân giữ các mệnh lệnh và các giới răn của Ta. 35 Ta
sẽ giựt lấy vương quốc khỏi tay con nó, sẽ cho ngươi mười chi tộc 36 và cho con
nó một chi tộc, để Ða-vít tôi tớ Ta luôn luôn có một ngọn đèn trước nhan Ta ở
Giê-ru-sa-lem, thành đô Ta đã chọn làm nơi danh Ta ngự trị. 37 Vậy
Ta sẽ đặt ngươi làm người cai trị mọi sự như lòng ngươi muốn, và ngươi sẽ làm
vua Ít-ra-en. 38 Nếu ngươi vâng nghe tất cả những điều Ta truyền cho
ngươi và bước đi theo đường lối của Ta, thi hành điều chính trực trước nhan Ta
mà tuân giữ các giới răn và mệnh lệnh của Ta như Ða-vít tôi tớ Ta đã làm, thì
Ta sẽ ở với ngươi và xây cho ngươi một ngôi nhà bền vững như Ta đã xây cho
Ða-vít, và Ta sẽ trao Ít-ra-en cho ngươi. 39 Như thế, Ta sẽ hạ dòng
dõi Ða-vít xuống, nhưng không phải mãi đâu!"
40
Vua
Sa-lô-môn tìm cánh giết Gia-róp-am; nhưng Gia-róp-am chỗi dậy và trốn sang
Ai-cập, đến với Si-sắc vua Ai-cập, và ở Ai-cập cho tới khi vua Sa-lô-môn qua
đời.
Kết
thúc triều đại Sa-lô-môn (2Sb 9 :29-31)
41
Các
truyện khác về vua Sa-lô-môn và tất cả những gì vua đã thực hiện cũng như sự
khôn ngoan của vua đều đã được ghi chép trong sách Sử biên niên của vua
Sa-lô-môn. 42 Thời gian vua Sa-lô-môn trị vì toàn thể Ít-ra-en tại
Giê-ru-sa-lem là bốn mươi năm. 43 Vua Sa-lô-môn đã an nghỉ với tổ
tiên và được chôn cất trong Thành Ða-vít thân phụ vua; và thái tử Rơ-kháp-am
lên ngôi kế vị vua.
Chương 12
III.
Cuộc Ly Khai Về Chính Trị Và Tôn Giáo
Ðại
hội tại Si-khem (2 Sb 10:1-19)
1
Rơ-kháp-am
đi Si-khem, vì toàn thể Ít-ra-en tụ họp ở Si-khem để tôn ông lên làm vua. 2
Lúc ấy Gia-róp-am con ông Nơ-vát nghe biết chuyện ấy, -ông còn đang ở bên
Ai-cập vì ông đã trốn vua Sa-lô-môn sang đó- ông liền bỏ Ai-cập trở về. 3 Người
ta cho mời ông Gia-róp-am. Ông và toàn thể cộng đoàn Ít-ra-en tới. Họ thưa với
Rơ-kháp-am rằng: 4 "Phụ vương ngài đã bắt chúng tôi mang một
cái ách quá nặng. Bây giờ nếu ngài giảm bớt khổ dịch và ách nặng nề phụ vương
đã đặt trên chúng tôi, thì chúng tôi sẽ phục dịch ngài.” 5 Vua nói
với họ: "Các ngươi cứ đi đi, ba ngày nữa trở lại đây gặp ta." Dân
chúng liền rút lui.
6
Vua
Rơ-kháp-am bàn hỏi với các kỳ mục là những người đã từng hầu cận phụ vương
Sa-lô-môn, khi vua này còn sống; vua Rơ-kháp-am nói: "Các ngươi góp ý với
ta thế nào, để ta còn trả lời cho dân này?” 7 Họ thưa với vua:
"Nếu hôm nay ngài làm đầy tớ cho dân này, nếu ngài phục vụ và để ý tới
dân, dùng lời lẽ ôn tồn mà nói với dân, thì dân sẽ làm tôi ngài mãi mãi.” 8
Nhưng vua không đếm xỉa gì đến ý kiến các kỳ mục đưa ra, lại đi bàn hỏi
với đám người trẻ, là những bạn thiếu thời hiện đang hầu cận vua. 9 Vua
nói với họ: "Các ngươi góp ý với ta thế nào, để ta còn trả lời cho dân
này, vì nó đã nói với ta rằng: Xin ngài giảm bớt cái ách nặng phụ vương đã đặt
trên chúng tôi!” 10 Ðám người trẻ, những bạn thiếu thời của vua,
thưa vua rằng: "Ngài sẽ trả lời cho dân đã từng nói với ngài: "Phụ
vương ngài đã đặt ách nặng trên chúng tôi, nhưng xin ngài giảm bớt cho chúng
tôi", xin ngài nói với chúng thế này: "Ngón tay nhỏ của ta còn lớn
hơn cả lưng của phụ vương ta. 11 Vậy phụ vương ta đã đặt ách nặng
trên các ngươi, còn ta, ta chất cho nặng hơn nữa; phụ vương ta trừng phạt các
ngươi bằng roi, còn ta, ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp."
12
Ngày
thứ ba, Gia-róp-am cùng toàn dân đến yết kiến vua Rơ-kháp-am như vua đã hẹn
rằng: "Ba ngày nữa trở lại gặp ta.” 13 Vua trả lời cứng cỏi với
dân; vua không đếm xỉa gì đến ý kiến các kỳ mục đã đưa ra, 14 nhưng
nói với họ theo ý kiến đám người trẻ rằng: "Phụ vương ta đã đặt ách nặng
trên các ngươi, còn ta, ta chất nặng hơn nữa trên các ngươi; phụ vương ta trừng
phạt các ngươi bằng roi, còn ta, ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp.” 15
Thế là vua không chịu nghe dân: Ðức Chúa đã để như vậy cho lời Người được
ứng nghiệm, lời mà Ðức Chúa đã dùng ông A-khi-gia người Si-lô mà phán với ông
Gia-róp-am con ông Nơ-vát. 16 Khi toàn thể Ít-ra-en thấy vua không
thèm nghe họ, thì dân đáp lại vua rằng:
"Chúng
tôi có liên hệ chi với Ða-vít? Chẳng có phần gì với con của Gie-sê! Ít-ra-en
ơi, ai về lều nấy! Này Ða-vít hãy liệu lấy nhà của ngươi!"
17
Còn
con cái Ít-ra-en cư ngụ tại các thành của Giu-đa, thì vua Rơ-kháp-am vẫn làm
vua cai trị họ. 18 Vua Rơ-kháp-am cử ông A-đô-ram phụ trách việc dân
công, nhưng toàn thể Ít-ra-en ném đá ông và ông đã chết; còn vua Rơ-kháp-am thì
vội vã lên xe trốn về Giê-ru-sa-lem. 19 Thế là Ít-ra-en ly khai với
nhà Ða-vít cho tới ngày nay.
Ly
khai về chính trị (2 Sb 11:1-4)
20
Khi
toàn thể Ít-ra-en nghe tin ông Gia-róp-am đã về nước, thì sai người mời ông tới
đại hội và phong ông làm vua cai trị toàn thể Ít-ra-en; chỉ còn một mình chi
tộc Giu-đa là theo nhà Ða-vít.
21
Về
tới Giê-ru-sa-lem, vua Rơ-kháp-am tập họp toàn thể nhà Giu-đa và chi tộc
Ben-gia-min, được một trăm tám mươi ngàn quân tinh nhuệ để giao chiến với nhà
Ít-ra-en và thu hồi vương quốc về cho Rơ-kháp-am con vua Sa-lô-môn. 22 Nhưng
có lời Thiên Chúa phán với ông Sơ-ma-gia, người của Thiên Chúa rằng: 23 "Hãy
nói với Rơ-kháp-am con của Sa-lô-môn vua Giu-đa, với toàn thể nhà Giu-đa và
Ben-gia-min cùng phần còn lại của dân rằng: 24 "Ðức Chúa phán
thế này: Các ngươi không được lên giao chiến với con cái Ít-ra-en là anh em các
ngươi; ai nấy cứ về nhà mình, vì mọi chuyện là do Ta." Họ nghe lời Ðức
Chúa và quay về như Ðức Chúa đã phán. 25 Vua Gia-róp-am xây dựng
Si-khem trong vùng núi Ép-ra-im và ở lại đó. Ðoạn vua rời nơi ấy, đi xây dựng
Pơ-nu-ên.
Ly
khai về tôn giáo
26
Vua
Gia-róp-am nghĩ bụng rằng: "Rồi vương quốc lại trở về nhà Ða-vít mất thôi!
27 Nếu dân này cứ lên tế lễ tại Ðền Thờ Ðức Chúa ở Giê-ru-sa-lem, thì lòng họ
lại quay về với chủ mình là Rơ-kháp-am vua Giu-đa, và họ sẽ giết ta để trở về
với Rơ-kháp-am vua Giu-đa.” 28 Sau khi quyết định, vua làm hai con
bò mộng bằng vàng, rồi nói với dân: "Các ngươi lên Giê-ru-sa-lem như thế
là đủ rồi! Này, Ít-ra-en, Thiên Chúa của ngươi đây, Ðấng đã đưa ngươi lên từ
đất Ai-cập.” 29 Vua đặt một tượng ở Bết Ên, còn tượng kia ở Ðan. 30
Ðó là nguyên cớ gây ra tội, vì dân đi tới mãi tận Ðan để thờ một trong
hai tượng đó. 31 Vua thiết lập những nơi cao và đặt các tư tế lấy từ
đám thường dân, không thuộc hàng con cháu Lê-vi. 32 Vua Gia-róp-am
còn lập một lễ vào ngày mười lăm tháng tám, giống như lễ vẫn mừng ở Giu-đa, và
vua tiến lên bàn thờ. Vua đã làm như thế tại Bết Ên mà dâng lễ tế cho các con
bò mộng vua đã làm ra. Vua đặt ở Bết Ên các tư tế để phục vụ tại các nơi cao mà
vua đã thiết lập. 33 Vua tiến lên bàn thờ đã lập ở Bết Ên, vào ngày
mười lăm tháng tám, tháng vua chọn theo sở thích; vua lập nên một ngày lễ cho
con cái Ít-ra-en và lên bàn thờ đốt hương.
Chương 13
Kết
án bàn thờ tại Bết Ên
1
Do
lệnh của Ðức Chúa, có một người của Thiên Chúa từ Giu-đa đến Bết Ên vào lúc
Gia-róp-am đang đứng gần bàn thờ đốt hương, 2 và theo lệnh Ðức Chúa,
người ấy la lên chống bàn thờ rằng: "Bàn thờ, bàn thờ! Ðức Chúa phán thế
này: Rồi đây một người con sẽ sinh ra cho nhà Ða-vít, tên là Giô-si-gia-hu;
trên ngươi, nó sẽ sát tế các tư tế phục vụ tại các nơi cao, là những kẻ đã đốt
hương trên ngươi; trên ngươi, nó sẽ đốt xương người.” 3 Ngay hôm ấy,
ông cho một dấu hiệu, mà rằng: "Ðây là dấu Ðức Chúa đã phán: Này bàn thờ
sẽ rạn nứt và tro trên đó sẽ đổ ra.” 4 Khi vua nghe biết lời mà
người của Thiên Chúa la lên chống bàn thờ Bết Ên, thì từ bàn thờ, vua Gia-róp-am
giơ tay ra và nói: "Bắt lấy nó!" Nhưng bàn tay giơ ra đe ông liền khô
cứng, không co lại được nữa. 5 Và bàn thờ rạn nứt, tro từ bàn thờ đổ
ra, đúng như dấu hiệu mà người của Thiên Chúa đã cho, theo lệnh Ðức Chúa. 6
Vua đáp lại và nói với người của Thiên Chúa: "Xin ông làm cho nét
mặt Ðức Chúa dịu lại, khẩn nài Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, và xin cho ta co
tay lại được." Người của Thiên Chúa đã làm cho nét mặt Ðức Chúa dịu lại và
tay vua co lại được như trước. 7 Bấy giờ vua nói với người của Thiên
Chúa: "Về nhà với ta để bổ sức, và ta sẽ tặng cho một món quà.” 8 Nhưng
người của Thiên Chúa thưa với vua: "Ngài có cho tôi phân nửa nhà của ngài,
tôi cũng sẽ không đi với ngài, hoặc ăn bánh hay uống nước tại đây; 9 vì
Ðức Chúa đã truyền lệnh cho tôi rằng: "Ngươi không được ăn bánh, không
được uống nước, cũng chẳng được trở về qua con đường ngươi đã đi trước.” 10
Vậy, ông ra đi theo con đường khác, không trở về qua ngả đường đã dẫn ông
đến Bết Ên.
Người
của Thiên Chúa và vị ngôn sứ
11
Có
một ngôn sứ già cư ngụ tại Bết Ên. Mấy người con của cụ đến kể cho cụ nghe mọi
việc người của Thiên Chúa đã làm hôm đó tại Bết Ên, những lời ông ta đã nói với
vua, họ cũng kể cho cha họ nghe. 12 Người cha nói: "Ông ta đã
đi đường nào?" Họ chỉ cho cụ con đường người của Thiên Chúa đã ra đi, sau
khi từ Giu-đa tới. 13 Cụ liền nói với các con: "Thắng lừa cho
cha." Họ thắng lừa cho cụ; cụ cỡi lừa 14 và đi tìm người của Thiên Chúa.
Gặp được ông đang ngồi dưới cây sồi, cụ liền nói với ông: "Ông là người
của Thiên Chúa từ Giu-đa tới phải không?" Người ấy đáp: "Thưa phải.” 15
Cụ bảo ông: "Ði với lão về nhà và ăn một chút bánh.” 16 Người
ấy nói: "Tôi không thể cùng với cụ quay trở lại và đến nhà cụ; tôi sẽ
không ăn bánh và uống nước với cụ tại đó, 17 vì có lời Ðức Chúa phán
với tôi: "Ngươi không được ăn bánh, không được uống nước tại đó; không
được trở về qua con đường mà ngươi đã đến.” 18 Cụ nói với ông:
"Lão cũng là ngôn sứ như ông, và một thiên thần đã nói với lão theo lệnh
Ðức Chúa rằng: "Hãy đưa nó cùng với ngươi quay trở lại nhà ngươi để nó ăn
bánh, uống nước." Cụ đã nói dối ông. 19 Vậy ông cùng với cụ
quay trở lại; ông đã ăn bánh ở nhà cụ và uống nước nữa.
20
Khi
họ đang ngồi ở bàn ăn, thì có lời Ðức Chúa phán với vị ngôn sứ đã đưa người kia
quay trở lại. 21 Cụ liền kêu người của Thiên Chúa đã từ Giu-đa đến
mà bảo: "Ðức Chúa phán thế này: bởi vì ngươi đã trái lệnh Ðức Chúa, không
tuân giữ điều Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đã truyền cho ngươi, 22 ngươi
đã quay trở lại, ăn bánh, uống nước, tại nơi Người đã truyền cho ngươi không
được ăn bánh uống nước, cho nên thây của ngươi sẽ không được vào chung mồ với
tổ tiên ngươi.” 23 Ăn uống xong, cụ thắng lừa cho vị ngôn sứ mà cụ
đã đưa quay trở lại. 24 Ông ra đi, và dọc đường, một con sư tử bắt
gặp ông, đã vồ ông chết và bỏ thây ông nằm giữa đường. Con lừa vẫn đứng bên
cạnh ông, cả con sư tử cũng đứng gần xác chết. 25 Chợt có mấy người
đi qua, thấy xác chết bỏ giữa đường và con sư tử đứng bên, thì vào kể lại trong
thành, nơi vị ngôn sứ già cư ngụ. 26 Khi vị ngôn sứ già, người đã
làm cho ông bỏ đường quay trở lại biết chuyện, thì nói: "Ông ấy là người
của Thiên Chúa, nhưng đã trái lệnh Ðức Chúa, nên Ðức Chúa đã để cho sư tử vồ
chết, như lời Ðức Chúa đã phán với ông trước.” 27 Rồi cụ bảo các
con: "Thắng lừa cho cha!" Họ thắng lừa cho cụ. 28 Cụ đi và
thấy xác người kia bỏ giữa đường, có con lừa và con sư tử đứng bên cạnh; con sư
tử không ăn thây người chết, cũng không cắn xé con lừa. 29 Vị ngôn
sứ lấy xác người của Thiên Chúa đặt lên lừa, đưa trở lại thành của vị ngôn sứ
già để làm đám tang và chôn cất. 30 Cụ đặt thi hài ông trong chính
mộ của cụ, và người ta khóc thương ông: "Ôi! người anh em của tôi ơi!” 31
Chôn cất xong, cụ nói với các con: "Khi cha chết, các con hãy chôn
cất cha trong cùng một ngôi mộ mà người của Thiên Chúa đã được chôn cất; hãy
đặt hài cốt cha bên cạnh hài cốt ông. 32 Vì chắc chắn sẽ ứng nghiệm
lời ông đã theo lệnh Ðức Chúa kết án bàn thờ ở Bết Ên và tất cả các đền thờ tại
các nơi cao trong thành của Sa-ma-ri."
33
Sau
sự việc này, vua Gia-róp-am cũng không chịu bỏ đường lối xấu xa của mình, nhưng
vẫn cứ đặt những người dân thường làm tư tế tại các nơi cao. Ưa ai thì ông
phong làm tư tế tại các nơi cao. 34 Sự việc này là nguyên cớ cho nhà
Gia-róp-am phạm tội, rồi bị sụp đổ và tiêu ma khỏi mặt đất.
Chương 14
IV.
Lịch Sử Hai Vương Quốc Cho Tới Thời Ngôn Sứ Ê-Li-A
Giai
đoạn kế tiếp triều đại vua Gia-róp-am I (931-910)
1
Bấy
giờ hoàng tử A-vi-gia, con vua Gia-róp-am, lâm bệnh; 2 vua
Gia-róp-am nói với phu nhân: "Này! Xin bà đứng lên và cải trang để người
ta không biết được bà là vợ của Gia-róp-am, rồi đi tới Si-lô. Ở đấy có ngôn sứ
A-khi-gia là người đã báo trước cho tôi biết tôi sẽ làm vua dân này. 3 Bà
hãy mang theo mười ổ bánh, một ít bánh ngọt, một bình mật ong và đến gặp ông.
Ông sẽ nói cho bà biết về số phận đứa trẻ; 4 phu nhân vua Gia-róp-am
làm như vậy. Bà trỗi dậy đi tới Si-lô, đến nhà ông A-khi-gia-hu. Ông
A-khi-gia-hu không nhìn thấy được nữa, vì tuổi già đã làm cho mắt ông đờ ra. 5
Ðức Chúa phán với ông A-khi-gia-hu: "Này, vợ của Gia-róp-am đến hỏi
ngươi về đứa con của nó, vì đứa trẻ lâm bệnh. Ngươi sẽ trả lời nó thế này, thế
này." Khi đến, bà ấy giả làm một người khác. 6 Nhưng khi ông
A-khi-gia-hu nghe tiếng chân bà bước qua cửa thì nói: "Xin mời phu nhân
vua Gia-róp-am vào! Tại sao bà lại giả làm người khác? Tôi được lệnh báo cho bà
một tin buồn. 7 Xin bà về nói với vua Gia-róp-am: "Ðức Chúa,
Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Ta đã cất nhắc ngươi lên từ đám dân
thường, đặt ngươi làm đầu Ít-ra-en dân Ta; 8 Ta đã giựt vương quốc
khỏi nhà Ða-vít để ban cho ngươi nhưng ngươi đã không được như Ða-vít, tôi tớ
Ta, là người đã tuân giữ các giới răn của Ta và hết lòng đi theo Ta, chỉ làm
những điều ngay chính trước mặt Ta. 9 Còn ngươi, thì làm sự dữ, hành
động xấu xa hơn mọi kẻ đi trước ngươi, vì ngươi đã đi tới chỗ làm ra các thần
ngoại, những hình tượng đúc để chọc giận Ta và vứt bỏ Ta sau lưng ngươi. 10
Vì thế, này Ta sẽ giáng hoạ xuống nhà Gia-róp-am: Ta sẽ tiêu diệt khỏi
nhà ấy mọi đàn ông con trai, tự do hay nô lệ trong dân Ít-ra-en, sẽ quét sạch
dòng dõi nhà Gia-róp-am như người ta quét phân rác, cho đến khi nó bị tận diệt.
11 Kẻ nào thuộc về nhà Gia-róp-am mà chết trong thành thì sẽ bị chó
ăn thịt; người chết ngoài đồng sẽ bị chim trời rỉa thây. Vì đó là lời Ðức Chúa.
12 Còn bà, bà hãy đứng dậy mà về nhà. Khi bà bước chân vào thành thì
đứa trẻ sẽ chết. 13 Toàn thể Ít-ra-en sẽ khóc thương nó, và người ta
sẽ chôn cất nó; chỉ một mình đứa con này của Gia-róp-am được chôn trong mồ, bởi
vì trong cả nhà Gia-róp-am, nó là người còn có một chút gì đẹp lòng Ðức Chúa,
Thiên Chúa của Ít-ra-en. 14 Ðức Chúa sẽ cho một vua đứng lên cai trị
Ít-ra-en, ông sẽ tiêu diệt nhà Gia-róp-am vào ngày ấy. Biết nói gì nữa bây giờ?
15 Ðức Chúa sẽ đánh Ít-ra-en ngả nghiêng như cây sậy trong dòng nước; Người sẽ
bứng Ít-ra-en khỏi đất đai màu mỡ mà Người đã ban cho tổ tiên họ, và sẽ phân
tán họ sang bên kia Sông, vì họ đã làm ra các cột thần mà chọc giận Ðức Chúa. 16
Vì các tội vua Gia-róp-am đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo, thì
Người sẽ trao nộp Ít-ra-en.” 17 Phu nhân vua Gia-róp-am đứng dậy, ra
đi và tới Tia-xa. Bà vừa bước qua ngưỡng cửa nhà thì đứa trẻ chết. 18 Người
ta chôn cất nó, và toàn thể Ít-ra-en khóc thương nó, đúng như lời Ðức Chúa đã
dùng ngôn sứ A-khi-gia-hu tôi tớ Người mà phán.
19
Các
truyện còn lại về vua Gia-róp-am, các cuộc chiến và cách thức cai trị của vua
đều được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 20 Thời
vua Gia-róp-am trị nước là hai mươi hai năm. Vua nằm xuống với tổ tiên; con vua
là Na-đáp lên ngôi kế vị.
Triều
đại vua Rơ-kháp-am (931-913) (2 Sb 11:5; 12:1-2,9-16)
21
Con
vua Sa-lô-môn là Rơ-kháp-am trị vì nước Giu-đa. Khi lên ngôi, vua Rơ-kháp-am
được bốn mươi mốt tuổi; vua trị vì mười bảy năm tại Giê-ru-sa-lem là thành đô
Ðức Chúa đã chọn làm nơi đặt Danh Người trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en. Thân
mẫu vua là bà Na-a-ma, người Am-mon. 22 Giu-đa đã làm sự dữ trái mắt
Ðức Chúa và vì tất cả các tội của họ, họ đã chọc giận Ðức Chúa còn hơn mọi điều
cha ông họ đã phạm. 23 Họ lại xây cất những nơi cao, những trụ thờ
và những cột thần trên khắp đồi cao và dưới mọi cây xanh rậm. 24 Trong
xứ có cả bọn trai điếm phục vụ đền thần. Chúng làm những điều ghê tởm như các
dân ngoại mà Ðức Chúa đã đuổi đi cho khuất mắt Ít-ra-en.
25
Năm
thứ năm triều vua Rơ-kháp-am, vua Ai-cập là Si-sắc, đã tiến đánh Giê-ru-sa-lem.
26 Ông chiếm đoạt các kho tàng của Ðền Thờ Ðức Chúa cũng như kho
tàng của hoàng cung. Ông lấy hết, chiếm đoạt tất cả các khiên thuẫn bằng vàng
vua Sa-lô-môn đã làm. 27 Vua Rơ-kháp-am làm các khiên thuẫn bằng
đồng để thay thế và giao cho các người chỉ huy thị vệ canh gác cửa hoàng cung. 28
Mỗi khi vua vào Ðền Thờ Ðức Chúa thì các thị vệ mang ra, rồi lại đưa về
phòng thị vệ.
29
Các
truyện còn lại về vua Rơ-kháp-am và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép
trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 30 Giữa vua Rơ-kháp-am và vua
Gia-róp-am luôn luôn có giao tranh. 31 Vua Rơ-kháp-am đã an nghỉ với
tổ tiên và được chôn cất với các ngài trong Thành Ða-vít. Thân mẫu của vua là
bà Na-a-ma, người Am-mon. Con vua là A-vi-giam lên ngôi kế vị.
Chương 15
Triều
đại vua A-vi-giam tại Giu-đa (913-911) (2 Sb 13:1-14:1)
1
Năm
thứ mười tám triều vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát là A-vi-giam lên làm vua
Giu-đa, 2 và trị vì tại Giê-ru-sa-lem ba năm; thân mẫu vua là bà
Ma-a-kha, ái nữ ông Áp-sa-lôm. 3 Vua rập theo con đường tội lỗi vua
cha đã đi trước, mà không trọn tình với Ðức Chúa, Thiên Chúa của vua, như
Ða-vít tổ tiên vua. 4 Nhưng, vì nể Ða-vít, Ðức Chúa, Thiên Chúa của
vua, cũng ban cho vua một ngọn đèn tại Giê-ru-sa-lem là gầy dựng cho vua một
người con kế vị và làm cho Giê-ru-sa-lem đứng vững; 5 chỉ vì Ða-vít
đã làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, không bỏ qua một điều nào trong tất
cả những điều Người đã truyền cho vua suốt thời gian vua còn sống, ngoài truyện
ông U-ri-gia, người Khết.
6
Giữa
vua Rơ-kháp-am và vua Gia-róp-am luôn luôn có giao tranh trong buổi sinh thời. 7
Các truyện còn lại về vua A-vi-giam và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi
chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? Và chiến tranh cũng xảy ra
giữa vua A-vi-giam và vua Gia-róp-am. 8 Vua A-vi-giam đã an nghỉ với
tổ tiên, và được chôn cất trong Thành Ða-vít; con vua là A-xa lên ngôi kế vị.
Triều
đại vua A-xa tại Giu-đa (911-870) (2 Sb 15:16 -16:6,11 -14)
9
Năm
thứ hai mươi triều vua Gia-róp-am cai trị Ít-ra-en thì vua A-xa lên làm vua
Giu-đa. 10 Vua trị vì tại Giê-ru-sa-lem bốn mươi mốt năm. Bà nội của
vua là Ma-a-kha, ái nữ ông Áp-sa-lôm. 11 Vua A-xa làm điều ngay
chính trước mắt Ðức Chúa, như Ða-vít tổ tiên vua. 12 Vua đuổi ra
khỏi xứ bọn trai điếm phục vụ đền thần, dẹp hết các tượng thần cha ông của vua
đã làm. 13 Ngay cả bà nội của vua là Ma-a-kha, cũng bị vua cách chức
quốc mẫu, vì bà đã làm một vật kinh tởm kính thần A-sê-ra. Vua A-xa phá huỷ vật
kinh tởm đó và đem đốt trong thung lũng Kít-rôn. 14 Các nơi cao chưa
biến đi, nhưng vua A-xa vẫn suốt đời trọn tình vẹn nghĩa với Ðức Chúa. 15 Vua
đưa vào Ðền Thờ Ðức Chúa các vật thánh mà vua cha cũng như chính vua dâng cúng:
bạc, vàng và các vật dụng.
16
Giữa
vua A-xa và vua Ba-sa của Ít-ra-en luôn luôn có giao tranh suốt buổi sinh thời
hai vua. 17 Ba-sa vua Ít-ra-en tiến đánh Giu-đa và vua kiến thiết
Ra-ma, để không cho ai ra vào liên lạc với A-xa vua Giu-đa. 18 Bấy
giờ vua A-xa lấy tất cả bạc, vàng còn lại trong các kho tàng Ðền Thờ Ðức Chúa
và các kho tàng của hoàng cung, trao vào tay bề tôi của vua, rồi vua A-xa sai
họ đến với vua A-ram là Ben Ha-đát, con ông Táp-rim-môn, con ông Khét-giôn, cư
ngụ tại Ða-mát và nói rằng: 19 "Nên có hiệp ước giữa tôi với
ngài, cũng như giữa thân phụ tôi với thân phụ ngài! Ðây, tôi xin gửi tặng ngài
bạc vàng làm quà. Xin ngài huỷ bỏ hiệp ước giữa ngài với Ba-sa vua Ít-ra-en, để
ông ấy bỏ tôi mà rút về!” 20 Vua Ben Ha-đát nghe lời vua A-xa và sai
các vị chỉ huy quân đội đánh các thành của Ít-ra-en; vua đánh chiếm I-giôn Ðan,
A-vên Bết Ma-a-kha, tất cả Kin-nơ-rốt, mãi cho đến vùng đất Náp-ta-li. 21 Nghe
biết chuyện này, vua Ba-sa ngưng kiến thiết Ra-ma, mà trở về Tia-xa. 22 Bấy
giờ vua A-xa triệu tập toàn thể Giu-đa, không trừ một ai, và họ lấy đi đá, gỗ ở
Ra-ma mà vua Ba-sa dùng để xây cất. Vua A-xa dùng các thứ ấy mà kiến thiết
Ghe-va thuộc Ben-gia-min và Mít-pa.
23
Các
truyện còn lại về vua A-xa, tất cả chiến công của vua, mọi việc vua làm, các
thành vua xây, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó
sao? Chỉ có điều về già vua bị đau chân. 24 Vua A-xa nằm xuống với
tổ tiên và được chôn cất với các ngài trong Thành vua Ða-vít tổ tiên vua. Con
vua là Giơ-hô-sa-phát lên ngôi kế vị.
Triều
đại vua Na-đáp tại Ít-ra-en (910-909)
25
Năm
thứ hai triều vua A-xa, vua Giu-đa, Na-đáp, con vua Gia-róp-am lên làm vua Ít-ra-en
và cai trị Ít-ra-en hai năm. 26 Vua làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa,
đi theo con đường của vua cha, phạm các tội vua ấy đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en
phạm theo. 27 Ba-sa, con ông A-khi-gia, thuộc nhà Ít-xa-kha âm mưu
chống lại vua. Khi vua Na-đáp và toàn dân Ít-ra-en bao vây Ghíp-bơ-thôn, ông
Ba-sa đã giết vua tại Ghíp-bơ-thôn thuộc Phi-li-tinh. 28 Ông Ba-sa
đã giết vua vào năm thứ ba triều A-xa, vua Giu-đa, và ông đã lên ngôi thế vị. 29
Lên ngôi rồi, vua hạ sát tất cả nhà Gia-róp-am, không để sót một mạng nào
mà không tiêu diệt, như lời Ðức Chúa đã dùng tôi tớ Người là A-khi-gia, người
Si-lô, mà phán trước, 30 vì tội vua Gia-róp-am đã phạm và lôi kéo
Ít-ra-en phạm theo, cũng như vì vua đã chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en.
31
Các
truyện còn lại về vua Na-đáp và mọi việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong
sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 32 Giữa vua A-xa và vua Ba-sa vua
Ít-ra-en luôn luôn có giao tranh suốt buổi sinh thời hai vua.
Triều
đại vua Ba-sa tại Ít-ra-en (909-886)
33
Năm
thứ ba triều A-xa, vua Giu-đa, Ba-sa, con ông A-khi-gia lên làm vua toàn cõi
Ít-ra-en, trị vì tại Tia-xa hai mươi năm. 34 Vua làm điều dữ trái
mắt Ðức Chúa đi theo con đường của vua Gia-róp-am, phạm các tội vua ấy đã phạm
và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.
Chương 16
1
Có
lời Ðức Chúa phán với ông Giê-hu, con ông Kha-na-ni, chống lại vua Ba-sa, rằng:
2 "Từ bụi đất Ta đã kéo ngươi lên và đặt ngươi làm thủ lãnh
Ít-ra-en dân Ta, nhưng ngươi đã đi theo con đường của Gia-róp-am, và đã lôi kéo
Ít-ra-en dân Ta phạm tội, mà chọc giận Ta, vì thế 3 này Ta sẽ quét sạch hậu duệ
của Ba-sa và con cháu nhà nó, Ta sẽ làm cho nhà ngươi nên như nhà của
Gia-róp-am, con của Nơ-vát. 4 Kẻ nào thuộc về Ba-sa mà chết trong
thành thì sẽ bị chó ăn thịt, người chết ngoài đồng sẽ bị chim trời rỉa
thây."
5
Các
truyện còn lại về vua Ba-sa, và mọi việc làm, và các chiến công của vua, đã
chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 6 Vua
Ba-sa nằm xuống với tổ tiên và được chôn cất tại Tia-xa. Con vua là Ê-la lên
ngôi kế vị.
7
Lại
có lời Ðức Chúa dùng ngôn sứ Giê-hu, con ông Kha-na-ni, mà phán để chống vua
Ba-sa và dòng họ: vì tất cả điều dữ vua đã làm trái mắt Ðức Chúa mà chọc giận
Người, vì các việc vua đã làm chẳng hơn gì nhà Gia-róp-am, và vì vua đã tiêu
diệt nhà ấy.
Triều
đại vua Ê-la tại Ít-ra-en (886-885)
8
Năm
hai mươi sáu triều A-xa, vua Giu-đa, Ê-la, con vua Ba-sa lên ngôi làm vua
Ít-ra-en. Vua trị vì tại Tia-xa hai năm. 9 Dim-ri, bầy tôi của vua,
chỉ huy phân nửa chiến xa, đã âm mưu chống lại vua. Khi vua uống rượu say ở
Tia-xa, tại nhà ông Ác-xa, quản đốc hoàng cung tại Tia-xa, 10 thì
Dim-ri đi vào hạ sát vua, năm hai mươi bảy triều A-xa, vua Giu-đa, rồi lên làm
vua thế vị. 11 Lên ngôi rồi, vua liền hạ sát tất cả nhà vua Ba-sa
không để sót một đàn ông con trai, thân thích hay bạn bè nào. 12 Vua
Dim-ri tiêu diệt hết dòng họ nhà vua Ba-sa, đúng như lời Ðức Chúa dùng ngôn sứ
Giê-hu mà phán để chống lại vua Ba-sa, 13 bởi tất cả các tội của
Ba-sa và các tội của Ê-la con vua, các tội họ đã phạm và đã lôi kéo Ít-ra-en
phạm theo mà chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, vì các ngẫu tượng của
họ.
14
Các
truyện còn lại về vua Ê-la và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép trong
sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao?
Triều
đại vua Dim-ri tại Ít-ra-en (885)
15
Năm
hai mươi bảy triều A-xa, vua Giu-đa, Dim-ri lên làm vua trị vì tại Tia-xa được
bảy ngày. Bấy giờ dân đang bao vây Ghíp-bơ-thôn, thuộc Phi-li-tinh. 16 Ðang
khi bao vây và nghe biết ông Dim-ri mưu phản, hơn nữa đã giết cả vua, thì dân
liền tôn ông Om-ri, tổng chỉ huy quân đội Ít-ra-en, lúc bấy giờ đang ở trong
doanh trại, lên làm vua. 17 Ông Om-ri cùng toàn thể Ít-ra-en từ
Ghíp-bơ-thôn kéo lên bao vây Tia-xa. 18 Khi vua Dim-ri thấy thành đã
bị chiếm, thì rút vào vọng lâu của hoàng cung, rồi nổi lửa đốt hoàng cung, tự
thiêu, và vua đã chết, 19 vì các tội vua đã phạm là làm điều dữ trái
mắt Ðức Chúa và đi theo con đường vua Gia-róp-am, và vì tội vua này đã phạm và
lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.
20
Các
truyện còn lại về vua Dim-ri và cuộc nổi loạn của vua đã được ghi chép trong
sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en.
21
Bấy
giờ dân Ít-ra-en chia làm hai phe: một phe theo Típ-ni, con ông Ghi-nát, tôn
ông lên làm vua; còn phe kia thì theo Om-ri. 22 Phe theo Om-ri mạnh
hơn phe theo Típ-ni, con ông Ghi-nát. Ông Típ-ni đã chết và ông Om-ri lên làm
vua.
Triều
đại Om-ri tại Ít-ra-en (885-874)
23
Năm
ba mươi mốt triều A-xa, vua Giu-đa, Om-ri lên làm vua Ít-ra-en, trị vì mười hai
năm. Vua trị vì tại Tia-xa sáu năm. 24 Vua mua vùng núi Sa-ma-ri của
ông Se-me với giá sáu mươi ký bạc, rồi kiến thiết và đặt tên thành đã xây là
Sa-ma-ri, theo tên người chủ của núi là Se-me. 25 Vua Om-ri làm điều
dữ trái mắt Ðức Chúa và còn ăn ở tệ hơn tất cả các tiên đế. 26 Vua
đi theo mọi đường lối của vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, phạm các tội vua ấy đã
phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo, mà chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en, vì các ngẫu tượng.
27
Các
truyện còn lại về vua Om-ri, các việc vua làm, các chiến công của vua đều được
ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 28 Vua Om-ri nằm
xuống với tổ tiên và được chôn cất tại Sa-ma-ri. Con vua là A-kháp lên ngôi kế
vị.
Dẫn
vào triều đại vua A-kháp (874-853)
29
Năm
ba mươi tám triều A-xa, vua Giu-đa, A-kháp, con vua Om-ri, lên làm vua
Ít-ra-en. Vua A-kháp, con vua Om-ri, làm vua cai trị Ít-ra-en tại Sa-ma-ri hai
mươi hai năm. 30 Vua A-kháp, con vua Om-ri, đã làm điều dữ trái mắt
Ðức Chúa, hơn tất cả các tiên đế. 31 Vua không chỉ phạm những tội
như vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, nhưng đã cưới công chúa I-de-ven, ái nữ của
Ét-ba-an, vua Xi-đôn, lại còn đi làm tôi thần Ba-an và sụp lạy nó. 32 Vua
lập một bàn thờ để kính Ba-an trong đền thờ vua đã xây cất tại Sa-ma-ri. 33
Vua A-kháp làm cả trụ thần, và như thế lại càng chọc giận Ðức Chúa, Thiên
Chúa của Ít-ra-en, hơn tất cả các vua Ít-ra-en trước. 34 Trong thời
vua, ông Khi-ên, người Bết Ên, xây cất lại Giê-ri-khô, nhưng ông đã phải mất
người con đầu lòng là A-vi-ram, khi đặt nền, và mất đứa con út là Xơ-gúp, khi
dựng cửa, như lời Ðức Chúa đã dùng ông Giô-suê, con ông Nun, mà phán.
Chương 17
V.
Truyện Ngôn Sứ Ê-Li-A
1.
Cơn Ðại Hạn
Báo
trước tai ương
1
Ông
Ê-li-a, người Tít-be, trong số dân cư ngụ tại Ga-la-át, nói với vua A-kháp
rằng: "Có Ðức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của Ít-ra-en, Ðấng tôi phục vụ:
trong những năm sắp tới, sẽ chẳng có mưa, có sương, nếu tôi không ra
lệnh."
Tại
suối Cơ-rít
2
Có
lời Ðức Chúa phán với ông như sau: 3 "Ngươi hãy bỏ đây đi về
phía đông, và ẩn mình trong thung lũng Cơ-rít, phía đông sông Gio-đan. 4 Ngươi
sẽ uống nước suối. Ta đã truyền cho quạ nuôi ngươi ở đấy.” 5 Ông ra
đi và làm như Ðức Chúa truyền: là đến ở thung lũng Cơ-rít, phía đông sông
Gio-đan. 6 Buổi sáng, quạ mang bánh và thịt cho ông; rồi buổi chiều,
cũng mang bánh và thịt cho ông. Ông uống nước suối.
Tại
Xa-rép-ta. Phép lạ bột và dầu.
7
Nhưng
sau một thời gian, suối cạn khô, vì trong xứ không có mưa. 8 Bấy giờ
có lời Ðức Chúa phán bảo ông: 9 "Ngươi hãy đứng dậy đi
Xa-rép-ta, thuộc Xi-đôn, và ở lại đấy. Này Ta truyền cho một bà goá ở đó nuôi
ngươi.” 10 Ông liền đứng dậy đi Xa-rép-ta. Khi đến cổng thành, ông
thấy có một bà goá đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và nói: "Bà làm ơn đem
bình lấy cho tôi chút nước để tôi uống.” 11 Bà ấy liền đi lấy nước.
Ông gọi bà và nói: "Bà làm ơn lấy cho tôi miếng bánh nữa!” 12 Bà
trả lời: "Có Ðức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ông tôi thề là tôi không
có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và chút dầu trong vò. Tôi đang đi lượm
vài thanh củi, rồi về nhà nấu nướng cho tôi và con tôi. Chúng tôi sẽ ăn rồi
chết.” 13 Ông Ê-li-a nói với bà: "Bà đừng sợ, cứ về làm như bà
vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà làm cho tôi một chiếc
bánh nhỏ, và đem ra cho tôi, rồi sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà. 14 Vì
Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này:
"Hũ
bột sẽ không vơi
vò
dầu sẽ chẳng cạn
cho
đến ngày Ðức Chúa
đổ
mưa xuống trên mặt đất."
15
Bà
ấy đi và làm như ông Ê-li-a nói; thế là bà ấy cùng với ông Ê-li-a và con bà có
đủ ăn lâu ngày. 16 Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng
như lời Ðức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán.
Hồi
sinh đứa con của bà goá
17
Sau
các sự việc đó, đứa con trai của bà ngã bệnh. Bệnh tình trầm trọng đến nỗi nó
tắt thở. 18 Bà nói với ông Ê-li-a: "Hỡi người của Thiên Chúa,
việc gì đến ông mà ông tới nhà tôi để nhắc lại tội tôi, và làm cho con tôi phải
chết?” 19 Ông Ê-li-a trả lời: "Bà đưa cháu cho tôi." Ông
bồng lấy đứa trẻ bà đang ẵm trong tay, đem lên phòng trên chỗ ông ở, và đặt nó
nằm lên giường. 20 Rồi ông kêu cầu Ðức Chúa rằng: "Lạy Ðức
Chúa, Thiên Chúa của con. Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho
con bà ấy phải chết sao?” 21 Ba lần ông nằm lên trên đứa trẻ, và kêu
cầu Ðức Chúa rằng: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn vía đứa
trẻ này lại trở về với nó!” 22 Ðức Chúa nghe tiếng ông Ê-li-a kêu
cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó sống. 23 Ông Ê-li-a liền
bồng đứa trẻ từ phòng trên xuống nhà dưới, trao cho mẹ nó, và nói: "Bà
xem, con bà đang sống đây!” 24 Bà nói với ông Ê-li-a: "Vâng,
bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa, và lời Ðức Chúa do miệng ông nói
ra là đúng."
Chương 18
Cuộc
gặp gỡ giữa ông Ê-li-a và ông Ô-vát-gia-hu
1
Thời
gian dài qua đi, lại có lời Ðức Chúa phán với ông Ê-li-a vào năm thứ ba, rằng:
"Ngươi hãy đi tới gặp A-kháp, Ta sẽ cho mưa xuống trên mặt đất.” 2 Ông
Ê-li-a đi tới gặp vua A-kháp.
3
Bấy
giờ, vua A-kháp kêu ông Ô-vát-gia-hu, quản đốc hoàng cung vào. Ông Ô-vát-gia-hu
là người rất kính sợ Ðức Chúa; 4 vì khi bà I-de-ven giết hại các
ngôn sứ của Ðức Chúa, ông Ô-vát-gia-hu đã đem một trăm ngôn sứ giấu từng năm
mươi người một trong những cái hang rồi cung cấp bánh và nước cho họ. 5 Vậy,
vua A-kháp nói với ông Ô-vát-gia-hu: "Ngươi hãy đi khắp xứ, đến tất cả các
mạch nước và các suối, may ra chúng ta sẽ tìm được cỏ, hầu nuôi sống lừa ngựa,
bằng không, súc vật sẽ chết hết.” 6 Họ chia nhau đi rảo quanh khắp
xứ. Một mình vua A-kháp đi một đường, và một mình ông Ô-vát-gia hu đi một nẻo. 7
Ông Ô-vát-gia-hu đang đi, thì này ông Ê-li-a đón gặp ông. Khi nhận ra
Ê-li-a, ông liền phục xuống đất và nói: "Thưa ngài, ngài có phải là Ê-li-a
không?” 8 Ông này đáp: "Tôi đây! Ông hãy đi nói với chủ của ông
rằng: Ê-li-a đang ở đây!” 9 Ông Ô-vát-gia-hu thưa: "Tôi có tội
gì mà ngài tính nộp tôi tớ ngài vào tay vua A-kháp để vua ấy giết tôi? 10 Có
Ðức Chúa, Thiên Chúa hằng sống của ngài! Không có dân nào, nước nào mà chủ tôi
lại đã không sai người tới đó để lùng bắt ngài; khi người ta nói: "Không
có", thì vua bắt nước đó và dân đó phải thề rằng đã không tìm thấy ngài. 11
Thế mà bây giờ ngài lại bảo tôi: đi nói với chủ của ông: Ê-li-a đang ở
đây. 12 Rồi khi tôi bỏ ngài ra đi, thần khí của Ðức Chúa sẽ đưa ngài
đi đâu tôi chẳng biết, còn tôi thì phải đi báo cáo cho vua A-kháp, và khi không
gặp được ngài, thì vua sẽ giết tôi, mà tôi thì từ niên thiếu vẫn kính sợ Ðức
Chúa. 13 Ngài lại không được người ta cho biết việc tôi đã làm, khi
bà I-de-ven sát hại các ngôn sứ của Ðức Chúa sao? Tôi đã giấu một trăm người
trong số các ngôn sứ của Ðức Chúa, từng năm mươi người một, trong các hang, và
đã cung cấp bánh và nước cho họ. 14 Và bây giờ ngài bảo tôi: Hãy đi
nói với chủ ông: ông Ê-li-a đang ở đây, để vua ấy giết tôi.” 15 Nhưng
ông Ê-li-a nói: "Có Ðức Chúa hằng sống của các đạo binh, Ðấng tôi phục vụ!
Ngay hôm nay tôi sẽ ra mắt vua."
Ngôn
sứ Ê-li-a và vua A-kháp
16
Ông
Ô-vát-gia-hu đi gặp vua A-kháp và báo cho vua biết sự việc. Vua A-kháp đi đón
ông Ê-li-a. 17 Khi nhận ra ông Ê-li-a, vua A-kháp nói với ông rằng:
"Tên mang hoạ cho Ít-ra-en, nhà ngươi đấy phải không?” 18 Ông
đáp: "Tôi không mang hoạ cho Ít-ra-en, nhưng chính là ngài và nhà thân phụ
ngài, vì các người đã bỏ không giữ mệnh lệnh Ðức Chúa truyền, còn ngài thì đã
đi theo các thần Ba-an. 19 Bây giờ, ngài hãy cho triệu tập toàn dân
Ít-ra-en lại bên tôi ở núi Các-men, cùng với bốn trăm năm mươi ngôn sứ của thần
Ba-an và bốn trăm ngôn sứ của thần A-sê-ra, những người được hưởng lộc của bà
I-de-ven."
Hy
lễ trên núi Các-men
20
Vua
A-kháp sai người đi mời toàn thể con cái Ít-ra-en và triệu tập các ngôn sứ trên
núi Các-men. 21 Bấy giờ, ông Ê-li-a đến bên dân và nói: "Các
ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho tới bao giờ? Nếu Ðức Chúa là Thiên Chúa,
hãy theo Người; còn nếu là Ba-an thì cứ theo nó!" Nhưng dân chúng không
đáp lại lời nào. 22 Ông Ê-li-a lại nói với dân: "Chỉ sót lại
mình tôi là ngôn sứ của Ðức Chúa, còn ngôn sứ của Ba-an có những bốn trăm năm
mươi người. 23 Hãy cho chúng tôi hai con bò mộng; họ hãy chọn lấy
một con, chặt ra và đặt trên củi, nhưng đừng châm lửa; tôi cũng làm thịt con bò
kia, rồi đặt trên củi, nhưng sẽ không châm lửa. 24 Ðoạn các ngươi
hãy kêu cầu danh thần của các ngươi; còn tôi, tôi kêu cầu danh Ðức Chúa. Vị
thần nào đáp lại bằng lửa thì vị đó chính là Thiên Chúa. Toàn dân trả lời và
nói: "Ðề nghị hay đó!” 25 Bấy giờ, ông Ê-li-a nói với các ngôn
sứ Ba-an: "Các người chọn lấy một con bò và làm trước đi, vì các người
đông hơn. Rồi hãy kêu cầu danh thần của các người nhưng đừng châm lửa.” 26
Vậy, họ lấy con bò người ta đưa cho họ, làm thịt, rồi kêu cầu danh thần
Ba-an từ sáng tới trưa: "Lạy thần Ba-an, xin đáp lời chúng tôi!"
Nhưng không một tiếng nói, không một ai trả lời, và họ nhảy khập khiễng bên
cạnh bàn thờ họ đã dựng. 27 Ðến trưa, ông Ê-li-a chế nhạo họ rằng:
"Kêu lớn tiếng lên, vì người là một vị thần mà! Người đang mải suy nghĩ,
hay là đi vắng hoặc trẩy đường xa; có khi người đang ngủ, thì sẽ thức dậy thôi!”
28 Họ càng kêu lớn tiếng hơn và theo thói tục của họ, họ dùng gươm,
giáo rạch mình đến chảy máu. 29 Quá trưa rồi mà họ vẫn tiếp tục nói
liên miên cho tới giờ dâng lễ; nhưng vẫn không một tiếng nói, không ai trả lời,
không người để ý.
30
Bấy
giờ ông Ê-li-a nói với toàn dân: "Các người hãy lại đây." Toàn dân
tiến lại gần ông. Ông dọn lại bàn thờ Ðức Chúa đã bị phá huỷ. 31 Ông
Ê-li-a lấy mười hai phiến đá, theo số các chi tộc con cháu ông Gia-cóp, người
đã được Ðức Chúa phán bảo rằng: "Tên ngươi sẽ là Ít-ra-en.” 32 Ông
dùng các phiến đá ấy xây lại một bàn thờ kính Ðức Chúa. Ông đào một đường mương
chung quanh bàn thờ rộng cỡ hai thúng hạt giống. 33 Ông xếp củi lên,
rồi làm thịt con bò mộng và đặt trên đống củi. 34 Ông nói: "Hãy
đổ nước đầy bốn lu và tưới lên lễ vật và củi." Họ làm như vậy. Ông nói:
"Lần thứ hai nữa", họ làm lần thứ hai. Ông lại nói: "Lần thứ
ba!" và họ làm lần thứ ba. 35 Nước chảy tràn quanh bàn thờ,
khiến đường mương cũng đầy nước. 36 Ðến giờ dâng lễ, ngôn sứ Ê-li-a
tiến ra và nói: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và
Ít-ra-en! Ước chi hôm nay người ta biết rằng trong Ít-ra-en Ngài là Thiên Chúa
và con là tôi tớ Ngài. Cũng vì lời Ngài phán mà con đã làm tất cả các việc này.
37 Xin đáp lời con, lạy Ðức Chúa, xin đáp lời con, để dân này nhận
biết Ngài là Ðức Chúa, Thiên Chúa thật, và Ngài đã khiến họ thay lòng đổi dạ.” 38
Bấy giờ lửa của Ðức Chúa ập xuống, thiêu rụi của lễ, củi, đá và bụi, cả
nước trong mương cũng hút cạn luôn. 39 Toàn dân thấy vậy, liền phủ
phục sát đất và nói: "Ðức Chúa quả là Thiên Chúa! Ðức Chúa quả là Thiên
Chúa!” 40 Ông Ê-li-a nói với họ: "Bắt lấy các ngôn sứ Ba-an,
đừng để tên nào thoát." Họ bắt lấy chúng và ông Ê-li-a đem giết chúng tại
suối Ki-sôn.
Thời
đại hạn chấm dứt
41
Ông
Ê-li-a nói với vua A-kháp: "Xin mời vua lên mà ăn uống, bởi vì có tiếng
mưa rào!” 42 Vua A-kháp liền lên ăn uống; còn ông Ê-li-a thì lên
đỉnh Các-men, ông cúi xuống đất, gục mặt vào hai đầu gối. 43 Ðoạn
ông bảo đứa tiểu đồng của ông: "Con đi lên và nhìn về phía biển." Nó
đi lên, nhìn và nói: "Không có gì cả!" Ông bảo: "Hãy trở lại bảy
lần.” 44 Lần thứ bảy, nó nói: "Kìa có một đám mây nhỏ bằng bàn
tay người đang từ biển bốc lên." Ông nói: "Con hãy lên thưa với vua
A-kháp: xin vua thắng xe và xuống kẻo bị kẹt mưa.” 45 Lập tức trời
kéo mây đen nghịt và nổi gió, rồi trút mưa lớn. Vua A-kháp cỡi xe đi Gít-rơ-en.
46 Tay Ðức Chúa đặt trên ông Ê-li-a; ông thắt lưng và chạy trước vua
A-kháp cho tới lúc vào Gít-rơ-en.
Chương 19
2.
Ngôn Sứ Ê-Li-A Tại Khô-Rếp
Trên
đường lên núi Khô-rếp
1
Vua
A-kháp kể cho I-de-ven nghe mọi chuyện ông Ê-li-a đã làm và tất cả sự việc ông
dùng gươm hạ sát hết các ngôn sứ. 2 Bà I-de-ven liền sai sứ giả đến
nói với ông Ê-li-a rằng: "Xin các thần minh làm cho ta thế này, và còn hơn
thế nữa, nếu giờ này sáng mai ta không biến mạng ngươi ra như mạng một trong
các người ấy.” 3 Thấy vậy, ông Ê-li-a trỗi dậy, ra đi để thoát mạng.
Khi tới Bơ-e Se-va thuộc Giu-đa, ông để đứa tiểu đồng lại đấy, 4 còn
ông thì đi một ngày đường trong sa mạc. Ông đến ngồi dưới gốc một cây kim tước.
Ông xin cho được chết và nói: "Lạy Ðức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy
mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con.” 5 Rồi ông
nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi. Nhưng này có một thiên sứ đụng vào người
ông và nói: "Dậy mà ăn!” 6 Ông đưa mắt nhìn thì thấy ở phía đầu
ông có một chiếc bánh nướng trên những hòn đá nung và một hũ nước. Ông ăn bánh,
uống nước, rồi lại nằm xuống. 7 Thiên sứ của Ðức Chúa trở lại lần
nữa, đụng vào người ông và nói: "Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa.”
8 Ông dậy, ăn bánh và uống nước. Rồi nhờ lương thực ấy bổ dưỡng, ông
đi suốt bốn mươi ngày, bốn mươi đêm tới Khô-rếp, là núi của Thiên Chúa.
Cuộc
gặp gỡ Thiên Chúa
9
Ông
vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Có lời Ðức Chúa phán với ông: "Ê-li-a
ngươi làm gì ở đây?” 10 Ông thưa: "Lòng nhiệt thành đối với Ðức
Chúa, Thiên Chúa các đạo binh nung nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước
với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ còn sót
lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng sống con.” 11 Người
nói với ông: "Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Ðức Chúa. Kìa Ðức
Chúa đang đi qua." Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan
Ðức Chúa, nhưng Ðức Chúa không ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất, nhưng
Ðức Chúa không ở trong trận động đất. 12 Sau động đất là lửa, nhưng
Ðức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. 13 Vừa
nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang.
Bấy giờ có tiếng hỏi ông: "Ê-li-a, ngươi làm gì ở đây?” 14 Ông
thưa: "Lòng nhiệt thành đối với Ðức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, nung
nấu con, vì con cái Ít-ra-en đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng
gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt
để lấy mạng con."
15
Ðức
Chúa phán với ông: "Ngươi hãy đi con đường ngươi đã đi trước qua sa mạc
cho tới Ða-mát mà về. Tới nơi, ngươi sẽ xức dầu phong Kha-da-ên làm vua A-ram; 16
còn Giê-hu con của Nim-si, ngươi sẽ xức dầu tấn phong nó làm vua
Ít-ra-en. Ê-li-sa con Sa-phát, người A-vên Mơ-khô-la, ngươi sẽ xức dầu tấn
phong nó làm ngôn sứ thay cho ngươi. 17 Kẻ thoát gươm của Kha-da-ên
sẽ bị Giê-hu giết; người thoát tay Giê-hu sẽ bị Ê-li-sa giết. 18 Nhưng
Ta, Ta sẽ dành ra cho Ta bảy nghìn người trong Ít-ra-en: tất cả những kẻ đã
không hề bái gối trước Ba-an, những môi miệng không hề hôn kính nó."
Ê-li-sa
được gọi
19
Ông
Ê-li-a bỏ đó ra đi và gặp ông Ê-li-sa là con ông Sa-phát đang cày ruộng; trước
mặt ông Ê-li-sa có mười hai cặp bò; chính ông thì đi theo cặp thứ mười hai. Ông
Ê-li-a đi ngang qua, ném tấm áo choàng của mình lên người ông Ê-li-sa. 20 Ông
này liền để bò lại, chạy theo ông Ê-li-a và nói: "Xin cho con về hôn cha
mẹ để từ giã, rồi con sẽ đi theo ông." Ông Ê-li-a trả lời: "Cứ về đi!
Thầy có làm gì anh đâu?” 21 Ông Ê-li-sa bỏ ông Ê-li-a mà về, bắt cặp
bò giết làm lễ tế, lấy cày làm củi nấu thịt đãi người nhà. Rồi ông đứng dậy, đi
theo ông Ê-li-a và phục vụ ông.
Chương 20
3.
Các Cuộc Chiến Với Người A-Ram
Vây
hãm Sa-ma-ri
1
Ben
Ha-đát, vua A-ram tập họp tất cả quân đội lại. Cùng với ba mươi hai vua, có cả
xe lẫn ngựa, vua tiến lên vây hãm Sa-ma-ri và tấn công thành ấy. 2 Vua
sai sứ giả vào thành yết kiến A-kháp, vua Ít-ra-en, 3 và nói với vua
này rằng: "Ben Ha-đát nói thế này: bạc, vàng của ông thuộc về ta; các
người vợ đẹp con khôn của ông cũng thuộc về ta.” 4 Vua Ít-ra-en trả
lời và nói: "Xin tuân lời ngài, thưa đức vua, chúa thượng tôi! Bản thân
tôi và mọi sự tôi có đều thuộc về ngài."
5
Các
sứ giả trở lại và nói: "Vua Ben Ha-đát bảo thế này: Ta đã sai sứ nói với
ông rằng: "Bạc vàng của ông, phải nộp cho ta; các vợ con của ông, cũng
phải nộp cho ta". 6 Ngày mai giờ này thế nào ta cũng sai tôi tớ
ta đến với ông; chúng sẽ lục soát nhà ông và nhà tôi tớ ông. Những gì chúng cho
là quý, chúng sẽ lấy hết và đem đi."
7
Bấy
giờ vua Ít-ra-en triệu tập tất cả kỳ mục trong xứ lại và nói: "Các ông
phải biết và thấy rõ là vua ấy đang tìm cách hại chúng ta, vì ông đã sai người
đến đòi ta phải nộp vợ con, bạc vàng của ta, dù ta đã chẳng từ chối.” 8 Tất
cả kỳ mục và toàn dân thưa với vua: "Xin ngài đừng nghe, cũng đừng chấp
thuận!” 9 Vua trả lời các sứ giả của vua Ben Ha-đát rằng: "Xin
các ông về thưa với đức vua, chúa thượng tôi: tất cả những gì ngài đã sai sứ
nói với tôi tớ ngài đây lần đầu, thì tôi sẽ làm; còn chuyện này thì tôi không
thể làm được." Các sứ giả ra về mang theo lời phúc đáp.
10
Bấy
giờ vua Ben Ha-đát sai sứ đến nói với vua: "Xin các thần minh làm cho ta
thế này và còn hơn thế nữa, nếu ở Sa-ma-ri có đủ bụi cho tất cả đám dân theo ta
mỗi người một nắm!” 11 Nhưng vua Ít-ra-en đáp lại rằng: "Hãy
bảo kẻ đang thắt lưng, chớ tự hào như kẻ đã cởi thắt lưng ra!” 12 Khi
vua Ben Ha-đát nghe biết việc này -bấy giờ vua đang uống rượu với các vua trong
lều- thì ra lệnh cho bầy tôi của vua: "Chuẩn bị!" Và họ chuẩn bị tấn
công thành.
Chiến
thắng của Ít-ra-en
13
Nhưng
này, có một ngôn sứ đến gặp A-kháp, vua Ít-ra-en, và thưa với vua: "Ðức Chúa
phán thế này: Ngươi có thấy đám dân đông đảo kia không? Này, hôm nay Ta trao
chúng vào tay ngươi, để ngươi biết Ta là Ðức Chúa.” 14 Vua A-kháp
nói: "Nhờ ai?" Ngôn sứ đáp: "Ðức Chúa phán thế này: Nhờ trai
tráng dưới quyền các vị chỉ huy khu vực." Vua lại hỏi: "Ai sẽ khai
chiến?" Ngôn sứ trả lời: "Chính ngài!"
15
Vua
A-kháp duyệt lại trai tráng dưới quyền các vị chỉ huy khu vực, tính được hai
trăm ba mươi hai người. Ngoài số người này, vua cũng duyệt lại toàn quân, tất
cả con cái Ít-ra-en, tính được bảy ngàn. 16 Họ xuất quân vào buổi
trưa lúc Ben Ha-đát đang say sưa trong lều với ba mươi hai vua đồng minh của
mình. 17 Các trai tráng dưới quyền các vị chỉ huy khu vực xuất quân
trước. Vua Ben Ha-đát sai người đi xem xét, và họ báo cáo với vua rằng:
"Có những người đi ra từ thành Sa-ma-ri.” 18 Vua nói: "Nếu
chúng đi ra để cầu hoà, thì hãy bắt sống chúng: còn nếu chúng đi ra để khiêu
chiến, thì cũng bắt sống luôn!” 19 Vậy các trai tráng dưới quyền các
vị chỉ huy khu vực cùng với đoàn quân theo sau tiến ra ngoài thành. 20 Họ
đánh nhau. Quân A-ram tháo chạy, bị quân Ít-ra-en đuổi theo; Ben Ha-đát, vua
A-ram cỡi ngựa chạy thoát thân cùng với mấy kỵ binh. 21 Vua Ít-ra-en
cũng ra và đánh giết ngựa xe, gây tổn thất nặng nề cho A-ram.
Thời
gian sau đó
22
Vị
ngôn sứ đến gặp vua Ít-ra-en và thưa với vua: "Mời vua đi! Xin vua can đảm
lên! Xin cân nhắc và xem xét điều ngài phải thực hiện, vì mùa xuân tới vua
A-ram sẽ tấn công ngài."
23
Các
bầy tôi của vua A-ram thưa với vua rằng: "Thần của chúng là thần đồi núi,
vì thế chúng mạnh hơn chúng ta. Nhưng nếu chúng ta đánh nhau với chúng dưới
đồng bằng, thì chắc chắn chúng ta sẽ thắng. 24 Vậy, xin ngài làm thế
này là truất phế các vua và đặt các quan đầu tỉnh thay vào. 25 Còn
ngài, thì xin lập một đạo quân như đạo quân đã bỏ ngài trước đây, với số ngựa
và xe cũng như thế. Chúng ta sẽ giao tranh với chúng nơi đồng bằng, chắc chắn
chúng ta sẽ thắng." Vua nghe và làm như lời họ nói.
Chiến
thắng tại A-phếch
26
Khi
mùa xuân tới, vua Ben Ha-đát kiểm tra người A-ram và tiến lên A-phếch giao
chiến với Ít-ra-en. 27 Con cái Ít-ra-en cũng được kiểm tra và được
tiếp tế lương thực; họ đã lên đường nghênh chiến. Con cái Ít-ra-en như hai bầy
dê cái đóng trại đối diện với chúng, trong khi người A-ram tràn ngập khắp xứ.
28
Bấy
giờ người của Thiên Chúa đến gặp vua Ít-ra-en và nói: "Ðức Chúa phán thế
này: vì người A-ram nói Ðức Chúa là thần núi, chứ không phải thần thung lũng
nên Ta sẽ trao tất cả đám quân đông đảo ấy vào tay ngươi, để các ngươi biết Ta
là Ðức Chúa.” 29 Hai bên đóng trại đối diện nhau trong bảy ngày.
Ngày thứ bảy giao tranh bùng nổ; con cái Ít-ra-en giết được một trăm ngàn bộ
binh của A-ram trong một ngày. 30 Những kẻ sống sót chạy trốn về
A-phếch vào nội thành; nhưng tường thành đổ xuống đè lên hai mươi bảy ngàn
người còn sót lại.
Vua
Ben Ha-đát cũng trốn vào thành, ẩn núp hết chỗ này đến chỗ khác. 31 Bề
tôi của vua nói với vua: "Này, chúng tôi nghe nói các vua nhà Ít-ra-en là
những vua nhân từ; chúng ta hãy lấy vải bố thắt lưng và cột dây lên đầu rồi ra
trình diện vua Ít-ra-en. Có khi vua ấy sẽ để cho ngài an toàn tính mệnh.” 32
Vậy họ lấy vải bố thắt lưng và cột dây lên đầu, rồi ra trình diện vua
Ít-ra-en và nói: "Tôi tớ ngài là Ben Ha-đát nói: Xin để tôi sống!"
Vua đáp: "Thế ra ông ấy còn sống ư? Ông là anh em ta đó.” 33 Những
người kia cảm thấy có điềm tốt, liền vội vàng dựa vào lời ấy mà nói: "Vua
Ben Ha-đát là anh em của ngài!" Vua nói: "Các ngươi đi tìm ông ấy cho
ta." Vua Ben Ha-đát ra gặp vua A-kháp. Vua A-kháp mời vua Ben Ha-đát lên
xe của mình. 34 Vua Ben Ha-đát nói: "Các thành thân phụ tôi đã
lấy của thân phụ ngài, tôi xin hoàn lại; xin ngài cứ dựng lên những dãy phố tại
Ða-mát, như thân phụ tôi đã làm ở Sa-ma-ri." Vua A-kháp nói: "Còn
tôi, dựa vào giao ước, tôi sẽ để cho ngài đi." Vậy vua A-kháp lập một giao
ước với ông và để cho ông đi.
Một
ngôn sứ lên án cách cư xử của vua A-kháp
35
Theo
lệnh Ðức Chúa, một người trong nhóm các ngôn sứ nói với bạn mình: "Ðánh
tôi đi." Nhưng người kia không chịu đánh. 36 Ông này nói:
"Vì anh không vâng nghe tiếng Ðức Chúa, thì này khi anh bỏ tôi mà đi, một
con sư tử sẽ vồ chết anh." Khi người ấy bỏ bạn mà đi, thì gặp một con sư
tử và bị nó vồ chết. 37 Vị ngôn sứ gặp một người khác, liền nói:
"Ðánh tôi đi!" Người ấy đánh ông, làm ông bị thương. 38 Vị
ngôn sứ ra đường chờ vua - ông cột tấm băng bên trên mắt để khỏi bị nhận diện -.
39 Khi vua đi qua, ông kêu lên: "Tôi tớ của ngài ra trận thì
bỗng có kẻ bỏ hàng ngũ dẫn đến cho tôi một người, và bảo: "Hãy canh giữ
người này! Nếu mất nó, thì mạng anh sẽ đền mạng nó, hoặc anh sẽ phải trả ba
mươi ký bạc. 40 Thế nhưng, khi tôi tớ ngài đang bận chuyện này
chuyện khác, thì nó biến mất." Vua Ít-ra-en liền nói với người ấy:
"Ngươi đã phán quyết rồi đó! Chính ngươi đã tuyên án!” 41 Người
ấy vội vàng gỡ tấm băng trên mắt, và vua Ít-ra-en nhận ra đó là một trong các
ngôn sứ. 42 Người ấy nói với vua: "Ðức Chúa phán thế này: Vì
ngươi đã để cho kẻ bị Ta lên án biệt tru, thoát khỏi tay ngươi, thì mạng ngươi
sẽ đền mạng nó, dân ngươi sẽ thay cho dân nó.” 43 Vua Ít-ra-en buồn
rầu và bực bội trở về nhà. Vua vào Sa-ma-ri.
Chương 21
4.
Vườn Nho Của Ông Na-Vốt
Ông
Na-vốt từ chối, không chịu nhượng vườn nho của mình
1
Sau
những sự việc đó, thì xảy ra chuyện ông Na-vốt người Gít-rơ-en có một vườn nho
bên cạnh cung điện vua A-kháp, vua Sa-ma-ri. 2 Vua A-kháp nói với
ông Na-vốt rằng: "Hãy nhượng vườn nho của ngươi cho ta, để ta làm vườn
rau, vì nó ở ngay sát cạnh nhà ta. Ðể bù lại, ta sẽ cho ngươi một vườn nho tốt
hơn, hay là, nếu ngươi muốn, giá bao nhiêu, ta sẽ trả bằng bạc.” 3 Nhưng
ông Na-vốt thưa với vua A-kháp: "Xin Ðức Chúa đừng để tôi nhượng gia sản
của tổ tiên tôi cho ngài!"
Vua
A-kháp và hoàng hậu I-de-ven
4
Vua
A-kháp trở về nhà buồn rầu và bực bội vì lời ông Na-vốt, người Gít-rơ-en đã nói
với vua: "Tôi sẽ không nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho vua." Vua
nằm trên giường, quay mặt đi, và không chịu ăn uống gì. 5 Hoàng hậu
I-de-ven đi vào, nói với vua: "Tại sao tâm thần vua buồn rầu, và vua không
chịu ăn uống gì như vậy?” 6 Vua trả lời: "Tôi đã nói chuyện với
Na-vốt người Gít-rơ-en và bảo nó: Hãy nhượng vườn nho của ngươi cho ta mà lấy
tiền, hoặc, nếu ngươi muốn, ta sẽ đổi cho một vườn nho khác. Nhưng nó lại nói:
"Tôi không nhượng vườn nho của tôi cho vua được.” 7 Bấy giờ
hoàng hậu I-de-ven nói với vua: "Vua cai trị Ít-ra-en hay thật! Mời vua
dậy mà ăn cho lòng phấn khởi lên! Thiếp sẽ tặng vua vườn nho của Na-vốt người
Gít-rơ-en.
Ông
Na-vốt bị giết
8
Bấy
giờ, bà nhân danh vua A-kháp viết thơ, rồi dùng con dấu của vua mà đóng ấn, và
gửi cho các kỳ mục và thân hào cư ngụ trong thành với ông Na-vốt. 9 Trong
thơ bà viết rằng: "Hãy công bố một thời kỳ chay tịnh và đặt Na-vốt ngồi ở
hàng đầu dân chúng. 10 Hãy đặt hai đứa vô lại ngồi đối diện với nó,
để chúng tố cáo nó: "Ông đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua. Và hãy đem
nó ra ngoài ném đá cho chết."
11
Dân
chúng, kỳ mục và thân hào cư ngụ trong thành làm theo lệnh bà I-de-ven như
trong thơ bà đã viết gửi cho họ. 12 Họ công bố thời kỳ chay tịnh và
đặt ông Na-vốt ngồi ở hàng đầu dân chúng. 13 Rồi có hai kẻ vô lại đi
vào, ngồi đối diện với ông. Những kẻ vô lại ấy tố cáo ông Na-vốt trước mặt dân
rằng: "Na-vốt đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua." Họ liền đưa ông
ra ngoài thành và ném đá ông. Ông đã chết. 14 Họ sai người đi nói
với bà I-de-ven: "Na-vốt đã bị ném đá chết.” 15 Khi bà I-de-ven
nghe biết ông Na-vốt đã bị ném đá chết, thì nói với vua A-kháp: "Xin vua
đứng dậy và chiếm đoạt vườn nho của Na-vốt, người Gít-rơ-en, kẻ đã từ chối
không chịu nhượng cho ngài để lấy tiền, vì Na-vốt không còn sống nữa, nó chết
rồi.” 16 Khi nghe biết ông Na-vốt đã chết, vua A-kháp đứng dậy,
xuống chiếm đoạt vườn nho của ông Na-vốt, người Gít-rơ-en.
Ngôn
sứ Ê-li-a tuyên cáo án lệnh của Thiên Chúa
17
Có
lời Ðức Chúa phán với ông Ê-li-a, người Tít-be, rằng: 18 "Ngươi
hãy đứng dậy, xuống gặp A-kháp, vua Ít-ra-en, ở Sa-ma-ri. Này, nó đang ở trong
vườn nho của Na-vốt, vì nó đã xuống chiếm đoạt vườn nho ấy. 19 Ngươi
hãy nói với nó rằng: "Ðức Chúa phán thế này: Ngươi đã giết hại, lại còn
chiếm đoạt nữa ư? - ngươi hãy nói với nó -, Ðức Chúa phán thế này: Tại chính
nơi chó đã liếm máu Na-vốt, thì chó cũng sẽ liếm máu ngươi".” 20 Vua
A-kháp nói với ông Ê-li-a: "Hỡi kẻ thù của ta, ngươi đã bắt được ta."
Ông đáp: "Tôi đã bắt được ngài làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa. 21 Này,
Ta sẽ giáng tai hoạ xuống trên ngươi: Ta sẽ xoá sạch hậu duệ ngươi, Ta sẽ tiêu
diệt các đàn ông con trai của A-kháp trong Ít-ra-en, đang bị ràng buộc hay được
tự do. 22 Ta sẽ làm cho nhà ngươi nên như nhà Gia-róp-am, con của
Nơ-vát, và như nhà Ba-sa con của A-khi-gia, vì ngươi đã chọc giận Ta và đã làm
cho Ít-ra-en phạm tội.” 23 Ðức Chúa cũng tuyên án phạt I-de-ven
rằng: "Chó sẽ ăn thịt I-de-ven trong cánh đồng Gít-rơ-en. 24 Kẻ
nào thuộc về A-kháp mà chết trong thành thì sẽ bị chó ăn thịt, người chết ngoài
đồng sẽ bị chim trời rỉa thây."
25
Thật,
không hề có ai như vua A-kháp, đã liều lĩnh làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, vì
bị hoàng hậu I-de-ven xúi giục. 26 Vua sẽ làm chuyện rất ghê tởm là
đi theo các tượng thần, như dân E-mô-ri, những kẻ Ðức Chúa đã đuổi khuất mắt
con cái Ít-ra-en.
Vua
A-kháp hối hận
27
Khi
nghe những lời ấy, vua A-kháp xé áo mình ra, khoác áo vải bố bám sát vào thịt,
ăn chay, nằm ngủ với bao bì và bước đi thiểu não. 28 Bấy giờ có lời
Ðức Chúa phán với ông Ê-li-a, người Tít-be, rằng: 29 "Ngươi có
thấy A-kháp đã hạ mình trước mặt Ta thế nào không? Vì nó đã hạ mình trước mặt
Ta, nên Ta sẽ không giáng hoạ trong buổi sinh thời của nó, nhưng đến đời con
nó, Ta sẽ giáng hoạ xuống nhà nó."
Chương 22
5.
Lại Giao Tranh Với Người A-Ram
Vua
A-kháp quyết định tấn công Ra-mốt Ga-la-át (2 Sb 18:1-3)
1
Suốt
ba năm, không có giao tranh giữa A-ram và Ít-ra-en. 2 Năm thứ ba,
Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, xuống thăm vua Ít-ra-en. 3 Vua Ít-ra-en
nói với bề tôi mình rằng: "Các ngươi biết: Ra-mốt Ga-la-át là của chúng
ta, thế mà chúng ta cứ để yên không lấy lại khỏi tay vua A-ram.” 4 Rồi
vua nói với vua Giơ-hô-sa-phát: "Ngài có đi tấn công Ra-mốt Ga-la-át với
tôi không?" Vua Giơ-hô-sa-phát nói với vua Ít-ra-en: "Tôi cũng làm
như ngài, dân tôi cũng như dân ngài, ngựa của tôi cũng như ngựa của ngài."
Các
ngôn sứ tiên báo thành công (2 Sb 18:4-11)
5
Nhưng
vua Giơ-hô-sa-phát nói với vua Ít-ra-en: "Hôm nay, xin ngài thỉnh vấn sấm
ngôn của Ðức Chúa.” 6 Vua Ít-ra-en tập họp các ngôn sứ, khoảng bốn
trăm người, và nói với họ: "Ta có phải đi đánh Ra-mốt Ga-la-át không hay
là phải ngưng lại?" Họ thưa: "Xin vua cứ lên, Chúa sẽ trao thành ấy
vào tay vua.” 7 Nhưng vua Giơ-hô-sa-phát nói: "Ở đây không có
ngôn sứ nào khác của Ðức Chúa nữa, để chúng ta nhờ ông thỉnh vấn cho hay sao?” 8
Vua Ít-ra-en trả lời vua Giơ-hô-sa-phát: "Còn một người nữa chúng ta
có thể nhờ thỉnh vấn Ðức Chúa được, nhưng tôi ghét ông ta, vì ông ta không hề
tiên báo cho tôi điều lành, mà chỉ toàn điều dữ. Ðó là Mi-kha-giơ-hu, con của
Gim-la." Vua Giơ-hô-sa-phát nói: "Ðức vua đừng nói như vậy.” 9 Vua
Ít-ra-en gọi một hoạn quan tới và bảo: "Mau đưa Mi-kha-giơ-hu, con của
Gim-la, đến đây."
10
Vua
Ít-ra-en và Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, lúc ấy mỗi vua đang ngồi trên ngai,
mình mặc cẩm bào, ở sân lúa tại cổng thành Sa-ma-ri; và tất cả các ngôn sứ đều
đang nói liên miên trước mặt các vua. 11 Ông Xít-ki-gia, con ông Cơ-na-a-na,
đã làm một cặp sừng bằng sắt và nói: "Ðức Chúa phán như sau: Với những
chiếc sừng này, ngươi sẽ húc A-ram cho đến khi tiêu diệt chúng.” 12 Và
tất cả các ngôn sứ đều nói tiên tri như thế mà rằng: "Xin vua cứ đi lên
Ra-mốt Ga-la-át là sẽ gặp may. Ðức Chúa sẽ trao thành ấy vào tay vua."
Ngôn
sứ Mi-kha-giơ-hu báo trước cuộc thất trận (2 Sb 18:12 -27)
13
Người
được sai đi mời ông Mi-kha-giơ-hu nói với ông rằng: "Này, lời các ngôn sứ
đều đồng thanh báo cho vua điều may; mong sao lời của ông cũng giống như lời
của họ. Xin ông cũng báo điều may.” 14 Ông Mi-kha-giơ-hu nói:
"Có Ðức Chúa hằng sống! Ðức Chúa phán sao, tôi sẽ nói vậy.” 15 Rồi
ông vào gặp vua, vua nói với ông: "Này, Mi-kha-giơ-hu, chúng ta có nên đi
đánh Ra-mốt Ga-la-át không, hay là ngưng lại?" Ông thưa với vua: "Xin
vua cứ lên, vua sẽ gặp may. Ðức Chúa sẽ trao thành ấy vào tay vua.” 16 Vua
liền nói với ông: "Ðã bao lần, ta thề buộc ngươi là, nhân danh Ðức Chúa,
ngươi chỉ được nói thật với ta?” 17 Ông Mi-kha-giơ-hu mới nói:
"Tôi
đã thấy toàn thể Ít-ra-en tán loạn trên núi
như
chiên không người chăn
Ðức
Chúa phán: chúng không còn chủ nữa.
Ai
nấy hãy về nhà bình an!"
18
Vua
Ít-ra-en nói với vua Giơ-hô-sa-phát: "Tôi đã chẳng nói với ngài rằng: ông
ta không hề tiên báo cho tôi điều may, mà chỉ toàn điều rủi đó sao?” 19 Ông
Mi-kha-giơ-hu lại nói: "Vì thế, hãy nghe lời Ðức Chúa: tôi đã thấy Ðức
Chúa ngự trên ngai, và toàn thể đạo thiên binh đứng chầu Người ở hai bên tả hữu.
20 Và Ðức Chúa phán: "Ai sẽ dụ A-kháp tiến lên, cho nó gục ngã
tại Ra-mốt Ga-la-át? Và kẻ nói thế này, người nói thế kia. 21 Bấy
giờ thần khí xuất hiện, đứng trước Ðức Chúa và nói: "Tôi sẽ dụ y. Ðức Chúa
hỏi thần khí: "Bằng cách nào? 22 Thần khí đáp: "Tôi sẽ xuất hiện làm
thần khí dối trá trên môi miệng tất cả các ngôn sứ của vua ấy. Ðức Chúa liền
phán: "Ngươi sẽ lừa dối được nó và ngươi sẽ thành công. Cứ đi và làm như
thế. 23 Này Ðức Chúa đã đặt thần khí dối trá trên môi miệng tất cả
những ngôn sứ này của vua, vì Ðức Chúa đã phán quyết điều dữ hại vua."
24
Bấy
giờ Xít-ki-gia-hu, con ông Cơ-na-a-na, đến gần vả vào mặt ông Mi-kha-giơ-hu và
nói: "Thần khí của Ðức Chúa từ nơi ta đã qua ngả nào mà nói với mi?” 25
Ông Mi-kha-giơ-hu nói: "Rồi ngươi sẽ thấy vào ngày ngươi phải chui
rúc hết phòng này sang phòng khác, để lẩn trốn.” 26 Vua Ít-ra-en
liền nói: "Bắt lấy Mi-kha-giơ-hu và dẫn nó tới thị trưởng A-môn, và tới
hoàng tử Giô-át. 27 Ngươi sẽ nói thế này: Ðức vua nói như sau: Giam
tên này vào nhà tù và cho nó ăn uống ít thôi, cho tới khi ta về bình an.” 28
Ông Mi-kha-giơ-hu liền nói: "Nếu vua trở về bình an, thì Ðức Chúa đã
không dùng tôi mà phán." Ông nói tiếp: "Toàn thể các dân tộc, xin hãy
nghe cho!"
Vua
A-kháp tử trận tại Ra-mốt Ga-la-át (2 Sb 18:28 -34)
29
Vua
Ít-ra-en và Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, lên Ra-mốt Ga-la-át. 30 Vua
Ít-ra-en nói với vua Giơ-hô-sa-phát: "Tôi sẽ cải trang và ra trận; còn
ngài, thì xin cứ mặc áo của ngài." Vua Ít-ra-en cải trang và ra trận. 31
Vua A-ram đã ra lệnh cho ba mươi hai người chỉ huy chiến xa của vua rằng:
"Các ngươi không đánh ai, dù nhỏ hay lớn, chỉ đánh một mình vua Ít-ra-en
thôi.” 32 Khi các người chỉ huy chiến xa nhìn thấy vua
Giơ-hô-sa-phát thì nói: "Ðúng là vua Ít-ra-en đây rồi," và dồn lực
lượng tấn công vua, nhưng vua Giơ-hô-sa-phát thét lên. 33 Khi thấy
rằng đó không phải là vua Ít-ra-en thì các người chỉ huy chiến xa không đuổi
theo nữa.
34
Một
người giương cung bắn đại, lại trúng ngay vua Ít-ra-en vào giữa khớp của áo
giáp. Vua liền bảo người đánh xe: "Quay xe lại, đưa ta ra khỏi chiến
trường, vì ta đã bị thương.” 35 Nhưng trận chiến hôm ấy trở nên ác
liệt, và người ta đã cho vua đứng trên xe, đối diện với quân A-ram, và đến
chiều thì vua chết; máu từ vết thương chảy cả vào lòng xe. 36 Lúc
mặt trời lặn, có tiếng kêu vang lên khắp trại rằng: "Ai nấy về thành mình,
ai nấy về xứ mình! 37 Vì vua đã chết!" Họ đưa vua về Sa-ma-ri và chôn cất
vua tại đó. 38 Người ta xối nước rửa xe, cạnh hồ nước ở Sa-ma-ri;
chó liếm máu vua và gái điếm tắm rửa trong hồ ấy, đúng như lời Ðức Chúa đã
phán.
6.
Sau Khi Vua A-Kháp Qua Ðời
Kết
thúc triều vua A-kháp
39
Các
truyện còn lại về vua A-kháp, các việc vua làm, điện ngà vua xây, các thành vua
kiến thiết đều đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 40
Vua A-kháp an nghỉ với tổ tiên. Con vua là A-khát-gia-hu lên ngôi kế vị.
Triều
đại vua Giơ-hô-sa-phát ở Giu-đa (876-848) (2 Sb 20:31-21:1)
41
Năm
thứ tư triều A-kháp, vua Ít-ra-en, Giơ-hô-sa-phát con vua A-xa lên làm vua
Giu-đa. 42 Giơ-hô-sa-phát lên ngôi vua khi được ba mươi lăm tuổi,
vua trị vì tại Giê-ru-sa-lem hai mươi lăm năm. Thân mẫu vua là bà A-du-va, ái
nữ ông Sin-khi. 43 Vua hoàn toàn theo đường lối phụ vương A-xa đã
đi, không sai trệch, tức là làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa. 44 Thế
nhưng, các nơi cao không biến đi hết, dân chúng vẫn tiếp tục tế lễ và dâng
hương tại các nơi đó. 45 Vua Giơ-hô-sa-phát giao hảo với vua
Ít-ra-en.
46
Các
truyện còn lại về vua Giơ-hô-sa-phát, các chiến công của vua, các cuộc chiến
vua đã thực hiện, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa
đó sao? 47 Vua còn quét sạch khỏi xứ bọn trai điếm phục vụ đền thần còn sót lại
từ thời phụ vương A-xa. 48 Bấy giờ ở Ê-đôm không có vua; nhưng có
một vị thủ lãnh nhiếp chính. 49 Vua Giơ-hô-sa-phát đóng một đoàn tàu
Tác-sít để đi Ô-phia tìm vàng, nhưng không đi được, vì tàu bị vỡ tại E-xi-ôn
Ghe-ve. 50 Bấy giờ vua A-khát-gia-hu, con vua A-kháp, nói với vua
Giơ-hô-sa-phát: "Xin để cho tôi tớ của tôi cùng đi tàu với tôi tớ của
ngài." Nhưng vua Giơ-hô-sa-phát không muốn. 51 Vua
Giơ-hô-sa-phát an nghỉ với tổ tiên, và được chôn cất với các ngài trong Thành
vua Ða-vít, tổ phụ vua. Con vua là Giơ-hô-ram lên ngôi kế vị.
A-khát-gia-hu
vua Ít-ra-en (853-852) và ngôn sứ Ê-li-a
52
Năm
thứ mười bảy triều vua Giơ-hô-sa-phát cai trị Giu-đa, A-khát-gia-hu con vua
A-kháp lên làm vua cai trị Ít-ra-en tại Sa-ma-ri; vua trị vì Ít-ra-en được hai
năm. 53 Vua làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, vì vua theo đường lối của
thân phụ và thân mẫu vua, đường lối của con ông Nơ-vát là Gia-róp-am, người đã
lôi kéo Ít-ra-en phạm tội. 54 Vua làm tôi Ba-an và phục lạy nó; vua
chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, y như thân phụ vua đã làm.
Các Vua 2
Chương 01
1
Sau
khi vua A-kháp qua đời, Mô-áp nổi loạn chống Ít-ra-en. 2 Vua
A-khát-gia ngã xuống từ lan can phòng trên của lầu vua ở Sa-ma-ri, nên bị đau
ốm. Vua sai sứ giả đi và bảo họ: "Các ngươi hãy đi thỉnh ý Ba-an Dơ-vúp,
thần của Éc-rôn, để xem ta có thể qua khỏi cơn bệnh này không?” 3 Nhưng
sứ giả của Ðức Chúa nói với ông Ê-li-a người Tít-be: "Hãy trỗi dậy, lên
gặp các sứ giả của vua Sa-ma-ri, và bảo họ: Ở Ít-ra-en không có Thiên Chúa hay
sao, mà các anh lại đi thỉnh ý Ba-an Dơ-vúp, thần của Éc-rôn? 4 Vì thế Ðức Chúa
phán thế này: Ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm, vì thế nào
ngươi cũng chết." Rồi ông Ê-li-a đi khỏi đó.
5
Các
sứ giả trở về với vua. Vua bảo họ: "Sao các ngươi lại trở về?” 6 Họ
đáp: "Một người đã lên gặp chúng tôi và nói với chúng tôi: Hãy đi về với
ông vua đã sai các anh đi và thưa với vua: Ðức Chúa phán thế này: Ở Ít-ra-en
không có Thiên Chúa hay sao, mà ngươi lại sai sứ giả đi thỉnh ý Ba-an Dơ-vúp,
thần của Éc-rôn? Vì thế, ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên nằm,
vì thế nào ngươi cũng chết.” 7 Vua hỏi họ: "Người đã lên gặp
các ngươi và nói với các ngươi những lời đó, ăn mặc thế nào?” 8 Họ
trả lời: "Ðó là một người mặc áo da lông, đóng khố da." Vua nói:
"Ðó là ông Ê-li-a người Tít-be!"
9
Vua
sai một sĩ quan chỉ huy năm mươi quân đem theo năm mươi quân của mình đến với
ông Ê-li-a. Viên sĩ quan này đi lên với ông Ê-li-a đang ngồi trên đỉnh núi.
Viên sĩ quan thưa ông Ê-li-a: "Hỡi người của Thiên Chúa, vua bảo: Xin mời
ông xuống!” 10 Ông Ê-li-a trả lời sĩ quan chỉ huy năm mươi quân:
"Nếu ta là người của Thiên Chúa, thì chớ gì một ngọn lửa từ trời xuống
thiêu đốt ngươi và năm mươi quân của ngươi!" Một ngọn lửa từ trời liền
xuống thiêu đốt viên sĩ quan và năm mươi quân của ông. 11 Vua lại
sai một sĩ quan khác chỉ huy năm mươi quân đem năm mươi quân của mình đến với
ông Ê-li-a. Viên sĩ quan đó lên tiếng nói: "Hỡi người của Thiên Chúa, vua
nói thế này: Xin ông xuống mau!” 12 Ông Ê-li-a trả lời họ: "Nếu
ta là người của Thiên Chúa, thì chớ gì một ngọn lửa từ trời xuống thiêu đốt
ngươi và năm mươi quân của ngươi!" Một ngọn lửa từ trời liền xuống thiêu
đốt viên sĩ quan và năm mươi người của ông. 13 Vua lại sai viên sĩ
quan thứ ba chỉ huy năm mươi quân đem theo năm mươi quân của mình. Viên sĩ quan
thứ ba đi lên, và khi đến nơi, thì quỳ gối trước mặt ông Ê-li-a và khẩn nài:
"Hỡi người của Thiên Chúa, ước gì mạng tôi và mạng của năm mươi tôi tớ
ngài đây được coi là quý trước mắt ngài! 14 Một ngọn lửa đã từ trời xuống thiêu
đốt hai sĩ quan trước, mỗi người cùng với năm mươi quân của họ. Nhưng bây giờ,
ước gì mạng tôi được coi là quý trước mắt ngài!” 15 Sứ giả của Ðức
Chúa nói với ông Ê-li-a: "Hãy xuống với người này, đừng sợ gì nó!"
Ông trỗi dậy, cùng với viên sĩ quan xuống gặp vua. 16 Ông Ê-li-a nói
với vua: "Ðức Chúa phán thế này: Vì ngươi đã sai sứ giả đi thỉnh ý Ba-an
Dơ-vúp, thần của Éc-rôn, - ở Ít-ra-en không có Thiên Chúa hay sao, mà lại đi
thỉnh lời sấm của nó? -, nên ngươi sẽ không xuống khỏi giường mà ngươi đã lên
nằm, vì thế nào ngươi cũng chết!"
17
Vua
đã chết, như lời của Ðức Chúa mà ông Ê-li-a đã truyền lại. Vì vua A-khát-gia
không có con, nên ông Giô-ram lên ngôi kế vị, vào năm thứ hai triều vua
Giô-ram, con ông Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa. 18 Các truyện còn lại
của vua A-khát-gia, những gì vua làm, đã chẳng được ghi trong sách Sử biên niên
các vua Ít-ra-en đó sao?
Chương 02
VI.
Truyện Ông Ê-Li-Sa
1.
Những Bước Ðầu
Ngôn
sứ Ê-li-a được đem đi. Ông Ê-li-sa thay thế.
1
Vào
thời Ðức Chúa đem ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc, ông Ê-li-a và ông
Ê-li-sa rời Ghin-gan. 2 Ông Ê-li-a nói với ông Ê-li-sa: "Xin
anh ở lại đây, vì Ðức Chúa sai thầy đến Bết Ên." Nhưng ông Ê-li-sa thưa:
"Có Ðức Chúa hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ
thầy!" Rồi các ông đi xuống Bết Ên. 3 Các anh em ngôn sứ ở Bết
Ên ra gặp ông Ê-li-sa và nói: "Ông có biết không, hôm nay Ðức Chúa sẽ đem
thầy của ông lên cao ngay trên đầu ông?" Ông nói: "Tôi cũng biết chứ,
im đi!” 4 Ông Ê-li-a bảo ông: "Này Ê-li-sa, xin anh ở lại đây,
vì Ðức Chúa sai thầy đi Giê-ri-khô." Nhưng ông Ê-li-sa thưa: "Có Ðức
Chúa hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy!" Và
các ông đã đến Giê-ri-khô. 5 Các anh em ngôn sứ ở Giê-ri-khô đến gần
ông Ê-li-sa và nói: "Ông có biết không, hôm nay Ðức Chúa sẽ đem thầy của
ông lên cao, ngay trên đầu ông?" Ông nói: "Tôi cũng biết chứ, im đi!”
6 Ông Ê-li-a bảo: "Xin anh ở lại đây, vì Ðức Chúa sai thầy đến
sông Gio-đan." Nhưng ông thưa: "Có Ðức Chúa hằng sống và có thầy đang
sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy! " Rồi cả hai ông cùng đi.
7
Năm
mươi anh em ngôn sứ cũng đi, đứng ở đằng xa, phía trước hai ông, còn hai ông
thì đứng bên bờ sông Gio-đan. 8 Ông Ê-li-a lấy áo choàng của mình,
cuộn lại mà đập xuống nước. Nước rẽ ra hai bên. Hai ông đã đi qua ráo chân. 9
Vậy, khi đã đi qua, ông Ê-li-a nói với ông Ê-li-sa: "Anh cứ xin đi:
thầy có thể làm gì cho anh trước khi thầy được đem đi, rời xa anh?" Ông
Ê-li-sa nói: "Xin cho con được hai phần thần khí của thầy!” 10 Ông
Ê-li-a đáp: "Anh xin một điều khó đấy! Nếu anh thấy thầy khi thầy được đem
đi, rời xa anh, thì sẽ được như thế; bằng không, thì không được.” 11 Các
ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ
như lửa tách hai người ra. Và ông Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc. 12 Thấy
thế, ông Ê-li-sa kêu lên: "Cha ơi! Cha ơi! Hỡi chiến xa và chiến mã của
Ít-ra-en!" Rồi ông không thấy thầy mình nữa. Ông túm lấy áo mình và xé ra
làm hai mảnh. 13 Ông lượm lấy áo choàng của ông Ê-li-a rơi xuống.
Ông trở về và đứng bên bờ sông Gio-đan.
14
Ông
lấy áo choàng của ông Ê-li-a đã rơi xuống mà đập xuống nước và nói: "Ðức
Chúa, Thiên Chúa của ông Ê-li-a ở đâu?" Ông đập xuống nước, nước rẽ ra hai
bên, và ông Ê-li-sa đi qua. 15 Các anh em ngôn sứ Giê-ri-khô thấy
ông ở đằng xa thì nói: "Thần khí của ông Ê-li-a đã ngự xuống trên ông
Ê-li-sa." Họ đến đón ông và sụp xuống đất lạy ông. 16 Họ thưa
ông: "Tại đây có năm mươi người dũng cảm đang ở với các tôi tớ ngài. Xin
cho phép họ đi tìm thầy của ngài. Có lẽ thần khí của Ðức Chúa đã đem người đi,
rồi thả xuống một ngọn núi hay một thung lũng nào đó." Nhưng ông nói:
"Ðừng sai ai đi cả!” 17 Họ cứ một mực nài ép ông, nên ông bảo:
"Thì cứ sai đi!" Họ sai năm mươi người đi kiếm suốt ba ngày, nhưng
không tìm thấy ông Ê-li-a. 18 Họ trở về với ông. Ông đang ở
Giê-ri-khô, ông nói với họ: "Tôi đã chẳng bảo các anh là đừng đi đó
sao?"
Hai
phép lạ của ông Ê-li-sa
19
Người
trong thành nói với ông Ê-li-sa: "Như ngài thấy đó, địa thế của thành thì
tốt, nhưng nước thì độc và xứ sở bị nạn vô sinh.” 20 Ông Ê-li-sa bảo:
"Lấy cho tôi một cái tô mới và bỏ muối vào đó." Họ đi lấy cho ông. 21
Ông đi ra suối nước, đổ muối xuống và nói: "Ðức Chúa phán thế này:
Ta làm cho nước hoá lành, và nước này sẽ không còn gây chết chóc và nạn vô sinh
nữa.” 22 Và nước hoá lành cho đến ngày nay, theo lời ông Ê-li-sa đã
nói.
23
Ông
rời nơi đó lên Bết Ên. Và khi ông đi lên, thì dọc đường có những trẻ con từ
thành đi ra, chúng nhạo ông và nói: "Lên đi, ông hói đầu ơi! Lên đi, ông
hói đầu ơi!” 24 Ông quay lại, và khi thấy chúng thì nguyền rủa chúng
nhân danh Ðức Chúa. Bấy giờ, có hai con gấu từ trong rừng đi ra và xé xác bốn
mươi hai đứa trẻ. 25 Từ nơi đó, ông đi tới núi Các-men, rồi trở lại
Sa-ma-ri.
Chương 03
2.
Cuộc Chiến Chông Mô-Áp
Thời
vua Giô-ram cai trị Ít-ra-en (852-841)
1
Vua
Giô-ram, con vua A-kháp, lên ngôi tại Sa-ma-ri cai trị Ít-ra-en, vào năm thứ
mười tám triều vua Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa. Vua trị vì được mười hai năm. 2
Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, nhưng không như cha như mẹ của vua,
vì vua đã cất bỏ trụ đá thần Ba-an mà vua cha đã dựng. 3 Tuy nhiên,
vua vẫn bám lấy tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo
Ít-ra-en phạm theo; và vua không dứt ra được.
Cuộc
viễn chinh của Giu-đa và Ít-ra-en đánh Mô-áp
4
Mê-sa,
vua Mô-áp, là người nuôi chiên cừu. Ông thường cống nộp cho vua Ít-ra-en một
trăm ngàn con chiên và một trăm ngàn con cừu len. 5 Nhưng sau khi
vua A-kháp qua đời, thì vua Mô-áp nổi loạn chống lại vua Ít-ra-en.
6
Ngày
ấy, vua Giô-ram ra khỏi Sa-ma-ri và kiểm tra dân số toàn thể Ít-ra-en. 7 Rồi
vua đi, sai người đến nói với vua Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa: "Vua Mô-áp
nổi loạn chống tôi. Ngài có cùng với tôi đi đánh Mô-áp không?" Vua
Giơ-hô-sa-phát đáp: "Tôi sẽ lên. Tôi cũng làm như ngài, dân tôi cũng như
dân ngài, ngựa của tôi cũng như ngựa của ngài.” 8 Rồi vua nói tiếp:
"Chúng ta sẽ đi đường nào mà lên?" Vua Giô-ram trả lời: "Ðường
sa mạc Ê-đôm."
9
Vua
Ít-ra-en, vua Giu-đa và vua Ê-đôm lên đường. Họ đi vòng quanh bảy ngày đường;
không còn nước cho quân lính và thú vật đi theo nữa. 10 Vua Ít-ra-en
mới nói: "Than ôi! Ðức Chúa đã triệu tập ba vua chúng ta đây để nộp vào
tay Mô-áp!” 11 Vua Giơ-hô-sa-phát nói: "Ở đây không có một ngôn
sứ nào của Ðức Chúa có thể giúp chúng ta thỉnh ý Người sao?" Một trong
những tôi tớ của vua Ít-ra-en trả lời: "Ở đây có ông Ê-li-sa, con ông
Sa-phát, người đã đổ nước trên tay ông Ê-li-a.” 12 Vua
Giơ-hô-sa-phát nói: "Ông ấy có lời của Ðức Chúa." Vua Ít-ra-en, vua
Giơ-hô-sa-phát và vua Ê-đôm đi xuống gặp ông. 13 Ông Ê-li-sa nói với
vua Ít-ra-en: "Chuyện đó can gì đến vua và tôi? Vua hãy đi gặp các ngôn sứ
của vua cha, các ngôn sứ của thái hậu." Vua Ít-ra-en nói: "Không, vì
Ðức Chúa đã triệu tập ba vua chúng tôi đây để nộp vào tay Mô-áp.” 14 Ông
Ê-li-sa nói: "Có Ðức Chúa, Chúa Tể càn khôn, hằng sống, Ðấng tôi phụng
thờ, tôi xin thề: Nếu tôi không nể vua Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, thì tôi sẽ
không để ý đến vua và cũng chẳng nhìn mặt vua. 15 Bây giờ, hãy dẫn
đến tôi một người gảy đàn." Người gảy đàn vừa đánh đàn, thì bàn tay Ðức
Chúa ở trên ông. 16 Ông nói: "Ðức Chúa phán thế này: Hãy đào
trong khe này thật nhiều hố. 17 Vì Ðức Chúa phán thế này: Các ngươi
không thấy có gió, các ngươi không thấy có mưa; nhưng khe này sẽ đầy nước, và
các ngươi sẽ được uống, các ngươi, súc vật và lừa ngựa của các ngươi. 18 Ðối
với Ðức Chúa, đó còn là quá ít. Người sẽ nộp Mô-áp vào tay các ngươi. 19 Các
ngươi sẽ hạ mọi thành kiên cố, mọi thành quan trọng, sẽ chặt mọi cây cối tươi
tốt, lấp mọi giếng nước và rải đá để tàn phá mọi ruộng đồng phì nhiêu.” 20
Quả thật, ban sáng, vào giờ dâng lễ tiến, thì nước từ phía Ê-đôm đến, và
toàn xứ đều ngập nước.
21
Khi
nghe tin các vua lên đánh chúng, mọi người Mô-áp, những người đến tuổi mang vũ
khí và cả những người đã quá tuổi đó, đều được gọi nhập ngũ và đóng ở biên giới.
22 Sáng sớm họ thức dậy; Và khi mặt trời mọc lên, chiếu sáng trên
mặt nước, người Mô-áp thấy nước đằng trước chúng đỏ như máu, 23 thì
nói: "Máu đó! Chắc chắn các vua đã đánh nhau, chém giết lẫn nhau. Bây giờ,
hỡi Mô-áp, đi hôi của đi!"
24
Chúng
đến trại người Ít-ra-en. Nhưng người Ít-ra-en đã vùng dậy, đánh quân Mô-áp,
khiến chúng phải tẩu thoát trước mặt họ. Họ tiến vào Mô-áp mà đánh. 25 Họ
phá huỷ các thành, mỗi người nhặt đá quăng xuống lấp đầy mọi đồng ruộng phì
nhiêu; họ bịt mọi giếng nước và chặt mọi cây cối tốt tươi. Cuối cùng, ở Kia
Kha-re-xét chỉ còn trơ lại một đống đá. Lính phóng đá bao vây thành đó và đánh
phá. 26 Khi vua Mô-áp thấy cuộc chiến ác liệt, không cầm cự nổi, thì
dẫn theo bảy trăm người mang kiếm, mở đường máu đi tới vua Ê-đôm. Nhưng chúng
không làm nổi chuyện đó. 27 Khi ấy, vua mới bắt con đầu lòng, là
người có quyền lên ngôi kế vị, mà tế trên tường thành làm lễ vật toàn thiêu.
Một cơn thịnh nộ lớn giáng xuống Ít-ra-en. Quân Ít-ra-en nhổ trại, rút lui mà
trở về xứ.
Chương 04
3.
Vài Phép Lạ Của Ông Ê-Li-Sa
Dầu
của bà goá
1
Có
người vợ của một trong những anh em ngôn sứ kêu cứu ông Ê-li-sa: "Tôi tớ
ngài là chồng tôi đã chết. Và ngài biết là tôi tớ ngài kính sợ Ðức Chúa. Nhưng
chủ nợ đã đến bắt hai đứa con tôi làm nô lệ.” 2 Ông Ê-li-sa nói với
bà: "Tôi có thể làm gì cho chị đây? Hãy cho tôi biết: trong nhà chị còn có
gì không?" Bà thưa: "Trong nhà nữ tỳ của ngài chẳng còn gì cả, trừ
một lọ dầu.” 3 Ông nói: "Chị hãy đi ra ngoài mượn bà con láng
giềng các thứ bình, những bình rỗng, đừng có ít quá! 4 Rồi chị trở về, chị và
các con cái chị vào nhà đóng cửa lại. Chị sẽ đổ dầu vào tất cả các bình đó,
bình nào đầy thì để riêng ra.” 5 Bà từ giã ông mà đi; bà và con cái
bà vào nhà đóng cửa lại. Chúng đem bình đến cho bà, còn bà thì đổ vào.6 Khi các
bình đã đầy, bà nói với con: "Ðem bình nữa cho mẹ." Nhưng nó thưa:
"Hết bình rồi." Dầu liền ngưng chảy. 7 Bà đến trình cho
người của Thiên Chúa biết. Ông nói: "Chị đi bán dầu ấy mà trả nợ; phần còn
lại thì mẹ con dùng để sinh sống."
Ông
Ê-li-sa và mẹ con người phụ nữ Su-nêm
8
Một
hôm, ông Ê-li-sa đi qua Su-nêm. Ở đó có một phụ nữ giàu sang. Bà ta giữ ông lại
dùng bữa. Từ đó, mỗi lần đi qua, ông đều ghé vào dùng bữa. 9 Bà ấy
nói với chồng: "Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một
thánh nhân của Thiên Chúa. 10 Mình phải làm cho ông một căn phòng
nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để
một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó.” 11
Một hôm, ông đến nơi ấy, ông lui vào phòng trên lầu và nghỉ ở đó. 12
Ông nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông: "Ði gọi bà Su-nêm."
Nó đi gọi bà và bà đến trước mặt nó. 13 Ông Ê-li-sa bảo nó:
"Hãy nói với bà ấy: Bà đã quá lo lắng bận rộn vì chúng tôi. Chúng tôi biết
phải làm gì cho bà đây? Có cần chúng tôi phải nói một lời với đức vua hay với
tướng chỉ huy quân đội cho bà không?" Bà trả lời: "Tôi sống yên hàn
giữa dân tôi.” 14 Ông Ê-li-sa nói với tiểu đồng: "Nên làm gì
cho bà ấy?" Giê-kha-di đáp: "Tội nghiệp, bà ấy không có con trai, mà
chồng thì đã già.” 15 Ông Ê-li-sa bảo: "Ði gọi bà ấy." Nó
đi gọi bà, và bà ấy đến đứng ngoài cửa. 16 Ông Ê-li-sa nói:
"Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai." Bà
mới nói: "Không, thưa ngài, người của Thiên Chúa, xin đừng lừa dối nữ tỳ
ngài!” 17 Quả nhiên, bà ấy có thai, và năm sau, vào thời kỳ, vào độ
mà ông Ê-li-sa đã nói, thì bà sinh con trai.
18
Ðứa
trẻ lớn lên. Một ngày kia, khi đi kiếm cha nó ở giữa những người thợ gặt,19 nó
nói với cha: "Ôi, cái đầu con! Cái đầu con!" Người cha bảo anh đầy
tớ: "Bồng nó về cho mẹ nó.” 20 Người tớ trai bồng nó, đem về
cho bà mẹ. Ðứa trẻ ngồi trên đầu gối bà đến trưa, rồi nó chết. 21 Bà
đem nó lên đặt trên giường dành cho người của Thiên Chúa, đóng cửa lại, để nó ở
trong rồi đi ra. 22 Bà đi gọi chồng và nói: "Xin ông sai đến
tôi một anh đầy tớ và một con lừa cái. Tôi chạy đến người của Thiên Chúa, rồi
sẽ về.” 23 Người chồng bảo: "Tại sao bà lại đi gặp ngài ngày
hôm nay? Không phải là ngày đầu tháng, cũng chẳng phải là ngày sa-bát."
Nhưng bà trả lời: "Ông cứ yên tâm!” 24 Rồi bà cho thắng lừa và
nói với anh đầy tớ: "Hãy đưa tôi đi và lên đường! Chỉ dừng xe lại khi tôi
bảo.” 25 Bà lên đường và đi đến với người của Thiên Chúa ở núi
Các-men. Vừa thấy bà đằng xa, người của Thiên Chúa nói với Giê-kha-di, tiểu
đồng của ông: "Kìa bà Su-nêm. 26 Con hãy chạy ra đón và nói với
bà ấy: "Bà có được mạnh khoẻ không? Ông nhà có được mạnh khoẻ không? Cậu
bé có được mạnh khoẻ không?" Bà trả lời: "Vâng, mạnh khoẻ cả.” 27
Khi đến gần người của Thiên Chúa ở trên núi, bà ôm lấy chân ông.
Giê-kha-di tiến tới, đẩy bà ra, nhưng người của Thiên Chúa bảo: "Ðể yên
cho bà ấy, vì tâm hồn bà đang phải cay đắng. Ðức Chúa đã giấu ta điều ấy, Người
không cho ta biết.” 28 Khi ấy, bà nói: "Nào tôi có xin ngài cho
tôi được đứa con đâu? Tôi đã chẳng nói: "Xin đừng đánh lừa tôi, đó
sao?"
29
Ông
Ê-li-sa bảo Giê-kha-di: "Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì
đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại. Ngươi sẽ đặt gậy của ta trên mặt cậu
bé.” 30 Mẹ cậu bé nói: "Có Ðức Chúa hằng sống và có ngài đang
sống đây, tôi xin thề sẽ không rời xa ngài." Ông trỗi dậy và đi theo bà. 31
Giê-kha-di đã đi trước hai người và đặt gậy trên mặt cậu bé; nhưng không
nghe thấy tiếng, không thấy động đậy. Anh ta quay lại đón ông Ê-li-sa và trình
ông: "Cậu bé đã không thức dậy.” 32 Khi ông Ê-li-sa tới nhà thì
cậu bé đã chết, nằm trên giường của ông. 33 Ông đi vào chỗ cậu bé,
đóng cửa lại, chỉ có hai người ở bên trong, rồi cầu nguyện với Ðức Chúa. 34
Ông lên giường nằm lên trên đứa trẻ, kề miệng ông trên miệng nó, kề mắt
ông trên mắt nó, đặt bàn tay ông trên bàn tay nó. Ông cứ nằm trên đứa trẻ, da
thịt nó nóng lên. 35 Ông đi đi lại lại trong nhà, rồi lại lên nằm
trên nó; cậu bé hắt hơi đến bảy lần, và mở mắt ra. 36 Ông Ê-li-sa
gọi Giê-kha-di và bảo: "Ði gọi bà Su-nêm." Nó đi gọi bà; bà đến với
ông, ông nói: "Bà hãy đem con đi!” 37 Bà đi vào, quỳ dưới chân
ông, rồi sụp xuống đất lạy ông. Sau đó, bà đem con đi và ra khỏi phòng.
Nồi
cháo độc
38
Ông
Ê-li-sa trở về Ghin-gan, khi nạn đói đang xảy ra trong xứ. Lúc anh em ngôn sứ
đang ngồi trước mặt ông, ông nói với tiểu đồng: "Bắc nồi lớn lên bếp và
nấu cháo cho anh em ngôn sứ.” 39 Một người trong nhóm ra đồng hái
rau, tìm thấy một thứ cây giống như nho dại, thì hái trái dưa đắng ấy, đầy một
vạt áo, rồi về nhà, thái nhỏ ra, bỏ vào nồi nấu cháo, vì họ không biết đó là
thứ gì. 40 Sau đó, họ múc ra cho mọi người ăn. Vừa ăn chút cháo, họ
kêu lên: "Người của Thiên Chúa ơi, thần chết ở trong nồi!" Và họ
không thể ăn được nữa. 41 Ông Ê-li-sa bảo: "Ðem bột đến
đây!" Ông bỏ bột vào và bảo: "Múc ra cho người ta ăn." Trong nồi
liền hết chất độc.
Phép
lạ hoá bánh ra nhiều
42
Có
một người từ Ba-an Sa-li-sa đến, đem bánh đầu mùa biếu người của Thiên Chúa:
hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm đựng trong bị. Ông Ê-li-sa nói: "Phát
cho người ta ăn.” 43 Nhưng tiểu đồng hỏi ông: "Có bằng này, sao
con có thể phát cho cả trăm người ăn được?" Ông bảo: "Cứ phát cho
người ta ăn! Vì Ðức Chúa phán thế này: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư.” 44 Tiểu
đồng phát cho người ta. Họ đã ăn, mà vẫn còn dư, như lời Ðức Chúa phán.
Chương 05
Ông
Na-a-man được chữa khỏi bệnh phung hủi
1
Ông
Na-a-man, tướng chỉ huy quân đội của vua A-ram, là người có thần thế và uy tín
trước mặt chúa thượng của ông, vì Ðức Chúa đã dùng ông mà ban chiến thắng cho
A-ram. Nhưng ông lại mắc bệnh phung hủi. 2 Khi những người A-ram đi
càn quét, họ đã bắt được một cô bé từ đất Ít-ra-en đưa về. Nó vào giúp việc cho
vợ ông Na-a-man. 3 Nó nói với bà chủ: "Ôi, phải chi ông chủ con
được giáp mặt vị ngôn sứ ở Sa-ma-ri, thì chắc ngôn sứ sẽ chữa ông khỏi bệnh
phung hủi!” 4 Ông Na-a-man đến tường trình với chúa thượng của ông:
"Một thiếu nữ xuất thân từ đất Ít-ra-en đã nói thế này thế này.” 5 Vua
A-ram bảo: "Ngươi cứ lên đường và trẩy đi. Ta sẽ gửi thư cho vua
Ít-ra-en." Ông Na-a-man lên đường, mang theo ba trăm ký bạc, sáu mươi ký
vàng và mười bộ quần áo để thay đổi. 6 Ông trình thư lên vua
Ít-ra-en. Thư viết: "Cùng với bức thư mà tôi gửi tới ngài đây, tôi sai
Na-a-man, thuộc hạ của tôi, đến với ngài, để ngài chữa người này khỏi bệnh
phung hủi.” 7 Vua Ít-ra-en đọc thư xong thì xé áo mình ra và nói:
"Ta đâu có phải là vị thần cầm quyền sinh tử, mà ông ấy lại sai người này
đến nhờ ta chữa hắn khỏi bệnh phung hủi? Các ngươi phải biết, phải thấy rằng
ông ấy muốn sinh sự với ta."
8
Vậy,
khi ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, nghe biết là vua Ít-ra-en đã xé áo mình
ra, thì sai người đến nói với vua: "Sao vua lại xé áo mình ra? Người ấy cứ
đến với tôi, thì sẽ biết là có một ngôn sứ ở Ít-ra-en.” 9 Ông
Na-a-man đi đến cùng với cả xe và ngựa. Ông đứng trước cửa nhà ông Ê-li-sa. 10
Ông Ê-li-sa sai sứ giả ra nói với ông: "Ông hãy đi tắm bảy lần trong
sông Gio-đan. Da thịt ông sẽ trở lại như trước, và ông sẽ được sạch.” 11 Ông
Na-a-man nổi giận bỏ đi và nói: "Ta cứ nghĩ bụng là thế nào ông ấy cũng
đích thân đi ra, rồi đứng mà cầu khẩn danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông ta. Ông
ta sẽ quơ tay lên đúng chỗ phung hủi mà chữa khỏi. 12 Nước các sông
A-va-na và Pác-pa ở Ða-mát chẳng tốt hơn tất cả nước sông ở Ít-ra-en sao? Ta
lại không thể tắm ở các sông ấy để được sạch hay sao?" Ông quay lưng lại
và tức tối ra đi. 13 Bấy giờ, các tôi tớ của ông đến gần và nói:
"Cha ơi, giả như ngôn sứ bảo cha làm một điều gì khó, chẳng lẽ cha lại
không làm? Phương chi ngôn sứ chỉ nói: Ông hãy đi tắm, thì sẽ được sạch!” 14
Vậy ông xuống dìm mình bảy lần trong sông Gio-đan, theo lời người của
Thiên Chúa. Da thịt ông lại trở nên như da thịt một trẻ nhỏ. Ông đã được sạch.
15
Cùng
với đoàn tuỳ tùng, ông trở lại gặp người của Thiên Chúa. Ông vào, đứng trước
mặt ông ấy và nói: "Nay tôi biết rằng: trên khắp mặt đất, không đâu có
Thiên Chúa, ngoại trừ ở Ít-ra-en. Bây giờ, xin ngài vui lòng nhận món quà của
tôi tớ ngài đây.” 16 Ông Ê-li-sa nói: "Có Ðức Chúa hằng sống là
Ðấng tôi phụng sự, tôi thề sẽ không nhận gì cả." Ông Na-a-man nài ép ông
nhận, nhưng ông vẫn từ chối. 17 Ông Na-a-man nói: "Nếu ngài từ
chối, thì xin cho phép tôi tớ ngài đây mang về một số đất vừa sức hai con lừa
chở được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ toàn thiêu và hy lễ cho thần nào
khác ngoài Ðức Chúa. 18 Nhưng xin Ðức Chúa tha thứ điều này cho tôi
tớ ngài: Khi ông chủ tôi vào điện của thần Rim-môn để sụp xuống lạy, và khi ông
ấy vịn vào cánh tay tôi, thì tôi cũng phải sụp xuống lạy trong điện của thần
Rim-môn cùng lúc với ông. Xin Ðức Chúa tha thứ điều ấy cho tôi tớ ngài!” 19
Ông Ê-li-sa bảo: "Ông đi bằng an!" và ông Na-a-man đi khỏi chỗ
ông Ê-li-sa được một quãng đường.
20
Khi
đó, Giê-kha-di, tiểu đồng của ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa, nghĩ bụng:
"Chủ ta đã giữ gìn không nhận những gì ông Na-a-man, người A-ram, tự tay
đem dâng. Có Ðức Chúa hằng sống, ta sẽ chạy theo ông ấy để nhận được chút gì
chứ!” 21 Giê-kha-di liền đuổi theo ông Na-a-man. Khi thấy Giê-kha-di
chạy theo mình, ông Na-a-man từ trên xe nhảy xuống gặp nó, và hỏi: "Mọi sự
đều yên ổn chứ?” 22 Nó trả lời: "Mọi sự đều yên ổn. Chủ tôi sai
tôi đi nói với ông: "Vừa rồi có hai thanh niên thuộc nhóm các ngôn sứ đến
với tôi từ vùng núi Ép-ra-im. Xin ông cho họ ba mươi ký bạc và hai bộ quần áo
để thay đổi.” 23 Ông Na-a-man nói: "Anh vui lòng nhận lấy sáu
mươi ký." Rồi ông ép nó nhận. Ông nhét sáu mươi ký bạc trong hai bị cùng
với hai bộ quần áo để thay đổi, rồi đưa cho hai người tớ trai mang đi trước mặt
nó. 24 Khi tới Ô-phen, nó lấy những thứ đó từ tay họ, đem cất vào
nhà, rồi từ giã những người ấy, và họ trẩy đi.
25
Còn
nó, nó vào hầu chủ. Ông Ê-li-sa hỏi: "Giê-kha-di, mày đi đâu về?" Nó
đáp: "Tôi tớ ngài không có đi đâu cả.” 26 Ông Ê-li-sa bảo:
"Trí ta đã chẳng ở đó khi có người xuống xe gặp mày sao? Giờ đây, mày đã
nhận tiền bạc, mày có thể sắm quần áo, tậu vườn, vườn ô-liu và vườn nho, mua bò
dê chiên cừu và tôi trai tớ gái. 27 Nhưng bệnh phung hủi của ông
Na-a-man sẽ mãi mãi bám lấy mày và dòng dõi mày." Giê-kha-di rời ông
Ê-li-sa; nó mắc bệnh phung hủi, mốc thếch như tuyết.
Chương 06
Cái
rìu đã mất lại tìm thấy
1
Các
anh em ngôn sứ nói với ông Ê-li-sa: "Thầy coi, nơi chúng tôi ngồi nghe
thầy đây đã ra quá hẹp, so với số người chúng tôi. 2 Vậy xin cho
chúng tôi đi ra bờ sông Gio-đan; ở đó, mỗi người chúng tôi sẽ lấy một cái xà,
rồi làm một nơi để ngồi nghe." Ông bảo: "Các anh cứ đi!” 3 Một
người trong nhóm nói: "Xin thầy vui lòng cùng đi với các tôi tớ
thầy." Ông đáp: "Ðược, tôi sẽ đi", 4 rồi ông cùng đi
với họ. Tới sông Gio-đan, họ đốn cây. 5 Khi một người trong nhóm
đang hạ cây làm xà, thì lưỡi rìu bằng sắt văng xuống nước. Người ấy liền kêu
lên: "Chết rồi, ngài ơi! Cái rìu này tôi mượn của người ta!” 6 Người
của Thiên Chúa hỏi: "Nó văng đi đâu?" Người ấy chỉ chỗ cho ông. Ông
chặt một khúc gỗ, ném xuống đó và làm cho lưỡi rìu bằng sắt nổi lên. 7 Ông
bảo: "Vớt lên đi!" Người kia đưa tay ra cầm lấy.
4.
Chiến Tranh Với A-Ram
Ông
Ê-li-sa tóm gọn một toán quân A-ram
8
Hồi
ấy, vua A-ram đang giao chiến với Ít-ra-en. Vua bàn với các thuộc hạ và bảo
chúng: "Ta sẽ đặt trại quân chỗ này, chỗ nọ.” 9 Nhưng người của
Thiên Chúa nhắn tin cho vua Ít-ra-en: "Xin ngài đề phòng, đừng đi qua chỗ
ấy, vì quân A-ram đi xuống đó.” 10 Vua Ít-ra-en mới sai lính tới chỗ
người của Thiên Chúa đã nói, đã báo cho biết; vua đề phòng, không phải chỉ một
hay hai lần mà thôi.
11
Lòng
vua A-ram rất nao núng vì chuyện này. Vua gọi các thuộc hạ lại và bảo:
"Chẳng lẽ các ngươi không báo cho ta biết ai trong chúng ta đã bỏ theo vua
Ít-ra-en sao?” 12 Một người trong nhóm thuộc hạ đáp: "Thưa đức
vua, chúa công tôi, chẳng có ai đâu! Chính ông Ê-li-sa, ngôn sứ của Ít-ra-en,
đã cho vua Ít-ra-en biết những lời ngài nói trong phòng ngủ của ngài.” 13 Vua
nói: "Ði coi xem ông ấy ở đâu! Ta sẽ sai người đi bắt." Người ta cho
vua biết: "Ông ấy đang ở Ðô-than.” 14 Vua liền phái tới đó một
đạo quân lớn, có cả ngựa xe. Chúng đến nơi ban đêm và bao vây thành.
15
Sáng
hôm sau, người của Thiên Chúa dậy sớm và đi ra ngoài. Và kìa một toán quân có
cả ngựa xe đang vây quanh thành. Người đầy tớ nói với ông: "Chết rồi, ngài
ơi! Làm sao bây giờ?” 16 Ông trả lời: "Ðừng sợ, vì những người
đi theo chúng ta thì đông hơn những người đi theo chúng.” 17 Ông
Ê-li-sa cầu xin rằng: "Lạy Ðức Chúa, xin mở mắt cho nó thấy!" Ðức
Chúa mở mắt người đầy tớ của ông và nó thấy núi đầy những ngựa và xe đỏ như lửa
vây quanh ông Ê-li-sa.
18
Khi
quân A-ram kéo xuống phía ông Ê-li-sa, thì ông cầu xin Ðức Chúa: "Xin Chúa
đánh mờ mắt những quân này." Và Ðức Chúa đã đánh mờ mắt chúng, theo lời
ông Ê-li-sa xin. 19 Khi đó, ông Ê-li-sa bảo chúng: "Ðây không
phải là đường, cũng không phải là thành. Các anh đi theo tôi, tôi sẽ dẫn các
anh đến người các anh đang tìm kiếm." Và ông đã dẫn chúng tới Sa-ma-ri. 20
Khi chúng vào Sa-ma-ri, ông Ê-li-sa lại nói: "Lạy Ðức Chúa, xin mở
mắt cho những người này, cho chúng thấy được." Ðức Chúa đã mở mắt chúng và
chúng thấy là mình đang ở giữa thành Sa-ma-ri!
21
Thấy
chúng, vua Ít-ra-en nói với ông Ê-li-sa: "Thưa cha, có phải giết chúng
không?” 22 Ông đáp: "Ðừng giết! Thử hỏi những kẻ vua đã dùng
gươm dùng nỏ bắt làm tù binh, thì vua có giết không? Vua hãy đem bánh và nước
tới cho chúng ăn uống, rồi để chúng trở về với chủ của chúng!” 23 Vua
dọn tiệc lớn đãi chúng. Khi chúng ăn uống xong, vua cho chúng đi và chúng trở
về với chủ của chúng. Những toán quân A-ram không còn xâm nhập Ít-ra-en nữa.
Nạn
đói trong thành Sa-ma-ri bị bao vây
24
Sau
đó, Ben Ha-đát, vua A-ram, tập họp tất cả quân đội lại, tiến lên vây thành
Sa-ma-ri. 25 Ở Sa-ma-ri, đang có một nạn đói lớn; thành bị địch bao
vây gắt gao đến nỗi một đầu lừa lên tới hai mươi bốn lượng bạc, và một dúm hành
dại cũng lên tới mười lăm chỉ bạc.
26
Khi
vua Ít-ra-en đang đi lại trên tường thành, thì một phụ nữ kêu với vua rằng:
"Thưa đức vua, chúa thượng tôi, xin cứu tôi với!” 27 Vua trả
lời: "Nếu Ðức Chúa không cứu ngươi, thì ta biết lấy gì để cứu ngươi? Chẳng
lẽ lấy sân lúa hay bồn đạp nho?” 28 Rồi vua hỏi chị ta: "Chuyện
gì vậy?" Chị ấy thưa: "Mụ này đã nói với tôi: "Ðưa con chị đây,
chúng ta ăn thịt nó hôm nay; ngày mai, chúng ta sẽ ăn thịt con tôi! 29 Chúng
tôi đã nấu chín con tôi và ăn thịt nó. Hôm sau, tôi bảo mụ: "Ðưa con chị
đây, chúng ta ăn thịt nó! Nhưng mụ đã giấu con đi.” 30 Vừa nghe
người phụ nữ nói những lời ấy, vua liền xé áo mình ra. Vì vua đang đi lại trên
tường thành, nên dân thấy được là bên trong vua mặc áo lót bằng vải thô. 31
Vua nói: "Xin Thiên Chúa phạt ta thế này và thêm thế kia nữa, nếu
hôm nay đầu của Ê-li-sa, con Sa-phát, còn nằm trên cổ của hắn!"
Ông
Ê-li-sa báo tin cơn thử thách sắp chấm dứt
32
Ông
Ê-li-sa đang ngồi trong nhà và có những kỳ mục ngồi với ông, thì vua sai người
đến với ông. Nhưng trước khi sứ giả đến nơi, ông Ê-li-sa nói với các kỳ mục:
"Các ông thấy không: Kẻ sát nhân ấy sai người đến lấy đầu tôi! Vậy thế
này: Khi nào sứ giả đến, thì đóng cửa lại, lấy cửa đẩy nó ra. Nhưng tiếng chân
chủ nó chẳng đang theo sau nó đấy ư?” 33 Ông còn đang nói, thì vua
đã xuống gặp ông và bảo: "Tai hoạ này do Ðức Chúa giáng xuống, thế thì tôi
còn biết trông đợi gì nữa nơi Ðức Chúa?"
Chương 07
1
Ông
Ê-li-sa nói: "Hãy nghe lời của Ðức Chúa: Ðức Chúa phán thế này: Ngày mai,
cũng vào giờ này, tại cửa thành Sa-ma-ri, cứ ba chỉ bạc sẽ mua được một thúng
tinh bột lúa miến; cứ ba chỉ bạc sẽ mua được hai thúng lúa mạch!” 2 Viên
giám mã đỡ tay vua đáp lời người của Thiên Chúa: "Cho dù Ðức Chúa có mở
cống trên trời, điều đó liệu có xảy ra không?" Ông Ê-li-sa nói:
"Chính ông sẽ thấy tận mắt, nhưng sẽ không được ăn!"
Trại
quân A-ram bỏ trống
3
Có bốn
người phung hủi đang ở lối vào cửa thành. Họ nói với nhau: "Sao chúng ta
cứ ở lại đây mà chờ chết? 4 Nếu chúng ta quyết định vào thành, thì chúng ta sẽ
chết trong thành, vì ở đó đang có nạn đói; nếu chúng ta ở lại đây, thì chúng ta
cũng sẽ chết. Vậy bây giờ, đến đây, chúng ta cùng trốn sang trại quân A-ram.
Nếu chúng để chúng ta sống, thì chúng ta sẽ sống; mà nếu chúng giết chúng ta,
thì chúng ta sẽ chết.” 5 Lúc chập tối, những người phung hủi lên
đường đi đến trại quân A-ram. Nhưng khi tới đầu trại quân A-ram, thì họ chẳng
thấy có ai! 6 Vì Ðức Chúa đã cho tiếng xe, tiếng ngựa, tiếng một đạo binh lớn
vang lên trong trại quân A-ram. Chúng bảo nhau: "Này vua Ít-ra-en đã thuê
các vua Khết và các vua Ai-cập vào đánh chúng ta.” 7 Vậy chúng đã
lên đường, chạy trốn lúc chập tối, bỏ lại lều, ngựa, lừa; tóm lại, chúng để cả
trại y nguyên mà chạy thục mạng. 8 Khi tới đầu trại, những người
phung hủi kia vào một lều; họ ăn uống, rồi mang bạc, vàng và quần áo đi giấu.
Họ trở lại, vào một lều khác, rồi mang đồ vật trong đó đi giấu.
Hết
cuộc bao vây và hết nạn đói
9
Bấy
giờ, họ nói với nhau: "Chúng ta làm thế thì không phải. Hôm nay là ngày
mang lại tin vui. Nếu chúng ta làm thinh và chần chừ mãi cho tới khi trời sáng,
thì chúng ta sẽ mắc tội. Bây giờ, đến đây, chúng ta cùng đi báo tin cho đền
vua.” 10 Họ vào gọi những người canh cửa thành và báo tin:
"Chúng tôi đã vào trại quân A-ram. Chúng tôi chẳng thấy có ai, cũng không
nghe tiếng người; chỉ có ngựa còn cột đó, lừa còn cột đó; các lều còn y nguyên.”
11 Những người canh cửa thành hô lên và báo tin cho đền vua ở bên
trong.
12
Ðang
đêm, vua trỗi dậy, nói với các thuộc hạ: "Ðể ta giải thích cho các ngươi
nghe những gì quân A-ram làm để hại chúng ta. Chúng biết chúng ta đang bị đói,
nên đã ra khỏi trại để nấp ở ngoài đồng, nghĩ bụng rằng: "Họ sẽ ra khỏi
thành; chúng ta sẽ bắt sống họ, rồi vào thành".” 13 Một người
trong các thuộc hạ vua trả lời: "Xin để người ta lấy năm con ngựa trong số
những con sống sót còn lại đây, - nếu không, những con ấy cũng sẽ cùng chung số
phận với toàn đám dân Ít-ra-en sống sót trong thành đang chờ chết -; chúng ta
cứ gửi đi xem sao.” 14 Người ta lấy hai cỗ xe, rồi vua sai người
đuổi theo quân A-ram, và nói: "Hãy đi, xem thế nào!” 15 Họ đã
đuổi theo chúng cho đến sông Gio-đan. Trên tất cả quãng đường ấy đều la liệt
quần áo và vật dụng quân A-ram đã liệng xuống trong lúc vội vã. Các sứ giả trở
về trình lại các sự việc cho vua.
16
Dân
đi ra hôi của trong trại quân A-ram. Quả thật, theo như lời của Ðức Chúa, cứ ba
chỉ bạc sẽ mua được một thúng tinh bột lúa miến; cứ ba chỉ bạc sẽ mua được hai
thúng lúa mạch. 17 Vua đã đặt một viên giám mã canh cửa thành, người
đó là người đã đỡ tay vua. Dân chúng giẫm lên người đó ở cửa thành, làm cho
người đó chết, đúng y như lời người của Thiên Chúa đã nói khi vua xuống gặp ông.
18 Quả thật, khi người của Thiên Chúa nói với vua: "Ngày mai,
cũng vào giờ này, tại cửa thành Sa-ma-ri, ba chỉ bạc sẽ mua được hai thúng lúa
mạch, ba chỉ bạc sẽ mua được một thúng tinh bột lúa miến", 19 thì
viên giám mã trả lời cho người của Thiên Chúa: "Cho dù Ðức Chúa có mở cống
trên trời, điều đó liệu có xảy ra không?" Ông Ê-li-sa nói: "Ông sẽ
thấy tận mắt, nhưng ông sẽ không được ăn!” 20 Ðiều đó đã xảy ra cho
viên giám mã: dân chúng giẫm lên ông ở cửa thành, làm ông chết.
Chương 08
Kết
thúc truyện người phụ nữ Su-nêm
1
Ông
Ê-li-sa nói với người phụ nữ có đứa con trai ông đã làm cho sống lại: "Bà
hãy trỗi dậy, lên đường, đem theo gia đình của bà. Hãy ra nước ngoài, ở tạm nơi
nào ở được, vì Ðức Chúa đã khiến nạn đói xảy ra, hơn nữa nạn đói còn xảy ra
trong xứ suốt bảy năm.” 2 Người phụ nữ trỗi dậy và làm theo lời
người của Thiên Chúa dạy. Bà và gia đình bà đã đi và ở tạm bên xứ người
Phi-li-tinh bảy năm. 3 Sau bảy năm, người phụ nữ bỏ xứ người
Phi-li-tinh trở về. Bà đi cầu cứu với vua về chuyện nhà cửa ruộng đất của bà.
4
Vua
nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông Ê-li-sa, người của Thiên Chúa: "Hãy
kể cho ta nghe tất cả những chuyện lớn lao ông Ê-li-sa đã làm.” 5 Giê-kha-di
đang kể cho vua nghe chuyện ông Ê-li-sa đã làm cho người chết sống lại thế nào,
thì người phụ nữ có đứa con trai ông đã làm sống lại, đến cầu cứu với vua về
chuyện nhà cửa ruộng đất của bà. Giê-kha-di liền trình vua: "Thưa đức vua,
chúa thượng của con, đây là người phụ nữ, và đây là người con trai mà ông
Ê-li-sa đã làm cho sống lại.” 6 Vua hỏi người phụ nữ, và bà kể hết
cho vua nghe. Vua chỉ định một viên thái giám lo việc cho bà và nói:
"Ngươi giúp bà này lấy lại tất cả tài sản của bà, cũng như mọi lợi tức
ruộng đất, kể từ ngày bà rời xứ cho đến nay."
Ông
Ê-li-sa và ông Kha-da-ên thành Ða-mát
7
Ông
Ê-li-sa vào Ða-mát. Vua A-ram là Ben Ha-đát đang bị bệnh. Người ta báo tin cho
vua: "Người của Thiên Chúa đã đến tận đây.” 8 Vua nói với ông
Kha-da-ên: "Ngươi hãy mang quà và đi gặp người của Thiên Chúa. Ngươi sẽ
nhờ ông thỉnh ý Ðức Chúa và thưa Người: "Con có được khỏi bệnh này
không?"
9
Ông
Kha-da-ên đi gặp ông Ê-li-sa, đem theo tất cả những gì tốt nhất ở Ða-mát làm
quà, chất trên lưng bốn mươi con lạc đà. Khi tới nơi, ông Kha-da-ên đứng trước
ông Ê-li-sa và nói: "Con của ngài là Ben Ha-đát, vua A-ram, đã sai tôi đến
thưa ngài: "Tôi có được khỏi bệnh này không?” 10 Ông Ê-li-sa
nói: "Ông đi nói với vua: "Chắc chắn ngài sẽ sống! Nhưng Ðức Chúa đã
cho tôi thấy chắc chắn vua sẽ chết.” 11 Người của Thiên Chúa nghiêm
nét mặt, nhìn chằm chằm khiến ông Kha-da-ên phát ngượng. Ông Ê-li-sa khóc. 12
Ông Kha-da-ên mới hỏi: "Tại sao ngài lại khóc?" Ông đáp:
"Vì tôi biết tai hoạ ông sẽ gây cho con cái Ít-ra-en. Ông sẽ phóng hoả đốt
các thành trì, sẽ dùng gươm chém giết các trai tráng, ném trẻ con xuống đất cho
chết và mổ bụng đàn bà có thai.” 13 Ông Kha-da-ên nói: "Tôi tớ
ngài, con chó này, là chi mà làm được điều quá thể như vậy?" Ông Ê-li-sa
đáp: "Ðức Chúa đã cho tôi thấy ông làm vua A-ram.” 14 Ông
Kha-da-ên từ giã ông Ê-li-sa và lại về với chủ mình, vua hỏi: "Ông Ê-li-sa
đã nói gì với ngươi?" Ông Kha-da-ên đáp: "Ông ấy nói với tôi là chắc
chắn ngài sẽ sống.” 15 Hôm sau, ông Kha-da-ên đã lấy chăn, nhúng
nước, rồi phủ lên mặt vua. Vua đã chết, và ông Kha-da-ên lên ngôi kế vị.
Vua
Giô-ram cai trị Giu-đa (848-841) (2 Sb 21:1-20)
16
Năm
thứ năm triều Giô-ram, con vua A-kháp làm vua Ít-ra-en, ông Giơ-hô-ram, con vua
Giơ-hô-sa-phát lên làm vua Giu-đa. 17 Ông lên ngôi vua khi được ba
mươi hai tuổi, và trị vì ở Giê-ru-sa-lem tám năm. 18 Vua đi theo
đường lối các vua Ít-ra-en, hành động như nhà A-kháp, vì vua đã lấy một người
con gái của vua A-kháp làm vợ. Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa. 19 Nhưng
vì vua Ða-vít, tôi trung của người, Ðức Chúa không muốn huỷ diệt Giu-đa, theo
lời Người đã phán với vua, là sẽ ban cho vua và con cháu vua một ngọn đèn luôn
cháy sáng mọi ngày.
20
Dưới
thời của vua, Ê-đôm thoát ách thống trị của Giu-đa và đặt một vua lên cai trị
mình. 21 Vua Giô-ram sang Xa-ia cùng với toàn bộ chiến xa. Ban đêm,
vua trỗi dậy, đánh quân Ê-đôm đang bao vây vua và những người chỉ huy chiến xa.
Dân chạy trốn về lều của họ. 22 Như thế, Ê-đôm đã thoát ách thống
trị của Giu-đa cho đến ngày nay. Rồi Líp-na cũng đã thoát ách thống trị vào lúc
ấy.
23
Những
truyện còn lại của vua Giô-ram và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép trong
sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 24 Vua Giô-ram đã an nghỉ với tổ tiên
và được chôn cất với các ngài trong Thành Ða-vít. Ông A-khát-gia-hu, con của
vua, lên ngôi kế vị vua cha.
Vua
A-khát-gia-hu cai trị Giu-đa (841) (2 Sb 22:1-6)
25
Năm
thứ mười hai triều Giô-ram, con vua A-kháp, làm vua Ít-ra-en, ông
A-khát-gia-hu, con vua Giơ-hô-ram, lên làm vua Giu-đa. 26 A-khát-gia-hu
lên ngôi vua khi được hai mươi hai tuổi, và trị vì ở Giê-ru-sa-lem được một
năm. Thân mẫu vua là bà A-than-gia-hu, ái nữ của Om-ri, vua Ít-ra-en. 27 Vua
đi theo đường lối nhà A-kháp, đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa như nhà A-kháp,
vì có họ hàng với nhà A-kháp.
28
Cùng
với vua Giô-ram, con vua A-kháp, vua đi đánh vua A-ram là Kha-da-ên, ở Ra-mốt
Ga-la-át. Nhưng quân A-ram đã đánh vua Giô-ram bị thương. 29 Vua
Giô-ram đã quay về Gít-rơ-en để chữa trị, vì các thương tích quân A-ram đã gây
cho vua ở Ra-ma, trong lúc giao chiến với vua A-ram là Kha-da-ên. Vua Giu-đa là
A-khát-gia-hu, con vua Giơ-hô-ram, đã xuống Gít-rơ-en thăm vua Giô-ram, con vua
A-kháp, vì vua này đang bị bệnh.
Chương 09
5.
Truyện Vua Giê-Hu
Xức
dầu phong vương cho ông Giê-hu
1
Ngôn
sứ Ê-li-sa gọi một người trong nhóm anh em ngôn sứ và bảo: "Hãy thắt lưng
và cầm theo lọ dầu này, mà đi tới Ra-mốt Ga-la-át. 2 Khi đến nơi,
anh hãy tìm cách nhận mặt ông Giê-hu, con ông Giơ-hô-sa-phát, cháu ông Nim-si.
Anh đến và mời ông ấy đứng lên, ra khỏi chỗ các anh em đồng đội, rồi dẫn vào
một phòng kín đáo. 3 Sau đó, anh lấy lọ dầu mà đổ trên đầu ông và
nói: "Ðức Chúa phán thế này: Ta xức dầu phong ngươi làm vua Ít-ra-en. Rồi
anh mở cửa, trốn ngay đi, đừng chậm trễ."
4
Người
thanh niên, một ngôn sứ trẻ, trẩy đi Ra-mốt Ga-la-át. 5 Khi anh đến
nơi, thì các tướng lãnh quân đội đang ngồi với nhau. Người thanh niên nói:
"Thưa tướng quân, tôi có điều phải nói với ngài." Ông Giê-hu hỏi:
"Với ai trong chúng tôi?" Anh trả lời: "Thưa, với tướng quân.” 6
Khi đó, ông Giê-hu đứng lên, đi vào trong nhà. Người thanh niên đổ dầu
lên đầu ông và nói: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này:
"Ta xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Ít-ra-en là dân của Ðức Chúa. 7
Ngươi sẽ đánh phạt nhà A-kháp, chủ ngươi, để ta đòi I-de-ven đền nợ máu
các tôi tớ Ta là các ngôn sứ và mọi tôi tớ của Ðức Chúa. 8 Toàn thể
nhà A-kháp sẽ bị diệt vong. Ta sẽ diệt trừ mọi đàn ông con trai của nhà A-kháp,
nô lệ cũng như tự do ở Ít-ra-en. 9 Ta sẽ xử với nhà A-kháp như với
nhà Gia-róp-am, con Nơ-vát, như với nhà Ba-sa, con A-khi-gia. 10 Còn
I-de-ven, thì chó sẽ ăn thịt nó ngoài đồng Gít-rơ-en, mà không có người chôn
cất." Sau đó, người thanh niên mở cửa, chạy trốn.
Ông
Giê-hu được tôn làm vua
11
Ông
Giê-hu ra gặp các thuộc hạ của chủ mình. Họ hỏi ông: "Bình an chứ? Tại sao
tên khùng ấy lại đến gặp ông?" Ông Giê-hu đáp: "Các ông biết con
người ấy và bài ca lải nhải của y mà!” 12 Nhưng họ bảo: "Ông
nói dối! Kể lại cho chúng tôi đi!" Ông nói: "Y nói với tôi thế này
thế này; y bảo Ðức Chúa phán rằng: Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua Ít-ra-en.”
13 Họ vội vàng lấy áo choàng trải lên đầu thềm cấp, dưới chân ông.
Họ thổi tù và, rồi hô lên: "Giê-hu làm vua!"
Ông
Giê-hu chuẩn bị tiếm quyền
14
Ông
Giê-hu, con ông Giơ-hô-sa-phát, cháu ông Nim-si, âm mưu chống lại vua Giô-ram.
Lúc đó, vua Giô-ram và toàn thể Ít-ra-en đang bảo vệ Ra-mốt Ga-la-át chống lại
vua A-ram là Kha-da-ên. 15 Nhưng vua Giơ-hô-ram đã về điều trị ở
Gít-rơ-en, vì các thương tích quân A-ram đã gây cho vua, trong lúc vua giao
chiến với vua A-ram là Kha-da-ên. Ông Giê-hu nói: "Nếu thực sự các ông
đồng lòng với tôi, thì đừng ai thoát khỏi thành mà đi báo tin cho Gít-rơ-en.” 16
Ông Giê-hu lên xe đi Gít-rơ-en, vì vua Giô-ram đang liệt giường ở đó; vua
Giu-đa là A-khát-gia đã xuống thăm vua Giô-ram.
17
Người
lính canh đứng trên tháp Gít-rơ-en nhìn thấy đoàn quân của ông Giê-hu đang đến,
thì nói: "Tôi nhìn thấy một đoàn quân." Vua Giơ-hô-ram bảo: "Hãy
chọn một kỵ binh, sai đi gặp họ và hỏi: Bình an chứ?” 18 Người kỵ
binh đi gặp ông Giê-hu và nói: "Vua phán thế này: Bình an chứ?" Ông
Giê-hu trả lời: "Bình an hay không, việc gì đến ngươi! Lui ra đằng sau
ta!" Người lính canh lại báo tin: "Sứ giả đã tới chỗ họ, nhưng không
trở về.” 19 Vua lại sai người kỵ binh thứ hai, người ấy đến với họ
và nói: "Vua phán thế này: Bình an chứ?" Ông Giê-hu đáp: "Bình
an hay không, việc gì đến ngươi! Lui ra đằng sau ta!” 20 Người lính
canh lại báo tin: "Sứ giả đã tới chỗ họ, nhưng không trở về. Kiểu đánh xe
thì giống như kiểu của ông Giê-hu, con ông Nim-si: Ông ấy đánh xe như điên!” 21
Vua Giơ-hô-ram bảo: "Thắng xe đi!" Và người ta thắng xe. Vua
Ít-ra-en là Giơ-hô-ram và vua Giu-đa là A-khát-gia-hu đi ra, mỗi người ngồi
trên xe mình. Hai vua đi ra gặp ông Giê-hu và thấy ông ở thửa đất ông Na-vốt,
người Gít-rơ-en.
Vua
Giơ-hô-ram bị sát hại
22
Vậy
vua Giơ-hô-ram vừa thấy ông Giê-hu, thì nói: "Ông Giê-hu, bình an
chứ?" Ông Giê-hu trả lời: "Bình an thế nào được, bao lâu I-de-ven, mẹ
ông, còn dở những trò dâm đãng và làm bao nhiêu chuyện phù phép như thế!” 23
Vua Giơ-hô-ram liền cho quay xe lại và chạy trốn. Vua nói với vua
A-khát-gia-hu: "Phản loạn, ông A-khát-gia ơi!” 24 Nhưng ông
Giê-hu, đang cầm sẵn cung trong tay, bắn trúng khoảng giữa hai vai vua
Giơ-hô-ram; mũi tên xuyên qua tim vua Giơ-hô-ram mà đi ra, khiến vua gục ngã
trong xe. 25 Ông Giê-hu bảo viên sĩ quan Bít-ca: "Lôi nó ra,
ném vào thửa đất ông Na-vốt, người Gít-rơ-en. Anh còn nhớ chứ: Khi tôi và anh
cưỡi ngựa song song tháp tùng cha nó là A-kháp, Ðức Chúa đã tuyên sấm về nó như
thế này: 26 Hôm qua, Ta đã chẳng thấy máu của Na-vốt, và của con cái
Na-vốt sao? - Sấm ngôn của Ðức Chúa. Ta sẽ bắt ngươi phải trả nợ máu như thế,
ngay tại thửa đất ấy- Sấm ngôn của Ðức Chúa! Vậy bây giờ, lôi nó ra, ném vào
thửa đất ấy, theo lời Ðức Chúa!"
Vua
A-khát-gia bị sát hại
27
Thấy
thế, vua Giu-đa là A-khát-gia chạy trốn theo đường Bết Ha Gan. Ông Giê-hu đuổi
theo và nói: "Giết cả nó nữa!" Và người ta đã đánh vua bị thương ngay
trên xe, ở dốc Gua gần Gíp-lơ-am. Vua chạy trốn vào Mơ-ghít-đô và chết ở đó. 28
Các thuộc hạ của vua đưa vua lên xe chở về Giê-ru-sa-lem, và chôn cất vua
trong mồ bên cạnh tổ tiên vua trong Thành vua Ða-vít. 29 Vua
A-khát-gia đã lên ngôi cai trị Giu-đa vào năm thứ mười một triều vua Giô-ram,
con vua A-kháp.
Bà
I-de-ven bị sát hại
30
Ông
Giê-hu vào Gít-rơ-en. Nghe tin đó, bà I-de-ven đánh phấn tô mắt và trang điểm
mái tóc, rồi từ cửa sổ nhìn xuống. 31 Khi ông Giê-hu đi vào cửa
thành, bà nói: "Bình an chứ, Dim-ri, tên giết chủ?” 32 Ông
Giê-hu ngẩng mặt lên phía cửa sổ và nói: "Có ai theo ta không, có ai
không?" Có hai hoặc ba viên thái giám nhìn xuống phía ông. 33 Ông
nói: "Quẳng nó xuống!" Họ quẳng bà xuống; máu của bà bắn vào tường và
vào các con ngựa. Ông đạp chân lên bà,34 rồi đi vào mà ăn uống. Sau đó, ông
nói: "Các anh lo vụ con khốn kiếp ấy đi và chôn cất nó, vì nó là công
chúa.” 35 Họ đi chôn bà, nhưng chỉ tìm thấy cái sọ, hai chân và hai
bàn tay của bà. 36 Họ về báo tin cho ông Giê-hu. Ông nói: "Ðây
là lời Ðức Chúa đã dùng tôi trung Người là ông Ê-li-a, người Tít-be, mà phán:
"Trong thửa đất Gít-rơ-en, chó sẽ ăn thịt I-de-ven. 37 Xác
I-de-ven sẽ ra như phân trên mặt đồng ruộng, trong thửa đất Gít-rơ-en, khiến
người ta không thể nói được: Ðó là I-de-ven!"
Chương 10
Hoàng
tộc Ít-ra en bị sát hại
1
Vua
A-kháp có bảy mươi người con ở Sa-ma-ri. Ông Giê-hu viết thư gửi đến Sa-ma-ri
cho các thủ lãnh của Gít-rơ-en, các kỳ mục và các tổng trấn của vua A-kháp. Thư
viết: 2 "Vì các ông có các hoàng tử của chủ các ông ủng hộ, vì
các ông có nào xe, nào ngựa, nào thành trì kiên cố, nào khí giới, cho nên khi
thư này đến tay các ông, 3 các ông hãy xem ai là người ưu tú và xứng
đáng nhất trong số các hoàng tử của chủ các ông, thì đặt người đó lên ngôi kế
vị vua cha. Các ông hãy đến chiến đấu cho nhà của chủ các ông.” 4 Họ
hết sức kinh hãi, họ nói với nhau: "Hai vua còn không đứng vững trước mặt
ông ấy, thì làm sao chúng ta đứng vững được?” 5 Quan đại nội thị
thần, ông thị trưởng, các kỳ mục và tổng trấn liền sai người đến nói với ông
Giê-hu: "Chúng tôi là thuộc hạ của ông. Tất cả những gì ông nói với chúng
tôi, chúng tôi sẽ làm. Chúng tôi sẽ không tôn ai lên làm vua cả. Ông cứ làm
những gì ông thấy nên làm."
6
Ông
Giê-hu viết cho họ bức thư thứ hai, trong đó ông nói: "Nếu các ông ủng hộ
tôi và nghe lời tôi kêu gọi, thì hãy lấy đầu các người con của chủ các ông, rồi
đến gặp tôi ngày mai vào giờ này, ở Gít-rơ-en." Bảy mươi người con của vua
đang ở tại nhà các quan lớn trong thành. Các quan lớn này có nhiệm vụ dưỡng dục
họ. 7 Vậy, thư ấy vừa đến nơi, các quan lớn liền bắt bảy mươi người
con của vua, cắt cổ, rồi bỏ đầu vào giỏ mà gửi cho ông Giê-hu ở Gít-rơ-en.
8
Sứ
giả đến báo tin cho ông: "Họ đã mang đầu các con vua tới rồi." Ông
bảo: "Hãy chất làm hai đống nơi cửa thành cho đến sáng.” 9 Sáng
hôm sau, ông ra ngoài, đứng nói với toàn dân: "Các ngươi đều vô can! Chính
tôi đã âm mưu hại chủ của tôi và đã giết ông ấy! Nhưng ai đã hạ sát tất cả
những người này? 10 Vậy các người hãy biết rằng không có lời nào của Ðức Chúa,
không có lời nào của Ðức Chúa chống lại nhà A-kháp mà lại ra vô hiệu: Ðức Chúa
thực hiện những gì Người đã dùng ông Ê-li-a, tôi trung của Người, mà phán.” 11
Ông Giê-hu hạ sát tất cả những người còn sót lại của nhà A-kháp ở
Gít-rơ-en, mọi quan lớn, những người quen biết và tư tế của vua; không để một
mạng nào sống sót.
Các
ông hoàng Giu-đa bị hạ sát
12
Rồi
ông Giê-hu lên đường đi Sa-ma-ri. Trên đường đi, lúc ở Bết E-két Ha-rô-im, 13
ông gặp các anh em của ông A-khát-gia-hu, vua Giu-đa, thì hỏi: "Các
ông là ai?" Họ đáp: "Chúng tôi là anh em của vua A-khát-gia-hu. Chúng
tôi xuống hỏi thăm các hoàng tử và các con bà hoàng thái hậu.” 14 Ông
nói: "Bắt sống lấy chúng!" Người ta bắt sống họ và cắt cổ ở bể nước
Bết E-két, tất cả là bốn mươi hai người, không sót một ai.
Ông
Giê-hu và ông Giơ-hô-na-đáp
15
Ông
rời đó mà đi và gặp ông Giơ-hô-na-đáp, con ông Rê-kháp, ra đón ông. Ông chào và
nói: "Ông có thực lòng với tôi như tôi thực lòng với ông không?" Ông
Giơ-hô-na-đáp nói: "Có" Ông Giê-hu nói: "Nếu có, thì hãy bắt tay
tôi." Ông Giơ-hô-na-đáp liền bắt tay ông Giê-hu. Ông này đưa ông lên xe,
cho ngồi bên cạnh. 16 Ông Giê-hu nói: "Hãy đi với tôi và chứng
kiến lòng nhiệt thành của tôi đối với Ðức Chúa!" Rồi ông đưa ông ấy lên xe.
17 Vào Sa-ma-ri, ông hạ sát tất cả những người còn lại của nhà
A-kháp ở Sa-ma-ri, ông tiêu diệt hết, như lời Ðức Chúa đã phán với ông Ê-li-a.
Sát
hại các tín đồ thần Ba-an và phá huỷ đền thờ
18
Ông
Giê-hu tập họp toàn dân lại và nói với họ: "A-kháp phụng sự thần Ba-an còn
ít, chứ Giê-hu đây sẽ phụng sự người nhiều. 19 Vậy bây giờ, hãy
triệu tập lại đây cho tôi tất cả các ngôn sứ của thần Ba-an, mọi tín đồ và tư
tế của thần, đừng có ai vắng mặt, vì tôi sẽ dâng một hy lễ lớn kính thần Ba-an.
Ai vắng mặt, sẽ không được sống." Ông Giê-hu lập mưu diệt trừ những kẻ
phụng sự thần Ba-an. 20 Ông Giê-hu nói: "Hãy triệu tập một buổi
họp long trọng kính thần Ba-an." Và người ta đã triệu tập buổi họp đó. 21
Ông Giê-hu sai người đi khắp Ít-ra-en. Mọi tín đồ thần Ba-an đều đến,
chẳng còn ai mà lại không đến. Họ vào đền Ba-an. Ðền này chỗ nào cũng chật ních
người. 22 Ông Giê-hu bảo người phụ trách phòng lễ phục: "Ðem lễ
phục ra, phát cho mọi người phụng sự thần Ba-an." Người ấy đem lễ phục ra
cho họ. 23 Ông Giê-hu cùng với ông Giơ-hô-na-đáp, con ông Rê-kháp,
vào đền Ba-an, ông nói với những người phụng sự thần Ba-an: "Hãy lục soát
xem: đừng để những người phụng sự Ðức Chúa có mặt ở đây với các người; chỉ để
những người phụng sự Ba-an mà thôi.” 24 Rồi người ta vào dâng hy lễ
và lễ toàn thiêu.
Nhưng
ông Giê-hu đã đặt tám mươi người bên ngoài và nói: "Ai để cho một người
nào trong các kẻ ta sắp nộp vào tay các người thoát được, thì phải lấy mạng thế
mạng.” 25 Vậy, khi lễ toàn thiêu đã hoàn tất, ông Giê-hu bảo các thị
vệ và sĩ quan: "Vào giết chúng đi! Ðừng để cho ai ra ngoài!" Các thị
vệ và sĩ quan dùng lưỡi gươm mà giết chúng, quăng xác đi. Rồi họ vào tận cung
thánh của đền Ba-an; 26 họ lôi trụ thờ của đền Ba-an ra mà đốt đi. 27
Họ phá huỷ trụ đá kính thần Ba-an, phá huỷ đền Ba-an, biến thành nhà tiêu
cho đến ngày nay.
Ông
Giê-hu làm vua Ít-ra-en (841-814)
28
Như
thế, vua Giê-hu làm cho thần Ba-an biến khỏi Ít-ra-en. 29 Tuy nhiên,
vua Giê-hu không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và
lôi kéo Ít-ra-en phạm theo: đó là thờ những con bê bằng vàng ở Bết Ên và ở Ðan.
30 Ðức Chúa phán với vua Giê-hu: "Vì ngươi đã làm đúng những
điều Ta coi là ngay thẳng, và ngươi đã xử với nhà A-kháp y như lòng Ta muốn,
thì con cháu ngươi sẽ ngự trên ngai cai trị Ít-ra-en cho đến đời thứ bốn.” 31
Nhưng vua Giê-hu đã không hết lòng hết dạ chú tâm đi theo lề luật Ðức
Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en: vua đã không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am đã
phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.
32
Trong
những ngày ấy, Ðức Chúa bắt đầu cắt xén lãnh thổ Ít-ra-en. Ông Kha-da-ên đánh
bại họ trên toàn lãnh thổ Ít-ra-en, 33 từ sông Gio-đan đến phía mặt
trời mọc, toàn miền Ga-la-át, những vùng thuộc các chi tộc Gát, Rưu-vên và
Mơ-na-se, từ A-rô-e trên bờ suối Ác-nôn, miền Ga-la-át và Ba-san.
34
Những
truyện còn lại của vua Giê-hu, mọi việc vua làm, cũng như mọi chiến công của
vua, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 35
Vua Giê-hu nằm xuống với tổ tiên và được chôn cất ở Sa-ma-ri. Con vua là
Giơ-hô-a-khát đã lên ngôi kế vị vua cha. 36 Thời gian vua Giê-hu cai
trị Ít-ra-en ở Sa-ma-ri là hai mươi tám năm.
Chương 11
6.
Từ Triều A-Than-Gia Ðến Khi Ông Ê-Li-Sa Qua Ðời
Truyện
bà A-than-gia (841-835) (2 Sb 22:10-23:21)
1
Bà
A-than-gia, thân mẫu vua A-khát-gia-hu, thấy con mình đã chết, thì đứng lên tiêu
diệt tất cả hoàng tộc. 2 Nhưng bà Giơ-hô-se-va, ái nữ vua Giô-ram và
là chị của vua A-khát-gia-hu, đã ẵm Giô-át, con vua A-khát-gia-hu, lén đưa cậu
ra khỏi số các hoàng tử sẽ bị sát hại, giấu trong phòng ngủ cùng với người vú
nuôi. Như thế, người ta đã giấu được cậu bé khuất mắt bà A-than-gia, và cậu
không bị giết. 3 Cậu Giô-át ở lại với bà Giơ-hô-se-va trong Nhà Ðức
Chúa, lẩn trốn ở đó sáu năm, suốt thời bà A-than-gia cai trị xứ sở.
4
Năm
thứ bảy, ông Giơ-hô-gia-đa sai người đi mời các vị chỉ huy một trăm quân thuộc
đạo binh Ca-ri và thuộc đoàn thị vệ. Ông cho họ vào trong Nhà Ðức Chúa với ông.
Ông kết ước với họ, bắt họ tuyên thệ trong Nhà Ðức Chúa, và cho họ được thấy
hoàng tử. 5 Ông truyền lệnh cho họ như sau: "Ðây là điều các
ông phải làm: Một phần ba các ông, những người đang phiên trực ngày sa-bát, sẽ
canh giữ đền vua, 6 một phần ba sẽ đứng ở cửa Xua, và một phần ba ở
cửa phía sau đoàn thị vệ. Các ông sẽ luân phiên nhau canh giữ đền vua. 7 Hai
đội khác của các ông, những người hết phiên trực ngày sa-bát, sẽ canh giữ Nhà
Ðức Chúa. 8 Các ông sẽ đứng chung quanh vua, ai nấy đều cầm khí giới
trong tay. Kẻ nào xâm phạm hàng ngũ các ông, thì sẽ bị xử tử. Khi vua đi ra đi
vào, các ông luôn phải ở bên cạnh vua."
9
Các
vị chỉ huy một trăm quân làm đúng mọi điều tư tế Giơ-hô-gia-đa đã truyền. Mỗi
vị chỉ huy đem theo người của họ, những người đang phiên trực ngày sa-bát, cùng
với những người hết phiên trực ngày sa-bát. Họ đến với tư tế Giơ-hô-gia-đa. 10
Tư tế trao cho các vị chỉ huy trăm quân, giáo và thuẫn của vua Ða-vít để
trong Nhà Ðức Chúa. 11 Các thị vệ ai nấy đều cầm khí giới trong tay,
đứng dàn từ phía nam đến phía bắc Nhà Ðức Chúa, trước bàn thờ và trước Nhà Ðức
Chúa cốt để bao quanh vua. 12 Ông Giơ-hô-gia-đa rước hoàng tử ra,
đội vương miện và trao cuộn Chứng Ước. Người ta phong vương và xức dầu cho
hoàng tử, rồi vỗ tay hô lên: "Vạn tuế đức vua!"
13
Khi
bà A-than-gia nghe tiếng dân chúng la, bà đi về phía họ đang ở trong Nhà Ðức
Chúa. 14 Bà nhìn lên, thì kìa vua đứng trên bệ cao theo nghi lễ
thường dùng, các vị chỉ huy và các người thổi kèn ở bên cạnh vua. Toàn dân
trong xứ hân hoan reo hò giữa tiếng kèn trỗi vang. Bà A-than-gia liền xé áo
mình ra và kêu lên: "Phản bội! Phản bội!” 15 Tư tế
Giơ-hô-gia-đa truyền lệnh cho các vị chỉ huy một trăm quân đứng đầu toán binh,
ông bảo họ: "Lôi nó ra khỏi hàng quân! Ai theo nó, thì lấy gươm chém
chết!" Tư tế nói: "Nó không được chết trong Nhà Ðức Chúa!” 16 Họ
liền túm lấy bà. Và khi bà đi qua lối Cửa Ngựa để tới đền vua; thì họ giết bà ở
đó.
17
Ông
Giơ-hô-gia-đa lập giao ước giữa Ðức Chúa, vua và dân, nhờ đó dân trở thành dân
của Ðức Chúa. Ông cũng lập giao ước giữa vua và dân. 18 Rồi toàn dân
trong xứ kéo tới đền Ba-an mà phá huỷ các bàn thờ và tượng thần. Còn Mát-tan,
tư tế của thần Ba-an, thì họ giết ngay trước các bàn thờ.
Tư
tế Giô-hô-gia-đa đặt những trạm canh để giữ Nhà Ðức Chúa. 19 Rồi ông
đem theo các vị chỉ huy một trăm quân, quân Ca-ri, các thị vệ và toàn dân trong
xứ. Họ rước vua từ Nhà Ðức Chúa xuống, sau đó đi qua Cửa Các Thị Vệ mà tới đền
vua. Vua Giô-át ngự lên ngai vua. 20 Toàn dân trong xứ thì vui mừng,
còn thành vẫn không động tĩnh. Về phần bà A-than-gia, họ đã lấy gươm giết chết
trong đền vua.
Chương 12
Vua
Giô-át cai trị Giu-đa (835-796) (2 Sb 24:1-16)
1
Giô-át
lên làm vua khi được bảy tuổi. 2 Năm thứ bảy triều vua Giê-hu, vua
Giô-át lên ngôi và đã trị vì ở Giê-ru-sa-lem bốn mươi năm. Thân mẫu vua là bà
Xíp-gia, người Bơ-e Se-va. 3 Suốt cả đời, vua Giô-át đã làm điều
ngay chính trước mắt Ðức Chúa, vì vua đã được tư tế Giơ-hô-gia-đa dạy dỗ. 4
Tuy nhiên, các tế đàn ở nơi cao không bị phá huỷ; dân chúng vẫn còn tế lễ
và đốt hương trên các nơi cao đó.
5
Vua
Giô-át nói với các tư tế: "Tất cả số bạc nộp thuế cho Nhà Ðức Chúa, số bạc
mỗi người phải dâng, và tất cả số bạc mỗi người tự ý dâng cho Nhà Ðức Chúa, 6
mỗi tư tế sẽ nhận từ những người mình quen biết, và các tư tế sẽ sửa chữa
những chỗ hư hại trong Nhà Ðức Chúa, ở bất cứ nơi nào thấy hư hại.” 7 Ðến
năm thứ hai mươi ba đời vua Giô-át, các tư tế vẫn không sửa chữa những chỗ hư
hại trong Nhà Ðức Chúa. 8 Vua Giô-át mới triệu tập tư tế
Giơ-hô-gia-đa và các tư tế khác, rồi nói với họ: "Sao các ông lại không
sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà Ðức Chúa? Vậy từ nay, các ông đừng nhận bạc
từ những người quen biết nữa, nhưng hãy trao lại để sửa chữa những chỗ hư hại
trong Nhà Ðức Chúa.” 9 Các tư tế bằng lòng không nhận bạc của dân và
khỏi phải lo sửa chữa những chỗ hư hại trong Nhà Ðức Chúa.
10
Tư
tế Giơ-hô-gia-đa lấy một cái hòm, khoét lỗ trên nắp và đặt hòm đó bên cạnh trụ
đá, phía bên phải cửa vào Nhà Ðức Chúa. Các tư tế canh ngưỡng cửa bỏ vào hòm
tất cả số bạc người ta dâng vào Nhà Ðức Chúa. 11 Khi nào các ông
thấy có nhiều bạc trong hòm, thì viên thư ký của vua đi lên cùng với vị thượng
tế. Người ta đúc thành thoi, rồi đếm số thoi bạc có trong Nhà Ðức Chúa. 12
Sau khi kiểm lại số bạc, người ta trao cho những người lo công việc sửa
chữa, những người phụ trách Nhà Ðức Chúa. Những người này chi bạc cho các thợ
mộc, các người thợ làm việc tại nhà Ðức Chúa, 13 cho các thợ nề và
thợ đá; họ cũng chi bạc để mua gỗ và đá đẽo, để sửa chữa những chỗ hư hại trong
Nhà Ðức Chúa; tóm lại, họ chi bạc cho mọi phí tổn liên quan đến việc sửa chữa
Nhà Ðức Chúa. 14 Nhưng người ta không lấy bạc dâng vào Nhà Ðức Chúa
để làm chậu bạc, dao, bình rảy, kèn, hay bất cứ đồ vật nào bằng vàng, bằng bạc
dùng trong Nhà Ðức Chúa. 15 Người ta trao số bạc ấy cho những người
lo công việc sửa chữa, và họ dùng để sửa chữa Nhà Ðức Chúa. 16 Những
người nhận bạc cứ trả cho các người lo công việc sửa chữa, mà không ai đòi họ
phải tính sổ, vì họ hành động liêm chính. 17 Còn số bạc người ta xin
lễ đền tội và lễ tạ tội, thì không nộp vào Nhà Ðức Chúa: số bạc ấy thuộc về các
tư tế.
18
Bấy
giờ, vua A-ram là Kha-da-ên tiến quân đánh thành Gát và chiếm được thành này.
Sau đó, vua Kha-da-ên định tiến đánh Giê-ru-sa-lem. 19 Vua Giu-đa là
Giô-át lấy mọi đồ vật thánh mà các vua Giu-đa tổ tiên mình là Giơ-hô-sa-phát,
Giơ-hô-ram và A-khát-gia-hu, đã dâng cúng, cũng như các đồ vật mà chính vua đã
dâng cúng, và tất cả vàng có trong kho Nhà Ðức Chúa và trong đền vua. Vua gửi
tất cả những thứ đó cho vua A-ram là Kha-da-ên, và vua này rời khỏi
Giê-ru-sa-lem.
20
Những
truyện còn lại của vua Giô-át và tất cả những gì vua làm, đã chẳng được ghi
chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 21 Các thuộc hạ của vua
Giô-át đứng lên, âm mưu chống lại vua và hạ sát vua ở Bết Mi-lô, khi vua xuống
Xi-la. 22 Các thuộc hạ của vua là Giô-da-vát, con bà Sim-át, và
Giơ-hô-da-vát, con ông Sô-me, hạ sát vua, và vua đã chết. Người ta chôn cất vua
bên cạnh tổ tiên vua trong Thành Ða-vít. Con vua là A-mát-gia lên ngôi kế vị
vua cha.
Chương 13
Vua
Giơ-hô-a-khát cai trị Ít-ra-en (814-798)
1
Năm
thứ hai mươi ba triều vua Giô-át, con vua A-khát-gia-hu, vua Giu-đa, ông
Giơ-hô-a-khát, con vua Giê-hu, lên làm vua ở Sa-ma-ri, trị vì Ít-ra-en được mười
bảy năm. 2 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, đã bắt chước vua
Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, phạm thứ tội trước kia vua Gia-róp-am, đã lôi kéo
Ít-ra-en phạm theo; và vua không dứt ra được.
3
Ðức
Chúa đã nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en. Người nộp họ vào tay vua Kha-da-ên, vua
A-ram, và vua Ben Ha-đát, con vua Kha-da-ên, trong suốt triều đại hai vua này. 4
Vua Giơ-hô-a-khát cố làm cho nét mặt Ðức Chúa dịu lại. Và Ðức Chúa nhận
lời vua, vì Người đã thấy cảnh Ít-ra-en bị vua A-ram áp bức. 5 Ðức
Chúa ban cho Ít-ra-en một vị cứu tinh giải thoát họ khỏi ách đô hộ của A-ram.
Con cái Ít-ra-en lại được ở trong lều trại của họ như trước. 6 Nhưng
họ không dứt bỏ các tội nhà Gia-róp-am đã lôi kéo họ phạm theo. Họ cứ đi theo
đường tội lỗi đó. Ngay cả cột thờ vẫn còn đứng sừng sững ở Sa-ma-ri. 7 Ðức
Chúa chỉ để lại cho vua Giơ-hô-a-khát năm mươi kỵ binh, mười xe trận, và mười
ngàn bộ binh, bởi vì vua A-ram đã tiêu diệt quân Ít-ra-en và nghiền nát họ ra
như tro bụi người ta chà đạp.
8
Những
truyện còn lại của vua Giơ-hô-a-khát và mọi việc vua làm, cũng như các chiến
công của vua, đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en
đó sao? 9 Vua Giơ-hô-a-khát đã nằm xuống với tổ tiên và được chôn cất ở
Sa-ma-ri. Con vua là Giô-át lên ngôi kế vị vua cha.
Vua
Giô-át cai trị Ít-ra-en (798-783)
10
Năm
thứ ba mươi bảy triều vua Giô-át, vua Giu-đa, con vua Giơ-hô-a-khát là Giô-át
lên làm vua ở Sa-ma-ri, trị vì Ít-ra-en được mười sáu năm. 11 Vua đã
làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa. Vua không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am, con
ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo. Vua cứ đi theo đường tội lỗi
đó.
12
Các
truyện còn lại của vua Giô-át và tất cả mọi việc vua làm, cũng như chiến công
của vua trong cuộc giao chiến với vua Giu-đa là A-mát-gia, đã chẳng được ghi
chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 13 Vua Giô-át đã an nghỉ
với tổ tiên, và vua Gia-róp-am lên ngôi. Vua Giô-át được chôn cất ở Sa-ma-ri
bên cạnh các vua Ít-ra-en.
Ngôn
sứ Ê-li-sa qua đời
14
Ông
Ê-li-sa lâm bệnh. Cơn bệnh sẽ làm cho ông chết. Vua Ít-ra-en là Giô-át xuống
gặp ông, áp sát mặt vào mặt ông mà khóc. Vua nói: "Cha ơi! Cha ơi! Hỡi
chiến xa và chiến mã của Ít-ra-en!” 15 Ông Ê-li-sa bảo: "Vua
cầm lấy cung tên!" Vua liền cầm lấy cung tên. 16 Ông Ê-li-sa
nói với vua Ít-ra-en: "Vua giương cung lên!" Vua liền giương cung.
Ông Ê-li-sa đặt tay lên tay vua 17 và nói: "Vua mở cửa sổ về hướng
đông", và vua mở cửa sổ. Ông Ê-li-sa bảo: "Vua bắn đi!" và vua
bắn. Ông Ê-li-sa lại bảo: "Mũi tên chiến thắng của Ðức Chúa! Mũi tên chiến
thắng A-ram! Vua sẽ đánh A-ram ở A-phếch cho tới mức tận diệt chúng."
18
Ông
Ê-li-sa nói: "Vua cầm lấy tên", Và vua đã cầm lấy tên. Ông Ê-li-sa
lại bảo vua Ít-ra-en: "Vua đập xuống đất!", và vua đã đập xuống ba
lần, rồi ngưng. 19 Người của Thiên Chúa nổi giận với vua, ông nói:
"Ðáng lẽ phải đập năm sáu lần, thì bấy giờ vua mới đánh A-ram cho tới mức
tận diệt chúng. Nhưng bây giờ, vua chỉ đánh được A-ram ba lần thôi."
20
Ông
Ê-li-sa qua đời và người ta đã chôn cất ông. Hàng năm, các toán quân Mô-áp xâm
nhập xứ sở. 21 Vậy, có lần người ta đang đem một người chết đi chôn,
thì thấy một toán quân của bọn đó, họ liền vất người chết vào mộ ông Ê-li-sa,
rồi bỏ đi. Người chết vừa đụng phải hài cốt của ông Ê-li-sa thì sống lại và
đứng thẳng dậy.
Vua
Giô-át chiến thắng quân A-ram
22
Suốt
triều vua Giơ-hô-a-khát, vua A-ram là Kha-da-ên đã áp bức người Ít-ra-en. 23
Nhưng Ðức Chúa tỏ lòng nhân từ và chạnh lòng thương đoái nhìn họ, vì
Người đã lập giao ước với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. Người không
muốn diệt trừ họ, và cho đến nay vẫn không xua đuổi họ cho khuất nhan Người. 24
Vua A-ram là Kha-da-ên qua đời, và con vua là Ben Ha-đát lên ngôi kế vị
vua cha. 25 Vua Giô-át, con vua Giơ-hô-a-khát, lấy lại được những
thành mà vua Kha-da-ên trong một cuộc chiến, đã chiếm được của vua
Giơ-hô-a-khát, cha vua Giô-át. Những thành này khi đó nằm trong tay vua Ben
Ha-đát, con vua kha-da-ên. Vua Giô-át đã đánh bại vua Ben Ha-đát ba lần và thu
hồi được các thành của Ít-ra-en.
Chương 14
VII.
Hai Vương Quốc
Cho
Tới Ngày Sa-Ma-Ri Thất Thủ
Vua
A-mát-gia-hu cai trị Giu-đa (796-781) (2 Sb 25:1-28)
1
Năm
thứ hai triều vua Giô-át, con vua Giơ-hô-a-khát, vua Ít-ra-en, thì con vua
Giô-át, vua Giu-đa, là A-mát-gia-hu, lên làm vua. 2 Khi lên ngôi,
vua được hai mươi lăm tuổi và trị vì tại Giê-ru-sa-lem hai mươi chín năm. Thân
mẫu của vua là bà Giơ-hô-át-đan người Giê-ru-sa-lem. 3 Vua đã điều
ngay chính trước mắt Ðức Chúa, tuy không bằng vua Ða-vít, tổ tiên vua. Trong
mọi sự, vua đã làm như vua cha là Giô-át. 4 Tuy nhiên, các tế đàn ở
nơi cao không bị phá huỷ; dân chúng vẫn còn tế lễ và đốt hương trên các nơi cao
đó.
5
Vậy
khi đã nắm vững vương quyền trong tay, vua A-mát-gia-hu hạ sát những thuộc hạ
đã hạ sát vua cha. 6 Nhưng vua không xử tử con cái những kẻ sát nhân
ấy, như đã chép trong sách Luật Mô-sê, chiếu theo lệnh Ðức Chúa truyền rằng:
"Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người
sẽ bị xử tử về tội của mình."
7
Chính
vua đã hạ sát mười ngàn quân Ê-đôm tại thung lũng Muối, và trong cuộc chiến vua
đã chiếm được thành luỹ Tảng Ðá, mà vua đặt tên cho là Gióc-thơ-ên; tên này vẫn
tồn tại đến ngày nay.
8
Khi
ấy, vua A-mát-gia sai sứ giả đến vua Giô-át con vua Giơ-hô-a-khát, cháu vua
Ít-ra-en là Giê-hu, và nói: "Nào đến đây, ta đọ sức với nhau!” 9 Vua
Ít-ra-en là Giô-át mới sai người đến nói với vua A-mát-gia-hu, vua Giu-đa:
"Cỏ gai trên núi Li-băng sai người đến nói với cây bá hương Li-băng:
"Xin gả con gái của ngài cho con trai tôi. Nhưng một con dã thú Li-băng đi
qua đã đạp lên cỏ gai. 10 Vì đã đánh bại Ê-đôm, nên ông lên mặt. Ông
cứ vênh vang mà ở nhà! Chứ sao ông lại muốn khiêu chiến, để rồi bị ngã gục cùng
với Giu-đa?"
11
Nhưng
vua A-mát-gia-hu không chịu nghe. Bấy giờ, vua Ít-ra-en là Giô-át mới tiến lên;
vua Giô-át và vua Giu-đa là A-mát-gia-hu đọ sức với nhau ở Bết Se-mét thuộc
Giu-đa. 12 Giu-đa bị Ít-ra-en đánh bại; quân Giu-đa chạy trốn, ai về
lều nấy. 13 Còn vua Giu-đa là A-mát-gia-hu, con vua Giô-át, cháu vua
A-khát-gia-hu, thì bị vua Ít-ra-en là Giô-át bắt ở Bết Se-mét, và điệu về
Giê-ru-sa-lem. Vua đập phá tường thành Giê-ru-sa-lem, tạo ra một chỗ hổng dài
hai trăm thước, từ Cửa Ép-ra-im đến Cửa Góc thành. 14 Sau đó, vua
lấy tất cả vàng bạc cùng mọi đồ vật có trong Nhà Ðức Chúa và trong các kho của
đền vua, bắt các con tin, rồi trở về Sa-ma-ri.
15
Các
truyện còn lại của vua Giô-át, những gì vua làm, cũng như chiến công của vua
trong cuộc giao chiến với vua Giu-đa là A-mát-gia-hu, đã chẳng được ghi chép
trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 16 Vua Giô-át đã an nghỉ với
tổ tiên và được chôn cất ở Sa-ma-ri bên cạnh các vua Ít-ra-en. Con vua là
Gia-róp-am lên ngôi kế vị.
17
Vua
A-mát-gia-hu, con vua Giô-át, vua Giu-đa, còn sống mười lăm năm nữa sau khi vua
Giô-át, con vua Giơ-hô-a-khát, vua Ít-ra-en, qua đời.
18
Các
truyện còn lại của vua A-mát-gia-hu đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên
niên các vua Giu-đa đó sao? 19 Người ta âm mưu hại vua ở Giê-ru-sa-lem, nên vua
chạy trốn về hướng La-khít, nhưng người ta sai người đuổi theo vua đến tận
La-khít và giết vua ở đó. 20 Người ta cho ngựa chở vua về
Giê-ru-sa-lem và chôn cất vua ở đó, bên cạnh tổ tiên vua trong Thành vua Ða-vít.
21 Toàn dân Giu-đa đặt A-dác-gia mới mười sáu tuổi lên ngôi kế vị
vua cha là A-mát-gia-hu. 22 Chính vua đã tái thiết Ê-lát và trả lại
cho Giu-đa, sau khi vua A-mát-gia-hu an nghỉ bên cạnh tổ tiên.
Vua
Gia-róp-am II cai trị Ít-ra-en (783-743)
23
Năm
thứ mười lăm triều vua A-mát-gia-hu, con vua Giô-át, vua Giu-đa, con vua
Giô-át, vua Ít-ra-en, là Gia-róp-am lên làm vua, và trị vì bốn mươi mốt năm ở
Sa-ma-ri. 24 Vua đã làm sự dữ trái mắt Ðức Chúa, đã không dứt bỏ mọi
tội mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.
25
Chính
vua đã tái lập biên giới Ít-ra-en từ Cửa Ải Kha-mát cho đến biển A-ra-va, như
lời Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đã dùng tôi trung của Người là ngôn sứ
Giô-na, con ông A-mít-tai, quê ở Gát Khê-phe, mà phán. 26 Vì Ðức
Chúa đã nhìn thấy cảnh bần cùng của Ít-ra-en phản nghịch; chẳng có một ai, nô
lệ hay tự do, đến cứu giúp Ít-ra-en. 27 Ðức Chúa đã không nói là sẽ
xoá tên Ít-ra-en không còn dấu vết trong thiên hạ, nên Người đã cứu họ nhờ tay
vua Gia-róp-am, con vua Giô-át.
28
Các
truyện còn lại của vua Gia-róp-am và mọi việc vua làm, cũng như chiến công nhờ
đó vua đánh chiếm và đem Ða-mát cùng Kha-mát về lại cho Ít-ra-en, những truyện
đó đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 29
Vua Gia-róp-am đã nằm xuống với tổ tiên là các vua Ít-ra-en. Con vua là
Dơ-khác-gia lên ngôi kế vị vua cha.
Chương 15
Vua
A-dác-gia cai trị Giu-đa (781-740) (2 Sb 26:1-23)
1
Năm
thứ hai mươi bảy triều Gia-róp-am, vua Ít-ra-en, con vua A-mát-gia, vua Giu-đa,
là A-dác-gia lên làm vua. 2 Ông lên ngôi vua khi được mười sáu tuổi,
và trị vì năm mươi hai năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Giơ-khôn-gia-hu,
người Giê-ru-sa-lem. 3 Vua đã làm điều ngay chính trước mắt Ðức
Chúa, hoàn toàn đúng như vua cha là A-mát-gia-hu đã làm. 4 Tuy
nhiên, các tế đàn ở nơi cao đã không bị phá huỷ, dân chúng vẫn còn tế lễ và đốt
hương trên các nơi cao đó.
5
Ðức
Chúa đánh phạt vua; vua mắc bệnh phung hủi cho đến ngày qua đời, và sống cô lập
trong một căn nhà. Chính ông Giô-tham, con vua, làm đại nội thị thần và cai trị
dân trong xứ.
6
Các
truyện còn lại của vua A-dác-gia-hu và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi chép
trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 7 Vua A-dác-gia đã nằm xuống với
tổ tiên và được chôn cất bên cạnh tổ tiên trong Thành vua Ða-vít. Con vua là
Giô-tham lên ngôi kế vị vua cha.
8
Năm
thứ ba mươi tám triều vua A-dác-gia-hu, vua Giu-đa, con vua Gia-róp-am là
Dơ-khác-gia lên làm vua Ít-ra-en và trị vì sáu tháng ở Sa-ma-ri. 9 Vua
đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa như tổ tiên vua. Vua đã không dứt bỏ các tội
mà vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo. 10
Ông Sa-lum, con ông Gia-vết, âm mưu hại vua. Ông đã đánh chết vua trước
mặt dân, rồi lên ngôi thay vua. 11 Các truyện còn lại của vua
Dơ-khác-gia đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 12 Ðức
Chúa đã phán với vua Giê-hu rằng: "Con cháu ngươi sẽ ngự trên ngai cai trị
Ít-ra-en cho đến đời thứ bốn"; lời ấy đã ứng nghiệm.
Vua
Sa-lum cai trị Ít-ra-en (743)
13
Con
ông Gia-vết là Sa-lum lên làm vua năm thứ ba mươi chín triều vua Út-di-gia, vua
Giu-đa. Vua trị vì được một tháng ở Sa-ma-ri.
14
Ông
Mơ-na-khêm, con ông Ga-đi, đi lên từ Tia-xa và tiến vào Sa-ma-ri. Tại Sa-ma-ri,
ông đánh chết vua Sa-lum, con ông Gia-vết, và lên làm vua thay vua ấy.
15
Những
truyện còn lại của vua Sa-lum và cuộc âm mưu vua đã chủ xướng, những sự việc ấy
đã được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en. 16 Bấy
giờ, vua Mơ-na-khêm đánh phạt Táp-pu-ác, mọi người ở trong đó cũng như lãnh thổ
của thành bắt đầu từ Tia-xa, vì người trong thành đã không mở cửa cho vua; vua
đã mổ bụng tất cả phụ nữ có thai.
Vua
Mơ-na-khêm cai trị Ít-ra-en (743-738)
17
Năm
thứ ba mươi chín triều vua A-dác-gia, vua Giu-đa, con ông Ga-đi là Mơ-na-khêm
lên làm vua cai trị Ít-ra-en mười năm, ở Sa-ma-ri. 18 Vua đã làm
điều dữ trái mắt Ðức Chúa; vua không dứt bỏ các tội mà vua Gia-róp-am, con ông
Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.
19
vua
Át-sua là Pun xâm nhập xứ sở, và vua Mơ-na-khêm nộp cho vua Pun ba mươi ngàn ký
bạc để vua này nâng đỡ và củng cố vương quyền vua đang nắm trong tay. 20 Vua
Mơ-na-khêm thu bạc ấy của Ít-ra-en, của mọi phú hào, để nộp cho vua Át-sua: mỗi
người mười lăm lượng bạc. Vì thế, vua Át-sua đã trở về nước, không ở lại trong
xứ.
21
Các
truyện còn lại của vua Mơ-na-khêm, và mọi việc vua làm, đã chẳng được ghi chép
trong sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en đó sao? 22 Vua Mơ-na-khêm đã nằm xuống
với tổ tiên. Con vua là Pơ-các-gia lên ngôi kế vị vua cha.
Vua
Pơ-các-gia cai trị Ít-ra-en (738-737)
23
Năm
thứ năm mươi triều vua A-dác-gia, vua Giu-đa, con vua Mơ-na-khêm là Pơ-các-gia
lên làm vua cai trị Ít-ra-en hai năm, ở Sa-ma-ri. 24 Vua đã làm điều
dữ trái mắt Ðức Chúa, vua không dứt bỏ những tội mà vua Gia-róp-am, con ông
Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.
25
Giám
mã của vua là ông Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, âm mưu chống lại vua và hạ sát
vua ở Sa-ma-ri, trong tháp chính của đền vua... Có năm mươi người dân Ga-la-át
cùng theo ông. Ông giết vua và lên ngôi thay thế.
26
Các
truyện còn lại của vua Pơ-các-gia, và mọi việc vua làm, đã được ghi chép trong
sách Sử biên niên các vua Ít-ra-en.
Vua
Pe-các cai trị Ít-ra-en (737-732)
27
Năm
thứ năm mươi hai triều vua A-dác-gia, vua Giu-đa, con ông Rơ-man-gia-hu là
Pe-các lên làm vua cai trị Ít-ra-en hai mươi năm, ở Sa-ma-ri. 28 Vua
đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, vua không dứt bỏ những tội mà vua Gia-róp-am,
con ông Nơ-vát, đã phạm và lôi kéo Ít-ra-en phạm theo.
29
Trong
thời gian vua Pe-các, vua Ít-ra-en, vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe đến xâm
chiếm I-giôn, A-vên Bết Ma-a-kha, Gia-nô-ác, Ke-đét, Kha-xo, miền Ga-la-át và
Ga-li-lê, toàn xứ Náp-ta-li, rồi đày dân sang Át-sua. 30 Ông Hô-sê,
con ông Ê-la, âm mưu chống lại vua Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, đánh chết vua
và lên ngôi thay thế, vào năm thứ hai mươi triều vua Giô-tham, con vua
Út-di-gia.
31
Các
truyện còn lại của vua Pe-các, và mọi việc vua làm, đã được ghi chép trong sách
Sử biên niên các vua Ít-ra-en.
Vua
Giô-tham cai trị Giu-đa (740-736) (2 Sb 27:1-9)
32
Năm
thứ hai triều Pe-các, vua Ít-ra-en, con ông Rơ-man-gia-hu, thì con vua
Út-di-gia-hu, vua Giu-đa, là Giô-tham lên làm vua. 33 Ông lên ngôi
vua khi được hai mươi lăm tuổi, và trị vì mười sáu năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua
tên là Giơ-ru-sa, con gái ông Xa-đốc. 34 Vua đã làm điều ngay chính
trước mắt Ðức Chúa, đúng như vua cha là Út-di-gia-hu đã làm. 35 Tuy
nhiên, các tế đàn ở nơi cao không bị phá huỷ; dân chúng vẫn còn tế lễ và đốt
hương trên các nơi cao đó.
Chính
vua đã xây Cửa Trên của Nhà Ðức Chúa.
36
Các
truyện còn lại của vua Giô-tham, những việc vua làm, đã chẳng được ghi chép
trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 37 Vào thời ấy, Ðức Chúa bắt đầu
sai vua A-ram là Rơ-xin và vua Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, đến đánh Giu-đa. 38
Vua Giô-tham đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất bên cạnh tổ tiên
trong Thành Ða-vít, tổ phụ vua. Con vua là A-khát lên ngôi kế vị.
Chương 16
Vua
A-khát cai trị Giu-đa (736-716) (2 Sb 28:1-27)
1
Năm
thứ mười bảy triều vua Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, con vua Giô-tham, vua
Giu-đa, là A-khát, lên làm vua. 2 A-khát lên ngôi vua khi được hai
mươi tuổi, và trị vì mười sáu năm ở Giê-ru-sa-lem. Vua đã không làm điều ngay
chính trước mắt Ðức Chúa, Thiên Chúa của vua, như vua Ða-vít, tổ phụ vua. 3
Vua đã đi theo đường lối các vua Ít-ra-en, và thậm chí còn làm lễ thiêu
con trai mình, theo các thói ghê tởm của các dân mà Ðức Chúa đã trục xuất cho
khuất mắt con cái Ít-ra-en. 4 Vua đã tế lễ và đốt hương trên các nơi
cao, trên các ngọn đồi và dưới mọi cây xanh.
5
Bấy
giờ, vua A-ram là Rơ-xin, và vua Ít-ra-en là Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, lên
đánh Giê-ru-sa-lem. Họ vây hãm vua A-khát, nhưng không đánh thắng được. 6 Thuở
ấy, vua A-ram là Rơ-xin đem Ê-lát về lại cho A-ram. Vua đuổi người Giu-đa khỏi
Ê-lát. Người A-ram lại vào Ê-lát và tiếp tục ở đó cho đến ngày nay. 7 Vua
A-khát sai sứ giả đến nói với vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe: "Tôi là tôi
tớ, là con cái của ngài. Xin ngài lên cứu tôi khỏi tay vua A-ram và vua
Ít-ra-en, họ nổi lên chống tôi.” 8 Vua A-khát lấy bạc vàng có trong
Nhà Ðức Chúa và trong kho đền vua mà gửi tặng vua Át-sua. 9 Vua
Át-sua nhận lời, tiến lên đánh Ða-mát và chiếm được thành đó. Vua đày dân đến
thành Kia và giết vua Rơ-xin.
10
Vua
A-khát đi Ða-mát gặp vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe. Khi nhìn thấy bàn thờ ở
Ða-mát, vua A-khát gửi cho tư tế U-ri-gia hoạ đồ kiểu mẫu của bàn thờ, và mọi
chi tiết chỉ dẫn cách làm. 11 Tư tế U-ri-gia xây bàn thờ: tất cả
những chỉ thị vua A-khát gửi về từ Ða-mát, tư tế U-ri-gia đều thi hành đúng như
thế, trong khi chờ vua A-khát từ Ða-mát về. 12 Khi từ Ða-mát về, vua
nhìn thấy bàn thờ, lại gần, rồi tiến lên. 13 Vua cho đốt của lễ toàn
thiêu, lễ phẩm, tưới rượu tế và lấy máu những con vật của hy lễ kỳ an rảy lên
bàn thờ. 14 Còn bàn thờ bằng đồng ở trước nhan Ðức Chúa, ở giữa bàn
thờ mới và Nhà Ðức Chúa, vua dời đi khỏi phía trước Nhà Ðức Chúa, và đặt bên
cạnh bàn thờ mới, ở phía bắc. 15 Rồi vua A-khát truyền lệnh cho tư
tế U-ri-gia rằng: "Trên bàn thờ lớn, ông sẽ cho đốt của lễ toàn thiêu ban
sáng và lễ phẩm ban chiều, lễ toàn thiêu, lễ phẩm của vua, lễ toàn thiêu, lễ
phẩm và các lễ tưới rượu của toàn dân trong xứ. Ông sẽ rảy trên bàn thờ tất cả
máu của các lễ toàn thiêu và của các hy lễ. Còn bàn thờ bằng đồng thì ta sẽ
tính sau.” 16 Tư tế U-ri-gia đã thi hành đúng mệnh lệnh vua A-khát.
17
Vua
A-khát bẻ gẫy các đòn ngang và các giàn: vua cất các bồn nước đặt ở trên đi. Bể
nước bằng đồng kê trên những con bò, thì vua hạ xuống mà đặt trên một nền đá. 18
Ðể được lòng vua Át-sua, vua thay đổi vị trí trong Nhà Ðức Chúa: hành
lang ngày sa-bát xây trong Nhà Ðức Chúa, và lối vào của vua nằm ở bên ngoài.
19
Các
truyện còn lại của vua A-khát, những việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong
sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 20 Vua A-khát đã an nghỉ với tổ tiên
và được chôn cất bên cạnh tổ tiên trong Thành Ða-vít. Con vua là Khít-ki-gia-hu
lên ngôi kế vị.
Chương 17
Vua
Hô-sê cai trị Ít-ra-en (732-724)
1
Năm
thứ mười hai triều A-khát, vua Giu-đa, con ông Ê-la là Hô-sê lên làm vua cai
trị Ít-ra-en chín năm, ở Sa-ma-ri. 2 Vua đã làm diều dữ trái mắt Ðức
Chúa, tuy không bằng các vua Ít-ra-en trước. 3 Vua Át-sua là
San-ma-ne-xe tiến lên đánh vua. Vua Hô-sê đã phải làm tôi và triều cống vua ấy.
4 Nhưng vua Át-sua khám phá ra là vua Hô-sê âm mưu phản loạn: vua đã
sai sứ giả đến với vua Ai-cập là Xô, và không còn triều cống vua Át-sua như
hằng năm trước đây. Vua Át-sua cho bắt vua Hô-sê, xiềng lại và bỏ tù.
Sa-ma-ri
thất thủ (721)
5
Vua
Át-sua tiến đánh cả xứ, đến Sa-ma-ri và vây hãm thành này ba năm. 6 Năm
thứ chín triều vua Hô-sê, vua Át-sua chiếm được Sa-ma-ri và đày Ít-ra-en sang
Át-sua. Vua cho họ định cư ở Khơ-lác, và ở ven sông Kha-vo thuộc vùng Gô-dan,
và trong các thành xứ Mê-đi.
Suy
gẫm về vương quốc Ít-ra-en suy tàn
7
Sự
việc đó xảy ra, vì con cái Ít-ra-en đã đắc tội với Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ,
là Ðấng đã đem họ lên từ đất Ai-cập, đã giải thoát họ khỏi tay Pha-ra-ô, vua
Ai-cập, và vì họ đã kính sợ các thần khác. 8 Họ theo những thói tục
của các dân Ðức Chúa đã trục xuất cho khuất mắt con cái Ít-ra-en và những thói
tục các vua Ít-ra-en đã tạo ra. 9 Con cái Ít-ra-en đã thốt những lời
bất xứng phạm đến Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ; họ xây cho mình các tế đàn ở nơi
cao trong mọi thành của họ, từ tháp canh cho đến thành trì kiên cố. 10 Họ
đã dựng các trụ đá và cột thờ trên mọi đồi cao và dưới mọi cây xanh. 11 Ở
đó, trên mọi tế đàn ở nơi cao, họ đã đốt hương như các dân Ðức Chúa đã đày cho
khuất mặt họ, và họ đã làm những việc xấu xa để trêu giận Người. 12 Họ
phụng thờ những ngẫu tượng, mặc dù Ðức Chúa đã phán với họ: "Các ngươi sẽ
không được làm điều đó."
13
Nhưng
Ðức Chúa đã dùng tất cả các ngôn sứ và các thầy chiêm mà cảnh cáo Ít-ra-en và
Giu-đa: "Hãy trở lại, bỏ con đường tà của các ngươi, hãy tuân giữ các mệnh
lệnh và quy tắc của Ta, đúng theo Lề Luật Ta đã truyền cho cha ông các ngươi,
và Ta đã chuyển đến các ngươi nhờ các ngôn sứ tôi trung của Ta.” 14 Nhưng
họ đã không nghe lời, họ cứng đầu cứng cổ như cha ông họ, những người không tin
vào Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ. 15 Họ đã khinh dể những quy luật
của Người, cũng như giao ước Người đã lập với cha ông họ và những chỉ thị Người
đã truyền cho họ. Họ đã đi theo thần hư ảo, và chính họ cũng trở nên hư ảo,
theo các dân ngoại ở chung quanh họ, mặc dầu Ðức Chúa đã truyền cho họ không
được làm như các dân đó. 16 Họ đã bỏ tất cả các mệnh lệnh của Ðức
Chúa, Thiên Chúa của họ, và họ đã đúc cho mình tượng hai con bê; họ đã dựng cột
thờ, sụp xuống lạy toàn thể thiên binh và phụng thờ Ba-an. 17 Họ đã
làm lễ thiêu con trai con gái họ; họ làm nghề bói toán, nghề phù thuỷ, và họ
bán mình để làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, để trêu giận Người. 18 Ðức
Chúa nổi cơn thịnh nộ với Ít-ra-en và đẩy Ít-ra-en cho khuất nhan Người. Chỉ
còn lại chi tộc Giu-đa.
19
Cả
Giu-đa nữa cũng không tuân giữ các mệnh lệnh của Ðức Chúa, Thiên Chúa của mình,
và theo những thói tục Ít-ra-en đã tạo ra. 20 Vì thế, Ðức Chúa đã từ
bỏ toàn thể dòng giống Ít-ra-en; Người đã hành hạ và nộp họ vào tay quân cướp
cho đến khi xua đuổi họ cho khuất nhan Người. 21 Người đã tách
Ít-ra-en khỏi nhà Ða-vít và họ đã tôn con ông Nơ-vát là Gia-róp-am làm vua. Vua
Gia-róp-am đã thúc đẩy Ít-ra-en rời bỏ Ðức Chúa và làm cho họ phạm một tội lớn.
22 Con cái Ít-ra-en đã bắt chước vua mà phạm mọi tội vua đã phạm, họ
không dứt bỏ các tội đó, 23 đến nỗi Ðức Chúa đẩy Ít-ra-en đi cho
khuất nhan Người, như Người đã dùng mọi ngôn sứ, tôi trung của Người, mà phán.
Ít-ra-en đã bị đày biệt xứ sang Át-sua cho đến ngày nay.
Nguồn
gốc người Sa-ma-ri
24
Vua
Át-sua đã đưa người từ Ba-by-lon, Cu-tha, A-va, Kha-mát và Xơ-phác-va-gim đến
định cư ở các thành xứ Sa-ma-ri, thế vào chỗ con cái Ít-ra-en. Họ chiếm
Sa-ma-ri và ở trong các thành của xứ này.
25
Ban
đầu, khi mới định cư ở đó, họ không kính sợ Ðức Chúa, nên Người đã sai sư tử
đến phá phách họ và giết hại nhiều người. 26 Họ nói với vua Át-sua:
"Các dân mà vua đã cho đi đày, và định cư ở thành xứ Sa-ma-ri, không biết
cách tôn thờ vị thần của xứ. Vì thế, vị thần đó đã sai sư tử đến phá phách và
giết chết họ, bởi họ không biết cách tôn thờ vị thần của xứ.” 27 Vua
Át-sua mới truyền lệnh sau đây: "Hãy đưa một trong những tư tế mà ta đã
cho đi đày, trở lại đó; tư tế ấy phải đến định cư ở đó và dạy họ biết cách tôn
thờ vị thần của xứ.” 28 Bấy giờ, một trong những tư tế Sa-ma-ri, đã
bị đi đày, tới định cư ở Bết Ên và dạy họ biết cách kính sợ Ðức Chúa.
29
Nhưng
mỗi dân lại tạc tượng thần của mình và đặt trong các miếu ở nơi cao mà người
Sa-ma-ri đã xây; họ đã làm như vậy trong thành họ ở. 30 Người
Ba-by-lon tạc tượng thần Xúc-cốt Bơ-nốt, người Cu-tha tạc tượng thần Néc-gan,
người Kha-mát tạc tượng thần A-si-ma, 31 Người A-va tạc tượng thần
Níp-khát và Tác-tắc; còn người Xơ-phác-va-gim thì làm lễ thiêu con trai của họ
để kính Át-ram-me-léc và A-nam-me-léc, các thần của dân Xơ-phác-va-gim. 32
Họ cũng kính sợ Ðức Chúa, và chọn những người cùng nhóm làm tư tế phục vụ
tại các tế đàn ở nơi cao và tế lễ cho họ trong các miếu ở nơi cao. 33 Họ
kính sợ Ðức Chúa nhưng cũng phụng thờ các thần của họ, theo cách tôn thờ của
các dân mà họ đã rời bỏ khi bị đi đày. 34 Cho đến ngày nay họ vẫn
theo cách tôn thờ xưa kia của họ.
Người
Ít-ra-en đã không kính sợ Ðức Chúa, cũng không hành động theo những quy tắc,
những quyết định, Lề Luật và mệnh lệnh Ðức Chúa đã truyền cho con cái ông
Gia-cóp, người cũng được gọi tên là Ít-ra-en. 35 Ðức Chúa đã lập
giao ước với họ và truyền lệnh cho họ: "Các ngươi không được kính sợ các
thần khác và không được sụp xuống lạy chúng; các ngươi không được phụng thờ và
tế lễ chúng. 36 Nhưng chính Ðức Chúa, Ðấng đã dùng sức mạnh lớn lao
và cánh tay uy quyền đưa các ngươi lên từ Ai-cập, chính Người là Ðấng các ngươi
phải kính sợ, phải sụp xuống lạy và phải tế lễ. 37 Những quy luật,
những quyết định, Lề Luật và mệnh lệnh Người đã truyền ghi chép cho các ngươi,
các ngươi phải tuân giữ, phải thi hành mọi ngày. Các ngươi không được kính sợ
các thần khác. 38 Giao Ước Ta đã lập với các ngươi, các ngươi không
được quên; và các ngươi không được kính sợ các thần khác. 39 Nhưng
chính Ðức Chúa, Thiên Chúa các ngươi, là Ðấng các ngươi phải kính sợ. Người sẽ
giải thoát các ngươi khỏi tay mọi địch thù của các ngươi.” 40 Người
Sa-ma-ri đã không nghe lời, họ cứ theo cách tôn thờ xưa kia của họ.
41
Như
thế, các dân ấy đã kính sợ Ðức Chúa, nhưng cũng phụng thờ các ngẫu tượng của
họ; con cái cháu chắt họ cũng làm như cha ông họ cho đến ngày nay.
Chương 18
VIII.
Những Giai Ðoạn Cuối Cùng
Của
Vương Quốc Giu-Ða
1.
Vua Khít-Ki-Gia, Ngôn Sứ I-Sai-A Và Nước Át-Sua
Dẫn
nhập vào triều vua Khít-ki-gia (716-687) (2 Sb 29:1-2; 31:1)
1
Năm
thứ ba triều vua Hô-sê, con ông Ê-la, vua Ít-ra-en, con vua A-khát, vua Giu-đa,
là Khít-ki-gia lên làm vua. 2 Khi lên ngôi, vua được hai mươi lăm
tuổi và trị vì hai mươi chín năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là A-vi, con gái
ông Dơ-khác-gia. 3 Vua đã làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa,
đúng như vua Ða-vít, tổ phụ vua đã làm. 4 Chính vua đã dẹp các tế
đàn ở nơi cao, đập bể các trụ đá, bổ các cột thờ và đập tan con rắn đồng ông
Mô-sê đã làm, vì cho đến thời đó, con cái Ít-ra-en vẫn đốt hương kính nó; người
ta gọi nó là Nơ-khút-tan.
5
Vua
đã đặt niềm tin tưởng vào Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. Sau vua, chẳng có
vua Giu-đa nào được như thế, cũng như trước vua chẳng có ai được như vậy. 6
Vua gắn bó với Ðức Chúa, không bỏ Người; vua tuân giữ các mệnh lệnh Ðức
Chúa đã truyền cho ông Mô-sê. 7 Vì thế, Ðức Chúa đã ở với vua; vua
tra tay làm việc gì thì cũng thành công. Vua nổi lên chống lại vua Át-sua và
không còn chịu phục tùng vua ấy nữa. 8 Chính vua đã đánh đuổi quân
Phi-li-tinh cho đến Ga-da và ranh giới của thành ấy, từ tháp canh cho đến thành
trì kiên cố.
Nhắc
lại chuyện Sa-ma-ri thất thủ
9
Năm
thứ tư triều vua Khít-ki-gia, tức là năm thứ bảy triều vua Hô-sê, con ông Ê-la,
vua Ít-ra-en, vua Át-sua là San-ma-ne-xe tiến lên đánh và vây thành Sa-ma-ri. 10
Sau ba năm, người ta chiếm được thành. Sa-ma-ri thất thủ vào năm thứ sáu
triều vua Khít-ki-gia, tức là năm thứ chín triều vua Hô-sê, vua Ít-ra-en. 11
Vua Át-sua đày Ít-ra-en sang Át-sua và cho lập cư tại Khơ-lác, và ở ven
sông Kha-vo thuộc vùng Gô-dan, và trong các thành xứ Mê-đi, 12 vì họ
đã không nghe lời Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, và đã vi phạm giao ước của
Người; tất cả những gì ông Mô-sê, tôi trung của Ðức Chúa, đã truyền, họ đều
không nghe theo và thi hành.
Cuộc
xâm lăng của vua Xan-khê-ríp (Es 36:1)
13
Năm
thứ mười bốn triều vua Khít-ki-gia, vua Át-sua là Xan-khê-ríp tiến lên đánh mọi
thành kiên cố của Giu-đa và đã chiếm được. 14 Vua Giu-đa là
Khít-ki-gia mới sai người đến nói với vua Át-sua ở La-khít: "Tôi có tội,
xin ngài lui binh cho, ngài bắt nộp gì, tôi cũng chịu." Vua Át-sua bắt vua
Khít-ki-gia phải nộp chín ngàn ký bạc và chín trăm ký vàng. 15 Vua
Khít-ki-gia nộp tất cả số bạc có trong Nhà Ðức Chúa và trong kho đền vua. 16
Chính vào thời đó, vua Khít-ki-gia đập gẫy các cánh cửa của đền thờ Ðức
Chúa, cũng như các khung cửa mà..., vua Giu-đa, đã bọc bằng kim khí, lấy nộp
cho vua Át-sua.
Sứ
mạng của quan chánh chước tửu (2 Sb 32:9-19; Es 36:2-22)
17
Từ
La-khít, vua Át-sua sai tướng tổng tư lệnh, quan thái giám và quan chánh chước
tửu, cùng với một đạo binh hùng hậu, đến gặp vua Khít-ki-gia ở Giê-ru-sa-lem.
Họ tiến lên và đến Giê-ru-sa-lem. Họ đứng gần kênh dẫn nước của hồ trên, phía
đường dẫn tới cánh đồng Thợ Nện Dạ. 18 Họ cho mời vua đến. Ra đón
tiếp họ có ông En-gia-kim, con ông Khin-ki-gia-hu, đại nội thị thần, cũng như
viên ký lục Sép-na và viên quản lý văn khố Giô-ác, con ông A-xáp. 19 Viên
chánh chước tửu bảo họ: "Hãy nói với vua Khít-ki-gia: đại đế là vua Át-sua
phán thế này: "Dựa vào niềm tin nào mà ông tin tưởng như thế? 20 Ông tưởng
rằng trong cuộc chiến, lời nói suông ngoài miệng thay thế được cho mưu kế và
sức mạnh sao? Giờ đây, ông tin tưởng vào ai mà dám nổi loạn chống ta? 21 Hoá ra
ông tin tưởng vào cây gậy sậy dập nát là Ai-cập; nó sẽ đâm thủng bàn tay kẻ vịn
vào nó! Pha-ra-ô vua Ai-cập là vậy đó, đối với mọi kẻ tin tưởng vào ông ta. 22
Có thể ông sẽ nói với tôi: "Chúng tôi tin tưởng vào Ðức Chúa, Thiên
Chúa chúng tôi. Thế chẳng phải Khít-ki-gia đã dẹp các nơi cao và các bàn thờ
của Người đó sao? Ông ta đã chẳng nói với Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: Các
ngươi sẽ sụp lạy trước bàn thờ này ở Giê-ru-sa-lem? 23 Bây giờ ông hãy đánh
cuộc với vua Át-sua chúa thượng tôi: Tôi cho ông hai ngàn con ngựa nếu ông tìm
được người cưỡi. 24 Liệu ông có thể đẩy lui được một người thuộc
hạng dở nhất trong nhóm bộ hạ của chúa thượng tôi không? Thế mà ông lại cậy vào
Ai-cập để có xe, có ngựa! 25 Bây giờ có phải ngoài ý muốn của Ðức Chúa mà ta đã
tiến đánh để tàn phá nơi này không? Chính Ðức Chúa đã phán với ta: "Hãy
tiến đánh và tàn phá xứ này!"
26
Ông
En-gia-kim, con ông Khin-ki-gia-hu, ông Sép-na và ông Giô-ác nói với viên chánh
chước tửu: "Xin ngài dùng tiếng A-ram mà nói vì các tôi tớ ngài đây hiểu
được. Ngài đừng nói tiếng Giu-đa với chúng tôi, kẻo dân ở trên tường thành nghe
được.” 27 Viên chánh chước tửu nói: "Chẳng lẽ Chúa thượng tôi
sai tôi đến nói những lời như thế với chúa thượng của ông hay với ông sao?
Chẳng phải là để nói với những người đang ngồi trên tường thành kia, đang phải
ăn phân và uống nước tiểu của mình, cùng với các ông sao?"
28
Bấy
giờ, viên chánh chước tửu đứng thẳng và hô lớn bằng tiếng Giu-đa rằng:
"Hãy nghe lời đại đế, vua Át-sua: 29 Ðức vua phán thế này: Ðừng
để Khít-ki-gia lừa dối các ngươi, vì ông ta không thể nào giải thoát các ngươi
khỏi tay ta được. 30 Cũng đừng để Khít-ki-gia dụ dỗ các ngươi tin
tưởng vào Ðức Chúa khi ông ta nói: Chắc chắn Ðức Chúa sẽ giải thoát chúng ta,
và thành này sẽ không bị nộp vào tay vua Át-sua. 31 Ðừng nghe lời
Khít-ki-gia, vì vua Át-sua phán thế này: Hãy làm hoà với ta và ra đây; ai nấy
trong các ngươi vẫn được ăn hoa trái trong vườn nho, vườn vả của mình, vẫn được
uống nước bể nhà mình, 32 cho tới khi ta đến đem các ngươi tới một
xứ giống như xứ các ngươi, một xứ có lúa mì và rượu, xứ có bánh, có vườn nho và
vườn ô-liu, xứ có dầu tươi và mật ong; như vậy, các ngươi sẽ được sống và khỏi
phải chết. Ðừng nghe lời Khít-ki-gia, vì ông ta phỉnh gạt các ngươi khi nói:
Ðức Chúa sẽ giải thoát chúng ta. 33 Hỏi rằng trong các thần của chư
dân, đã có vị nào thực sự giải thoát xứ mình khỏi tay vua Át-sua chưa? 34 Các
thần của Kha-mát và Ác-pát ở đâu? Các thần của Xơ-phác-va-gim, của Hê-na và
I-va ở đâu? Họ có giải thoát được Sa-ma-ri khỏi tay ta chăng? 35 Trong tất cả
các thần của các xứ, hỏi đã có thần nào cứu được xứ của họ thoát khỏi tay ta
chưa? Vậy Ðức Chúa cứu nổi Giê-ru-sa-lem khỏi tay ta sao?"
36
Dân
làm thinh, không đáp một lời; vì vua đã ra lệnh: "Các ngươi đừng đáp lại
hắn!” 37 Ông En-gia-kim, đại nội thị thần, con ông Khin-ki-gia vào
yết kiến vua Khít-ki-gia-hu cùng với ông Sép-na, ký lục, và ông Giô-ác, quản lý
văn khố, con ông A-xáp. Họ xé áo mình ra, kể lại cho vua nghe những lời viên
chánh chước tửu đã nói.
Chương 19
Cầu
cứu ngôn sứ I-sai-a (Es 37:1-7)
1
Nghe
thế, vua Khít-ki-gia liền xé áo mình ra, khoác áo vải thô, vào Nhà Ðức Chúa. 2
Vua sai ông En-gia-kim, đại nội thị thần, ông Sép-na, ký lục, và các kỳ
mục trong hàng tư tế, tất cả đều khoác áo vải thô, đến gặp ngôn sứ I-sai-a, con
ông A-mốc. 3 Họ thưa: "Vua Khít-ki-gia phán thế này: Hôm nay là
một ngày khốn quẫn, ngày trừng phạt, ngày ô nhục. Vì đã đến lúc con lọt lòng,
mà mẹ lại không có sức sinh! 4 Ước chi Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông nghe thấy
tất cả những lời của viên chánh chước tửu là người đã được vua Át-sua, chúa
thượng hắn, sai đến thoá mạ Thiên Chúa hằng sống; ước gì Ðức Chúa, Thiên Chúa
của ông, trừng phạt vì những lời Người đã nghe thấy. Xin ông dâng lời cầu
nguyện cho số sót còn lại."
5
Khi
các thuộc hạ của vua Khít-ki-gia đến gặp ông I-sai-a, 6 ông I-sai-a
bảo họ: "Các vị sẽ thưa với chúa thượng của các vị như sau: Ðức Chúa phán
thế này: "Ðừng sợ những lời ngươi đã nghe, những lời mà các tên hầu của
vua Át-sua đã xúc phạm đến Ta. 7 Này Ta sẽ đặt nơi nó một thần khí;
khiến nó vừa nghe một tin đồn, liền rút lui về nước. Ta sẽ làm cho nó bị gươm
đâm gục ngã ngay tại xứ sở nó."
Viên
chánh chước tửu trở về (Es 37:8-9a)
8
Viên
chánh chước tửu trở về gặp lúc vua Át-sua đang giao chiến với Líp-na. Quả thật,
ông nghe biết vua đã rời La-khít, 9 vì vua nhận được tin nói về vua
Cút là Tia-ha-ca: "Kìa vua ấy đã ra quân để giao chiến với ngài."
Thư
của Xan-khê-ríp gửi vua Khít-ki-gia (Is 37 :9b-20)
Vua
Xan-khê-ríp lại sai sứ giả đến với vua Khít-ki-gia, vua bảo họ: 10 "Các
ngươi sẽ nói với Khít-ki-gia, vua Giu-đa, thế này: Ðừng để Thiên Chúa của ông
là Ðấng ông tin tưởng, lừa dối ông rằng: Giê-ru-sa-lem sẽ không bị nộp vào tay
vua Át-sua. 11 Này, ông thừa biết các vua Át-sua đã xử thế nào với
tất cả các nước: Các vị ấy đã tru hiến chúng; còn ông, ông thoát sao được? 12
Thế các thần của chư dân mà cha ông ta đã tiêu diệt, tức là các dân Gô-dan,
Kha-ran, Re-xép, và con cái ông E-đen ở Tơ-la-xa, có giải thoát được các dân ấy
không? 13 Các vua của Kha-mát, của Ác-pát, của La-ia, Xơ-phác-va-gim, Hê-na,
I-va đâu cả rồi?"
14
Vua
Khít-ki-gia cầm lấy thư từ tay các sứ giả trao cho mà đọc, rồi lên Nhà Ðức
Chúa, mở thư ra trước nhan Ðức Chúa. 15 Vua cầu nguyện trước nhan
Ðức Chúa rằng: "Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, Ðấng ngự trên các
Kê-ru-bim, chính Ngài, và chỉ mình Ngài mới là Thiên Chúa thống trị mọi vương
quốc trần gian. Chính Ngài đã làm nên trời đất. 16 Lạy Ðức Chúa, xin
lắng tai nghe, lạy Ðức Chúa, xin đưa mắt nhìn. Xin nghe rõ những lời
Xan-khê-ríp là kẻ đã sai người đến thoá mạ Thiên Chúa hằng sống. 17 Quả
thật, lạy Ðức Chúa, các vua Át-sua đã tàn phá các dân và xứ sở của họ, 18 quăng
các tượng thần của họ vào lửa, vì chúng không phải là thần, mà chỉ là tác phẩm
bằng gỗ đá do tay người phàm làm ra, cho nên các vua ấy đã phá huỷ được. 19
Nhưng giờ đây, lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng con, xin đoái thương cứu
chúng con khỏi tay vua ấy, để mọi vương quốc trần gian nhận biết rằng chính
Ngài, và chỉ một mình Ngài mới là Thiên Chúa, lạy Ðức Chúa!"
Ông
I-sai-a can thiệp (Es 37:21-35)
20
Ông
I-sai-a con ông A-mốc, sai người đến tâu vua Khít-ki-gia rằng: "Ðức Chúa,
Thiên Chúa Ít-ra-en, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện về vụ
Xan-khê-ríp, vua Át-sua. 21 Ðây lời Ðức Chúa kết tội nó:
Trinh
nữ, cô gái Xi-on khinh dể, nhạo báng ngươi;
sau
lưng ngươi, cô gái Giê-ru-sa-lem lắc đầu!
22
Ngươi
đã thoá mạ, lăng nhục ai,
đã
lớn tiếng, vênh mặt khinh khi ai,
nếu
không phải là chính Ðấng Thánh của Ít-ra-en!
23
Ngươi
đã dùng sứ giả mà phỉ báng Chúa Thượng,
và
ngươi nói rằng: "Với vô vàn chiến xa, ta trèo lên đỉnh núi,
lên
những ngọn cao chót vót của Li-băng.
Ta
đốn những cây bá hương cao vút,
những
ngọn tùng bách đẹp tuyệt.
Ta
vào tận sào huyệt cuối cùng, tới rừng cây thăm thẳm.
24
Chính
ta đã đào giếng, đã uống nước của ngoại bang;
ta
đã làm cạn khô mọi sông ngòi Ai-cập dưới đôi bàn chân ta.
25
Phải
chăng ngươi không hề nghe biết
Ta
đã làm những điều ấy từ lâu?
Những
điều Ta dự tính từ những ngày xa xưa,
giờ
đây Ta thực hiện:
là
phá tan những thành trì kiên cố,
khiến
chúng trở nên đống đá vụn hoang tàn.
26
Cư
dân của chúng đành bó tay và thẹn thùng khiếp đảm.
Khác
nào cỏ đồng nội, tựa đám cỏ xanh tươi,
đám
cỏ mọc mái nhà, hoặc như cây lúa héo
chưa
kịp vươn lên cao.
27
Khi
ngươi ngồi, ngươi đứng, lúc ngươi ra, lúc ngươi vào,
Ta
đều biết rõ cả; ngay lúc ngươi nổi giận với Ta, Ta cũng biết.
28
Bởi
vì ngươi nổi giận với Ta,
và
những lời ngạo mạn đã thấu tận tai Ta,
nên
Ta sẽ xỏ vòng vào mũi, tra hàm thiếc vào môi ngươi.
Trên
chính con đường ngươi đã tới, Ta sẽ bắt ngươi phải lui về.
29
Ðây
sẽ là dấu hiệu cho ngươi:
Năm
nay ăn lúa chét;
năm
tới có lúa trổi;
đến
năm thứ ba, hãy gieo, hãy gặt,
hãy
trồng nho mà ăn trái.
30
Trong
nhà Giu-đa, những gì đã thoát chết,
những
gì còn sót lại, sẽ cứ tiếp tục đâm rễ sâu
và
trên cao trổ sinh hoa trái.
31
Vì
từ Giê-ru-sa-lem, sẽ nảy sinh số còn sót lại,
và
từ núi Xi-on, sẽ xuất hiện những người thoát chết.
Vì
yêu thương cuồng nhiệt, Ðức Chúa sẽ thực hiện điều đó.
32
Về
vua Át-sua Ðức Chúa phán như sau:
Nó
sẽ không vào được thành này,
không
bắn được mũi tên tới đó,
không
núp sau thuẫn mà xông lên,
cũng
chẳng đắp ụ để công phá.
33
Nó
sẽ phải quay về, theo chính con đường nó đã đến,
chứ
thành này thì nó không vào được.
Sấm
ngôn của Ðức Chúa.
34
Vì
Ta và vì Ða-vít, tôi tớ của Ta
chính
Ta sẽ che chở và sẽ cứu thành này."
Vua
Xan-khê-ríp bại trận và chết (Es 37:36-38)
35
Chính
đêm ấy, thiên sứ của Ðức Chúa ra đánh chết một trăm tám mươi lăm ngàn người
trong trại quân Át-sua. Ban sáng, khi người ta thức dậy, thì kìa, toàn là thây
ma xác chết.
36
Vua
Át-sua là Xan-khê-ríp nhổ trại và lên đường. Ông rút về Ni-ni-vê và ở lại đó. 37
Nhưng rồi, khi ông đang sụp xuống lạy thần Nít-rốc của ông trong đền thờ,
thì các con ông là Át-ram-me-léc và Sa-re-xe dùng gươm đâm ông chết, rồi trốn
sang xứ A-ra-rát. Con vua là Ê-xa-khát-đôn lên ngôi kế vị.
Chương 20
Vua
Khít-ki-gia lâm bệnh và được khỏi (Es 38:1-8,21-22;2 Sb 32:24-26)
1
Trong
những ngày ấy, vua Khít-ki-gia lâm bệnh nguy tử. Ngôn sứ I-sai-a, con ông
A-mốc, đến gặp vua và nói: "Ðức Chúa phán thế này: Hãy lo thu xếp việc
nhà, vì ngươi chết chứ không sống nổi đâu.” 2 Vua quay mặt vào
tường, và cầu nguyện với Ðức Chúa như sau: 3 "Ôi, lạy Ðức Chúa,
xin Ngài nhớ cho, con đã trung tín và thành tâm bước đi trước nhan Ngài, đã thi
hành điều đẹp mắt Ngài." Rồi vua Khít-ki-gia khóc, khóc thật to.
4
Ông
I-sai-a chưa ra đến sân giữa, thì lời Ðức Chúa phán với ông: 5 "Hãy
quay lại nói với Khít-ki-gia, thủ lãnh dân Ta: Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ða-vít,
tổ tiên ngươi, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu nguyện, Ta đã thấy nước
mắt của ngươi. Này Ta chữa lành ngươi, ba ngày nữa, ngươi sẽ lên Nhà Ðức Chúa. 6
Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm năm nữa. Ta sẽ giải thoát ngươi cùng
với thành này khỏi tay vua Át-sua, và sẽ che chở thành này, vì Ta và vì Ða-vít,
tôi tớ của Ta."
7
Ông
I-sai-a nói: "Hãy lấy một cái bánh vả." Người ta đi lấy, đặt trên ung
nhọt và vua sống được.
8
Vua
Khít-ki-gia nói với ông I-sai-a: "Tôi dựa vào dấu hiệu nào để biết Ðức
Chúa sẽ chữa lành tôi, và ba ngày nữa tôi sẽ lên Nhà Ðức Chúa?” 9 Ông
I-sai-a trả lời: "Ðây là dấu Ðức Chúa ban cho ngài, chứng tỏ Ðức Chúa sẽ
thực hiện điều Người đã phán: Vua muốn bóng tiến mười độ hay lùi mười độ?” 10
Vua Khít-ki-gia nói: "Bóng ngả thêm mười độ: điều đó quá dễ! Không!
Xin cho bóng lùi mười độ!” 11 Ngôn sứ I-sai-a cầu khẩn Ðức Chúa, và
Người cho bóng lùi lại mười độ, so với bóng đã ngả trên bậc thang mà vua A-khát
đã xây.
Các
sứ giả của vua Mơ-rô-đác Ba-la-đan (Es 39:1-8)
12
Khi
ấy, vua Ba-by-lon là Mơ-rô-đác Ba-la-đan, con ông Ba-la-đan, sai người đem thư
và quà tặng cho vua Khít-ki-gia, vì nghe tin vua bị bệnh. 13 Sau khi
nghe các sứ giả, vua Khít-ki-gia cho họ xem mọi kho tàng của vua, vàng bạc,
hương liệu, dầu quý, kho vũ khí và tất cả những gì có trong các nơi dự trữ của
vua, không có gì trong cung điện và trong toàn lãnh thổ mà vua Khít-ki-gia
không cho họ xem.
14
Ngôn
sứ I-sai-a vào gặp vua Khít-ki-gia và nói: "Những người ấy đã nói gì với
vua, và họ từ đâu tới?" Vua Khít-ki-gia đáp: "Họ từ một xứ xa xôi,
mãi tận Ba-by-lon đến đây.” 15 Ông hỏi: "Họ thấy gì trong cung
điện của ngài?" Vua đáp: "Trong cung điện của tôi có gì, họ thấy hết
cả. Không có gì trong các kho dự trữ mà tôi không cho họ xem."
16
Bấy
giờ, ông I-sai-a nói với vua Khít-ki-gia: "Xin vua nghe lời của Ðức Chúa: 17
Này, sẽ đến những ngày mọi sự trong cung điện ngươi, tất cả những gì xưa
nay tổ tiên ngươi đã tích trữ đều bị đem đi Ba-by-lon, không còn lại một thứ
gì, Ðức Chúa phán. 18 Một số con cái ngươi, xuất thân từ ngươi, do
chính ngươi sinh ra, sẽ bị bắt đi làm thái giám trong hoàng cung của vua
Ba-by-lon.” 19 Vua Khít-ki-gia nói với ông I-sai-a: "Lời Ðức
Chúa ông vừa truyền lại quả là tốt." Vua tự nhủ: "Sao lại không? Miễn
là có hoà bình và an ninh trong đời ta."
Kết
thúc triều vua Khít-ki-gia (2 Sb 32:32-33)
20
Những
truyện còn lại của vua Khít-ki-gia, mọi chiến công của vua, cũng như việc xây
hồ và kênh dẫn nước vào thành, những điều ấy đã chẳng được ghi chép trong sách
Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 21 Vua Khít-ki-gia đã an nghỉ với tổ tiên.
Con vua là Mơ-na-se, lên ngôi kế vị.
Chương 21
2.
Hai Vua Bất Trung
Vua
Mơ-na-se cai trị Giu-đa (687-642) (2 Sb 33:1-10,18-20)
1
Mơ-na-se
lên ngôi vua khi được mười hai tuổi, và trị vì năm mươi lăm năm ở
Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là
5
Trong
hai sân của Nhà Ðức Chúa vua đã xây các tế đàn kính toàn thể các thiên binh. 6
Vua làm lễ thiêu con trai mình, làm nghề chiêm tinh và phù thuỷ, lập ra
cô đồng và thầy bói; vua làm nhiều điều dữ trái mắt Ðức Chúa để trêu giận Người.
7 Vua đặt tượng thần A-sê-ra, mà vua đã tạc, trong Nhà Ðức Chúa, Nhà
mà Ðức Chúa đã phán với vua Ða-vít và vua Sa-lô-môn, con vua: "Tại Nhà này
và ở Giê-ru-sa-lem, nơi Ta đã chọn giữa mọi chi tộc Ít-ra-en, Ta sẽ đặt Danh Ta
mãi mãi. 8 Ta sẽ không để chân Ít-ra-en phiêu bạt đây đó, xa miền
đất Ta đã ban cho tổ tiên chúng, chỉ cần chúng lo làm đúng theo những gì Ta đã
truyền cho chúng, và đúng theo tất cả Lề Luật mà Mô-sê, tôi trung của Ta, đã
truyền cho chúng.” 9 Nhưng họ đã không nghe theo, và vua Mơ-na-se đã
làm cho họ lạc đường, khiến họ làm điều dữ hơn cả những nước mà Ðức Chúa đã
tiêu diệt trước mặt con cái Ít-ra-en.
10
Ðức
Chúa đã dùng các ngôn sứ, tôi trung của Người, mà phán: 11 "Vì
Mơ-na-se, vua Giu-đa, đã làm những điều ghê tởm ấy, vì nó đã hành động tệ hơn
cả những người E-mô-ri ở đấy trước nó đã làm, vì nó cũng đã dùng các ngẫu tượng
mà lôi kéo Giu-đa phạm tội, 12 thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en
phán thế này: Này đây Ta sẽ giáng xuống Giê-ru-sa-lem và Giu-đa một tai hoạ, mà
bất cứ ai nghe nói cũng phải ù cả hai tai. 13 Ta sẽ san bằng
Giê-ru-sa-lem, như đã san bằng Sa-ma-ri và nhà A-kháp; Ta sẽ vét sạch
Giê-ru-sa-lem, như người ta vét sạch đĩa rồi úp xuống sau khi vét sạch. 14
Ta sẽ từ bỏ gia nghiệp sót lại của Ta; Ta sẽ nộp chúng vào tay kẻ thù
chúng, chúng sẽ thành mồi, thành chiến lợi phẩm cho mọi kẻ thù chúng, 15 vì
chúng đã làm những gì Ðức Chúa coi là xấu, và chúng không ngừng trêu giận Ta từ
ngày tổ tiên chúng ra khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay."
16
Vua
Mơ-na-se cũng đã đổ máu người vô tội, rất nhiều đến nỗi máu ấy tràn ngập
Giê-ru-sa-lem từ đầu thành đến cuối thành; đó là không kể đến tội vua đã lôi
kéo Giu-đa phạm theo, khi vua làm các điều dữ trái mắt Ðức Chúa.
17
Những
truyện còn lại của vua Mơ-na-se và mọi việc vua làm, cũng như tội vua đã phạm,
tất cả những điều ấy đã chẳng được ghi chép trong sách Sử biên niên các vua
Giu-đa đó sao? 18 Vua Mơ-na-se đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất trong
vườn thuộc cung điện vua, vườn của ông Út-da. Con vua là A-môn lên ngôi kế vị.
Vua
A-môn cai trị Giu-đa (642-640) (2 Sb 33:21-25)
19
A-môn
lên làm vua khi được hai mươi hai tuổi, và trị vì hai năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ
vua tên là Mơ-su-le-mét, con gái ông Kha-rút; bà là người Giót-va. 20 Vua
đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, như vua cha là Mơ-na-se. 21 Trong
mọi sự, vua đã đi theo đường lối của vua cha, đã phụng thờ các ngẫu tượng mà
vua cha đã phụng thờ và sụp lạy chúng. 22 Vua đã bỏ Ðức Chúa, Thiên
Chúa của tổ tiên, và không đi theo đường lối của Ðức Chúa.
23
Các
thuộc hạ vua A-môn đã âm mưu chống lại vua và giết chết vua trong cung điện. 24
Dân trong xứ hạ sát mọi kẻ đã âm mưu chống lại vua A-môn, và tôn con vua
là Giô-si-gia lên ngôi kế vị.
25
Những
truyện còn lại của vua A-môn, những việc vua làm, đã chẳng được ghi chép trong
sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 26 Người ta đã chôn cất vua trong mộ
vua, trong vườn của ông Út-da. Con vua là Giô-si-gia lên ngôi kế vị vua cha.
Chương 22
3.
Vua Giô-Si-Gia Với Việc Cải Cách Tôn Giáo
Dẫn
nhập vào triều vua Giô-si-gia (640-609) (2 Sb 34:1-2)
1
Giô-si-gia
lên làm vua khi được tám tuổi, và trị vì ba mươi mốt năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ
vua tên là Giơ-đi-đa, con ông A-đa-gia; bà là người Bót-cát. 2 Vua
đã làm những điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, và trong mọi sự vua đi theo
đường lối vua Ða-vít, tổ tiên vua; vua không đi trệch bên phải bên trái.
Tìm
thấy sách Luật (2 Sb 34:8-18)
3
Năm
thứ mười tám triều Giô-si-gia, vua sai ký lục Sa-phan, con ông A-xan-gia-hu, cháu
ông Mơ-su-lam, đến Nhà Ðức Chúa và nói: 4 "Hãy lên gặp thượng
tế Khin-ki-gia-hu, xin thượng tế cộng lại số bạc dâng vào Nhà Ðức Chúa, mà các
tư tế canh ngưỡng cửa đã nhận của dân; 5 người ta phải trao số bạc
đó cho những người lo việc sửa chữa, những người phụ trách Nhà Ðức Chúa; rồi
những người này phải trả cho những người lo việc sửa chữa Nhà Ðức Chúa, để họ
sửa chữa những chỗ hư hại trong đó; 6 cũng phải trả cho thợ mộc, thợ
xây nhà và thợ nề, để họ mua gỗ và đá đẽo mà sửa chữa Nhà Ðức Chúa. 7 Nhưng
đừng đòi họ tính sổ về số bạc đã trao cho họ, vì họ hành động liêm chính."
8
Thượng
tế Khin-ki-gia-hu nói với ký lục Sa-phan: "Tôi đã tìm thấy sách Luật trong
Nhà Ðức Chúa." Ông Khin-ki-gia-hu trao sách cho ông Sa-phan đọc. 9 Ký
lục Sa-phan đến gặp vua và trình lên vua rằng: "Bầy tôi của vua đã đúc số
bạc tìm thấy trong Nhà Ðức Chúa, và đã trao cho những người lo việc sửa chữa,
những người phụ trách Nhà Ðức Chúa.” 10 Rồi ký lục Sa-phan báo tin
cho vua như sau: "Tư tế Khin-ki-gia-hu đã đưa cho tôi một cuốn sách."
Sau đó, ông Sa-phan đọc sách trước mặt vua.
Thỉnh
ý nữ ngôn sứ Khun-đa (2 Sb 34:19-28)
11
Nghe
những lời ghi chép trong sách Luật, vua xé áo mình ra, 12 rồi truyền
lệnh sau đây cho tư tế Khin-ki-gia-hu, cho ông A-khi cam, con ông Sa-phan, cho
ông Ác-bo, con ông Mi-kha-gia, cho ký lục Sa-phan và ông A-xa-gia, tôi tớ của
vua: 13 "Hãy đi thỉnh ý Ðức Chúa cho ta, cho dân và toàn thể
Giu-đa về những lời ghi chép trong sách đã tìm thấy đây, vì Ðức Chúa đã bừng
bừng nổi cơn thịnh nộ chống lại chúng ta, bởi lẽ tổ tiên chúng ta đã không vâng
nghe các lời trong sách này mà làm theo mọi điều đã viết trong đó."
14
Tư
tế Khin-ki-gia-hu, các ông A-khi-cam, Ác-bo, Sa-phan và A-xa-gia đi gặp nữ ngôn
sứ Khun-đa, vợ người phụ trách phòng lễ phục là ông Sa-lum, con ông Tích-va;
cháu ông Khác-khát; bà ở tại khu vực phụ thuộc thành Giê-ru-sa-lem. Họ thưa
chuyện với bà; 15 rồi bà bảo họ: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en, phán thế này: "Hãy nói với người đã cử các ngươi đến gặp Ta: 16
Ðức Chúa phán thế này: Ta sắp giáng hoạ xuống nơi đó, xuống dân cư ở nơi
đó, đúng như mọi lời ghi chép trong sách vua Giu-đa đã đọc. 17 Vì
chúng đã bỏ Ta và đã đốt hương kính các thần khác để trêu giận Ta bằng mọi việc
tay chúng làm, nên Ta đã bừng bừng nổi giận chống lại nơi này, và cơn giận đó
sẽ khôn nguôi. 18 Các ông hãy nói thế này với vua Giu-đa đã sai các
ông đi thỉnh ý Ðức Chúa: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này:
những lời mà ngươi đã nghe... 19 Vì ngươi đã mềm lòng và hạ mình
trước nhan Ðức Chúa, khi nghe những gì Ta đã nói chống lại nơi đó và dân cư ở
đó, những kẻ sẽ trở thành kinh tởm và đáng nguyền rủa; vì ngươi đã xé áo mình
ra và khóc lóc trước nhan Ta, thì Ta, Ta cũng đã nghe, sấm ngôn của Ðức Chúa. 20
Bởi thế, này Ta sẽ cho ngươi sum họp với tổ tiên ngươi, ngươi sẽ được
bình yên sum họp nơi phần mộ ngươi. Mắt ngươi sẽ không thấy gì về tất cả tai
hoạ Ta sắp giáng xuống nơi này." Họ đã trình lại cho vua câu trả lời ấy.
Chương 23
Ðọc
sách Luật (2 Sb 34:29-32)
1
Vua
sai người tập họp chung quanh vua mọi kỳ mục của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 2
Rồi cùng với mọi người Giu-đa và mọi dân cư ở Giê-ru-sa-lem, cùng với các
tư tế, các ngôn sứ và toàn dân từ người nhỏ nhất cho đến người lớn nhất. Vua
lên Nhà Ðức Chúa, đọc cho họ nghe tất cả các lời trong sách Giao Ước đã tìm
thấy trong Nhà Ðức Chúa. 3 Ðứng trên bệ cao, vua lập giao ước trước
nhan Ðức Chúa, cam kết đi theo Ðức Chúa và hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh
lệnh, chỉ thị và quy tắc của Người, để chu toàn các khoản của Giao Ước được ghi
chép trong sách đó. Toàn dân chấp nhận giao ước.
Việc
cải cách tôn giáo ở Giu-đa (2 Sb 34:3-5)
4
Vua
truyền cho thượng tế Khin-ki-gia-hu, cho các tư tế bậc hai và các tư tế canh
ngưỡng cửa, phải đem ra khỏi đền thờ Ðức Chúa mọi đồ vật đã làm để kính thần
Ba-an, thần A-sê-ra và toàn thể thiên binh. Vua thiêu huỷ các đồ vật đó ở ngoài
Giê-ru-sa-lem, trong các cánh đồng Kít-rôn, rồi đem tro về Bết Ên. 5 Vua
dẹp bỏ hàng tư tế bất hợp pháp mà các vua Giu-đa đã lập; chúng đã đốt hương
trên các tế đàn ở nơi cao, trong các thành của Giu-đa và vùng ngoại ô
Giê-ru-sa-lem; vua cũng đã dẹp bỏ những kẻ đốt hương kính thần Ba-an, kính mặt
trời, mặt trăng, các chòm sao và toàn thể thiên binh. 6 Vua đưa cột
thờ ra khỏi Nhà Ðức Chúa, khỏi Giê-ru-sa-lem, đưa đến thung lũng Kít-rôn; vua
thiêu huỷ cột thờ đó trong thung lũng Kít-rôn, biến thành tro, rồi vứt tro ấy
vào mồ tập thể. 7 Vua phá huỷ những nơi chứa trai điếm trong Nhà Ðức
Chúa, nơi phụ nữ dệt khăn áo cho thần A-sê-ra.
8
Vua
đưa mọi tư tế từ các thành của Giu-đa về, và làm ô uế các tế đàn ở nơi cao, chỗ
các tư tế ấy đã đốt hương, từ Ghe-va đến Bơ-e Se-va. Vua phá huỷ các tế đàn ở
nơi cao kính các thần dê, chỗ vào Cửa Giơ-hô-su-a, -tên ông thị trưởng của
thành-, nằm phía trái khi người ta vào cửa thành. 9 Nhưng các tư tế
của những tế đàn ở nơi cao không được lên bàn thờ Ðức Chúa ở Giê-ru-sa-lem, mà
chỉ được ăn bánh không men ở giữa anh em của họ. 10 Vua làm ô uế
Tô-phét trong thung lũng Ben Hin-nôm, để đừng có ai làm lễ thiêu con trai, con
gái mình mà kính thần Mô-léc. 11 Vua dẹp bỏ những con ngựa mà các
vua Giu-đa đã dâng kính mặt trời, chỗ vào Nhà Ðức Chúa, gần phòng thái giám
Nơ-than Me-léc, trong dãy nhà phụ thuộc; vua cũng phóng hoả đốt xe của mặt trời.
12 Các tế đàn ở trên mái nhà, tại phòng trên của vua A-khát mà các
vua Giu-đa đã lập, cũng như các tế đàn mà vua Mơ-na-se đã lập trong hai sân Nhà
Ðức Chúa, thì vua đã phá huỷ, đập bể tại chỗ, rồi vứt các mảnh vụn xuống suối
Kít-rôn. 13 Vua làm ô uế các tế đàn ở nơi cao, đối diện với
Giê-ru-sa-lem, phía nam Núi Tàn Phá, đó là những tế đàn mà vua Sa-lô-môn, vua
Ít-ra-en, đã xây kính các thần: Át-tô-rét, đồ gớm ghiếc của dân Xi-đôn, Cơ-mốt,
đồ gớm ghiếc của Mô-áp, và Min-côm, đồ ghê tởm của con cái Am-mon. 14 Vua
đập tan các trụ đá, bổ các cột thờ và chất đầy xương người vào chỗ đó.
Việc
cải cách lan rộng tới vương quốc miền Bắc (2 Sb 34:6-7)
15
Vua
cũng phá huỷ tế đàn ở Bết Ên và tế đàn ở nơi cao mà vua Gia-róp-am, con ông
Nơ-vát, đã lập, - vua này đã lôi kéo Ít-ra-en phạm tội. Vua thiêu huỷ tế đàn ở
nơi cao, biến thành tro, và thiêu huỷ cột thờ.
16
Khi
quay lại, vua Giô-si-gia nhìn thấy những mồ mả tại đó, ở trên núi. Vua sai
người đi quật mả lấy xương cốt ra, đốt trên tế đàn. Như vậy, vua đã làm ô uế tế
đàn đó, theo lời của Ðức Chúa mà người của Thiên Chúa đã lớn tiếng loan báo,
ông đã lớn tiếng loan báo những điều ấy. 17 Vua hỏi: "Lăng mà
ta đang thấy đó là lăng nào vậy?" Các người trong thành thưa: "Ðó là
mộ người của Thiên Chúa đã từ Giu-đa đến và đã lớn tiếng loan báo những điều
ấy, những điều mà vua đã thực hiện để phá tế đàn Bết Ên. 18 Vua nói:
"Hãy để yên người ở đó; đừng ai đụng đến xương cốt của người." Người
ta đã để nguyên xương cốt của ông, cũng như xương cốt của ngôn sứ xuất thân từ
xứ Sa-ma-ri.
19
Vua
Giô-si-gia cũng dẹp mọi nhà cửa phụ thuộc các tế đàn ở nơi cao trong các thành
của Sa-ma-ri, do các vua Ít-ra-en dựng lên để trêu giận Ðức Chúa. Ðối với những
nơi đó, vua đã xử sự hệt như đối với Bết Ên. 20 Mọi tư tế của các tế
đàn ở nơi cao đang có mặt ở đó đã bị vua sát tế trên các tế đàn; vua đã thiêu
huỷ xương người trên đó, rồi trở về Giê-ru-sa-lem.
Cử
hành lễ Vượt Qua (2 Sb 35 :1,18-19)
21
Vua
truyền lệnh sau đây cho toàn dân: "Hãy cử hành lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa,
Thiên Chúa của các ngươi, theo nghi thức ghi chép trong sách Giao Ước này.” 22
Người ta chưa bao giờ cử hành một lễ Vượt Qua nào như thế từ ngày các thủ
lãnh cai trị Ít-ra-en, cũng như suốt thời các vua Ít-ra-en và các vua Giu-đa. 23
Mãi đến năm thứ mười tám triều Giô-si-gia, người ta mới cử hành lễ Vượt
Qua kính Ðức Chúa như vậy tại Giê-ru-sa-lem.
Kết
luận về việc cải cách tôn giáo
24
Ngoài
ra, vua Giô-si-gia còn khử trừ các cô đồng và thầy bói, các tượng thần, các
ngẫu tượng và mọi đồ gớm ghiếc trông thấy ở xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, để thực
hiện những lời của Lề Luật chép trong sách mà tư tế Khin-ki-gia-hu đã tìm thấy
trong Nhà Ðức Chúa. 25 Trước vua, không có vua nào đã trở lại với
Ðức Chúa hết lòng, hết dạ và hết sức mình, theo đúng Luật Mô-sê, như vua; và
sau vua, cũng chẳng thấy xuất hiện vua nào được như vua.
26
Nhưng
Ðức Chúa không nguôi cơn thịnh nộ của Người, cơn thịnh nộ đã bừng lên chống lại
Giu-đa, vì những hành động của vua Mơ-na-se đã trêu giận Người. 27 Ðức
Chúa phán: "Ta cũng sẽ đẩy cả Giu-đa đi cho khuất nhan Ta, như Ta đã đẩy
Ít-ra-en đi; Ta sẽ từ bỏ Giê-ru-sa-lem, thành Ta đã chọn, cũng như Nhà mà Ta đã
nói: Danh Ta sẽ ngự ở đó."
Triều
vua Giô-si-gia chấm dứt (2Sb 35 :20-36 :1)
28
Các
truyện còn lại của vua Giô-si-gia, và mọi việc vua đã làm, đã chẳng được ghi
chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao?
29
Vào
thời vua Giô-si-gia, vua Ai-cập là Pha-ra-ô Nơ-khô lên gặp vua Át-sua bên bờ
sông Êu-phơ-rát. Vua Giô-si-gia đi đón vua Nơ-khô; nhưng vua Nơ-khô giết chết
vua Giô-si-gia ở Mơ-ghít-đô, khi vừa thấy vua này. 30 Các thuộc hạ
của vua này chở thi hài vua lên xe, rồi đưa từ Mơ-ghít-đô về Giê-ru-sa-lem và
chôn trong mộ của vua. Dân trong xứ chọn con vua Giô-si-gia là Giơ-hô-a-khát,
xức dầu tôn làm vua kế vị vua cha.
4.
Giê-Ru-Sa-Lem Bị Tàn Phá
Vua
Giơ-hô-a-khát cai trị Giu-đa (609) (2 Sb 36 :2-4)
31
Giơ-hô-a-khát
lên ngôi vua khi được hai mươi ba tuổi, và trị vì ba tháng ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ
vua tên là Kha-mu-tan, con gái ông Giếc-mơ-gia-hu; bà là người Líp-na. 32 Vua
đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa hệt như tổ tiên vua.
33
Pha-ra-ô
Nơ-khô xiềng vua lại ở Ríp-la, trong xứ Kha-mát, không cho vua trị vì ở
Giê-ru-sa-lem, và bắt xứ phải nộp ba ngàn ký bạc và ba mươi ký vàng. 34 Pha-ra-ô
Nơ-khô đặt con vua Giô-si-gia là En-gia-kim làm vua kế vị vua cha là
Giô-si-gia, và cho đổi tên là Giơ-hô-gia-kim. Pha-ra-ô bắt vua Giơ-hô-a-khát
đưa sang Ai-cập, và vua này chết tại đó.
35
Vua
Giơ-hô-gia-kim nộp vàng bạc cho Pha-ra-ô. Nhưng để có thể nộp số bạc theo lệnh
Pha-ra-ô, vua bắt dân trong xứ phải đóng thuế: vua đòi dân trong xứ, mỗi người
theo khả năng mình, phải góp vàng bạc để nộp cho Pha-ra-ô Nơ-khô.
Vua
Giơ-hô-gia-kim cai trị Giu-đa (609-598) (2 Sb 36 :5-8)
36
Giơ-hô-gia-kim
lên ngôi vua khi được hai mươi lăm tuổi, và trị vì mười một năm ở
Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Dơ-vi-đa, con gái ông Pơ-đa-gia; bà là người Ru-ma.
37 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, hệt như tổ tiên vua.
Chương 24
1
Trong
thời vua Giơ-hô-gia-kim, vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-xo tiến lên đánh vua
Giơ-hô-gia-kim; vua này phải chịu lệ thuộc trong vòng ba năm rồi lại nổi lên
chống vua Ba-by-lon. 2 Ðức Chúa sai những toán quân Can-đê, A-ram,
Mô-áp và những toán quân của con cái Am-mon đến hại vua Giơ-hô-gia-kim. Người
sai chúng đến tấn công Giu-đa để huỷ diệt xứ này, theo lời Ðức Chúa đã dùng các
ngôn sứ, tôi trung của Người mà phán. 3 Ðiều ấy đã xảy ra cho Giu-đa
hoàn toàn do mệnh lệnh của Ðức Chúa với mục đích đẩy Giu-đa đi cho khuất nhan
Người, vì các tội vua Mơ-na-se đã phạm, vì mọi việc vua đã làm, 4 và
cũng vì máu vô tội vua đã đổ làm cho Giê-ru-sa-lem ngập tràn máu vô tội, và Ðức
Chúa không muốn tha thứ.
5
Các
truyện còn lại của vua Giơ-hô-gia-kim và mọi việc vua làm đã chẳng được ghi
chép trong sách Sử biên niên các vua Giu-đa đó sao? 6 Vua Giơ-hô-gia-kim đã an
nghỉ với tổ tiên, và con vua là Giơ-hô-gia-khin lên ngôi kế vị.
7
Vua
Ai-cập không còn ra khỏi xứ mình nữa, vì vua Ba-by-lon đã lấy tất cả những gì
thuộc về vua Ai-cập từ Suối Ai-cập cho đến sông Êu-phơ-rát.
Dẫn
vào triều vua Giơ-hô-gia-khin (598) (2 Sb 36:9)
8
Giơ-hô-gia-khin
lên ngôi vua khi được mười tám tuổi, và trị vì ba tháng ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua
tên là Nơ-khút-ta, con gái ông En-na-than, bà là người Giê-ru-sa-lem. 9 Vua
đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, hệt như vua cha.
Cuộc
lưu đày thứ nhất (2 Sb 36:10)
10
Khi
ấy, các thuộc hạ của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, tiến lên đánh
Giê-ru-sa-lem, và thành bị vây hãm. 11 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua
Ba-by-lon, đến đánh thành, trong khi các thuộc hạ của vua vây hãm thành. 12
Vua Giơ-hô-gia-khin, vua Giu-đa, cùng với mẹ vua, các thuộc hạ, các tướng
lãnh và thái giám của vua ra hàng vua Ba-by-lon. Vua đã bị bắt vào năm thứ tám
triều vua Ba-by-lon.
13
Vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo đưa mọi kho tàng của Nhà Ðức Chúa và các kho tàng của hoàng
cung ra khỏi đó. Vua đập bể mọi đồ bằng vàng mà vua Sa-lô-môn, vua Ít-ra-en, đã
làm để dùng trong đền thờ Ðức Chúa, như Ðức Chúa đã phán. 14 Vua bắt
toàn thể Giê-ru-sa-lem, mọi tướng lãnh và mọi dũng sĩ đi đày, tất cả là mười
ngàn người phải đi đày, cùng với mọi thợ rèn và thợ làm khoá; không sót lại một
ai, trừ dân cùng đinh trong xứ. 15 Vua đày vua Giơ-hô-gia-khin sang
Ba-by-lon; vua đày mẹ vua này, các cung phi, các thái giám và phú hào trong xứ,
từ Giê-ru-sa-lem sang Ba-by-lon. 16 Tất cả những người có thế giá,
bảy ngàn người, thợ rèn và thợ làm khoá, một ngàn người, và tất cả các binh
lính cũng bị vua đày sang Ba-by-lon.
17
Vua
Ba-by-lon đặt ông Mát-tan-gia là chú của vua Giơ-hô-gia-khin làm vua thay thế;
vua Ba-by-lon đổi tên vua Mát-tan-gia là Xít-ki-gia-hu.
Dẫn
vào triều vua Xít-ki-gia-hu ở Giu-đa (598 -587) (2 Sb 36:11-12;Gr 52:1-3a)
18
Xít-ki-gia-hu
lên ngôi vua khi được hai mươi mốt tuổi, và trị vì mười một năm ở
Giê-ru-sa-lem. Mẹ của vua là Kha-mi-tan, con gái ông Giếc-mơ-gia-hu; bà là
người Líp-na. 19 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, hệt như vua
Giơ-hô-gia-kim. 20 Chính vì Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ mà sự việc đã
xảy ra như thế tại Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, cho đến khi người xua đuổi họ đi
khuất nhan Người.
Giê-ru-sa-lem
bị vây hãm (2 Sb 36 :13-21; Gr 52 :3b-11)
Vua
Xít-ki-gia-hu đã nổi loạn chống lại vua Ba-by-lon.
Chương 25
1
Ngày
mồng mười tháng mười, năm thứ chín triều Xít-ki-gia-hu, Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua
Ba-by-lon, cùng toàn thể đạo quân tiến đánh Giê-ru-sa-lem. Vua đóng trại và đắp
chiến luỹ chung quanh để đánh thành. 2 Thành bị vây hãm cho đến năm
thứ mười một triều vua Xít-ki-gia-hu. 3 Vào mồng chín tháng tư, nạn
đói hoành hành trong thành, và không có bánh cho dân trong xứ. 4 Thành
bị chọc thủng một lỗ. Ðang đêm, tất cả các binh lính đi ra theo con đường cửa
giữa hai bức tường, gần vườn của vua, - bấy giờ quân Can-đê đang bao vây thành
-, rồi họ đi theo con đường hướng tới A-ra-va. 5 Ðạo quân Can-đê
rượt theo và đuổi kịp vua trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô; toàn thể đạo quân
của vua bỏ vua chạy tán loạn. 6 Chúng bắt vua và đem lên Ríp-la gặp
vua Ba-by-lon, chúng tuyên án kết tội vua. 7 Chúng cắt cổ những
người con của vua Xít-ki-gia-hu trước mắt vua cha. Rồi vua Ba-by-lon đâm mù mắt
vua Xít-ki-gia-hu, lấy hai dây xích đồng xiềng vua lại và điệu về Ba-by-lon.
Giê-ru-sa-lem
bị cướp phá. Cuộc lưu đày thứ hai. (Gr 52:12-27)
8
Ngày
mồng bảy tháng năm, - đó là năm thứ mười chín triều Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua
Ba-by-lon -, quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan, thuộc hạ của vua Ba-by-lon,
vào Giê-ru-sa-lem. 9 Ông đốt Nhà Ðức Chúa, đền vua và mọi nhà cửa ở
Giê-ru-sa-lem; ông còn phóng hoả đốt mọi dinh thự các nhà quyền quý. 10 Toàn
thể đạo quân Can-đê, dưới quyền quan chỉ huy thị vệ, phá huỷ các tường thành
chung quanh Giê-ru-sa-lem. 11 Quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan
bắt những người dân còn sót lại trong thành, những người đã đào ngũ theo vua
Ba-by-lon, và những người thợ thủ công còn sót lại phải đi đày. 12 Nhưng
quan chỉ huy thị vệ chừa lại một phần dân cùng đinh trong xứ để trồng nho và
canh tác.
13
Quân
Can-đê đập tan các cột đồng của Nhà Ðức Chúa, các giàn và bể nước bằng đồng
trong Nhà Ðức Chúa, rồi mang đồng về Ba-by-lon. 14 Rồi chúng lấy
nồi, xẻng, dao, chén và mọi đồ bằng đồng dùng vào việc tế tự. 15 Quan
chỉ huy thị vệ cũng lấy lư hương và bình rảy, các đồ này được làm bằng vàng
bằng bạc. 16 Còn hai cái cột của bể nước duy nhất và các giàn mà vua
Sa-lô-môn đã làm cho Nhà Ðức Chúa, thì người ta không thể xác định được số
lượng đồng của tất cả những đồ vật đó. 17 Mỗi cột cao chín thước;
bên trên cột có đầu trụ trạm trổ bằng đồng, cao một thước rưỡi. Bên trên đầu
trụ, có một màng lưới và những trái thạch lựu ở chung quanh; tất cả đều bằng
đồng. Cột thứ hai cũng vậy. Trên màng lưới...
18
Quan
chỉ huy thị vệ bắt giữ tư tế thủ lãnh Xơ-ra-gia, tư tế bậc hai Xơ-phan-gia-hu
và ba tư tế canh ngưỡng cửa. 19 Còn trong thành, ông bắt giữ một
thái giám chỉ huy các binh lính, năm cận thần của vua người ta tìm thấy trong
thành, viên ký lục của tướng lãnh quân đội lo việc tuyển quân trong xứ, và sáu
mươi người dân trong xứ người ta tìm thấy trong thành. 20 Quan chỉ
huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan, bắt những người ấy và điệu tới vua Ba-by-lon ở
Ríp-la. 21 Vua Ba-by-lon cho người đánh đập và giết chết họ ở
Ríp-la, trong xứ Kha-mát. Và Giu-đa bị đày biệt xứ.
Ông
Gơ-đan-gia-hu, tổng trấn xứ Giu-đa (Gr 40:7-9;41:1-3)
22
Vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, đã đặt ông Gơ-đan-gia-hu, con ông A-khi-cam,
cháu ông Sa-phan, làm tổng trấn cai trị dân còn sót lại trong xứ Giu-đa mà vua
đã để lại. 23 Mọi tướng lãnh chỉ huy các toán quân, và những người
của họ nghe tin là vua Ba-by-lon đã đặt ông Gơ-đan-gia-hu làm tổng trấn, thì
đến gặp ông Gơ-đan-gia-hu ở Mít-pa: đó là ông Gít-ma-ên, con ông Nơ-than-gia,
ông Giô-kha-nan, con ông Ca-rê-ác, ông Xơ-ra-gia, con ông Tan-khu-mét người
Nơ-tô-pha, ông Gia-a-dan-gia-hu, người Ma-a-kha, họ và các người của họ. 24
Ông Gơ-đan-gia-hu thề với họ và các người của họ rằng: "Ðừng sợ các
thuộc hạ của người Can-đê, hãy ở lại trong xứ và phục dịch vua Ba-by-lon, thì
các ông sẽ được thoải mái."
25
Tháng
bảy, ông Gít-ma-ên, con ông Nơ-than-gia, cháu ông Ê-li-sa-ma, thuộc hoàng tộc,
cùng với mười người đến đánh đập và giết chết ông Gơ-đan-gia-hu cũng như các người
Giu-đa và Can-đê đang ở với ông tại Mít-pa. 26 Toàn dân từ nhỏ đến
lớn, cũng như những tướng lãnh chỉ huy các toán quân, lên đường sang Ai-cập vì
sợ người Can-đê.
Vua
Giơ-hô-gia-khin được ân xá (Gr 52:31-34)
27
Năm
thứ ba mươi bảy kể từ khi vua Giu-đa là Giơ-hô-gia-khin bị lưu đày, tức là năm
vua Ba-by-lon là E-vin Mơ-rô-đác lên ngôi, thì ngày hai mươi bảy tháng mười
hai, vua này ân xá cho Giơ-hô-gia-khin, vua Giu-đa, và đưa ra khỏi nhà tù. 28
Vua Ba-by-lon tiếp chuyện vua cách thân thiện và ban cho vua một ngai cao
hơn ngai các vua đang có mặt tại Ba-by-lon với vua. 29 Vua Ba-by-lon
cho vua thay áo tù, và suốt đời, ngày ngày luôn được đồng bàn với mình. 30
Vua được vua Ba-by-lon cấp dưỡng liên tục, ngày nào cũng thế, trong suốt
đời vua.
Lịch Sử - Tư Tế
Sử Biên Niên
1
Chương 01
I.
Dòng Họ Vua Ða-Vít: Các Gia Phả
1.
Từ A-Ðam Ðến Ít-Ra-En
Gốc
tích của ba nhóm (St 5:1-32)
1
Ông
A-đam, ông Sết, ông E-nốt. 2 Ông Kê-nan, ông Ma-ha-lan-ên, ông
Gie-rét. 3 Ông Kha-nốc, ông Mơ-thu-se-lác, ông La-méc. 4 Ông
Nô-ê, ông Sêm, ông Kham, ông Gia-phét.
Ngành
ông Gia-phét (St 10:2-4)
5
Các
con của ông Gia-phét là Gô-me, Ma-gốc, Mê-đi, Gia-van, Tu-van, Me-séc, Ti-rát.
6
Các
con của ông Gô-me là Át-cơ-nát, Ri-phát, Tô-gác-ma, 7 Các con của
ông Gia-van là Ê-li-sa, Tác-sít, người Kít-tim, người Rô-đa-nim.
Ngành
ông Kham (St 10 :6-8,13-18)
8
Các
con của ông Kham là Cút, Mít-ra-gim, Pút, Ca-na-an.
9
Các
con của ông Cút là Xơ-va, Kha-vi-la, Xáp-ta, Ra-ơ-ma, Xáp-tơ-kha. Các con của
ông Ra-ơ-ma là Sơ-va, Ðơ-đan. 10 Ông Cút sinh ra ông Nim-rốt là
người anh hùng đầu tiên trên mặt đất.
11
Ông
Mít-ra-gim sinh ra dân Lút, dân A-nam, dân Lơ-háp, dân Náp-tu-khim, 12 dân
Pát-rốt, dân Cát-lúc và dân Cáp-to, từ dân này mới có dân Phi-li-tinh. 13 Ông
Ca-na-an sinh ra ông Xi-đôn là con đầu lòng, rồi sinh ông Khết, 14 và
các người Giơ-vút, người E-mô-ri, người Ghia-ga-si, 15 người Khi-vi,
người Ác-ki, người Xi-ni, 16 người Ác-vát, người Xơ-ma-ri, người
Kha-mát.
Ngành
ông Sêm (St 10:22-29)
17
Các
con của ông Sêm là Ê-lam, Át-sua, Ác-pắc-sát, Lút, A-ram, Út, Khun, Ghe-the,
Me-séc.
18
Ác-pắc-sát
sinh Se-lác. Se-lác sinh Ê-ve. 19 Ê-ve được hai người con trai:
người thứ nhất tên là Pe-lét, vì trong thời gian ông sống, đất được phân chia;
người em tên là Gióc-tan.
20
Gióc-tan
sinh An-mô-đát, Se-lép, Kha-xa-ma-vét, Gie-rác, 21 Ha-đô-ram, U-dan,
Ðích-la, 22 Ê-van, A-vi-ma-ên, Sơ-va, 23 Ô-phia,
Kha-vi-la, Giô-váp. Tất cả những người đó là con của ông Gióc-tan.
Từ
ông Sêm đến ông Áp-ra-ham (St 11:10-26)
24
A-pắc-sát,
Se-lác, 25 Ê-ve, Pe-lét, Rơ-u, 26 Xơ-rúc, Na-kho, Te-rác,
27 Áp-ram, tức là Áp-ra-ham. 28 Các con của ông Áp-ra-ham
là I-xa-ác và Ít-ma-ên. Ðây là hậu duệ của các ngài.
Con
cháu ông Ít-ma-ên (St 25:13-16)
29
Con
đầu lòng của ông Ít-ma-ên là Nơ-va-giốt, rồi đến Kê-đa, Át-bơ-ên, Míp-xam, 30
Mít-ma, Ðu-ma, Ma-xa, Kha-đát, Tê-ma, 31 Giơ-tua, Na-phít,
Kết-ma. Ðấy là các con của ông Ít-ma-ên. 32 Con của bà Cơ-tu-ra, vợ
lẽ của ông Áp-ra-ham: bà sinh Dim-ran, Gióc-san, Mơ-đan, Ma-đi-an, Gít-bắc,
Su-ác. Các con của ông Gióc-san là Sơ-va và Ðơ-đan. 33 Các con của
ông Ma-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Kha-nốc, A-vi-đa, En-đa-a. Tất cả những người ấy
là con cháu bà Cơ-tu-ra.
Ông
I-xa-ác và ông Ê-xau (St 36:1-9)
34
Ông
Áp-ra-ham sinh I-xa-ác. Các con của ông I-xa-ác là Ê-xau và Ít-ra-en.
35
Các
con của ông Ê-xau là Ê-li-phát, Rơ-u-ên, Giơ-út, Gia-lam, Cô-rắc. 36 Các
con của ông Ê-li-phát là Tê-man, Ô-ma, Xơ-phi, Ga-ơ-tam, Cơ-nát, Tim-na,
A-ma-lếch. 37 Các con của ông Rơ-u-ên là Na-khắt, De-rác, Sam-ma,
Mít-da.
Ngành
ông Xê-ia (St 36:20-30)
38
Các
con của ông Xê-ia là Lô-tan, Sô-van, Xíp-ôn, An-na, Ði-sôn, Ê-xe, Ði-san. 39
Các con của ông Lô-tan là Khô-ri, Hô-mam. Em gái của ông Lô-tan là Tim-na.
40 Các con của ông Sô-van là An-gian, Ma-na-khát, Ê-van, Sơ-phi,
Ô-nam. Các con của ông Xíp-ôn là Ai-gia và A-na. 41 Con của ông A-na
là Ði-sôn. Các con của ông Ði-sôn là Kham-ran, Ét-ban, Gít-ran, Cơ-ran. 42
Các con của ông Ê-xe là Bin-han, Da-a-van, Gia-a-can. Các con của ông
Ði-sôn là Út và A-ran.
Các
vua Ê-đôm (St 36:31-39)
43
Ðây
là các vua cai trị xứ Ê-đôm trước khi con cái Ít-ra-en có vua: vua Be-la con
vua Bơ-o, và thành của vua tên là Ðin-ha-va. 44 Vua Bê-la qua đời,
ông Giô-váp, con ông De-rác, người Bót-ra, lên kế vị. 45 Vua Giô-váp
qua đời, ông Khu-sam, người gốc xứ Tê-man, lên kế vị. 46 Vua Khu-sam
qua đời, ông Ha-đát, con ông Bơ-đát, lên kế vị. Vua này đánh bại người Ma-đi-an
trong cánh đồng Mô-áp, thành của vua tên là A-vít. 47 Vua Ha-đát qua
đời, ông Xam-la, người thành Mát-rê-ca, lên kế vị. 48 Vua Xam-la qua
đời, ông Sa-un, người thành Rơ-khô-vốt Ha Na-ha lên kế vị. 49 Vua
Sa-un qua đời, ông Ba-an Kha-nan, con ông Ác-bo lên kế vị. 50 Vua
Ba-an Kha-nan qua đời, ông Ha-đát lên kế vị; thành của vua tên là Pa-i; vợ vua
tên là Mơ-hê-táp-ên, con gái ông Ma-rết, người thành Mê Da-háp.
Các
tộc trưởng Ê-đôm (St 36:40-43)
51
Vua
Ha-đát qua đời thì có các tộc trưởng Ê-đôm: tộc trưởng Tim-na, tộc trưởng
An-va, tộc trưởng Giơ-thết, 52 tộc trưởng O-ho-li-va-ma, tộc trưởng
Ê-la, tộc trưởng Pi-nôn, 53 tộc trưởng Cơ-nát, tộc trưởng Tê-man,
tộc trưởng Míp-xa, 54 tộc trưởng Mác-đi-ên, tộc trưởng I-ram. Ðó là
các tộc trưởng Ê-đôm.
Chương 02
2.
Ông Giu-Ða
Các
con của ông Ít-ra-en (St 35:22b-26)
1
Ðây
là các con ông Ít-ra-en: Rưu-vên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Ít-xa-kha, Dơ-vu-lun,
2 Ðan, Giu-se, Ben-gia-min, Náp-ta-li, Gát, A-se.
Dòng
họ Giu-đa
3
Các
con ông Giu-đa: E, Ô-nan, Sê-la; cả ba đều là con ông, do bà Bát Su-a người
Ca-na-an sinh ra. Ông E, con đầu lòng ông Giu-đa, làm mất lòng Ðức Chúa, nên
Người khiến ông chết. 4 Bà Ta-ma, con dâu ông Giu-đa, sinh cho ông
này Pe-rét và De-rác. Ông Giu-đa có tất cả năm người con.
5
Các
con của ông Pe-rét là Khét-rôn và Kha-mun.
6
Các
con của ông De-rác là: Dim-ri, Ê-than, Hê-man, Can-côn, Ða-ra, tất cả là năm
người.
7
Con
của ông Các-mi là A-kha, kẻ gây tai hoạ cho Ít-ra-en, vì đã vi phạm luật biệt
hiến.
8
Con
của ông Ê-than là A-dác-gia.
Nguồn
gốc vua Ða-vít
9
Các
con của ông Khét-rôn, những người đã được sinh ra cho ông: Giơ-rác-mơ-ên, Ram,
Cơ-lu-vai.
10
Ram
sinh Am-mi-na-đáp, Am-mi-na-đáp sinh Nác-sôn, thủ lãnh con cái ông Giu-đa. 11
Nác-sôn sinh Xan-ma, Xan-ma sinh Bô-át. 12 Bô-át sinh Ô-vết,
Ô-vết sinh Gie-sê. 13 Gie-sê sinh con đầu lòng là Ê-li-áp, con thứ
là A-vi-na-đáp, và Sim-a là thứ ba, 14 Nơ-than-ên thứ tư, Rát-đai
thứ năm, 15 Ô-xem thứ sáu, Ða-vít thứ bảy. 16 Chị em gái
của họ là Xơ-ru-gia và A-vi-ga-gin. Các con của bà Xơ-ru-gia có ba người là
Áp-sai, Giô-áp, A-xa-hên. 17 Bà A-vi-ga-gin sinh A-ma-xa, cha của
A-ma-xa là Gie-the, người Ít-ma-ên.
Ngành
ông Ca-lếp
18
Ông
Ca-lếp, con ông Khét-rôn, cùng vợ là bà A-du-va sinh ra ông Giơ-ri-ốt. Ðây là
các con của bà: Giê-se, Sô-váp, Ác-đôn. 19 Bà A-du-va chết, ông
Ca-lếp cưới bà Ép-rát, và bà này sinh ra cho ông người con tên là Khua. 20
Khua sinh U-ri, U-ri sinh Bơ-xan-ên.
21
Sau
đó ông Khét-rôn đến với con gái ông Ma-khia, cha ông Ga-la-át. Khi cưới bà, ông
đã sáu mươi tuổi, và bà sinh ra Xơ-gúp cho ông. 22 Xơ-gúp sinh
Gia-ia; ông này có tới hai mươi ba thành trong xứ Ga-la-át. 23 Nhưng
Gơ-sua và A-ram chiếm mất của họ các thôn làng thuộc Gia-ia, Cơ-nát và các nơi
phụ cận là sáu mươi thành. Tất cả những người đó đều là con cháu ông Ma-khia,
cha ông Ga-la-át.
24
Sau
khi ông Khét-rôn chết, thì ông Ca-lếp lại kết hôn với bà Ép-ra-tha, vợ goá của
ông Khét-rôn cha mình. Bà đã sinh ra cho ông người con tên là Át-khua, cha của
ông Tơ-cô-a.
Ngành
ông Giơ-rác-mơ-ên
25
Các
con của ông Giơ-rác-mơ-ên, con đầu lòng của ông Khét-rôn, là: Ram, con đầu
lòng, rồi Bu-na, Ô-ren, Ô-xem, A-khi-gia. 26 Ông Giơ-rác-mơ-ên có
một người vợ khác tên là A-ta-ra, đó là mẹ của ông Ô-nam.
27
Các
con của ông Ram, con đầu lòng của ông Giơ-rác-mơ-ên, là: Ma-át, Gia-min, Ê-ke.
28
Các
con của ông Ô-nam là: Sam-mai và Gia-đa. Các con của ông Sam-mai là Na-đáp và
A-vi-sua. 29 Tên người vợ của ông A-vi-sua là A-vi-kha-gin. Bà này
sinh ra Ác-ban và Mô-lít cho ông. 30 Các con của ông Na-đáp là
Xe-lét và Áp-pa-gim. Ông Xe-lét chết mà không có con. 31 Con của ông
Áp-pa-gim là Gít-i; con của ông Gít-i là Sê-san; con của ông Sê-san là Ác-lai. 32
Các con của ông Gia-đa, em của ông Sam-mai, là Gie-the và Giô-na-than.
Ông Gie-the chết mà không có con. 33 Các con của ông Giô-na-than là
Pe-lét và Da-da. Ðó là con cháu của ông Giơ-rác-mơ-ên.
34
Ông
Sê-san không có con trai, chỉ có con gái. Ông có người đầy tớ Ai-cập tên là
Giác-kha. 35 Ông Sê-san gả con gái cho anh đầy tớ làm vợ. Bà này
sinh ra Át-tai cho ông. 36 Ông Át-tai sinh Na-than, Na-than sinh
Da-vát, 37 Da-vát sinh Ép-lan, Ép-lan sinh Ô-vết, 38 Ô-vết
sinh Giê-hu, Giê-hu sinh A-dác-gia, 39 A-dác-gia sinh Khe-lét,
Khe-lét sinh En-a-xa, 40 En-a-xa sinh Xít-mai, Xít-mai sinh Sa-lum, 41
Sa-lum sinh Giơ-cam-gia, Giơ-cam-gia sinh Ê-li-sa-ma.
Ngành
ông Ca-lếp
42
Các
con của ông Ca-lếp, em ông Giơ-rác-mơ-ên, là Mê-sa, con đầu lòng (ông này là
cha của ông Díp) và Ma-rê-sa, cha ông Khép-rôn. 43 Các con của ông
Khép-rôn là Cô-rắc, Táp-pu-ác, Re-kem, Se-ma. 44 Ông Se-ma sinh
Ra-kham, cha của Gióc-cơ-am. Ông Re-kem sinh Sam-mai. 45 Con của ông
Sam-mai là Ma-ôn, cha của Bết-xua.
46
Bà
Ê-pha, tỳ thiếp của ông Ca-lếp, sinh Kha-ran, Mô-xa, Ga-dết. Ông Kha-ran sinh
Ga-dết.
47
Các
con của ông Gia-đai là Re-ghem, Giô-tham, Ghê-san, Pe-lét, Ê-pha, Sa-áp.
48
Bà
Ma-a-kha, tỳ thiếp của ông Ca-lếp sinh Se-ve và Tia-kha-na. 49 Bà
cũng sinh Sa-áp, cha của Mát-man-na, và Sơ-va, cha của Mác-bê-na và của Ghíp-a.
Con
gái của ông Ca-lếp là Ác-xa.
50
Ðó
là con cháu ông Ca-lếp.
Ngành
ông Khua
51
Xan-ma,
cha của Bê-lem, Kha-rép, cha của Bết Ga-đe. 52 Ông Sô-van, cha của
Kia-giát Giơ-a-rim, có những người con sau đây: ông Ha-rô-e, một nửa dân
Ma-na-khát, 53 các thị tộc Kia-giát Giơ-a-rim, dân Gít-ri, dân Pút,
dân Su-ma, dân Mít-ra. Từ các người ấy đã phát xuất ra các dân Xo-rơ-a và
Ét-ta-ôn.
54
Các
con của ông Xan-ma là: ông Bê-lem, dân Nơ-tô-pha, ông Át-rốt Bết Giô-áp, một
nửa dân Ma-na-khát nữa, dân Xo-rơ-a. 55 Các thị tộc người Xô-phơ-rim
cư ngụ tại Gia-bết là: Tia-a, Sim-a, Xu- kha. Ðó là những người Kê-ni xuất thân
từ Kham-mát, tổ phụ của gia đình Rê-kháp.
Chương 03
3.
Nhà Ða-Vít
Các
con của vua Ða-vít.
1
Ðây
là các con của vua Ða-vít, sinh tại Khép-rôn. Con đầu lòng là Am-nôn, do bà
A-khi-nô-am người Gít-rơ-en; người con thứ là Ða-ni-ên, do bà A-vi-ga-gin người
Các-men; 2 người thứ ba là Áp-sa-lôm, con bà Ma-a-kha, ái nữ của
Tan-mai vua Gơ-sua; người thứ tư là A-đô-ni-gia, con bà Khác-ghít; 3 người
thứ năm là Sơ-phát-gia, do bà A-vi-tan; người thứ sáu là Gít-rơ-am, do bà Éc-la
vợ ông. 4 Sáu người này là con ông sinh tại Khép-rôn, nơi ông trị vì
bảy năm sáu tháng.
Rồi
ông trị vì tại Giê-ru-sa-lem được ba mươi ba năm.
5
Ðây
là các con ông đã sinh tại Giê-ru-sa-lem: Sim-a, Sô-váp, Na-than, Sa-lô-môn,
bốn người do bà Bát Su-a, con gái của ông Am-mi-ên; 6 Gíp-kha,
Ê-li-sa-ma, Ê-li-pha-lét, 7 Nô-ga, Ne-phéc, Gia-phia, 8 Ê-li-sa-ma,
En-gia-đa, Ê-li-phe-lét, chín người tất cả.
9
Ðó
là tất cả các con vua Ða-vít, không kể các con do các tỳ thiếp. Còn Ta-ma là
chị em của họ.
Các
vua Giu-đa
10
Các
con của vua Sa-lô-môn là: Rơ-kháp-am, A-vi-gia con ông; A-xa, con ông;
Giơ-hô-sa-phát, con ông; 11 Giô-ram con ông; A-khát-gia-hu con ông;
Giô-át con ông; 12 A-mát-gia-hu con ông; A-dác-gia con ông; Giô-than
con ông; 13 A-khát con ông; Khít-ki-gia con ông; Mơ-na-se con ông; 14
A-môn con ông; Giô-si-gia-hu con ông. 15 Các con của ông
Giô-si-gia-hu là: Giô-kha-nan con trưởng, Giơ-hô-gia-kim con thứ, Xít-ki-gia-hu
con thứ ba, Sa-lum con thứ tư. 16 Các con của ông Giơ-hô-gia-kim là
Giơ-khon-gia con ông, Xít-ki-gia-hu con ông.
Hoàng
tộc sau thời lưu đày
17
Các
con vua Giơ-khon-gia, người bị đi đày, là San-ti-ên con ông; 18 Man-ki-ram,
Pơ-đa-gia, Sen-át-xa, Giơ-cam-gia, Hô-sa-ma, Nơ-đáp-gia. 19 Các con
ông Pơ-đa-gia là Dơ-rúp-ba-ven và Sim-y. Các con ông Dơ-rúp-ba-ven là
Mơ-su-lam, Kha-nan-gia, bà Sơ-lô-mít, em gái các ông. 20 Các con ông
Mơ-su-lam là: Kha-su-va, Ô-hen, Be-réc-gia, Kha-xát-gia, Giu-sáp Khe-xét: tất
cả là năm người. 21 Các con ông Kha-nan-gia là: Pơ-lát-gia;
Giơ-sa-gia con ông; Rơ-pha-gia con ông; Ác-nan con ông; Ô-vát-gia con ông;
Sơ-khan-gia con ông. 22 Con của ông Sơ-khan-gia là Sơ-ma-gia. Các
con ông Sơ-ma-gia là: Khát-tút, Gích-an, Ba-ri-ác, Nơ-ác-gia, Sa-phát: tất cả
là sáu người. 23 Các con ông Nơ-ác-gia là: En-giô-ê-nai,
Khít-ki-gia, Át-ri-cam: tất cả là ba người. 24 Các con ông
En-giô-ê-nai là: Hô-đai-va-hu, En-gia-síp, Pơ-la-gia, Ác-cúp, Giô-kha-nan,
Ðơ-la-gia, A-na-ni: tất cả là bảy người.
Chương 04
4.
Các Chi Tộc Miền
Ngành
ông Giu-đa. Ông Sô-van.
1
Các
con ông Giu-đa là: Pe-rét, Khét-rôn, Các-mi, Khua, Sô-van.
2
Rơ-a-gia,
con Sô-van, sinh Gia-khát; Gia-khát sinh A-khu-mai và La-hát. Ðó là các thị tộc
người Xo-rơ-a.
Ngành
ông Khua
3
Ðây
là các con của ông Khua: người cha của Ê-tham, rồi đến Gít-rơ-en, Gít-ma,
Gít-bát. Em gái các ông tên là Hát-len-pô-ni.
4
Pơ-nu-ên
là cha của Gơ-đo. Ê-de là cha của Khu-sa.
Ðó
là các con ông Khua, con đầu lòng của ông Ép-ra-tha, cha của ông Bê-lem.
Ngành
ông Át-khua
5
Ông
Át-khua, cha của Tơ-cô-a, có hai bà vợ là Khen-a và Na-a-ra.
6
Bà
Na-a-ra sinh ra cho ông: A-khút-dam, Khê-phe, các người Têm-ni và người
A-khát-ta-ri. Ðó là con cháu bà Na-a-ra.
7
Các
con của bà Khen-a là: Xe-rét, Giơ-xô-kha, Ét-nan.
8
Ông
Cốt sinh A-núp, Hát-xô-vê-va và các thị tộc A-khác-khên, con Ha-rum. 9 Ông
Gia-bết vẻ vang hơn các anh em mình. Mẹ ông đặt tên cho ông là Gia-bết; bà nói:
"Tôi đã sinh ra nó trong cơn khốn khổ.” 10 Ông Gia-bết kêu cầu
Thiên Chúa Ít-ra-en rằng: "Nếu thật Ngài giáng phúc cho con, thì xin nới
rộng bờ cõi của con và xin tay Ngài phù trợ con, làm cho sự dữ lìa xa và cho
con thoát cơn khốn khổ." Thiên Chúa đã ban cho ông điều ông xin.
Ngành
ông Cơ-lúp
11
Ông
Cơ-lúp, anh em của Su-kha, sinh Mơ-khia là cha của Ét-tôn. 12 Ét-tôn
sinh
13
Các
con ông Cơ-nát là: Ót-ni-ên và Xơ-ra-gia. Các con ông Ót-ni-ên là Kha-thát và
Mơ-ô-nô-thai. 14 Mơ-ô-nô-thai sinh Óp-ra; Xơ-ra-gia sinh Giô-áp cha
của Ghê Kha-ra-sim, vì họ là những người thợ thủ công.
15
Các
con của ông Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne, là: I-ru, Ê-la, Na-am. Con của Ê-la là
Cơ-nát. 16 Các con của ông Giơ-ha-len-ên là Díp, Di-pha, Tia-gia,
A-xác-ên.
17a
Các con của ông Ét-ra là Gie-the, Me-rét, E-phe, Gia-lôn. 18b Ðây là các con bà
Bít-gia, công chúa của Pha-ra-ô mà ông Me-rét đã cưới làm vợ; 17b và bà mang
thai Mi-ri-am, Sam-mai, Gít-bác, cha của Ét-tơ-mô-a. 18a Vợ ông, một người
Giu-đa, đã sinh ra Gie-rét, cha của Gơ-đo, rồi sinh Khe-ve, cha của Xô-khô,
Giơ-cô-thi-ên, cha của Da-nô-ác.
19
Các
con bà vợ ông Hô-đi-gia, chị em với ông Na-kham là: cha của các ông Cơ-i-la,
người Gác-mi và Ét-tơ-mô-a, người Ma-a-kha.
20
Các
con ông Si-môn là: Am-nôn, Rin-na, Ben Kha-nan, Ti-lôn.
Các
con ông Gít-i là Dô-khết và Ben Dô-khết.
Ngành
ông Sê-la
21
Các
con ông Sê-la, con ông Giu-đa, là: E, cha của Lê-kha, La-đa, cha của Ma-rê-sa
và các thị tộc những người dệt gấm tại Bết Át-bê-a; 22 Giô-kim, các
người Cô-dê-va, Giô-át và Xa-ráp, những người đã làm chủ Mô-áp, rồi lại trở về
Bê-lem. Ðó là (chuyện xưa). 23 Những người này là thợ gốm, họ cư ngụ
tại Nơ-ta-im và Gơ-đê-ra; họ ở đấy với đức vua để phục vụ ông.
Ngành
ông Si-mê-ôn
24
Các
con ông Si-mê-ôn là: Nơ-mu-ên, Gia-min, Gia-ríp, De-rác, Sa-un, 25 Sa-lum
con ông, Míp-xam con ông, Mít-ma con ông. 26 Các con ông Mít-ma là:
Kham-mu-ên con ông, Dắc-cua con ông, Sim-y con ông. 27 Ông Sim-y
được mười sáu người con trai và sáu người con gái, còn anh em ông thì không có
nhiều con cái, và các thị tộc của họ không phát triển được như con cái Giu-đa.
28
Họ
cư ngụ tại Bơ-e Se-va, Mô-la-đa và Kha-xa Su-an, 29 tại Bin-ha, tại
E-xem và tại Tô-lát, 30 tại Bơ-thu-ên, tại Khoóc-ma, tại Xích-lắc, 31
tại Bết Mác-ca-vốt, tại Kha-xa Xu-xim, tại Bết Bia-i và tại Sa-a-ra-gim.
Ðấy là các thành của họ cho tới khi vua Ða-vít lên ngôi. 32 Còn các
thôn làng của họ thì có năm là: Ê-tham, A-gin, Rim-môn, Tô-khen, A-san; 33
và tất cả các thôn làng nằm chung quanh các thành ấy cho cho tới Ba-an.
Ðó là những nơi họ cư trú và được đăng bộ. 34 Mơ-sô-váp, Giam-lếch,
Giô-sa, con của A-mát-gia, 35 Giô-en, Giê-hu, con của Giô-síp-gia,
con của Xơ-ra-gia, con của A-xi-ên, 36 En-giô-ê-nai, Gia-a-cô-va,
Giơ-sô-kha-gia, A-xa-gia, A-đi-ên, Giơ-xi-mi-ên, Bơ-na-gia, 37 Di-da,
Ben Síp-y, Ben A-lôn, Ben Giơ-đa-gia, Ben Sim-ri, Ben Sơ-ma-gia. 38 Những
người ấy được ghi đích danh, đều là những người đứng đầu các thị tộc, và các
gia tộc của họ đã tăng lên rất nhiều. 39 Từ lối vào Gơ-đo, họ đi tới
phía đông thung lũng để tìm đồng cỏ cho đoàn vật của mình. 40 Họ tìm
được những đồng cỏ xanh tươi, tốt đẹp, và đất đai thì rộng thênh thang, lại an
toàn và yên ổn: vì trước kia con cái ông Kham đã cư ngụ tại đó.
41
Các
người được ghi đích danh ấy đã tới vào thời vua Khít-ki-gia làm vua Giu-đa; họ
đánh chiếm các lều trại và gia cư gặp thấy ở đó. Họ áp dụng luật tru hiến cho
những thứ ấy đến ngày nay. Rồi họ định cư thay thế người ta, vì ở đấy có đồng
cỏ cho đoàn vật của họ.
42
Năm
trăm người trong số con cái Si-mê-ôn đi tới vùng núi Xê-ia, đứng đầu là ông
Pơ-lát-gia, ông Nơ-ác-gia, ông Rơ-pha-gia, ông Út-di-ên, các con ông Gít-i. 43
Họ giết hết số người A-ma-lếch thoát chết còn sót lại, rồi cư ngụ ở đó
cho đến ngày nay.
Chương 05
5.
Các Chi Tộc Bên Kia Sông Gio-Ðan
Ngành
ông Rưu-vên
1
Các
con ông Rưu-vên, người con đầu lòng của ông Ít-ra-en. Chính ông, người con đầu
lòng đó, nhưng vì ông đã làm nhơ bẩn giường của cha ông, nên quyền trưởng nam
của ông đươc trao cho các con ông Giu-se, con ông Ít-ra-en; ông không được thừa
hưởng quyền trưởng nam nữa. 2 Tuy ông Giu-đa trổi hơn anh em mình,
vì một vị thủ lãnh đã xuất thân từ nơi ông, nhưng quyền trưởng nam lại thuộc về
ông Giu-se.
3
Các
con ông Rưu-vên, người con đầu lòng của ông Ít-ra-en, là:
Ngành
ông Giô-en
4
Các
con ông Giô-en là: Sơ-ma-gia con ông, Gốc con ông, Sim-y con ông, 5 Mi-kha
con ông, Rơ-a-gia con ông, Ba-an con ông, 6 Bê-ơ-ra con ông, người
đã bị vua Tích-lát Pi-le-xe bắt đi đày. Chính ông là thủ lãnh các người họ
Rưu-vên.
7
Các
anh em của ông, tính theo thị tộc và được đăng bộ theo gia phả: đứng đầu là
Giơ-y-ên, rồi Dơ-khác-gia-hu,8 Be-la con của A-dát, con của Se-ma, con của Giô-en.
Nơi
sinh sống của chi tộc Rưu-vên
Chi
tộc Rưu-vên cư ngụ tại A-rô-e, cho đến tận Nơ-vô và Ba-an Mơ-ôn. 9 Về
phía đông họ lập cư cho tới ven sa mạc tiếp cận sông Êu-phơ-rát, vì họ có nhiều
súc vật trong xứ Ga-la-át.
10
Thời
vua Sa-un, họ đánh nhau với dân Ha-ga, nhưng đã rơi vào tay chúng và chúng đã
lập cư trong các lều trại của họ trên toàn phía đông xứ Ga-la-át.
Ngành
ông Gát
11
Ðối
diện với họ là con cái ông Gát lập cư trong đất Ba-san cho tới Xan-kha. 12
Ðứng đầu là Giô-en, thứ đến là Sa-pham, rồi Gia-nai và Sa-phát tại
Ba-san.
13
Anh
em của họ, theo gia tộc tổ tiên, là: Mi-kha-ên, Mơ-su-lam, Se-va, Giô-rai,
Gia-can, Di-a, Ê-ve: tất cả là bảy người.
14
Ðây
là các con của ông A-vi-kha-gin: Ben Khu-ri, Ben Gia-rô-ác, Ben Ga-la-át, Ben
Mi-kha-ên, Ben Giơ-si-sai, Ben Giác-đô, Ben Bút. 15 A-khi, con của
Áp-đi-ên, con của Gu-ni, là người đứng đầu gia tộc tổ tiên họ.
16
Họ
cư ngụ tại Ga-la-át, tại Ba-san và các nơi phụ cận, cũng như tại tất cả các
đồng cỏ Sa-rôn cho tới ranh giới cuối cùng của các đồng cỏ ấy. 17 Tất
cả những người ấy đã đăng bộ thời vua Giô-tham cai trị Giu-đa và vua Gia-róp-am
cai trị Ít-ra-en.
18
Con
cái chi tộc Rưu-vên và chi tộc Gát, một nửa chi tộc Mơ-na-se, một số các dũng
sĩ, những người biết dùng thuẫn và gươm, biết giương cung và thạo việc binh
đao: tất cả là bốn mươi bốn ngàn bảy trăm sáu mươi người rành nghề chinh chiến.
19 Họ đánh nhau với dân Ha-ga tại Giơ-tua, Na-phít và Nô-đáp. 20
Họ được Thiên Chúa trợ giúp chống lại chúng; quân Ha-ga và tất cả đồng
minh của chúng đã bị trao vào tay họ, vì họ đã kêu lên cùng Thiên Chúa khi giao
chiến; Người đã nghe lời họ, vì họ tin tưởng nơi Người. 21 Họ chiếm
đoạt các đoàn vật của chúng: năm mươi ngàn lạc đà, hai trăm năm mươi ngàn chiên
cừu, hai ngàn con lừa và giết một trăm ngàn nhân mạng. 22 Sở dĩ có
nhiều người bị gươm đâm ngã gục, là vì trận chiến do Thiên Chúa. Họ chiếm chỗ
dân ấy và lập cư cho đến thời lưu đày.
Một
nửa chi tộc Mơ-na-se
23
Con
cháu một nửa chi tộc Ma-nơ-se lập cư trong vùng nằm giữa Ba-san và Ba-an
Khéc-môn, Xơ-nia và núi Khéc-môn.
24
Ðây
là những người đứng đầu các gia tộc tổ tiên họ: Ê-phe, Gít-i, Ê-li-ên,
Át-ri-ên, Giếc-mơ-gia, Hô-đát-gia, Giác-đi-ên. Họ là những anh hùng dũng sĩ,
những người nổi danh, những người đứng đầu các gia tộc tổ tiên họ. 25 Nhưng
họ lại thất trung với Thiên Chúa của tổ tiên họ, và đàng điếm theo các thần của
dân địa phương mà Thiên Chúa đã tiêu diệt trước mặt họ. 26 Thiên
Chúa Ít-ra-en kích động tinh thần vua Pun xứ Át-sua, và tinh thần vua Tích-lát
Pi-le-xe xứ Át-sua, người đã đày con cái chi tộc Rưu-vên, chi tộc Gát cùng một
nửa chi tộc Mơ-na-se, và đưa họ tới Khơ-lác, Kha-vo, Kha-ra và sông Gôn-dan cho
đến ngày nay.
6.
Chi Tộc Lê-Vi
Tiền
bối của các thượng tế
27
Các
con ông Lê-vi là Ghéc-sôn, Cơ-hát, Mơ-ra-ri. 28 Các con ông Cơ-hát
là: Am-ram, Gít-ha, Khép-rôn, Út-di-ên. 29 Các con ông Am-ram là:
A-ha-ron, Mô-sê, Mi-ri-am. Các con ông A-ha-ron là: Na-đáp, A-vi-hu, E-la-da,
I-tha-ma.
30
E-la-da
sinh Pin-khát; Pin-khát sinh A-vi-su-a. 31 A-vi-su-a sinh Búc-ki;
Búc-ki sinh Út-di. 32 Út-di sinh Dơ-rác-gia; Dơ-rác-gia sinh
Mơ-ra-giốt. 33 Mơ-ra-giốt sinh A-mác-gia; A-mác-gia sinh A-khi-túp. 34
A-khi-túp sinh Xa-đốc; Xa-đốc sinh A-khi-ma-át. 35 A-khi-ma-át
sinh A-dác-gia; A-dác-gia sinh Giô-kha-nan. 36 Giô-kha-nan sinh
A-dác-gia. Ông này là người đã thi hành chức vụ tư tế trong đền thờ vua
Sa-lô-môn đã xây ở Giê-ru-sa-lem. 37 A-dác-gia sinh A-mác-gia;
A-mác-gia sinh A-khi-túp. 38 A-khi-túp sinh Xa-đốc; Xa-đốc sinh
Sa-lum. 39 Sa-lum sinh Khin-ki-gia; Khin-ki-gia sinh A-dác-gia. 40
A-dác-gia sinh Xơ-ra-gia; Xơ-ra-gia sinh Giơ-hô-xa-đắc. 41 Giơ-hô-xa-đắc
đi lưu đày khi Ðức Chúa phát lưu Giu-đa và Giê-ru-sa-lem thời vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo.
Chương 06
Con
cháu ông Lê-vi
1
Các
con ông Lê-vi là Ghéc-sôm, Cơ-hát, Mơ-ra-ri.
2
Ðây
là tên các con ông Ghéc-sôm: Líp-ni, Sim-y. 3 Các con ông Cơ-hát là:
Am-ram, Gít-ha, Khép-rôn, Út-di-ên. 4 Các con ông Mơ-ra-ri là:
Mác-li, Mu-si. Ðó là các thị tộc người Lê-vi theo tổ tiên họ.
5
Thuộc
về ông Ghéc-sôm có Líp-ni con ông, Gia-khát con ông, Dim-ma con ông. 6 Giô-ác
con ông, Ít-đô con ông, De-rác con ông, Giơ-át-rai con ông.
7
Các
con ông Cơ-hát là: Am-mi-na-đáp con ông, Cô-rắc con ông, Át-xia con ông, 8
En-ca-na con ông, Ép-gia-xáp con ông, Át-xia con ông, 9 Ta-khát
con ông, U-ri-ên con ông, Út-di-gia con ông, Sa-un con ông. 10 Các
con ông En-ca-na là: A-ma-xai và A-khi-mốt, 11 En-ca-na con ông,
Xô-phai con ông, Na-khắt con ông, 12 Ê-li-áp con ông, Giơ-rô-kham
con ông, En-ca-na. 13 Các con ông En-ca-na là: Sa-mu-en con trưởng
và A-vi-gia con thứ.
14
Các
con ông Mơ-ra-ri là: Mác-li, Líp-ni con ông, Sim-y con ông, Út-da con ông, 15
Sim-a con ông, Khác-ghi-gia con ông, A-xa-gia con ông.
Các
ca sĩ
16
Ðây
là những người vua Ða-vít đã đặt lên điều khiển việc ca hát trong Nhà Ðức Chúa,
sau khi Hòm Bia an vị tại đó. 17 Công việc của họ trước Nhà Lều Hội
Ngộ là ca hát, cho tới khi vua Sa-lô-môn xây Ðền Thờ Ðức Chúa tại
Giê-ru-sa-lem; họ thi hành luật dịch vụ theo luật lệ của họ.
18
Ðây
là những người thi hành công tác và con cái họ.
Trong
số các con ông Cơ-hát có Hê-man ca trưởng, con của Giô-en, con của Sa-mu-en, 19
con của En-ca-na, con của Giơ-rô-kham, con của Ê-li-ên, con của Tô-ác, 20
con của Xúp, con của En-ca-na, con của Ma-khát, con của A-ma-xai, 21
con của En-ca-na, con của Giô-en, con của A-dác-gia, con của Xơ-phan-gia,
22 con của Ta-khát, con của Át-xia, con của Ép-gia-xáp, con của
Cô-rắc, 23 con của Gít-ha, con của Cơ-hát, con của Lê-vi, con của
Ít-ra-en.
24
Em
ông Hê-man là A-xáp đứng bên phải ông. A-xáp, con của Be-réc-gia-hu, con của
Sim-a, 25 con của Mi-kha-ên, con của Ba-a-xê-gia, con của Man-ki-gia,
26 con của Ét-ni, con của De-rác, con của A-đa-gia, 27 con
của Ê-than, con của Dim-ma, con của Sim-y, 28 con của Gia-khát, con
của Ghéc-sôm, con của Lê-vi.
29
Các
con ông Mơ-ra-ri, anh em của họ, đứng bên trái: Ê-than, con của Ki-si, con của
Áp-đi, con của Ma-lúc, 30 con của Kha-sáp-gia, con của A-mát-gia,
con của Khin-ki-gia, 31 con của Am-xi, con của Ba-ni, con của Se-me,
32 con của Mác-li, con của Mu-si, con của Mơ-ra-ri, con của Lê-vi.
Các
người Lê-vi khác
33
Các
thầy Lê-vi, anh em của họ, là những người được dâng hiến để thi hành mọi dịch
vụ Nhà Tạm, Ðền Thờ của Thiên Chúa. 34 Ông A-ha-ron và các con là
những người đốt lễ vật trên bàn thờ toàn thiêu và trên bàn thờ dâng hương; họ
lo chu toàn mọi tác vụ cực thánh và cử hành nghi thức xá tội cho Ít-ra-en, theo
đúng mọi điều ông Mô-sê, tôi tớ của Thiên Chúa đã truyền.
35
Ðây
là các con ông A-ha-ron: E-la-da con ông, Pin-khát con ông, A-vi-su-a con ông, 36
Búc-ki con ông, Út-di con ông, Dơ-rác-gia con ông, 37 Mơ-ra-giốt
con ông, A-mác-gia con ông, A-khi-túp con ông,38 Xa-đốc con ông, A-khi-ma-át
con ông.
Nơi
sinh sống của con cháu A-ha-ron
39
Ðây
là nơi cư trú của họ, theo ranh giới các trại dành cho họ:
Vì
con cháu ông A-ha-ron thuộc thị tộc Cơ-hát được phần nhất, 40 nên
người ta cho họ vùng Khép-rôn trong đất Giu-đa, cùng với các đồng cỏ chung
quanh. 41 Ðồng ruộng của thành ấy và các thôn làng thì người ta cho
ông Ca-lếp con ông Giơ-phun-ne. 42 Nhưng người ta lại cho con cháu
ông A-ha-ron các thành tị nạn là Khép-rôn và Líp-na với các đồng cỏ, Giát-tia,
Ét-tơ-mô-a với các đồng cỏ, 43 Khi-lết với các đồng cỏ, Ðơ-via với
các đồng cỏ, 44 A-san với các đồng cỏ, Bết Se-mét với các đồng cỏ. 45
Còn chi tộc Ben-gia-min thì người ta cho họ: Ghe-va với các đồng cỏ,
A-le-mét với các đồng cỏ, A-na-tốt với các đồng cỏ. Tất cả các thành của họ là
mười ba, tính theo số các thị tộc của họ.
Nơi
sinh sống của các người Lê-vi khác
46
Còn
những người con khác của ông Cơ-hát thì bắt thăm được mười thành lấy từ chi tộc
Ép-ra-im, chi tộc Ðan và nửa chi tộc Mơ-na-se. 47 Các con ông
Ghéc-sôm, theo các thị tộc của họ, được mười ba thành lấy của chi tộc
Ít-xa-kha, chi tộc A-se, chi tộc Náp-ta-li, chi tộc Mơ-na-se ở Ba-san. 48 Các
con ông Mơ-ra-ri, theo các thị tộc của họ, rút thăm được mười hai thành lấy của
chi tộc Rưu-vên, chi tộc Gát, chi tộc Dơ-vu-lun. 49 Con cái Ít-ra-en
đã cấp cho các người Lê-vi các thành cùng với các đồng cỏ.
50
Người
ta cũng rút thăm trao cho họ các thành lấy của chi tộc con cái Giu-đa, chi tộc
con cái Si-mê-ôn, chi tộc con cái Ben-gia-min. Họ đã lấy tên mình mà đặt cho
các thành ấy.
51
Một
số các thị tộc con cái Cơ-hát đã rút thăm được các thành lấy của chi tộc
Ép-ra-im. 52 Người ta cấp cho họ các thành trú ẩn sau đây: Si-khem
với các đồng cỏ trong vùng núi Ép-ra-im, Ghe-de với các đồng cỏ, 53 Gióc-mơ-am
với các đồng cỏ, Bết Khô-rôn với các đồng cỏ, 54 Ai-gia-lôn với các
đồng cỏ, Gát Rim-môn với các đồng cỏ. 55 Và lấy thành A-ne với các
đồng cỏ, và Bi-lơ-am với các đồng cỏ của một nửa chi tộc Mơ-na-se, để trao cho
thị tộc những người con còn lại của ông Cơ-hát.
56
Phần
dành cho các con ông Ghéc-sôm: lấy của các thị tộc thuộc một nửa chi tộc
Mơ-na-se là Gô-lan ở Ba-san với các đồng cỏ, Át-ta-rốt với các đồng cỏ; 57
lấy của chi tộc Ít-xa-kha là Ke-đét với các đồng cỏ, Ða-vơ-rát với các đồng
cỏ, 58 Ra-mốt với các đồng cỏ, A-nêm với các đồng cỏ; 59 lấy
của chi tộc A-se là Ma-san với các đồng cỏ, Áp-đôn với các đồng cỏ, 60 Khu-cốc
với các đồng cỏ, Rơ-khốp với các đồng cỏ; 61 lấy của chi tộc
Náp-ta-li là Ke-đét ở Ga-li-lê với các đồng cỏ, Kham-môn với các đồng cỏ,
Kia-giát-tha-gim với các đồng cỏ.
62
Phần
dành cho các người con khác của ông Mơ-ra-ri: lấy của chi tộc Dơ-vu-lun là
Rim-môn với các đồng cỏ, Ta-bo với các đồng cỏ. 63 Từ bên kia sông
Gio-đan, gần Giê-ri-khô, phía đông sông Gio-đan; lấy của chi tộc Rưu-vên là
Be-xe trong sa mạc với các đồng cỏ, Gia-hát với các đồng cỏ, 64 Cơ-đê-mốt
với các đồng cỏ, Mê-pha-át với các đồng cỏ, 65 lấy của chi tộc Gát
là Ra-mốt tại Ga-la-át với các đồng cỏ, Ma-kha-na-gim với các đồng cỏ, 66 Khét-bôn
với các đồng cỏ, Gia-de với các đồng cỏ.
Chương 07
7.
Các Chi Tộc Miền Bắc
Ngành
ông Ít-xa-kha
1
Các
con ông Ít-xa-kha là: Tô-la, Pu-a, Gia-súp, Sim-rôn: tất cả là bốn người.
2
Các
con ông Tô-la là: Út-di, Rơ-pha-gia, Giơ-ri-ên, Giác-mai, Gíp-xam, Sơ-mu-ên. Họ
là những người đứng đầu các gia tộc tổ tiên ông Tô-la, những anh hùng dũng sĩ
theo dòng tộc của họ. Thời vua Ða-vít, số người của họ là hai mươi hai ngàn sáu
trăm.
3
Con
của Út-di là Gít-rác-gia. Con của Gít-rác-gia là Mi-kha-ên, Ô-vát-gia, Giô-en,
Gít-si-gia: tất cả là năm người lãnh đạo. 4 Các ông này, thuộc dòng
họ, theo gia tộc tổ tiên mình, chịu trách nhiệm về các đơn vị được võ trang để
chiến đấu, gồm ba mươi sáu ngàn người, vì họ là những người lắm vợ nhiều con. 5
Anh em của họ là những anh hùng dũng sĩ thuộc mọi thị tộc Ít-xa-kha, tổng
số được kiểm tra là tám mươi bảy ngàn người.
Ngành
ông Ben-gia-min
6
Các
con ông Ben-gia-min là: Be-la, Be-khe, Giơ-đi-a-ên: tất cả là ba người.
7
Các
con ông Be-la là: Ét-bôn, Út-di, Út-di-ên, Giơ-ri-mốt, I-ri: năm anh hùng dũng
sĩ, đứng đầu các gia tộc tổ tiên gồm hai mươi hai ngàn không trăm ba mươi bốn
người.
8
Các
con ông Be-khe là: Dơ-mi-ra, Giô-át, Ê-li-e-de, En-giô-ê-nai, Om-ri,
Giơ-rê-mốt, A-vi-gia, A-na-thốt, A-le-mét. Tất cả những người này đều là con
ông Be-khe, 9 các anh hùng dũng sĩ, đứng đầu các gia tộc tổ tiên của
họ, được đăng bộ theo các dòng họ, là hai mươi ngàn hai trăm người.
10
Con
của Giơ-đi-a-ên là: Bin-han; các con của Bin-han là: Giơ-út, Ben-gia-min,
Ê-hút, Cơ-na-a-na, Dê-than, Tác-sít, A-khi-sa-kha. 11 Tất cả những
người này đều là con ông Giơ-đi-a-ên, những anh hùng dũng sĩ, đứng đầu các gia
tộc gồm mười bảy ngàn người đã nhập ngũ để sẵn sàng chiến đấu.
12
Súp-pim
và Khúp-pim là con của Ia, Khu-sim con của A-khe.
Ngành
ông Náp-ta-li (Ðn 26:48-50; St 46:24)
13
Các
con ông Náp-ta-li là: Gia-kha-xi-ên, Gu-ni, Giê-xe, Sa-lum. Ðó là các con bà
Bin-ha.
Ngành
ông Mơ-na-se
14
Các
con ông Mơ-na-se là Át-ri-ên, do nàng tỳ thiếp người A-ram của ông sinh ra, bà
còn sinh Ma-khia, cha của Ga-la-át. 15 Ông Ma-khia cưới vợ cho
Khúp-pim và Súp-pim. Em gái ông tên là Ma-a-kha.
Tên
người con thứ là Xơ-lóp-khát. Ông Xơ-lóp-khát chỉ có con gái.
16
Bà
Ma-a-kha, vợ ông Ma-khia, sinh con trai và đặt tên là Pe-rét; người em của ông
này là Se-rét và các con ông là U-lam và Re-kem.
17
Con
của U-lam là Bơ-đan. Ðó là các con của Ga-la-át, con của Ma-khia, con của
Mơ-na-se.
18
Em
gái ông là bà Mô-le-khét. Bà sinh ra Ít-hốt, A-vi-e-de và Mác-la.
19
Các
con ông Sơ-mi-đa là: A-khơ-gian, Se-khem, Lích-khi và A-ni-am.
Ngành
ông Ép-ra-im
20
Các
con ông Ép-ra-im là Su-the-lác, Be-rét con ông, Ta-khát con ông, En-a-đa con
ông, Ta-khát con ông, 21 Da-vát con ông, Su-the-lác con ông, Ê-de,
En-át.
22
Ông
Ép-ra-im, cha của họ, đã than khóc họ lâu ngày, và anh em ông đã đến yên ủi ông.
23 Bấy giờ ông đến với vợ ông; bà mang thai và sinh con. Ông đặt tên
cho con là Bơ-ri-a, vì lúc ấy gia đình ông gặp điều bất hạnh. 24 Con
gái ông là Se-e-ra, người đã xây thành Bết Khô-rôn Hạ cũng như Thượng và thành
Út-dên Se-e-ra.
25
Re-phác
là con ông, Re-sép con ông, Te-lác con ông, Ta-khan con ông, 26 La-đan
con ông, A-mi-hút con ông, Ê-li-sa-ma con ông, 27 Nun con ông,
Giô-suê con ông. 28 Ðất đai và gia cư của họ là Bết Ên và vùng phụ
cận; phía đông là Na-a-ran; phía tây là Ghe-de và vùng phụ cận. 29 Nằm
trong tay con cái Mơ-na-se là: Bết San và vùng phụ cận, Ta-nác và vùng phụ cận,
Mơ-ghít-đô và vùng phụ cận, Ðo và vùng phụ cận. Con cháu ông Giu-se, con ông
Ít-ra-en cư ngụ tại các nơi ấy.
Ngành
ông A-se
30
Các
con ông A-se là Gim-na, Gít-va, Gít-vi, Bơ-ri-a và Xe-rác, em gái họ.
31
Các
con ông Bơ-ri-a là Khe-ve và Man-ki-ên. Ông này là cha của Bia-da-gít. 32 Ông
Khe-ve sinh Giáp-lết, Sô-me, Khô-tam và Su-a, em gái họ. 33 Các con
ông Giáp-lết là Pa-xác, Bin-han, A-vát. Ðó là các con ông Giáp-lết.
34
Các
con ông Sô-me, em ông Giáp-lết, là Rô-ga, Giơ-khúp-ba, A-ram.
35
Các
con ông Hê-lem, em ông, là: Xô-phác, Gim-na, Sê-lét, A-man. 36 Các
con ông Xô-phác là: Xu-ác, Khác-ne-phe, Su-an, Bê-ri, Gim-ra, 37 Be-xe,
Hốt, Sam-ma, Sin-sa, Gít-ran, Bơ-ê-ra. 38 Các con ông Ghe-the là:
Giơ-phun-ne, Pít-pa, Ơ-ra.
39
Các
con ông U-la là: A-rác, Khan-ni-ên, Rít-gia.
40
Tất
cả những người đó đều là các con ông A-se, đứng đầu các gia tộc tổ tiên; họ là
những tinh binh, anh hùng dũng sĩ, đứng đầu các vương công, được đăng bộ vào
quân ngũ để chiến đấu, tổng số là hai mươi sáu ngàn người.
Chương 08
8.
Chi Tộc Ben-Gia-Min Và Thành Giê-Ru-Sa-Lem
Con
cháu ông Ben-gia-min
1
Ông
Ben-gia-min sinh con đầu lòng là Be-la, con thứ là Át-bên, con thứ ba là Ác-rác,
2 con thứ tư là Nô-khác, con thứ năm là Ra-pha. 3 Ông
Be-la có những người con sau đây: Át-đa, Ghê-ra, cha của Ê-hút, 4 A-vi-su-a,
Na-a-man, A-khô-ác, 5 Ghê-ra, Sơ-phu-phan, Khu-ram.
Tại
Ghe-va
6
Ðây
là các con ông Ê-hút, những người đứng đầu các gia tộc tổ tiên của dân cư
Ghe-va, và đã dẫn họ đi lưu đày tại Ma-na-khát: 7 Na-a-man,
A-khi-gia, Ghê-ra là người dẫn họ đi lưu đày; ông đã sinh ra Út-da và
A-khi-khút.
Bên
Mô-áp
8
Ông
Sa-kha-ra-gim sinh con cái trong cánh đồng Mô-áp, sau khi đã rẫy các bà vợ của
ông là Khu-sim và Ba-a-ra. 9 Với bà vợ mới, ông sinh Giô-váp,
Xíp-gia, Mê-sa, Man-cam, 10 Giơ-úc, Xác-gia, Mia-ma. Ðó là các con
ông, những người đứng đầu các gia tộc.
Tại
Ô-nô và Lốt
11
Với
bà Khu-sim, ông sinh A-vi-túp, En-pa-an. 12 Các con ông En-pa-an là
Ê-ve, Mi-sơ-am, Se-mét; ông này đã xây thành Ô-nô, thành Lốt và vùng phụ cận.
Tại
Ai-gia-lôn
13
Ông
Bơ-ri-a và ông Se-ma là những người đứng đầu các gia tộc tại Ai-gia-lôn. Chính
họ đã làm cho dân cư Gát phải trốn chạy.
14
Anh
em của ông là Sa-sắc.
Tại
Giê-ru-sa-lem
Giơ-rê-mốt,
15 Dơ-vát-gia, A-rát, Ê-đe, 16 Mi-kha-ên, Gít-pa và
Giô-kha là các con của Bơ-ri-a.
17
Dơ-vát-gia,
Mơ-su-lam, Khít-ki, Khe-ve, 18 Gít-mơ-rai, Gít-li-a và Giô-váp là
các con của En-pa-an. 19 Gia-kim, Dích-ri, Dáp-đi, 20 Ê-li-e-nai,
Xi-lơ-thai, Ê-li-ên, 21 A-đa-gia, Bơ-ra-gia và Sim-rát là các con
của Sim-y.
22
Gít-pan,
Ê-ve, Ê-li-ên, 23 Áp-đôn, Dích-ri, Kha-nan, 24 Kha-nan-gia,
Ê-lam, An-thô-thi-gia, 25 Gíp-đơ-gia và Pơ-nu-ên là các con của
Sa-sắc.
26
Sam-sơ-rai,
Sơ-khác-gia, A-than-gia, 27 Gia-a-rét-gia, Ê-li-gia và Dích-ri là
các con của Giơ-rô-kham. 28 Ðó là những người đứng đầu các gia tộc
theo dòng họ của mình. Họ cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem.
Tại
Ghíp-ôn
29
Cư
ngụ tại Ghíp-ôn có: Giơ-y-ên cha của Ghíp-ôn; vợ ông tên là Ma-a-kha, 30 con
đầu lòng của ông là Áp-đôn, rồi Xua, Kít, Ba-an, Na-đáp, 31 Gơ-đo,
Ác-giô, De-khe, Mích-lốt. 32 Ông Mích-lốt sinh Sim-a; cả các người
này nữa, cũng như các anh em họ, đều cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem cùng với anh em
họ.
Ông
Sa-un và gia tộc của ông
33
Ông
Ne sinh ra Kít, Kít sinh Sa-un, Sa-un sinh Giơ-hô-na-than, Man-ki Su-a,
A-vi-na-đáp, Ét-ba-an. 34 Con của Giơ-hô-na-than là Mơ-ríp-ba-an;
Mơ-ríp-ba-an sinh Mi-kha. 35 Các con của Mi-kha là: Pi-thôn, Me-léc,
Ta-rê-a, A-khát. 36 A-khát sinh Giơ-hô-át-đa, Giơ-hô-át-đa sinh
A-le-mét, Át-ma-vét, Dim-ri. Dim-ri sinh Mô-xa, 37 Mô-xa sinh Bin-a.
Ra-pha
con ông, En-a-xa con ông, A-xên con ông.
38
Ông
A-xên được sáu người con trai. Ðây là tên của họ: Át-ri-cam con đầu lòng, rồi
Gít-ma-ên, Sơ-ác-gia, Ô-vát-gia, Kha-nan. Tất cả những người đó đều là con ông
A-xên.
39
Các
con ông Ê-séc, em ông, là: U-lam con đầu lòng, Giơ-út con thứ, Ê-li-phe-lét con
thứ ba. 40 Các con của U-lam là những người dũng cảm, biết giương
cung và đều đông con nhiều cháu, đến một trăm năm mươi người. Tất cả những
người ấy là con cháu ông Ben-gia-min.
Chương 09
Giê-ru-sa-lem,
thành của Ít-ra-en và là Thánh Ðô
1
Toàn
dân Ít-ra-en đã được đăng bộ và ghi vào sách các vua Ít-ra-en và Giu-đa; họ bị
đày sang Ba-by-lon vì đã làm những điều gian ác. 2 Những người đầu
tiên được cư ngụ trên các phần đất gia nghiệp trong các thành của họ là những
người Ít-ra-en, các tư tế, các thầy Lê-vi và những người phục vụ Ðền Thờ. 3
Cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem là một số con cháu Giu-đa, con cháu Ben-gia-min,
con cháu Ép-ra-im và Mơ-na-se.
4
Ông
U-thai con của A-mi-hút, con của Om-ri, con của Im-ri, con của Ba-ni trong số
con cháu ông Pe-rét, con ông Giu-đa. 5 Trong số các người Si-lô có
A-xa-gia con đầu lòng và các con ông. 6 Trong số con cháu ông De-rác
có Giơ-u-ên và các anh em ông; tất cả là sáu trăm chín mươi người.
7
Trong
số con cháu Ben-gia-min có Xa-lu con của Mơ-su-lam, con của Hô-đát-gia, con của
Ha Xơ-nu-a; 8 Gíp-nơ-gia con của Giơ-rô-kham; Ê-la con của Út-di,
con của Mích-ri; Mơ-su-lam con của Sơ-phát-gia, con của Rơ-u-ên, con của
Gíp-ni-gia. 9 Anh em của họ, tính theo gia phả, là chín trăm năm
mươi sáu người. Tất cả đều là những người đứng đầu các gia tộc tổ tiên họ.
10
Trong
số các tư tế có Giơ-đa-gia, Giơ-hô-gia-ríp, Gia-khin; 11 A-dác-gia
con của Khin-ki-gia, con của Mơ-su-lam, con của Xa-đốc, con của Mơ-ra-giốt, con
của A-khi-túp quản đốc Nhà Thiên Chúa. 12 A-đa-gia con của
Giơ-rô-kham, con của Pát-khua, con của Man-ki-gia, Ma-xai con của A-đi-ên, con
của Giác-dê-ra, con của Mơ-su-lam, con của Mơ-si-lê-mít, con của Im-me. 13
Họ có anh em đứng đầu các gia tộc tổ tiên họ là một ngàn bảy trăm sáu
mươi anh hùng dũng sĩ được chỉ định phục dịch Nhà Thiên Chúa.
14
Trong
các thầy Lê-vi có Sơ-ma-gia, con của Kha-súp, con của Át-ri-cam, con của
Kha-sáp-gia thuộc hàng con cháu ông Mơ-ra-ri; 15 Bác-bắc-ca,
Khe-rét, Ga-lan, Mát-tan-gia, con của Mi-kha, con của Dích-ri, con của A-xáp; 16
Ô-vát-gia con của Sơ-ma-gia, con của Ga-lan, con của Giơ-đu-thun;
Be-rét-gia, con của A-xa, con của En-ca-na là người cư ngụ trong các thôn làng
của người Nơ-tô-pha.
17
Các
người giữ cửa là Sa-lum, Ắc-cúp, Tan-môn, A-khi-man. Ông Sa-lum, anh em của họ,
là người đứng đầu. 18 Cho đến bây giờ họ còn túc trực tại cửa ngọ
môn, bên phía đông. Họ là những người giữ cửa các doanh trại con cháu Lê-vi. 19
Ông Sa-lum con của Cô-rê, con của Ép-gia-xáp, con của Cô-rắc và các anh
em cùng thuộc gia đình Cô-rắc, thì lo công việc phục dịch của người giữ cửa
Lều, cũng như cha ông họ có trách nhiệm giữ lối vào doanh trại Ðức Chúa. 20
Ông Pin-khát con của E-la-da xưa kia đã từng là quản đốc của họ - xin Ðức
Chúa ở với ông - 21 cũng như ông Dơ-khác-gia con ông Mơ-se-lem-gia đã từng là
người giữ cửa vào Lều Hội Ngộ. 22 Tổng số những người được tuyển
chọn để canh cửa là hai trăm mười hai người. Những người này được đăng bộ tại
các thôn làng của họ, nhưng đã được vua Ða-vít và thầy thị kiến Sa-mu-en cắt
đặt vĩnh viễn. 23 Những người này và con cháu họ có nhiệm vụ canh
giữ Nhà Ðức Chúa, tức Nhà Lều. 24 Có các người giữ cửa tại bốn
hướng: đông, tây, nam, bắc. 25 Anh em của họ, những người cư ngụ tại
các thôn làng, thì lâu lâu phải đến với họ một tuần, 26 vì có bốn
người cai cửa thường trực; họ đều là những thầy Lê-vi được chỉ định trông coi
các phòng ốc và các kho bạc Nhà Thiên Chúa. 27 Họ nghỉ đêm chung
quanh Nhà Thiên Chúa, vì họ phải trông coi Nhà ấy, và sáng nào cũng phải mở
cửa.
28
Trong
số họ có mấy người được chỉ định trông coi các đồ thờ; họ phải đếm những thứ
này lúc đưa vô đưa ra. 29 Một số khác được chỉ định trông coi các
vật dụng, tất cả đồ thánh, tinh bột, rượu, dầu, hương và thuốc thơm. 30 Trong
số con cái hàng tư tế có người lo pha chế dầu thơm.
31
Ông
Mát-tít-gia, một thầy Lê-vi, con đầu lòng ông Sa-lum, thuộc gia đình Cô-rắc, có
nhiệm vụ thường xuyên nướng bánh trên vỉ. 32 Trong số các anh em của
họ thuộc gia đình Cơ-hát, có người lo dọn bánh tiến các ngày sa-bát.
33
Ðây
là các ca sĩ, những người đứng đầu các gia đình Lê-vi, được ở trong các phòng
ốc, được miễn mọi việc khác, vì ngày đêm họ phải lo phận vụ của họ.
34
Những
người đó là những người đứng đầu các gia đình Lê-vi, đứng đầu theo dòng họ của
mình; họ cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem.
9.
Vua Sa-Un, Người Tiền Nhiệm Của Vua Ða-Vít
Lai
lịch vua Sa-un (1 Sb 8:29-38)
35
Cư
ngụ tại Ghíp-ôn có ông tổ của dòng họ Ghíp-ôn là Giơ-y-ên, với người vợ là
Ma-a-kha; 36 con đầu lòng của ông là Áp-đôn, rồi Xua, Kít, Ba-an,
Ne, Na-đáp, 37 Gơ-đo, Ác-giô, Dơ-khác-gia, Mích-lốt. 38 Mích-lốt
sinh Sim-am; cả các người này nữa cũng như anh em của họ đều cư ngụ tại
Giê-ru-sa-lem cùng với anh em mình.
39
Ông
Ne sinh Kít, Kít sinh Sa-un, Sa-un sinh Giơ-hô-na-than, Man-ki Su-a,
A-vi-na-đáp, Ét-ba-an. 40 Con Giơ-hô-na-than là Mơ-ríp-ba-an;
Mơ-ríp-ba-an sinh Mi-kha. 41 Các con của Mi-kha là: Pi-thôn, Me-léc,
Tác-rê-a. 42 A-khát sinh Gia-ra, Gia-ra sinh A-le-mét, Át-ma-vét,
Dim-ri; Dim-ri sinh Mô-xa. 43 Mô-xa sinh Bin-a.
Rơ-pha-gia
con ông, En-a-xa con ông, A-xên con ông.
44
A-xên
được sáu người con có tên như sau: Át-ri-cam con đầu lòng, rồi Gít-ma-ên,
Sơ-ác-gia, Ô-vát-gia, Kha-nan. Những người đó đều là con ông A-xên.
Chương 10
Trận
Ghin-bô-a. Vua Sa-un bị tử thương. ([dc 1 Sm 31:1-13)
1
Người
Phi-li-tinh giao chiến với Ít-ra-en. Người Ít-ra-en chạy trốn trước mặt người
Phi-li-tinh và bị tử thương ngã gục trên núi Ghin-bô-a. 2 Người
Phi-li-tinh bám sát vua Sa-un và các con trai vua; và chúng giết ông
Giô-na-than, ông A-vi-na-đáp và ông Man-ki Su-a, các con vua Sa-un. 3 Áp
lực của mặt trận dồn về phía vua Sa-un. Lính bắn cung nhận ra vua. Vua rất run
sợ khi thấy lính bắn cung. 4 Vua Sa-un bảo người lính hầu: "Rút
gươm ra và đâm ta đi, kẻo bọn không cắt bì ấy đến đâm ta và ngạo ta."
Nhưng người lính hầu không dám vì quá sợ. Vua Sa-un mới lấy gươm ra và lao mình
vào mũi gươm. 5 Người lính hầu thấy vua đã chết, cũng lao mình vào
mũi gươm của anh ta và chết theo vua. 6 Thế là vua Sa-un với ba con
trai và mọi người của vua cùng chết một lúc. 7 Người Ít-ra-en ở bên
kia thung lũng thấy người Ít-ra-en chạy trốn, và vua Sa-un cùng các con của vua
đã chết, thì bỏ các thành của họ và chạy trốn. Người Phi-li-tinh đến và lập cư
ở đó.
8
Ngày
hôm sau người Phi-li-tinh đến lột các xác chết, thì tìm thấy vua Sa-un và các
người con trai nằm trên núi Ghin-bô-a. 9 Chúng chặt đầu vua và tước
võ khí của vua. Rồi chúng sai người rảo quanh khắp xứ Phi-li-tinh, để báo tin
mừng cho các tượng thần của chúng và cho dân. 10 Chúng đặt võ khí
của vua Sa-un trong đền các thần của chúng, còn sọ của vua thì chúng treo trong
đền Ða-gôn.
11
Khi
dân thành Gia-vết miền Ga-la-át nghe biết cách người Phi-li-tinh đã đối xử với
vua Sa-un, 12 thì tất cả các dũng sĩ lên đường, lấy xác vua Sa-un và
xác các con vua đưa về Gia-vết; họ chôn hài cốt dưới cây tùng tại Gia-vết, rồi
ăn chay bảy ngày.
13
Vua
Sa-un chết vì đã thất trung với Ðức Chúa, chẳng tuân giữ lời Ðức Chúa truyền,
lại còn kiếm một mụ đồng bóng mà thỉnh vấn nữa. 14 Ông đã không
thỉnh vấn Ðức Chúa nên Người đã khiến ông phải chết và đã chuyển trao vương
quyền cho ông Ða-vít, con ông Gie-sê.
Chương 11
II.
Vua Ða-Vít Sáng lập Nền Phụng Tự Ðền Thờ
1.
Vương Quyền Vua Ða-Vít
Vua
Ða-vít được phong làm vua Ít-ra-en (2 Sm 5:1-3)
1
Toàn
thể Ít-ra-en tập hợp quanh vua Ða-vít tại Khép-rôn và thưa: "Chúng tôi đây
là cốt nhục của ngài! 2 Ngay cả trước kia, khi ông Sa-un còn làm vua, chính
ngài đã chỉ huy các cuộc hành quân của Ít-ra-en. Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài,
đã phán với ngài: Chính ngươi sẽ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta và ngươi sẽ lãnh đạo
Ít-ra-en dân Ta.” 3 Toàn thể kỳ mục Ít-ra-en đến gặp vua tại
Khép-rôn và vua Ða-vít đã lập giao ước với họ tại Khép-rôn trước nhan Ðức Chúa.
Rồi họ xức dầu tấn phong Ða-vít làm vua Ít-ra-en như lời Ðức Chúa đã dùng ông
Sa-mu-en mà phán.
Chiếm
Giê-ru-sa-lem (2 Sm 5:6-10)
4
Vua
Ða-vít cùng toàn thể Ít-ra-en tiến về Giê-ru-sa-lem - tức là Giơ-vút; dân bản
xứ ở đây là người Giơ-vút. 5 Dân cư Giơ-vút nói với vua Ða-vít:
"Ông sẽ không vào đây được." Nhưng vua Ða-vít đã chiếm được đồn luỹ
Xi-on, đó là Thành vua Ða-vít. 6 Vua Ða-vít đã nói: "Bất cứ ai
là người đầu tiên giết được người Giơ-vút, người ấy sẽ được làm thủ lãnh, làm
nguyên soái." Ông Giô-áp con bà Xơ-ru-gia là người đầu tiên đã lên được,
nên ông đã trở thành thủ lãnh. 7 Vua Ða-vít đóng tại đồn luỹ đó, nên
người ta gọi là Thành vua Ða-vít. 8 Rồi vua xây cất bốn mặt thành,
từ công trình Mi-lô cho tới hoàng cung, còn ông Giô-áp thì tu bổ phần còn lại. 9
Vua Ða-vít ngày càng thêm mạnh thế, vì Ðức Chúa các đạo binh ở với vua.
Các
dũng sĩ của vua Ða-vít (2 Sm 23:8-39)
10
Ðây
là những người chỉ huy các dũng sĩ của vua Ða-vít, những người đã cùng vua nên
mạnh thế trong triều đại của vua, và đã cùng toàn thể Ít-ra-en củng cố vương
quyền của vua, như lời Ðức Chúa phán về Ít-ra-en. 11 Dưới đây là
danh sách các dũng sĩ của vua Ða-vít:
Ông
Gia-sóp-am, con ông Khác-mô-ni, đứng đầu Bộ Ba. Chính ông là người đã vung đao
giết một lúc ba trăm mạng.
12
Kế
đến là ông E-la-da, con ông Ðô-đô, người A-khô-ác. Ông là một trong ba dũng sĩ.
13 Chính ông đã ở bên vua Ða-vít tại Pát Ðam-mim, khi quân
Phi-li-tinh tụ tập ở đấy để giao tranh. Ðây là một cánh đồng lúa mạch. Dân quân
bỏ trốn bọn Phi-li-tinh, 14 nhưng các ông đã đứng giữa cánh đồng để
bảo vệ thửa đất và đánh giết quân Phi-li-tinh. Ðức Chúa đã thực hiện một cuộc
chiến thắng lẫy lừng.
15
Trong
Nhóm Ba Mươi, ba người đã xuống gặp vua Ða-vít tại tảng đá cạnh hang A-đu-lam
đang khi có đạo quân Phi-li-tinh đóng tại thung lũng người Ra-pha. 16 Bấy
giờ vua Ða-vít đang ở nơi ẩn náu và tại Bê-lem bấy giờ có một đồn quân
Phi-li-tinh. 17 Vua Ða-vít ước ao và nói: "Phải chi có ai cho
ta uống nước lấy ở giếng tại cổng thành Bê-lem!” 18 Bộ Ba đã đột
nhập trại Phi-li-tinh, lấy nước ở giếng tại cổng thành Bê-lem, đưa về cho vua
Ða-vít. Vua Ða-vít không muốn uống mà đổ nước ấy làm lễ rưới dâng Ðức Chúa. 19
Vua nói: "Xin Thiên Chúa đừng để ta làm điều ấy! Nỡ nào ta uống máu
những người đã liều mạng đưa nước về đây". Vậy vua đã không muốn uống
nước. Ðó là việc ba dũng sĩ đã làm.
20
Ông
Áp-sai, em ông Giô-áp, là người chỉ huy Nhóm Ba Mươi. Chính ông đã vung giáo
đâm chết ba trăm mạng, và được nổi danh trong Nhóm Ba Mươi. 21 Ông
được vinh dự nhất trong Nhóm Ba Mươi, nên ông được đứng đầu; nhưng không được
vào Bộ Ba.
22
Ông
Bơ-na-gia, con ông Giơ-hô-gia-đa, một con người dũng cảm, nhiều thành tích,
xuất thân từ Cáp-xơ-ên. Chính ông đã hạ sát hai anh hùng Mô-áp; chính ông đã
xuống đập chết con sư tử ở trong giếng vào một ngày có tuyết. 23 Chính
ông đã hạ một tên Ai-cập, thân cao hai thước rưỡi. Tên Ai-cập cầm giáo trong
tay như cầm khung cửi của thợ dệt. Ông xuống đánh nó với một cây gậy, cướp giáo
khỏi tay tên Ai-cập, và lấy giáo của nó mà giết nó. 24 Ðó là những
việc ông Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa đã làm, và ông được nổi danh trong
Nhóm Ba Mươi dũng sĩ. 25 Ông được vinh dự nhất trong Nhóm Ba Mươi,
nhưng không được vào Bộ Ba. Vua Ða-vít đặt ông trông coi đội cận vệ của vua.
26
Các
anh hùng dũng sĩ là: A-xa-hên, em của Giô-áp, En-kha-nan, con của Ðô-đô, người
Bê-lem, 27 Sam-mốt người Ha-ra, Khe-lét người Pơ-lô-ni, 28 I-ra
con của Ích-kết người Tơ-cô-a, A-vi-e-de người A-na-thốt, 29 Xíp-bơ-khai
người Khu-sa, I-lai người A-khô-ác, 30 Ma-rai người Nơ-tô-pha,
Khê-lét, con của Ba-a-na người Nơ-tô-pha, 31 I-thai, con của Ri-vai
người Ghíp-a, là con cháu Ben-gia-min, Bơ-na-gia người Pia-a-thôn, 32 Khu-rai
quê ở Khe suối Ga-át, A-vi-ên người A-ra-va, 33 Át-ma-vét người
Ba-khu-rim, En-giác-ba người Sa-an-vôn, 34 Bơ-nê Ha-sêm người
Ghi-dô, Giô-na-than, con của Sa-ghê người Ha-ra, 35 A-khi-am, con
của Xa-kha người Ha-ra, Ê-li-phan con của Ua, 36 Khê-phe người
Mơ-khê-ra, A-khi-gia người Pơ-lô-ni, 37 Khét-rô người Các-men,
Na-a-rai con của Ét-bai, 38 Giô-en em của Na-than, Míp-kha con của
Hắc-ri, 39 Xe-léc người Am-mon, Nác-rai người Bơ-ê-rốt, cận vệ của
ông Giô-áp con bà Xơ-ru-gia, 40 ông I-ra người Gít-ri, Ga-rếp người
Gít-ri, 41 U-ri-gia người Khết, Da-vát con của Ác-lai, 42 A-đi-na
con của Si-da thuộc chi tộc Rưu-vên, đứng đầu con cháu Rưu-vên, chỉ huy Nhóm Ba
Mươi, 43 Kha-nan con của Ma-a-kha, Giô-sa-phát người Me-then, 44
Út-di-gia người Át-ta-rốt, Sa-ma và Giơ-u-ên con của Khô-tam người A-rô-e,
45 Giơ-đi-a-ên con của Sim-ri và em là Giô-kha người Tít, 46 Ê-li-ên
người Ma-kha-vim, Giơ-ri-vai và Giô-sau-gia con của En-na-am, Gít-ma người
Mô-áp, 47 Ê-li-ên, Ô-vết và Gia-a-xi-ên người Xô-va.
Chương 12
Những
người đầu tiên hợp tác với vua Ða-vít
1
Ðây
là những người đã tìm đến với ông Ða-vít tại Xích-lắc khi ông còn buộc phải
sống xa vua Sa-un, con ông Kít. Họ thuộc số những anh hùng đã từng tham chiến, 2
biết bắn cung cả tay phải lẫn tay trái, dùng đá hay dùng tên cũng được.
3
đứng
đầu là A-khi-e-de, rồi Giô-át con của Sơ-ma-a người Ghíp-a, Giơ-di-ên và Pe-lét
con của Át-ma-vét, Bơ-ra-kha, Giê-hu người A-na-thốt, 4 Gít-ma-gia
người Ghíp-ôn, anh hùng trong nhóm Ba Mươi và chỉ huy nhóm này; 5 Giếc-mơ-gia,
Gia-kha-di-ên, Giô-kha-nan, Giô-da-vát người Gơ-đê-ra, 6 En-u-dai,
Giơ-ri-mốt, Bơ-an-gia, Sơ-mác-gia-hu, Sơ-phát-gia-hu người Kha-ríp, 7 En-ca-na,
Gít-si-gia-hu, A-dác-ên, Giô-e-de, Gia-sóp-am, con cháu của Cô-rắc, 8 Giô-ê-la
và Dơ-vát-gia con của Giơ-rô-kham người Gơ-đo.
9
Trong
hàng con cháu ông Gát, một số người ly khai đi theo vua Ða-vít vào mật khu
trong sa mạc. Họ là những anh hùng dũng sĩ, những người thiện chiến, sử dụng
thành thạo khiên thuẫn và giáo mác, tướng mạo như sư tử, lanh lẹ như linh dương
trên núi. 10 Ðứng đầu là Ê-de, thứ đến là Ô-vát-gia, thứ ba là
Ê-li-áp, 11 thứ tư là Mít-man-na, thứ năm là Giếc-mơ-gia, 12 thứ
sáu là Át-tai, thứ bảy là Ê-li-ên, 13 thứ tám là Giô-kha-nan, thứ
chín là En-da-bát, 14 thứ mười là Giếc-mơ-gia-hu, thứ mười một là
Mác-ban-nai. 15 Ðó là những người thuộc hàng con cháu ông Gát, các
vị chỉ huy quân đội, người kém thì một mình cũng đánh nổi trăm quân, người giỏi
thì một ngàn. 16 Họ là những người đã vượt sông Gio-đan vào tháng
đầu, khi nước sông tràn ra hai bên bờ; họ đã đánh đuổi tất cả những dân cư sống
trong các thung lũng, phía đông cũng như phía tây.
17
Trong
hàng con cháu Ben-gia-min và Giu-đa cũng có những người vào mật khu với ông
Ða-vít. 18 Ông ra gặp và ngỏ lời với họ: "Nếu vì hiếu hoà mà
các anh đến trợ lực cho tôi, tôi sẽ một lòng sống chết với các anh; còn nếu các
anh manh tâm phản tôi để nộp cho địch, dù tay này không làm gì đáng trách, thì
xin Thiên Chúa của cha ông chúng ta chứng giám và xét xử công minh!"
19
Bấy
giờ thần khí tràn ngập ông A-ma-xai, người đứng đầu nhóm Ba Mươi, khiến ông
nói:
"Chúng
tôi là người của ngài, thưa ngài Ða-vít!
Nguyện
sống chết với ngài, thưa quý tử ông Gie-sê.
Khang
an! Chúc ngài khang an!
Chúc
kẻ trợ giúp ngài khang an!
Vì
Thiên Chúa của ngài phù trợ ngài!"
Ông
Ða-vít kết nạp và đặt họ vào cấp chỉ huy quân đội.
20
Từ
Mơ-na-se cũng có những người quy thuận ông Ða-vít khi ông cùng với quân
Phi-li-tinh đánh vua Sa-un, nhưng thật ra ông không tiếp tay cho họ, vì các
vương công Phi-li-tinh tính chuyện thải hồi ông, đã bàn với nhau rằng:
"Biết đâu hắn sẽ lấy đầu chúng ta đem về quy thuận Sa-un chủ hắn!” 21
Vậy khi ông lui về Xích-lắc thì có những người thuộc chi tộc Mơ-na-se đào
ngũ đến với ông, đó là: Át-nác, Giô-da-vát, Giơ-đi-a-ên, Mi-kha-ên, Giô-da-vát,
Ê-li-hu, Xi-lơ-thai, là những người chỉ huy đơn vị ngàn quân Mơ-na-se. 22 Những
người này quả đã tăng cường cho ông Ða-vít và quân đội của ông, vì tất cả đều
là những anh hùng dũng sĩ và đã trở thành các tướng lãnh trong quân đội.
23
Thật
ra ngày nào cũng có người đến tăng viện cho ông Ða-vít, làm cho lực lượng của
ông trở nên lớn mạnh như một lực lượng thần thánh.
Các
chiến sĩ đã tôn vương ông Ða-vít
24
Ðây
là nhân số những lực lượng võ trang sẵn sàng chiến đấu để đến với ông Ða-vít
tại Khép-rôn để chuyển giao cho ông vương quyền của vua Sa-un theo lệnh Ðức
Chúa đã truyền:
25
Con
cháu Giu-đa mang khiên cầm giáo: sáu ngàn tám trăm quân võ trang sẵn sàng chiến
đấu;
26
trong
số con cháu Si-mê-ôn: bảy ngàn một trăm anh hùng dũng sĩ sẵn sàng chiến đấu;
27
trong
số con cháu Lê-vi: bốn ngàn sáu trăm quân; 28 ông Giơ-hô-gia-đa, thủ
lãnh nhà A-ha-ron, và cùng với ông: ba ngàn bảy trăm quân; 29 ông
Xa-đốc, một anh hùng dũng sĩ trẻ trung, và gia tộc ông: hai mươi hai người chỉ
huy;
30
trong
số con cháu Ben-gia-min, anh em vua với vua Sa-un: ba ngàn quân, cho đến bấy
giờ đa số những người ấy vẫn chu toàn nhiệm vụ đối với nhà Sa-un;
31
trong
số con cháu Ép-ra-im: hai mươi ngàn tám trăm anh hùng dũng sĩ, những người lừng
danh trong gia tộc mình;
32
trong
phân nửa chi tộc Mơ-na-se: mười tám ngàn quân được chỉ định đích danh để tới
phong vương cho ông Ða-vít;
33
trong
số con cháu ông Ít-xa-kha am hiểu thời cuộc để biết Ít-ra-en phải làm gì: hai
trăm thủ lãnh và tất cả anh em đồng tộc dưới quyền họ;
34
trong
chi tộc Dơ-vu-lun: năm mươi ngàn chiến binh sẵn sàng lâm trận, biết sử dụng mọi
thứ vũ khí và dũng cảm chiến đấu, không sờn lòng;
35
trong
chi tộc Náp-ta-li: một ngàn chỉ huy và cùng với họ ba mươi bảy ngàn người mang
khiên cầm giáo;
36
trong
số người thuộc tộc Ðan: hai mươi tám ngàn sáu trăm quân sẵn sàng lâm trận; 37
trong chi tộc A-se: bốn mươi ngàn chiến binh sẵn sàng lâm trận;
38
từ
bên kia sông Gio-đan, trong số người thuộc chi tộc Rưu-vên, chi tộc Gát và một
nửa chi tộc Ma-nơ-se: một trăm hai mươi tám ngàn chiến binh biết sử dụng mọi
thứ vũ khí.
39
Tất
cả những người ấy đều là quân thiện chiến, sẵn sàng chiến đấu trong hàng ngũ
một cách dũng cảm; họ đến Khép-rôn với tấm lòng trung nghĩa để tôn ông Ða-vít
làm vua cai trị toàn thể Ít-ra-en; tất cả phần còn lại của Ít-ra-en cũng một
lòng như vậy. 40 Họ ở lại đó ba ngày, cùng ăn uống với vua Ða-vít.
Anh
em họ quả đã chuẩn bị cho họ tất cả; 41 từ những người ở gần đó đến
những kẻ ở mãi Ít-xa-kha, Dơ-vu-lun và Náp-ta-li cũng chở lương thực về bằng
lừa, lạc đà, la, bò: nào bột, nào bánh vã sấy, rồi nho khô, rượu, dầu, bò,
chiên, nhiều vô kể. Cả Ít-ra-en liên hoan tưng bừng.
Chương 13
Cung
nghinh Hòm Bia từ Kia-giát Giơ-a-rim về (2 Sm 6:1-11)
1
Vua
Ða-vít bàn với các chỉ huy trưởng đơn vị ngàn quân và trăm quân, cũng như với
tất cả các người lãnh đạo. 2 Vua nói với toàn thể cộng đồng
Ít-ra-en: "Nếu các ngươi thấy thế là được và nếu đó là ý định của Ðức
Chúa, Thiên Chúa chúng ta, thì chúng ta sẽ sai người đi mời các anh em khác của
chúng ta từ khắp các miền đất Ít-ra-en, mời các tư tế, các thầy Lê-vi sống tại
các thành có đồng cỏ chung quanh, cùng tập hợp lại với chúng ta. 3 Chúng
ta sẽ đưa Hòm Bia Thiên Chúa về với chúng ta, vì thời vua Sa-un, quả chúng ta
đã không quan tâm tới điều đó."
4
Tất
cả cộng đồng quyết định thi hành như vậy, vì toàn dân thấy thế là phải. 5 Vậy
vua Ða-vít triệu tập toàn dân Ít-ra-en, từ Si-kho bên Ai-cập đến Cửa Ải
Kha-mát, để cung nghinh Hòm Bia Thiên Chúa từ Kia-giát Giơ-a-rim về. 6 Vua
Ða-vít cùng toàn thể Ít-ra-en lên Ba-a-la ở Kia-giát Giơ-a-rim thuộc Giu-đa, để
từ đó đưa Hòm Bia Thiên Chúa lên, Hòm Bia mang tên Ðức Chúa ngự trên các
Kê-ru-bim. 7 Họ đem Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông A-vi-na-đáp đặt
lên một cỗ xe mới, rồi ông Út-da và ông Ác-giô đánh xe đi. 8 Còn vua
Ða-vít và toàn thể Ít-ra-en thì nhảy múa trước mặt Thiên Chúa giữa tiếng ca,
tiếng đàn sắt, đàn cầm, tiếng trống, não bạt và tiếng kèn. 9 Khi họ
vào tới sân lúa Ki-đôn, ông Út-da giơ tay giữ lấy Hòm Bia vì con bò làm cho Hòm
Bia muốn đổ. 10 Ðức Chúa liền nổi cơn thịnh nộ với ông Út-da; Người
đánh phạt ông vì ông đã giơ tay đụng tới Hòm Bia; ông chết ngay tại đó trước
mặt Thiên Chúa. 11 Vua Ða-vít buồn bực vì Ðức Chúa đã đánh ông Út-da
chết tức khắc như vậy, và người ta gọi nơi ấy là Pe-rét Út-da cho tới ngày nay.
12
Hôm
ấy vua Ða-vít sợ Thiên Chúa. Vua nói: "Làm sao tôi đưa Hòm Bia Thiên Chúa
về nhà tôi được?” 13 Và vua Ða-vít đã không cung nghinh Hòm Bia về
nhà mình trên Thành vua Ða-vít nữa, nhưng đưa Hòm Bia rẽ vào nhà ông Ô-vết
Ê-đôm người Gát. 14 Hòm Bia Thiên Chúa ở lại với gia đình ông Ô-vết
Ê-đôm ngay tại nhà ông ba tháng; Ðức Chúa giáng phúc cho nhà ông Ô-vết Ê-đôm
cùng tất cả những gì thuộc về ông.
Chương 14
Vua
Ða-vít tại Giê-ru-sa-lem. Cung điện và con cái vua. (2 Sm 5:11-16)
1
Khi-ram,
vua thành Tia, sai sứ giả đến yết kiến vua Ða-vít, mang theo gỗ bá hương, thợ
nề, thợ mộc để xây cho vua một cung điện. 2 Vua biết rằng Ðức Chúa
đã củng cố vương quyền của vua trên Ít-ra-en và nhờ Ít-ra-en là dân của vua mà
vương quốc của vua được hưng thịnh.
3
Tại
Giê-ru-sa-lem, vua Ða-vít lấy thêm vợ, sinh thêm con trai con gái. 4 Ðây
là tên những người con vua đã sinh tại Giê-ru-sa-lem: Sam-mu-a, Sô-váp,
Na-than, Sa-lô-môn, 5 Gíp-kha, Ê-li-su-a, En-pa-lét, 6 Nô-ga,
Ne-phéc, Gia-phia, 7 Ê-li-sa-ma, Bơ-en-gia-đa, Ê-li-phe-lét.
Chiến
thắng quân Phi-li-tinh (2 Sm 5 :17-25)
8
Khi
quân Phi-li-tinh nghe tin vua Ða-vít đã được xức dầu làm vua toàn thể Ít-ra-en,
thì toàn thể quân Phi-li-tinh lên tìm bắt vua Ða-vít. Vua Ða-vít nghe tin liền
ra đón chúng. 9 Quân Phi-li-tinh đến dàn trận trong thung lũng người
Ra-pha. 10 Bấy giờ vua Ða-vít thỉnh ý Thiên Chúa: "Con có nên
tiến đánh quân Phi-li-tinh không? Ngài có trao chúng vào tay con không?"
Ðức Chúa trả lời vua: "Cứ lên! Ta sẽ trao chúng vào tay ngươi.” 11 Chúng
kéo lên Ba-an Pơ-ra-xim, và vua Ða-vít đã đánh bại chúng tại đó. Vua Ða-vít
nói: "Thiên Chúa đã dùng tay tôi mà chọc thủng quân thù của tôi như chỗ bị
nước chọc thủng." Vì thế, người ta đặt tên cho nơi ấy là Ba-an Pơ-ra-xim. 12
Chúng đã bỏ lại đó các thần của chúng, và vua Ða-vít nói: "Cho vào
lửa đốt hết!"
13
Quân
Phi-li-tinh lại dàn trận trong thung lũng. 14 Một lần nữa, vua
Ða-vít thỉnh ý Thiên Chúa và Thiên Chúa phán bảo vua: "Ðứng lên đuổi theo
chúng, nhưng hãy đi vòng, cách xa chúng một quãng và tấn công chúng từ phía lùm
cây sếu. 15 Khi nào ngươi nghe tiếng chân bước trên ngọn các cây
sếu, bấy giờ ngươi hãy ra mà tấn công: vì Thiên Chúa sẽ ra trận trước mặt ngươi
để đánh quân đội Phi-li-tinh.” 16 Vua Ða-vít làm như Thiên Chúa đã
truyền cho vua và vua đã đánh bại quân đội Phi-li-tinh từ Ghíp-ôn tới Ghe-de.
17
Danh
tiếng vua Ða-vít đồn ra khắp nơi và Ðức Chúa làm cho chư dân phải khiếp sợ vua.
Chương 15
2.
Hòm Bia Trong Thành Vua Ða-Vít
Chuẩn
bị di chuyển
1
Vua
Ða-vít xây cất cung điện cho mình trong Thành vua Ða-vít và dọn chỗ cho Hòm Bia
Thiên Chúa, rồi dựng lều cho Hòm Bia. 2 Bấy giờ vua Ða-vít nói:
"Chỉ có các thầy Lê-vi mới được khiêng Hòm Bia Thiên Chúa, vì Ðức Chúa đã
chọn họ để khiêng Hòm Bia và phụng sự Người đến muôn đời."
3
Vua
Ða-vít triệu tập toàn thể Ít-ra-en về Giê-ru-sa-lem để rước Hòm Bia của Ðức
Chúa lên chỗ vua đã dọn sẵn. 4 Vua cũng tập hợp con cháu ông
A-ha-ron và các thầy Lê-vi: 5 trong hàng con cháu ông Cơ-hát, có ông
U-ri-ên chỉ huy, và các anh em của ông, tất cả là một trăm hai mươi người; 6
trong hàng con cháu ông Mơ-ra-ri, có ông A-xa-gia chỉ huy, và các anh em
của ông, tất cả là hai trăm hai mươi người; 7 trong hàng con cháu
ông Ghéc-sôn, có ông Giô-en chỉ huy, và các anh em của ông, tất cả là một trăm
ba mươi người; 8 trong hàng con cháu ông Ê-li-xa-phan, có ông
Sơ-ma-gia chỉ huy, và các anh em của ông, tất cả là hai trăm người; 9 trong
hàng con cháu ông Khép-rôn, có ông Ê-li-ên chỉ huy, và các anh em của ông, tất
cả là tám mươi người; 10 trong hàng con cháu ông Út-di-ên, có ông
A-mi-na-đáp chỉ huy, và các anh em của ông, tất cả là một trăm mười hai người.
11
Vua
Ða-vít cho vời các tư tế Xa-đốc và Ép-gia-tha, và các thầy Lê-vi U-ri-ên,
A-xa-gia, Giô-en, Sơ-ma-gia, Ê-li-ên và Am-mi-na-đáp. 12 Vua nói với
họ: "Các ngươi là những người đứng đầu các gia tộc Lê-vi, vậy hãy thanh
tẩy chính mình và anh em các ngươi, rồi đưa Hòm Bia của Ðức Chúa, Thiên Chúa
của Ít-ra-en, lên nơi ta đã dọn sẵn. 13 Chính vì lần đầu không có
các ngươi, nên Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đã đánh phạt chúng ta. Quả chúng
ta đã không tôn kính Người theo đúng quy luật.” 14 Vậy các tư tế và
các thầy Lê-vi thanh tẩy mình để kiệu Hòm Bia của Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en,
15 Con cháu Lê-vi mang Hòm Bia Thiên Chúa đúng như ông Mô-sê đã
truyền theo lệnh của Ðức Chúa, là dùng đòn mà khiêng trên vai.
16
Vua
Ða-vít truyền cho những người đứng đầu các thầy Lê-vi bố trí các ca viên, anh
em của họ, để những người này dùng nhạc khí như đàn sắt, đàn cầm, não bạt mà
tấu khúc hoan ca. 17 Các thầy Lê-vi xếp chỗ cho ông Hê-man con ông
Giô-en, và trong các anh em ông ấy thì xếp cho ông A-xáp con ông Be-réc-gia-hu;
trong hàng con cháu ông Mơ-ra-ri anh em với họ, thì xếp cho ông Ê-than, con ông
Cô-sa-gia-hu. 18 Cùng với họ, có các anh em của họ ở bậc thứ hai:
các ông Dơ-khác-gia-hu, Gia-a-di-ên, Sơ-mi-ra-mốt, Giơ-khi-ên, Un-ni, Ê-li-áp,
Bơ-na-gia-hu, Ma-a-xê-gia-hu, Mát-tít-gia-hu, E-líp-lê-hu, Mích-nê-gia-hu,
Ô-vết Ê-đôm và Giơ-y-ên, các ông là những người gác cổng. 19 Còn các
ca viên Hê-man, A-xáp và Ê-than khua não bạt bằng đồng. 20 Các ông
Dơ-khác-gia và Út-di-ên, Sơ-mi-ra-mốt, Giơ-khi-ên, Un-ni, Ê-li-áp,
Ma-a-xê-gia-hu và Bơ-na-gia-hu đệm hạc cầm cho giọng nữ. 21 Các ông
Mát-tít-gia-hu, E-líp-lê-hu, Mích-nê-gia-hu, Ô-vết Ê-đôm, Giơ-y-ên,
A-dát-gia-hu dạo thập lục huyền cầm quãng tám. 22 Ông Cơ-nan-gia-hu,
đứng đầu các thầy Lê-vi khiêng kiệu, điều khiển cuộc rước, vì ông là người
thành thạo. 23 Hai ông giữ cửa là Be-réc-gia và En-ca-na hộ tống Hòm
Bia. 24 Các tư tế Sơ-van-gia-hu, Giô-sa-phát, Nơ-than-ên, A-ma-xai,
Dơ-khác-gia-hu, Bơ-na-gia-hu và Ê-li-e-de thổi tù và trước Hòm Bia Thiên Chúa.
Hai ông giữ cửa là Ô-vết Ê-đôm và Giơ-khi-gia hộ tống Hòm Bia.
Nghi
thức rước kiệu (2 Sm 6:12-22)
25
Vậy
vua Ða-vít, các kỳ mục Ít-ra-en và các tướng lãnh chỉ huy đơn vị ngàn quân hân
hoan ra rước Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa lên từ nhà ông Ô-vết Ê-đôm. 26 Có
Thiên Chúa phù trợ, các thầy Lê-vi kiệu Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, trong
khi người ta sát tế bảy con bò mộng và bảy con cừu đực. 27 Vua
Ða-vít mặc áo thụng bằng trúc bâu cũng như tất cả các thầy Lê-vi khiêng Hòm
Bia, các ca viên và ông Cơ-nan-gia điều khiển cuộc rước; vua Ða-vít còn khoác
ê-phốt bằng vải gai. 28 Toàn thể Ít-ra-en đưa Hòm Bia Giao Ước của
Ðức Chúa lên, vừa đi vừa reo hò, giữa tiếng tù và, kèn đồng và não bạt, với
tiếng cầm tiếng sắt. 29 Khi Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa tiến vào
Thành vua Ða-vít, bà Mi-khan, con vua Sa-un, từ cửa sổ nhìn xuống thấy vua
Ða-vít nhảy múa vui cười, thì sinh lòng khinh dể.
Chương 16
1
Người
ta đưa Hòm Bia Thiên Chúa vào đặt giữa Lều vua Ða-vít đã dựng sẵn. Rồi họ dâng
lễ toàn thiêu và lễ kỳ an trước nhan Thiên Chúa. 2 Khi đã hoàn tất
việc dâng các lễ toàn thiêu và lễ kỳ an, vua Ða-vít nhân danh Ðức Chúa chúc
phúc cho dân. 3 Vua phân phát cho mọi người Ít-ra-en, đàn ông cũng
như đàn bà, mỗi người một ổ bánh, một phần thịt và một cái bánh nho.
Các
thầy Lê-vi phục vụ trước Hòm Bia (Thi 96:1-13; 105:1-15; 106:1,47-48)
4
Vua
Ða-vít cắt đặt một số thầy Lê-vi túc trực trước Hòm Bia của Ðức Chúa để ngợi
khen, tôn vinh và ca tụng Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en: 5 đứng
đầu là A-xáp, thứ đến là Dơ-khác-gia, rồi Út-di-ên, Sơ-mi-ra-mốt, Giơ-khi-ên,
Mát-tít-gia, Ê-li-áp, Bơ-na-gia-hu, Ô-vết Ê-đôm, Giơ-y-ên; họ sử dụng các nhạc
khí như đàn sắt, đàn cầm, còn ông A-xáp thì khua não bạt, trong khi 6 các tư tế
Bơ-na-gia-hu và Gia-kha-di-ên không ngưng tiếng kèn trước Hòm Bia Giao Ước của
Thiên Chúa. 7 Hôm ấy, lần đầu tiên, vua Ða-vít trao cho ông A-xáp và
anh em ông nhiệm vụ ngợi khen Ðức Chúa:
8
Hãy
tạ ơn Ðức Chúa, cầu khẩn danh Người,
vĩ
nghiệp của Người, loan báo giữa muôn dân.
9
Hát
lên đi, đàn ca mừng Chúa
và
suy gẫm mọi kỳ công của Người.
10
Hãy
tự hào vì danh thánh Chúa,
tâm
hồn những ai tìm kiếm Chúa, nào hoan hỷ.
11
Hãy
tìm Chúa và sức mạnh của Người,
chẳng
khi ngừng tìm kiếm Thánh Nhan.
12
Hãy
nhớ lại những kỳ công Người thực hiện,
những
dấu lạ và những quyết định Người phán ra,
13
hỡi
anh em, dòng dõi Ít-ra-en tôi tớ Chúa,
con
cháu Gia-cóp được Người tuyển chọn!
14
Chính
Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng ta,
những
điều Người quyết định là luật chung cho cả địa cầu
15
giao
ước của Người, muôn đời nên nhớ kỹ,
nhớ
lời đã cam kết đến ngàn thế hệ:
16
Ðó
là điều đã giao ước cùng Áp-ra-ham,
đã
đoan thệ cùng I-xa-ác,
17
và
đặt thành quy luật cho Gia-cóp,
thành
giao ước muôn đời cho Ít-ra-en,
18
rằng:
"Ta sẽ cho ngươi đất Ca-na-an
làm
kỷ phần gia nghiệp."
19
Thuở
ấy, họ chỉ là một số nhỏ,
một
nhóm kiều dân nơi đất khách quê người,
20
lang
thang hết xứ này qua xứ khác,
phiêu
bạt từ nước nọ đến nước kia,
21
nhưng
Chúa không để cho ai ức hiếp họ;
vì
thương họ, Người la rầy vua chúa:
22
"Ðừng
đụng tới những kẻ Ta xức dầu tấn phong,
chớ
làm hại các ngôn sứ của Ta."
23
Hát
lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu!
Ngày
lại ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ
24
kể
cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển
cho
mọi nước hay những kỳ công của Người.
25
Chúa
thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng,
khả
tôn khả uý hơn chư thần.
26
Vì
chư thần các nước đều là hư ảo,
còn
Ðức Chúa, Người sáng tạo trời cao.
27
Trước
thiên nhan, toàn uy phong rực rỡ,
trong
thánh điện, đầy dũng lực huy hoàng.
28
Hãy
dâng Chúa, hỡi các dân các nước,
dâng
Chúa quyền lực và vinh quang.
29
Hãy
dâng Chúa vinh quang xứng danh Người,
hãy
bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa,
và
thờ lạy Chúa uy linh thánh thiện.
30
Toàn
thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan.
Chúa
thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng lay chuyển.
31
Trời
vui lên, đất hãy nhảy mừng.
Hãy
nói giữa chư dân: Chúa là Vua hiển trị.
32
Biển
gầm vang cùng muôn hải vật,
ruộng
đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ.
33
Hỡi
cây cối rừng xanh,
hãy
reo mừng trước tôn nhan Chúa,
vì
Người ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian.
34
Hãy
tạ ơn Chúa, vì Chúa nhân từ:
muôn
ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
35
Hãy
nói: lạy Thiên Chúa Ðấng cứu độ chúng con,
xin
thương quy tụ chúng con về,
cứu
chúng con từ giữa muôn dân nước,
để
chúng con cảm tạ Thánh Danh,
và
được hiên ngang tán dương Ngài.
36
Chúc
tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en,
từ
muôn thuở cho đến muôn đời!"
Và
toàn dân hô lớn: "A-men! Ha-lê-lui-a!"
37
Rồi
vua Ða-vít để ông A-xáp và anh em ông ở lại đó, trước Hòm Bia Giao Ước của Ðức
Chúa, để họ túc trực trước Hòm Bia, thi hành nhiệm vụ thường ngày. 38 Vua
cũng để lại ông Ô-vết Ê-đôm với sáu mươi tám anh em ông như vậy: các ông Ô-vết
Ê-đôm, con ông Giơ-đu-thun, và ông Khô-xa, được đặt làm người giữ cửa.
39
Tư
tế Xa-đốc và các tư tế anh em ông thì vua để ở trước Nhà Tạm của Ðức Chúa ngự
trên nơi cao của Ghíp-ôn, 40 để sáng chiều họ không ngừng thượng
tiến lễ toàn thiêu kính Ðức Chúa trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu theo đúng mọi
điều ghi chép trong luật Ðức Chúa đã truyền cho Ít-ra-en. 41 Cùng
với họ có ông Hê-man, ông Giơ-đu-thun và những người khác đã được tuyển chọn
đích danh để ca tụng Ðức Chúa, vì "muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.” 42 Cùng với họ có ông Hê-man và ông Giơ-đu-thun thổi kèn,
khua não bạt cùng các nhạc khí để hát thánh ca. Các con ông Giơ-đu-thun lo việc
giữ cửa.
43
Toàn
dân ra đi, ai về nhà nấy, còn vua Ða-vít cũng trở về để chúc lành cho gia đình
vua.
Chương 17
Lời
sấm của ông Na-than (2 Sm 7:1-17)
1
Khi
đã được yên cửa yên nhà, vua Ða-vít nói với ngôn sứ Na-than rằng: "Này,
tôi được ở nhà bằng gỗ bá hương, còn Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa thì vẫn ở
dưới lều.” 2 Ông Na-than thưa với vua Ða-vít: "Tất cả những gì
ngài ấp ủ trong lòng, xin cứ thực hiện, vì Thiên Chúa ở với ngài.” 3 Nhưng,
ngay đêm ấy, có lời Thiên Chúa phán với ông Na-than rằng: 4 "Hãy
đi nói với tôi tớ Ta là Ða-vít: Ðức Chúa phán thế này: không phải ngươi sẽ xây
nhà cho Ta ở. 5 Thật vậy, từ ngày Ta đưa Ít-ra-en lên cho tới hôm
nay, Ta không hề ở trong một ngôi nhà, nhưng Ta đã ở hết lều này đến lều khác,
hết Nhà Tạm này sang Nhà Tạm khác. 6 Trong suốt thời gian rày đây
mai đó với toàn thể Ít-ra-en, có bao giờ Ta đã lên tiếng hỏi một trong các thủ
lãnh Ít-ra-en mà Ta đã đặt lên chăn dắt dân Ta, rằng: sao các ngươi không xây
cho Ta một ngôi nhà bằng gỗ bá hương? 7 Bây giờ, ngươi hãy nói với tôi tớ Ta là
Ða-vít như sau: Ðức Chúa các đạo binh phán thế này: Chính Ta đã cất nhắc ngươi,
từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en. 8
Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi; mọi thù địch ngươi, Ta đã diệt trừ
cho khuất mắt ngươi; Ta sẽ làm cho tên tuổi ngươi sánh được với tên tuổi các
bậc vĩ nhân trên mặt đất. 9 Ta sẽ cho dân Ta là Ít-ra-en một chỗ ở;
Ta sẽ định cư chúng và chúng sẽ ở luôn tại đó, chúng sẽ không còn run sợ và
quân gian ác cũng không còn tiếp tục quấy phá chúng như thuở ban đầu, 10 từ
thời Ta đặt các thủ lãnh cai quản dân Ta là Ít-ra-en, Ta sẽ bắt mọi thù địch
hàng phục ngươi. Ta báo cho ngươi biết là Ðức Chúa sẽ xây cho ngươi một ngôi
nhà. 11 Khi ngươi được mãn phần mà về với tổ tiên, Ta sẽ cho dòng
dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -tức là một trong số các con ngươi-, và Ta sẽ
làm cho vương quyền của nó được vững bền. 12 Chính nó sẽ xây nhà cho
Ta, còn Ta sẽ làm cho ngai báu của nó vững bền mãi mãi. 13 Ðối với
nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con; ân nghĩa dành cho nó, Ta sẽ không
rút lại, như Ta đã rút lại đối với kẻ tiền nhiệm của ngươi.
14
Ta
sẽ làm cho nó được kiên vững trong nhà Ta cũng như trong vương quốc của Ta đến
muôn đời, và đến muôn đời ngai báu của nó sẽ được củng cố."
15
Tất
cả các lời ấy và tất cả thị kiến ấy, ông Na-than nhận được làm sao, thì đã nói
lại với vua Ða-vít đúng y như vậy.
Vua
Ða-vít cầu nguyện (2 Sm 7:18-29)
16
Vua
Ða-vít vào ngồi chầu trước nhan Ðức Chúa và thưa: "Lạy Ðức Chúa là Thiên
Chúa, con là ai và nhà của con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? 17 Và,
lạy Thiên Chúa, Ngài còn coi đó là quá ít; Ngài lại hứa cho nhà của tôi tớ Ngài
một tương lai lâu dài; Ngài coi con như một nhân vật cao sang, lạy Ðức Chúa là
Thiên Chúa. 18 Trước vinh dự Ngài dành cho tôi tớ Ngài, Ða-vít còn
nói thêm gì với Ngài được nữa! Ngài biết rõ tôi tớ Ngài. 19 Lạy Ðức
Chúa, chính vì tôi tớ Ngài và theo lòng Ngài muốn, Ngài đã thực hiện cả một
công trình vĩ đại là cho biết mọi vĩ nghiệp của Ngài. 20 Lạy Ðức
Chúa, không ai sánh được như Ngài và không có Thiên Chúa nào khác ngoại trừ
Ngài, theo như mọi điều tai chúng con đã từng được nghe. 21 Dưới
đất, có một dân tộc nào được như dân Ngài là Ít-ra-en? Thiên Chúa đã đến cứu
chuộc dân này để làm thành dân của Ngài, để Ngài được hiển danh vì những việc
vĩ đại và khủng khiếp, khi xua đuổi chư dân khuất mắt dân Ngài, dân mà Ngài đã
cứu chuộc khỏi tay Ai-cập. 22 Ngài đã cho Ít-ra-en dân Ngài được
muôn đời làm dân riêng của Ngài, và chính Ngài, lạy Ðức Chúa, Ngài đã trở thành
Thiên Chúa của họ. 23 Giờ đây, lạy Ðức Chúa, xin cho lời Ngài đã
phán về tôi tớ Ngài và nhà của nó tồn tại đến muôn đời, và xin hành động như
Ngài đã phán. 24 Vâng, nguyện cho lời Ngài tồn tại và danh Ngài được
tán dương đến muôn đời. Ước chi người người đều nói: "Ðức Chúa các đạo
binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Người thật là Thiên Chúa Ít-ra-en thờ!"
Ngài sẽ cho nhà của Ða-vít tôi tớ Ngài vững bền trước nhan Ngài. 25 Thật
vậy, lạy Thiên Chúa của con, chính Ngài đã mặc khải cho tôi tớ Ngài rằng: Ngài
sẽ xây dựng cho nó một nhà. Vì thế, tôi tớ Ngài mới dám cầu nguyện trước nhan
Ngài. 26 Giờ đây, lạy Ðức Chúa, chính Ngài là Thiên Chúa và Ngài đã
hứa ban cho tôi tớ Ngài điều tốt đẹp ấy. 27 Vậy giờ đây Ngài đã đoái
thương giáng phúc cho nhà của tôi tớ Ngài để nhà ấy được tồn tại mãi trước nhan
Ngài. Vì chính Ngài, lạy Ðức Chúa, Ngài đã giáng phúc, nên muôn đời nó sẽ được
phúc.
Chương 18
Các
cuộc chiến tranh thời vua Ða-vít (2 Sm 8:1-14)
1
Sau
đó, vua Ða-vít đánh bại người Phi-li-tinh và hạ nhục chúng. Vua chiếm lấy Gát
và các vùng phụ cận, khỏi tay người Phi-li-tinh. 2 Vua đánh bại
người Mô-áp, người Mô-áp phải làm nô lệ cho vua Ða-vít và triều cống vua.
3
Vua
Ða-vít đánh bại Ha-đát-e-de vua nước Xô-va về phía Kha-mát, khi vua này đi tái
lập chủ quyền trên vùng sông Êu-phơ-rát. 4 Vua Ða-vít bắt được của
vua ấy một ngàn chiến xa, bảy ngàn kỵ binh và hai mươi ngàn bộ binh; và vua
Ða-vít đã cắt gân chân tất cả những con ngựa kéo xe, chỉ chừa lại một trăm. 5
Người A-ram ở Ða-mát đến cứu viện Ha-đát-e-de vua Xô-va, nhưng vua Ða-vít
đã hạ của A-ram hai mươi ngàn người. 6 Vua Ða-vít đặt những trấn thủ
cai trị người A-ram ở Ða-mát, và người A-ram phải làm nô lệ cho vua Ða-vít và
triều cống vua. Ðức Chúa đã cho vua Ða-vít đi đâu thắng đó. 7 Vua
Ða-vít lấy các khiên vàng mà tôi tớ vua Ha-đát-e-de mang, và đưa về Giê-ru-sa-lem.
8 Và từ Típ-khát và Cun, các thành của vua Ha-đát-e-de, vua Ða-vít
lấy được rất nhiều đồng, sau này vua Sa-lô-môn dùng đồng ấy làm bể nước, làm
cột và các vật dụng khác.
9
Nghe
tin vua Ða-vít đã đánh tan toàn bộ lực lượng của Ha-đát-e-de vua Xô-va, 10
Tô-u vua Kha-mát liền sai con là Ha-đô-ram đến vấn an và chúc mừng vua
Ða-vít vì vua đã chiến đấu với Ha-đát-e-de và đánh bại vua ấy - đó là vì vua
Tô-u cũng đã khai chiến với Ha-đát-e-de. Vua Tô-u còn gởi tặng vua Ða-vít đủ
thứ vật dụng bằng vàng, bạc và đồng. 11 Vua Ða-vít cũng thánh hiến
cho Ðức Chúa tất cả các vật dụng ấy cùng với vàng bạc vua đã lấy được của tất
cả các dân Ê-đôm, Mô-áp, con cái Am-mon, Phi-li-tinh và A-ma-lếch.
12
Ông
Áp-sai con bà Xơ-ru-gia đánh bại quân Ê-đôm tại thung lũng Muối, giết chết mười
tám ngàn người. 13 Ông đặt những trấn thủ cai trị tại Ê-đôm. Toàn
dân Ê-đôm phải làm nô lệ vua Ða-vít, và Ðức Chúa đã cho vua Ða-vít đi đâu thắng
đó.
Việc
cai trị vương quốc (2 Sm 8 :15-18)
14
Vua
Ða-vít trị vì toàn thể Ít-ra-en và thực hiện điều chính trực công minh cho toàn
dân.
15
Ông
Giô-áp con bà Xơ-ru-gia, chỉ huy quân đội; ông Giơ-hô-sa-phát, con ông
A-khi-lút, làm quốc vụ khanh; 16 ông Xa-đốc, con ông A-khi-túp, và
ông A-vi-me-lét, con ông Ép-gia-tha, làm tư tế; ông Sau-sa làm ký lục; 17 ông
Bơ-na-gia-hu, con ông Giơ-hô-gia-đa chỉ huy quân Cơ-rê-thi và quân Pơ-lê-thi.
Các con vua Ða-vít là những đệ nhất cận thần của vua.
Chương 19
Sứ
giả của vua Ða-vít bị nhục mạ (2 Sm 10:1-5)
1
Sau
đó, Na-khát vua của con cái Am-mon qua đời và con vua lên ngôi kế vị. 2 Vua
Ða-vít nói: "Ta sẽ lấy tình mà đối xử với vua Kha-nun, con vua Na-khát, vì
cha của vua ấy đã lấy tình mà đối xử với ta." Vậy vua Ða-vít sai sứ giả
đến chia buồn với vua ấy về vua cha. Nhưng khi bề tôi vua Ða-vít đến đất con
cái Am-mon yết kiến vua Kha-nun để chia buồn với ông, 3 thì các
tướng lãnh của con cái Am-mon thưa với vua Kha-nun rằng: "Ngài tưởng là
Ða-vít kính trọng vua cha khi sai người đến chia buồn với ngài sao? Chẳng phải
bề tôi của Ða-vít đến gặp ngài là để quan sát, lật đổ và dò thám đất đai sao?” 4
Vua Kha-nun liền bắt bề tôi của vua Ða-vít mà cạo râu, cắt một nửa áo của
họ cho đến mông, rồi thả về. 5 Họ ra đi. Người ta báo cho vua Ða-vít
biết tình cảnh của những người ấy; vua sai người đi đón họ, vì những người ấy
nhục nhã lắm. Vua bảo: "Các ngươi cứ ở lại Giê-ri-khô, chờ cho râu mọc lại
rồi hãy về."
Chiến
dịch thứ nhất đánh người Am-mon (2 Sm 10:6-14)
6
Con
cái Am-mon thấy rằng mình đã ra đáng ghét đối với vua Ða-vít, nên vua Kha-nun
và con cái Am-mon sai người đem ba mươi ngàn ký bạc đi thuê chiến xa và kỵ binh
của A-ram Na-ha-ra-gim, của A-ram xứ Ma-a-kha và của Xô-va. 7 Và họ
đã thuê ba mươi hai ngàn chiến xa, thuê cả vua xứ Ma-a-kha cùng với quân đội
của vua. Những người này tiến vào đóng trại đối diện với Mê-đơ-va; còn con cái
Am-mon thì từ các thành của họ tập hợp lại và chuẩn bị chiến đấu. 8 Vua
Ða-vít nghe tin thì sai ông Giô-áp đi với cả một đạo binh gồm toàn các dũng sĩ.
9 Con cái Am-mon tiến ra và dàn trận ở lối vào cửa thành; còn các
vua đã đến thì đóng riêng ngoài đồng. 10 Ông Giô-áp thấy rằng mình
phải đối phó với mặt trận cả phía trước lẫn phía sau, nên đã chọn trong toàn
thể tinh binh của Ít-ra-en một số người và dàn ra đối diện với người A-ram. 11
Phần quân còn lại, ông giao cho ông Áp-sai, em ông; họ dàn trận đối diện
với con cái Am-mon. 12 Ông nói: "Nếu người A-ram mạnh hơn tôi,
chú sẽ cứu viện tôi. Còn nếu con cái Am-mon mạnh hơn chú, tôi sẽ cứu viện chú. 13
Can đảm lên, chúng ta hãy tỏ ra can đảm vì dân chúng ta và vì các thành
của Thiên Chúa chúng ta! Xin Ðức Chúa thực hiện điều Người coi là tốt!” 14
Ông Giô-áp và quân binh của ông tiến lên giao chiến với quân A-ram, và
chúng chạy trốn trước mặt họ. 15 Khi con cái Am-mon thấy quân A-ram
chạy trốn, thì chúng cũng chạy trốn trước mặt ông Áp-sai em ông Giô-áp và rút
về thành. Ông Giô-áp trở về Giê-ru-sa-lem.
Thắng
quân A-ram (2 Sm 10:15-16)
16
Người
A-ram thấy mình bị Ít-ra-en đánh bại, thì họ sai sứ giả mời những người A-ram ở
bên kia Sông Cả đến; có ông Sô-phác tướng chỉ huy quân đội của vua Ha-đát-e-de
cầm đầu. 17 Người ta báo tin cho vua Ða-vít. Vua quy tụ toàn thể
Ít-ra-en, vượt sông Gio-đan, tiến lên, dàn trận đánh chúng. Vua Ða-vít dàn trận
đối diện người A-ram và chúng giao chiến với vua. 18 Người A-ram
chạy trốn trước mặt Ít-ra-en. Vua Ða-vít tiêu diệt của người A-ram bảy ngàn kỵ
binh và bốn mươi ngàn bộ binh; còn Sô-phác tướng chỉ huy quân đội, vua cũng
giết chết. 19 Các chư hầu của vua Ha-đát-e-de thấy mình bị Ít-ra-en
đánh bại, thì cầu hoà với vua Ða-vít và làm tôi vua. Người A-ram không muốn cứu
viện con cái Am-mon nữa.
Chương 20
Chiến
dịch thứ hai đánh người Am-mon (2 Sm 12:26-31)
1
Lúc
xuân về, thời mà các vua ra quân, ông Giô-áp đưa lực lượng quân đội tàn phá đất
đai của con cái Am-mon. Ông tiến quân vây hãm Ráp-ba, còn vua Ða-vít ở lại
Giê-ru-sa-lem. Ông Giô-áp tấn công và triệt hạ Ráp-ba. 2 Vua Ða-vít
lột vương miện trên đầu Min-côm, vương miện cân nặng ba mươi ký vàng, có một
viên ngọc quý. Viên ngọc này được đặt lên đầu vua Ða-vít. Vua lấy đi rất nhiều
chiến lợi phẩm của thành. 3 Còn dân trong thành thì vua đưa đi và
bắt phải làm những việc dùng đến cưa, cuốc chim và rìu, vua xử như thế với mọi
thành của con cái Am-mon. Rồi vua Ða-vít và toàn thể quân binh trở về
Giê-ru-sa-lem.
Chiến
công đánh bại quân Phi-li-tinh (2 Sm 21:15-22)
4
Sau
đó lại có giao tranh tại Ghe-de với người Phi-li-tinh. Bấy giờ ông Xíp-bơ-khai,
người Khu-sa, hạ sát tên Xíp-pai, con cháu Ra-pha, và chúng phải thần phục. 5
Lại có giao tranh với người Phi-li-tinh, và ông En-kha-nan con ông Gia-ia
đã hạ sát tên Lác-mi, em của tên Gô-li-át người Gát; cán giáo của nó như trục
khung cửi thợ dệt. 6 Lại có giao tranh ở Gát. Có một người cao lớn,
tay chân đều có sáu ngón, vị chi hai mươi bốn ngón. Nó cũng là con cháu Ra-pha.
7 Nó thách Ít-ra-en, và ông Giơ-hô-na-than, con ông Sim-a là anh vua
Ða-vít, đã hạ sát nó. 8 Những người ấy là con cháu Ra-pha tại Gát.
Chúng đã gục ngã do tay vua Ða-vít và các bề tôi của vua.
Chương 21
3.
Tiến Tới Việc Xây Ðền Thờ
Thống
kê dân số (2 Sm 24:1-9)
1
Xa-tan
đứng lên chống Ít-ra-en và xúi giục vua Ða-vít thống kê dân số Ít-ra-en. 2
Vua Ða-vít nói với ông Giô-áp và các tướng lãnh quân đội: "Hãy đi
đếm dân Ít-ra-en, từ Bơ-e Se-va tới Ðan và về trình cho ta biết con số là bao
nhiêu.” 3 Ông Giô-áp thưa: "Xin Ðức Chúa tăng dân Người lên gấp
trăm! Thưa đức vua chúa thượng tôi, tất cả những người đó lại không phải là bề
tôi của chúa thượng tôi sao? Vậy tại sao chúa thượng tôi lại muốn điều tra như
thế? Tại sao bắt Ít-ra-en phải mang tội?” 4 Tuy nhiên, vì tuân lệnh
vua, ông Giô-áp ra đi, rảo khắp Ít-ra-en, rồi trở về Giê-ru-sa-lem. 5 Ông
Giô-áp nộp cho vua Ða-vít con số thống kê nhân khẩu: Ít-ra-en có tất cả một
triệu một trăm ngàn người biết tuốt gươm và Giu-đa có bốn trăm bảy mươi ngàn
người biết tuốt gươm. 6 Nhưng chi tộc Lê-vi và Ben-gia-min, ông
Giô-áp không tính vào số ấy, vì ông ghê tởm mệnh lệnh của vua.
Bệnh
dịch. Thiên Chúa tha thứ. (2 Sm 24:10-17)
7
Việc
này chướng mắt Thiên Chúa và Người đã đánh phạt Ít-ra-en. 8 Vua
Ða-vít thưa cùng Thiên Chúa: "Con đã phạm tội nặng khi làm việc này. Giờ
đây, xin bỏ qua lỗi lầm của tôi tớ Ngài, vì con đã hành động rất ngu xuẩn.” 9
Bấy giờ Ðức Chúa phán với ông Gát, thầy chiêm của vua Ða-vít, rằng: 10
"Hãy đi nói với Ða-vít: Ðức Chúa phán thế này: Ta đưa ra cho ngươi
ba điều. Ngươi hãy chọn lấy một trong ba, và Ta sẽ thực hiện cho ngươi.” 11
Vậy ông Gát đến gặp vua Ða-vít và thưa: "Ðức Chúa phán thế này:
ngươi phải chịu nhận: 12 hoặc là ba năm đói; hoặc ba tháng phải chạy
trốn để thoát kẻ thù, vì gươm của kẻ thù rượt đuổi ngươi; hoặc ba ngày chịu
gươm của Ðức Chúa, tức là ôn dịch trong xứ, vì sứ giả của Ðức Chúa tàn phá toàn
cõi Ít-ra-en. Vậy bây giờ xin ngài xem tôi phải trả lời thế nào cho Ðấng đã sai
tôi.” 13 Vua Ða-vít nói với ông Gát: "Tôi lâm vào cảnh rất ngặt
nghèo! Thà tôi sa vào tay Ðức Chúa còn hơn, vì lòng thương của Người rất bao
la; nhưng ước chi tôi đừng sa vào tay người phàm!"
14
Ðức
Chúa giáng ôn dịch xuống Ít-ra-en, và bảy mươi ngàn người trong Ít-ra-en đã gục
ngã. 15 Thiên Chúa sai một thiên sứ đến Giê-ru-sa-lem để tàn phá
thành, nhưng trong cuộc tàn phá thì Ðức Chúa nhìn xem và hối tiếc về tai hoạ
đó, và Người phán bảo thiên sứ đang tàn phá: "Ðủ rồi! Bây giờ rút tay
lại!"
16
Vua
Ða-vít ngước mắt lên, thấy thiên sứ của Ðức Chúa đứng giữa đất và trời, tay
vung gươm trần hướng về Giê-ru-sa-lem. Bấy giờ vua Ða-vít cùng các kỳ mục, mình
khoác bao bị, ngã sấp xuống đất. 17 Vua Ða-vít thưa cùng Thiên Chúa:
"Chẳng phải chính con đã ra lệnh kiểm kê dân số sao? Con mới là kẻ đã phạm
tội, đã làm điều dữ. Còn những người kia, họ chỉ là bầy chiên, họ đâu có làm gì
nên tội! Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của con, xin tay Ngài cứ đè nặng trên con và
nhà cha con, nhưng xin đừng giáng hoạ xuống dân Ngài!"
Dựng
bàn thờ (2 Sm 24:18-25)
18
Bấy
giờ thiên sứ của Ðức Chúa nói với ông Gát: "Hãy bảo Ða-vít lên dựng một
bàn thờ kính Ðức Chúa tại sân lúa của Oóc-nan người Giơ-vút.” 19 Vua
Ða-vít đi lên theo lời ông Gát đã nói nhân danh Ðức Chúa. 20 Khi ông
Oóc-nan trở lại và nhìn thấy thiên sứ, thì bốn người con đang ở bên ông liền đi
tìm chỗ ẩn. Bấy giờ ông Oóc-nan đang đập lúa. 21 Vua Ða-vít vào đến
tận chỗ ông Oóc-nan: khi nhìn thấy vua, ông bỏ sân lúa đi ra và sấp mặt xuống
đất lạy vua. 22 Vua nói với ông: "Hãy nhượng sân lúa cho ta để
ta lấy chỗ xây một bàn thờ kính Ðức Chúa. Cứ nhượng cho ta, ta sẽ trả sòng
phẳng. Có thế, tai hoạ mới ngưng, không còn giáng xuống trên dân nữa.” 23 Ông
Oóc-nan thưa với vua Ða-vít: "Xin đức vua, chúa thượng tôi, cứ lấy sân
lúa, và điều gì ngài cho là tốt thì xin cứ làm. Ngài xem: đã có bò làm lễ toàn
thiêu, có bàn đạp lúa làm củi và có lúa làm lễ phẩm. Tất cả những thứ này, tôi
xin biếu hết.” 24 Nhưng Vua Ða-vít trả lời: "Không! Ta muốn mua
của ngươi, giá cả sòng phẳng, chứ không muốn lấy của ngươi mà dâng lên Ðức Chúa
những lễ toàn thiêu không mất tiền mua.” 25 Vậy vua Ða-vít đã trao
cho ông Oóc-nan số vàng cân nặng sáu ký để mua nơi ấy.
26
Vua
Ða-vít xây một bàn thờ kính Ðức Chúa ở đấy, rồi dâng của lễ toàn thiêu và kỳ
an. Vua kêu cầu Ðức Chúa và Người đã đáp lời, cho lửa từ trời xuống trên bàn
thờ toàn thiêu. 27 Ðức Chúa đã ra lệnh cho thiên sứ tra gươm vào vỏ.
28 Khi vua Ða-vít thấy Ðức Chúa đã đáp lời tại sân lúa của ông
Oóc-nan người Giơ-vút, thì vua đã sát tế tại đó, 29 vì bấy giờ Nhà
Tạm của Ðức Chúa do ông Mô-sê làm trong sa mạc và bàn thờ toàn thiêu vẫn còn ở
trên cao tại Ghíp-ôn. 30 Vua Ða-vít không thể lên thỉnh cầu Thiên
Chúa trên ấy, vì khiếp sợ lưỡi gươm của thiên sứ Ðức Chúa.
Chương 22
1
Vua
Ða-vít nói: "Ðây nhà của Ðức Chúa là Thiên Chúa, và đây bàn thờ để
Ít-ra-en dâng lễ toàn thiêu."
Chuẩn
bị xây Ðền Thờ
2
Vua
Ða-vít truyền tập trung ngoại kiều sống trên đất Ít-ra-en lại và cắt đặt họ làm
thợ đá. Họ phải đẽo những phiến đá dùng để xây nhà của Thiên Chúa. 3 Vua
Ða-vít cũng chuẩn bị rất nhiều sắt để làm đinh đóng cánh cửa và làm móc; còn
đồng thì không cân hết. 4 Gỗ bá hương thì vô số kể, vì người Xi-đôn
và người Tia đã đưa vào cho vua Ða-vít rất là nhiều.
5
Vua
Ða-vít nói: "Sa-lô-môn con ta còn trẻ người non dạ, và ngôi nhà sắp xây
kính Ðức Chúa phải được cả thiên hạ coi là thật nguy nga, lẫy lừng và tráng lệ.
Nào ta hãy chuẩn bị cho nó!" Thế là vua Ða-vít chuẩn bị hết sức chu đáo
trước khi qua đời. 6 Vua gọi thái tử Sa-lô-môn đến và truyền phải
xây một ngôi nhà kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. 7 Vua
Ða-vít nói với Sa-lô-môn: "Con ơi, Cha đã dự định xây một ngôi nhà kính
danh Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha. 8 Nhưng có lời Ðức Chúa phán với
cha rằng: "Ngươi đã đổ máu quá nhiều và đã nhiều phen giao chiến, nên sẽ
không được xây nhà kính danh Ta. Trước mặt Ta, ngươi quả đã làm cho đất thấm
đầy những máu. 9 Này, đứa con ngươi đã sinh ra đó, nó sẽ là người
của bình an, và Ta sẽ cho nó được bình an tư bề, không bị thù địch quấy nhiễu.
Vì thế nó mới mang tên là Sa-lô-môn. Suốt cuộc đời nó, Ta sẽ ban cho Ít-ra-en
được an cư lạc nghiệp. 10 Nó sẽ xây nhà kính danh Ta; nó sẽ là con
đối với Ta, Ta sẽ là cha đối với nó. Ngai vàng của nó trên vương quốc Ít-ra-en,
Ta sẽ củng cố đến muôn đời. 11 Này con, giờ đây xin Ðức Chúa ở với
con, cho con hoàn thành tốt đẹp công trình xây dựng nhà Ðức Chúa, Thiên Chúa
của con, như Người đã phán về con. 12 Chỉ mong sao Ðức Chúa ban cho
con được khôn ngoan sáng suốt khi đặt con lãnh đạo Ít-ra-en, để con tuân giữ lề
luật của Ðức Chúa, Thiên Chúa của con. 13 Chắc chắn con sẽ thành
công, miễn là con để tâm thi hành các quy tắc và lề luật mà Ðức Chúa đã chỉ thị
cho ông Mô-sê truyền lại cho Ít-ra-en. Phải can đảm và cương quyết! Ðừng sợ
hãi, đừng nao núng! 14 Này, cha đã làm hết sức để chuẩn bị cho nhà của Ðức Chúa
ba ngàn tấn vàng, ba mươi ngàn tấn bạc, còn đồng và sắt thì nhiều cân không
hết. Gỗ và đá, cha cũng đã chuẩn bị, nhưng con phải gom thêm nữa. 15 Con
có sẵn nhiều công nhân: thợ đá, nghệ nhân chạm trổ gỗ đá và đủ thứ thợ cao tay
trong mọi ngành nghề. 16 Còn vàng, bạc, đồng, sắt thì nhiều vô kể.
Ðứng lên! Bắt tay vào việc đi! Xin Ðức Chúa ở với con!"
17
Vua
Ða-vít truyền cho tất cả các thủ lãnh trong Ít-ra-en phải giúp thái tử
Sa-lô-môn: 18 "Ðức Chúa, Thiên Chúa các ngươi, không ở với các
ngươi sao? Người lại đã chẳng cho các ngươi được yên ổn tư bề đó sao? Bằng
chứng là Người đã trao vào tay ta cư dân xứ này khiến họ phải thần phục Ðức
Chúa và dân của Người. 19 Giờ đây, hãy hết lòng hết dạ tìm kiếm Ðức
Chúa, Thiên Chúa các ngươi. Ðứng lên đi, xây thánh điện của Ðức Chúa là Thiên
Chúa, rồi đưa Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa với tất cả các đồ thánh dùng trong
việc thờ phượng vào ngôi nhà đã được xây cất kính danh Ðức Chúa."
Chương 23
Chia
nhóm và phân công cho các thầy Lê-vi
1
Lúc
già nua tuổi tác, vua Ða-vít đã đặt thái tử Sa-lô-môn lên làm vua Ít-ra-en. 2
Vua triệu tập tất cả các thủ lãnh trong Ít-ra-en, các tư tế và các thầy Lê-vi.
3
Người
ta đếm số các thầy Lê-vi từ ba mươi tuổi trở lên, tính theo đầu người được ba
mươi tám ngàn thầy. 4 Trong số này, hai mươi bốn ngàn điều hành công
việc nhà Ðức Chúa, sáu ngàn làm ký lục và thẩm phán, 5 bốn ngàn giữ
cửa và bốn ngàn dùng nhạc khí vua Ða-vít đã làm mà ngợi khen Ðức Chúa.
6
Vua
Ða-vít chia họ thành nhiều nhóm theo các con ông Lê-vi là: Ghéc-sôn, Cơ-hát và
Mơ-ra-ri.
7
Các
con ông Ghéc-sôn là: La-đan và Sim-y. 8 Các con ông La-đan: đứng đầu
là Giơ-khi-ên, rồi đến Dê-tham và Giô-en, ba người. 9 Các con ông
Sim-y là Sơ-lô-mít, Kha-di-ên và Ha-ran, ba người. Những người này đứng đầu các
gia tộc ngành La-đan. 10 Các con ông Sim-y là: Gia-khát, Di-na,
Giơ-út và Bơ-ri-a. Ðó là các con ông Sim-y, bốn người tất cả. 11 Ðứng
đầu là ông Gia-khát, thứ dến là ông Di-da, còn các ông Giơ-út và Bơ-ri-a không
có nhiều con, nên họ làm thành một gia tộc, một nhóm duy nhất.
12
Các
con ông Cơ-hát là: Am-ram, Gít-ha, Khép-rôn và Út-di-ên, bốn người. 13 Các
con ông Am-ram là: A-ha-ron và Mô-sê. Ông A-ha-ron được tách riêng -chính ông
cùng con cháu muôn thế hệ- để lo những việc cực thánh, đốt hương trước nhan Ðức
Chúa, phục vụ Chúa và nhân danh Người mà chúc lành cho dân đến muôn đời. 14
Ông Mô-sê là người của Thiên Chúa, còn các con ông chỉ được kể là người
thuộc chi tộc Lê-vi thôi. 15 Các con ông là: Ghéc-sôm và Ê-li-e-de. 16
Các con ông Ghéc-sôm: Sơ-vu-ên đứng đầu. 17 Các con ông
Ê-li-e-de: Rơ-kháp-gia đứng đầu; nhưng ông Ê-li-e-de không có người con nào
khác nữa, trái lại, ông Rơ-kháp-gia thì rất đông con. 18 Các con ông
Gít-ha: Sơ-lô-mít đứng đầu. 19 Các con ông Khép-rôn: Giơ-ri-gia-hu
đứng đầu; thứ hai là A-mác-gia; thứ ba, Gia-kha-di-ên và thứ bốn, Giơ-cam-am. 20
Các con ông Út-di-ên: Mi-kha đứng đầu và thứ hai là Gít-si-gia.
21
Các
con ông Mơ-ra-ri: Mác-li và Mu-si; các con ông Mác-li: E-la-da và Kít. 22 Ông
E-la-da chết, không để lại con trai, chỉ có con gái, nên các con trai ông Kít,
tức là em họ các cô, đã cưới các cô làm vợ. 23 Các con ông Mu-si là
Mác-li, Ê-đe và Giơ-rê-mốt, ba người.
24
Ðó
là con cháu Lê-vi theo từng gia tộc; họ đều là những người đứng đầu các gia
tộc, ai cũng được ghi đích danh trong sổ; họ thi hành công tác phục vụ nhà Ðức
Chúa, từ hai mươi tuổi trở lên.
25
Vua
Ða-vít đã nói: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, đã ban cho dân Người
được an cư và Người ngự tại Giê-ru-sa-lem đến muôn đời. 26 Và các
thầy Lê-vi không còn phải di chuyển Nhà Tạm và các vật dụng dành cho việc phục
vụ nhà đó nữa.” 27 Quả thế, chính vì những lời cuối cùng ấy của vua
Ða-vít mà đã có việc thống kê con cháu Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên. 28 Dưới
quyền con cháu A-ha-ron, họ có bổn phận phục vụ nhà Ðức Chúa trong phạm vi các
sân và các phòng, trong việc thanh tẩy các đồ thánh và nói chung là phục dịch
nhà Thiên Chúa. 29 Họ còn phải quan tâm đến bánh tiến, đến tinh bột
làm lễ phẩm, đến những tấm bánh không men, bánh tráng, cũng như đến mọi dung
lượng và kích thước. 30 Sáng nào họ cũng phải túc trực để tôn vinh
và ngợi khen Ðức Chúa; buổi chiều cũng vậy. 31 Rồi phải túc trực khi
người ta dâng lễ toàn thiêu kính Ðức Chúa, trong các ngày Sa-bát, các ngày
trăng mới, ngày lễ, theo số ngày luật định. Ðó là công tác thường xuyên của họ
trước nhan Ðức Chúa. 32 Họ có bổn phận phục vụ Lều Hội Ngộ cũng như
thánh điện, và hợp tác với các con ông A-ha-ron, anh em của họ, mà lo việc nhà
Ðức Chúa.
Chương 24
Các
nhóm tư tế
1
Con
cháu ông A-ha-ron cũng được chia thành nhiều nhóm. Các con ông A-ha-ron là:
Na-đáp, A-vi-hu, E-la-da và I-tha-ma. 2 Na-đáp và A-vi-hu chết trước
cha mình và không có con, nên E-la-da và I-tha-ma thi hành chức tư tế. 3 Cùng
với ông Xa-đốc trong số các con ông E-la-da, và với ông A-khi-me-léc trong số
các con ông I-tha-ma, vua Ða-vít chia các tư tế thành từng nhóm theo nhiệm vụ
của họ. 4 Hậu quả là các con ông E-la-da đứng đầu các tráng đinh lại
đông hơn các con ông I-tha-ma, và họ được phân chia như sau: mười sáu trưởng
tộc là con ông E-la-da và tám là con ông I-tha-ma. 5 Người ta bốc
thăm để phân chia họ, những người này cũng như những người kia, vì trong các
con ông E-la-da cũng như các con ông I-tha-ma, có những viên chức lo việc thánh
điện, những viên chức của Thiên Chúa. 6 Thư ký là ông Sơ-ma-gia, con
ông Nơ-than-ên, thuộc chi tộc Lê-vi, đã ghi danh họ trước mặt vua Ða-vít và các
thủ lãnh, trước mặt tư tế Xa-đốc và ông A-khi-me-léc con ông Ép-gia-tha, cũng
như trước mặt các trưởng tộc tư tế và Lê-vi: họ rút một thăm cho mỗi gia tộc
thuộc E-la-da và hai thăm cho mỗi gia tộc thuộc I-tha-ma.
7
Thăm
thứ nhất trúng Giơ-hô-gia-ríp, thứ hai trúng Giơ-đa-gia;8 thứ ba trúng Kha-rim,
thứ tư: Xơ-ô-rim, 9 thứ năm: Man-ki-gia, thứ sáu: Mi-gia-min, 10
thứ bảy: Hắc-cốt, thứ tám: A-vi-gia, 11 thứ chín: Giê-su-a,
thứ mười: Sơ-khan-gia-hu, 12 thứ mười một: En-gia-síp, thứ mười hai:
Gia-kim, 13 thứ mười ba: Khúp-pa, thứ mười bốn: Gie-sép-áp, 14 thứ
mười lăm: Bin-ga, thứ mười sáu: Im-me, 15 thứ mười bảy: Khê-dia, thứ
mười tám: Ha-pít-xết, 16 thứ mười chín: Pơ-thác-gia, thứ hai mươi:
Giơ-khét-kên, 17 thứ hai mươi mốt: Gia-khin, thứ hai mươi hai:
Ga-mun, 18 thứ hai mươi ba: Ðơ-la-gia-hu, thứ hai mươi bốn:
Ma-át-gia-hu.
19
Họ
được phân nhóm như thế để vào phục vụ nhà Ðức Chúa theo luật ông A-ha-ron cha
của họ đã quy định như Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en đã truyền.
20
Về
các người con khác của Lê-vi:
Trong
các con ông Am-ram, có Su-va-ên; trong các con ông Su-va-ên, có Giéc-đơ-gia-hu.
21 Về ông Rơ-kháp-gia-hu: trong các con ông Rơ-kháp-gia-hu, đứng đầu
là Gít-si-gia. 22 Trong con cháu ông Gít-ha có Sơ-lô-mốt; trong các
con ông Sơ-lô-mốt, có Gia-khát. 23 Trong các con ông Khép-rôn, thì
Giơ-ri-gia-hu đứng đầu, thứ hai là A-mác-gia-hu, thứ ba là Gia-kha-di-ên, thứ
tư là Giơ-cam-am. 24 Trong các con ông Út-di-ên, có Mi-kha. Trong
các con ông Mi-kha, có Sa-mia. 25 Em ông Mi-kha là Gít-si-gia; trong
các con ông Gít-si-gia, có Dơ-khác-gia-hu. 26 Các con của ông
Mơ-ra-ri: Mác-li và Mu-si. Các cháu của ông do con ông là Gia-a-di-gia-hu sinh
ra. 27 Các cháu của ông Mơ-ra-ri do Gia-a-di-gia-hu con ông sinh ra,
là: Sô-ham, Dắc-cua và Híp-ri. 28 Ông E-la-da con ông Mác-li thì
không có con trai. 29 Về ông Kít: trong các con ông Kít, có
Giơ-rác-mơ-ên. 30 Các con ông Mu-si là: Mác-li, Ê-đe và Giơ-ri-mốt.
Ðó
là con cháu các thầy Lê-vi theo gia tộc tổ tiên của họ. 31 Cũng như
các con cháu ông A-ha-ron anh em của họ, họ được rút thăm trước mặt vua Ða-vít,
ông Xa-đốc, ông A-khi-me-léc và trước mặt các trưởng tộc của hàng tư tế và
Lê-vi; người đứng đầu gia tộc cũng như em út của người ấy đều có thể rút thăm.
Chương 25
Các
ca viên
1
Vua
Ða-vít và các người đứng đầu việc phụng tự cũng tách riêng các con ông A-xáp,
ông Hê-man, và ông Giơ-đu-thun ra để họ lo việc phụng tự. Họ hát những bài ca
được linh hứng theo tiếng đàn sắt, đàn cầm và não bạt.
Số
những người có trách nhiệm phục vụ là:
2
Trong
số các con ông A-xáp: Dắc-cua, Giô-xếp, Nơ-than-gia và A-xác-ê-la; những người
con này của ông A-xáp do ông A-xáp điều khiển, còn ông thì hát thánh ca theo
lệnh của vua.
3
Về
ông Giơ-đu-thun, các con ông Giơ-đu-thun là: Gơ-đan-gia-hu, Xơ-ri,
Giơ-sa-gia-hu, Kha-sáp-gia-hu và Ma-tít-gia-hu, sáu người do cha của họ điều
khiển, còn ông Giơ-đu-thun thì hát những bài ca được linh hứng theo tiếng đàn
cầm để tôn vinh và ca ngợi Ðức Chúa.
4
Về
ông Hê-man, các con ông Hê-man là: Búc-ki-gia-hu, Mát-tan-gia-hu, Út-di-ên,
Sơ-vu-ên, Giơ-ri-mốt, Kha-nan-gia, Kha-na-ni, Ê-li-a-tha, Ghít-đan-ti,
Rôm-mam-ti E-de, Giót-bơ-ca-sa, Ma-lô-ti, Hô-thia, Ma-kha-di-ốt. 5 Tất
cả những người này đều là con ông Hê-man, thầy chiêm của vua, người chuyển lời
Thiên Chúa cho vua để đề cao uy lực của Người. Thiên Chúa ban cho ông Hê-man
mười bốn người con trai và ba người con gái. 6 Dưới quyền điều khiển
của cha họ, tất cả những người ấy ca hát trong Nhà Ðức Chúa với não bạt, đàn
sắt, đàn cầm, để phục vụ Nhà Thiên Chúa theo lệnh của vua.
Các
ông A-xáp, Giơ-đu-thun và Hê-man, 7 được tính chung vào với anh em
của họ là những người thành thạo việc hát xướng kính Ðức Chúa và là những bậc
nhạc sư, tất cả được hai trăm tám mươi tám người. 8 Họ bắt thăm về
phiên công tác phải giữ, nhỏ cũng như lớn, thầy cũng như trò. 9 Thăm
thứ nhất trúng ông Giô-xếp thuộc nhà A-xáp. Thứ hai: ông Gơ-đan-gia-hu; ông với
anh em ông và các con ông là mười hai người. 10 Thứ ba: ông Dắc-cua,
các con ông và anh em ông là mười hai người. 11 Thứ tư: ông Gít-ri,
các con ông và anh em ông là mười hai người. 12 Thứ năm: ông
Nơ-than-gia-hu, các con ông và anh em ông là mười hai người. 13 Thứ
sáu: ông Búc-ki-gia-hu, các con ông và anh em ông là mười hai người. 14 Thứ
bảy: ông Giơ-xác-ê-la, các con ông và anh em ông là mười hai người. 15 Thứ
tám: ông Giơ-sa-gia-hu, các con ông và anh em ông là mười hai người. 16 Thứ
chín: ông Mát-tan-gia-hu, các con ông và anh em ông là mười hai người. 17 Thứ
mười: ông Sim-y, các con ông và anh em ông là mười hai người. 18 Thứ
mười một: ông A-dác-ên, các con ông và anh em ông là mười hai người. 19 Thứ
mười hai: ông Kha-sáp-gia, các con ông và anh em ông là mười hai người. 20
Thứ mười ba: ông Su-va-ên, các con ông và anh em ông là mười hai người. 21
Thứ mười bốn: ông Mát-tít-gia-hu, các con ông và anh em ông là mười hai
người. 22 Thứ mười lăm: ông Giơ-rê-mốt, các con ông và anh em ông là
mười hai người. 23 Thứ mười sáu: ông Kha-nan-gia-hu, các con ông và
anh em ông là mười hai người. 24 Thứ mười bảy: ông Giót-bơ-ca-sa,
các con ông và anh em ông là mười hai người. 25 Thứ mười tám: ông
Kha-na-ni, các con ông và anh em ông là mười hai người. 26 Thứ mười
chín: ông Ma-lô-ti, các con ông và anh em ông là mười hai người. 27 Thứ
hai mươi: ông Ê-li-gia-tha, các con ông và anh em ông là mười hai người. 28
Thứ hai mươi mốt: ông Hô-thia, các con ông và anh em ông là mười hai
người. 29 Thứ hai mươi hai: ông Ghít-đan-ti, các con ông và anh em
ông là mười hai người. 30 Thứ hai mươi ba: ông Ma-kha-di-ốt, các con
ông và anh em ông là mười hai người. 31 Thứ hai mươi bốn: ông
Rôm-mam-ti E-de, các con ông và anh em ông là mười hai người.
Chương 26
Các
người giữ cửa
1
Các
người giữ cửa được chia nhóm như sau: trong hàng con cháu Cô-rắc có
Mơ-se-lem-gia-hu con của Cô-rê là một trong số các con của A-xáp. 2 Các
con của Mơ-se-lem-gia-hu là: Dơ-khác-gia-hu con trưởng, Giơ-đi-a-ên thứ hai,
Dơ-vát-gia-hu thứ ba, Giát-ni-ên thứ tư, 3 Ê-lam thứ năm, Giơ-hô-kha-nan
thứ sáu, En-giơ-hô-ê-nai thứ bảy.
4
Các
con của Ô-vết Ê-đôm là: Sơ-ma-gia con trưởng, Giơ-hô-da-vát thứ hai, Giô-ác thứ
ba, Xa-kha thứ tư, Nơ-than-ên thứ năm, 5 Am-mi-ên thứ sáu, Ít-xa-kha
thứ bảy, Pơ-u-lơ-thai thứ tám. Quả thật, Thiên Chúa đã giáng phúc cho ông. 6
Con của ông là Sơ-ma-gia sinh được những người con có uy thế đối với gia
tộc của họ, vì họ đều là những dũng sĩ có hạng. 7 Các con của
Sơ-ma-gia là: Ót-ni, Rơ-pha-ên, Ô-vét, En-da-bát và anh em ông là Ê-li-hu và
Xơ-mác-gia-hu, những con người dũng cảm. 8 Tất cả những người này là
con cháu của Ô-vết Ê-đôm; họ, các con và anh em họ đều là những con người phục
vụ đầy khả năng và nghị lực: sáu mươi hai người thuộc dòng họ Ô-vết Ê-đôm.
9
Mơ-se-lem-gia-hu
có những người con và những anh em: mười tám người đầy dũng cảm.
10
Khô-xa,
trong các con của Mơ-ra-ri, có những người con: Sim-ri đứng đầu, vì dù ông
không phải con trưởng, cha ông cũng đặt ông đứng đầu; 11 Khin-ki-gia-hu
thứ hai, Tơ-van-gia-hu thứ ba, Dơ-khác-gia-hu thứ tư. Tất cả các con và anh em
của Khô-xa là mười ba người.
12
Theo
số các gia trưởng, những người này được phân thành nhiều nhóm để giữ cửa. Họ
cũng như các anh em họ có trách nhiệm phục vụ nhà Ðức Chúa. 13 Theo
gia tộc, họ bốc thăm cho từng cửa một, kẻ bé cũng như người lớn. 14 Ông
Se-lem-gia-hu bốc thăm trúng phía Ðông. Con ông là Dơ-khác-gia-hu, một cố vấn
khôn ngoan; họ bốc thăm, và ông này trúng phía Bắc. 15 Ông Ô-vết
Ê-đôm trúng phía
Các
nhiệm vụ khác của hàng Lê-vi
20
Các
thầy Lê-vi, anh em của những người trên đây, thì phụ trách các kho Nhà Thiên
Chúa và kho chứa đồ thánh.
21
Giữa
con cháu La-đan thuộc dòng họ Ghéc-sôn, thì các trưởng tộc trong ngành La-đan
thuộc dòng họ Ghéc-sôn chính là con cháu ông Giơ-khi-ên. 22 Các con
ông Giơ-khi-ên là Dê-tham và em là Giô-en phụ trách các kho báu trong Nhà Ðức
Chúa.
23
Về
những người thuộc các ngành Am-ram, Gít-ha, Khép-rôn và Út-di-ên, 24 thì
quản đốc các kho báu là Sơ-vu-ên con của Ghéc-sôm; ông này là con của Mô-sê. 25
Các anh em của Su-va-ên thuộc ngành Ê-li-e-de là: Rơ-kháp-gia-hu con ông,
Giơ-sa-gia-hu con ông, Giô-ram con ông, Dích-ri con ông, Sơ-lô-mít con ông. 26
Ông Sơ-lô-mít này cùng các anh em ông phụ trách tất cả các kho chứa đồ
thánh do vua Ða-vít, các trưởng tộc, các vị chỉ huy một ngàn quân, và các vị
chỉ huy một trăm quân cùng các tướng lãnh quân đội dâng cúng. 27 Những
đồ dâng cúng này lấy ra trong số các chiến phẩm, các vật đã chiếm được, và dùng
để trùng tu Nhà Ðức Chúa. 28 Họ cũng phụ trách tất cả những gì do
thầy chiêm Sa-mu-en, vua Sa-un con ông Kít, ông Áp-ne con ông Ne, ông Giô-áp
con bà Xơ-ru-gia dâng cúng. Tất cả những gì đã được dâng cúng đều được ông
Sơ-lô-mít và các anh em trông coi.
29
Trong
hàng con cháu Gít-ha, ông Cơ-nan-gia-hu cùng các con lo việc dân sự trong
Ít-ra-en với chức vụ ký lục và thẩm phán.
30
Trong
hàng con cháu Khép-rôn, ông Kha-sáp-gia-hu và các anh em, những người dũng cảm,
tất cả là một ngàn bảy trăm, có nhiệm vụ cai quản Ít-ra-en phía tây sông
Gio-đan trong mọi việc của Ðức Chúa và việc phục vụ nhà vua. 31 Trong
hàng con cháu Khép-rôn, đứng đầu là Giơ-ri-gia. Vào năm bốn mươi triều vua
Ða-vít, người ta thực hiện những cuộc điều tra trong hàng ngũ con cháu Khép-rôn
theo gia phả từng gia đình, và đã thấy họ có những chiến sĩ dũng cảm tại Gia-de
vùng Ga-la-át. 32 Anh em của ông, gồm hai ngàn bảy trăm người, là
những người dũng cảm, đứng đầu các gia tộc. Họ được vua Ða-vít đặt cai quản các
người thuộc họ Rưu-vên, họ Gát và một nửa chi họ Ma-na-se trong mọi công việc
của Thiên Chúa và của vua.
Chương 27
Tổ
chức dân sự và quân sự
1
Con
cái Ít-ra-en được thống kê như sau: các trưởng tộc, các vị chỉ huy một ngàn và
chỉ huy một trăm quân, các viên chức của họ, những người phục vụ nhà vua trong
tất cả các việc của các ban, ban trực cũng như ban nghỉ hàng tháng, suốt mười
hai tháng trong năm, mỗi ban gồm hai mươi bốn ngàn người.
2
Phụ
trách ban thứ nhất, tháng thứ nhất: ông Gia-sóp-am, con ông Dáp-đi-ên. Ban của
ông có hai mươi bốn ngàn người. 3 Trong các con ông Pe-rét, thì ông
đứng đầu tất cả các vị chỉ huy quân đội trong tháng đầu. 4 Phụ trách
ban tháng thứ hai: ông Ðô-đai, người A-khô-ác. Ban của ông còn có ông Mích-lốt
đứng đầu. Ban này có hai mươi bốn ngàn người. 5 Chỉ huy đạo quân thứ
ba, tháng thứ ba: ông Bơ-na-gia-hu con tư tế Giơ-hô-gia-đa đứng đầu. Ban của
ông có hai mươi bốn ngàn người. 6 Ông Bơ-na-gia-hu này là một dũng
sĩ trong Nhóm Ba Mươi và đứng đầu Nhóm Ba Mươi. Ban của ông có cả con ông là
A-mi-da-vát.
7
Người
thứ tư, tháng thứ tư: ông A-xa-hên, em ông Giô-áp, và sau ông là ông
Dơ-vát-gia, con ông. Ban của ông có hai mươi bốn ngàn người.
8
Người
thứ năm, tháng thứ năm: đứng đầu là ông Sam-hút, người Gít-rác. Ban của ông có
hai mươi bốn ngàn người. 9 Người thứ sáu, tháng thứ sáu: ông I-ra,
con ông Ích-kết người Tơ-cô-a. Ban của ông có hai mươi bốn ngàn người. 10 Người
thứ bảy, tháng thứ bảy: ông Khe-lét người Pơ-lô-ni, trong hàng con cái Ép-ra-im.
Ban của ông có hai mươi bốn ngàn người. 11 Người thứ tám, tháng thứ
tám: ông Xíp-bơ-khai người Khu-sa, thuộc dòng họ De-rác. Ban của ông có hai
mươi bốn ngàn người. 12 Người thứ chín, tháng thứ chín: ông
A-vi-e-de người A-na-thốt, thuộc chi họ Ben-gia-min. Ban của ông có hai mươi
bốn ngàn người. 13 Người thứ mười, tháng thứ mười: ông Ma-rai người
Nơ-tô-pha, thuộc dòng họ De-rác. Ban của ông có hai mươi bốn ngàn người. 14
Người thứ mười một, tháng thứ mười một: ông Bơ-na-gia người Pia-a-thôn
trong hàng con cháu Ép-ra-im. Ban của ông có hai mươi bốn ngàn người. 15 Người
thứ mười hai, tháng thứ mười hai: ông Khen-đai người Nơ-tô-pha, thuộc dòng họ
Ót-ni-ên. Ban của ông có hai mươi bốn ngàn người. 16 Phụ trách các
chi họ Ít-ra-en: họ Rưu-vên có Ê-li-e-de, con ông Dích-ri, làm thủ lãnh; họ
Si-mê-ôn có ông Sơ-phát-gia-hu, con ông Ma-a-kha; 17 họ Lê-vi có ông
A-kháp-gia, con ông Cơ-mu-ên; ngành A-ha-ron có ông Xa-đốc; 18 họ
Giu-đa có ông Ê-li-hu trong các anh em vua Ða-vít; họ Ít-xa-kha, có ông Om-ri,
con ông Mi-kha-ên; 19 họ Dơ-vu-lun có ông Gít-ma-gia-hu, con ông
Ô-vát-gia-hu; họ Náp-ta-li có ông Giơ-ri-mốt, con ông Át-ri-ên; 20 trong
hàng con cháu Ép-ra-im có ông Hô-sê, con ông A-dát-gia-hu; trong số phân nửa
chi họ Ma-na-se có ông Giô-en, con ông Pơ-đa-gia-hu; 21 trong số
phân nửa họ Ma-na-se miền Ga-la-át, có ông Gít-đô, con ông Dơ-khác-gia-hu; họ
Ben-gia-min có ông Gia-a-xi-ên, con ông Áp-ne; 22 họ Ðan có ông
A-dác-ên, con ông Giơ-rô-kham. Ðó là các thủ lãnh các chi họ Ít-ra-en.
23
Vua
Ða-vít không làm sổ những người từ hai mươi lăm tuổi trở xuống, vì Ðức Chúa đã
hứa sẽ tăng Ít-ra-en lên gấp bội như sao trên trời. 24 Ông Giô-áp,
con bà Xơ-ru-gia, đã bắt đầu việc thống kê, nhưng không kết thúc, vì trong
chuyện này cơn thịnh nộ đã giáng xuống Ít-ra-en. Do đó, con số thống kê ở đây
không cao bằng con số trong Sử biên niên của vua Ða-vít.
25
Phụ
trách các kho của vua có ông Át-ma-vét, con ông A-đi-ên; phụ trách các kho ở
vùng nông thôn, ở thành thị, làng mạc và đồn luỹ, có ông Giơ-hô-na-than, con
ông Út-di-gia-hu. 26 Phụ trách các thợ làm việc ở nông thôn lo canh
tác đất đai, có ông Ét-ri, con ông Cơ-lúp. 27 Phụ trách các vườn
nho, có ông Sim-y người Ra-ma. Phụ trách những người ở trong các vườn nho lo dự
trữ rượu, có ông Dáp-đi người Sơ-pham. 28 Phụ trách cây ô-liu và cây
vả trong vùng Sơ-phê-la, có ông Ba-an Kha-nan người Ghe-đe. Phụ trách kho dự
trữ dầu, có ông Giô-át. 29 Phụ trách bò bê chăn trong đồng Sa-rôn,
có ông Sia-tai người Sa-rôn; phụ trách bò bê trong các thung lũng, có ông
Sa-phát, con ông Át-lai. 30 Phụ trách lạc đà, có ông Ô-vin người
Ít-ma-ên. Phụ trách lừa, có ông Giéc-đơ-gia-hu người Mê-rô-nốt. 31 Phụ
trách chiên dê, có ông Gia-dít người Ha-ga. Tất cả các người này đều là những
viên chức phụ trách tài sản thuộc về vua Ða-vít.
32
Ông
Giơ-hô-na-than, cậu của vua Ða-vít, là cố vấn, một con người sắc sảo và trí
thức; chính ông cùng với ông Giơ-khi-ên, con ông Khác-mô-ni, lo cho các con của
vua. 33 Ông A-khi-thô-phen làm cố vấn cho vua. Ông Khu-sai người
Ác-ki là bạn thân của vua. 34 Sau ông A-khi-thô-phen là ông
Giơ-hô-gia-đa, con ông Bơ-na-gia-hu, và ông Ép-gia-tha; ông Giô-áp làm tổng chỉ
huy quân đội hoàng gia.
Chương 28
Vua
Ða-vít ra chỉ thị về Ðền Thờ
1
Vua
Ða-vít triệu tập về Giê-ru-sa-lem các thủ lãnh trong Ít-ra-en: thủ lãnh các chi
họ, lãnh đạo các ban ngành phục vụ nhà vua, các vị chỉ huy hàng ngàn và hàng
trăm quân, các người quản lý tài sản cũng như súc vật của vua, các người coi
sóc con vua, cùng với các hoạn quan, các dũng sĩ và toàn thể lực lượng tinh
binh. 2 Vua Ða-vít đứng lên và nói:
"Hỡi
anh em, hỡi đồng bào, hãy nghe đây! Ta đã từng ấp ủ trong lòng ý định xây cất
một nhà làm nơi đặt Hòm Bia Giao Ước của Ðức Chúa, làm bệ chân cho Thiên Chúa
chúng ta, và ta đã chuẩn bị cho việc xây cất này. 3 Nhưng Thiên Chúa
đã phán với ta: "Ngươi không được xây nhà kính danh Ta, vì ngươi đã nhiều
phen giao chiến và đổ máu quá nhiều."
4
Giữa
bao nhiêu người trong nhà cha ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, chỉ chọn
ta làm vua cai quản Ít-ra-en đến muôn đời. Quả thật, Người đã chọn Giu-đa lên
lãnh đạo, và trong nhà Giu-đa, chọn nhà thân phụ ta; rồi trong các con của thân
phụ ta, Người đã ưu ái chọn ta làm vua toàn thể Ít-ra-en. 5 Và trong
tất cả các con trai ta - quả Ðức Chúa đã ban cho ta nhiều con trai - Người đã
chọn Sa-lô-môn con ta lên ngự ngai vàng của Ðức Chúa mà cai quản Ít-ra-en. 6
Người đã phán với ta: "Chính Sa-lô-môn, con ngươi, sẽ xây nhà và các
sân của Ta, vì Ta đã chọn nó làm con, và Ta sẽ là cha của nó. 7 Ta
sẽ củng cố vương quyền của nó đến muôn đời nếu nó cố gắng thi hành mệnh lệnh và
luật pháp của ta như hiện nay.
8
Vậy
giờ đây, trước mặt toàn thể Ít-ra-en, đại hội của Ðức Chúa, có Thiên Chúa chúng
ta đang nghe, các ngươi hãy tuân giữ và theo dõi mọi mệnh lệnh của Ðức Chúa,
Thiên Chúa các ngươi. Có thế các ngươi mới tiếp tục chiếm hữu đất nước tốt đẹp
này và sẽ để lại làm gia nghiệp muôn đời cho con cháu mai sau.
9
Phần
con, Sa-lô-môn, con của cha, con hãy nhận biết Thiên Chúa của cha con mà trọn
niềm phụng sự với tâm hồn phấn khởi, vì Ðức Chúa dò xét mọi tâm can và thấu
suốt mọi tư tưởng đang hình thành. Nếu con tìm kiếm Người, Người sẽ cho con
được gặp; nhưng nếu con lìa xa Người, Người sẽ lìa bỏ con. 10 Con cứ
nghĩ mà xem: Ðức Chúa quả đã chọn con để xây một ngôi nhà làm thánh điện. Hãy
cương quyết bắt tay vào việc đi!"
11
Vua
Ða-vít trao cho thái tử Sa-lô-môn mẫu của tiền đường, của các ngôi nhà, kho
chứa, các phòng lầu, phòng trong và cung xá tội. 12 Vua cũng trao
mẫu tất cả các công trình vua dự tính xây: các sân Nhà Ðức Chúa, các phòng
chung quanh dùng làm kho báu của Nhà Thiên Chúa, các nơi cất giữ đồ thánh; 13
các phòng dành cho các ban tư tế và Lê-vi, các phòng dùng vào mọi công
tác phục vụ Nhà Ðức Chúa và các phòng để vật dụng phục vụ Nhà Ðức Chúa. 14
Vua ấn định bao nhiêu vàng cho tất cả các đồ phải làm bằng vàng dùng
trong mỗi công việc, và bao nhiêu bạc cho tất cả các đồ phải làm bằng bạc dùng
trong mỗi công việc; 15 về các trụ đèn bằng vàng cùng với đèn, bao
nhiêu vàng cho mỗi trụ và đèn; về các trụ đèn bằng bạc, bao nhiêu bạc cho mỗi
trụ và đèn, tuỳ theo công dụng của mỗi vật; 16 bao nhiêu vàng cho
các bàn dâng tiến, cho từng bàn một, và bao nhiêu bạc cho các bàn bằng bạc; 17
vàng ròng cho các xiên, các bình rảy và bình rượu tế; cho các chén bằng
vàng, bao nhiêu vàng cho mỗi chén; cho các chén bằng bạc, bao nhiêu bạc cho mỗi
chén; 18 bao nhiêu vàng tinh luyện cho hương án; vua Ða-vít cũng
trao mẫu chiếc xe và mẫu các Kê-ru-bim bằng vàng xoè cánh trên Hòm Bia Giao Ước
của Ðức Chúa. 19 Tất cả đều ở trong một văn bản chính tay Ðức Chúa
viết để cho vua biết rõ mọi chi tiết trong dự án.
20
Vua
Ða-vít nói với thái tử Sa-lô-môn: "Hãy cương quyết và mạnh dạn bắt tay vào
việc! Ðừng sợ hãi, đừng khiếp đảm! Vì Ðức Chúa là Thiên Chúa, Thiên Chúa của
cha, sẽ ở cùng con; Người sẽ không để mặc hoặc bỏ rơi con, nhưng sẽ giúp con
hoàn tất toàn bộ công trình phục vụ Nhà Ðức Chúa. 21 Và này có các
ban tư tế và Lê-vi sẵn sàng lo mọi việc phục dịch Nhà Thiên Chúa. Rồi trong bất
cứ công việc nào, con cũng có sẵn tất cả những người nhiệt tình và thành thạo
mọi chuyện. Các thủ lãnh và toàn dân, hết thảy đều chờ lệnh con."
Chương 29
Các
của dâng cúng
1
Vua
Ða-vít nói với toàn thể đại hội: "Sa-lô-môn con ta, người độc nhất được
Thiên Chúa chọn, hãy còn trẻ người non dạ, mà công việc thì lớn lao, vì ngôi
nhà không phải dành cho một người phàm nào, nhưng là để dâng kính Ðức Chúa là
Thiên Chúa. 2 Vì thế ta đã hết sức chuẩn bị cho Nhà Thiên Chúa của
ta có vàng để làm các đồ phải bằng vàng, bạc để làm các đồ phải bằng bạc, đồng
để làm các đồ phải bằng đồng, sắt để làm các đồ phải bằng sắt, gỗ để làm các đồ
phải bằng gỗ, mã não và ngọc quý, vân thạch nhiều màu sắc, với đủ loại đá quý
và rất nhiều cẩm thạch. 3 Hơn nữa, vì mộ mến Nhà Thiên Chúa của ta,
ngoài những gì ta đã chuẩn bị sẵn cho thánh điện, ta dâng hiến cho Nhà Thiên
Chúa số vàng bạc của riêng ta, gồm: 4 chín mươi tấn vàng và là vàng
Ô-phia, hai trăm mười tấn bạc tinh luyện, để dát tường Ðền Thờ. 5 Còn
vàng để làm các đồ phải bằng vàng, bạc để làm các đồ phải bằng bạc và để làm
mọi công việc mỹ thuật, thì trong các ngươi, ai là người sẵn sàng rộng tay hiến
dâng lên Ðức Chúa hôm nay?"
6
Bấy
giờ các trưởng tộc, các thủ lãnh chi họ Ít-ra-en, các tướng chỉ huy một ngàn và
một trăm quân, và các người đứng đầu trông coi việc nhà vua, tất cả đều tỏ ra
nhiệt tình. 7 Họ dâng cúng vào công cuộc phục vụ Nhà Thiên Chúa: một
trăm năm mươi tấn vàng, mười ngàn đồng Ða-ri-ô, ba trăm tấn bạc, năm trăm bốn
mươi tấn đồng, và ba ngàn tấn sắt. 8 Ai có đá quý thì cúng vào kho
Nhà Ðức Chúa do ông Giơ-khi-ên người họ Ghéc-sôn đảm trách. 9 Dân
chúng vui mừng vì đã tự nguyện dâng các của lễ ấy. Quả họ đã dâng kính Ðức Chúa
với cả tấm lòng thành; chính vua Ða-vít cũng vui mừng khôn tả.
Vua
Ða-vít cảm tạ Thiên Chúa
10
Vua
Ða-vít chúc tụng Ðức Chúa trước mặt toàn thể đại hội, vua nói:
"Lạy
Chúa, là Thiên Chúa Ít-ra-en tổ phụ chúng con,
xin
dâng lên Ngài lời chúc tụng
từ
muôn thuở đến muôn ngàn đời.
11
Lạy
Chúa, Ngài vĩ đại quyền năng,
Ngài
oai vệ, vinh quang, rực rỡ,
vì
mọi sự trên trời dưới đất thuộc về Ngài.
Ngài
nắm giữ vương quyền, lạy Chúa,
và
địa vị tối cao, vượt trên tất cả.
12
Ngài
cũng là nguồn phú quý vinh quang.
Chính
Chúa làm bá chủ muôn loài:
nắm
trong tay dũng lực quyền năng,
nhờ
tay Ngài, tất cả lớn lên và mạnh sức.
13
Giờ
đây, lạy Thiên Chúa chúng con thờ,
xin
dâng Ngài muôn câu cảm tạ
và
ca tụng Danh Thánh hiển vinh.
14
Quả
thật, con là ai và dân của con là gì, mà chúng con cả lòng tự ý dâng hiến như
vậy, vì mọi sự chúng con dâng lên Ngài, đều do Ngài mà có bởi tay Ngài mà ra. 15
Trước mặt Ngài, chúng con chỉ là ngoại kiều và khách trọ, như tất cả cha
ông chúng con. Ngày đời của chúng con trên mặt đất như chiếc bóng thoáng qua,
không để lại dấu vết. 16 Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng con, tất
cả những của cải mà chúng con thu góp đây để xây dựng một ngôi nhà kính thánh
danh Ngài, đều bởi tay Ngài mà có: tất cả là của Ngài. 17 Lạy Thiên
Chúa của con, con biết Ngài là Ðấng dò xét tâm can và ưa thích điều chính trực.
Vì thế, với tấm lòng thành, con đã tự nguyện dâng hiến Ngài tất cả những của
đó. Và bây giờ con vui mừng nhận thấy rằng dân của Ngài đang có mặt nơi đây
cũng tự nguyện dâng hiến cho Ngài như vậy. 18 Lạy Ðức Chúa là Thiên
Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Ít-ra-en tổ phụ chúng con, xin mãi gìn giữ những
ý nguyện và tâm tình ấy trong lòng dân của Ngài và làm cho họ luôn hướng lòng
về Ngài. 19 Xin ban cho Sa-lô-môn con của con, một quả tim tinh
tuyền để nó tuân giữ và thi hành mọi huấn lệnh, chỉ thị và quy tắc của Ngài, và
để nó xây Ðền Thờ con đã chuẩn bị dâng kính Ngài."
20
Vua
Ða-vít nói với toàn thể đại hội: "Hãy chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa các
ngươi!" Và toàn thể đại hội chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa của cha ông
họ, rồi họ phủ phục bái lạy Ðức Chúa và đức vua.
Vua
Sa-lô-môn lên ngôi vua Ða-vít băng hà
21
Ngày
hôm sau họ sát tế lễ vật kính Ðức Chúa và dâng lễ vật toàn thiêu lên Ðức Chúa:
một ngàn bò mộng, một ngàn dê, một ngàn chiên -, cùng với rượu tế và lễ vật hy
sinh rất nhiều cầu cho toàn thể Ít-ra-en. 22 Ngày hôm ấy, họ hân
hoan tưng bừng ăn uống trước nhan Ðức Chúa. Lần thứ hai họ phong Sa-lô-môn con
vua Ða-vít làm vua, rồi họ xức dầu phong ông làm nhà lãnh đạo phục vụ Ðức Chúa,
và phong ông Xa-đốc làm tư tế. 23 Sa-lô-môn ngự trên ngai của Ðức
Chúa, làm vua kế vị vua cha là Ða-vít và vua đã thành công. Toàn dân Ít-ra-en
vâng phục vua. 24 Tất cả các thủ lãnh, các dũng sĩ và tất cả các con
vua Ða-vít cũng đều phục quyền vua Sa-lô-môn. 25 Ðức Chúa làm cho
vua Sa-lô-môn nên cao trọng tuyệt vời đối với toàn thể Ít-ra-en, và ban cho vua
một vẻ oai phong vương giả, chưa có một vua nào trong Ít-ra-en trước đó được
như vậy.
26
Vua
Ða-vít, con của ông Gie-sê, đã cai trị toàn thể Ít-ra-en. 27 Thời
gian vua trị vì Ít-ra-en là bốn mươi năm: vua trị vì bảy năm tại Khép-rôn, và
tại Giê-ru-sa-lem ba mươi ba năm. 28 Vua băng hà sau khi hưởng tuổi
già hạnh phúc, được trường thọ, đầy phú quý và vinh hoa. Thái tử Sa-lô-môn lên
làm vua kế vị. 29 Truyện vua Ða-vít từ đầu đến cuối, vẫn còn được
ghi chép trong sách Sử của thầy chiêm Sa-mu-en, trong sách Sử của ngôn sứ
Na-than và trong sách Sử của thầy chiêm Gát, 30 cùng với tất cả
những gì liên quan đến triều đại và các chiến công của vua, những bước thăng
trầm của vua, của Ít-ra-en và của mọi vương quốc lân cận.
Sử Biên Niên
2
Chương 01
III.
Vua Sa-Lô-Môn Với Việc Xây Cất Ðền Thờ
Vua
Sa-lô-môn được ơn Khôn Ngoan (1 V 3:1-15; 10:26-29)
1
Vua
Sa-lô-môn, con vua Ða-vít, nắm vững vương quyền của mình. Ðức Chúa, Thiên Chúa
của vua, ở với vua và làm cho vua nên cao trọng tuyệt vời. 2 Vua ngỏ
lời với toàn thể Ít-ra-en, với các vị chỉ huy một ngàn, và chỉ huy một trăm
quân, các thẩm phán, tất cả các thủ lãnh của toàn thể Ít-ra-en, các trưởng tộc.
3 Vua Sa-lô-môn và toàn thể đại hội cùng lên nơi cao ở Ghíp-ôn, vì ở
đó có Lều Hội Ngộ của Thiên Chúa mà ông Mô-sê, tôi tớ của Ðức Chúa, đã làm
trong sa mạc. 4 Nhưng Hòm Bia của Thiên Chúa, thì vua Ða-vít đã đưa
lên từ Kia-giát Giơ-a-rim đến nơi vua Ða-vít đã dọn sẵn, vì vua đã dựng lều cho
Hòm Bia ở Giê-ru-sa-lem. 5 Còn bàn thờ bằng đồng mà ông Bơ-xan-ên,
con ông U-ri, cháu ông Khua, đã làm, thì vẫn còn đó, trước Nhà Ðức Chúa ngự;
vua Sa-lô-môn và đại hội đến thỉnh ý Ðức Chúa ở đó. 6 Vậy vua
Sa-lô-môn tiến lên bàn thờ bằng đồng, trước nhan Ðức Chúa, bên cạnh Lều Hội
Ngộ, và dâng một ngàn lễ vật toàn thiêu trên bàn thờ đó.
7
Ðêm
ấy Thiên Chúa hiện ra với vua Sa-lô-môn và phán: "Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ
ban cho.” 8 Vua Sa-lô-môn thưa với Thiên Chúa: "Chính Ngài đã
lấy lòng nhân hậu lớn lao mà xử với vua Ða-vít thân phụ con và đặt con lên ngôi
kế vị người. 9 Giờ đây, lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa, xin cho lời Ngài
phán với vua Ða-vít thân phụ con được ứng nghiệm, vì Ngài đã đặt con làm vua
cai trị một dân đông như bụi đất. 10 Vậy xin Ngài ban cho con được
khôn ngoan và hiểu biết để con lãnh đạo dân này, vì ai cai quản được dân của
Chúa, một dân lớn như thế này?"
11
Thiên
Chúa phán với vua Sa-lô-môn: "Vì ngươi có những tâm tư như thế, - ngươi đã
không xin cho được giàu sang, phú quý và vinh quang, cũng không xin cho những
kẻ ghét ngươi phải chết, hay cho bản thân ngươi được sống lâu, mà chỉ xin cho
ngươi được khôn ngoan và hiểu biết để lãnh đạo dân Ta, dân mà Ta đã đặt ngươi
làm vua cai trị -, 12 cho nên ngươi sẽ được khôn ngoan và hiểu biết.
Hơn nữa, giàu sang, phú quý và vinh quang, Ta cũng sẽ ban cho ngươi, đến nỗi
trước và sau ngươi, không có vua nào sánh với ngươi được."
13
Ra
khỏi Lều Hội Ngộ, vua Sa-lô-môn đã rời nơi cao tại Ghíp-ôn mà trở về
Giê-ru-sa-lem trị vì Ít-ra-en. 14 Vua Sa-lô-môn tập trung xe và
ngựa, xe có một ngàn bốn trăm cỗ và ngựa có mười hai ngàn con. Vua để chúng ở
các thành có xe bên cạnh vua tại Giê-ru-sa-lem. 15 Vua đã làm cho
bạc vàng ở Giê-ru-sa-lem ra thường như sỏi đá, còn bá hương thì nhiều như sung
ở miền Sơ-phê-la. 16 Ngựa của vua Sa-lô-môn được nhập từ Ai-cập và
Cơ-vê; các thương gia của vua đến tận Cơ-vê mua ngựa theo đúng giá. 17 Họ
cũng lên Ai-cập mua xe về, mỗi cỗ sáu trăm bạc; ngựa thì một trăm năm chục một
con. Họ cũng đứng ra mua bán như vậy cho các vua Khết và các vua A-ram.
Những
chuẩn bị cuối cùng. Ông Khu-ram thành Tia. (1 V 5:1-18)
18
Vua
Sa-lô-môn ra lệnh xây một ngôi nhà kính danh Ðức Chúa và xây hoàng cung cho
mình.
Chương 02
1
Vua
Sa-lô-môn đã lên danh sách bảy mươi ngàn phu khuân vác, tám mươi ngàn thợ đá
trên núi và ba ngàn sáu trăm đốc công.
2
Vua
Sa-lô-môn sai sứ đến nói với Khi-ram, vua thành Tia rằng: "Xin ngài cũng
giúp tôi, như đã giúp vua Ða-vít thân phụ tôi là gửi gỗ bá hương cho thân phụ
tôi xây nhà ở. 3 Nay tôi cũng sắp xây nhà kính Ðức Chúa, Thiên Chúa
của tôi, ngôi nhà dành riêng cho Người, để đốt hương thơm trước nhan Người, để
có bánh tiến luôn đặt trước mặt Người, để cứ sáng chiều dâng lễ toàn thiêu, và
dâng trong các ngày sa-bát, các ngày sóc và các lễ kính Ðức Chúa, Thiên Chúa
của chúng tôi, như đã quy định cho Ít-ra-en đến muôn đời. 4 Và ngôi
nhà tôi sắp xây phải thật nguy nga, vì Thiên Chúa của chúng tôi vĩ đại hơn chư
thần hết thảy. 5 Thế nhưng, ai nào xây nổi một ngôi nhà cho Chúa, vì
cả chín tầng trời thăm thẳm cũng không chứa nổi Người? Vậy tôi là ai mà dám xây
nhà cho Chúa, dù chỉ là để đốt hương trước nhan Người? 6 Bây giờ xin ngài gửi
cho tôi tay thợ nào thạo nghề vàng, bạc, đồng, sắt, vải điều, vải đỏ son, vải
đỏ thẫm, và còn biết chạm trổ những hình nổi. Người đó sẽ làm việc với các thợ
lành nghề tôi có sẵn tại Giê-ru-sa-lem và tại Giu-đa do vua Ða-vít thân phụ tôi
để lại. 7 Xin gửi cho tôi gỗ bá hương, gỗ trắc và gỗ đàn hương vùng
Li-băng, vì tôi biết bề tôi của ngài quen đốn gỗ Li-băng. Tôi tớ của tôi sẽ
cộng tác với bề tôi của ngài, 8 để chuẩn bị cho tôi thật nhiều gỗ,
vì ngôi nhà tôi sắp xây sẽ nguy nga kỳ diệu. 9 Và đây, tôi sẽ cung
cấp cho thợ đốn gỗ bốn trăm ngàn thùng lúa mì, bốn trăm ngàn thùng lúa mạch,
bốn mươi ngàn thùng rượu nho, bốn mươi ngàn thùng dầu. Ðó là lương thực cho bề
tôi của ngài."
10
Khi-ram,
vua thành Tia, viết và gửi đến vua Sa-lô-môn lá thư phúc đáp như sau: "Vì
Ðức Chúa thương dân Người, nên Người mới đặt ngài làm vua cai trị họ.” 11 Và
vua Khi-ram nói: "Chúc tụng Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, Ðấng tạo thành
trời đất, Ðấng đã ban cho vua Ða-vít một người con khôn ngoan, sáng suốt, thành
thạo và hiểu rộng biết nhiều để xây nhà kính Ðức Chúa và xây cung điện cho mình.
12 Vậy, bây giờ tôi sẽ gửi đến cho ngài một người khôn ngoan, hiểu
rộng và sáng suốt là Khi-ram A-vi. 13 Mẹ của anh ta là một người phụ
nữ họ Ðan, còn cha là người thành Tia. Anh ta biết làm các đồ vàng, bạc, đồng,
sắt, đá, gỗ, vải điều, vải đỏ thẫm, trúc bâu, vải đỏ son. Anh còn biết chạm trổ
mọi thứ hình nổi và sáng tạo bất cứ tác phẩm mỹ nghệ nào người ta đặt. Anh sẽ
làm việc cùng với các nghệ nhân của ngài và các nghệ nhân của chúa thượng tôi
là Ða-vít thân phụ ngài. 14 Giờ đây, lúa mì, lúa mạch, dầu, rượu mà
ngài đã hứa, thì xin cứ gửi cho các tôi tớ của ngài.
15
Chúng
tôi sẽ đốn gỗ Li-băng theo nhu cầu của ngài, và sẽ đóng bè đem đến Gia-phô cho
ngài theo đường biển, rồi ngài sẽ liệu chuyên chở lên Giê-ru-sa-lem."
Tiến
hành công việc (1 V 6:1-38)
16
Vua
Sa-lô-môn làm sổ thống kê các ngoại kiều cư ngụ trên đất Ít-ra-en, theo thống
kê phụ vương Ða-vít đã làm, tất cả được một trăm năm mươi ba ngàn sáu trăm
người. 17 Trong số này, vua đặt bảy mươi ngàn làm phu khuân vác, tám
mươi ngàn làm thợ đá trên núi và ba ngàn sáu trăm làm đốc công để điều động dân
chúng làm việc.
Chương 03
1
Vua
Sa-lô-môn khởi công xây Nhà Ðức Chúa tại Giê-ru-sa-lem trên núi Mô-ri-gia, nơi
Ðức Chúa đã hiện ra với phụ vương Ða-vít. Ðó là nơi vua Ða-vít đã chuẩn bị,
trước kia là sân lúa của ông Oóc-nan người Giơ-vút. 2 Vua đã khởi
công vào ngày mồng hai, tháng thứ hai, năm thứ tư triều đại vua. 3 Ðây
là kích thước vua Sa-lô-môn ấn định để xây Nhà của Thiên Chúa: tính theo lối đo
cũ, thì chiều dài là ba mươi thước, chiều rộng mười thước. 4 Tiền
đình ở đàng trước dài mười thước, bằng chiều ngang của ngôi Nhà; chiều cao là
sáu mươi thước. Phía trong, vua dát vàng ròng. 5 Phòng lớn thì vua
ghép gỗ trắc, rồi dát vàng tốt và khắc trên đó những cây chà là và những tràng
hoa. 6 Ðể tăng thêm vẻ đẹp, vua dùng đá quý dát nhà; còn vàng thì
vua dùng vàng Pác-va-gim. 7 Vua dát vàng khắp nhà: xà nhà, ngưỡng
cửa, tường và cánh cửa; rồi khắc hình Kê-ru-bim lên tường.
8
Vua
làm Nơi Cực Thánh: chiều dài bằng chiều rộng của ngôi nhà là mười thước, và
chiều rộng cũng là mười thước; rồi dát hết mười tám ngàn ký vàng tốt. 9 Ðinh
cũng bằng vàng, tất cả nặng đến nửa ký; vua dát vàng cả các phòng lầu nữa. 10
Tại Nơi Cực Thánh, vua làm hai Kê-ru-bim, đó là những tác phẩm điêu khắc
bọc vàng. 11 Cánh các Kê-ru-bim cộng lại dài mười thước: một cánh
của vị thứ nhất dài hai thước rưỡi, chạm tường nhà, cánh kia cũng dài hai thước
rưỡi, chạm cánh của Kê-ru-bim thứ hai. 12 Một cánh của Kê-ru-bim thứ
hai, dài hai thước rưỡi, chạm tường nhà; còn cánh kia thì chạm cánh của
Kê-ru-bim thứ nhất. 13 Hai cánh của hai Kê-ru-bim xoè ra đo được
mười thước; các vị đứng thẳng, mặt quay vào trong Nhà.
14
Vua
làm màn bằng vải đỏ thẫm, vải điều, vải đỏ son và trúc bâu, và thêu lên đó các
Kê-ru-bim.
15
Trước
Ðền Thờ, vua cho dựng hai trụ cao mười bảy thước rưỡi, trên đỉnh mỗi trụ có một
đầu trụ hai thước rưỡi. 16 Vua làm các tràng hoa như những sợi dây
chuyền và đặt trên các đỉnh trụ; vua còn làm một trăm trái thạch lựu và đặt vào
các tràng hoa. 17 Vua dựng các cột trụ trước cung Hê-khan, một trụ
bên phải, một trụ bên trái; trụ bên phải vua gọi là Gia-khin, trụ bên trái là
Bô-át.
Chương 04
1
Vua
làm một bàn thờ bằng đồng dài mười thước, cao năm thước. 2 Vua đúc
một bể nước, rộng năm thước từ mép nọ tới mép kia, hình tròn, cao hai thước
rưỡi; lấy dây mà đo chu vi của bể thì được mười lăm thước. 3 Bên
dưới mép bể có hình những con vật giống con bò vòng quanh bể, cứ nửa thước là
mười con, khắp chung quanh bể; hai hàng bò cùng đúc một lượt với bể. 4 Bể
được đặt trên mười hai con bò: ba con quay mặt về hướng Bắc, ba con quay mặt về
hướng Tây, ba con quay mặt về hướng Nam và ba con quay mặt về hướng Ðông; bể
đặt bên trên chúng, và các phần mông của chúng đều quay vào trong. 5 Chiều
dày của bể là một tấc, và mép nó giống như mép một cái chén hình hoa huệ. Bể
chứa được sáu ngàn thùng.
6
Vua
làm mười bồn nước và đặt năm chiếc bên phải, năm chiếc bên trái, dùng để thanh
tẩy các lễ vật toàn thiêu; người ta rửa các lễ vật trong các bồn ấy, còn bể
nước thì dành cho việc thanh tẩy các tư tế. 7 Vua làm mười trụ đèn
bằng vàng như đã quy định và đặt trong cung Hê-khan, năm trụ bên phải, năm trụ
bên trái. 8 Vua làm mười chiếc bàn, đặt trong cung Hê-khan, năm
chiếc bên phải, năm chiếc bên trái. Vua làm một trăm bình rảy bằng vàng.
9
Vua
làm sân các tư tế và sân lớn; các cửa sân lớn được dát đồng. 10 Còn
bể nước thì vua đặt ở bên phải về hướng Ðông
11
Ông
Khi-ram làm những chiếc vạc, những cái xẻng và bình rảy. Ông Khi-ram hoàn thành
tất cả công trình mà ông đã thực hiện cho vua Sa-lô-môn trong Ðền Thờ Thiên
Chúa:
12
Hai
trụ, các bầu của các đầu trụ trên hai đỉnh trụ; 13 bốn trăm trái
thạch lựu cho hai màng lưới, mỗi màng lưới hai hàng thạch lựu để bọc hai bầu
của các đầu trụ trên đỉnh trụ;
14
mười
cái giàn và mười cái bồn đặt trên giàn;
15
một
cái bể và mười hai con bò đỡ phía dưới;
16
những
chiếc vạc, những cái xẻng và xiên. Tất cả các vật dụng này, ông Khi-ram A-vi đã
làm bằng đồng đánh bóng để vua Sa-lô-môn đặt trong Nhà Ðức Chúa. 17 Vua
đúc các vật ấy tại đồng bằng Gio-đan, trên mặt đất sét, giữa Xúc-cốt và
Xơ-rê-đa. 18 Vua Sa-lô-môn đã làm các vật dụng ấy nhiều vô kể; số
lượng đồng thì không tính hết.
19
Vua
Sa-lô-môn đã làm tất cả các vật dụng cho Nhà của Thiên Chúa: bàn thờ bằng vàng,
bàn đặt bánh tiến cũng vậy; 20 các trụ đèn và đèn đều bằng vàng
ròng; đèn phải cháy sáng trước Nơi Cực Thánh như đã quy định; 21 hoa,
đèn, kéo cắt bấc bằng vàng, thứ vàng hảo hạng; 22 dao, bình rảy,
chén và bình hương đều bằng vàng ròng. Về cửa Ðền Thờ thì các cánh cửa bên
trong của Nơi Cực Thánh cũng như các cánh cửa Ðền Thờ dẫn vào cung Hê-khan đều
bằng vàng.
Chương 05
1
Thế
là hoàn thành toàn bộ công trình Ðền Thờ của Ðức Chúa do vua Sa-lô-môn thực
hiện. Vua Sa-lô-môn đưa vào đó các vật thánh mà vua Ða-vít, thân phụ ông đã
dâng: bạc, vàng, các vật dụng: vua đặt các vật ấy trong kho Nhà Thiên Chúa.
Di
chuyển Hòm Bia Giao Ước (1 V 8:1-9)
2
Bấy
giờ vua Sa-lô-môn triệu tập về Giê-ru-sa-lem các kỳ mục Ít-ra-en, tất cả các
người đứng đầu các chi tộc cùng các trưởng tộc con cái Ít-ra-en để đưa Hòm Bia
Giao Ứớc của Ðức Chúa lên từ Thành vua Ða-vít tức là Xi-on. 3 Mọi
người Ít-ra-en tập hợp lại bên nhà vua để mừng lễ. Ðó là tháng thứ bảy. 4 Tất
cả các kỳ mục Ít-ra-en đều tới; các thầy Lê-vi thì khiêng Hòm Bia, 5 và
đưa Hòm Bia cũng như Lều Hội Ngộ và tất cả các vật dụng thánh trong Lều lên.
Các tư tế và các thầy Lê-vi đưa những thứ ấy lên.
6
Vua
Sa-lô-môn và toàn thể cộng đồng Ít-ra-en tụ họp lại bên cạnh vua trước Hòm Bia,
sát tế chiên bò nhiều vô kể không sao đếm nổi. 7 Các tư tế đưa Hòm
Bia Giao Ước của Ðức Chúa vào nơi đã dành sẵn trong cung Ðơ-via của Ðền Thờ,
tức là Nơi Cực Thánh, dưới cánh các Kê-ru-bim. 8 Quả vậy, các
Kê-ru-bim xoè cánh ra bên trên Hòm Bia, che phía trên Hòm Bia và các đòn khiêng.
9 Các đòn này dài đến nỗi từ Cung Thánh, trước Nơi Cực Thánh, có thể
nhìn thấy các đầu đòn, nhưng từ bên ngoài thì không thấy được. Các đòn này vẫn
còn đó cho tới ngày nay. 10 Trong Hòm Bia không có gì ngoài hai Bia
đá ông Mô-sê đã đặt vào đó, trên núi Khô-rép, khi Ðức Chúa lập Giao Ước với con
cái Ít-ra-en vào thời họ ra khỏi đất Ai-cập.
Thiên
Chúa ngự xuống Ðền Thờ (1 V 8:11-13)
11
Sau
đó, các tư tế ra khỏi Cung Thánh. Quả thật, tất cả các tư tế có mặt đều đã được
thánh hoá, không theo thứ tự ban nhóm. 12 Các thầy Lê-vi làm ca viên
có mặt đầy đủ: A-xáp, Hê-man, Giơ-đu-thun, cùng với con cháu và anh em của họ.
Họ mặc trúc bâu, mang não bạt, đàn sắt, đàn cầm, đứng phía đông bàn thờ; cùng
với họ có một trăm hai mươi tư tế thổi kèn. 13 Họ thổi kèn và ca
hát, cùng nhau cất tiếng tung hô và ngợi khen Ðức Chúa. Họ cất tiếng hát cùng
với tiếng kèn, tiếng não bạt và các nhạc cụ khác, để tung hô Ðức Chúa, "vì
Chúa nhân từ, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương." Vậy khi các tư
tế ra khỏi Cung Thánh, thì có đám mây toả đầy Ðền Thờ Ðức Chúa.
14
Các
tư tế không thể tiếp tục thi hành nhiệm vụ được vì đám mây. Quả thật, vinh
quang Ðức Chúa đã tràn ngập Ðền Thờ của Thiên Chúa.
Chương 06
1
Bấy
giờ vua Sa-lô-môn nói:
"Ðức
Chúa đã phán là Người sẽ ngự trong đám mây dày đặc.
2
Nhưng
chính con, con đã xây cho Ngài một ngôi nhà cao sang, một nơi để Ngài ngự muôn
đời."
Vua
Sa-lô-môn hiệu triệu dân chúng (1 V 8:14-21)
3
Rồi
vua quay mặt lại chúc lành cho toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, trong khi cả cộng
đồng Ít-ra-en đều đứng. 4 Vua nói:
5
"Từ
ngày Ta đưa dân Ta ra khỏi đất Ai-cập, Ta đã không chọn một thành nào trong tất
cả các chi tộc Ít-ra-en để xây một ngôi nhà kính Danh Ta ở đó; Ta cũng chẳng
chọn một người nào làm lãnh đạo Ít-ra-en dân Ta. 6 Nhưng Ta đã chọn
Giê-ru-sa-lem làm nơi cho Danh Ta ngự, và chọn Ða-vít đứng đầu Ít-ra-en dân Ta.
7
Vậy
Ða-vít thân phụ ta đã có ý xây một ngôi nhà để kính Danh Ðức Chúa, Thiên Chúa
của Ít-ra-en. 8 Nhưng Ðức Chúa lại phán với Ða-vít thân phụ ta:
"Ngươi định tâm xây một ngôi nhà để kính Danh Ta; ngươi định tâm như thế
là tốt. 9 Có điều là ngươi sẽ không xây nhà ấy, mà con của ngươi, kẻ
từ lòng ngươi sinh ra, chính nó sẽ xây nhà để kính Danh Ta. 10 Ðức
Chúa đã thực hiện lời Người phán; ta đã lên kế vị Ða-vít thân phụ ta và ngồi
trên ngai Ít-ra-en, như Ðức Chúa đã phán; ta đã xây nhà để kính Danh Ðức Chúa,
Thiên Chúa của Ít-ra-en, 11 nơi đó ta đã đặt Hòm Bia có Giao Ước của
Ðức Chúa, Giao Ước Người đã thiết lập với con cái Ít-ra-en."
Vua
Sa-lô-môn cầu nguyện (1 V 8 :22-29
12
Rồi
vua Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ Ðức Chúa, trước toàn thể cộng đồng Ít-ra-en và
giang tay ra. 13 Vua đã làm một cái bục bằng đồng đặt ở giữa sân;
bục dài hai thước rưỡi, rộng hai thước rưỡi, cao một thước rưỡi. Vua đứng trên
đó, rồi quỳ gối xuống. Trước toàn thể cộng đồng Ít-ra-en, vua giơ tay lên trời
14 và thưa:
"Lạy
Ðức Chúa là Thiên Chúa Ít-ra-en, trên trời cũng như dưới đất, chẳng có thần nào
giống như Ngài. Ngài vẫn giữ giao ước và tình thương đối với các tôi tớ Ngài,
khi họ hết lòng bước đi trước nhan Ngài. 15 Ngài đã giữ lời Ngài đã
phán với tôi tớ Ngài là Ða-vít thân phụ con, vì điều chính miệng Ngài phán, thì
tay Ngài đã thực hiện, như thấy hôm nay. 16 Giờ đây, lạy Ðức Chúa,
Thiên Chúa của Ít-ra-en, xin Ngài cũng giữ điều Ngài đã hứa với tôi tớ Ngài là
Ða-vít thân phụ con là: "Bao lâu con cái ngươi giữ đúng đường lối của
chúng, là bước đi trong lề luật của Ta, như ngươi đã bước đi trước nhan Ta, thì
ngươi sẽ không bao giờ thiếu người ngồi trên ngai báu Ít-ra-en. 17 Vậy,
lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa của Ít-ra-en, xin thực hiện lời Ngài đã phán với
Ða-vít thân phụ con! 18 Có thật Thiên Chúa cư ngụ với người phàm dưới đất
chăng? Này, trời cao thăm thẳm kia còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà
con đã xây đây! 19 Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa của con, xin đoái đến lời tôi tớ
Chúa cầu xin khẩn nguyện, mà lắng nghe tiếng kêu cầu của tôi tớ Ngài dâng trước
Tôn Nhan. 20 Xin Ngài để mắt nhìn đến ngôi nhà này ngày đêm, nhìn
đến nơi đây, vì Ngài đã phán Danh Ngài sẽ ở đấy. Xin Ngài lắng nghe lời nguyện
tôi tớ Ngài dâng ở nơi đây.
Cầu
cho dân (1 V 8:30-51)
21
Xin
nghe lời nài van của tôi tớ Ngài và của Ít-ra-en dân Ngài dâng lên ở nơi đây.
Từ trời, nơi Ngài ngự, xin lắng nghe; xin lắng nghe và tha thứ.
22
Nếu
có ai xúc phạm đến đồng loại, và người ta lấy lời thề độc mà buộc nó phải đến
thề trước Bàn Thờ của Ngài trong Ðền Thờ này, 23 thì từ trời xin
Ngài lắng nghe và hành động; xin phân xử cho các tôi tớ Ngài, là lên án kẻ có
lỗi mà bắt nó phải cúi đầu chịu tội; còn người vô tội thì Ngài minh oan cho họ
được vô can.
24
Nếu
Ít-ra-en dân Ngài bị quân thù đánh bại vì đã xúc phạm đến Ngài, và nếu họ trở
lại với Ngài mà tuyên xưng Danh Ngài và cầu xin, khẩn nài trong Ðền Thờ này, 25
thì từ trời xin Ngài lắng nghe, thứ tha tội lỗi Ít-ra-en dân Ngài và đưa
họ về đất Ngài đã ban cho cha ông họ.
26
Khi
trời đóng lại và không có mưa vì họ đã xúc phạm đến Ngài, nếu họ cầu nguyện nơi
đây, tuyên xưng Danh Ngài, bỏ tội lỗi mà trở về, vì Ngài đã làm cho họ khổ cực,
27 thì từ trời, xin Ngài lắng nghe và tha thứ tội lỗi cho các tôi tớ
Ngài và cho Ít-ra-en dân Ngài, để họ thấy con đường lành phải theo, và xin cho
mưa nhuần tưới xuống trên phần đất Ngài đã ban cho dân Ngài làm sản nghiệp.
28
Khi
trong xứ có nạn đói kém, dịch hạch, khi mùa màng hư hoại, khi có nạn châu chấu
cào cào, khi quân thù vây hãm một thành nào của họ, trong bất cứ tai hoạ hay
bệnh tật nào, 29 mọi lời cầu nguyện, khấn xin của bất cứ ai hoặc
toàn thể Ít-ra-en dân Ngài dâng lên, vì thấy lương tâm cắn rứt mà giơ tay hướng
về Ðền Thờ này, 30 thì từ trời là nơi Ngài ngự, xin Ngài lắng nghe,
tha thứ và ban ơn cho mỗi người tuỳ theo lối sống của họ, bởi vì Ngài biết lòng
họ - quả thật chỉ mình Ngài biết rõ lòng con cái loài người. 31 Ngõ
hầu họ kính sợ Ngài mà bước đi trên đường lối Ngài, bao lâu họ còn sống trên
phần đất mà Ngài đã ban cho cha ông chúng con.
32
Ngay
cả với người ngoại kiều không thuộc về Ít-ra-en dân Ngài, nếu nó từ phương xa
tới - vì đã được biết Danh Ngài cao cả, bàn tay Ngài dũng mãnh và cánh tay Ngài
gương cao -, nếu nó đến cầu nguyện trong Ðền Thờ này, 33 thì từ trời
nơi Ngài ngự, xin lắng nghe và thực hiện mọi điều kẻ ngoại kiều ấy kêu xin, để
cho mọi dân trên mặt đất nhận biết Danh Ngài và kính sợ Ngài, như Ít-ra-en dân
Ngài, và để họ biết là Danh Ngài được kêu cầu nơi Ðền Thờ con đã xây lên đây.
34
Nếu
dân Ngài xuất trận chống quân thù theo đường lối Ngài sai họ đi, và nếu họ cầu
nguyện với Ngài, hướng về kinh thành Ngài đã chọn, và Ðền Thờ con đã xây kính
Danh Ngài, 35 thì từ trời, xin Ngài nghe lời họ cầu nguyện van xin
mà xét xử công minh cho họ.
36
Nếu
họ xúc phạm đến Ngài - thật thì không người nào mà không phạm tội -, khiến Ngài
phải thịnh nộ với họ mà trao họ cho thù địch, và những kẻ chiến thắng đày họ
sang một xứ xa hay gần, 37 nhưng rồi ở trên đất lưu đày, họ hồi tâm
trở lại và van xin Ngài trên đất lưu đày rằng: "Chúng con đã phạm tội, đã
làm điều gian ác, chúng con thật đáng tội! 38 nếu trên đất, nơi họ bị lưu đày,
họ hết lòng hết sức trở về với Ngài và cầu nguyện với Ngài, hướng về xứ sở Ngài
đã ban cho tổ tiên họ, về kinh thành Ngài đã chọn, và Ðền Thờ con đã xây kính
Danh Ngài, 39 thì từ trời nơi Ngài ngự, xin Ngài nghe lời họ cầu
nguyện van xin mà xét xử công minh cho họ, và tha thứ cho dân Ngài vì họ đã xúc
phạm đến Ngài.
Kết
thúc lời nguyện
40
Vậy,
lạy Thiên Chúa của con, xin ghé mắt nhìn và lắng tai nghe những lời nguyện xin
ở nơi này. 41 Và giờ đây,
lạy
Chúa là Thiên Chúa, xin đứng dậy
để
cùng với Hòm Bia oai linh Chúa ngự về chốn nghỉ ngơi.
Lạy
Ðức Chúa là Thiên Chúa,
ước
chi hàng tư tế của Ngài mặc lấy sự công chính,
kẻ
hiếu trung với Ngài được cất tiếng hò reo.
42
Lạy
Ðức Chúa là Thiên Chúa,
xin
đừng xua đuổi đấng Ngài đã xức dầu
Xin
nhớ lại những hồng ân Ngài đã ban cho Ða-vít tôi tớ Ngài! "
Chương 07
Lễ
cung hiến (1 V 8:62-66)
1
Vua
Sa-lô-môn cầu nguyện xong, thì có lửa từ trời xuống đốt hết lễ toàn thiêu và
các tế vật, và vinh quang của Ðức Chúa tràn ngập Ðền Thờ. 2 Các tư
tế không thể vào Ðền Thờ của Ðức Chúa, vì vinh quang của Ðức Chúa tràn ngập Ðền
Thờ. 3 Toàn thể con cái Ít-ra-en thấy lửa tràn xuống và vinh quang
của Ðức Chúa ngự trên Ðền Thờ, thì phủ phục xuống đất, mặt sát nền nhà; họ thờ
lạy và tôn vinh Ðức Chúa "vì Chúa nhân từ, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn
tình thương". 4 Vua cùng toàn dân dâng hy lễ trước nhan Ðức
Chúa. 5 Vua Sa-lô-môn sát tế hai mươi ngàn con bò và một trăm hai
mươi hai ngàn con chiên; vua cùng toàn dân cung hiến Ðền Thờ của Thiên Chúa. 6
Các tư tế ai lo phận sự nấy, còn các thầy Lê-vi thì sử dụng các nhạc cụ
của Ðức Chúa do vua Ða-vít làm ra để hoà theo những bản thánh ca; họ ca ngợi
Ðức Chúa "vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương". Họ hát những
bài ca ngợi do vua Ða-vít sáng tác. Bên cạnh họ, các tư tế thổi kèn, còn toàn
thể Ít-ra-en thì đứng.
7
Vua
Sa-lô-môn thánh hiến phần giữa của tiền đình ở trước Nhà Ðức Chúa. Chính tại
đây, vua dâng lễ toàn thiêu và mỡ béo của các lễ kỳ an, vì bàn thờ bằng đồng
vua Sa-lô-môn đã làm không đủ chứa lễ toàn thiêu, lễ phẩm và mỡ. 8 Dịp
này, vua Sa-lô-môn mừng lễ trong bảy ngày, và cùng với vua có toàn thể
Ít-ra-en, một cộng đoàn rất lớn gồm những người từ lối vào Cửa Ải Kha-mát tới
suối Ai-cập kéo về. 9 Ngày thứ tám, một cuộc họp long trọng được tổ
chức, vì trước đó người ta đã cung hiến bàn thờ trong bảy ngày và mừng lễ trong
bảy ngày nữa. 10 Ngày thứ hai mươi ba tháng thứ bảy, vua giải tán
dân. Ai nấy trở về lều mình, lòng vui mừng hân hoan vì mọi sự tốt lành Ðức Chúa
đã làm cho vua Ða-vít tôi tớ Người và cho Ít-ra-en dân Người.
Thiên
Chúa phán với vua Sa-lô-môn (1 V 9:1-9)
11
Sau
khi vua Sa-lô-môn hoàn tất Ðền Thờ Ðức Chúa và cung điện nhà vua, kể cả mọi
công trình vua dự tính thực hiện về Ðền Thờ Ðức Chúa và về cung điện nhà vua, 12
thì Ðức Chúa hiện ra với vua ban đêm và phán: "Ta đã nghe lời ngươi
cầu nguyện và đã chọn nơi này làm nhà dâng hy lễ cho Ta. 13 Khi Ta
để cho trời đóng lại, không cho mưa, khi Ta truyền cho châu chấu phá hoại đất
đai, khi Ta cho dịch tễ hoành hành trong dân Ta, 14 nếu dân Ta, dân
vốn kêu cầu Danh Ta, mà biết hạ mình xuống khẩn nguyện và tìm kiếm Nhan Ta, từ
bỏ những con đường xấu xa mà trở lại, thì Ta, từ trời, Ta sẽ nghe và thứ tha
tội lỗi nó và sẽ phục hưng xứ sở của nó. 15 Từ nay, Ta sẽ ghé mắt
nhìn và lắng tai nghe lời cầu nguyện dâng lên ở nơi đây, 16 vì Ta đã
chọn và thánh hoá nhà này, để muôn đời Danh Ta ngự tại đây; Ta sẽ để mắt nhìn
và để lòng ưa thích nơi này mãi mãi. 17 Còn ngươi, nếu ngươi bước đi
trước Nhan Ta, như Ða-vít thân phụ ngươi, mà thi hành mọi điều Ta truyền cho
ngươi, và tuân giữ các chỉ thị và luật pháp của Ta, 18 thì Ta sẽ
củng cố ngai vàng của ngươi, như Ta đã đoan hứa với Ða-vít thân phụ ngươi rằng:
"Ngươi sẽ không thiếu người cai trị Ít-ra-en. 19 Nhưng nếu các
ngươi tráo trở, bỏ các chỉ thị và mệnh lệnh Ta đã ban bố cho các ngươi, mà đi
làm tôi các thần khác và thờ lạy chúng, 20 thì Ta sẽ tiêu diệt các
ngươi khỏi phần đất Ta đã ban cho các ngươi. Còn Ðền Thờ ta đã thánh hoá để
kính Danh Ta, Ta sẽ loại khỏi Nhan Ta, và sẽ biến thành bia miệng cho mọi dân
tộc đàm tiếu. 21 Ðền Thờ này, dù cao trọng đến đâu, cũng sẽ thành
đống hoang tàn, khiến mọi kẻ qua lại phải sững sờ mà nói; "Tại sao Ðức
Chúa đã xử với xứ sở này, với Ðền Thờ này như thế? 22 Và người ta sẽ trả lời:
"Tại chúng đã bỏ Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng, Ðấng đã đưa tổ tiên chúng
ra khỏi đất Ai-cập; chúng đã gắn bó với các thần ngoại, sụp lạy và làm tôi các
thần ấy, nên Ðức Chúa đã giáng xuống đầu chúng tất cả những tai hoạ này."
Chương 08
Hoàn
tất các công trình xây cất (1 V 9:10-25)
1
Vua
Sa-lô-môn xây Ðền Thờ Ðức Chúa và cung điện nhà vua trong hai mươi năm. 2 Sau
đó, vua xây lại các thành vua Khi-ram đã tặng, rồi định cư con cái Ít-ra-en tại
các thành ấy. 3 Vua Sa-lô-môn đến Kha-mát Xô-va và chiếm lấy nơi ấy.
4 Vua tái thiết Tát-mo trong sa mạc và tất cả các thành có kho dự
trữ vua đã lập trong vùng Kha-mát. 5 Vua xây lại Bết Khô-rôn Thượng
và Bết Khô-rôn Hạ. Ðó là những thành có tường luỹ kiên cố, cổng đóng then cài. 6
Vua cũng xây lại Ba-a-lát và tất cả các thành có kho dự trữ của vua
Sa-lô-môn, các thành chứa xe, các thành giữ ngựa, và tất cả những gì vua
Sa-lô-môn muốn xây cất tại Giê-ru-sa-lem, tại Li-băng và trong toàn lãnh thổ
thuộc quyền vua.
7
Tất
cả những người còn sót lại thuộc các dân Khết, E-mô-ri, Pơ-rít-di, Khi-vi và
Giơ-vút. 8 Những người này không thuộc dân Ít-ra-en, những người này
đã để lại con cháu chúng trong xứ mà con cái Ít-ra-en đã không tiêu diệt hết
được. Vua Sa-lô-môn bắt tất cả những người đó phải lao động khổ sai, đến ngày
nay. 9 Phần con cái Ít-ra-en, vua Sa-lô-môn không bắt ai phải làm nô
dịch cho vua. Họ là những chiến sĩ, những tướng lãnh, những người chỉ huy chiến
xa và kỵ binh của vua. 10 Số viên chức chỉ huy các đốc công của vua
Sa-lô-môn là hai trăm năm mươi người, giám sát dân chúng.
11
Vua
Sa-lô-môn đưa công chúa của Pha-ra-ô từ Thành Ða-vít lên cung điện đã xây cho
bà. Vua nói: "Vợ ta sẽ không ở trong cung điện của Ða-vít, vua Ít-ra-en,
vì những nơi đặt Hòm Bia của Ðức Chúa đều là nơi thánh."
12
Từ
đó, trên bàn thờ vua Sa-lô-môn đã xây trước tiền đình, vua dâng lễ toàn thiêu
kính Ðức Chúa. 13 Theo nghi thức riêng ông Mô-sê đã quy định cho mỗi
ngày, vua dâng lễ toàn thiêu các ngày sa-bát, ngày sóc và ba ngày đại lễ trong
năm là: lễ Bánh Không Men, lễ Các Tuần và lễ Lều. 14 Chiếu theo luật
phụ vương Ða-vít đã định, vua cũng cắt đặt các ban tư tế vào phận sự của họ,
các thầy Lê-vi vào công tác ca ngợi Chúa và phụ với các tư tế trong nghi thức
phụng tự mỗi ngày. Vua còn cắt đặt người giữ cửa cho mỗi cửa theo từng ban, vì
đó là lệnh truyền của vua Ða-vít, người của Thiên Chúa. 15 Không ai
vi phạm một quy định nào của vua Ða-vít liên quan đến các tư tế, đến các thầy
Lê-vi và ngay cả đến các kho báu nữa. 16 Thế là hoàn tất mọi công
trình của vua Sa-lô-môn, từ ngày khởi công xây cất Nhà Ðức Chúa cho tới khi kết
thúc. Nhà của Ðức Chúa thật là hoàn chỉnh.
Vinh
quang của vua Sa-lô-môn (1 V 9:26-28; 10:1-27)
17
Bấy
giờ vua Sa-lô-môn trẩy đi E-xi-ôn Ghe-ve và Ê-lát bên bờ Biển, trong đất Ê-đôm.
18 Vua Khi-ram sai các tôi tớ đưa đến cho vua Sa-lô-môn tàu bè và
những thủy thủ thạo nghề biển. Những người này cùng đi với tôi tớ của vua Sa-lô-môn
đến Ô-phia, lấy mười ba tấn rưỡi vàng đưa về cho vua Sa-lô-môn.
Chương 09
1
Nữ
hoàng Sơ-va nghe biết danh tiếng vua Sa-lô-môn, thì đến Giê-ru-sa-lem đặt câu
đố thử tài vua. Cùng đi với bà là cả một đoàn tuỳ tùng đông đảo, nhiều lạc đà
chở đầy hương liệu, và một số lượng rất lớn vàng cùng đá quý. Bà vào hội kiến
với vua Sa-lô-môn và nói với vua tất cả những gì bà suy nghĩ trong lòng. 2
Vua Sa-lô-môn giải đáp tất cả những vấn đề bà đưa ra; đối với vua
Sa-lô-môn, không có chuyện gì bí ẩn, mà vua không giải đáp cho bà được. 3 Nữ
hoàng Sơ-va thấy sự khôn ngoan của vua Sa-lô-môn, và cung điện vua đã xây, 4
những món ăn trên bàn của vua, dinh thự của quần thần, cung cách và trang
phục của họ, các vị chước tửu và trang phục của họ, các lễ toàn thiêu vua tiến
dâng tại Ðền Thờ Ðức Chúa, bà hết hồn. 5 Bà nói với vua: "Những
điều tôi đã nghe nói ở nước tôi về ngài và về sự khôn ngoan của ngài quả là sự
thật. 6 Tôi đã không tin những điều người ta nói cho tới khi tôi đến
và thấy tận mắt. Nhưng thực ra người ta cho tôi biết chưa tới một nửa về sự
khôn ngoan kỳ diệu của ngài. Ngài vượt xa tiếng tăm lừng lẫy tôi đã nghe về
ngài. 7 Phúc thay thần dân của ngài! Phúc thay quần thần của ngài,
những kẻ luôn luôn được túc trực trước mặt ngài và nghe biết sự khôn ngoan của
ngài. 8 Chúc tụng Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngài, Ðấng đã ưu ái đặt
ngài trên ngôi báu của Người để ngài làm vua phục vụ Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngài. Vì Thiên Chúa của ngài yêu thương Ít-ra-en, muốn cho dân này được muôn
đời bền vững, nên đã đặt ngài làm vua cai trị họ, để ngài thi hành luật pháp và
công lý.” 9 Và, bà tặng vua ba ngàn sáu trăm ký vàng, một số rất lớn
hương liệu và đá quý. Chưa từng có thứ hương liệu nào như thứ mà nữ hoàng Sơ-va
đã tặng cho vua Sa-lô-môn. 10 Cả các tôi tớ của vua Khi-ram cùng với
bề tôi vua Sa-lô-môn khi mang vàng từ Ô-phia về, cũng đưa gỗ đàn hương và đá
quý về nữa. 11 Vua dùng gỗ đàn hương làm bậc thang cho Ðền Thờ Ðức
Chúa, cung điện nhà vua, đàn lia, đàn hạc cho các ca sĩ. Trước đây, trong đất
Giu-đa, người ta chưa hề thấy thứ gỗ nào như thế. 12 Vua Sa-lô-môn
tặng lại nữ hoàng Sơ-va tất cả những gì bà ngỏ ý thích, nhiều hơn cả những gì
bà đã mang đến cho vua. Sau đó bà lui gót, cùng với đoàn tuỳ tùng trở về xứ sở.
13
Số
vàng vua Sa-lô-môn thu nhập hàng năm là hai mươi ngàn ký, 14 không
kể số vàng và bạc mà khách vãng lai, các thương gia cũng như tất cả các vua
Ả-rập và các quan thái thú trong nước đem nộp cho vua. 15 Vua
Sa-lô-môn làm hai trăm chiếc thuẫn lớn bằng vàng gò, mỗi chiếc thuẫn phải dùng
tới sáu ký vàng gò. 16 Vua còn làm ba trăm chiếc thuẫn nhỏ bằng vàng
gò, mỗi chiếc mất ba ký vàng. Và vua đặt các thuẫn ấy trong Cung Rừng Li-băng. 17
Vua lại làm một cái ngai lớn bằng ngà và dát vàng ròng. 18 Ngai
có sáu cấp và một cái bệ chân bằng vàng, hai bên chỗ ngồi có tay tựa, đứng sát
tay tựa là hai con sư tử, 19 và mười hai con sư tử đứng trên sáu cấp
ở hai bên. Chẳng vương quốc nào làm được như thế.
20
Tất
cả các chén để uống của vua Sa-lô-môn đều bằng vàng, và tất cả các vật dụng
trong Cung Rừng Li-băng cũng bằng vàng ròng. Vì thời vua Sa-lô-môn bạc không có
giá trị gì cả. 21 Quả vậy, vua Sa-lô-môn có một đoàn tàu đi Tác-sít
cùng với các tôi tớ của vua Khi-ram, và cứ ba năm một lần, đoàn tàu Tác-sít đến
mang theo vàng, bạc, ngà, khỉ và công.
22
Vua
Sa-lô-môn là người trổi vượt hơn tất cả các đế vương trên mặt đất về sự giàu có
và khôn ngoan. 23 Tất cả các vua trên mặt đất đều mong diện kiến vua
Sa-lô-môn để được nghe sự khôn ngoan mà Thiên Chúa đã ban cho vua, 24 mỗi
vị đều mang lễ vật: đồ bạc, đồ vàng, y phục, vũ khí, hương liệu, ngựa và lừa,
cứ thế từ năm này qua năm khác.
25
Vua
có bốn ngàn ngăn chuồng chứa ngựa và xe, với mười hai ngàn ngựa cỡi để ở các
thành có xe và để ở; cạnh vua tại Giê-ru-sa-lem.
26
Vua
thống trị tất cả các vua từ Sông Cả đến đất của người Phi-li-tinh và mãi cho
tới ranh giới Ai-cập. 27 Nhờ vua mà bạc ở Giê-ru-sa-lem ra thường
như sỏi đá, còn bá hương thì nhiều như vả ở miền Sơ-phê-la. 28 Ngựa
của vua Sa-lô-môn là giống ngựa được nhập từ Ai-cập và từ khắp mọi nước.
Vua
Sa-lô-môn từ trần (1 V 11 :41-43)
29
Các
truyện khác về vua Sa-lô-môn, từ những việc đầu tiên đến những việc cuối cùng,
đều đã được ghi chép trong Sử Biên Niên của ngôn sứ Na-than, trong Sách Ngôn Sứ
của ông A-khi-gia người Si-lô, trong Các Thị Kiến của thầy chiêm Gie-đô dưới
thời vua Gia-róp-am con ông Nơ-vát. 30 Vua Sa-lô-môn trị vì toàn thể
Ít-ra-en tại Giê-ru-sa-lem được bốn mươi năm. 31 Vua Sa-lô-môn đã an
nghỉ với tổ tiên và được chôn cất trong Thành Ða-vít thân phụ vua, và thái tử
Rơ-kháp-am lên ngôi kế vị vua.
Chương 10
IV.
Những Cuộc Cải Cách Ðầu Tiên Thời Quân Chủ
1.
Vua Rơ-Kháp-Am Với Việc Tập Trung Các Thầy Lê-Vi
Ly
khai (1 V 12:1-19)
1
Rơ-kháp-am
đi Si-khem, vì toàn thể Ít-ra-en tụ họp ở Si-khem để tôn ông lên làm vua. 2
Lúc ấy Gia-róp-am con ông Nơ-vát, nghe biết chuyện ấy - ông đang ở bên
Ai-cập vì ông đã trốn vua Sa-lô-môn sang đó, ông liền bỏ Ai-cập trở về. 3 Người
ta cho mời ông Gia-róp-am. Ông và toàn thể Ít-ra-en tới.
Họ
thưa với Rơ-kháp-am rằng: 4 "Phụ vương ngài đã bắt chúng tôi
mang một cái ách quá nặng, bây giờ nếu ngài giảm bớt khổ dịch và ách nặng nề
phụ vương đã đặt trên chúng tôi, thì chúng tôi sẽ phục dịch ngài.” 5 Vua
nói với họ: "Ba ngày nữa các ngươi trở lại gặp ta." Dân chúng liền
rút lui.
6
Vua
Rơ-kháp-am bàn hỏi với các kỳ mục là những người đã từng hầu cận phụ vương
Sa-lô-môn khi vua này còn sống. Vua Rơ-kháp-am nói: "Các ngươi góp ý với
ta thế nào, để ta còn trả lời cho dân này?” 7 Họ thưa với vua:
"Nếu ngài xử tốt với dân, chiều lòng dân, dùng lời lẽ ôn tồn mà nói với
dân, thì dân sẽ làm tôi ngài mãi mãi.” 8 Nhưng vua không đếm xỉa gì
đến ý kiến các kỳ mục đưa ra, lại đi bàn hỏi với đám người trẻ là những bạn
thiếu thời hiện đang hầu cận vua. 9 Vua nói với họ: "Các ngươi
góp ý với ta thế nào, để ta còn trả lời cho dân này, vì nó đã nói với ta rằng:
Xin ngài giảm bớt cái ách nặng phụ vương đã đặt trên chúng tôi?” 10 Ðám
người trẻ, những bạn thiếu thời của vua, thưa vua rằng: "Ngài sẽ trả lời
cho dân đã từng nói với ngài: "Phụ vương ngài đã đặt ách nặng trên chúng
tôi, nhưng xin ngài giảm bớt cho chúng tôi", xin ngài nói với chúng thế
này: "Ngón tay nhỏ của ta còn lớn hơn cả lưng của phụ vương ta. 11 Vậy
phụ vương ta đã đặt ách nặng trên các ngươi, còn ta, ta chất cho nặng hơn nữa.
Phụ vương ta trừng phạt các ngươi bằng roi, còn ta, ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng
bọ cạp!"
12
Ngày
thứ ba, Gia-róp-am cùng toàn dân đến yết kiến vua Rơ-kháp-am như vua đã hẹn
rằng: "Ba ngày nữa trở lại gặp ta.” 13 Vua trả lời cứng cỏi với
họ. Vua Rơ-kháp-am không đếm xỉa gì đến ý kiến các kỳ mục, 14 nhưng
nói với họ theo ý kiến đám người trẻ rằng: "Phụ vương ta đã đặt ách nặng
trên các ngươi, còn ta, ta chất nặng hơn nữa trên các ngươi; phụ vương ta trừng
phạt các ngươi bằng roi, còn ta, ta sẽ trừng phạt các ngươi bằng bọ cạp.” 15
Thế là vua không chịu nghe dân. Thiên Chúa đã để như vậy cho lời Ðức Chúa
được ứng nghiệm, lời mà Người đã dùng ông A-khi-gia-hu người Si-lô mà phán với
ông Gia-róp-am con ông Nơ-vát. 16 Khi toàn thể Ít-ra-en thấy vua
không thèm nghe họ, thì dân đáp lại vua rằng:
"Chúng
tôi có liên hệ chi với Ða-vít?
Chẳng
có phần gì với con của Gie-sê.
Ít-ra-en
ơi, ai về lều nấy!
Này
Ða-vít, hãy liệu lấy nhà của ngươi!"
Rồi
toàn thể Ít-ra-en rút về lều. 17 Còn con cái Ít-ra-en cư ngụ tại các
thành của Giu-đa thì vua Rơ-kháp-am vẫn làm vua cai trị họ. 18 Vua
Rơ-kháp-am cử ông Ha-đô-ram phụ trách việc dân công, nhưng con cái Ít-ra-en ném
đá ông chết và ông đã chết. Còn vua Rơ-kháp-am thì vội vã lên xe trốn về
Giê-ru-sa-lem. 19 Thế là Ít-ra-en ly khai với nhà Ða-vít cho tới
ngày nay.
Chương 11
Hoạt
động của vua Rơ-kháp-am (1 V 12:21-24)
1
Về
tới Giê-ru-sa-lem, vua Rơ-kháp-am tập họp nhà Giu-đa và chi tộc Ben-gia-min,
được một trăm tám mươi ngàn quân tinh nhuệ để giao chiến với Ít-ra-en và thu
hồi vương quốc về cho Rơ-kháp-am. 2 Nhưng có lời Ðức Chúa phán với
ông Sơ-ma-gia-hu, người của Thiên Chúa rằng: 3 "Hãy nói với
Rơ-kháp-am con của Sa-lô-môn vua Giu-đa, với toàn thể Ít-ra-en tại Giu-đa và
tại Ben-gia-min rằng: 4 "Ðức Chúa phán thế này: Các ngươi không
được lên giao chiến chống anh em các ngươi; ai nấy cứ về nhà mình, vì mọi chuyện
là do Ta." Họ nghe lời Ðức Chúa, và quay về, không đi đánh vua Gia-róp-am
nữa.
5
Vua
Rơ-kháp-am ngự tại Giê-ru-sa-lem và xây dựng một số thành trì kiên cố tại
Giu-đa. 6 Các thành đó là: Bê-lem, Ê-tham, Tơ-cô-a, 7 Bết
Xua, Xô-khô, A-đu-lam, 8 Gát, Ma-rê-sa, Díp, 9 A-đô-ra-gim,
La-khít, A-dê-ca, 10 Xo-rơ-a, Ai-gia-lôn, và Khép-rôn. Các thành ở
Giu-đa và Ben-gia-min này đều là những thành trì vững chắc. 11 Vua
củng cố các thành trì ấy, đặt trấn thủ, lập kho dự trữ lương thực, dầu và rượu.
12 Thành nào cũng có nhiều khiên thuẫn, giáo mác, và lực lượng được
tăng cường tối đa. Thế là Giu-đa và Ben-gia min hoàn toàn thần phục vua.
Hàng
tư tế về quy thuận vua Rơ-kháp-am
13
Các
tư tế và các thầy Lê-vi trong toàn cõi Ít-ra-en đều từ khắp nơi về quy thuận
vua. 14 Quả thế, các thầy Lê-vi đã từ bỏ đồng cỏ và tài sản của mình
để đến Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, vì vua Gia-róp-am và con cái ông không cho họ
thi hành chức tư tế phục vụ Ðức Chúa nữa, 15 nhưng vua tự tiện cắt
đặt các tư tế phục vụ các nơi cao mà thờ những con dê, con bò vua đã làm ra. 16
Từ mọi chi tộc Ít-ra-en, những kẻ để lòng tìm kiếm Ðức Chúa, Thiên Chúa
của Ít-ra-en, đều theo các thầy Lê-vi kéo về Giê-ru-sa-lem để dâng lễ cho Ðức
Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên mình. 17 Họ làm cho vương quốc Giu-đa
thêm vững mạnh và trong ba năm liền, họ phò vua Rơ-kháp-am con vua Sa-lô-môn,
vì trong ba năm đó vua đã đi theo con đường của vua Ða-vít và vua Sa-lô-môn.
Gia
đình vua Rơ-kháp-am
18
Vua
Rơ-kháp-am kết hôn với cô Ma-kha-lát. Cha cô là ông Giơ-ri-mốt con vua Ða-vít và
mẹ cô là bà A-vi-kha-gin. Bà này là con ông E-li-áp và là cháu ông Gie-sê. 19
Bà Ma-kha-lát sinh cho vua những người con sau đây: Giơ-út, Sơ-mác-gia,
Da-ham. 20 Sau bà Ma-kha-lát, vua còn kết hôn với cô Ma-a-kha, ái nữ
của ông Áp-sa-lôm. Bà Ma-a-kha sinh cho vua những người con sau đây: A-vi-gia,
Át-tai, Di-da và Sơ-lô-mít. 21 Vua Rơ-kháp-am yêu bà Ma-a-kha ái nữ
của ông Áp-sa-lôm hơn tất cả các bà vợ và các cung phi của vua. Quả thật, vua
có đến mười tám bà vợ, sáu mươi cung phi, hai mươi tám con trai và sáu mươi con
gái. 22 Vua Rơ-kháp-am đặt hoàng tử A-vi-gia con bà Ma-a-kha làm
thái tử đứng đầu các anh em ông, để kế vị vua sau này. 23 Vua đã
khôn khéo phân tán một số hoàng tử đi tất cả các thành trì có đồn luỹ kiên cố
trong khắp miền đất Giu-đa và Ben-gia-min. Vua cũng cấp thật dồi dào lương thực
và cưới nhiều vợ cho các ông.
Chương 12
Vua
Rơ-kháp-am bất trung với Ðức Chúa (1 V 14:25-28)
1
Củng
cố được vương quốc và trở nên hùng mạnh rồi, vua Rơ-kháp-am bỏ Lề Luật của Ðức
Chúa, khiến toàn thể Ít-ra-en cũng theo gương. 2 Vì họ bất trung với
Ðức Chúa như thế, nên năm thứ năm triều vua Rơ-kháp-am, vua Ai-cập là Si-sắc đã
tiến đánh Giê-ru-sa-lem. 3 Từ Ai-cập, ông kéo theo một ngàn hai trăm
chiến xa, sáu mươi ngàn ngựa và một đạo quân đông vô kể gồm những người
Li-by-a, Xúc-ki-gim và Cút, 4 chiếm các thành có đồn luỹ kiên cố và
tiến về Giê-ru-sa-lem. 5 Bấy giờ ngôn sứ Sơ-ma-gia vào gặp vua
Rơ-kháp-am và các thủ lãnh của Giu-đa đang tập họp về Giê-ru-sa-lem để trốn
tránh vua Si-sắc. Ngôn sứ nói với họ: "Ðức Chúa phán thế này: "Các
ngươi đã bỏ Ta, thì Ta, Ta cũng bỏ mặc các ngươi trong tay Si-sắc.” 6 Các
thủ lãnh Ít-ra-en liền cùng với vua hạ mình xuống và tuyên xưng rằng: "Ðức
Chúa thật công minh!” 7 Khi Ðức Chúa thấy họ hạ mình xuống, thì
Người phán bảo ông Sơ-ma-gia rằng: "Chúng đã hạ mình xuống, Ta sẽ không
tiêu diệt chúng nữa. Ta sẽ sớm cho chúng thoát nạn. Cơn thịnh nộ của Ta sẽ
không giáng xuống Giê-ru-sa-lem qua tay Si-sắc. 8 Thế nhưng chúng sẽ
phải làm tôi nó, và chúng sẽ biết thế nào là phụng sự Ta và thế nào là làm tôi
chư quốc."
9
Vậy
Si-sắc vua Ai-cập tiến đánh Giê-ru-sa-lem và chiếm đoạt các kho tàng trong Ðền
Thờ Ðức Chúa cũng như kho tàng trong hoàng cung; ông lấy hết. Ông chiếm đoạt
những khiên thuẫn bằng vàng vua Sa-lô-môn đã làm. 10 Vua Rơ-kháp-am
làm những khiên thuẫn bằng đồng để thay thế, và giao cho các người chỉ huy thị
vệ canh gác cửa hoàng cung. 11 Mỗi khi vua vào Ðền Thờ Ðức Chúa thì
các thị vệ mang ra, rồi lại đưa về phòng thị vệ.
12
Vì
vua hạ mình xuống nên đã tránh được cơn thịnh nộ của Ðức Chúa và không bị hoàn
toàn tiêu diệt. Vả lại ở Giu-đa vẫn còn có những điều tốt lành. 13 Vua
Rơ-kháp-am củng cố được ngai vàng tại Giê-ru-sa-lem và tiếp tục trị vì. Khi lên
ngôi, vua Rơ-kháp-am được bốn mươi mốt tuổi. Vua trị vì mười bảy năm tại Giê-ru-sa-lem
là thành đô Ðức Chúa đã chọn làm nơi đặt Danh Người trong tất cả các chi tộc
Ít-ra-en.
14
Vua
đã làm sự dữ, vì đã không để lòng tìm kiếm Ðức Chúa. 15 Các sự việc
đời vua Rơ-kháp-am, từ những việc đầu tiên đến những việc cuối cùng, đã chẳng
được ghi chép trong Sử biên niên của ngôn sứ Sơ-ma-gia và của thầy chiêm Ít-đô
sao? Các cuộc giao tranh đã không ngừng xảy ra giữa vua Rơ-kháp-am và vua
Gia-róp-am. 16 Vua Rơ-kháp-am an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất
trong Thành Ða-vít. Con vua là A-vi-gia lên ngôi kế vị.
Chương 13
2.
Vua A-Vi-Gia Với Hàng Tư Tế Giê-Ru-Sa-Lem
Chiến
tranh (1 V 15:1-2,7)
1
Năm
thứ mười tám triều vua Gia-róp-am, A-vi-gia lên làm vua Giu-đa, 2 và
trị vì tại Giê-ru-sa-lem ba năm. Thân mẫu vua là bà Mi-kha-gia-hu ái nữ ông
U-ri-ên người Ghíp-a. Chiến tranh đã diễn ra giữa vua A-vi-gia và vua
Gia-róp-am. 3 Vua A-vi-gia ra trận cùng với một lực lượng tinh binh
gồm bốn trăm ngàn quân. Còn vua Gia-róp-am thì đem một lực lượng tinh nhuệ gồm
tám trăm ngàn quân thiện chiến ra dàn trận chống lại.
Vua
A-vi-gia thuyết phục đối phương
4
Bấy
giờ vua A-vi-gia đứng trên ngọn Xơ-ma-ra-gim trong vùng núi Ép-ra-im, lên tiếng
nói: "Gia-róp-am và toàn thể Ít-ra-en hãy nghe đây: 5 Ðức Chúa,
Thiên Chúa của Ít-ra-en, bằng một giao ước không ai phế bỏ được, đã ban quyền
cai trị Ít-ra-en đến muôn đời cho vua Ða-vít, cho chính người và cho con cháu
người, các ngươi chẳng biết sao? 6 Thế mà Gia-róp-am con Nơ-vát, tôi tớ vua
Sa-lô-môn con vua Ða-vít, đã dấy loạn chống chúa thượng mình. 7 Những
tên hạ tiện, những đứa vô loài đã toa rập với y lấn lướt vua Rơ-kháp-am con vua
Sa-lô-môn. Vua Rơ-kháp-am còn trẻ người non dạ không địch nổi chúng. 8 Bây
giờ các ngươi lại bô bô cả quyết chống chọi được với vương quyền của Ðức Chúa
mà dòng họ vua Ða-vít đang nắm giữ! Quả các ngươi là một bè lũ đông đảo, lại
còn có những con bò vàng Gia-róp-am đã tạo ra cho các ngươi tôn làm thần! 9 Ai
chẳng biết rằng các ngươi đã trục xuất các tư tế của Ðức Chúa, con cháu ông
A-ha-ron, và các thầy Lê-vi nữa, để rồi tự tiện đặt những tư tế theo thói các
dân ngoại? Vì bất cứ ai mang một con bê với bảy con dê đến xin tấn phong là
được làm tư tế liền, để phục vụ cái không phải là thần thánh gì cả! 10 Còn với
chúng ta đây, thì Thiên Chúa chúng ta thờ chính là Ðức Chúa. Chúng ta đã không
từ bỏ Người. Các tư tế phụng sự Ðức Chúa phải là con cháu ông A-ha-ron, các
thầy Lê-vi thì lo phục vụ. 11 Các vị ấy cứ mỗi sáng mỗi chiều, dâng
lễ toàn thiêu kính Ðức Chúa, đốt hương thơm ngào ngạt, trưng bánh tiến trên bàn
thanh sạch; còn những ngọn đèn trên cây đèn vàng thì cứ chiều chiều lại đốt
lên. Quả thật chúng ta vẫn giữ những điều Ðức Chúa Thiên Chúa chúng ta truyền,
còn các ngươi, chính Ðức Chúa các ngươi cũng bỏ. 12 Ðây, Thiên Chúa
ở với chúng ta để dẫn đầu chúng ta; các tư tế của Người với chiếc kèn xung trận
sẵn sàng thổi lên chống các ngươi! Hỡi con cái Ít-ra-en, Ðức Chúa là Thiên Chúa
tổ tiên các ngươi, chớ giao chiến chống lại Người: các ngươi sẽ thất bại!"
Giao
tranh
13
Trong
khi đó, vua Gia-róp-am sai toán phục kích đi bọc hậu quân Giu-đa. Như thế, cánh
quân chính thì đối diện với quân Giu-đa, còn toán quân phục kích thì ở đằng sau
họ. 14 Khi quân Giu-đa quay lại, bỗng thấy mình bị đánh cả trước lẫn
sau, liền kêu lên Ðức Chúa, các tư tế thì thổi kèn. 15 Quân Giu-đa
hò hét xung phong, và trong lúc quân Giu-đa hò hét như vậy thì Thiên Chúa đánh
bại vua Gia-róp-am và toàn thể Ít-ra-en trước mặt vua A-vi-gia và Giu-đa. 16
Con cái Ít-ra-en chạy trốn quân Giu-đa, nhưng đã bị Thiên Chúa trao nộp
vào tay những người này. 17 Vua A-vi-gia và quân đội của vua đã
giáng cho chúng một đòn chí tử: năm trăm ngàn tinh binh của Ít-ra-en đã tử trận.
18 Trong trận ấy, con cái Ít-ra-en bị hạ nhục, còn con cái Giu-đa
thì trở nên mạnh mẽ hơn, vì họ đã tựa nương vào Ðức Chúa Thiên Chúa tổ tiên của
họ.
Cuối
triều vua A-vi-gia
19
Vua
A-vi-gia truy kích vua Gia-róp-am và chiếm được của ông các thành sau đây: Bết
Ên và các vùng phụ cận, Giơ-sa-na và các vùng phụ cận, Ép-rôn và các vùng phụ
cận. 20 Suốt triều đại vua A-vi-gia-hu, vua Gia-róp-am không khôi
phục được sức mạnh nữa; vua bị ÐỨC CHÚA đánh phạt và đã chết. 21 Vua
A-vi-gia-hu ngày càng thêm mạnh. Vua lấy mười bốn người vợ, được hai mươi hai
con trai và bốn mươi con gái. 22 Các truyện còn lại về vua A-vi-gia,
đường lối vua theo, các việc vua làm đã được ghi chép trong sách Chú Giải của
ngôn sứ Ít-đô. 23 Vua A-vi-gia đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn
cất trong Thành Ða-vít; con vua là A-xa lên ngôi kế vị.
3.
Vua A-Xa Với Công Việc Cải Cách Phụng Tự
Bình
an dưới thời vua A-xa
Dưới
triều đại vua, xứ sở được yên hàn trong mười năm.
Chương 14
1
Vua
A-xa làm điều tốt lành và ngay chính trước mắt Ðức Chúa Thiên Chúa của vua. 2
Vua dẹp bỏ các bàn thờ của ngoại kiều và các nơi cao, phá huỷ các trụ thờ
và các cột thờ. 3 Vua khuyên người Giu-đa tìm kiếm Ðức Chúa, Thiên
Chúa tổ tiên họ, thi hành Lề Luật và huấn lệnh của Người. 4 Vua dẹp
bỏ các nơi cao và các bàn thiên khỏi các thành Giu-đa. Dưới triều vua, vương
quốc được yên hàn. 5 Vua xây các thành kiên cố tại Giu-đa, vì xứ sở
được yên hàn. Sở dĩ trong các năm đó, vua không phải đương đầu với một cuộc
chiến tranh nào cả, là vì Ðức Chúa đã ban cho đất nước được an bình.
6
Vua
nói với người Giu-đa: "Ta hãy tái thiết các thành ấy, xây tường luỹ chung
quanh, dựng tháp, làm cửa với then cài; đất nước còn thuộc về chúng ta, vì
chúng ta vẫn tìm kiếm Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng ta; chúng ta tìm kiếm Người,
nên Người ban cho chúng ta được tư bề yên ổn."
7
Vua
A-xa có một đạo quân gồm ba trăm ngàn người Giu-đa biết mang thuẫn lớn và giáo,
và hai trăm tám mươi ngàn người Ben-gia-min dùng thuẫn nhỏ và bắn cung. Tất cả
những người ấy đều là những bậc anh hùng dũng sĩ.
Cuộc
xâm lăng của De-rác
8
Bấy
giờ De-rác người Cút xuất hiện chống phá họ với một đạo quân gồm một triệu
người và ba trăm chiến xa; y đã đến tận Ma-rê-sa. 9 Vua A-xa ra
ngênh chiến và dàn trận tại thung lũng Xơ-pha-tha, gần Ma-rê-xa. 10 Vua
A-xa lên tiếng kêu cầu Ðức Chúa Thiên Chúa của mình: "Lạy Ðức Chúa, khi
Ngài muốn cứu giúp, thì đối với Ngài chẳng có chi khác biệt giữa người mạnh và
người yếu. Lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng con, xin cứu giúp chúng con! Vì
chúng con nương tựa vào Ngài và nhân danh Ngài mà chúng con giáp chiến với lũ
đông này. Lạy Ðức Chúa, chính Ngài là Thiên Chúa của chúng con, xin đừng để cho
phàm nhân nào chống lại được với Ngài."
11
Ðức
Chúa đã đánh bại người Cút trước mặt vua A-xa và trước mặt Giu-đa: những người
Cút đã trốn chạy, 12 và vua A-xa cùng với quân đội của vua đuổi đánh
chúng cho tới Ghê-ra. Quân Cút ngã quỵ, không còn ai sống sót: chúng bị đánh
tan trước nhan Ðức Chúa và trước doanh trại của Người. Người ta đã thu được
thật nhiều chiến lợi phẩm. 13 Họ cũng đánh chiếm tất cả các thành
chung quanh Ghê-ra, vì Ðức Chúa đã giáng kinh hoàng xuống các thành ấy; họ cướp
phá tất cả các thành ấy, vì chiến lợi phẩm ở đó rất nhiều. 14 Họ còn
đánh chiếm cả các trại súc vật, cướp lấy vô số chiên cừu và lạc đà, rồi rút về
Giê-ru-sa-lem.
Chương 15
Lời
kêu gọi của ông A-dác-gia-hu và cuộc cải cách
1
Ðược
thần khí của Thiên Chúa thúc đẩy, ông A-dác-gia-hu con ông Ô-đết, 2 ra
đón vua A-xa và thưa: "Xin vua A-xa và toàn thể Giu-đa cùng Ben-gia-min,
hãy nghe tôi! Ðức Chúa ở với các ngài, khi các ngài ở với Ðức Chúa. Nếu các
ngài tìm kiếm Ðức Chúa, Người sẽ cho các ngài được gặp; còn nếu các ngài lìa bỏ
Ðức Chúa, Ðức Chúa sẽ lìa bỏ các ngài. 3 Một thời gian dài, Ít-ra-en
đã không có Thiên Chúa thật, không có tư tế dạy bảo, cũng chẳng có Lề Luật; 4
nhưng trong cơn quẫn bách, Ít-ra-en đã trở về với Ðức Chúa, Thiên Chúa
của mình, đã tìm kiếm Người và Người đã cho gặp. 5 Trong thời gian
ấy, kẻ ra người vào đều không được bình an, vì trăm cay nghìn đắng đã đổ trên
tất cả cư dân các nước. 6 Dân này nước nọ, thành này thành khác đã
đụng nhau ác liệt, vì Thiên Chúa đã dùng đủ mọi thứ khốn quẫn làm cho chúng tán
loạn. 7 Nhưng các ngài, cứ can đảm lên, đừng để cho tay mình bủn
rủn, vì công lao của các ngài sẽ được đền đáp."
8
Khi
vua A-xa nghe biết những điều ấy và lời của ngôn sứ A-dác-gia-hu con ông Ô-đết,
thì vua được thêm can đảm. Vua liền dẹp bỏ các đồ ghê tởm khỏi toàn cõi Giu-đa
và Ben-gia-min, khỏi các thành vua đã chiếm được trong vùng núi Ép-ra-im, rồi
làm mới lại bàn thờ Ðức Chúa ở trước tiền đình của Ðức Chúa. 9 Vua
tập họp mọi người Giu-đa và Ben-gia-min cùng những người thuộc Ép-ra-im,
Mơ-na-se và Si-mê-on cư trú giữa họ - quả thật có nhiều người đã bỏ Ít-ra-en mà
ngả theo vua, khi thấy Ðức Chúa Thiên Chúa vua thờ ở với vua. 10 Họ
tập họp ở Giê-ru-sa-lem vào tháng thứ ba năm thứ mười lăm triều vua A-xa. 11
Ngày hôm ấy họ lấy một phần chiến lợi phẩm đã mang về gồm bảy trăm con
bò, bảy ngàn con chiên, đem sát tế dâng Ðức Chúa. 12 Họ lấy giao ước
mà cam kết sẽ đem hết tâm hồn tìm kiếm Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông họ. 13
Bất cứ ai không tìm kiếm Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, sẽ phải chết,
dù là trẻ nhỏ hay người lớn, đàn ông hay đàn bà. 14 Họ lớn tiếng thề
với Ðức Chúa như vậy, rồi hò reo, thổi kèn và rúc tù và inh ỏi. 15 Toàn
thể Giu-đa phấn khởi vui mừng về lời thề đó, vì họ đã đem hết cả tâm tình của
họ mà thề; họ hoàn toàn tự nguyện tìm kiếm Ðức Chua và Người đã cho họ được gặp
Người. Ðức Chúa cũng cho họ được tư bề yên ổn.
16
Ngay
cả bà nội của vua A-xa là Ma-a-kha, cũng bị vua cách chức quốc mẫu, vì bà đã
làm một vật kinh tởm kính thần A-sê-ra. Vua A-xa phá huỷ vật kinh tởm đó, tán
nhuyễn rồi đem đốt trong thung lũng Kít-rôn. 17 Các nơi cao tuy chưa
biến khỏi Ít-ra-en, nhưng vua A-xa vẫn suốt đời trọn tình vẹn nghĩa. 18 Vua
đưa vào Ðền Thờ Thiên Chúa các vật thánh mà vua cha cũng như chính vua dâng
cúng: bạc, vàng và các vật dụng.
19
Không
có cuộc giao tranh nào nữa cho đến năm thứ ba mươi lăm triều vua A-xa.
Chương 16
Cuộc
chiến với Ít-ra-en (1 V 15:16-22)
1
Năm
ba mươi sáu triều vua A-xa, Ba-sa vua Ít-ra-en tiến đánh Giu-đa; vua kiến thiết
Ra-ma, để không cho ai ra vào liên lạc với A-xa vua Giu-đa. 2 Bấy
giờ vua A-xa lấy bạc, vàng trong kho tàng của Ðền Thờ Ðức Chúa và của hoàng
cung, rồi sai người đến với Ben Ha-đát vua A-ram đang cư ngụ tại Ða-mát, và nói
rằng: 3 "Nên có hiệp ước giữa tôi với ngài, cũng như giữa thân
phụ tôi với thân phụ ngài. Ðây, tôi xin gửi bạc vàng tặng ngài. Xin ngài huỷ bỏ
hiệp ước giữa ngài với Ba-sa vua Ít-ra-en, để ông ấy bỏ tôi mà rút về!” 4 Vua
Ben Ha-đát nghe lời vua A-xa và sai các vị chỉ huy quân đội đánh các thành của
Ít-ra-en; vua đánh chiếm I-giôn, Ðan, A-vên Ma-gim, tất cả các kho lương thực
của các thành thuộc Náp-ta-li. 5 Nghe biết chuyện này, vua Ba-sa
ngưng kiến thiết Ra-ma và đình chỉ công trình của mình. 6 Bấy giờ
vua A-xa đem toàn dân Giu-đa đến Ra-ma; họ lấy đi đá, gỗ mà vua Ba-sa dùng để
xây cất. Vua lấy những thứ ấy mà kiến thiết Ghe-va và Mít-pa.
7
Lúc
bấy giờ thầy chiêm Kha-na-ni vào yết kiến A-xa vua Giu-đa và thưa: "Vì
ngài đã nương tựa vào vua A-ram chứ không nương tựa vào Ðức Chúa Thiên Chúa của
ngài, nên lực lượng của vua A-ram đã vuột khỏi tay ngài. 8 Quân Cút
và quân Li-by-a đã chẳng là một lực lượng hùng hậu với rất nhiều xe và ngựa đó
sao? Thế mà, khi ngài nương tựa vào Ðức Chúa, thì Người đã trao chúng vào tay
ngài. 9 Bởi vì Ðức Chúa đưa mắt rảo khắp hoàn cầu để gia tăng sức
mạnh cho những ai giữ lòng trung nghĩa với Người. Trong trường hợp này, ngài đã
xử sự như một kẻ điên rồ, nên từ đây ngài sẽ phải luôn luôn đối đầu với chiến
tranh.” 10 Bực tức với thầy chiêm, vua A-xa bắt ông bỏ tù và cùm ông
lại: vua nổi giận với ông vì chuyện đó. Cũng trong thời gian này, vua A-xa đàn
áp một số người khác nữa trong dân.
Cuối
triều vua A-xa (1 V 15:23-24)
11
Các
chuyện về vua A-xa, từ những việc đầu tiên đến những việc cuối cùng, đều được
ghi chép trong sách Các Vua Giu-đa và Ít-ra-en. 12 Năm ba mươi chín
triều vua, vua A-xa bị đau chân, bệnh tình rất trầm trọng; thế nhưng trong cơn
bệnh, thay vì tìm kiếm Ðức Chúa, vua lại tìm đến các thầy lang. 13 Vua
A-xa an nghỉ với tổ tiên. Vua qua đời sau bốn mươi mốt năm trị vì. 14 Vua
được chôn cất trong ngôi mộ đã đục sẵn trong Thành vua Ða-vít. Người ta đặt thi
hài trong chiếc long sàng đầy dầu thơm và đủ loại hương liệu được pha chế theo
kỹ thuật sản xuất thuốc thơm. Và để tỏ lòng tôn kính vua, người ta đốt thật
nhiều hương.
Chương 17
4.
Vua Giơ-Hô-Sa-Phát Và Công Việc Hành Chánh
Quyền
lực vua Giơ-hô-sa-phát
1
Thái
tử Giơ-hô-sa-phát lên kế vị vua cha, củng cố quyền hành nhằm đối phó với
Ít-ra-en. 2 Vua bố trí quân đội tại tất cả các thành kiên cố trong
nước Giu-đa, đặt các trấn thủ trong nước Giu-đa và tại các thành mà phụ vương
A-xa đã chiếm được của Ép-ra-im.
Mối
bận tâm đối với Lề Luật
3
Ðức
Chúa ở với vua Giơ-hô-sa-phát, vì vua đi theo đường lối mà xưa kia vua Ða-vít
tổ tiên vua đã đi. Vua không tìm kiếm các Ba-an. 4 Quả thật vua đã
tìm kiếm Thiên Chúa của thân phụ, và đã bước đi theo các huấn lệnh của Chúa,
chứ không bắt chước hành động của Ít-ra-en. 5 Ðức Chúa giúp vua nắm
vững vương quyền trong tay; toàn thể Giu-đa dâng cho vua nhiều lễ vật, nên vua
rất mực giàu có vinh quang. 6 Vua can đảm bước đi trên đường lối của
Ðức Chúa, tiếp tục dẹp bỏ các nơi cao và các cột thờ khỏi Giu-đa.
7
Năm
thứ ba triều vua, vua sai các quan chức Ben Kha-gin, Ô-vát-gia, Dơ-khác-gia,
Nơ-than-ên và Mi-kha-gia-hu đi giảng dạy tại các thành Giu-đa. 8 Cùng
đi với họ, có các thầy Lê-vi sau đây: Sơ-ma-gia-hu, Nơ-than-gia-hu,
Dơ-vát-gia-hu, A-xa-hên, Sơ-mi-ra-mốt, Giơ-hô-na-than, A-đô-ni-gia-hu,
Tô-vi-gia-hu, Tóp A-đô-ni-gia; cùng với các thầy Lê-vi ấy còn có các tư tế
Ê-li-sa-ma và Giơ-hô-ram. 9 Họ giảng dạy ở Giu-đa mang theo mình
sách Luật của Ðức Chúa; họ rảo khắp các thành của Giu-đa và giảng dạy dân chúng.
10 Ðức Chúa giáng kinh hoàng xuống trên các vương quốc chung quanh
Giu-đa, nên chúng không gây chiến với nước này. 11 Có những người
Phi-li-tinh còn đem tặng phẩm và một số bạc lớn đến triều cống vua
Giơ-hô-sa-phát; cả người Ả-rập cũng mang tặng vua nhiều chiên dê: bảy ngàn bảy
trăm chiên và bảy ngàn bảy trăm dê. 12 Như thế, vua Giơ-hô-sa-phát
ngày càng trở nên giàu mạnh; vua xây tại Giu-đa nhiều pháo đài và các thành làm
kho lương thực.
Quân
đội
13
Tại
các thành xứ Giu-đa, vua có nhiều của dự trữ, còn tại Giê-ru-sa-lem, vua có
đông đảo chiến binh, đó là các anh hùng dũng sĩ. 14 Họ được phân cấp
theo gia tộc như sau: ở Giu-đa các tướng lãnh coi ngàn quân có: ông Át-na chỉ
huy ba trăm ngàn anh hùng dũng sĩ; 15 dưới quyền ông, có ông
Giơ-hô-kha-nan chỉ huy hai trăm tám mươi ngàn; 16 dưới quyền ông, có
một người tình nguyện phục vụ Ðức Chúa, đó là ông A-mát-gia, con ông Dích-ri,
chỉ huy hai trăm ngàn anh hùng dũng sĩ.
17
Thuộc
Ben-gia-min: vị anh hùng dũng sĩ En-gia-đa chỉ huy hai trăm ngàn quân mang cung
nỏ và khiên thuẫn. 18 dưới quyền ông, có ông Giơ-hô-da-vát chỉ huy
một trăm tám mươi ngàn quân được võ trang để chiến đấu.
19
Ðó
là những người phục vụ vua, không kể những người vua đã cắt đặt tại các thành
kiên cố khắp Giu-đa.
Chương 18
Hiệp
ước với vua A-kháp và sự can thiệp của các ngôn sứ (1 V 22:1-27)
1
Bấy
giờ, vua Giơ-hô-sa-phát được rất mực giàu có vinh quang, và vua thông gia với
vua A-kháp. 2 Mấy năm sau vua xuống Sa-ma-ri thăm vua A-kháp. Ðể
mừng vua và đoàn tuỳ tùng, vua A-kháp cho sát tế rất nhiều chiên bò; vua còn
thuyết phục vua Giơ-hô-sa-phát lên tấn công Ra-mốt Ga-la-át. 3 A-kháp
vua Ít-ra-en nói với Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa: "Ngài có muốn cùng tôi đi
Ra-mốt Ga-la-át không?" Vua Giơ-hô-sa-phát trả lời: "Tôi cũng làm như
ngài, dân tôi cũng như dân ngài, chúng tôi cùng chiến đấu với ngài."
4
Nhưng
vua Giơ-hô-sa-phát nói với vua Ít-ra-en: "Hôm nay, xin ngài thỉnh vấn sấm
ngôn của Ðức Chúa.” 5 Vua Ít-ra-en tập họp các ngôn sứ, khoảng bốn
trăm người, và nói với họ: "Ta có phải đi đánh Ra-mốt Ga-la-lát không hay
là phải ngưng lại?" Họ thưa: "Xin vua cứ lên, Thiên Chúa sẽ trao
thành ấy vào tay vua.” 6 Nhưng vua Giơ-hô-sa-phát nói: "Ở đây
không có ngôn sứ nào khác của Ðức Chúa nữa, để chúng ta nhờ ông thỉnh vấn cho
hay sao?” 7 Vua Ít-ra-en trả lời vua Giơ-hô-sa-phát: "Còn một
người nữa chúng ta có thể nhờ thỉnh vấn Ðức Chúa được, nhưng tôi ghét ông ta,
vì ông ta không hề tiên báo cho tôi điều lành, mà lúc nào cũng chỉ toàn điều
dữ. Ðó là Mi-kha-giơ-hu, con của Gim-la. Vua Giơ-hô-sa-phát nói: "Ðức vua
đừng nói như vậy.” 8 Vua Ít-ra-en gọi một hoạn quan tới và bảo:
"Mau đưa Mi-kha-giơ-hu, con của Gim-la, đến đây."
9
Vua
Ít-ra-en và Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, lúc ấy mỗi vua đang ngồi trên ngai,
mình mặc cẩm bào, ở sân lúa tại cổng thành Sa-ma-ri; và tất cả các ngôn sứ đều
đang nói liên miên trước mặt các vua. 10 Ông Xít-ki-gia-hu, con ông
Cơ-na-a-na, đã làm một cặp sừng bằng sắt và nói: "Ðức Chúa phán như sau:
Với những chiếc sừng này, ngươi sẽ húc A-ram cho đến khi tiêu diệt chúng hoàn
toàn.” 11 Và tất cả các ngôn sứ đều nói tiên tri như thế mà rằng:
"Xin vua cứ đi lên Ra-mốt Ga-la-át là sẽ gặp may. Ðức Chúa sẽ trao thành
ấy vào tay vua.” 12 Người được sai đi mời ông Mi-kha-giơ-hu nói với
ông rằng: "Này, lời các ngôn sứ đều đồng thanh báo cho vua điều may; mong
sao lời của ông cũng giống như lời của họ. Xin ông cũng báo điều may!” 13 Ông
Mi-kha-giơ-hu nói: "Có Ðức Chúa hằng sống! Thiên chúa của tôi phán sao,
tôi sẽ nói vậy.” 14 Rồi ông vào gặp vua, vua nói ông: "Này
Mi-kha-giơ-hu, chúng ta có nên đi đánh Ra-mốt Ga-la-át không, hay là ta phải
ngưng lại?" Ông thưa: "Các người cứ lên, các người sẽ gặp may. Chúng
sẽ bị trao vào tay các người.” 15 Vua liền nói với ông: "Ðã bao
lần, ta thề buộc ngươi là, nhân danh Ðức Chúa, ngươi chỉ được nói sự thật với
ta!” 16 Ông Mi-kha-giơ-hu mới nói:
"Tôi
đã thấy toàn thể Ít-ra-en tán loạn trên núi
như
chiên không người chăn.
Ðức
Chúa phán: chúng không còn chủ nữa.
Ai
nấy hãy về nhà bình an!"
17
Vua
Ít-ra-en nói với vua Giơ-hô-sa-phát: "Tôi đã chẳng nói với ngài rằng: ông
ta không hề tiên báo cho tôi điều may, mà chỉ toàn điều rủi đó sao?” 18 Ông
Mi-kha-giơ-hu lại nói: "Vì thế các ông hãy nghe lời Ðức Chúa: tôi đã thấy
Ðức Chúa ngự trên ngai, và toàn thể đạo thiên binh đứng chầu Người ở hai bên tả
hữu. 19 Và Ðức Chúa phán: "Ai sẽ dụ A-kháp, vua Ít-ra-en, tiến
lên, cho nó gục ngã tại Ra-mốt Ga-la-át? Và kẻ nói thế này, người nói thế kia. 20
Bấy giờ thần khí xuất hiện, đứng trước Ðức Chúa và nói: "Tôi sẽ dụ
y. Ðức Chúa hỏi thần khí: "Bằng cách nào? 21 Thần khí đáp: "Tôi sẽ
xuất hiện làm thần khí dối trá trên môi miệng tất cả các ngôn sứ của vua ấy.
Ðức Chúa liền phán: "Ngươi sẽ lừa dối được nó và ngươi sẽ thành công. Cứ
đi và làm như thế. 22 Này Ðức Chúa đã đặt thần khí dối trá trên môi
miệng tất cả những ngôn sứ này của vua, vì Ðức Chúa đã phán quyết điều dữ hại
vua."
23
Bấy
giờ Xít-ki-gia-hu, con ông Cơ-na-a-na, đến gần vả vào mặt ông Mi-kha-giơ-hu và
nói: "Thần khí của Ðức Chúa từ nơi ta đã qua đường nào mà nói với mi?” 24
Ông Mi-kha-giơ-hu nói: "Rồi ngươi sẽ thấy vào ngày ngươi phải chui
rúc hết phòng này sang phòng khác, để lẩn trốn.” 25 Vua Ít-ra-en
liền nói: "Các ngươi hãy bắt lấy Mi-kha-giơ-hu và dẫn nó tới thị trưởng
A-môn, và tới hoàng tử Giô-át. 26 Các ngươi sẽ nói thế này:
"Ðức vua nói như sau: giam tên này vào nhà tù và cho nó ăn uống ít thôi,
cho tới khi ta trở về bình an."
Cuộc
giao tranh. Một ngôn sứ can thiệp. (1 V 22:28-35)
27
Ông
Mi-kha-giơ-hu liền nói: "Nếu vua trở về bình an, thì Ðức Chúa đã không
dùng tôi mà phán." Ông nói tiếp: "Toàn thể các dân tộc, xin hãy nghe
cho!” 28 Vua Ít-ra-en và Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa, lên Ra-mốt
Ga-la-át. 29 Vua Ít-ra-en nói với vua Giơ-hô-sa-phát: "Tôi sẽ
cải trang và ra trận; còn ngài, thì xin cứ mặc áo của ngài." Vua Ít-ra-en
cải trang và họ ra trận. 30 Vua A-ram đã ra lệnh cho các người chỉ
huy chiến xa của vua rằng: "Các ngươi không đánh ai, dù nhỏ hay lớn, chỉ
đánh một mình vua Ít-ra-en thôi.” 31 Khi các người chỉ huy chiến xa
nhìn thấy vua Giơ-hô-sa-phát thì nói: "Vua Ít-ra-en đây rồi!" Họ bao
vây tấn công vua, nhưng vua Giơ-hô-sa-phát thét lên. Ðức Chúa liền trợ giúp
vua, Người làm cho chúng rời xa vua. 32 Khi thấy rằng đó không phải
là vua Ít-ra-en thì các người chỉ huy chiến xa không đuổi theo nữa. 33 Một
người giương cung bắn đại, lại trúng ngay vua Ít-ra-en vào giữa khớp của áo
giáp. Vua liền bảo người đánh xe: "Ta bị thương rồi! Quay xe lại đi! Ðưa
ta ra khỏi chiến trường!” 34 Nhưng trận chiến hôm ấy trở nên ác
liệt, và người ta đã cho vua Ít-ra-en đứng trên xe, đối diện với quân A-ram cho
đến chiều, và lúc mặt trời lặn thì vua chết.
Chương 19
1
Giơ-hô-sa-phát
vua Giu-đa trở về nhà mình tại Giê-ru-sa-lem bình an vô sự. 2 Thầy
chiêm Giê-hu con ông Kha-na-ni ra đón vua Giơ-hô-sa-phát và thưa: "Liệu có
nên trợ lực cho kẻ xấu chăng? Chẳng lẽ vua lại đi yêu kẻ ghét Ðức Chúa, để chuốc
lấy cho vua cơn thịnh nộ của Người? 3 Dù sao thì vua cũng có những cái tốt, bởi
vì vua đã phá huỷ các cột thờ khỏi xứ sở và đã quyết tâm tìm kiếm Thiên
Chúa."
Cải
tổ nền tư pháp
4
Sau
một thời gian cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, vua Giơ-hô-sa-phát lại ra đi thăm dân,
từ Bơ-e Se-va tới vùng núi Ép-ra-im, để đưa họ về với Ðức Chúa, Thiên Chúa tổ
tiên họ. 5 Vua đặt các thẩm phán cho từng thành một tại tất cả các
thành kiên cố trong toàn cõi Giu-đa. 6 Vua nói với các thẩm phán:
"Phải cẩn thận khi thi hành phận sự, vì không phải nhân danh người phàm mà
các ngươi xét xử, nhưng là nhân danh Ðức Chúa, Ðấng ở với các ngươi khi các
ngươi tuyên án. 7 Vậy phải một lòng kính sợ Ðức Chúa, mà nắm vững và
thi hành công lý, vì Ðức Chúa Thiên Chúa chúng ta không dung tha chuyện thiên
vị bất công, chuyện nhận quà hối lộ."
8
Tại
Giê-ru-sa-lem, vua Giơ-hô-sa-phát cũng đặt những thầy Lê-vi, những tư tế, và
gia trưởng trong dân Ít-ra-en, để họ nhân danh Ðức Chúa mà xét xử và giải quyết
những vụ tranh tụng giữa cư dân Giê-ru-sa-lem. 9 Vua truyền cho họ
rằng: "Ðây là cách thức thi hành phận sự: các ngươi phải có lòng kính sợ
Ðức Chúa, phải trung thực và thanh liêm. 10 Khi các anh em các ngươi
cư ngụ trong các thành của họ đem đến cho các ngươi một vụ kiện nhờ các ngươi
giải quyết, dù là chuyện đổ máu, chuyện liên quan đến một khoản luật, một mệnh
lệnh, đến các quy định, hoặc sắc chỉ, thì các ngươi phải soi sáng cho họ, để họ
khỏi mắc tội với Ðức Chúa mà kéo thịnh nộ của Người xuống trên các ngươi cũng
như trên chính mình họ. Có làm như thế các ngươi mới không mắc tội.
11
Trong
mọi chuyện liên quan tới Ðức Chúa thì người cầm đầu các ngươi là A-mác-gia-hu;
còn trong mọi chuyện liên quan tới đức vua, thì người đó là Dơ-vát-gia-hu, con
ông Gít-ma-ên, thủ lãnh nhà Giu-đa. Làm phận sự ký lục thì đã có các thầy
Lê-vi. Cứ can đảm hành động. Ai tốt thì có Ðức Chúa ở cùng."
Chương 20
Một
cuộc thánh chiến
1
Sau
đó, con cái Mô-áp và con cái Am-mon, có những người Ma-ôn đi theo, đến gây
chiến với vua Giơ-hô-sa-phát. 2 Người ta báo tin cho vua Giơ-hô-sa-phát
rằng: "Một đạo quân đông đảo từ bên kia biển, từ Ê-đôm, đến tấn công ngài,
và này chúng đã ở Khát-xôn Ta-ma, tức là Ên Ghe-đi."
3
Vua
Giơ-hô-sa-phát hoảng sợ và quyết tâm tìm kiếm Ðức Chúa. Vua kêu gọi toàn thể
Giu-đa ăn chay. 4 Dân Giu-đa tập họp lại kêu cầu Ðức Chúa. Từ khắp
các thành của Giu-đa, người ta cũng đến kêu cầu Ðức Chúa. 5 Vua
Giơ-hô-sa-phát đứng giữa cộng đoàn Giu-đa và Giê-ru-sa-lem trong Ðền Thờ của
Ðức Chúa, trước sân mới, 6 và cầu nguyện: "Lạy Ðức Chúa là
Thiên Chúa tổ tiên chúng con, chẳng phải Ngài là Thiên Chúa vừa ngự chốn trời
cao, vừa thống trị các dân các nước, nắm trong tay sức mạnh và uy quyền, khiến
không ai địch nổi Ngài đó sao? 7 Lạy Thiên Chúa chúng con, chẳng phải Ngài là
Ðấng đã đuổi cư dân xứ này, bắt nhường chỗ cho Ít-ra-en dân Ngài và ban đất ấy
cho dòng dõi Áp-ra-ham, bạn thân của Ngài đến muôn đời đó sao? 8 Chính trên đất
đó mà họ đã cư ngụ, đã xây một thánh điện kính danh Ngài. Họ nói: 9 "Nếu
chẳng may chúng con gặp chinh chiến, bị trừng phạt, gặp dịch tễ hoặc đói kém,
thì chúng con sẽ đứng trước Ðền Thờ này, trước nhan Ngài đây, vì đây chính là
nơi danh Ngài ngự. Trong cơn cùng khốn, chúng con sẽ kêu lên Ngài, Ngài sẽ lắng
nghe và cứu giúp chúng con.
10
Ngài
thấy đó: con cái Am-mon, Mô-áp và dân vùng núi Xê-ia. Xưa kia khi Ít-ra-en rời
khỏi đất Ai-cập, Ngài đã không cho phép đi vào đất của các dân này. Ngài đã bắt
phải tránh xa chúng, chứ không được tiêu diệt. 11 Nay các dân này
sắp lấy oán đền ơn là trục xuất chúng con khỏi phần đất của Ngài, đất Ngài đã
ban cho chúng con làm sản nghiệp. 12 Lạy Thiên Chúa chúng con, chẳng
lẽ Ngài không trừng phạt chúng? Quả thật, chúng con không đủ sức địch nổi đám
dân đông đảo đến tấn công chúng con đâu. Chúng con chỉ biết ngước mắt nhìn lên
Ngài."
13
Toàn
thể dân Giu-đa, kể cả đàn bà con trẻ, đều đứng trước nhan Ðức Chúa. 14 Bấy
giờ, giữa cộng đoàn, thần khí Ðức Chúa xuống trên ông Gia-kha-di-ên con ông
Dơ-khác-gia-hu, cháu ông Bơ-na-gia, ông này là con ông Giơ-y-ên, cháu ông
Mát-tan-gia; Gia-kha-di-ên là một thầy Lê-vi trong hàng con cháu ông A-xáp. 15
Ông nói: "Toàn thể Giu-đa, dân cư Giê-ru-sa-lem và vua
Giơ-hô-sa-phát, xin lắng tai nghe! Ðức Chúa phán với các ngài như sau:
"Các ngươi đừng sợ, đừng khiếp đảm trước đám dân đông đảo này, vì cuộc
chiến này không phải của các ngươi, nhưng là của Thiên Chúa. 16 Sớm
mai hãy xuống mà đánh chúng; chúng sẽ đi lên theo triền dốc Xít và các ngươi sẽ
gặp chúng ở cuối con suối đối diện với sa mạc Giơ-ru-ên. 17 Trong
trận này, các ngươi không phải chiến đấu, cứ án binh bất động mà xem Ðức Chúa,
Ðấng ở với các ngươi, sẽ giải thoát các ngươi như thế nào. Sớm mai hãy ra đón
chúng, và Ðức Chúa sẽ ở với các ngươi."
18
Vua
Giơ-hô-sa-phát sấp mặt xuống đất và toàn thể Giu-đa cùng dân cư Giê-ru-sa-lem
phủ phục trước Ðức Chúa mà thờ lạy. 19 Các thầy Lê-vi con cháu ông
Cơ-hát và con cháu ông Cô-rắc đứng lên lớn tiếng ca tụng Ðức Chúa, Thiên Chúa
của Ít-ra-en.
20
Họ
thức dậy thật sớm và đi vào sa mạc Tơ-cô-a. Trong khi họ đi như thế, vua
Giơ-hô-sa-phát đứng ra và nói: "Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem hãy nghe
ta: Ðức Chúa là Thiên Chúa các ngươi, cứ tin tưởng vào Người, các ngươi sẽ tồn
tại; cứ tin lời các ngôn sứ của Người, các ngươi sẽ chiến thắng.” 21 Sau
khi hội ý với dân, vua cắt đặt những người ca hát ngợi khen Ðức Chúa. Họ mặc
phẩm phục thánh, vừa đi trước quân binh vừa hát: "Hãy ngợi khen Ðức Chúa,
vì muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương.” 22 Khi họ cất tiếng
reo mừng và ca ngợi, thì Ðức Chúa gây mâu thuẫn giữa hàng ngũ quân Am-mon, quân
Mô-áp và dân vùng núi Xê-ia đang tiến đánh Giu-đa. Thế là chúng bị thảm bại. 23
Con cái Am-mon và Mô-áp nổi lên chống lại dân cư vùng núi Xê-ia để tru
diệt và quét sạch đám dân này. Thanh toán đám này xong, con cái Am-mon và Mô-áp
lại giúp nhau tự huỷ diệt.
24
Khi
tới một nơi cao từ đó có thể nhìn xuống sa mạc được, quân Giu-đa quay nhìn đám
đông, liền thấy tử thi nằm la liệt trên mặt đất, không một ai sống sót. 25
Vua Giơ-hô-sa-phát và quân binh của vua đến thu chiến lợi phẩm; họ thấy
một đoàn vật rất đông cùng với của cải, áo quần và các vật dụng quý giá. Họ
lượm lấy cho mình nhiều không thể mang hết được. Phải mất ba ngày mới thu hết
chiến lợi phẩm, vì có rất nhiều. 26 Ngày thứ tư họ họp đại hội ở
thung lũng Bơ-ra-kha. Tại đây họ đã chúc tụng Ðức Chúa; vì thế cho đến ngày
nay, người ta vẫn gọi nơi ấy là "thung lũng Bơ-ra-kha" (có nghĩa là
"chúc tụng"). 27 Sau đó, vua Giơ-hô-sa-phát dẫn đầu mọi
người Giu-đa và Giê-ru-sa-lem vui sướng lên đường trở về Giê-ru-sa-lem, vì Ðức
Chúa đã ban cho họ niềm vui thoát khỏi quân thù. 28 Họ trổi vang
tiếng đàn cầm đàn sắt cùng với tiếng kèn, tiến vào Giê-ru-sa-lem, lên Ðền Thờ
Ðức Chúa. 29 Mọi nước mọi dân nghe biết rằng Ðức Chúa đã chiến đấu
chống quân thù của Ít-ra-en, thì đều khiếp sợ người.30 Triều đại vua
Giơ-hô-sa-phát được yên ổn và Thiên Chúa của vua ban cho vua được bình an tư
bề.
Cuối
triều vua Giơ-hô-sa-phát (1 V 22:41-51)
31
Vua
Giơ-hô-sa-phát làm vua Giu-đa. Vua lên ngôi lúc ba mươi lăm tuổi và trị vì ở
Giê-ru-sa-lem hai mươi lăm năm. Thân mẫu vua là bà A-du-va, ái nữ ông Sin-khi. 32
Vua theo đường lối của phụ vương A-xa, không sai trệch, tức là làm điều
ngay chính trước mắt Ðức Chúa. 33 Thế nhưng các nơi cao không biến
đi hết, và dân chưa quyết tâm thờ Thiên Chúa tổ tiên mình. 34 Các
truyện còn lại về vua Giơ-hô-sa-phát, từ những việc đầu tiên đến những việc
cuối cùng đã được ghi chép trong Sử biên niên của ông Giê-hu con ông Kha-na-ni.
Sử biên niên này đã được đưa vào sách các Vua Ít-ra-en.
35
Sau
đó, Giơ-hô-sa-phát vua Giu-đa đã liên kết với A-khát-gia vua Ít-ra-en, một con
người ăn ở gian ác. 36 Vua liên kết với ông ta như vậy là để đóng
tàu đi Tác-sít; và nơi họ đóng tàu là E-xi-ôn Ghe-ve. 37 Bấy giờ ông
Ê-li-e-de con ông Ðô-đa-va-hu người Ma-rê-sa nói tiên tri chống vua
Giơ-hô-sa-phát rằng: "Vì vua liên kết với vua A-khát-gia-hu, nên Ðức Chúa
phá công việc của vua." Quả thật đoàn tàu đã vỡ và không thể đi Tác-sít
được.
Chương 21
1
Vua
Giơ-hô-sa-phát an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất với các ngài trong Thành
Ða-vít. Con vua là Giơ-hô-ram lên ngôi kế vị.
5.
Sự Bất Trung
Và
Những Tai Họa Của Vua Giơ-Hô-Ram
Vua
A-khát-gia, hoàng hậu A-than-gia-hu và vua Giô-át (2 V 8:17-24a)
2
Vua
Giơ-hô-ram có mấy người anh em con vua Giơ-hô-sa-phát sau đây: A-dác-gia,
Giơ-khi-ên, Dơ-khác-gia-hu, A-dác-gia-hu, Mi-kha-ên, Sơ-phát-gia-hu. Tất cả
những người này đều là con của Giơ-hô-sa-phát, vua Giu-đa. 3 Thân
phụ các ông đã tặng các ông những thành kiên cố tại Giu-đa, cùng với rất nhiều
quà: bạc, vàng và báu vật; còn vương quyền thì vua trao cho Giơ-hô-ram, vì ông
này là con trưởng. 4 Nhưng nắm được vương quyền và củng cố được thế
lực rồi, vua Giơ-hô-ram dùng gươm giết tất cả các em và một số thủ lãnh
Ít-ra-en nữa.
5
Giơ-hô-ram
lên ngôi vua khi được ba mươi hai tuổi, và trị vì ở Giê-ru-sa-lem tám năm. 6
Vua đi theo đường lối các vua Ít-ra-en, hành động như nhà A-kháp, vì vua
đã lấy một người con gái của vua A-kháp làm vợ. Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức
Chúa. 7 Nhưng Ðức Chúa không muốn huỷ diệt nhà Ða-vít, chỉ vì giao
ước Người đã thiết lập với vua Ða-vít và vì lời Người đã hứa là sẽ ban cho vua
và con cháu một ngọn đèn luôn luôn cháy sáng.
8
Dưới
thời của vua, Ê-đôm thoát ách thống trị của Giu-đa và đặt một vua lên cai trị
mình. 9 Vua Giơ-hô-ram, cùng với các chỉ huy và toàn bộ chiến xa
vượt biên giới. Ban đêm vua trỗi dậy, đánh quân Ê-đôm đang bao vây vua và những
người chỉ huy chiến xa. 10 Thế là Ê-đôm thoát ách thống trị của
Giu-đa cho tới ngày nay. Bấy giờ Líp-na thoát ách của vua.
Vua
đã bỏ Ðức Chúa, Thiên CHúa tổ tiên mình, 11 lại còn lập những nơi
cao trên các núi của Giu-đa, làm cớ cho cư dân Giê-su-sa-lem đi vào con đường
thờ quấy, khiến Giu-đa ra hư đốn. 12 Bấy giờ, ngôn sứ Ê-li-a gửi cho
vua một bức thư nội dung như sau: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của vua Ða-vít tổ
phụ vua, phán thế này: "Ngươi không theo đường lối Giơ-hô-sa-phát thân phụ
ngươi và A-xa vua Giu-đa đã đi, 13 lại theo các vua Ít-ra-en mà làm
cớ cho Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem đi vào con đường thờ quấy như nhà A-kháp
đã làm. Ngay cả các em con cùng cha với ngươi, những kẻ tốt hơn ngươi, ngươi
cũng đã giết. 14 Bởi thế, này Ðức Chúa sẽ giáng đại hoạ xuống dân
ngươi, xuống thê thiếp và con cái ngươi, xuống tất cả tài sản ngươi. 15 Còn
chính ngươi, ngươi sẽ mắc đủ thứ bệnh, sẽ đau ruột ngày này qua ngày khác, đau
đến sổ ruột ra."
16
Bấy
giờ Ðức Chúa thúc đẩy dân Phi-li-tinh và dân Ả-rập giáp ranh với người Cút đứng
lên chống lại vua Giơ-hô-ram. 17 Chúng tiến lên, xâm nhập Giu-đa và
vơ vét hết tài sản trong hoàng cung. Ngay cả con cái, thê thiếp của vua, chúng
cũng không từ, chỉ sót lại đứa con út Giơ-hô-a-khát.18 Sau hết, Ðức Chúa làm
cho vua mắc một chứng bệnh nan y ở đường ruột. 19 Bệnh tình vua kéo
dài ngày này qua ngày khác suốt hai năm. Cuối cùng, vua bị lòi ruột ra và đã
tắt thở giữa những cơn đau dữ dội. Dân không đốt hương để tỏ lòng tôn kính vua
như vẫn làm cho các vị tiền nhiệm.
20
Vua
lên ngôi khi được ba mươi hai tuổi, và trị vì tám năm ở Giê-ru-sa-lem. Vua ra
đi mà không ai thương khóc. Vua được chôn cất trong Thành Ða-vít, nhưng không
được đặt trong phần mộ các vua.
Chương 22
Triều
vua A-khát-gia-hu (2 V 8:25-29; 9:21-28)
1
Cư
dân Giê-ru-sa-lem tôn con út của vua là A-khát-gia-hu lên kế vị, vì toán người
cùng quân Ả-rập xâm nhập doanh trại đã giết hết các con lớn của vua rồi. Thế là
A-khát-gia-hu con vua Giơ-hô-ram lên trị vì Giu-đa. 2 A-khát-gia-hu
lên ngôi vua khi được hai mươi hai tuổi, và trị vì ở Giê-ru-sa-lem được một
năm. Thân mẫu vua là bà A-than-gia-hu, ái nữ vua Om-ri. 3 Cả vua này
cũng theo đường lối của nhà A-kháp, vì nghe mẹ xúi làm điều bất lương. 4 Vua
làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa như nhà A-kháp, vì sau khi phụ vương qua đời, họ
đã góp ý cho vua khiến vua phải tiêu vong. 5 Vua còn theo lời họ
khuyên, mà cùng với vua Giơ-hô-ram, con của A-kháp vua Ít-ra-en, đi đánh
Kha-da-ên vua A-ram tại Ra-mốt Ga-la-át. Nhưng người A-ram đã đánh vua Giô-ram
bị thương. 6 Vua quay về Gít-rơ-en để chữa trị, vì đã bị thương tại
Ra-ma trong lúc giao chiến với vua A-ram là Kha-da-ên.
Vua
A-khát-gia-hu con Giơ-hô-ram, vua Giu-đa, xuống Gít-rô-en thăm vua Giơ-hô-ram
con vua A-kháp vì vua này đang đau. 7 Thiên Chúa đã để cho vua
A-khát-gia-hu chuốc lấy cái chết khi đi thăm vua Giơ-hô-ram. Quả vậy, vừa đến
nơi, vua cùng với vua Giơ-hô-ram ra đón ông Giê-hu con ông Nim-si. Ông Giê-hu
là người đã được Ðức Chúa xức dầu sai đi tiêu diệt nhà A-kháp. 8 Trong
khi hành quyết nhà A-kháp, ông Giê-hu bắt gặp các thủ lãnh của Giu-đa và các
cháu của vua A-khát-gia-hu đang phục vụ vua, ông giết họ luôn. 9 Sau
đó, ông cho tầm nã vua A-khát-gia-hu và bắt được vua đang lẩn trốn ở Sa-ma-ri.
Vua bị điệu đến cho ông Giê-hu và bị ông này hạ sát. Vua được chôn cất tử tế,
vì người ta nói: "Dầu sao, đây cũng là con vua Giơ-hô-sa-phát, người đã
hết lòng tìm kiếm Ðức Chúa." Thế là trong nhà A-khát-gia-hu, chẳng còn ai
có khả năng nắm quyền cai trị nữa.
Tội
ác của bà A-than-gia-hu (2 V 11:1-3)
10
Bà
A-than-gia-hu, thân mẫu vua A-khát-gia-hu, thấy con mình đã chết, thì đứng lên
tiêu diệt tất cả hoàng tộc của nhà Giu-đa. 11 Nhưng bà
Giơ-hô-sáp-át, ái nữ vua Giơ-hô-ram, đã ẵm Giô-át con vua A-khát-gia-hu, lén
đưa cậu ra khỏi số hoàng tử sẽ bị sát hại, giấu trong phòng ngủ cùng với người
vú nuôi. Thế là bà Giơ-hô-sáp-át, ái nữ vua Giơ-hô-ram, vợ của tư tế
Giơ-hô-gia-đa, cũng là chị của vua A-khát-gia-hu, đã giấu được cậu bé khuất mắt
bà A-than-gia-hu, không để bà sát hại. 12 Cậu cùng với họ ẩn náu
trong Nhà Thiên Chúa sáu năm trời, suốt thời bà A-than-gia cai trị xứ sở.
Chương 23
Vua
Giô-át lên ngôi. Bà A-than-gia-hu chết. (2 V 11:4-16)
1
Năm
thứ bảy ông Giơ-hô-gia-đa quyết tâm hành động; ông sai người đi mời các vị chỉ
huy trăm quân sau đây: ông A-dác-gia-hu con ông Giơ-rô-kham, ông Gít-ma-ên con
ông Giơ-hô-kha-nan, ông A-dác-gia-hu con ông Ô-vết, ông Ma-a-xê-gia-hu con ông
A-đa-gia-hu, ông Ê-li-sa-phát con ông Dích-ri để kết ước với ông. 2 Họ
đi khắp Giu-đa móc nối với các thầy Lê-vi và các trưởng tộc tại tất cả các
thành trong xứ. Sau đó họ trở về Giê-ru-sa-lem. 3 Bấy giờ toàn thể
cộng đoàn kết ước với vua trong Ðền Thờ Thiên Chúa. Ông Giơ-hô-gia-đa lên
tiếng: "Ðây là hoàng thái tử, người phải được làm vua như lời Ðức Chúa đã
phán về con cháu vua Ða-vít. 4 Ðây là điều các ông phải làm: một
phần ba các ông là những tư tế và những thầy Lê-vi đang phiên trực ngày sa-bát
sẽ đứng gác tại các cửa. 5 Một phần ba gác tại hoàng cung. Một phần
ba còn lại gác cửa Giơ-xốt. Trong khi đó, tất cả dân chúng sẽ ở trong các sân
của Ðền Thờ Ðức Chúa. 6 Không ai được vào Ðền Thờ Ðức Chúa, ngoại
trừ các tư tế và các thầy Lê-vi đang công tác; những người này được vào vì họ
đã được thánh hiến. Toàn dân sẽ phải tuân giữ điều Ðức Chúa đã ấn định. 7 Các
thầy Lê-vi sẽ đứng chung quanh vua, ai nấy đều cầm khí giới trong tay. Kẻ nào
vào Ðền Thờ sẽ bị xử tử. Khi vua đi ra đi vào, các ông luôn phải ở bên cạnh
vua."
8
Các
thầy Lê-vi và toàn thể Giu-đa làm đúng mọi điều tư tế Giơ-hô-gia-đa đã truyền:
mỗi người lo giữ người của mình lại, những người đến phiên trực ngày sa-bát
cũng như những người hết phiên trực ngày sa-bát, bởi vì tư tế Giơ-hô-gia-đa
không cho các ban hết phiên được nghỉ. 9 Tư tế Giơ-hô-gia-đa trao
cho các vị chỉ huy trăm quân đó giáo, thuẫn lớn, thuẫn nhỏ của vua Ða-vít để
trong Ðền Thờ Thiên Chúa. 10 Ông chỉ định vị trí cho mọi người, ai
nấy đều cầm khí giới trong tay, từ bên phải sang bên trái Ðền Thờ, trước bàn
thờ và Ðền Thờ, cốt để bao quanh vua. 11 Người ta rước hoàng tử ra,
đội vương miện và trao cuộn Chứng Ước. Bấy giờ tư tế Giơ-hô-gia-đa và các con
ông phong vương và xức dầu cho vua và hô: "Vạn tuế đức vua!"
12
Khi
bà A-than-gia-hu nghe tiếng dân chúng vừa chạy vừa hoan hô vua, thì bà đi về
phía dân chúng đang ở Ðền Thờ Ðức Chúa. 13 Bà nhìn lên, thì kìa, vua
đang đứng trên bục ngay lối vào, các vị chỉ huy và các người thổi kèn ở bên
cạnh vua. Toàn dân trong xứ hân hoan reo hò giữa tiếng kèn trổi vang. Các ca
viên có nhạc khí phụ hoạ, xướng lên những bài ca hoan hô. Bà A-than-gia-hu liền
xé áo mình ra và la lên: "Phản bội! Phản bội!” 14 Tư tế
Giơ-hô-gia-đa cho các vị chỉ huy một trăm quân đứng đầu toán binh đi ra và bảo
họ: "Lôi nó ra khỏi hàng quân! Ai theo nó thì lấy gươm chém chết! Tư tế ra
lệnh: không được giết nó trong Nhà Ðức Chúa.” 15 Khi bà chạy tới Cửa
Ngựa của hoàng cung thì bị bắt và bị hành quyết.
Cuộc
cải cách của tư tế Giơ-hô-gia-đa (2 V 11:17-20)
16
Ông
Giơ-hô-gia-đa lập một giao ước giữa ông với toàn dân và với vua, cam kết làm
dân của Ðức Chúa. 17 Mọi người kéo tới phá huỷ đền thờ của Ba-an,
đập tan các bàn thờ và ảnh tượng, rồi giết chết tư tế Mát-tan của thần Ba-an
ngay trước bàn thờ. 18 Sau đó ông Giơ-hô-gia-đa giao công tác phục
vụ Ðền Thờ Ðức Chúa vào tay các tư tế và các thầy Lê-vi. Những vị này đã được
vua Ða-vít chia thành từng ban lo việc Ðền Thờ Ðức Chúa, để dâng lễ toàn thiêu
kính Ðức Chúa, như đã chép trong Luật Mô-sê, với niềm hân hoan, với lời ca hát
theo cách thức vua Ða-vít ấn định. 19 Ông cũng cắt người canh tại
các cửa Ðền Thờ Ðức Chúa, không cho người nhiễm uế vì bất cứ lý do gì được vào.
20 Rồi ông đem các vị chỉ huy trăm quân, các thân hào nhân sĩ trong
dân và toàn dân trong xứ đến rước vua. Họ đưa vua ra khỏi Ðền Thờ Ðức Chúa, đi
qua cửa trên vào hoàng cung, rồi đặt vua lên ngai vàng. 21 Toàn dân
trong xứ vui mừng và thành đô được yên ổn, vì bà A-than-gia-hu đã bị đâm chết.
Chương 24
Vua
Giô-át trùng tu Ðền Thờ (2 V 12:1-16)
1
Giô-át
lên ngôi vua khi được bảy tuổi, và trị vì ở Giê-ru-sa-lem được bốn mươi năm.
Thân mẫu vua là bà Xíp-gia, người Bơ-e Se-va. 2 Suốt thời tư tế
Giơ-hô-gia-đa, vua Giô-át đã làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa. 3 Ông
Giơ-hô-gia-đa cưới cho vua hai người vợ, và vua được một số con trai con gái.4
Sau đó, vua Giô-át quyết định trùng tu Ðền Thờ Ðức Chúa.
5
Vua
triệu tập các tư tế, các thầy Lê-vi và nói: "Các ngươi hãy đi khắp các
thành xứ Giu-đa và quyên góp tiền bạc trong toàn dân Ít-ra-en, để hàng năm sửa
sang Ðền Thờ của Thiên Chúa các ngươi. Phải mau mắn tiến hành công việc!"
Nhưng các thầy Lê-vi lại không mau mắn. 6 Bấy giờ vua mời người đứng
đầu là ông Giơ-hô-gia-đa đến và bảo: "Tại sao ông không liệu cho các thầy
Lê-vi thu về phần đóng góp của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, như ông Mô-sê tôi tớ
của Ðức Chúa cũng như cộng đồng Ít-ra-en đã quy định phải nộp cho Lều Giao Ước.
7 Quả thật, con mụ bất lương A-than-gia-hu và đồng bọn đã cướp bóc
Ðền Thờ của Thiên Chúa, lại còn lấy các đồ thánh trong Ðền Thờ Ðức Chúa đem
dâng kính các Ba-an.” 8 Vua ra lệnh làm một cái hòm và cho đặt bên
ngoài cửa vào Ðền Thờ Ðức Chúa. 9 Rồi người ta kêu gọi Giu-đa và
Giê-ru-sa-lem đem nộp phần đóng góp dâng cho Ðức Chúa, như ông Mô-sê, tôi tớ
Thiên Chúa, đã truyền cho Ít-ra-en trong sa mạc. 10 Tất cả các vị
thủ lãnh cùng toàn dân hoan hỷ mang tiền đến bỏ vào hòm, cho đến khi mọi người
nộp xong.
11
Khi
được nhiều tiền và phải mang hòm đến để vua nhờ các thầy Lê-vi kiểm soát, thì
các viên ký lục của vua và uỷ viên của vị trưởng tư tế sẽ đến đổ tiền trong hòm
ra; rồi mang hòm đặt lại chỗ cũ. Ngày nào họ cũng làm như thế, và gom được rất
nhiều tiền bạc. 12 Vua và ông Giơ-hô-gia-đa trao số bạc đó cho các
thợ phụ trách công việc tại Ðền Thờ Ðức Chúa. Những người này thuê thợ đá, thợ
mộc để trùng tu Ðền Thờ Ðức Chúa, cũng như mướn thợ sắt, thợ đồng để sửa sang
Ðền Thờ Ðức Chúa. 13 Các người thợ này bắt tay vào việc, và nhờ họ,
công việc được tiến triển tốt đẹp. Như thế, họ đã khôi phục tình trạng của Ðền
Thờ Ðức Chúa và làm cho Ðền Thờ thêm vững chắc. 14 Khi công việc
hoàn tất, họ đem nộp số bạc còn lại cho vua và ông Giơ-hô-gia-đa. Người ta dùng
số bạc ấy để làm những vật dụng cho Ðền Thờ Ðức Chúa: các vật dụng dành cho
việc thờ phượng và các lễ toàn thiêu, các chén, các đồ vàng đồ bạc.
15
Ông
Giơ-hô-gia-đa sống đến già, tuổi thọ rất cao, rồi qua đời. Lúc chết, ông được
một trăm ba mươi tuổi.16 Người ta chôn cất ông trong Thành vua Ða-vít cùng với
các vua, vì ông đã làm điều tốt lành trong Ít-ra-en đối với Thiên Chúa và Ðền
Thờ của Người.
Sự
yếu đuối của vua Giô-át. Thiên Chúa trừng phạt.
17
Sau
khi ông Giơ-hô-gia-đa qua đời, các thủ lãnh Giu-đa đến bái yết nhà vua và lúc
ấy nhà vua nghe theo họ. 18 Họ đã bỏ Ðền Thờ của Ðức Chúa là Thiên
Chúa tổ tiên họ, mà phụng sự các cột thờ và các ngẫu tượng. Vì tội ấy Ðức Chúa
đã giáng cơn thịnh nộ xuống Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 19 Người đã sai
các ngôn sứ đến với họ, để đưa họ quay về với Ðức Chúa. Các vị ấy đã khuyến
cáo, nhưng họ không thèm để tai. 20 Ông Da-ca-ri-a, con tư tế
Giơ-hô-gia-đa, được đầy thần khí Thiên Chúa, đứng trên cao, đối diện với dân và
nói: "Thiên Chúa phán thế này: "Tại sao các ngươi vi phạm lệnh truyền
của Ðức Chúa, mà chuốc lấy thất bại? Vì các ngươi đã lìa bỏ Ðức Chúa, nên Ðức
Chúa cũng lìa bỏ các ngươi.” 21 Họ liền toa rập chống lại ông và,
theo lệnh vua, họ ném đá giết ông trong sân Ðền Thờ Ðức Chúa. 22 Vua
Giô-át không nhớ đến tình nghĩa mà ông Giơ-hô-gia-đa, thân phụ ông Da-ca-ri-a,
đã dành cho mình, nên mới sát hại ông này. Lúc gần chết, ông Da-ca-ri-a kêu
lên: "Xin Ðức Chúa nhìn xem và báo oán cho con."
23
Ðầu
năm sau, quân đội A-ram tiến đánh vua Giô-át. Chúng xâm nhập Giu-đa và
Giê-ru-sa-lem, tàn sát tất cả các thủ lãnh trong dân và gửi tất cả chiến lợi
phẩm về cho vua Ða-mát. 24 Thực ra, lực lượng A-ram chỉ đến với một
số ít người, nhưng Ðức Chúa đã trao một lực lượng rất đông đảo vào tay chúng,
chỉ vì dân Ít-ra-en đã lìa bỏ Ðức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên mình.
Quân
A-ram đã trị tội vua Giô-át. 25 Khi chúng rút lui, bỏ vua lại trong
cơn đau trầm trọng, các thuộc hạ của vua đã toa rập với nhau chống lại vua, trả
thù cho máu người con của tư tế Giô-hô-gia-đa. Họ giết vua ngay trên giường.
Vua đã chết và được mai táng trong Thành Ða-vít, nhưng không được chôn nơi phần
mộ hoàng gia. 26 Ðây là những người đã toa rập chống lại vua: ông
Da-vát, con bà Sim-át, người Am-mon và ông Giơ-hô-da-vát, con bà Sim-rít, người
Mô-áp. 27 Những chuyện liên quan tới các con vua, tới các lời sấm
chống lại vua, tới việc tu bổ Ðền Thờ Thiên Chúa, tất cả đều được ghi chép
trong phần chú giải sách Các Vua. Thái tử A-mát-gia-hu lên ngôi kế vị.
Chương 25
6.
Ðạo Ðức Dở Dang Và Thành Công Nửa Vời
Của
Các Vua A-Mát-Gia-Hu, Út-Di-Gia-Hu Và Giô-Tham
Vua
A-mát-gia-hu lên ngôi (2 V 14:2-6)
1
A-mát-gia-hu
lên ngôi vua khi được hai mươi lăm tuổi, và trị vì tại Giê-ru-sa-lem hai mươi
chín năm. Thân mẫu của vua là bà Giơ-hô-át-đan người Giê-ru-sa-lem. 2 Vua
làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, nhưng lòng vua không trọn vẹn với Người.
3 Khi đã nắm vững vương quyền trong tay, vua hạ sát những thuộc hạ
đã hạ sát vua cha. 4 Nhưng vua không xử tử con cái những kẻ sát nhân
ấy như đã chép trong sách Luật Mô-sê, chiếu theo lệnh Ðức Chúa truyền rằng:
"Cha sẽ không bị xử tử vì con, và con sẽ không bị xử tử vì cha: mỗi người
sẽ bị xử tử vì tội của mình."
Cuộc
chiến chống Ê-đôm (2 V 14:7)
5
Vua
A-mát-gia-hu triệu tập người Giu-đa lại và tổ chức quân ngũ theo gia tộc, đặt
dưới quyền các chỉ huy ngàn quân và chỉ huy trăm quân trong toàn cõi Giu-đa và
Ben-gia-min. Vua làm sổ thống kê những người từ hai mươi tuổi trở lên, được tất
cả là ba trăm ngàn người ưu tú đến tuổi nhập ngũ, biết sử dụng khiên thuẫn và
giáo mác. 6 Vua còn bỏ ra ba ngàn ký bạc thuê một trăm ngàn anh hùng
dũng sĩ của Ít-ra-en. 7 Nhưng một người của Thiên Chúa đến thưa vua
rằng: "Thưa đức vua, xin đừng để quân đội Ít-ra-en đi với ngài, vì Ðức
Chúa không ở với Ít-ra-en, với tất cả những người Ép-ra-im đó. 8 Vì
nếu ngài tưởng rằng nhờ họ mà lực lượng của ngài thêm mạnh, thì Thiên Chúa cũng
sẽ làm cho ngài ra yếu trước quân thù, bởi vì Thiên Chúa có quyền gia tăng sức
mạnh hay làm cho suy yếu.” 9 Vua A-mát-gia-hu nói với người của
Thiên Chúa: "Vậy thì ta sẽ làm gì với ba ngàn ký bạc ta đã trao cho đơn vị
Ít-ra-en?" Người của Thiên Chúa trả lời: "Ðức Chúa có thể ban cho vua
nhiều hơn gấp bội.” 10 Bấy giờ đơn vị từ Ép-ra-im đến được vua
A-mát-gia-hu tách ra và cho về nhà. Họ rất bực tức với Giu-đa và ra về, lòng
đầy căm phẫn.
11
Vua
A-mát-gia-hu quyết định dẫn đầu quân binh của mình đi tới thung lũng Muối. Tại
đây ông hạ được mười ngàn con cái Xê-ia. 12 Mười ngàn nữa bị con cái
Giu-đa bắt sống, đưa lên đỉnh Tảng Ðá và xô xuống vực thẳm; tất cả đều chết tan
xác. 13 Trong khi đó, đơn vị bị vua A-mát-gia-hu thải hồi, không cho
theo vua đi đánh giặc, đã xông vào các thành của Giu-đa, từ Sa-ma-ri đến Bết
Khô-rôn, giết chết ba ngàn người và cướp bóc nhiều của cải.
14
Sau
khi chiến thắng quân Ê-đôm, vua A-mát-gia-hu trở về, mang theo các tượng thần
của con cái Xê-ia, tôn làm thần của mình, sụp lạy chúng và đốt hương dâng kính
chúng. 15 Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ với vua A-mát-gia-hu và đã sai
một ngôn sứ nói với vua: "Tại sao ngươi lại đi tìm kiếm các thần của dân
đó, những thần đã không cứu được chúng khỏi tay ngươi?” 16 Ngôn sứ
còn đang nói thì vua ngắt lời: "Chúng ta đã đặt ngươi làm cố vấn cho vua
hay sao? Thôi đi! Muốn chết phải không?" Vị ngôn sứ ngưng, nhưng rồi lại
nói: "Tôi biết là Thiên Chúa đã đồng ý cho ngài bị tiêu diệt, vì ngài đã
xử sự như thế và khi tôi tớ góp ý, ngài cũng chẳng thèm nghe."
Chiến
tranh với Ít-ra-en (2 V 14:8-14)
17
Sau
khi bàn luận, A-mát-gia-hu vua Giu-đa sai sứ giả đến vua Giô-át, con vua
Giơ-hô-a-khát, cháu vua Ít-ra-en là Giê-hu, và nói: "Nào đến đây, ta đọ
sức với nhau!” 18 Vua Ít-ra-en là Giô-át mới sai người đến nói với
A-mát-gia-hu vua Giu-đa: "Cỏ gai trên núi Li-băng sai người đến nói với
cây bá hương Li-băng: "Xin gả con gái của ngài cho con trai tôi. Nhưng một
con dã thú Li-băng đi qua đã đạp lên cỏ gai. 19 Ông tự hào là đã
đánh bại Ê-đôm, nên ông lên mặt. Nhưng muốn vênh vang thì cứ ở nhà mà vênh
vang! Hà cớ chi lại đi gây hoạ để chuốc lấy sụp đổ cho bản thân và cho cả
Giu-đa nữa?"
20
Nhưng
vua A-mát-gia-hu không chịu nghe. Thiên Chúa đã để xảy ra như thế cho họ bị nộp
vào tay vua Giô-át, vì họ đã tìm kiếm các thần của Ê-đôm. 21 Vua
Ít-ra-en là Giô-át tiến lên đọ sức với A-mát-gia-hu vua Giu-đa tại Bết Se-mét
thuộc Giu-đa. 22 Giu-đa bị Ít-ra-en đánh bại; quân Giu-đa chạy trốn,
ai về lều nấy. 23 Còn vua Giu-đa là A-mát-gia-hu, con vua Giô-át,
cháu vua Giơ-hô-a-khát thì bị vua Ít-ra-en là Giô-át bắt ở Bết Se-mét, và điệu
về thành Giê-ru-sa-lem. Vua Giô-át đập phá tường thành, tạo ra một lỗ hổng dài
hai trăm thước, từ Cửa Ép-ra-im đến Cửa Góc. 24 Sau đó vua lấy tất
cả vàng bạc cùng mọi đồ vật trong Nhà Thiên Chúa ông Ô-vết Ê-đôm đang giữ, lấy
các kho báu của hoàng cung, bắt các con tin, rồi trở về Sa-ma-ri.
Cuối
triều A-mát-gia-hu (2 V 14:17-20)
25
Sau
khi Giô-át con của Giơ-hô-a-khát, vua Ít-ra-en qua đời, A-mát-gia-hu vua Giu-đa
còn sống được mười lăm năm nữa.
26
Các
việc khác liên quan đến vua A-mát-gia-hu, từ những việc đầu tiên đến những việc
cuối cùng, lại không được ghi chép trong sách Các Vua Giu-đa và Ít-ra-en đó
sao? 27 Từ khi vua A-mát-gia-hu bỏ Ðức Chúa, người ta cũng âm mưu chống lại vua
tại Giê-ru-sa-lem. Vua phải trốn chạy về La-khít; nhưng bị quân binh rượt đuổi
đến tận La-khít và bị giết tại đây. 28 Người ta cho ngựa chở vua về
chôn cất bên cạnh tổ tiên trong Thành vua Ða-vít.
Chương 26
Khởi
đầu triều đại vua Út-di-gia-hu (2 V 14:21-22; 15:2-4)
1
Toàn
dân Giu-đa đặt Út-di-gia-hu mới mười sáu tuổi lên ngôi kế vị vua cha là
A-mát-gia-hu. 2 Chính vua đã tái thiết Ê-lát và trả lại thành ấy cho
Giu-đa sau khi vua A-mát-gia-hu an nghỉ bên cạnh tổ tiên. 3 Vua được
mười sáu tuổi khi lên ngôi và trị vì năm mươi hai năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua
tên là Giơ-khôn-gia-hu, người Giê-ru-sa-lem. 4 Vua đã làm điều ngay
chính trước mắt ÐỨC CHÚA, hoàn toàn đúng như vua cha là A-mát-gia-hu đã làm. 5
Vua đã tìm kiếm Thiên Chúa suốt thời ông Dơ-khác-gia-hu, người đã dạy cho
vua biết kính sợ Thiên Chúa. Bao lâu vua tìm kiếm Ðức Chúa, thì Thiên Chúa cho
vua được thành công.
Thế
lực của vua Út-di-gia-hu
6
Vua
Út-di-gia-hu xuất quân giao chiến với người Phi-li-tinh, triệt hạ tường thành
Gát, tường thành Giáp-ne, tường thành Át-đốt, rồi kiến thiết các thành trong
miền Át-đốt và miền của người Phi-li-tinh. 7 Thiên chúa đã hỗ trợ
vua chống lại người Phi-li-tinh, người Ả-rập cư ngụ ở Gua Ba-an, và người
Mơ-u-nim. 8 Người Am-mon đã triều cống vua Út-di-gia-hu; danh tiếng
vua vang đến tận ranh giới Ai-cập, vì uy lực của vua đã đạt tới cao độ.
9
Vua
Út-di-gia-hu xây những tháp canh ở Giê-ru-sa-lem, tại Cửa Góc, Cửa Thung lũng
và Nơi Tiếp Nối; vua tăng cường phòng thủ các tháp ấy. 10 Vua cũng
xây những tháp canh trong sa mạc, đào nhiều giếng nước, vì vua có nhiều súc vật
cả ở miền Sơ-phê-la, lẫn trên miền cao nguyên; lại có những người làm nghề
nông, những người trồng nho trên miền núi và trên núi Các-men, vì vua là người
yêu chuộng đất đai.
11
Vua
Út-di-gia-hu có một lực lượng quân binh thiện chiến, được chia thành từng đội,
tuỳ theo số người được kinh sư Giơ-y-ên và ký lục Ma-a-xê-gia-hu tuyển lựa; lực
lượng ấy thuộc quyền ông Kha-nan-gia-hu, một trong số các tướng lãnh của vua. 12
Tổng số các trưởng tộc anh hùng dũng sĩ là hai ngàn sáu trăm người. 13
Dưới quyền họ, có một lực lượng chiến đấu gồm ba trăm lẻ bảy ngàn năm
trăm chiến binh can trường mạnh mẽ để giúp vua chống chọi với quân thù. 14
Vua Út-di-gia-hu đã chuẩn bị cho mỗi đạo quân: nào khiên, giáo, nào mũ
chiến, áo giáp, nào cung tên và dây phóng đá. 15 Vua cũng chế tạo ở
Giê-ru-sa-lem những cỗ máy theo sáng kiến của một người nghĩ ra, và đặt trên
các tháp canh, các góc để phóng tên và đá lớn. Nhờ được trợ giúp cách lạ lùng,
vua trở nên hùng mạnh và danh tiếng đồn đãi đến tận nơi xa.
Vua
Út-di-gia-hu kiêu ngạo và bị trừng phạt
16
Nhưng
hùng mạnh rồi, vua sinh lòng tự cao tự đại đến nỗi ra hư hỏng. Vua xúc phạm đến
Ðức Chúa, Thiên Chúa của vua, vì đã cả gan vào Ðền Thờ của Ðức Chúa đốt hương
trên bàn thờ dâng hương. 17 Tư tế A-dác-gia-hu đã cùng với tám mươi
tư tế khác của Ðức Chúa theo vua đi vào. Họ là những người can đảm. 18 Họ
đứng lên chống lại vua Út-di-gia-hu mà nói: "Này vua Út-di-gia-hu! Vua
không có quyền đốt hương kính Ðức Chúa. Chỉ các tư tế thuộc dòng dõi A-ha-ron
là những người được thánh hiến mới có quyền này. Vua hãy lui ra khỏi Nơi Thánh,
vì vua đã phản nghịch! Vua không còn đáng tham dự vào vinh quang của Ðức Chúa
là Thiên Chúa nữa!” 19 Nghe thế, vua Út-di-gia-hu nổi giận, đang lúc
tay cầm bình hương để đốt hương; và trong lúc nổi giận với các tư tế thì trán
vua bị cùi ngay trước mặt các tư tế, trong Nhà Ðức Chúa, bên cạnh bàn thờ dâng
hương. 20 Ông A-dác-gia-hu đứng đầu các tư tế, và toàn thể các tư tế
khác quay về phía vua; và này vua đã bị cùi ở trán. Họ vội vàng trục xuất vua
ra khỏi đó; ngay chính vua cũng vội vã đi ra, vì đã bị Ðức Chúa đánh phạt.
21
Vua
Út-di-gia-hu mắc bệnh cùi cho đến ngày chết và vì cùi, nên bị cô lập ở một nơi
riêng, bởi vua đã bị loại ra khỏi Nhà Ðức Chúa. Ông Giô-tham, con vua, làm đại
nội thị thần và cai trị dân trong xứ. 22 Các truyện còn lại của vua
Út-di-gia-hu, từ truyện đầu cho đến truyện cuối, đã được ngôn sứ I-sai-a, con
ông A-mốc, ghi chép. 23 Vua Út-di-gia-hu đã nằm xuống với tổ tiên và
được chôn cất bên cạnh tổ tiên trong cánh đồng dành để chôn cất các vua, bởi vì
người ta nói rằng: "Vua là người bị cùi." Con vua là Giô-tham đã lên
ngôi kế vị.
Chương 27
Triều
đại vua Giô-tham (2 V 15:32-38)
1
Giô-tham
lên ngôi vua khi được hai mươi lăm tuổi, và trị vì mười sáu năm ở
Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Giơ-ru-sa, con gái ông Xa-đốc. 2 Vua đã
làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, đúng như vua cha là Út-di-gia-hu đã
làm; chỉ có điều là vua không vào Ðền Thờ Ðức Chúa, còn dân thì cứ ra hư hỏng.
3
Chính
vua đã xây Cửa Trên của Nhà Ðức Chúa, và đã xây nhiều công trình ở tường thành
Ô-phen. 4 Vua cũng xây những thành ở Núi Giu-đa, các pháo đài nhỏ và
các tháp canh ở miền rừng rậm.
5
Chính
vua giao chiến với vua của con cái Am-mon và đã chiến thắng. Năm ấy, con cái
Am-mon phải triều cống vua ba ngàn ký bạc, hai trăm ngàn thùng lúa mì và hai
trăm ngàn thùng lúa mạch. Ðó là những thứ con cái Am-mon phải mang tới cho vua,
năm thứ hai và năm thứ ba cũng vậy. 6 Vua Giô-tham được vững mạnh vì
vua bước theo đường ngay nẻo chính trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của vua.
7
Các
truyện còn lại của vua Giô-tham, tất cả các trận chiến và những công cuộc vua
đã thực hiện đều được ghi chép trong sách Các Vua Ít-ra-en và Giu-đa. 8 Vua
Giô-tham được hai mươi lăm tuổi khi lên ngôi và trị vì mười sáu năm ở
Giê-ru-sa-lem. 9 Vua Giô-tham đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn
cất trong Thành vua Ða-vít. Con vua là A-khát lên ngôi kế vị.
Chương 28
V.
Những Cuộc Canh Tân Vĩ Ðại
Của
Vua Khít-Ki-Gia Và Vua Giô-Si-Gia-Hu
1.
Thái Ðộ Vô Ðạo Của Vua A-Khát,
Thân
Phụ Vua Khít-Ki-Gia
Tổng
quát về triều đại vua A-khát (2 V 16:1-4)
1
A-khát
lên ngôi vua khi được hai mươi tuổi, và trị vì mười sáu năm ở Giê-ru-sa-lem.
Vua đã không làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, như vua Ða-vít, tổ phụ vua.
2 Vua đã đi theo đường lối các vua Ít-ra-en, thậm chí còn làm những
hình tượng đúc dâng kính các thần Ba-an. 3 Chính vua đã đốt hương
trong thung lũng Ben Hin-nôm và làm lễ thiêu các con trai mình theo thói tục
ghê tởm của các dân mà Ðức Chúa đã trục xuất cho khuất mắt con cái Ít-ra-en. 4
Vua đã tế lễ và đốt hương trên các nơi cao, trên các ngọn đồi và dưới mọi
cây xanh.
Cuộc
xâm lăng (2 V 16:5)
5
Ðức
Chúa, Thiên Chúa của vua, đã trao vua vào tay vua A-ram. Vua này đã đánh vua
A-khát và bắt của vua một số đông người làm tù binh, rồi giải về Ða-mát. Vua
A-khát cũng bị nộp vào tay vua Ít-ra-en và bị vua này đánh cho một đòn chí tử. 6
Vua Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, đã giết hại ở Giu-đa một trăm hai mươi
ngàn chiến binh dũng cảm chỉ trong một ngày, bởi vì họ đã từ bỏ Ðức Chúa, Thiên
Chúa của tổ tiên họ. 7 Dích-ri, một dũng sĩ người Ép-ra-im, đã giết
chết con vua là Ma-a-xê-gia-hu, quan đại nội Át-ri-cam và tể tướng En-ca-na. 8
Con cái Ít-ra-en đã bắt hai trăm ngàn người trong số anh em họ cùng với
các bà vợ và con trai con gái của họ làm tù binh; lại cũng chiếm của họ một số
lớn chiến lợi phẩm và đưa về Sa-ma-ri.
Dân
Ít-ra-en nghe theo lời ngôn sứ Ô-đết
9
Bấy
giờ có một ngôn sứ của Ðức Chúa tên là Ô-đết. Ông ra đón đạo quân đang tiến vào
Sa-ma-ri và nói với họ: "Này khi Ðức Chúa, Thiên Chúa tổ tiên các ông,
thịnh nộ với Giu-đa, thì Người đã trao họ vào tay các ông. Rồi trong lúc cơn
giận dữ thấu đến trời, các ông đã giết họ. 10 Và bây giờ, những
người con cái Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đó, các ông tính bắt họ làm tôi trai tớ
gái cho các ông. Chẳng phải chính các ông mới là những kẻ đắc tội với Ðức Chúa,
Thiên Chúa của các ông đó sao? 11 Vậy giờ đây, xin hãy nghe tôi mà thả những
người anh em của các ông đã bị các ông bắt làm tù binh, bởi vì cơn thịnh nộ của
Ðức Chúa đang đè nặng trên các ông."
12
Một
số người trong các tướng lãnh của con cái Ép-ra-im: ông A-dác-gia-hu con ông
Giơ-hô-kha-nan, ông Be-réc-gia-hu con ông Mơ-si-lê-mốt, ông Giơ-khít-ki-gia-hu
con ông Sa-lum và ông A-ma-xa con ông Khát-lai đã đứng lên chống lại những
người xuất chinh mới trở về. 13 Các ông nói với họ: "Ðừng dẫn
những người bị bắt ấy vào đây, vì như thế chúng ta sẽ đắc tội với Ðức Chúa. Các
ông còn muốn chuốc thêm tội lỗi vào mình, trong lúc lỗi lầm của chúng ta đã
chồng chất và cơn thịnh nộ của Ðức Chúa đang đè nặng trên Ít-ra-en!” 14 Quân
lính thả những người bị bắt làm tù binh và trả lại của đã cướp được trước mặt
các tướng lãnh cũng như toàn thể đại hội. 15 Những người đã được chỉ
định đích danh đứng ra chăm sóc những người bị bắt làm tù binh; các ông lấy đồ
trong số chiến lợi phẩm mặc cho tất cả những người trần trụi, cho mặc áo, đi
giày, ăn uống và xức dầu cho họ, lại đưa tất cả những người khập khiễng lên lừa
và dẫn về Giê-ri-khô, thành Chà Là, đến gần anh em của họ. Rồi các ông ấy trở
về Sa-ma-ri.
Những
lỗi lầm và cái chết của vua A-khát (2 V 16:7-9)
16
Vào
thời đó, vua A-khát sai người đến gặp các vua Át-sua để cầu viện. 17 Người
Ê-đôm lại đánh Giu-đa và bắt tù binh dẫn đi. 18 Người Phi-li-tinh
cũng xâm nhập các thành miền Sơ-phê-la và miền Ne-ghép thuộc Giu-đa. Chúng
chiếm cứ Bết Se-mét và Ai-gia-lôn, Gơ-đê-rốt, Xô-khô và các vùng phụ cận,
Tim-na và các vùng phụ cận, Ghim-dô và các vùng phụ cận. Rồi chúng định cư tại
đó. 19 Quả thật, Ðức Chúa hạ nhục Giu-đa vì vua Ít-ra-en là A-khát
đã làm cho Giu-đa thờ ơ với Ðức Chúa và đã lỗi phạm trầm trọng đến Người.
20
Tích-lát
Pi-le-xe, vua Át-sua, thay vì tiếp viện vua A-khát, lại đến tấn công và bao vây.
21 Vua A-khát cướp của Nhà Ðức Chúa, của hoàng cung cũng như của các
hoàng tử để nộp cho vua A-sua, nhưng vẫn không được vua này tiếp viện. 22 Cả
trong thời bị tấn công, vua A-khát vẫn cứ lỗi phạm đến Ðức Chúa. 23 Vua
dâng lễ tế các thần ở Ða-mát là những thần đã đánh vua; vua bảo: "Chính
thần minh của các vua A-ram là những vị đã trợ giúp các vua ấy, nên ta cũng
dâng lễ tế để các vị ấy trợ giúp ta." Thế nhưng các thần ấy lại là duyên cớ
khiến cho nhà vua và toàn thể Ít-ra-en phải suy vong.
24
Vua
A-khát còn thu góp tất cả các vật dụng trong Nhà của Thiên Chúa rồi cho đập vỡ
hết. Vua đóng các cửa Nhà Ðức Chúa lại và cho làm những bàn thờ trong mọi góc
thành Giê-ru-sa-lem theo ý mình. 25 Trong mỗi thành thuộc Giu-đa,
vua lập những nơi cao để đốt hương kính các thần khác và chọc giận Ðức Chúa,
Thiên Chúa của tổ tiên vua.
26
Các
truyện còn lại, mọi công cuộc vua thực hiện, từ những truyện đầu cho đến truyện
cuối, tất cả được ghi chép trong sách Các Vua Giu-đa và Ít-ra-en. 27 Vua
A-khát đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất trong Thành, ở Giê-ru-sa-lem;
bởi vì người ta không đưa vua về nơi chôn cất của các vua Ít-ra-en. Con vua là
Khít-ki-gia đã lên ngôi kế vị.
Chương 29
2.
Công Cuộc Phục Hưng Của Vua Khít-Ki-Gia
Tổng
quát về triều đại vua Khít-ki-gia (2 V 18:1-3)
1
Khít-ki-gia
lên ngôi vua khi được hai mươi lăm tuổi, và trị vì hai mươi chín năm ở
Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là A-vi-gia, con gái ông Dơ-khác-gia-hu. 2 Vua
đã làm điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa, đúng như vua Ða-vít, tổ phụ vua đã
làm.
Thanh
tẩy Ðền Thờ
3
Năm
thứ nhất triều đại vua Khít-ki-gia, vào tháng thứ nhất, vua đã mở các cửa Nhà
Ðức Chúa và làm lại cho chắc chắn. 4 Vua cho mời các tư tế cùng các
thầy Lê-vi vào và tập hợp tất cả lại ở công trường về phía Ðông. 5 Vua
nói với họ:
"Các
thầy Lê-vi, xin nghe tôi đây! Bây giờ, các ông hãy thánh hiến chính mình và
thánh hiến Nhà của Ðức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên các ông và hãy loại mọi
điều ô uế ra khỏi Thánh Ðiện.
6
Bởi
vì cha ông chúng ta đã lỗi phạm và làm điều gian ác trước mắt Ðức Chúa, Thiên
Chúa chúng ta; các ngài đã từ bỏ Người, đã ngoảnh mặt không nhìn Nhà Tạm của
Ðức Chúa và đã quay lưng lại với Người. 7 Thậm chí các ngài còn đóng
các cửa Tiền Ðình, tắt các ngọn đèn; trong Thánh Ðiện các ngài không đốt hương,
không dâng lễ toàn thiêu kính Thiên Chúa của Ít-ra-en. 8 Cơn thịnh
nộ của Ðức Chúa đã đè nặng trên Giu-đa và Giê-ru-sa-lem; Người đã làm cho các
ngài thành mối khiếp kinh, sự ghê tởm và trò cười, như chính các ông đang mục
kích. 9 Chính vì điều đó, cha ông chúng ta đã ngã gục dưới lưỡi
gươm, còn con trai, con gái và vợ chúng ta bị bắt làm tù binh. 10 Giờ
đây, ta quyết tâm lập giao ước với Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, để Người
hướng cơn thịnh nộ ra khỏi chúng ta. 11 Giờ đây, hỡi các con của ta,
đừng lơ là bổn phận, bởi vì Ðức Chúa đã chọn chính các con để túc trực trước
nhan Người, để phục vụ người, để làm thừa tác viên của người, và để đốt
hương."
12
Ðây
là các thầy Lê-vi hiện diện: Ma-khát con của A-ma-xai và Giô-en con của
A-dác-gia-hu; hai ông này xuất thân là dòng dõi ông Cơ-hát; trong dòng dõi ông
Mơ-ra-ri có Kít con của Áp-đi, và A-dác-gia-hu con của Giơ-ha-len-ên; trong
dòng dõi ông Ghéc-sôn, có Giô-ác con của Dim-ma, và Ê-đen con của Giô-ác; 13
trong dòng dõi ông E-li-xa-phan, có Sim-ri và Giơ-y-ên; trong dòng dõi
ông A-xáp, có Dơ-khác-gia-hu và Mát-tan-gia-hu; 14 trong dòng dõi
ông Hê-man, có Giơ-khi-ên và Sim-y; trong dòng dõi ông Giơ-đu-thun, có
Sơ-ma-gia và Út-di-ên. 15 Họ tập hợp các anh em mình lại và tự thánh
hiến, rồi theo lệnh của vua và đúng như lời của Ðức Chúa, họ đến để thanh tẩy
Nhà của Ðức Chúa.
16
Các
tư tế vào bên trong Nhà Ðức Chúa để thanh tẩy. Mọi thứ không thanh sạch gặp
thấy trong Ðền Thờ Ðức Chúa, các ông đưa ra ngoài sân Nhà của Ðức Chúa; các
thầy Lê-vi thu tất cả lại, đem ra bên ngoài, vứt xuống thung lũng Kít-rôn. 17
Họ khởi sự thanh tẩy ngày đầu tháng thứ nhất và ngày thứ tám trong tháng
thì vào bên trong Tiền Ðình Nhà Ðức Chúa; họ thánh hiến Nhà Ðức Chúa trong tám
ngày và đến ngày thứ mười sáu trong tháng thì mọi việc đều hoàn tất.
Dâng
lễ tạ tội
18
Bấy
giờ họ đến gặp vua Khít-ki-gia và nói: "Chúng tôi đã thanh tẩy toàn bộ Nhà
Ðức Chúa, bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và các đồ phụ tùng, bàn xếp bánh cùng các
đồ phụ tùng, 19 cũng như mọi vật dụng mà vua A-khát khi còn làm vua
đã lỗi phạm, đem quẳng đi; chúng tôi đã thiết kế lại và thánh hiến. Những vật
dụng đó hiện đang ở trước bàn thờ của Ðức Chúa."
20
Vua
Khít-ki-gia dậy sớm, tập hợp các thủ lãnh trong thành và đi lên Nhà Ðức Chúa. 21
Người ta dắt theo bảy con bò mộng, bảy con cừu, bảy con chiên và bảy con
dê để dâng lễ tạ tội cho vương quốc, cho Thánh Ðiện và cho Giu-đa. Rồi vua ra
lệnh cho các tư tế, con cái ông A-ha-ron, dâng lễ toàn thiêu trên bàn thờ của
Ðức Chúa. 22 Người ta sát tế các con bò; các tư tế hứng máu chúng và
rảy lên bàn thờ. Người ta sát tế cừu và rảy máu chúng lên bàn thờ. Người ta sát
tế chiên và rảy máu chúng lên bàn thờ. 23 Người ta dắt các con dê
dùng để làm lễ tạ tội đến trước mặt vua và đại hội: tất cả đều đặt tay trên
chúng. 24 Các tư tế đã sát tế chúng và đổ máu lên bàn thờ, dâng lễ
tạ tội, để xin ơn xá tội cho toàn thể Ít-ra-en, bởi lẽ vua ra lệnh phải dâng lễ
toàn thiêu và lễ tạ tội là vì toàn thể Ít-ra-en.
25
Vua
đã cắt đặt các thầy Lê-vi trong Nhà của Ðức Chúa mang theo thanh la, đàn hạc
như lệnh truyền của vua Ða-vít, của ông Gát, thầy chiêm của vua Ða-vít, và của
ngôn sứ Na-than, bởi vì lệnh truyền ấy xuất phát từ Ðức Chúa, qua trung gian
các ngôn sứ của Người. 26 Khi các thầy Lê-vi mang theo nhạc cụ của vua
Ða-vít và các tư tế mang theo kèn, đã an vị, 27 thì vua Khít-ki-gia
ra lệnh dâng lễ toàn thiêu trên bàn thờ; lúc bắt đầu lễ toàn thiêu cũng là lúc
trổi lên tiếng ca mừng Ðức Chúa xen lẫn tiếng kèn cùng với các nhạc cụ của
Ða-vít, vua Ít-ra-en. 28 Toàn thể đại hội sụp xuống lạy, tiếng hát
nổi lên, tiếng kèn vang dội, tất cả kéo dài cho đến khi lễ toàn thiêu chấm dứt.
Tái
lập nền phụng tự
29
Lễ
toàn thiêu chấm dứt, vua và tất cả những người hiện diện sụp xuống lạy. 30
Rồi vua Khít-ki-gia và các thủ lãnh ra lệnh cho các thầy Lê-vi tán tụng
Ðức Chúa bằng những lời lẽ mà vua Ða-vít và thầy thị kiến A-xáp, đã soạn ra; họ
hân hoan tán tụng và cúi mình bái lạy. 31 Vua Khít-ki-gia cất tiếng
nói: "Bây giờ các người đã được tấn phong để phục vụ Ðức Chúa, các người hãy
tiến lại đem lễ tế, lễ vật tạ ơn vào Nhà Ðức Chúa." Ðại hội đem lễ tế và
lễ vật tạ ơn, còn tất cả những người hảo tâm thì đem lễ toàn thiêu. 32 Số
lễ vật toàn thiêu đại hội mang đến là bảy mươi con bò mộng, một trăm con cừu,
hai trăm con chiên. Tất cả đều là lễ toàn thiêu dâng kính Ðức Chúa. 33 Lễ
vật thánh gồm có sáu trăm con bò mộng và ba ngàn chiên dê. 34 Chỉ có
điều là số các tư tế quá ít, không đủ để lột da tất cả những con vật dâng làm
lễ toàn thiêu. Anh em của họ là các thầy Lê-vi đã phải giúp họ cho đến khi công
việc hoàn tất và cho đến khi các tư tế đã tự thánh hiến; quả vậy các thầy Lê-vi
thành tâm tự thánh hiến hơn các tư tế. 35 Lại cũng có nhiều lễ toàn
thiêu khác nữa, không kể mỡ của các lễ vật kỳ an và những lễ rưới đi kèm với lễ
toàn thiêu. Như thế, việc phụng tự đã được tái lập trong nhà Ðức Chúa. 36 Vua
Khít-ki-gia và toàn dân hoan hỷ về những điều Thiên Chúa đã thực hiện cho dân,
bởi vì công việc tiến hành mau lẹ.
Chương 30
Họp
mừng lễ Vượt Qua
1
Vua
Khít-ki-gia sai sứ giả đi khắp Ít-ra-en và Giu-đa, lại cũng viết cả văn thư mời
Ép-ra-im và Mơ-na-se, đến Nhà Ðức Chúa ở Giê-ru-sa-lem để cử hành lễ Vượt Qua
kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. 2 Vua, các thủ lãnh và toàn
thể đại hội ở Giê-ru-sa-lem đã quyết định cử hành lễ Vượt Qua ấy vào tháng hai,
3 vì họ không thể cử hành lễ ấy vào đúng thời gian quy định, bởi
không đủ số các tư tế đã tự thanh tẩy, còn dân thì không kịp tề tựu về
Giê-ru-sa-lem. 4 Vua và đại hội thấy việc đó là chính đáng. 5 Vậy
người ta đã quyết định thông báo cho toàn thể Ít-ra-en, từ Bơ-e Se-va đến Ðan,
về Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, bởi
vì trước đây, chẳng mấy người thực hiện đúng như điều đã chép. 6 Bấy
giờ, những người đưa thư đi khắp Ít-ra-en và Giu-đa, mang theo thư của vua và
của các thủ lãnh. Theo lệnh vua, họ nói: "Hỡi con cái Ít-ra-en, hãy trở
lại với Ðức Chúa, Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, tổ phụ I-xa-ác, và tổ phụ
Ít-ra-en, để Người trở lại với số còn sót trong anh em, là những người vừa
thoát khỏi bàn tay của các vua Át-sua. 7 Ðừng ăn ở như cha ông và
các anh em của anh em; họ đã lỗi phạm đến Ðức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ,
nên Người đã để cho họ phải điêu linh, như chính anh em đang thấy. 8 Giờ
đây, đừng cứng cổ như cha ông của anh em, nhưng hãy suy phục Ðức Chúa, và tới
Thánh Ðiện mà Người đã thánh hiến đến muôn đời; hãy phụng sự Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh em, để Người nguôi cơn thịnh nộ với anh em. 9 Thật vậy,
nếu anh em trở lại với Ðức Chúa, thì các anh em của anh em và con cháu của anh
em sẽ gặp được lòng thương xót trước mặt quân chiến thắng và sẽ được trơ về đất
này: vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Ðấng từ bi nhân hậu, Người sẽ không
ngoảnh mặt làm ngơ, nếu anh em trờ lại vời người."
10
Những
người đưa thư rảo khắp thành này tới thành kia trong đất Ép-ra-im và Mơ-na-se,
cho đến tận Dơ-vu-lun. Nhưng người ta nhạo cười và chế giễu họ. 11 Tuy
vậy, cũng có một số người thuộc các chi tộc A-se, Mơ-na-se và Dơ-vu-lun chịu hạ
mình và đến Giê-ru-sa-lem. 12 Cả ở Giu-đa, Thiên Chúa cũng ra tay
làm cho họ đồng tâm nhất trí thực hiện lệnh của vua và các thủ lãnh, đúng như
lời của Ðức Chúa. 13 Vào tháng hai, một số đông dân chúng đã tề tựu
về Giê-ru-sa-lem để cử hành lễ Bánh Không Men: thật là một đại hội quá ư đông
đảo! 14 Họ thẳng tay dẹp bỏ các bàn thờ đã được dựng lên ở Giê-ru-sa-lem, và
dẹp bỏ tất cả bàn thờ dâng hương, rồi vứt xuống thung lũng Kít-rôn.
Lễ
Vượt Qua và lễ Bánh Không Men
15
Họ
sát tế súc vật để mừng lễ Vượt Qua vào ngày mười bốn tháng hai. Các tư tế và
các thầy Lê-vi lấy làm hổ thẹn nên đã tự thánh hiến và đem các lễ vật toàn
thiêu vào Nhà Ðức Chúa. 16 Rồi họ đứng ở chỗ của mình, đúng với quy
tắc theo luật Mô-sê, người của Thiên Chúa, đã ấn định. Các thầy Lê-vi trao máu
súc vật cho các tư tế, và các vị này đem rảy lên bàn thờ. 17 Bởi có
nhiều người trong đại hội chưa được thanh tẩy, nên các thầy Lê-vi phải sát tế
các súc vật mừng lễ Vượt Qua thay cho họ, để hiến dâng Ðức Chúa; 18 vì
đa số dân, đặc biệt nhiều người thuộc các chi tộc Ép-ra-im, Mơ-na-se, Ít-xa-kha
và Dơ-vu-lun không được thanh tẩy mà vẫn ăn lễ Vượt Qua, không đúng như điều đã
viết. Vì thế vua Khít-ki-gia cầu nguyện cho họ rằng: "Lạy Ðức Chúa là Ðấng
tốt lành, xin xoá tội 19 cho những người quyết tâm tìm kiếm Thiên Chúa là Ðức
Chúa, Thiên Chúa của cha ông họ, dù họ không được thanh tẩy cho xứng với sự
việc thánh!” 20 Ðức Chúa đã nhận lời vua Khít-ki-gia và cho dân được
an toàn.
21
Con
cái Ít-ra-en bấy giờ đang ở Giê-ru-sa-lem đã cử hành lễ Bánh Không Men bảy ngày
liền trong niềm hân hoan vui sướng, còn các thầy Lê-vi và các tư tế ngày ngày
hết lòng tán tụng Ðức Chúa bằng những nhạc cụ xứng hợp. 22 Vua
Khít-ki-gia đã khuyến khích tất cả các thầy Lê-vi đang hứng khởi phục vụ Ðức
Chúa; họ đã long trọng ăn mừng suốt bảy ngày, dâng lễ tế kỳ an và tạ ơn Ðức
Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ. 23 Rồi toàn thể đại hội quyết định
mừng thêm bảy ngày nữa và họ đã mừng lễ suốt bảy ngày trong niềm hân hoan. 24
Vua Giu-đa là Khít-ki-gia đã dành cho đại hội một ngàn con bò mộng và bảy
ngàn chiên dê; các thủ lãnh dành cho đại hội một ngàn con bò mộng và mười ngàn
chiên dê. Một số đông tư tế đã tự thánh hiến. 25 Toàn thể đại hội
Giu-đa: các tư tế, các thầy Lê-vi và toàn thể đại hội từ Ít-ra-en, những người
ngoại kiều từ Ít-ra-en và dân cư Giu-đa kéo đến, tất cả đều hân hoan. 26 Ở
Giê-ru-sa-lem, người ta hân hoan vui sướng, bởi vì từ thời vua Sa-lô-môn, con
vua Ða-vít, vua Ít-ra-en, chưa hề xảy ra như thế bao giờ ở Giê-ru-sa-lem. 27
Các tư tế Lê-vi đứng lên chúc lành cho dân, tiếng họ kêu cầu được Thiên
Chúa chấp nhận và lời cầu nguyện của họ thấu đến tận nơi thánh của Người, đến
tận trời cao.
Chương 31
Cải
tổ việc phụng tự
1
Khi
tất cả công việc ấy đã hoàn tất, toàn dân Ít-ra-en đang ở đó đi tới các thành
xứ Giu-đa, đập vỡ các trụ đá, bằm nát các cột thờ, triệt hạ các nơi cao và các
bàn thờ trong toàn cõi Giu-đa và Ben-gia-min, cũng như tại Ép-ra-im và
Mơ-na-se, cho đến khi phá huỷ hoàn toàn. Sau đó, toàn thể con cái Ít-ra-en, ai
về nhà nấy trong thành của mình.
Chấn
chỉnh hàng giáo sĩ
2
Vua
Khít-ki-gia tái lập các nhóm tư tế và các thầy Lê-vi, ai vào nhóm nấy, mỗi
người theo phân vụ của mình, tư tế cũng như thầy Lê-vi, để dâng lễ toàn thiêu,
lễ kỳ an, và để phụng sự, tạ ơn cùng tán tụng tại các cửa doanh trại của Ðức
Chúa. 3 Vua dành một phần tài sản của mình để làm lễ toàn thiêu: lễ
toàn thiêu ban sáng và ban chiều, lễ toàn thiêu các ngày sa-bát, các ngày đầu
tháng và các ngày lễ, như đã được ghi trong Lề Luật của Ðức Chúa. 4 Rồi
vua truyền cho dân, cho những người cư ngụ ở Giê-ru-sa-lem, nộp phần dành cho
các tư tế và các thầy Lê-vi để các vị này yên tâm thi hành Lề Luật Ðức Chúa. 5
Sau khi lời đó được phổ biến, con cái Ít-ra-en mang nộp nhiều của đầu
mùa, gồm lúa mì, rượu mới, dầu tươi, mật và mọi thứ hoa lợi ruộng đồng; họ cũng
mang nộp thuế thập phân về mọi thứ thật là rộng rãi. 6 Ngay cả con
cái Ít-ra-en và Giu-đa đang cư ngụ trong các thành xứ Giu-đa cũng mang nộp thuế
thập phân về bò, chiên dê, thuế thập phân về các đồ thánh đã được thánh hiến để
dâng Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ. Họ xếp thành từng đống. 7 Công
việc này khởi sự vào tháng thứ ba và đến tháng thứ bảy mới kết thúc. 8 Khi
vua Khít-ki-gia cùng các thủ lãnh đến và thấy sự việc như thế, các ngài liền
chúc tụng Ðức Chúa và cám ơn dân của Người là Ít-ra-en. 9 Vua
Khít-ki-gia đã hỏi han các tư tế và các thầy Lê-vi về các thứ chất thành đống
ấy. 10 Vị tư tế thủ lãnh là ông A-dác-gia-hu, thuộc dòng họ Xa-đốc
trình vua như sau: "Từ khi người ta nộp phần trích dâng cho Nhà Ðức Chúa,
chúng tôi được ăn thoả thuê mà vẫn còn dư rất nhiều và còn lại cả núi đây, bởi
vì Ðức Chúa đã ban phúc lành cho dân Người."
11
Vua
Khít-ki-gia truyền sửa sang lại các phòng trong Nhà Ðức Chúa. Người ta đã sửa
sang lại 12 và đã chân thành mang đến phần trích dâng, thuế thập phân và các đồ
thánh. Người trông coi các thứ đó là ông Cô-nan-gia-hu, một thầy Lê-vi, em ông
là Sim-y làm phụ tá. 13 Các ông Giơ-khi-ên, A-dát-gia-hu, Na-khắt,
A-xa-hên, Giơ-ri-mốt, Giô-da-vát, Ê-li-ên, Gít-mác-gia-hu, Ma-khát và
Bơ-na-gia-hu làm giám thị dưới quyền ông Cô-nan-gia-hu và em ông là Sim-y, theo
lệnh của vua Khít-ki-gia và ông A-dác-gia-hu, người quản đốc Nhà Thiên Chúa. 14
Ông Cô-rê con ông Gim-na, thầy Lê-vi giữ cửa phía đông được cử trông coi
các lễ vật tự nguyện dâng Thiên Chúa cùng phân phát các phần trích dâng cho Ðức
Chúa và các đồ Cực Thánh. 15 Dưới quyền ông, có các ông Ê-đen,
Min-gia-min, Giê-su-a, Sơ-ma-gia-hu, A-mác-gia-hu và Sơ-khan-gia-hu. Trong các
thành của các tư tế, các ông đó ân cần phân phát cho anh em họ theo các nhóm,
lớn cũng như bé, 16 miễn là thuộc phái nam từ ba tuổi trở lên đã
đăng ký, và cho bất cứ ai đến Nhà Ðức Chúa mỗi ngày tuỳ theo nhu cầu, để phụng
sự theo chức năng hợp với nhóm mình. 17 Các tư tế đăng ký theo gia
tộc của mình, còn các thầy Lê-vi, từ hai mươi tuổi trở lên đăng ký theo nhóm và
chức vụ riêng. 18 Người ta còn đăng ký cho mọi trẻ thơ, cho vợ và
con trai con gái của họ, tóm lại là toàn thể đại hội, bởi vì họ đã chân thành
tự thánh hiến. 19 Còn các tư tế, con cái ông A-ha-ron sống ở các
miền đồng cỏ thuộc các thành của họ, thì trong mỗi thành, đều có những người đã
được chỉ định đích danh để phân phát các phần cho mọi người phái nam thuộc hàng
tư tế và cho mọi người đã đăng ký vào số các thầy Lê-vi.
20
Vua
Khít-ki-gia đã làm như thế trong toàn cõi Giu-đa. Vua đã làm điều thiện hảo,
ngay thẳng và chính trực trước mặt Ðức Chúa là Thiên Chúa của vua. 21 Trong
mọi việc vua đã khởi sự, từ việc phục vụ Nhà Thiên Chúa đến việc tuân giữ Lề
Luật và mệnh lệnh, vua đều nhằm tìm kiếm Thiên Chúa của vua với cả tâm hồn, nên
vua đã thành công.
Chương 32
Cuộc
xâm lăng của Xan-khê-ríp
1
Sau
khi nghe biết các sự việc và lòng trung thành của vua Khít-ki-gia, thì
Xan-khê-ríp, vua Át-sua đến. Vua đến Giu-đa, đóng trại trước các thành kiên cố
và ra lệnh phá các tường thành. 2 Vua Khít-ki-gia thấy Xan-khê-ríp
đến với ý đồ đánh Giê-ru-sa-lem, 3 nên bàn mưu với các thủ lãnh và
dũng sĩ của mình ngăn chặn các mạch suối ở bên ngoài thành. Và họ đã ủng hộ vua.
4 Ðông đảo dân chúng tụ tập lại, ngăn tất cả các suối và khe nước
chảy qua vùng đất ấy. Họ nói: "Các vua Át-sua đến đây làm sao còn kiếm
được nhiều nước nữa?” 5 Vua phấn khởi, xây lại tất cả tường thành đổ
nát, dựng những tháp canh và một bức tường khác bên ngoài. Vua còn củng cố
Mi-lô, Thành vua Ða-vít và làm rất nhiều lao cũng như thuẫn. 6 Vua
đặt các tướng lãnh cai quản dân chúng; rồi triệu tập họ lại ở quảng trường của
cổng thành và khích lệ họ rằng: 7 "Mạnh bạo lên! Can đảm lên!
Ðừng sợ hãi, đừng kinh khiếp trước mặt vua Át-sua và trước tất cả đám đông đi
với vua ấy, bởi vì Ðấng ở với chúng ta mạnh hơn những người ở với vua ấy. 8
Ông ta chỉ có sức mạnh phàm nhân, còn chúng ta có Ðức Chúa là Thiên Chúa
của chúng ta, Ðấng phù hộ và chiến đấu bên cạnh chúng ta." Dân chúng được
khích lệ vì những lời lẽ của Khít-ki-gia, vua Giu-đa.
Những
lời phạm thượng của Xan-khê-ríp
(2
V 18 :17-37;19 9-13; Es 36:1-22; 37:9-13)
9
Sau
đó, Xan-khê-ríp, vua Át-sua, ở lại La-khít cùng với tất cả binh lực. Vua sai
thuộc hạ đến Giê-ru-sa-lem gặp Khít-ki-gia, vua Giu-đa, cùng toàn dân Giu-đa ở
Giê-ru-sa-lem và nói rằng: 10 "Xan-khê-ríp, vua Át-sua, nói thế
này: các ngươi tin tưởng vào cái gì mà cứ ở mãi trong Giê-ru-sa-lem bị vây hãm
vậy? 11 Chẳng phải Khít-ki-gia đã phỉnh gạt các ngươi, để cho các ngươi chết
đói chết khát khi nói rằng: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng ta sẽ giải
thoát chúng ta khỏi tay vua Át-sua đó sao? 12 Lại chẳng phải Khít-ki-gia đã dẹp
các tế đàn ở nơi cao và các tế đàn khác của Người đó sao? Ông ta đã nói với
người Giu-đa và người Giê-ru-sa-lem rằng: các ngươi chỉ sụp xuống lạy một tế
đàn mà thôi và chỉ dâng hương trên tế đàn đó? 13 Há các ngươi chẳng biết ta và
cha ta đã làm gì cho toàn dân thiên hạ? Có phải thần minh của các nước thiên hạ
đã giải phóng xứ sở chúng khỏi tay ta? 14 Trong tất cả thần minh của các nước
mà cha ông ta đã cho biệt hiến, đã có thần nào giải phóng được dân mình khỏi
tay ta. Và Thiên Chúa các ngươi có thể giải phóng các ngươi khỏi tay ta chăng?
15 Vậy bây giờ các ngươi đừng để Khít-ki-gia lừa dối và phỉnh gạt như thế. Ðừng
tin vào ông ta, vì nếu không có thần của bất cứ nước nào hay vương quốc nào có
thể giải phóng chúng khỏi tay ta và tay cha ông ta, thì ngay cả Thiên Chúa các
ngươi cũng không giải phóng các ngươi khỏi tay ta được!” 16 Thuộc hạ
của Xan-khê-ríp còn nói phạm đến Ðức Chúa là Thiên Chúa và nói phạm đến
Khít-ki-gia, tôi tớ Người. 17 Vua ấy cũng viết thư thoá mạ Ðức Chúa
là Thiên Chúa Ít-ra-en và nói phạm đến Người rằng: "Cũng như các thần của
các nước thiên hạ đã không giải phóng dân mình khỏi tay ta, thì Thiên Chúa của
Khít-ki-gia cũng không giải phóng dân mình khỏi tay ta được?” 18 Rồi
chúng dùng tiếng Giu-đa la lớn cho dân Giê-ru-sa-lem đang ở trên tường thành
phải sợ hãi, kinh hoàng, để chiếm lấy thành. 19 Chúng nói về Thiên
Chúa của Giê-ru-sa-lem y hệt như nói về các thần của các dân thiên hạ, coi đó
như sản phẩm do tay người phàm.
Lời
cầu nguyện của vua Khít-ki-gia đạt kết quả
(2
V 19 :35-37;20 1,12-19; Es 37:36-38; 39:1-8)
20
Vì
những lời phạm thượng ấy, vua Khít-ki-gia và ngôn sứ I-sai-a, con ông A-mốc,
cầu nguyện và kêu lên trời. 21 Bấy giờ Ðức Chúa sai một thiên sứ đến
tiêu diệt tất cả dũng sĩ tinh nhuệ, các vị chỉ huy và các tướng lãnh trong doanh
trại của vua Át-sua. Vua phải xấu hổ rút về xứ sở mình. Khi vua vào đền thờ
thần của mình, mấy người con vua đã dùng gươm hạ sát vua ngay tại chỗ. 22 Như
thế Ðức Chúa đã cứu vua Khít-ki-gia và dân cư ở Giê-ru-sa-lem khỏi tay
Xan-khê-ríp, vua Át-sua, và khỏi tay mọi thù địch, lại cho họ được yên ổn tư bề.
23 Nhiều người mang lễ phẩm đến Giê-ru-sa-lem dâng kính Ðức Chúa và
mang tặng vật dâng Khít-ki-gia, vua Giu-đa. Từ đó về sau, nhà vua được mọi nước
kính trọng.
24
Trong
những ngày ấy, vua Khít-ki-gia mắc một chứng bệnh nguy hiểm. Vua cầu cùng Ðức
Chúa; Người nhậm lời và ban cho vua một dấu lạ. 25 Nhưng vua
Khít-ki-gia không đền đáp ơn huệ Ðức Chúa đã ban; vì vua sinh lòng kiêu ngạo,
nên cơn thịnh nộ giáng trên vua, trên Giu-đa và dân cư ở Giê-ru-sa-lem. 26
Bấy giờ vua Khít-ki-gia và dân cư ở Giê-ru-sa-lem hạ mình xuống, sửa tính
kiêu ngạo, nên cơn thịnh nộ của Ðức Chúa không giáng xuống nữa, bao lâu vua
Khít-ki-gia còn sống. 27 Vua Khít-ki-gia có rất nhiều của cải và
được đầy vinh quang. Vua cho xây nhiều kho để chứa vàng, bạc, đá quý, dầu thơm,
khiên mộc và tất cả những đồ quý giá, 28 cũng như các kho để chứa
lúa miến, rượu mới, dầu tươi; vua lại cho làm chuồng để nhốt súc vật và lập
cánh đồng cỏ để nuôi chiên bò. 29 Vua truyền xây nhiều thành và nuôi
rất nhiều đàn vật lớn nhỏ, vì Thiên Chúa ban cho vua rất nhiều của cải.
Tóm
tắt triều đại vua Khít-ki-gia (2 V 20:20-21)
30
Chính
vua Khít-ki-gia đã ngăn đầu nguồn nước suối Ghi-khôn, rồi dẫn nước chảy xuôi
xuống phía tây Thành vua Ða-vít. Vua Khít-ki-gia thành công trong mọi điều toan
tính. 31 Vì vậy, khi các sứ giả được hàng thủ lãnh Ba-by-lon sai đến
gặp vua, để điều tra về dấu lạ xảy ra trong xứ, Thiên Chúa đã bỏ rơi vua, để
thử xem lòng dạ vua thế nào. 32 Còn các việc khác của vua
Khít-ki-gia cũng như các việc đạo đức của vua, tất cả đều được viết trong sách
Thị Kiến của ngôn sứ I-sai-a, con ông A-mốc, trong sách Các Vua Giu-đa và
Ít-ra-en. 33 Vua Khít-ki-gia an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất
gần con đường đi lên phần mộ con cái vua Ða-vít. Khi vua chết, toàn thể Giu-đa
và dân cư Giê-ru-sa-lem đã đến viếng vua. Con vua là Mơ-na-se lên ngôi kế vị.
Chương 33
3.
Sự Bất Trung Của Các Vua Mơ-Na-Se Và A-Môn
Vua
Mơ-na-se phá huỷ công trình của vua Khít-ki-gia (2 V 21:1-9)
1
Mơ-na-se
lên ngôi vua khi được mười hai tuổi, và trị vì năm mươi lăm năm ở Giê-ru-sa-lem.
2 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, theo những thói ghê tởm của
các dân mà Ðức Chúa đã trục xuất cho khuất mắt con cái Ít-ra-en. 3 Vua
xây lại những nơi cao mà vua cha là Khít-ki-gia đã triệt hạ; vua lập các tế đàn
kính Ba-an, làm các cột thờ, sụp lạy toàn thể các thiên binh và phụng thờ
chúng.4 Vua xây các tế đàn trong Nhà Ðức Chúa, như Ðức Chúa phán: "Chính ở
Giê-ru-sa-lem, Danh Ta sẽ tồn tại muôn đời."
5
Trong
hai sân của Nhà Ðức Chúa, vua đã xây các tế đàn kính toàn thể các thiên binh. 6
Vua làm lễ thiêu các con trai mình trong thung lũng Ben Hin-nôm, làm nghề
chiêm tinh và phù thuỷ, lập ra các cô đồng và thầy bói; vua làm nhiều điều dữ
trái mắt Ðức Chúa để trêu giận người. 7 Vua đặt các ngẫu tượng vua
đã làm ra, trong Nhà Thiên Chúa, Nhà mà Thiên Chúa đã phán với vua Ða-vít và
vua Sa-lô-môn, con vua: "Tại Nhà này và ở Giê-ru-sa-lem, nơi Ta đã chọn
giữa mọi chi tộc Ít-ra-en, Ta sẽ đặt Danh Ta mãi mãi. 8 Ta sẽ không
để chân Ít-ra-en rời khỏi phần đất Ta đã định cho tổ tiên chúng, chỉ cần chúng
lo làm đúng theo những gì Ta đã truyền cho chúng và đúng theo tất cả Lề Luật,
quyết định và phán quyết qua trung gian Mô-sê.” 9 Vua Mơ-na-se đã
làm cho Giu-đa và Giê-ru-sa-lem lạc đường, khiến họ làm điều dữ hơn cả những
nước mà Ðức Chúa đã tiêu diệt trước mặt con cái Ít-ra-en. 10 Ðức
Chúa đã phán với vua Mơ-na-se và dân của vua, nhưng họ không quan tâm.
Vua
Mơ-na-se trở lại (2 V 21:17-18)
11
Khi
ấy, Ðức Chúa đã cho các tướng lãnh của vua Át-sua đến đánh họ. Chúng dùng móc
bắt vua Mơ-na-se đi, xích vua bằng sợi dây đồng chấp đôi và điệu về Ba-by-lon. 12
Khi bị khốn quẫn, vua đã làm cho nét mặt Ðức Chúa, Thiên Chúa của vua,
dịu lại, và vua đã hạ mình xuống tột bậc trước nhan Thiên Chúa của tổ tiên vua.
13 Vua đã cầu nguyện với Người và Người đã nhậm lời vua. Người đã
nghe lời vua van xin mà cho vua trở về Giê-ru-sa-lem để cai trị vương quốc. Nhờ
vậy, vua Mơ-na-se nhận biết rằng chính Ðức Chúa mới thực là Thiên Chúa. 14
Sau đó, vua xây một bức tường bên ngoài Thành vua Ða-vít, về phía tây
Ghi-khôn, trong thung lũng, cho đến lối vào Cửa Cá; tường này bao quanh Ô-phen.
Vua xây bức tường này rất cao. Vua còn đặt các tướng chỉ huy trong mọi thành
kiên cố của Giu-đa.
15
Vua
dẹp các thần ngoại bang và các ngẫu tượng ra khỏi Nhà Ðức Chúa, cũng như mọi tế
đàn vua đã xây trên núi Nhà Ðức Chúa và ở Giê-ru-sa-lem. Vua quẳng tất cả ra
ngoài thành. 16 Vua tái lập bàn thờ kính Ðức Chúa, dâng lễ tế kỳ an
và tạ ơn trên bàn thờ này. Vua truyền Giu-đa phải phụng thờ Ðức Chúa là Thiên Chúa
Ít-ra-en. 17 Dù vậy, dân chúng vẫn còn tế lễ trên các tế đàn, nhưng
là để dâng kính Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ.
18
Những
truyện còn lại của vua Mơ-na-se, lời vua cầu nguyện cùng Thiên Chúa và những
lời các thầy chiêm nói với vua nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, tất cả
điều này được ghi trong sách Công vụ các vua Ít-ra-en. 19 Lời vua
cầu nguyện, cách vua được nhậm lời, mọi tội vua phạm, sự bất trung của vua, các
nơi cao vua đã dựng cũng như các cột thờ và các ngẫu tượng trước khi vua hạ
mình xuống, tất cả đều được ghi chép trong sách Công vụ của ông Khô-dai. 20
Vua Mơ-na-se đã an nghỉ với tổ tiên và được chôn cất trong cung điện của
vua. Con vua là A-môn lên ngôi kế vị.
Sự
cứng lòng của A-môn (2 V 21 :19-26)
21
A-môn
lên làm vua khi được hai mươi hai tuổi, và trị vì hai năm ở Giê-ru-sa-lem. 22
Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, như vua cha là Mơ-na-se. Tất cả các
tượng thần vua Mơ-na-se, cha của vua, đã làm, vua A-môn đều tế lễ và phụng thờ
chúng. 23 Nhưng vua không hạ mình xuống trước mặt Ðức Chúa như vua
Mơ-na-se, cha của vua, đã làm; trái lại, vua càng phạm thêm nhiều tội. 24 Các
thuộc hạ của vua đã âm mưu chống lại và giết chết vua trong cung điện. 25 Dân
trong xứ hạ sát mọi kẻ đã âm mưu chống lại vua A-môn; và tôn con vua là
Giô-si-gia-hu lên ngôi kế vị.
Chương 34
4.
Cuộc Cải Cách Dưới Triều Vua Giô-Si-Gia-Hu
Tổng
quát về triều đại Giô-si-gia-hu (2 V 22:1-2)
1
Giô-si-gia-hu
lên làm vua khi được tám tuổi, và trị vì ba mươi mốt năm ở Giê-ru-sa-lem. 2
Vua đã làm những điều ngay chính trước mắt Ðức Chúa và đi theo đường lối
vua Ða-vít, tổ tiên vua; vua không đi trệch bên phải bên trái.
Những
cuộc cải cách đầu tiên
3
Năm
thứ tám triều đại của vua, lúc còn là một thanh niên, vua bắt đầu tìm kiếm
Thiên Chúa của vua Ða-vít, tổ tiên vua; và năm thứ mười hai, vua bắt đầu thanh
tẩy xứ Giu-đa và thành Giê-ru-sa-lem, loại ra khỏi đó các tế đàn, các cột thờ,
các tượng tạc tượng đúc. 4 Trước sự chứng kiến của vua, người ta
triệt hạ các tế đàn kính thần Ba-an; còn bàn thờ dâng hương trên các tế đàn ấy,
vua chặt nát ra; các cột thờ, các tượng tạc tượng đúc bằng đồng vua đập tan,
nghiền thành mảnh vụn, rồi ném lên mộ những kẻ đã cúng tế các tượng ấy. 5 Vua
đốt xương các tư tế trên các tế đàn kính các tượng ấy, rồi thanh tẩy xứ Giu-đa
và thành Giê-ru-sa-lem. 6 Trong các thành của các chi tộc Mơ-na-se,
Ép-ra-im, Si-mê-ôn, cho đến Náp-ta-li, cũng như lãnh thổ bị chiếm đóng chung
quanh các chi tộc này, 7 vua triệt hạ các tế đàn, các cột thờ; còn
các tượng tạc, vua chặt ra, rồi nghiền thành mảnh vụn. Trong khắp Ít-ra-en, vua
chặt tất cả các bàn thờ dâng hương, rồi trở về Giê-ru-sa-lem.
Công
trình tu bổ Ðền Thờ (2 V 22:3-7)
8
Năm
thứ mười tám triều đại của vua, sau khi thanh tẩy xứ sở và Nhà Ðức Chúa, vua
sai ông Sa-phan, con ông A-xan-gia-hu, ông Ma-a-xê-gia-hu tổng đốc
Giê-ru-sa-lem và ông Giô-ác, con viên quản lý văn khố Giô-a-khát, đi trùng tu
Nhà Ðức Chúa, Thiên Chúa của vua. 9 Họ đến gặp thượng tế
Khin-ki-gia-hu, mang theo số bạc dâng vào Nhà Thiên Chúa, mà các thầy Lê-vi
canh cửa đã nhận được từ tay những người thuộc các chi tộc Mơ-na-se, Ép-ra-im
và từ khắp nơi trong Ít-ra-en, cũng như toàn cõi Giu-đa, Ben-gia-min và các dân
cư ở Giê-ru-sa-lem. 10 Họ trao số bạc đó cho những người lo việc sửa
chữa, những người được đặt lên lo việc Nhà Ðức Chúa. Những người này trả công
cho thợ để sửa chữa và trùng tu Nhà Ðức Chúa, 11 lại cũng trao bạc
cho các thợ mộc và thợ xây nhà để mua đá đẽo và gỗ làm xà, làm rầm thay vào các
gian nhà các vua Giu-đa đã để hư hại.
12
Những
người thợ này hành động liêm chính. Họ làm việc dưới quyền những người có trách
nhiệm hướng dẫn; đó là các thầy Lê-vi Gia-khát, Ô-vát-gia-hu, thuộc dòng dõi
Mơ-ra-ri, và các ông Dơ-khác-gia và Mơ-su-lam thuộc dòng dõi Cơ-hát. Các thầy
Lê-vi là những người chơi thạo các nhạc khí 13 đứng trông coi những phu khuân
vác và hướng dẫn mọi công nhân, mỗi người tuỳ theo khả năng nghề nghiệp của
mình. Trong số các thầy Lê-vi, có những người làm ký lục, lục sự và giữ cửa.
Tìm
thấy sách Luật (2 V 22:8-13)
14
Ðang
lúc người ta lấy số bạc đã dâng vào Nhà Ðức Chúa ra, thì tư tế Khin-ki-gia-hu
thấy sách Luật của Ðức Chúa đã được ban qua ông Mô-sê. 15 Ông
Khin-ki-gia-hu lên tiếng nói với ký lục Sa-phan: "Tôi đã tìm thấy sách
Luật trong Nhà Ðức Chúa." Rồi ông Khin-ki-gia-hu trao sách ấy cho ông
Sa-phan. 16 Ông Sa-phan đem về cho vua và thưa rằng: "Tất cả
những gì vua ký thác cho bề tôi thì họ đang thi hành. 17 Họ đã xuất
số bạc tìm thấy trong Nhà Ðức Chúa cho những người phụ trách, những người lo
việc sửa chữa.” 18 Rồi ký lục Sa-phan báo tin cho vua như sau:
"Tư tế Khin-ki-gia-hu đã đưa cho tôi một cuốn sách." Sau đó, ông
Sa-phan đọc sách trước mặt vua.
19
Nghe
những lời ghi chép trong sách Luật, vua xé áo mình ra, 20 rồi truyền
lệnh sau đây cho ông Khin-ki-gia-hu, cho ông A-khi-cam, con ông Sa-phan, cho
ông Áp-đôn, con ông Mi-kha, cho ký lục Sa-phan và ông A-xa-gia, tôi tớ của vua:
21 "Hãy đi thỉnh ý Ðức Chúa cho ta, cho số sót còn lại trong
Ít-ra-en và trong Giu-đa về những lời ghi chép trong sách đã tìm thấy đây, vì
Ðức Chúa đã bừng bừng nổi cơn thịnh nộ chống lại chúng ta, bởi lẽ tổ tiên chúng
ta đã không giữ lời Ðức Chúa mà làm theo mọi điều đã được ghi chép trong sách
này."
Lời
sấm của nữ ngôn sứ (2 V 22:14-20)
22
Ông
Khin-ki-gia-hu và những người vua đã chỉ định, đi gặp nữ ngôn sứ Khun-đa, vợ
người phụ trách phòng lễ phục là ông Sa-lum, con ông Toóc-hát, cháu ông
Khát-ra; bà ở tại khu vực phụ thuộc thành Giê-ru-sa-lem. Họ đã thưa chuyện với
bà như lệnh vua truyền. 23 Rồi bà bảo họ: "Ðức Chúa, Thiên Chúa
của Ít-ra-en, phán thế này: "Hãy nói với người đã cử ngươi đến gặp ta: 24
Ðức Chúa phán thế này: Ta sắp giáng hoạ xuống nơi đó, xuống dân cư ở nơi
đó, giáng tất cả những lời nguyền rủa đã được ghi chép trong sách mà người ta
đã đọc trước mặt vua Giu-đa. 25 Vì chúng đã bỏ Ta và đã đốt hương
kính các thần khác để trêu giận Ta bằng mọi việc tay chúng làm; cơn thịnh nộ
của Ta sẽ trút xuống nơi này và cơn thịnh nộ đó sẽ khôn nguôi. 26 Các
ông hãy nói thế này với vua Giu-đa đã sai các ông đi thỉnh ý Ðức Chúa: Ðức
Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Những lời mà ngươi đã nghe... 27
vì ngươi đã mềm lòng và hạ mình trước nhan Thiên Chúa, khi nghe những lời
Ta đã nói chống lại nơi đó và dân cư ở đó, vì ngươi đã hạ mình trước nhan Ta,
đã xé áo mình ra và khóc lóc trước nhan Ta, thì Ta, Ta cũng đã nghe, sấm ngôn
của Ðức Chúa. 28 Này Ta sẽ cho ngươi sum họp với tổ tiên ngươi,
ngươi sẽ được bình yên sum họp nơi phần mộ ngươi. Mắt ngươi sẽ không thấy gì về
tất cả tai hoạ Ta sắp giáng xuống nơi này." Họ đã trình lại cho vua câu
trả lời ấy.
Tái
lập giao ước (2 V 23:1-20)
29
Vua
sai người tập hợp tất cả kỳ mục của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem lại. 30 Rồi
cùng với mọi người Giu-đa và dân cư ở Giê-ru-sa-lem, cũng như các tư tế, các
thầy Lê-vi và toàn dân từ người lớn nhất đến người nhỏ nhất. Vua lên nhà Ðức
Chúa, đọc cho họ nghe tất cả các lời trong sách Giao Ước đã tìm thấy trong Nhà
Ðức Chúa. 31 Ðứng trên bệ cao vua lập giao ước trước nhan Ðức Chúa,
cam kết đi theo Ðức Chúa và hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh lệnh, chỉ thị và
quy tắc của Người, để thi hành các khoản Giao Ước được ghi chép trong sách đó. 32
Vua truyền cho tất cả những người đang có mặt ở Giê-ru-sa-lem và
Ben-gia-min phải tuân hành; dân cư ở Giê-ru-sa-lem giữ đúng Giao Ước của Thiên
Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ. 33 Vua Giô-si-gia-hu loại bỏ tất cả
những điều ghê tởm ra khỏi đất đai thuộc con cái Ít-ra-en và bắt buộc tất cả
những ai đang ở Ít-ra-en phải phụng thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ. Trong suốt
đời vua, họ đã không rời bỏ Ðức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ.
Chương 35
Chuẩn
bị lễ Vượt Qua (2 V 23:21)
1
Vua
Giô-si-gia-hu cử hành lễ Vượt Qua kính Ðức Chúa ở Giê-ru-sa-lem. Chiên Vượt Qua
được sát tế vào ngày mười bốn tháng thứ nhất.
2
Vua
cắt đặt các tư tế vào những chức vụ tương xứng và khuyến khích họ yên tâm phục
vụ Nhà Ðức Chúa. 3 Vua nói với các thầy Lê-vi, là những người huấn
luyện toàn thể Ít-ra-en và là những người được thánh hiến cho Ðức Chúa:
"Từ khi Hòm Bia được đặt trong Nhà do vua Sa-lô-môn, con vua Ða-vít, vua
Ít-ra-en, xây cất, các ông không còn phải kề vai khiêng nữa. Bây giờ các ông
hãy lo phụng thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ông, và phục vụ Ít-ra-en, dân
Người. 4 Các ông hãy sẵn sàng, theo gia tộc và nhóm mình đúng như
sắc chỉ của vua Ða-vít, vua Ít-ra-en, và sắc lệnh của vua Sa-lô-môn, con vua
Ða-vít. 5 Trong Nơi Thánh, các ông hãy đứng vào chỗ dành cho gia đình
các thầy Lê-vi để phục vụ gia tộc anh em các ông là con cái trong dân. 6 Hãy
sát tế chiên Vượt Qua, hãy thánh hiến và chuẩn bị cho anh em các ông cử hành lễ
Vượt Qua, như Ðức Chúa đã truyền qua ông Mô-sê."
Ðại
lễ (2 V 23:22)
7
Vua
Giô-si-gia-hu tặng cho con cái trong dân các thú vật nhỏ, chiên và dê, để cho
mọi người có mặt mừng lễ Vượt Qua, tổng số là ba mươi ngàn con; và bò khoảng ba
ngàn con. Tất cả súc vật ấy đều lấy trong tài sản của vua. 8 Các thủ
lãnh của vua cũng trích phần riêng tặng làm lễ vật tự nguyện cho dân, cho các
tư tế và các thầy Lê-vi. Các ông Khin-ki-gia-hu, Dơ-khác-gia-hu và Giơ-khi-ên,
những người cai quản Nhà Thiên Chúa, tặng cho các tư tế hai ngàn sáu trăm con
chiên và ba trăm con bò để mừng lễ Vượt Qua. 9 Các thủ lãnh của các
thầy Lê-vi là các ông Cô-nan-gia-hu, Sơ-ma-gia-hu, Nơ-than-ên cùng anh em,
Kha-sáp-gia-hu, Giơ-y-ên, Giô-da-vát trích tặng các thầy Lê-vi năm ngàn con
chiên và năm trăm con bò để mừng lễ Vượt Qua. 10 Công việc sắp xếp
xong, các tư tế đứng vào vị trí của mình, còn các thầy Lê-vi đứng theo nhóm
riêng, đứng như lệnh vua truyền. 11 Rồi họ sát tế chiên Vượt Qua;
các tư tế nhận lấy máu từ tay các thầy Lê-vi mà rảy; còn các thầy Lê-vi thì lột
da các con vật sát tế. 12 Khi chia phần cho con cái trong dân tuỳ
theo mỗi gia tộc, họ để riêng phần làm lễ toàn thiêu dâng cho Ðức Chúa, như ghi
chép trong sách ông Mô-sê. Ðối với bò cũng thế. 13 Họ nướng chiên
Vượt Qua theo luật định; còn các của thánh hiến khác thì nấu trong nồi, vạc,
chảo, rồi họ mau mắn phân phát cho toàn thể con cái trong dân. 14 Sau
đó, họ mới dọn cho mình và cho các tư tế, vì các tư tế, con cái ông A-ha-ron,
phải dâng lễ toàn thiêu và mỡ mãi cho đến đêm; vì thế các thầy Lê-vi dọn cho
mình và cho các tư tế, con cái ông A-ha-ron. 15 Các ca viên, con cái
ông A-xáp, đứng ở chỗ của mình theo lệnh truyền của vua Ða-vít, của các ông
A-xáp, Hê-man, Giơ-đu-thun, thầy chiêm của vua; còn những người canh đứng ở các
cửa. Không ai xao lãng công việc của mình, vì anh em của họ là các thầy Lê-vi
chuẩn bị cho họ đầy đủ.
16
Thế
là trong ngày hôm ấy, tất cả việc phụng thờ Ðức Chúa đã được tổ chức để cử hành
lễ Vượt Qua và dâng lễ toàn thiêu trên bàn thờ Ðức Chúa đúng như lệnh vua
Giô-si-gia-hu đã truyền. 17 Bấy giờ, con cái Ít-ra-en có mặt đã cử
hành lễ Vượt Qua cũng như lễ Bánh Không Men trong bảy ngày. 18 Chưa
bao giờ có một lễ Vượt Qua nào được cử hành như thế trong Ít-ra-en, từ thời
ngôn sứ Sa-mu-en, và cũng chẳng có một vua nào trong Ít-ra-en đã cử hành lễ
Vượt Qua như vua Giô-si-gia-hu đã cử hành, có đông đủ tư tế, các thầy Lê-vi,
toàn thể Giu-đa và Ít-ra-en, cũng như các dân cư ở Giê-ru-sa-lem tham dự.
Triều
đại Giô-si-gia-hu kết thúc (2 V 23:23, 29 -30 a)
19
Lễ
Vượt Qua này được cử hành vào năm thứ mười tám triều Giô-si-gia-hu. 20 Sau
tất cả những việc vua Giô-si-gia-hu đã làm để trùng tu Nhà Ðức Chúa rồi, thì
Nơ-khô, vua Ai-cập, dẫn quân đi giao chiến ở Các-cơ-mít, bên bờ sông
Êu-phơ-rát. Vua Giô-si-gia-hu ra đón vua Nơ-khô. 21 Vua này sai sứ
giả đến gặp vua Giô-si-gia-hu và nói: "Này vua Giu-đa, giữa tôi và ngài có
chuyện gì thế? Hôm nay tôi đến đây không phải để chống lại ngài, nhưng để chống
lại một dòng họ thù nghịch, và Thiên Chúa truyền cho tôi phải làm gấp. Thôi,
đừng cưỡng lại Thiên Chúa, Ðấng đang ở với tôi, kẻo nhà vua bị Người tiêu diệt.”
22 Nhưng vua Giô-si-gia-hu không chịu rút lui, vẫn cứ giao chiến với
vua Nơ-khô, lại không chịu nghe lời vua Nơ-khô nói nhân danh Thiên Chúa. Vua ra
nghênh chiến tại cánh đồng Mơ-ghít-đô 23 và bị lính dùng tên bắn trúng. Vua
liền nói với thuộc hạ: "Ðưa ta đi, ta bị trọng thương rồi!” 24 Thuộc
hạ đưa vua ra khỏi xe trận, chuyển sang xe thứ hai và trở về Giê-ru-sa-lem. Tại
đây vua tắt thở và được chôn cất trong phần mộ của tổ tiên. Cả xứ Giu-đa và
thành Giê-ru-sa-lem đều để tang vua Giô-si-gia-hu. 25 Ông
Giê-rê-mi-a làm một bài điếu ca khóc vua Giô-si-gia-hu. Cho đến ngày nay, tất
cả nam nữ ca viên đều nói đến vua Giô-si-gia-hu trong các bài điếu ca của họ;
điều này trở thành tục lệ ở Ít-ra-en. Các bài này đã được ghi chép trong sách
điếu ca.
26
Các
truyện còn lại của vua Giô-si-gia-hu và những việc tốt lành vua đã làm đều đúng
với những điều đã được ghi chép trong sách Luật của Ðức Chúa. 27 Các
truyện ấy, từ đầu đến cuối, đều được ghi chép trong sách các Vua Ít-ra-en và
Giu-đa.
Chương 36
5.
Tình Hình Ít-Ra-En Cuối Thời Quân Chủ
Vua
Giơ-hô-a-khát (2 V 23:30b-34)
1
Dân
trong xứ chọn Giơ-hô-a-khát, con vua Giô-si-gia-hu và tôn lên làm vua kế vị vua
cha tại Giê-ru-sa-lem. 2 Giơ-hô-a-khát lên ngôi vua khi được hai
mươi ba tuổi, và trị vì ba tháng ở Giê-ru-sa-lem. 3 Vua Ai-cập truất
phế vua Giơ-hô-a-khát và không cho cai trị ở Giê-ru-sa-lem nữa, lại bắt dân
trong xứ phải triều cống ba ngàn ký bạc và ba mươi ký vàng. 4 Vua
Ai-cập đặt En-gia-kim là anh vua Giơ-hô-a-khát lên làm vua Giu-đa và
Giê-ru-sa-lem, rồi cho đổi tên là Giơ-hô-gia-kim; còn em vua này là Giô-a-khát
thì vua Nơ-khô bắt đưa sang Ai-cập.
Vua
Giơ-hô-gia-kim (2 V 23:36-24:6)
5
Giơ-hô-gia-kim
lên ngôi vua khi được hai mươi lăm tuổi, và trị vì mười một năm ở
Giê-ru-sa-lem; vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa là Thiên Chúa của vua, 6
nên bị Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon tiến đánh, bị xích bằng sợi dây
đồng chấp đôi và bị điệu về Ba-by-lon. 7 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo cho
đem một số đồ dùng trong Nhà Ðức Chúa về Ba-by-lon và để ở điện thờ của vua tại
đó. 8 Các truyện khác của vua Giơ-hô-gia-kim và những điều ghê tởm
vua làm, cùng các điều xảy đến cho vua, tất cả đều được ghi chép trong sách Các
Vua Ít-ra-en và Giu-đa. Giơ-hô-gia-khin, con vua, lên ngôi kế vị.
Vua
Giơ-hô-gia-khin (2 V 24:8-17)
9
Giơ-hô-gia-khin
lên ngôi vua khi được mười tám tuổi, và trị vì ba tháng mười ngày ở
Giê-ru-sa-lem. Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa. 10 Vào dịp đầu
năm mới, vua Na-bu-cô-đô-nô-xo sai người đến điệu vua Giơ-hô-gia-khin về
Ba-by-lon cùng với các đồ vật quý giá của Nhà Ðức Chúa, rồi đặt chú của vua này
là Xít-ki-gia-hu lên làm vua Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
Vua
Xít-ki-gia-hu (2 V 24:18-20; Gr 52:1-3a)
11
Xít-ki-gia-hu
lên ngôi vua khi được hai mươi mốt tuổi, và trị vì mười một năm ở Giê-ru-sa-lem.
12 Vua đã làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, Thiên Chúa của vua, và
không chịu hạ mình xuống trước mặt ngôn sứ Giê-rê-mi-a là người đã nói nhân
danh Ðức Chúa. 13 Mặc dù vua Na-bu-cô-đô-nô-xo bắt vua phải thề nhân
danh Thiên Chúa, nhưng vua vẫn nổi lên chống lại, và còn cứng đầu cứng cổ, lòng
chai dạ đá, không chịu trở về cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en.
Dân
tộc
14
Tất
cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất
nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Ðức Chúa đã được
thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế. 15 Ðức Chúa, Thiên Chúa của tổ
tiên họ vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng
thương xót dân và thánh điện của Người. 16 Nhưng họ nhạo cười các sứ
giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người,
khiến Ðức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu
chữa.
Sụp
đổ (2 V 25:1-21; Gr 52:3b-11)
17
Ðức
Chúa để cho vua Can-đê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các thanh niên
ngay trong Thánh Ðiện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh niên thiếu nữ,
kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc. Ðức Chúa trao tất cả họ vào tay vua Can-đê.
18 Mọi đồ vật trong Nhà Thiên Chúa, dù to hay nhỏ, các kho tàng của
Nhà Ðức Chúa, các kho tàng của nhà vua và của các tướng lãnh, vua Can-đê đều
cho đưa về Ba-by-lon. 19 Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ
tường thành Giê-ru-sa-lem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi
đồ đạc quý giá. 20 Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua
bắt đi đày ở Ba-by-lon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến
thời vương quốc Ba-tư ngự trị. 21 Thế là ứng nghiệm lời Ðức Chúa
phán, qua miệng ngôn sứ Giê-rê-mi-a rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những
năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm
tròn.
Hướng
về tương lai (Xh 1:1-4)
22
Năm
thứ nhất thời vua Ky-rô trị vì nước Ba-tư, để lời Ðức Chúa phán qua miệng ngôn
sứ Giê-rê-mi-a được hoàn toàn ứng nghiệm, Ðức Chúa tác động trên tâm trí Ky-rô,
vua Ba-tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: 23 "Ky-rô,
vua Ba-tư, phán thế này: "Ðức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta
mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho
Người một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân
của Người, thì xin Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến
lên...!"
Ét-ra
Chương 01
Dân
Xi-on trở về
1
Năm
thứ nhất thời vua Ky-rô trị vì nước Ba-tư, để lời Ðức Chúa phán qua miệng ngôn
sứ Giê-rê-mi-a được hoàn toàn ứng nghiệm, Ðức Chúa tác động trên tâm trí Ky-rô,
vua Ba-tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: 2 "Ky-rô,
vua Ba-tư, phán thế này: Ðức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi
vương quốc dưới đất. Chính Người đã trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người
một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa. 3 Vậy ai trong các ngươi
thuộc dân Người, thì xin Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy lên
Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa và xây Nhà Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. Chính
Người là Thiên Chúa ngự tại Giê-ru-sa-lem. 4 Và mọi người còn lại ở
bất cứ nơi nào họ đang trú ngụ, phải được dân địa phương cấp cho bạc vàng, của
cải và thú vật, cũng như lễ vật tự nguyện, để dâng cúng cho Nhà Thiên Chúa ở
Giê-ru-sa-lem.
5
Những
người đứng đầu các gia tộc của Giu-đa và Ben-gia-min, các tư tế và các thầy
Lê-vi, tất cả những người được Thiên Chúa tác động trên tâm trí, trỗi dậy để đi
lên xây Nhà Ðức Chúa ở Giê-ru-sa-lem. 6 Mọi người hàng xóm láng
giềng đều mạnh tay giúp họ: bạc, vàng, của cải, thú vật, những đồ vật có giá,
không kể mọi lễ vật tự nguyện.
7
Vua
Ky-rô cho người đem ra ngoài những đồ vật thuộc Nhà Ðức Chúa, mà vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo đã cho người đem ra khỏi Giê-ru-sa-lem và đặt trong thần miếu
của nhà vua. 8 Ky-rô, vua Ba-tư, đã nhờ viên thủ quỹ Mít-rơ-đát đem
những đồ vật ấy ra ngoài. Viên thủ quỹ kiểm kê và giao cho ông Sết-bát-xa là
thủ lãnh xứ Giu-đa. 9 Ðây là số các đồ vật: ba mươi chén vàng, một
ngàn chén bạc, hai mươi chín con dao, 10 ba mươi tô vàng, bốn trăm
mười tô bạc loại thường, một ngàn đồ vật khác. 11 Tổng số các đồ vật
bằng vàng và bằng bạc là năm ngàn bốn trăm. Ông Sết-bát-xa mang theo tất cả các
đồ vật đó, khi ông đưa những người lưu đày từ Ba-by-lon lên Giê-ru-sa-lem.
Chương 02
Danh
sách những người Xi-on hồi hương (Nkm 7:4-72)
1
Ðây
là những người trong miền đã từ chốn lưu đày hồi hương. Họ là những người mà
Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon đã bắt đi đày sang Ba-by-lon. Họ trở về
Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai về thành nấy. 2 Họ về cùng với các ông
Dơ-rúp-ba-ven, Giê-su-a, Nơ-khe-mi-a, Xơ-ra-gia, Rơ-ê-la-gia, Moóc-đo-khai,
Bin-san, Mít-pa, Bích-vai, Rơ-khum, Ba-a-na.
Ðayâlà
số những người thuộc dân Ít-ra-en: 3 con cái ông Pác-ốt: hai ngàn
một trăm bảy mươi hai; 4 con cái ông Sơ-phát-gia: ba trăm bảy mươi
hai; 5 con cái ông A-rác: bảy trăm bảy mươi lăm; 6 con
cái ông Pa-khát Mô-áp, tức là con cái ông Giê-su-a và ông Giô-áp: hai ngàn tám
trăm mười hai; 7 con cái ông Ê-lam: một ngàn hai trăm năm mươi bốn; 8
con cái ông Dát-tu: chín trăm bốn mươi lăm; 9 con cái ông
Dắc-cai: bảy trăm sáu mươi; 10 con cái ông Ba-ni: sáu trăm bốn mươi
hai; 11 con cái ông Bê-vai: sáu trăm hai mươi ba; 12 con
cái ông Át-gát: một ngàn hai trăm hai mươi hai; 13 con cái ông
A-đô-ni-cam: sáu trăm sáu mươi sáu; 14 con cái ông Bích-vai: hai
ngàn không trăm năm mươi sáu; 15 con cái ông A-đin: bốn trăm năm
mươi bốn; 16 con cái ông A-te, tức là con cái ông Giơ-khít-ki-gia:
chín mươi tám; 17 con cái ông Bê-xai: ba trăm hai mươi ba; 18 con
cái ông Giô-ra: một trăm mười hai; 19 con cái ông Kha-sum: hai trăm
hai mươi ba; 20 con cái ông Ghíp-ba: chín mươi lăm; 21 con
cái ông Bê-lem: một trăm hai mươi ba; 22 người Nơ-tô-pha: năm mươi
sáu; 23 người A-na-thốt: một trăm hai mươi tám; 24 con
cái ông Át-ma-vét: bốn mươi hai; 25 con cái ông Kia-giát A-rim: ông
Cơ-phi-ra và ông Bơ-ê-rốt: bảy trăm bốn mươi ba; 26 con cái ông
Ra-ma và ông Ghe-va: sáu trăm hai mươi mốt; 27 người Mích-mát: một
trăm hai mươi hai; 28 người Bết Ên và người Ai: hai trăm hai mươi ba;
29 con cái ông Nơ-vô: năm mươi hai; 30 con cái ông
Mác-bít: một trăm năm mươi sáu; 31 con cái ông Ê-lam khác: một ngàn
hai trăm năm mươi bốn; 32 con cái ông Kha-rim: ba-trăm hai mươi; 33
con cái các ông Lốt, Kha-đích và Ô-nô: bảy trăm hai mươi lăm; 34 con
cái ông Giê-ri-khô: ba trăm bốn mươi lăm; 35 con cái ông Xơ-na-a: ba
ngàn sáu trăm ba mươi.
36
Các
tư tế: con cái ông Giơ-đa-gia thuộc nhà ông Giê-su-a: chín trăm bảy mươi ba; 37
con cái ông Im-me: một ngàn không trăm năm mươi hai; 38 con
cái ông Pát-khua: một ngàn hai trăm bốn mươi bảy; 39 con cái ông
Kha-rim: một ngàn không trăm mười bảy.
40
Các
thầy Lê-vi: con cái các ông Giê-su-a và Cát-mi-ên, tức là con cái ông
Hô-đáp-gia: bảy mươi bốn.
41
Các
ca viên: con cái ông A-xáp: một trăm hai mươi tám.
42
Con
cái những người giữ cửa: con cái ông Sa-lum, con cái ông A-te, con cái ông Tan-môn,
con cái ông Ắc-cúp, con cái ông Kha-ti-ta, con cái ông Sô-vai: tất cả là một
trăm ba mươi chín.
43
Những
người phục vụ Ðền Thờ: con cái Xi-kha, con cái Kha-xu-pha, con cái Táp-ba-ốt, 44
con cái Kê-rốt, con cái Xi-a, con cái Pa-đôn, 45 con cái
Lơ-va-na, con cái Kha-ga-va, con cái Ắc-cúp, 46 con cái Kha-gáp, con
cái San-mai, con cái Kha-nan, 47 con cái Ghít-đên, con cái Ga-kha,
con cái Rơ-a-gia, 48 con cái Rơ-xin, con cái Nơ-cô-đa, con cái
Gát-dam, 49 con cái Út-da, con cái Pa-xê-ác, con cái Bê-xai, 50
con cái Át-na, con cái người Mơ-u-nim, con cái người Nơ-phu-xim, 51 con
cái Bác-búc, con cái Kha-cúp-pha, con cái Khác-khua, 52 con cái
Bát-lút, con cái Mơ-khi-đa, con cái Khác-sa, 53 con cái Bác-cốt, con
cái Xít-ra, con cái Te-mác, 54 con cái Nơ-xi-ác, con cái Kha-ti-pha.
55
Con
cái những người nô lệ của vua Sa-lô-môn: con cái Xô-tai, con cái Ha Xô-phe-rét,
con cái Pơ-ru-đa, 56 con cái Gia-la, con cái Ðác-côn, con cái
Ghít-đên, 57 con cái Sơ-phát-gia, con cái Khát-tin, con cái
Pô-khe-rét Ha Xơ-va-gim, con cái A-mi. 58 Tổng số những người phục
vụ Ðền Thờ và con cái những người nô lệ của vua Sa-lô-môn là ba trăm chín mươi
hai.
59
Con
cái những người trở về từ Ten Me-lác, Ten Khác-sa, Cơ-rúp, Át-đan, Im-me. Họ
không thể dựa vào gia tộc và dòng giống của họ để cho biết có thuộc về Ít-ra-en
hay không: 60 con cái Ðơ-la-gia, con cái Tô-vi-gia, con cái
Nơ-cô-đa: sáu trăm năm mươi hai. 61 Trong số con cái các tư tế, có:
con cái ông Kho-va-gia, con cái ông Hắc-cốt, con cái ông Bác-di-lai là người đã
lấy một trong các con gái ông Bác-di-lai, người Ga-la-át, nên đã mang tên ông
ấy. 62 Những người này đã tìm kiếm tên của họ trong cuốn gia phả,
nhưng không thấy, nên đã bị loại ra khỏi hàng tư tế, vì bị coi là ô uế. 63
Quan tổng đốc cấm họ không được ăn của thánh, cho đến khi có một tư tế
đứng lên xem thẻ xăm u-rim và tum-mim.
64
Toàn
thể cộng đồng là bốn mươi hai ngàn ba trăm sáu mươi người, 65 không
kể tôi trai tớ gái của họ lên tới bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy người. Họ cũng
có hai trăm nam nữ ca viên. 66 Họ có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa,
hai trăm mười lăm con la, 67 bốn trăm ba mươi lăm con lạc đà và sáu
ngàn bảy trăm hai mươi con lừa.
68
Khi
về đến Nhà Ðức Chúa ở Giê-ru-sa-lem, một số người đứng đầu các gia tộc dâng
cúng những lễ vật tự nguyện cho Nhà Thiên Chúa, để tái thiết Nhà đó ở chỗ cũ. 69
Theo khả năng, họ đã dâng vào quỹ dùng cho công trình đó sáu mươi mốt
ngàn quan tiền, hai ngàn năm trăm ký bạc và một trăm bộ phẩm phục tư tế.
70
Các
tư tế, các thầy Lê-vi và một phần dân chúng ở tại Giê-ru-sa-lem; còn các ca viên,
những người giữ cửa, những người phục vụ Ðền Thờ thì ở trong các thành của họ;
mọi người Ít-ra-en khác cũng ở trong các thành của họ.
Chương 03
Tái
lập việc phụng tự
1
Ðến
tháng thứ bảy, lúc con cái Ít-ra-en đang ở trong thành của họ, thì dân họp nhau
tại Giê-ru-sa-lem, muôn người như một. 2 Ông Giê-su-a con ông
Giô-xa-đắc, cùng với các tư tế, anh em của ông, và ông Dơ-rúp-ba-ven, con ông
San-ti-ên, cùng với anh em của ông đứng ra xây bàn thờ Thiên Chúa Ít-ra-en, để
dâng trên đó các lễ toàn thiêu, như đã chép trong Luật của ông Mô-sê, người của
Thiên Chúa. 3 Họ dựng lại bàn thờ vào đúng vị trí, vì họ sợ các dân
trong xứ. Trên đó, họ dâng lên Ðức Chúa lễ toàn thiêu ban sáng và ban chiều. 4
Như lời đã chép, họ cử hành lễ Lều, dâng lễ toàn thiêu ngày này qua ngày
khác theo số đã quy định cho mỗi ngày. 5 Sau đó, họ dâng lễ toàn
thiêu thường tiến, lễ toàn thiêu vào các ngày sóc và mọi đại lễ kính Ðức Chúa,
và lễ toàn thiêu của tất cả những người dâng cúng Ðức Chúa lễ vật tự nguyện.6
Từ mồng một tháng bảy, họ bắt đầu dâng lễ toàn thiêu kính Ðức Chúa, mặc dầu
chưa đặt nền móng cho Ðền Thờ của Ðức Chúa.
7
Họ
cấp bạc cho thợ đá, thợ mộc, cấp thức ăn thức uống và dầu cho người Xi-đôn và
Tia, để họ chở gỗ bá hương từ Li-băng, qua đường biển, về Gia-phô, theo phép Ky-rô,
vua Ba-tư, đã ban. 8 Vào năm thứ hai, sau khi họ về đến Nhà Thiên
Chúa ở Giê-ru-sa-lem, trong tháng thứ hai, ông Dơ-rúp-ba-ven, con ông
San-ti-ên, và ông Giê-su-a, con ông Giô-xa-đắc, cùng với các anh em còn lại,
các tư tế, các thầy Lê-vi và tất cả những người lưu đày trở về Giê-ru-sa-lem,
khởi công và giao phó cho các thầy Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên điều khiển
công việc xây Nhà Ðức Chúa. 9 Ông Giê-su-a với con cái và anh em
ông, ông Cát-mi-ên và con cái, con cái ông Hô-đáp-gia, con cái ông Khê-na-đát,
con cái và anh em của họ, các thầy Lê-vi, cùng nhau điều khiển thợ làm việc tại
Nhà Thiên Chúa. 10 Khi thợ xây nhà đặt nền móng Ðền Thờ của Ðức
Chúa, thì các tư tế, y phục chỉnh tề, tay cầm kèn, và các thầy Lê-vi, con cái
ông A-xáp, tay cầm chũm choẹ, đứng ở đó mà ca tụng Ðức Chúa, theo như vua
Ða-vít, vua Ít-ra-en, đã quy định. 11 Họ luân phiên xướng đáp mà ca
tụng và cảm tạ Ðức Chúa: "Vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn
tình thương đối với Ít-ra-en! " Toàn dân lớn tiếng reo hò ca tụng Ðức Chúa,
vì bấy giờ Nhà Ðức Chúa đã có nền móng. 12 Nhiều tư tế và thầy
Lê-vi, nhiều người đứng đầu gia tộc nay lớn tuổi, là những người đã thấy Nhà
Thiên Chúa trước kia, khóc to tiếng khi thấy người ta đặt nền móng Nhà mới này
trước mắt họ; nhưng cũng có nhiều người khác cất tiếng reo hò vui sướng. 13
Không ai có thể phân biệt được tiếng reo hò vui sướng với tiếng khóc của
dân, vì dân lớn tiếng reo hò và tiếng họ vọng đi xa.
Chương 04
Dưới
thời vua Ky-rô, người Sa-ma-ri cản trở việc tái thiết.
1
Khi
nghe tin là các người lưu đày trở về đang xây một Ðền Thờ kính Ðức Chúa, Thiên
Chúa của Ít-ra-en, 2 thì những kẻ thù của Giu-đa và Ben-gia-min đến
gặp ông Dơ-rúp-ba-ven, và những người đứng đầu các gia tộc, mà nói: "Chúng
tôi muốn được cùng xây với các ông, bởi cũng như các ông, chúng tôi tìm kiếm
Thiên Chúa của các ông, và dâng lễ tế kính Người, từ ngày Ê-xa-khát-đôn, vua
Át-sua, đem chúng tôi lên đây.” 3 Ông Dơ-rúp-ba-ven, ông Giê-su-a và
những người khác, là những người đứng đầu các gia tộc Ít-ra-en, bảo họ:
"Việc xây Nhà cho Thiên Chúa chúng tôi không phải là việc chung của các
ông và chúng tôi, vì chỉ có chúng tôi sẽ xây cho Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en, theo lệnh vua Ky-rô, vua Ba-tư, đã ban cho chúng tôi.” 4 Khi
đó, dân trong xứ bắt đầu làm cho dân Giu-đa bủn rủn tay chân và sợ hãi, để họ
không xây cất nữa. 5 Chúng mua chuộc các cố vấn, để làm hỏng ý định
của dân Giu-đa trong suốt thời vua Ky-rô, vua Ba-tư, mãi cho đến triều vua
Ða-ri-ô, vua Ba-tư.
Dưới
thời vua Xéc-xét và vua Ác-tắc-sát-ta,
người
Sa-ma-ri cản trở việc tái thiết
6
Dưới
triều vua Xéc-xét, vào thời đầu triều đó, chúng viết một bản cáo tội dân cư
Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
7
Vào
thời vua Ác-tắc-sát-ta, Bít-lam, Mít-rơ-đát, Táp-ên, và các bạn đồng liêu khác
đã viết cho vua Ác-tắc-sát-ta, vua Ba-tư. Bản văn ấy được viết bằng tiếng A-ram
và được phiên dịch. Nguyên văn tiếng A-ram: 8 Rơ-khum, thủ hiến, và
Sim-sai, thư ký, gửi lên vua Ác-tắc-sát-ta một bức thư tố cáo Giê-ru-sa-lem,
với những lời lẽ như sau: 9 "Rơ-khum, thủ hiến, Sim-sai, thư
ký, và các bạn đồng liêu khác, các thẩm phán và khâm sai, những người
Tác-pơ-lai, E-réc, By-by-lon và Su-san, nghĩa là những người Ê-lam, 10 và
các dân tộc khác mà vua Át-náp-pa vĩ đại và lừng danh đã bắt đi đày và cho định
cư tại các thành của Sa-ma-ri và các miền khác thuộc Vùng bên kia sông
Êu-phơ-rát, đồng tấu:
11
(Ðây
là bản sao bức thư họ gửi: )
"Tâu
vua Ác-tắc-sát-ta, bầy tôi của đức vua, những người ở Vùng bên kia sông
Êu-phơ-rát xin thưa:
Và
bây giờ, 12 xin trình để đức vua tường: từ nơi đức vua, người Do-thái
đã lên chỗ chúng tôi tại Giê-ru-sa-lem, và đang tái thiết cái thành phản loạn
và xấu xa ấy; chúng dựng lại tường thành và đặt lại nền móng. 13 Vậy
xin trình để đức vua tường: nếu thành ấy được tái thiết, tường thành được dựng
lại, thì chúng sẽ không nộp cống vật, thuế má, thuế thông quá; và như vậy, cuối
cùng nhà vua sẽ phải thiệt thòi. 14 Vậy, vì được hưởng lộc của triều
đình, chúng tôi thấy không được phép ngồi nhìn đức vua bị nhục mạ; cho nên
chúng tôi đệ lên đức vua bản tường trình này, 15 để người ta tra cứu
sách Sử Biên Niên của tổ tiên đức vua. Trong sách Sử Biên Niên đó, đức vua sẽ
tìm ra và nhận thấy rằng thành ấy là một thành phản loạn, làm thiệt hại cho nhà
vua và các tỉnh; ở đó, từ thời xa xưa chúng đã làm loạn. Vì thế thành ấy đã bị
tàn phá. 16 Chúng tôi xin trình để đức vua tường: nếu thành ấy được
tái thiết, và tường thành được dựng lại, thì điều đó sẽ làm cho đức vua chẳng
còn phần đất nào nữa trong Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát."
17
Vua
gửi thư trả lời:
"Gửi
lời vấn an quan thủ hiến Rơ-khum, thư ký Sim-sai và các đồng liêu cư ngụ ở
Sa-ma-ri và ở các nơi khác trong Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát!
Vậy
bây giờ, 18 bức thư mà các ngươi đệ lên ta, đã được dịch và đọc
trước mặt ta. 19 Theo lệnh ta, người ta đã tra cứu và tìm ra rằng từ
thời xa xưa, thành ấy đã từng nổi dậy chống các vua, và những cuộc phản loạn,
những cuộc nổi dậy đã từng diễn ra ở đó. 20 Ở Giê-ru-sa-lem đã có
những vua hùng mạnh làm bá chủ khắp Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát. Người ta đã
nộp cho họ cống vật, thuế má, thuế thông quá. 21 Vì thế, các ngươi
hãy ra lệnh cấm chúng không được tái thiết thành ấy, cho đến khi có lệnh ta ban.
22 Các ngươi hãy coi chừng chớ trễ nải công việc này, kẻo gây nhiều
thiệt hại cho nhà vua."
23
Như
thế, sau khi bản sao sắc chỉ của vua Ác-tắc-sát-ta được đọc trước mặt quan thủ
hiến Rơ-khum, viên thư ký Sim-sai và các đồng liêu, thì những người này vội
vàng đi Giê-ru-sa-lem gặp người Do-thái, và dùng võ lực mà ngăn cản họ.
Xây
Ðền Thờ (520-515)
24
Khi
đó, công việc xây Nhà Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem phải ngưng lại và ngưng lại
mãi cho đến năm thứ hai triều vua Ða-ri-ô, vua Ba-tư.
Chương 05
1
Ngôn
sứ Khác-gai và ngôn sứ Da-ca-ri-a, con ông Ít-đô, phát ngôn về người Do-thái ở
Giu-đa và ở Giê-ru-sa-lem, nhân danh Thiên Chúa của Ít-ra-en, là Ðấng ngự trên
họ. 2 Bấy giờ, ông Dơ-rúp-ba-ven, con ông San-ti-ên, và ông
Giê-su-a, con ông Giô-xa-đắc, đứng ra khởi sự xây Nhà Thiên Chúa ở
Giê-ru-sa-lem, và có các ngôn sứ của Thiên Chúa trợ giúp các ông. 3 Vào
chính thời ấy, ông Tát-nai, trưởng Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát, ông Sơ-tha
Bốt-nai và các đồng liêu đến gặp họ và nói với họ như sau: "Ai cho phép
các ông tái thiết Nhà này, tu bổ ngôi nhà gỗ này?” 4 Bấy giờ những
người ấy còn hỏi họ: "Tên của những người xây ngôi nhà này là gì?” 5 Nhưng
Thiên Chúa của người Do-thái để mắt nhìn đến các kỳ mục của họ, nên người ta đã
không đình chỉ công việc của họ, cho đến khi một bản báo cáo được đệ lên vua
Ða-ri-ô, và sau đó có sắc chỉ phúc đáp về vụ này.
6
Ðây
là bản sao bức thư của ông Tát-nai, trưởng Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát, ông
Sơ-tha Bốt-nai và các bạn đồng liêu, các khâm sai Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát,
đã đệ lên vua Ða-ri-ô. 7 Họ đã đệ lên vua một bản tường trình viết
như sau: Tâu vua Ða-ri-ô, kính chúc đức vua vạn an! 8 Xin trình để đức vua
tường: chúng tôi đã đi tới tỉnh Giu-đa, tới Nhà của Thiên Chúa cao cả. Nhà đó
được xây bằng đá đẽo, có xà gỗ gác vào tường. Công trình ấy được thực hiện cách
chu đáo và tiến triển tốt đẹp nhờ tay họ. 9 Bấy giờ chúng tôi đã hỏi
các kỳ mục đó, chúng tôi đã nói với họ thế này: "Ai cho phép các ông tái
thiết Nhà này, tu bổ nhà gỗ này?” 10 Chúng tôi cũng hỏi tên của họ
để đức vua tường, và đã ghi tên những người làm đầu họ.
11
Ðây
là câu họ trả lời chúng tôi: "Chúng tôi là những tôi trung của Thiên Chúa,
Chúa trời đất. Chúng tôi tái thiết ngôi Nhà đã được xây dựng xưa kia, cách đây
lâu lắm rồi, một đại vương của Ít-ra-en đã xây lên và đã hoàn thành. 12 Nhưng
vì cha ông chúng tôi làm cho Thiên Chúa, Chúa các tầng trời, phải nổi cơn thịnh
nộ, nên Người đã trao họ vào tay vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, người Can-đê, vua
Ba-by-lon. Vua đã phá huỷ Nhà này và đày dân sang Ba-by-lon. 13 Tuy
thế, năm thứ nhất đời vua Ky-rô, vua Ba-by-lon, vua Ky-rô ra lệnh tái thiết Nhà
này của Thiên Chúa. 14 Và hơn nữa, vua Ky-rô lấy ra khỏi đền thờ
Ba-by-lon những đồ vàng đồ bạc thuộc Nhà Thiên Chúa, mà vua Na-bu-cô-đô-nô-xo
đã lấy ra khỏi Ðền Thờ Giê-ru-sa-lem và đưa về đền thờ Ba-by-lon. Rồi vua Ky-rô
trao những đồ vật ấy cho một người tên là Sết-bát-xa mà vua đã đặt làm tổng
trấn. 15 Vua nói với ông: "Ông hãy lấy những đồ vật ấy, mang đi
và đặt lại ở Ðền Thờ Giê-ru-sa-lem. Nhà Thiên Chúa phải được tái thiết ở chỗ cũ.
16 Bấy giờ, ông Sết-bát-xa đến đặt nền Nhà Thiên Chúa ở
Giê-ru-sa-lem. Từ đó đến nay, Nhà ấy vẫn được tái thiết, nhưng chưa hoàn thành.
17
Vậy
bây giờ, nếu đức vua đồng ý, xin đức vua cho người tìm kiếm trong kho tàng của
đức vua, ở bên đó, tại Ba-by-lon, để xem vua Ky-rô có thực sự ban lệnh tái
thiết Nhà Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem hay không? Xin đức vua gửi cho chúng tôi
quyết định của ngài về vấn đề này."
Chương 06
1
Bấy
giờ, vua Ða-ri-ô ra lệnh cho tìm kiếm trong kho tàng, nơi trữ các văn thư ở
Ba-by-lon. 2 Người ta đã tìm thấy ở Ác-mơ-tha, thành trì nằm trong
tỉnh Mê-đi, một cuộn da trên đó có viết:
"Giác
thư.
3
Năm
thứ nhất đời vua Ky-rô, vua Ky-rô ra lệnh:
Về
vấn đề Nhà Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem.
Nhà
sẽ được tái thiết làm nơi dâng các hy lễ, và nền móng cũ sẽ được duy trì. Chiều
cao của Nhà sẽ là ba mươi thước, chiều rộng ba mươi thước. 4 Sẽ có
ba lớp đá đẽo và một lớp gỗ. Nhà vua sẽ lấy quỹ của triều đình đài thọ các chi
phí. 5 Hơn nữa, những đồ vàng đồ bạc thuộc Nhà Thiên Chúa, mà vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo đã lấy ra khỏi Ðền Thờ Giê-ru-sa-lem và đưa về Ba-by-lon, sẽ
được trả lại, để các đồ vật ấy trở về chỗ cũ trong Ðền Thờ Giê-ru-sa-lem và
được đặt trong Nhà Thiên Chúa."
6
"Vậy
bây giờ, Tát-nai, trưởng Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát, Sơ-tha Bốt-nai và các
đồng liêu, các khâm sai Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát, các ngươi hãy rời xa nơi
đó. 7 Hãy để cho tổng trấn của người Do-thái và các kỳ mục Do-thái
lo việc xây cất Nhà Thiên Chúa, họ phải tái thiết Nhà Thiên Chúa ở chỗ cũ. 8
Ðây là lệnh ta ban cho các ngươi về cách đối xử với hàng kỳ mục Do-thái
trong việc tái thiết Nhà Thiên Chúa: phải lấy tiền bạc của nhà vua trích từ
thuế thu được ở Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát, mà cung cấp đầy đủ các chi phí
cho những người đó, không được gián đoạn. 9 Theo lời chỉ dẫn của các
tư tế Giê-ru-sa-lem, những gì cần cho lễ toàn thiêu kính Thiên Chúa, Chúa các
tầng trời: bò tơ, chiên cừu, lúa miến, muối, rượu và dầu, ngày ngày sẽ được
cung cấp cho họ, không được chểnh mảng, 10 để họ dâng lên Thiên
Chúa, Chúa các tầng trời, các hy lễ làm đẹp lòng Người, và cầu cho nhà vua và
các hoàng tử được trường thọ. 11 Ta còn ra lệnh: Bất kỳ ai vi phạm
sắc chỉ này, thì phải dỡ xà gỗ nhà nó, làm cột đóng xuyên qua người nó mà dựng
lên; và vì lý do ấy, hãy biến nhà nó thành đống phân dơ. 12 Chớ gì
Thiên Chúa, Ðấng đã đặt Danh Người ngự tại đó, lật đổ bất cứ vua hay dân nào
dám vi phạm sắc chỉ này mà tra tay phá huỷ Nhà Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem. Chính
ta, Ða-ri-ô, đã ban lệnh này. Sắc chỉ phải được thi hành chu đáo!"
13
Bấy
giờ, ông Tát-nai, trưởng Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát, ông Sơ-tha Bốt-nai và
các đồng liêu thi hành chu đáo các chỉ thị vua Ða-ri-ô gửi đến. 14 Hàng
kỳ mục Do-thái tiếp tục xây cất và thành công trong việc đó, theo lời sấm của
ngôn sứ Khác-gai và của ông Da-ca-ri-a con ông Ít-đô. Họ hoàn thành công việc
xây cất đúng theo lệnh của Thiên Chúa Ít-ra-en và lệnh của vua Ky-rô, vua
Ða-ri-ô, và vua Ác-tắc-sát-ta vua Ba-tư. 15 Nhà đó được xây xong
ngày mồng ba tháng A-đa, năm thứ sáu triều vua Ða-ri-ô. 16 Con cái
Ít-ra-en, các tư tế, các thầy Lê-vi và những người lưu đày trở về, hân hoan cử
hành lễ khánh thành Nhà Thiên Chúa. 17 Ðể khánh thành Nhà Thiên
Chúa, họ đã dâng một trăm con bò, hai trăm con cừu đực, bốn trăm con chiên, và
bắt mười hai con dê đực, theo số các chi tộc Ít-ra-en, làm lễ tạ tội cho toàn
thể Ít-ra-en. 18 Họ thiết lập hàng tư tế theo các phẩm trật của họ,
và các thầy Lê-vi theo các cấp bậc của họ, để phục vụ Thiên Chúa tại
Giê-ru-sa-lem, như đã chép trong sách Mô-sê.
Lễ
Vượt Qua năm 515
19
Những
người đi đày trở về cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn tháng thứ nhất. 20 Các
thầy Lê-vi, trăm người như một, đã thanh tẩy mình: tất cả đều thanh sạch, nên
họ đã sát tế chiên Vượt Qua cho những người đi đày trở về, cho anh em của họ là
các tư tế, và cho chính họ. 21 Con cái Ít-ra-en đi đày trở về đã ăn
mừng lễ Vượt Qua, cùng với những người đã dứt bỏ những điều ô uế của các dân
trong xứ, để hợp với họ tìm kiếm Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en. 22 Họ
hân hoan cử hành lễ Bánh Không Men trong bảy ngày, vì Ðức Chúa làm cho họ được
hân hoan khi làm cho lòng vua Át-sua nghiêng về phía họ, để họ vững tay xây Nhà
Thiên Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en.
Chương 07
II.
Các Ông Ét-Ra Và Nơ-Khe-Mi-A
Tổ
Chức Cộng Ðoàn
Thân
thế và sứ mạng ông Ét-ra
1
Sau
những biến cố đó, dưới triều Ác-tắc-sát-ta, vua Ba-tư, có ông Ét-ra, con cháu
của Xơ-ra-gia, con của A-dác-gia, con của Khin-ki-gia, 2 con của
Sa-lum, con của Xa-đốc, con của A-khi-túp, 3 con của A-mác-gia, con
của A-dác-gia, con của Mơ-ra-giốt, 4 con của Dơ-rác-gia, con của
Út-di, con của Búc-ki, 5 con của A-vi-su-a, con của Pin-khát, con
của E-la-da, con của thượng tế A-ha-ron; 6 Chính ông Ét-ra này đã từ
Ba-by-lon lên. Ông là một kinh sư thông Luật Mô-sê, mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của
Ít-ra-en đã ban. Vì bàn tay Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, che chở ông, nên tất
cả những gì ông xin vua đều ban cho. 7 Con cái Ít-ra-en, các tư tế,
các thầy Lê-vi, các ca viên, những người giữ cửa, những người phục vụ Ðền Thờ,
lên Giê-ru-sa-lem vào năm thứ bảy đời vua Ác-tắc-sát-ta. 8 Ông tới
Giê-ru-sa-lem vào tháng thứ năm, năm thứ bảy của triều vua. 9 Quả
thế, ông đã ấn định ngày rời Ba-by-lon để đi lên đó vào mồng một tháng thứ
nhất, và tới Giê-ru-sa-lem vào ngày mồng một tháng thứ năm: có bàn tay nhân
lành Thiên Chúa của ông che chở ông. 10 Quả thật, ông Ét-ra đã chú
tâm tìm hiểu kỹ càng Lề Luật của Ðức Chúa, thực hành Luật đó và dạy cho dân
Ít-ra-en biết những thánh chỉ và quyết định.
Sắc
chỉ của vua Ác-tắc-sát-ta
11
Ðây
là bản sao sắc chỉ của vua Ác-tắc-sát-ta đã trao cho ông Ét-ra, tư tế kinh sư,
kinh sư chuyên về các lời diễn tả mệnh lệnh và các thánh chỉ của Ðức Chúa liên
quan đến Ít-ra-en.
12
"Ác-tắc-sát-ta,
vua các vua, gửi cho tư tế Ét-ra, kinh sư chuyên về Lề Luật của Thiên Chúa,
Chúa các tầng trời. Chúc ông vạn an!
Vậy
giờ đây, 13 ta ra lệnh cho bất cứ ai thuộc dân Ít-ra-en, cho các tư
tế và các thầy Lê-vi sống trong vương quốc của ta muốn tình nguyện đi
Giê-ru-sa-lem, thì đều được phép đi cùng với ông, 14 bởi vì ông được
vua và bảy vị cố vấn của vua cử đi để thị sát Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, chiếu
theo Lề Luật của Thiên Chúa của ông, Lề Luật mà ông có trong tay; 15 ông
cũng được cử đi để mang vàng bạc, mà vua và các vị cố vấn của vua đã tự nguyện
dâng cúng Thiên Chúa của Ít-ra-en ngự tại cung điện Người ở Giê-ru-sa-lem, 16
cũng như mang tất cả vàng bạc ông sẽ tìm ra trong khắp tỉnh Ba-by-lon,
cùng với những lễ vật mà dân và các tư tế sẽ tự nguyện dâng cúng cho Nhà Thiên
Chúa của họ tại Giê-ru-sa-lem. 17 Vì thế, ông hãy cẩn thận dùng tiền
bạc đó mà mua bò, chiên, cừu, cũng như các lễ phẩm và rượu tế; ông sẽ tiến dâng
các lễ vật đó trên bàn thờ của Nhà Thiên Chúa của các ông ở Giê-ru-sa-lem. 18
Với số vàng bạc còn dư, các ông sẽ làm những gì ông và anh em ông cho là
tốt, và làm theo ý muốn của Thiên Chúa các ông thờ. 19 Còn những đồ
vật đã được trao cho ông để dùng vào việc thờ phượng trong Nhà Thiên Chúa của
ông, thì ông hãy đặt trước nhan Thiên Chúa ngự tại Giê-ru-sa-lem. 20 Còn
những đồ vật cần thiết khác cho Nhà Thiên Chúa của ông, đồ vật ông có nhiệm vụ
phải cung cấp, thì ông sẽ lĩnh ở kho tàng của vua mà cung cấp. 21 Chính
ta, vua Ác-tắc-sát-ta, ra lệnh cho mọi thủ quỹ Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát:
tất cả những gì tư tế Ét-ra, kinh sư chuyên về Lề Luật của Thiên Chúa, Chúa các
tầng trời, sẽ xin các ngươi, thì các ngươi phải thực hiện cho chu đáo. 22 Các
ngươi có thể cấp cho tới ba ngàn ký bạc, một ngàn giạ lúa miến, hai trăm thùng
rượu, hai trăm thùng dầu, còn muối thì không có hạn. 23 Tất cả những
gì là lệnh của Thiên Chúa, Chúa các tầng trời, phải được nghiêm chỉnh thi hành
cho Nhà Thiên Chúa, Chúa các tầng trời, để cơn thịnh nộ của Người khỏi giáng
xuống vương quốc của vua và của các hoàng tử. 24 Ta cũng còn cho các
ngươi biết là không được phép thu cống vật, thuế má, thuế thông quá của bất cứ
tư tế hay thầy Lê-vi, ca viên hay người giữ cửa và những người phục vụ Ðền Thờ,
nói tóm lại, của bất cứ người nào phục vụ Nhà Thiên Chúa.
25
"Phần
ông, ông Ét-ra, với sự khôn ngoan của Thiên Chúa của ông, sự khôn ngoan mà ông nắm
trong tay, ông hãy đặt các thẩm phán, các quan toà để xử kiện cho toàn dân Vùng
bên kia sông Êu-phơ-rát, cho tất cả những người biết Lề Luật của Thiên Chúa của
ông. Còn kẻ không biết Lề Luật đó, các ông sẽ giúp cho họ biết. 26 Ai
không giữ Lề Luật của Thiên Chúa của ông và luật của vua, thì phải trừng trị
thích đáng: như xử tử, hoặc trục xuất, hoặc phạt tiền, hay bỏ tù."
Cuộc
hành trình của ông Ét-ra từ Ba-by-lon đến Pa-lét-tin
27
Chúc
tụng Ðức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên chúng ta, Ðấng đã ban cho đức vua lòng
ước muốn tôn trọng Nhà của Ðức Chúa ở Giê-ru-sa-lem, 28 và đã làm
cho đức vua, các cố vấn và mọi quan chức quyền thế nhất của đức vua tỏ lòng
thương yêu tôi. Còn tôi thì lên tinh thần, vì bàn tay Ðức Chúa, Thiên Chúa của
tôi, che chở tôi. Tôi tập họp một số thủ lãnh Ít-ra-en lại, để họ cùng đi lên
với tôi.
Chương 08
1
Ðây
là những người làm đầu các gia tộc với gia phả của họ, những người đã rời
Ba-by-lon mà đi lên với tôi, dưới triều vua Ác-tắc-sát-ta:
2
Dòng
dõi Pin-khát: có Ghéc-sôm; dòng dõi I-tha-ma: có Ða-ni-en; dòng dõi ông Ða-vít:
có Khát-tút, 3 con của Sơ-khan-gia; dòng dõi Pác-ốt: có Dơ-khác-gia,
và cùng với ông có một trăm năm mươi đàn ông con trai được ghi vào sổ gia phả; 4
dòng dõi Pa-khát Mô-áp: có En-giơ-hô-ê-nai, con của Dơ-rác-gia, và cùng
với ông có hai trăm đàn ông con trai; 5 dòng dõi Dát-tu: có
Sơ-khan-gia, con của Gia-kha-di-ên, và cùng với ông có ba trăm đàn ông con trai;
6 dòng dõi A-đin: có E-vét, con của Giô-na-than, và cùng với ông có
năm mươi đàn ông con trai; 7 dòng dõi Ê-lam: có Giơ-sa-gia, con của
A-than-gia, và cùng với ông có bảy mươi đàn ông con trai; 8 dòng dõi
Sơ-phát-gia: có Dơ-vát-gia, con của Mi-kha-ên, và cùng với ông có tám mươi đàn
ông con trai; 9 dòng dõi Giô-áp: có Ô-vát-gia, con của Giơ-khi-ên,
và cùng với ông có hai trăm mười tám đàn ông con trai; 10 dòng dõi
Ba-ni: có Sơ-lô-mít, con của Giô-xíp-gia, và cùng với ông có một trăm sáu mươi
đàn ông con trai; 11 dòng dõi Bê-vai: có Dơ-khác-gia, con của
Bê-vai, và cùng với ông có hai mươi tám đàn ông con trai; 12 dòng
dõi Át-gát: có Giô-kha-nan, con của Ha-ca-tan, và cùng với ông có một trăm mười
đàn ông con trai; 13 dòng dõi A-đô-ni-cam: những người cuối cùng;
đây là tên của họ: Ê-li-phe-lét, Giơ-y-ên và Sơ-ma-gia, và cùng với họ có sáu
mươi đàn ông con trai; 14 dòng dõi Bích-vai: có U-thai và Dáp-bút,
và cùng với họ có bảy mươi đàn ông con trai.
15
Tôi
đã tập họp họ lại bên sông chảy về A-ha-va, và chúng tôi đóng trại ở đó ba
ngày. Tôi để ý thì thấy có dân và các tư tế, nhưng ở đó tôi không tìm được một
thầy Lê-vi nào. 16 Bấy giờ tôi phái những người này đi: các ông:
Ê-li-e-de, A-ri-ên, Sơ-ma-gia, En-na-than, Gia-ríp, En-na-than, Na-than,
Dơ-khác-gia, và Mơ-su-lam, là những người thủ lãnh, cùng với các ông
Giô-gia-ríp và En-na-than, là những người giải thích Lề Luật. 17 Tôi
đã cho họ những chỉ thị liên quan đến ông Ít-đô là người làm đầu ở Kha-xíp-gia,
và nhờ họ chuyển đến ông Ít-đô và các anh em ông, những người phục vụ Ðền Thờ
tại Kha-xíp-gia, những lời miệng tôi muốn nói với các ông ấy, để xin đem đến
cho chúng tôi những người giúp việc Nhà Thiên Chúa. 18 Vì có bàn tay
nhân lành của Thiên Chúa che chở chúng tôi, họ đem đến cho chúng tôi một người
khôn ngoan, thuộc dòng dõi ông Mác-li, con ông Lê-vi, con ông Ít-ra-en, đó là
ông Sê-rếp-gia, cùng với các con và anh em của ông, tất cả mười tám người, 19
thêm vào đó còn có ông Kha-sáp-gia với em ông là ông Giơ-sa-gia, thuộc
dòng dõi ông Mơ-ra-ri, cũng như các con của họ, tất cả hai mươi người. 20 Ngoài
ra, trong số những người phục vụ Ðền Thờ mà vua Ða-vít và các thủ lãnh đã cho
để phục vụ các thầy Lê-vi, có hai trăm hai mươi người phục vụ Ðền Thờ: tất cả
những người này được chỉ định đích danh.
21
Ở
đó, gần bờ sông A-ha-va, tôi công bố lệnh ăn chay để hạ mình trước nhan Thiên
Chúa chúng tôi, hầu nài xin Người cho chúng tôi đi đường bằng an cùng với con
cái chúng tôi và mọi tài sản của chúng tôi. 22 Vì tôi sẽ hổ thẹn,
nếu phải xin vua cấp cho một đội quân và những người kỵ mã, để bảo vệ chúng tôi
khỏi tay kẻ thù trong lúc đi đường; quả vậy, chúng tôi có thưa với đức vua: "Bàn
tay của Thiên Chúa chúng tôi che chở tất cả những ai tìm kiếm Người và giáng
phúc cho họ, nhưng sức mạnh và cơn thịnh nộ của Người đè nặng trên mọi kẻ lìa
bỏ Người.” 23 Ðể được như vậy, chúng tôi đã giữ chay, đã nài xin
Thiên Chúa chúng tôi, và Người đã nhậm lời chúng tôi.
24
Tôi
chọn hai người làm đầu các tư tế, cũng như ông Sê-rếp-gia, ông Kha-sáp-gia và
mười người anh em của họ. 25 Và tôi cân cho họ bạc vàng và những đồ
vật dâng cúng vào Nhà của Thiên Chúa chúng tôi; đó là những gì đức vua, các vị
cố vấn, các thủ lãnh và mọi người Ít-ra-en có mặt ở đó đã dâng cúng. 26 Tôi
cân, rồi trao vào tay họ mười chín ngàn năm trăm ký bạc, những đồ bằng bạc trị
giá ba ngàn ký, ba ngàn ký vàng, 27 hai mươi tô bằng vàng trị giá
một ngàn đồng Ða-ri-ô, và hai bình bằng đồng đẹp, bóng loáng, cũng quý như vàng.
28 Tôi nói với họ: "Các ông được thánh hiến cho Ðức Chúa; các
đồ vật này là của thánh; bạc này, vàng này là lễ vật tự nguyện dâng Ðức Chúa,
Thiên Chúa của tổ tiên các ông. 29 Các ông hãy gìn giữ cẩn thận
những thứ này, cho đến khi cân trước mặt những người làm đầu các tư tế và các
thầy Lê-vi, trước mặt những người làm đầu các gia tộc Ít-ra-en ở Giê-ru-sa-lem,
trong các phòng của Nhà Ðức Chúa.” 30 Các tư tế và các thầy Lê-vi
lãnh nhận bạc vàng và các đồ vật đã cân, để mang đi Giê-ru-sa-lem, đưa vào Nhà
của Thiên Chúa chúng ta.
31
Chúng
tôi đã khởi hành từ sông A-ha-va ngày mười hai tháng thứ nhất, để đi
Giê-ru-sa-lem. Bàn tay của Thiên Chúa chúng ta đã che chở chúng tôi, và cho
chúng tôi thoát khỏi tay kẻ thù và những cạm bẫy trên đường đi. 32 Chúng
tôi đến Giê-ru-sa-lem và nghỉ tại đó ba ngày. 33 Ngày thứ tư, bạc,
vàng và các đồ vật được cân trong Nhà của Thiên Chúa chúng ta, và trao vào tay
tư tế Mơ-rê-mốt, con ông U-ri-gia, cùng với ông còn có ông E-la-da, con ông
Pin-khát; ngoài các nhân vật ấy, cũng có các thầy Lê-vi: Giô-da-vát, con ông
Giê-su-a, và Nô-át-gia, con ông Bin-nui. 34 Số và lượng đều đúng cả.
Tổng cộng số lượng được ghi vào sổ.
Thời
ấy, 35 những người từ chốn lưu đày trở về, những người đã bị lưu đày,
dâng những lễ toàn thiêu lên Thiên Chúa của Ít-ra-en: mười hai con bò cho toàn
thể Ít-ra-en, chín mươi sáu con cừu, bảy mươi hai con chiên, mười hai con dê
làm lễ vật tạ tội: tất cả trở thành lễ vật toàn thiêu dâng Ðức Chúa.
36
Rồi
họ trao các sắc chỉ nhà vua cho các thủ hiến của vua và cho các trưởng Vùng bên
kia sông Êu-phơ-rát. Các vị này đã giúp đỡ dân và giúp vào việc xây Nhà Ðức
Chúa.
Chương 09
Huỷ
bỏ hôn nhân với người ngoại
1
Giải
quyết những việc ấy xong, các người lãnh đạo đến với tôi và nói: "Dân
Ít-ra-en, các tư tế và các thầy Lê-vi không dứt mọi liên hệ với những thói tục
ghê tởm của các dân trong xứ, của người Ca-na-an, Khết, Pơ-rít-di, Giơ-vút,
Am-mon, Mô-áp, Ai-cập và E-mô-ri. 2 Họ và con cái họ đã lấy con gái
của chúng; nòi giống thánh đã trà trộn với các dân trong những xứ ấy. Các người
lãnh đạo, các quan chức là những người mau tay làm chuyện phản bội đó nhất!” 3
Nghe tin ấy, tôi xé áo dài trong và áo choàng ngoài, tôi bứt tóc bứt râu,
rồi ngồi xuống sững sờ kinh ngạc. 4 Tất cả những ai run sợ khi nghe
lời của Thiên Chúa Ít-ra-en thì quy tụ chung quanh tôi, trước sự phản bội của
những người lưu đày trở về. Còn tôi thì cứ ngồi đó, sững sờ kinh ngạc, cho đến
giờ dâng lễ phẩm ban chiều. 5 Vào giờ đó, tôi mới ra khỏi cơn sầu
khổ, trỗi dậy; áo dài trong, áo choàng ngoài xé rách, tôi quỳ gối, giơ tay lên
Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi 6 và thưa:
"Lạy
Thiên Chúa của con, con thật xấu hổ thẹn thùng khi ngẩng mặt lên Ngài, lạy
Thiên Chúa của con, vì tội chúng con quá nhiều, đến nỗi ngập đầu ngập cổ, lỗi
chúng con cứ chồng chất lên mãi tới trời. 7 Từ thời tổ tiên chúng
con cho đến ngày nay, vì chúng con đã mắc lỗi nặng và phạm tội, nên các vua và
các tư tế của chúng con đã bị nộp vào tay vua chúa các nước ngoại bang; chúng
con đã bị nộp cho gươm giáo, phải đi đày, bị cướp bóc và bẽ mặt hổ ngươi như
ngày hôm nay. 8 Và bây giờ, chỉ mới đây, Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng
con, ban cho chúng con ân huệ này là để lại cho chúng con một số người sống
sót, và cho chúng con được một chỗ ở vững chắc trong nơi thánh của Ngài; như
thế, Thiên Chúa chúng con đã toả ánh sáng làm cho đôi mắt chúng con được rạng
ngời, và làm cho chúng con được hồi sinh đôi chút trong cảnh nô lệ. 9 Tuy
chúng con là những kẻ nô lệ, Thiên Chúa chúng con đã không bỏ rơi chúng con
trong cảnh nô lệ đó. Ngài đã làm cho các vua Ba-tư tỏ lòng thương yêu chúng
con, khiến chúng con được hồi sinh mà dựng lại Nhà Thiên Chúa chúng con, tái
thiết ngôi Nhà đã hoang tàn, và xây lại tường thành tại Giê-ru-sa-lem ở Giu-đa.
10 Và giờ đây, lạy Thiên Chúa chúng con, chúng con biết nói gì sau
cớ sự này? Vì chúng con đã không tuân giữ các mệnh lệnh của Ngài. 11 Ngài
đã dùng các tôi trung của Ngài là các ngôn sứ mà truyền dạy rằng: "Ðất mà
các ngươi sắp vào chiếm hữu, là đất đã ra nhơ nhớp, vì những sự nhơ nhớp của các
dân trong những xứ ấy, vì những thói tục ghê tởm họ đã làm cho tràn lan khắp
nơi khắp chốn bằng sự ô uế của họ. 12 Và giờ đây, các ngươi đừng gả
con gái các ngươi cho con trai chúng, và đừng cưới con gái chúng cho con trai
các ngươi. Các ngươi đừng bao giờ mưu cầu bình an và hạnh phúc cho chúng. Như
thế, các ngươi sẽ được mạnh sức, được hưởng dùng của cải trong xứ và trối lại
cho con cái các ngươi làm gia tài mãi mãi.
13
Sau
khi mọi điều ấy xảy ra cho chúng con vì các việc xấu và lỗi nặng của chúng con,
mặc dầu Ngài, lạy Thiên Chúa chúng con, Ngài đã giảm nhẹ tội ác của chúng con,
và đã để lại cho chúng con số người sống sót này, 14 lẽ nào chúng
con lại còn vi phạm mệnh lệnh của Ngài, và kết nghĩa thông gia với các dân làm
những điều ghê tởm như thế? Chẳng lẽ Ngài lại không nổi cơn thịnh nộ với chúng
con và huỷ diệt chúng con, không để một người sống sót hay thoát nạn sao? 15
Lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, Ngài là Ðấng công chính, nên chúng con mới
được thoát nạn và sống sót, như ngày hôm nay. Này chúng con đang ở trước nhan
Ngài, mang trong mình lỗi lầm của chúng con, mặc dầu trong tình trạng đó, không
ai có thể đứng vững trước nhan Ngài!"
Chương 10
1
Trong
khi ông Ét-ra khóc lóc và phủ phục trước Nhà Thiên Chúa, mà cầu nguyện và thú
nhận tội lỗi, thì một cộng đoàn đông đảo người Ít-ra-en, đàn ông, đàn bà và trẻ
con, tụ họp lại chung quanh ông. Dân chúng khóc lóc thảm thiết. 2 Ông
Sơ-khan-gia, con ông Giơ-khi-ên, thuộc dòng dõi Ê-lam, nói với ông Ét-ra:
"Chúng tôi đã phản bội Thiên Chúa chúng tôi, khi cưới vợ người ngoại thuộc
các dân trong xứ. Nhưng giờ đây, mặc dầu thế, vẫn còn hy vọng cho Ít-ra-en. 3
Vậy giờ đây, chúng ta hãy cam kết với Thiên Chúa chúng ta là sẽ đuổi tất
cả những người vợ ấy với con cái họ, theo lời khuyên của ngài và của những ai
có lòng kính sợ mệnh lệnh của Thiên Chúa chúng ta. Cứ theo Lề Luật mà làm! 4
Xin ông trỗi dậy, vì đây là việc của ông, nhưng chúng tôi sẽ ở bên ông. Ông cứ
can đảm và hành động đi!” 5 Bấy giờ, ông Ét-ra trỗi dậy và bắt các
thủ lãnh của hàng tư tế và của các thầy Lê-vi, cũng như toàn thể Ít-ra-en phải
thề là sẽ làm như đã nói. Và họ đã thề. 6 Ông Ét-ra trỗi dậy, rồi từ
phía trước Nhà Thiên Chúa đi tới phòng ông Giơ-hô-kha-nan, con ông En-gia-síp.
Ông Ét-ra đi tới đó, không ăn bánh, cũng chẳng uống nước, vì ông quá buồn phiền
về tội phản bội của những người lưu đày trở về.
7
Người
ta ra thông cáo này tại Giê-ru-sa-lem ở Giu-đa: mọi người lưu đày trở về phải
tập họp ở Giê-ru-sa-lem. 8 Nội trong ba ngày, ai không đến, thì
chiếu theo quyết định của các thủ lãnh và kỳ mục, tất cả tài sản sẽ bị biệt
hiến và bản thân sẽ bị trục xuất khỏi cộng đồng những người lưu đày trở về. 9
Mọi người Giu-đa và Ben-gia-min đều tập họp ở Giê-ru-sa-lem vào ngày thứ
ba, đó là ngày hai mươi tháng chín. Toàn dân ngồi ở quảng trường Nhà Thiên
Chúa, run sợ vì sự việc đã xảy ra và vì trời mưa tầm tã. 10 Bấy giờ
tư tế Ét-ra đứng dậy và nói với họ: "Anh em đã phản bội khi cưới vợ người
ngoại, và như thế làm tăng thêm tội lỗi của Ít-ra-en. 11 Nhưng bây
giờ anh em hãy suy tôn Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, và hãy thi hành
ý muốn của Người: hãy dứt mọi liên hệ với dân trong xứ và các người vợ ngoại.” 12
Toàn thể đại hội lớn tiếng đáp: "Vâng! Chúng tôi phải làm như ông đã
nói. 13 Nhưng dân thì đông, lại đang mùa mưa, nên không thể đứng
ngoài trời. Và việc này không phải là chuyện ngày một ngày hai, vì trong vụ này
rất đông người chúng tôi đã phạm tội. 14 Vậy xin hàng thủ lãnh chúng
tôi ở lại thay cho đại hội; trong các thành của chúng tôi, tất cả những ai đã
cưới vợ người ngoại thì sẽ đến vào thời đã quy định, cùng với các kỳ mục và
thẩm phán của mỗi thành, cho đến khi Thiên Chúa rút lại cơn thịnh nộ Người
giáng xuống chúng tôi vì vụ này."
15
Chỉ
có ông Giô-na-than, con ông A-xa-hên, và ông Giác-dơ-gia, con ông Tích-va,
chống lại giải pháp đó, và được ông Mơ-su-lam cùng thầy Lê-vi Sáp-thai ủng hộ. 16
Nhưng các người lưu đày trở về cứ làm như đã đề nghị. Tư tế Ét-ra chọn
những người làm đầu các gia tộc, tuỳ theo số các gia tộc, tất cả đều được chỉ
định đích danh. Ngày mồng một tháng mười họ ngồi lại để cứu xét vấn đề. 17
Tới ngày mồng một tháng thứ nhất, họ mới giải quyết xong vấn đề của tất
cả những người đã lấy vợ người ngoại.
Danh
sách những người phạm lỗi
18
Người
ta tìm thấy trong hàng tư tế những người sau đây đã lấy vợ người ngoại: trong số
con cái ông Giê-su-a, con của Giô-xa-đắc, và trong số anh em của ông, có
Ma-a-xê-gia, Ê-li-e-de, Gia-ríp và Gơ-đan-gia. 19 Họ cam đoan sẽ rẫy
vợ và dâng một con cừu đực để làm lễ đền tội;
20
trong
số con cái ông Im-me, có Kha-na-ni và Dơ-vát-gia;
21
trong
số con cái ông Kha-rim, có Ma-a-xê-gia, Ê-li-gia, Sơ-ma-gia, Giơ-khi-ên và
Út-di-gia;
22
trong
số con cái ông Pát-khua, có En-giô-ê-nai, Ma-a-xê-gia, Gít-ma-ên, Nơ-than-ên,
Giô-da-vát và En-a-xa.
23
Trong
số các thầy Lê-vi, có Giô-da-vát, Sim-y, Kê-la-gia tức là Cơ-li-ta,
Pơ-thác-gia, Giơ-hu-đa và Ê-li-e-de.
24
Trong
số các ca viên, có En-gia-síp.
Trong
số những người giữ cửa, có Sa-lum, Te-lem và U-ri.
25
Giữa
những người Ít-ra-en:
trong
số con cái ông Pác-ốt, có Ram-gia, Gít-di-gia, Man-ki-gia, Mi-gia-min, E-la-da,
Man-ki-gia và Bơ-na-gia;
26
trong
số con cái ông Ê-lam, có Mát-tan-gia, Dơ-khác-gia, Giơ-khi-ên, Áp-đi,
Giơ-rê-mốt và Ê-li-gia;
27
trong
số con cái ông Dát-tu, có En-giô-ê-nai, En-gia-síp, Mát-tan-gia, Giơ-rê-mốt,
Da-vát và A-di-da;
28
trong
số con cái ông Bê-vai, có Giơ-hô-kha-nan, Kha-nan-gia, Dáp-bai và Át-lai;
29
trong
số con cái ông Ba-ni, có Mơ-su-lam, Ma-lúc, A-đa-gia, Gia-súp, Sơ-an và
Giơ-ra-mốt;
30
trong
số con cái ông Pa-khát Mô-áp, có Át-na, Cơ-lan, Bơ-na-gia, Ma-a-xê-gia,
Mát-tan-gia, Bơ-xan-ên, Bin-nui và Mơ-na-se;
31
trong
số con cái ông Kha-rim, có Ê-li-e-de, Gít-si-gia, Man-ki-gia, Sơ-ma-gia,
Si-mê-ôn,32 Ben-gia-min, Ma-lúc, Sơ-mác-gia;
33
trong
số con cái ông Kha-sum, có Mát-tơ-nai, Mát-tát-ta, Da-vát, Ê-li-phe-lét,
Giơ-rê-mai, Mơ-na-se, Sim-y;
34
trong
số con cái ông Ba-ni, có Ma-a-đai, Am-ram, U-ên, 35 Bơ-na-gia,
Bết-gia, Cơ-lu-hi, 36 Van-gia, Mơ-rê-mốt, En-gia-síp, 37 Mát-tan-gia,
Mát-tơ-nai, Gia-a-xai;
38
trong
số con cái ông Bin-nui, có Sim-y, 39 Se-lem-gia, Na-than, A-đa-gia;
40
trong
số con cái ông Dắc-cai, có Sa-sai, Sa-rai, 41 A-dác-ên,
Se-lem-gia-hu, Sơ-mác-gia, 42 Sa-lum, A-mác-gia, Giô-xếp;
43
trong
số con cái ông Nơ-vô, có Giơ-y-ên, Mát-tít-gia, Da-vát, Dơ-vi-na, Giát-đai,
Giô-en và Bơ-na-gia.
44
Tất
cả những người này đã lấy vợ người ngoại; họ đã rẫy vợ và từ con.
Nơ-khe-mi-a
Chương 01
Ơn
gọi của ông Nơ-khe-mi-a: sứ mạng của ông đối với Giu-đa
1
Ðây
là truyện ông Nơ-khe-mi-a, con ông Kha-khan-gia.Tháng Kít-lêu, năm thứ hai
mươi, khi tôi đang ở thành Su-san, 2 thì một người anh em của tôi là
Kha-na-ni từ miền Giu-đa cùng đến với một vài người. Tôi hỏi thăm về những
người Do-thái thoát nạn, những người sống sót sau thời gian tù đày, và hỏi thăm
về Giê-ru-sa-lem. 3 Họ nói với tôi: "Ở miền đó, những người
sống sót sau thời gian tù đày đang thật là khốn khổ nhục nhằn. Tường thành
Giê-ru-sa-lem bị phá đổ, cửa thành bị đốt cháy.” 4 Nghe các lời ấy
xong, tôi ngồi xuống mà khóc, buồn bã suốt mấy ngày liền như người chịu tang,
ăn chay cầu nguyện trước nhan Thiên Chúa các tầng trời.
5
Tôi
nói: "Ôi lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa các tầng trời, Thiên Chúa cao cả và đáng
sợ! Ngài là Ðấng giữ Giao Ước và tỏ lòng nhân nghĩa với những ai yêu mến Ngài
và tuân giữ các mệnh lệnh của Ngài. 6 Xin lắng tai nghe và ghé mắt
nhìn mà nhậm lời cầu nguyện của con là tôi tớ Ngài giờ đây dâng lên trước Tôn
Nhan, lời cầu nguyện mà ngày đêm con dâng lên Ngài cho các tôi tớ Ngài là con
cái Ít-ra-en. Con thú nhận tội lỗi của con cái Ít-ra-en, vì chúng con đã phạm
tội làm mất lòng Chúa. Con và tổ tiên con, chúng con đã phạm tội. 7 Chúng
con đã tệ bạc với Ngài, chúng con đã không tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ và
quyết định mà Ngài đã truyền cho ông Mô-sê, tôi trung của Ngài. 8 Xin
nhớ lại lời Ngài đã truyền cho ông Mô-sê, tôi trung của Ngài, rằng: "Các
ngươi mà bất trung, thì Ta sẽ phân tán các ngươi giữa các dân tộc; 9 nhưng
nếu các ngươi trở về với Ta, nếu các ngươi tuân giữ các mệnh lệnh của Ta và đem
ra thực hành, cho dù trong các ngươi có những người bị biệt xứ đến tận chân
trời đi nữa, thì từ đó Ta sẽ tập họp lại mà đưa về nơi Ta đã chọn cho Danh Ta
ngự.” 10 Họ là các tôi tớ của Ngài, là dân mà Ngài đã giơ cánh tay
mạnh mẽ uy quyền chuộc lấy. 11 Ôi lạy Chúa, xin lắng tai nghe lời
cầu nguyện của tôi tớ Ngài đây và lời cầu nguyện của các tôi tớ Ngài là những
kẻ tìm được hạnh phúc trong niềm kính sợ Danh Ngài. Xin cho tôi tớ của Ngài đây
hôm nay được thành công và đắc sủng trước mặt con người này!"
Bấy
giờ, tôi đang làm quan chước tửu của nhà vua.
Chương 02
1
Vào
tháng Ni-xan, năm thứ hai mươi đời vua Ác-tắc-sát-ta, vì nhiệm vụ chước tửu,
tôi lấy rượu hầu vua. Chưa bao giờ tôi buồn rầu trước mặt vua. 2 Vua
nói với tôi: "Sao mặt khanh buồn rầu thế? Khanh có đau ốm gì đâu! Hẳn
trong lòng phải có chuyện chi buồn lắm!" Tôi vô cùng sợ hãi, 3 bèn
tâu vua: "Ðức vua vạn vạn tuế! Sắc mặt của thần không buồn sao được, khi
mà thành đô, nơi tổ tiên của thần an nghỉ, đã ra hoang tàn, và cửa thành bị
thiêu huỷ.” 4 Vua bảo tôi: "Vậy khanh muốn gì?" Tôi cầu
xin Thiên Chúa các tầng trời, 5 rồi thưa với vua: "Nếu đẹp lòng
đức vua và nếu bề tôi của ngài là người vừa ý ngài, thì xin cử thần đi Giu-đa,
đến thành có phần mộ của tổ tiên thần để xây dựng lại.” 6 Lúc ấy có
hoàng hậu ngồi bên vua; vua hỏi tôi: "Khanh đi bao lâu? Bao giờ mới trở
lại? " Vua bằng lòng cử tôi đi và tôi xin hẹn với vua một kỳ hạn. 7 Tôi
thưa với vua: "Nếu đẹp lòng đức vua, thì xin hạ lệnh cấp chiếu thư cho
thần đem tới các trưởng Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát, để họ cho phép thần đi
qua đó đến tận Giu-đa. 8 Cũng xin một chiếu thư cho ông A-xáp, quản
đốc ngự lâm, để ông cấp gỗ cho thần làm khung cửa đồn luỹ ở sát Ðền Thờ, làm
tường thành và làm nhà cho thần đến ở." Vua ban cho tôi như thế, vì bàn
tay nhân lành của Thiên Chúa tôi che chở tôi.
9
Tôi
đến gặp các trưởng Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát và trao chiếu thư của vua cho
các ông. Vua cũng sai các sĩ quan và kỵ binh cùng đi với tôi.
10
Nghe
tin đó, Xan-ba-lát, người Khô-rôn, và Tô-vi-gia, người nô bộc gốc Am-mon rất
bực mình, vì có người đến lo cho con cái Ít-ra-en.
Quyết
định xây dựng lại tường thành Giê-ru-sa-lem
11
Ðến
Giê-ru-sa-lem, tôi ở lại đó ba ngày. 12 Rồi đang đêm, tôi trỗi dậy
với một vài người, nhưng không cho ai biết những gì Thiên Chúa đã thúc đẩy tôi
làm cho Giê-ru-sa-lem. Tôi không có con vật thồ nào khác ngoài con vật tôi đang
cưỡi. 13 Ban đêm, qua cửa Thung Lũng, tôi đi ra theo hướng xuống
suối Rồng và cửa Rác; tôi quan sát tường thành Giê-ru-sa-lem: tường bị phá, cửa
bị thiêu. 14 Tôi đi về phía cửa Suối và hồ Vua, nhưng không có chỗ
nào cho con vật tôi đang cưỡi đi qua được. 15 Ban đêm, dọc theo suối
Kít-rôn đi lên, tôi vẫn quan sát tường thành, rồi quay lại, qua cửa Thung Lũng
mà về. 16 Các quan chức không biết tôi đã đi đâu, đã làm gì, vì tôi
vẫn chưa cho các người Do-thái, tư tế, trưởng tộc, quan chức và các nhân viên
khác hay biết gì. 17 Bấy giờ tôi mới nói với họ: "Các ông thấy
chúng ta đã lâm vào tình cảnh khốn cùng: Giê-ru-sa-lem đã ra hoang tàn, cửa
thành bị đốt cháy. Nào, chúng ta cùng xây tường thành Giê-ru-sa-lem! Chúng ta
sẽ không còn làm bia cho người ta thoá mạ nữa.” 18 Tôi cho họ biết
bàn tay của Thiên Chúa tôi, bàn tay nhân lành, đã che chở tôi; tôi cũng cho họ
biết những lời vua đã nói với tôi. Họ liền nói: "Ðứng lên! Chúng ta cùng
xây!" Và họ đã hăng hái bắt tay vào công việc tốt đẹp này.
19
Nghe
tin này, Xan-ba-lát, người Khô-rôn, Tô-vi-gia, người nô bộc gốc Am-mon, và
Ghe-sem, người Ả-rập, nhạo cười và khinh dể chúng tôi. Họ nói: "Các người
làm gì thế? Các người nổi loạn chống lại nhà vua sao?” 20 Tôi trả
lời họ: "Chính Thiên Chúa các tầng trời sẽ giúp chúng tôi thành công: và
chúng tôi, tôi tớ của Người, chúng tôi sẽ đứng ra lo việc xây cất. Còn các ông,
các ông chẳng được chia phần, chẳng có quyền lợi, chẳng được ai nhớ đến ở
Giê-ru-sa-lem đâu."
Chương 03
Những
người tình nguyện lo việc xây cất
1
Thượng
tế En-gia-síp và các tư tế anh em của ông đứng ra xây cất cửa Chiên: họ làm
khung, dựng cánh cửa; và họ tiếp tục như thế cho đến tháp Trăm, rồi đến tháp
Kha-nan-ên. 2 Bên cạnh, có những người Giê-ri-khô cũng xây cất; bên
cạnh, có Dắc-cua, con của Im-ri, cũng xây cất. 3 Con cái Ha Xơ-na-a
xây cửa Cá: họ làm khung, dựng cánh cửa, đặt then cài và thanh ngang. 4 Bên
cạnh, có Mơ-rê-mốt, con của U-ri-gia, cháu Hắc-cốt, lo việc tu bổ; bên cạnh,
cũng có Mơ-su-lam, con của Be-réc-gia, cháu Mơ-sê-dáp-ên; bên cạnh, còn có
Xa-đốc, con của Ba-a-na, lo việc tu bổ. 5 Bên cạnh, có những người
Tơ-cô-a lo việc tu bổ, nhưng các người tai mắt trong dân Tơ-cô-a không chịu
khom lưng làm việc theo ý chủ. 6 Giô-gia-đa, con của Pa-xê-ác, và
Mơ-su-lam, con của Bơ-xốt-gia, lo việc tu bổ cửa Giơ-sa-na; họ làm khung, dựng
cánh cửa, đặt then cài và thanh ngang. 7 Bên cạnh, có Mơ-lát-gia
người Ghíp-ôn và Gia-đôn người Mê-rô-nốt, cũng như người Ghíp-ôn và người
Mít-pa thuộc thẩm quyền trưởng Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát, lo việc tu bổ. 8
Bên cạnh, có Út-di-ên, con của Khác-ha-gia, thuộc giới thợ kim hoàn, lo
việc tu bổ; bên cạnh, Kha-nan-gia thuộc giới thợ chế nước hoa, lo việc tu bổ;
họ trùng tu tường thành Giê-ru-sa-lem cho đến tường Rộng. 9 Bên
cạnh, có Rơ-pha-gia, con của Khua, người phụ trách nửa khu Giê-ru-sa-lem, lo
việc tu bổ. 10 Bên cạnh, có Giơ-đa-gia, con của Kha-ru-máp, lo việc
tu bổ trước nhà ông. Bên cạnh, có Khát-tút, con của Kha-sáp-nơ-gia, lo việc tu
bổ. 11 Man-ki-gia, con của Kha-rim, và Kha-súp, con của Pa-khát
Mô-áp, lo việc tu bổ phần thứ hai cho đến tháp Lò. 12 Bên cạnh, có
Sa-lum, con của Ha Lô-khết, người phụ trách nửa khu Giê-ru-sa-lem, cùng với các
con gái ông, lo việc tu bổ. 13 Kha-nun và những người ở Da-nô-ác lo
việc tu bổ cửa Thung Lũng: chính họ xây cửa này, dựng cánh cửa, đặt then cài và
thanh ngang; họ xây tường thành được năm trăm thước cho đến cửa Rác. 14 Man-ki-gia,
con của Rê-kháp, người phụ trách khu Bết Ha Ke-rem, lo việc tu bổ cửa Rác:
chính ông xây cửa này, dựng cánh cửa, đặt then cài và thanh ngang.
15
Sa-lum,
con của Côn Khô-de, người phụ trách khu Mít-pa, lo việc tu bổ cửa Suối: chính
ông xây cửa này, lợp mái, dựng cánh cửa, đặt then cài và thanh ngang. Ông còn
xây tường thành quanh hồ Si-lô-ác, gần ngự uyển, cho đến các bậc thang từ Thành
Ða-vít xuống. 16 Kế đến, Nơ-khe-mi-a, con của Át-búc, người phụ
trách nửa khu Bết Xua, lo việc tu bổ cho đến phía trước lăng của hoàng tộc
Ða-vít, cho đến hồ nhân tạo và trại ngự lâm quân. 17 Kế đến là các
thầy Lê-vi, gồm có Rơ-khum, con của Ba-ni, lo việc tu bổ; bên cạnh, có
Kha-sáp-gia, người phụ trách nửa khu Cơ-i-la, lo việc tu bổ cho khu ông phụ
trách. 18 Kế đến, các anh em của họ: Bau-vai, con của Khê-nê-đát,
người phụ trách nửa khu Cơ-i-la, lo việc tu bổ. 19 Bên cạnh, có
Ê-de, con của Giê-su-a, người phụ trách Mít-pa, lo việc tu bổ phần thứ hai đối
diện với dốc kho vũ khí, nơi Góc tường thành.
20
Kế
đến, Ba-rúc, con của Dáp-bai, lo việc tu bổ phần thứ hai từ Góc tường thành cho
đến cửa nhà thượng tế En-gia-síp. 21 Kế đến, Mơ-rê-mốt, con của
U-ri-gia, cháu Hắc-cốt, lo việc tu bổ phần thứ hai, từ cửa nhà En-gia-síp cho
đến phần cuối nhà En-gia-síp. 22 Kế đến, các tư tế, những người ở
vùng lân cận, lo việc tu bổ. 23 Kế đến, Ben-gia-min và Kha-súp lo
việc tu bổ ở trước nhà họ; kế đến, A-dác-gia, con của Ma-a-xê-gia, cháu
A-nan-gia, lo việc tu bổ bên cạnh nhà ông. 24 Kế đến, Bin-nui, con
của Khê-na-đát, lo việc tu bổ phần thứ hai, từ nhà A-dác-gia cho đến Góc tường
thành. 25 Kế đến, Pa-lan, con của U-dai, lo việc tu bổ phía trước
Góc tường thành và tháp thượng nhô ra ngoài đền vua, gần bên sân khám đường. Kế
đến, Pơ-đa-gia, con của Pác-ốt, lo việc tu bổ 26 cho đến trước cửa Nước ở phía
đông và trước Tháp nhô ra. 27 Kế đến, dân thành Tơ-cô-a lo việc tu
bổ phần thứ hai, từ phía trước Tháp lớn nhô ra cho đến tường của Ô-phen.
28
Từ
bên trên cửa Ngựa, mỗi tư tế lo tu bổ ở trước nhà mình. 29 Kế đến,
Xa-đốc, con của Im-me, lo việc tu bổ ở trước nhà ông; kế đến, Sơ-ma-gia, con
của Sơ-khan-gia, người canh cửa Ðông, lo việc tu bổ. 30 Kế đến,
Kha-nan-gia, con của Se-lem-gia, và Kha-nun, con thứ sáu của Xa-láp, lo việc tu
bổ phần thứ hai; kế đến, Mơ-su-lam, con của Be-réc-gia, lo việc tu bổ phía
trước phòng ông. 31 Kế đến, Man-ki-gia, thuộc giới thợ kim hoàn, lo
việc tu bổ cho đến nhà của những người phục vụ Ðền Thờ và của giới buôn bán,
đối diện với cửa Canh và cho đến phòng trên lầu phía Góc tường thành. 32 Còn
các thợ kim hoàn và các nhà buôn thì lo việc tu bổ giữa phòng trên lầu phía Góc
tường thành và cửa Chiên.
Phản
ứng của kẻ thù người Do-thái
33
Nghe
tin chúng tôi xây lại tường thành, Xan-ba-lát nổi giận và tỏ ra rất bực tức. Y
nhạo cười người Do-thái. 34 Y nói trước mặt anh em và toán quân
Sa-ma-ri rằng: "Bọn Do-thái mạt kiếp kia tính làm gì đây? Dễ thường chúng
tưởng có thể sửa lại, rồi tế lễ và làm xong tất cả nội trong một ngày đấy? Từ
đống đá vụn cháy đen, liệu chúng có thể làm ra những viên đá mới không?” 35
Tô-vi-gia, người Am-mon đang ở bên cạnh y, cũng nói: "Chúng cứ xây
đi! Chỉ cần một con chồn leo lên là tường thành bằng đá của chúng sụp đổ ngay!”
36 Lạy Thiên Chúa chúng con, xin lắng nghe: chúng con bị khinh dể
chừng nào! Nỗi ô nhục chúng đã gây ra, xin trút lại trên đầu chúng; xin biến
chúng thành chiến lợi phẩm trong tay người chiến thắng nơi chúng bị tù đày. 37
Xin đừng che lấp lỗi lầm của chúng, và đừng xoá bỏ tội chúng trước nhan
Ngài, vì chúng đã xúc phạm đến những người xây cất.
38
Vậy
chúng tôi đã xây tường thành, và tất cả tường thành được xây kín đến lưng
chừng. Và dân đã hết lòng tham gia công việc này.
Chương 04
1
Khi
Xan-ba-lát, Tô-vi-gia và các người Ả-rập, Am-mon, Át-đốt nghe tin là công việc
sửa chữa tường thành Giê-ru-sa-lem tiến triển khả quan -vì các lỗ hổng bắt đầu
được trám lại- chúng nổi giận đùng đùng. 2 Cả bọn liên minh với nhau
để tiến đánh Giê-ru-sa-lem, nhằm gây rối loạn trong thành.
3
Chúng
tôi cầu xin Thiên Chúa chúng tôi và đặt chốt canh để phòng ngự ngày đêm. 4
Dân Giu-đa nói: "Sức khuân vác đã giảm, đá vụn lại nhiều. Ta không
xây lại tường thành nổi đâu!” 5 Ðối thủ của chúng tôi nói:
"Chúng sẽ không hay không thấy gì cho tới khi ta đến giữa chúng. Ta sẽ
giết chúng, bắt chúng phải ngưng việc.” 6 Lúc đó có những người
Do-thái sống gần bọn chúng đến báo cho chúng tôi cả chục lần rằng: "Từ mọi
nơi chúng ở, chúng lên đánh ta đấy.” 7 Vậy, ở phía dưới chỗ sau
tường thành, nơi những khoảng đất trống, tôi bố trí dân theo từng thị tộc,
trang bị cho họ gươm đao, giáo mác và cung nỏ. 8 Sau khi đã thị sát,
tôi đứng lên tuyên bố với các trưởng tộc, quan chức và những người dân khác
rằng: "Ðừng sợ chúng! Hãy tưởng nhớ đến Chúa Tể khả tôn khả uý, và hãy
chiến đấu cho anh em, cho vợ con và nhà cửa mình!” 9 Khi kẻ thù nghe
tin chúng tôi đã biết chuyện và Thiên Chúa đã phá vỡ ý đồ của chúng, thì tất cả
chúng tôi trở lại tường thành, người nào việc nấy.
10
Từ
ngày ấy, một nửa tráng đinh của tôi lo làm việc; còn nửa kia thì cầm giáo, khiên
mộc, cung nỏ và mang áo giáp; các thủ lãnh làm hậu thuẫn cho toàn thể nhà
Giu-đa 11 đang xây tường thành. Phu khuân vác cũng được vũ trang: một tay làm
việc, một tay cầm khí giới. 12 Còn những người xây cất thì mỗi người
gươm giắt lưng, tay xây cất. Người thổi kèn đứng gần bên tôi. 13 Tôi
nói với các trưởng tộc, quan chức và những người dân khác: "Công việc thì
nhiều và trải dài trên một diện tích lớn, do đó chúng ta phải tản mác dọc theo
tường thành, cách xa nhau. 14 Vậy, khi nghe tiếng kèn thổi ở đâu, thì
xin anh em tụ họp lại ở đó với chúng tôi. Thiên Chúa chúng ta sẽ chiến đấu cho
chúng ta.” 15 Chúng tôi làm việc -một nửa cầm giáo- từ tảng sáng đến
chập tối. 16 Lúc đó, tôi cũng bảo dân: "Mỗi người hãy qua đêm
tại Giê-ru-sa-lem với tráng đinh của mình; ban đêm những người này sẽ giúp
chúng ta canh gác, và ban ngày họ sẽ lo làm việc.” 17 Còn chính tôi,
các anh em tôi cũng như tráng đinh của tôi và những người canh gác đi theo tôi,
thì không thay áo, mỗi người tay phải đều cầm khí giới.
Chương 05
Những
khó khăn về mặt xã hội dưới thời ông Nơ-khe-mi-a.
Ông
biện hộ cho cách điều hành công việc của ông.
1
Dân
chúng và vợ con họ kêu ca dữ dội về các người Do-thái đồng bào họ. 2 Có
người nói: "Chúng tôi phải cho con trai con gái chúng tôi đi ở đợ để có
lúa ăn mà sống.” 3 Người khác nói: "Chúng tôi phải cầm ruộng
đất, vườn nho, nhà cửa để có lúa gạo trong thời đói kém.” 4 Người
khác lại nói: "Chúng tôi phải cầm vườn nho, ruộng đất của chúng tôi để vay
tiền, nộp thuế cho vua. 5 Chúng tôi cùng ruột thịt với anh em đồng
bào chúng tôi, con cái chúng tôi chẳng khác gì con cái họ, thế mà chúng tôi
phải bắt con trai con gái chúng tôi làm nô lệ! Con gái chúng tôi có đứa phải
chịu cảnh tỳ thiếp. Chúng tôi đành bó tay, vì ruộng đất, vườn nho của chúng tôi
đã vào tay người khác."
6
Tôi
rất tức giận khi nghe họ kêu ca và thốt ra những lời ấy. 7 Sau khi
suy tính trong lòng, tôi quở trách các trưởng tộc và quan chức. Tôi bảo họ:
"Người nào trong các ông cũng bắt đồng bào mình trả lãi quá nặng."
Rồi tôi triệu tập đại hội nhằm chống lại họ. 8 Tôi bảo họ:
"Chúng tôi đã tuỳ khả năng mà chuộc lại các đồng bào Do-thái chúng ta
trước đây đã bị bán cho dân ngoại. Thế mà chính các ông lại định bán đồng bào
mình cho người ta để người ta bán lại cho chúng tôi." Họ làm thinh, không
đáp lại được lời nào. 9 Tôi nói tiếp: "Các ông làm như thế
không được đâu! Nào các ông không phải sống trong niềm kính sợ Thiên Chúa chúng
ta, để khỏi bị dân ngoại là kẻ thù của chúng ta lăng nhục sao? 10 Chính tôi,
các anh em tôi và tráng đinh của tôi, cũng đã cho đồng bào Do-thái vay tiền và
lúa gạo. Vậy, chúng ta hãy xoá món nợ ấy đi. 11 Ngay hôm nay, các
ông hãy trả lại cho họ ruộng đất, vườn nho, vườn ô-liu, nhà cửa của họ; còn
tiền, lúa gạo, rượu mới và dầu tươi mà các ông đã cho họ vay, thì hãy tha số
lời cho họ.” 12 Những người kia đáp: "Chúng tôi sẽ trả lại và
không đòi gì hết. Chúng tôi sẽ làm theo như ông vừa nói." Tôi cho gọi các
tư tế lại và bắt họ thề phải làm như lời họ nói. 13 Rồi tôi giũ vạt
áo mà tuyên bố: "Thiên Chúa cũng sẽ giũ như thế này bất cứ người nào không
giữ lời thề đó, làm cho nhà cửa, của cải nó ra tan hoang. Nó sẽ bị giũ sạch như
thế này và ra xác xơ." Toàn thể đại hội thưa: "A-men!", rồi ca
ngợi Ðức Chúa. Và dân đã làm theo lời thề hứa.
14
Hơn
nữa, từ ngày tôi được lệnh làm tổng đốc xứ Giu-đa -tức là từ năm hai mươi cho
đến năm ba mươi hai đời vua Ác-tắc-sát-ta-, trong vòng mười hai năm, chẳng bao
giờ tôi và anh em tôi đã nhận lương bổng mà một tổng đốc có quyền hưởng. 15
Xưa kia, các tổng đốc tiền nhiệm của tôi đã hà hiếp dân, bắt dân nộp bánh
và rượu, mỗi ngày tốn kém bốn mươi đồng bạc. Ngay cả các tráng đinh của họ cũng
áp bức dân. Nhưng tôi, tôi đã không làm thế vì kính sợ Thiên Chúa.
16
Tôi
cũng lo công việc tu bổ tường thành này, nhưng chúng tôi đã không tậu ruộng
đất. Tất cả tráng đinh của tôi đều tập trung ở đó để làm việc này.
17
Có
tới một trăm năm mươi người Do-thái, quan chức ăn uống tại nhà tôi, không kể
những người từ các nước chung quanh đến. 18 Mỗi ngày mổ một con bò,
sáu con cừu ngon nhất, rồi gà vịt, tôi đài thọ hết; và cứ mười ngày lại đem
rượu đến, ê hề. Mặc dù thế, tôi không đòi hỏi bổng lộc dành cho một tổng đốc,
vì việc lao dịch đã đè nặng trên dân này rồi.
19
Lạy
Thiên Chúa của con, xin nhớ đến con mà giáng phúc cho con, xin nhớ đến tất cả
những gì con đã làm cho dân này.
Chương 06
Ðịch
thù âm mưu chống lại ông Nơ-khe-mi-a.
Công
việc tu bổ tường thành hoàn tất.
1
Khi
Xan-ba-lát, Tô-vi-gia, Ghe-sem người Ả-rập và những địch thù khác của chúng tôi
nghe tin là tôi đã xây xong tường thành và không còn lỗ hổng ở đó nữa - tuy lúc
ấy tôi chưa đặt cánh cửa ở các cửa thành -, 2 thì Xan-ba-lát và
Ghe-sem cử người đến nói với tôi: "Mời ông đến, chúng ta sẽ gặp nhau ở
Cơ-phi-rim, trong thung lũng Ô-nô." Nhưng bọn họ mưu hại tôi. 3 Tôi
cho sứ giả đến gặp họ và nói: "Tôi đang lo một việc quan trọng, nên không
thể xuống được. Làm sao ngưng việc và bỏ dở để xuống với các ông?” 4 Cũng
một lời mời như trên kia, họ nhắn gửi tôi đến bốn lần và tôi cũng trả lời như
vừa nói. 5 Lần thứ năm, Xan-ba-lát lại gửi đến tôi cũng lời mời đó
trong một phong thư không niêm do một tráng đinh cầm tới. 6 Trong
thư có viết: "Theo lời ông Gát-mu nói, người ta nghe đồn trong các dân tộc
rằng ông và người Do-thái âm mưu nổi loạn; vì thế, ông mới xây tường thành, và
theo các tin đồn đó, ông sẽ lên làm vua cai trị họ. 7 Ông cũng đặt
những ngôn sứ để công bố ở Giê-ru-sa-lem rằng ông là vua Giu-đa. Những tin đồn
đó sắp đến tai vua. Vậy bây giờ mời ông đến để chúng ta cùng nhau bàn bạc.” 8
Tôi sai người đi nói với y: "Không hề có chuyện như ông nói; chính
ông đặt điều thôi!” 9 Quả thế, tất cả bọn chúng muốn làm cho chúng
tôi khiếp sợ, họ bảo nhau: "Chúng sẽ bủn rủn tay chân không làm việc nữa,
và công việc sẽ không hoàn tất."
Giờ
đây, lạy Chúa, xin cho tay chân con được vững mạnh!
10
Tôi
tới nhà Sơ-ma-gia, con ông Ðơ-la-gia, cháu ông Mơ-hê-táp-ên, vì hắn bị ngăn trở
không đến tôi được. Hắn nói: "Ta hãy gặp nhau nơi Nhà Thiên Chúa, ở bên
trong Cung Thánh, ta hãy đóng cửa Cung Thánh lại, vì họ sẽ đến giết ông, họ sẽ
đến giết ông ban đêm."
11
Nhưng
tôi nói: "Một người như tôi lại chạy trốn sao? Và có ai như tôi lại vào
Cung Thánh để thoát chết? Tôi không vào đâu.” 12 Tôi nhận thấy là
không phải Thiên Chúa đã sai hắn đến. Hắn có nói lời nào tiên báo về tôi, là do
Tô-vi-gia và Xan-ba-lát đã mua chuộc hắn. 13 Hắn bị mua chuộc để làm
cho tôi khiếp sợ mà hành động như thế và mắc tội; họ sẽ làm cho tôi mang tiếng
xấu để lăng nhục tôi. 14 Lạy Thiên Chúa của con, xin nhớ đến những
hành vi của Tô-vi-gia và Xan-ba-lát, xin cũng nhớ đến nữ ngôn sứ Nô-át-gia và
các ngôn sứ khác đã muốn làm cho con khiếp sợ.
15
Tường
thành xây xong ngày hai mươi lăm tháng E-lun, sau năm mươi hai ngày. 16 Khi
mọi thù địch của chúng tôi nghe tin và tất cả các dân tộc ở chung quanh chúng
tôi đâm ra sợ hãi, thì họ cảm thấy mình rất thua kém; họ nhìn nhận rằng công
việc ấy đã hoàn thành được là nhờ Thiên Chúa chúng ta.
17
Cũng
trong những ngày ấy, các trưởng tộc Giu-đa gửi nhiều thư cho Tô-vi-gia và thư
từ của Tô-vi-gia cũng đến tay họ, 18 vì nhiều người ở Giu-đa đã thề
kết nghĩa với hắn, bởi hắn là con rể ông Sơ-khan-gia, con ông A-rác, và
Giơ-hô-kha-nan, con hắn, đã cưới con gái ông Mơ-su-lam, con ông Be-réc-gia. 19
Họ khen ngợi hắn trước mặt tôi và kể lại lời của tôi cho hắn. Còn chính
Tô-vi-gia thì đã gửi thư để làm tôi khiếp sợ.
Chương 07
1
Khi
tường thành đã xây xong và tôi đã dựng cánh cửa rồi, thì những người canh cửa
cũng như các ca viên và các thầy Lê-vi công khai nhận nhiệm vụ. 2 Tôi
ra lệnh đặt ông Kha-na-ni là anh em của tôi, và ông Kha-nan-gia, trưởng đồn,
lên cai trị Giê-ru-sa-lem, vì ông này là người đáng tin cậy và kính sợ Thiên
Chúa hơn nhiều người khác. 3 Tôi nói với họ: "Sẽ không được mở
cửa thành Giê-ru-sa-lem trước khi trời nắng; phải đóng cửa cài then khi những
người canh còn đứng đó. Phải cắt phiên gác cho cư dân Giê-ru-sa-lem, người thì ở
trạm canh, người thì ở trước nhà mình.
Ðưa
dân trở về định cư tại Giê-ru-sa-lem
4
Thành
thì bốn bề rộng lớn, nhưng cư dân lại ít và nhà cửa chưa xây dựng lại. 5 Thiên
Chúa của tôi đã thúc đẩy tôi tập họp các trưởng tộc, quan chức và dân chúng lại
để kiểm tra dân số theo gia phả. Tôi đã tìm thấy cuốn gia phả ghi tên những
người đầu tiên hồi hương; tôi thấy ghi ở đó như sau:
Danh
sách những người đầu tiên trở về Xi-on (Xh 2:1-70)
6
Ðây
là những người trong miền đã từ chốn lưu đày hồi hương. Họ là những người bị
vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-xo đày ải. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa,
ai về thành nấy. 7 Họ về cùng với các ông: Dơ-rúp-ba-ven, Giê-su-a,
Nơ-khe-mi-a, A-dác-gia, Ra-am-gia, Na-kha-ma-ni, Moóc-đo-khai, Bin-san,
Mít-pe-rét, Bích-vai, Nơ-khum, Ba-a-na.
Ðây
là số những người thuộc dân Ít-ra-en: 8 Con cháu ông Pác-ốt: hai
ngàn một trăm bảy mươi hai người; 9 con cháu ông Sơ-phát-gia: ba
trăm bảy mươi hai người; 10 con cháu ông A-rác: sáu trăm năm mươi
hai người; 11 con cháu ông Pa-khát Mô-áp, tức là con cháu ông
Giê-su-a và ông Giô-áp: hai ngàn tám trăm mười tám người; 12 con
cháu ông Ê-lam: một ngàn hai trăm năm mươi bốn người; 13 con cháu
ông Dát-tu: tám trăm bốn mươi lăm người; 14 con cháu ông Dắc-cai:
bảy trăm sáu mươi người; 15 con cháu ông Bin-nui: sáu trăm bốn mươi
tám người; 16 con cháu ông Bê-vai: sáu trăm hai mươi tám người; 17
con cháu ông Át-gát: hai ngàn ba trăm hai mươi hai người; 18 con
cháu ông A-đô-ni-cam: sáu trăm sáu mươi bảy người; 19 con cháu ông
Bích-vai: hai ngàn sáu mươi bảy người; 20 con cháu ông A-đin: sáu
trăm năm mươi lăm người; 21 con cháu ông A-te, tức là con cháu ông
Khít-ki-gia: chín mươi tám người; 22 con cháu ông Kha-sum: ba trăm
hai mươi tám người; 23 con cháu ông Bê-xai: ba trăm hai mươi bốn
người; 24 con cháu ông Kha-ríp: một trăm mười hai người; 25 con
cháu ông Ghíp-ôn: chín mươi lăm người; 26 người Bê-lem và người
Nơ-tô-pha: một trăm tám mươi tám người; 27 người A-ra-thốt: một trăm
hai mươi tám người; 28 người Bết Át-ma-vét: bốn mươi hai người; 29
người Kia-giát Giơ-a-rim, người Cơ-phi-ra và người Bơ-ê-rốt: bảy trăm bốn
mươi ba người; 30 người Ra-ma và người Ghe-va: sáu trăm hai mươi mốt
người; 31 người Mích-mát: một trăm hai mươi hai người; 32 người
Bết Ên và người Ai: một trăm hai mươi ba người; 33 người Nơ-vô khác:
năm mươi hai người; 34 con cháu ông Ê-lam khác: một ngàn hai trăm
năm mươi bốn người; 35 con cháu ông Kha-rim: ba trăm hai mươi người;
36 con cháu ông Giê-ri-khô: ba trăm bốn mươi lăm người; 37 con
cháu ông Lốt, ông Kha-đích và ông Ô-nô: bảy trăm hai mươi mốt người; 38 con
cháu ông Xơ-na-a: ba ngàn chín trăm ba mươi người.
39
Các
tư tế: con cháu ông Giơ-đa-gia thuộc nhà ông Giê-su-a: chín trăm bảy mươi ba
người; 40 con cháu ông Im-me: một ngàn năm mươi hai người; 41 con
cháu ông Pát-khua: một ngàn hai trăm bốn mươi bảy người; 42 con cháu
ông Kha-rim: một ngàn mười bảy người.
43
Các
thầy Lê-vi: con cháu ông Giê-su-a, tức là ông Cát-mi-ên, con cháu ông Hốt-va:
bảy mươi bốn người.
44
Các
ca viên: con cháu ông A-xáp: một trăm bốn mươi tám người.
45
Các
người giữ cửa: con cháu ông Sa-lum, con cháu ông A-te, con cháu ông Tan-môn,
con cháu ông Ắc-cúp, con cháu ông Kha-ti-ta, con cháu ông Sô-vai: một trăm ba
mươi tám người.
46
Những
người phục vụ Ðền Thờ: con cháu ông Xi-kha, con cháu ông Kha-xu-pha, con cháu
ông Táp-ba-ốt, 47 con cháu ông Kê-rốt, con cháu ông Xi-a, con cháu
ông Pa-đôn, 48 con cháu ông Lơ-va-na, con cháu ông Kha-ga-va, con
cháu ông San-mai, 49 con cháu ông Kha-nan, con cháu ông Ghít-đên,
con cháu ông Ga-kha, 50 con cháu ông Rơ-a-gia, con cháu ông Rơ-xin,
con cháu ông Nơ-cô-đa, 51 con cháu ông Gát-dam, con cháu ông Út-da,
con cháu ông Pa-xê-ác, 52 con cháu ông Bê-xai, con cháu người
Mơ-u-nim, con cháu ông Nơ-phít-xim, 53 con cháu ông Bác-búc, con
cháu ông Kha-cúp-pha, con cháu ông Khác-khua, 54 con cháu ông
Bát-lít, con cháu ông Mơ-khi-đa, con cháu ông Khác-sa, 55 con cháu
ông Bát-cốt, con cháu ông Xít-ra, con cháu ông Te-mác, 56 con cháu
ông Nơ-xi-ác, con cháu ông Kha-ti-pha.
57
Con
cháu những người nô lệ của vua Sa-lô-môn: con cháu ông Xô-tai, con cháu ông
Xô-phe-rét, con cháu ông Pơ-ri-đa, 58 con cháu ông Gia-la, con cháu
ông Ðác-côn, con cháu ông Ghít-đên, 59 con cháu ông Sơ-phát-gia, con
cháu ông Khát-tin, con cháu ông Pô-khe-rét Ha-xơ-va-gim, con cháu ông A-môn. 60
Tổng số những người phục vụ Ðền Thờ và con cháu những người nô lệ của vua
Sa-lô-môn là ba trăm chín mươi hai người.
61
Và
đây là những người trở về từ Ten Me-lác, Ten Khác-sa, Cơ-rúp, Át-đôn và Im-me.
Họ không thể dựa vào gia tộc và dòng giống của họ để cho biết có thuộc về
Ít-ra-en hay không: 62 con cháu ông Ðơ-la-gia, con cháu ông
Tô-vi-gia, con cháu ông Nơ-cô-đa: sáu trăm bốn mươi hai người. 63 Và
trong hàng tư tế, có con cháu ông Kho-va-gia, con cháu ông Hắc-cốt, con cháu
ông Bác-di-lai là người đã lấy một trong các con gái ông Bác-di-lai, người
Ga-la-át, nên đã mang tên ông ấy. 64 Những người này đã tìm kiếm tên
của họ trong cuốn gia phả, nhưng không thấy, nên đã bị loại ra khỏi hàng tư tế
vì bị coi là ô uế. 65 Quan tổng đốc cấm họ không được ăn của thánh
cho đến khi có một tư tế đứng lên xem thẻ xăm u-rim và tum-mim.
66
Toàn
thể cộng đồng là bốn mươi hai ngàn ba trăm sáu mươi người, 67 không
kể tôi trai tớ gái của họ lên tới bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy người. Họ cũng
có hai trăm bốn mươi lăm nam nữ ca viên. 68 Ngoài ra, họ còn có bốn
trăm ba mươi lăm con lạc đà và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa.
69
Một
số gia trưởng đóng góp vào công cuộc này. Vị tổng đốc dâng vào quỹ một ngàn
quan tiền, năm mươi bình rảy, năm trăm ba mươi bộ phẩm phục tư tế. 70 Một
số gia trưởng khác cũng đóng góp hai mươi ngàn quan tiền và một ngàn một trăm
ký bạc vào quỹ xây dựng. 71 Còn những người khác trong dân thì đóng
góp hai mươi ngàn quan tiền, một ngàn ký bạc và sáu mươi bảy bộ phẩm phục tư
tế.
72
Các tư tế, các thầy Lê-vi và một phần dân chúng ở tại Giê-ru-sa-lem; những
người giữ cửa và ca viên, những người phục vụ Ðền Thờ cùng với những người
Ít-ra-en khác đã ở trong các thành của họ.
Ngày
khai sinh đạo Do-thái: Ông Ét-ra đọc Lề Luật. Lễ Lều.
Ðến
tháng thứ bảy, con cái Ít-ra-en đã ổn định xong nơi ăn chốn ở trong các thành.
Chương 08
1
Bấy
giờ, muôn người như một, tụ họp ở quảng trường trước cửa Nước. Họ xin ông Ét-ra
là kinh sư đem sách Luật Mô-sê ra. Ðó là Luật Ðức Chúa đã truyền cho Ít-ra-en. 2
Hôm ấy là ngày mồng một tháng thứ bảy, ông Ét-ra cũng là tư tế đem sách
Luật ra trước mặt cộng đồng gồm đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới
tuổi khôn. 3 Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách
Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc
từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật.
4
Kinh
sư Ét-ra đứng trên bục gỗ đã đóng sẵn để dùng vào việc này. Bên cạnh ông, phía
tay mặt, có các ông: Mát-tít-gia, Se-ma, A-na-gia, U-ri-gia, Khin-ki-gia và
Ma-a-xê-gia; phía tay trái, có các ông: Pơ-đa-gia, Mi-sa-ên, Man-ki-gia,
Kha-sum, Khát-bát-đa-na, Dơ-khác-gia và Mơ-su-lam. 5 Ông Ét-ra mở
sách ra trước mặt toàn dân, vì ông đứng cao hơn mọi người. Khi ông mở sách ra
thì mọi người đứng dậy. 6 Bấy giờ ông Ét-ra chúc tụng Ðức Chúa là
Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: "A-men! A-men!"
Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Ðức Chúa. 7 Các thầy Lê-vi là
Giê-su-a, Ba-ni, Sê-rếp-gia, Gia-min, Ắc-cúp, Sáp-thai, Hô-đi-gia, Ma-a-xê-gia,
Cơ-li-ta, A-dác-gia, Giô-da-vát, Kha-nan, Pơ-la-gia, giải thích Lề Luật cho
dân, trong khi dân vẫn đứng tại chỗ. 8 Ông Ét-ra và các thầy Lê-vi
đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu
được những gì các ông đọc.
9
Bấy
giờ ông Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, ông Ét-ra, tư tế kiêm kinh sư, cùng các thầy
Lê-vi là những người đã giảng giải Luật Chúa cho dân chúng, nói với họ rằng:
"Hôm nay là ngày thánh hiến cho Ðức Chúa là Thiên Chúa của anh em, anh em
đừng sầu thương khóc lóc." Sở dĩ ông nói thế là vì toàn dân đều khóc khi
nghe lời sách Luật. 10 Ông Ét-ra còn nói với dân chúng rằng:
"Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu ngon và gửi phần cho những người
không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến cho Chúa chúng ta. Anh em đừng
buồn bã, vì niềm vui của Ðức Chúa là thành trì bảo vệ anh em.” 11 Còn
các thầy Lê-vi thì trấn an mọi người như sau: "Anh em đừng khóc nữa, vì
hôm nay là ngày thánh! Anh em chớ phiền muộn làm gì!” 12 Bấy giờ
toàn dân đi ăn uống, rồi gửi các phần ăn, và liên hoan tưng bừng, vì họ đã hiểu
rõ lời lẽ mà người ta vừa cho họ biết.
13
Ngày
mồng hai, các gia trưởng trong toàn dân, các tư tế và các thầy Lê-vi họp nhau
lại bên kinh sư Ét-ra để tra cứu các lời trong Lề Luật. 14 Họ gặp
thấy trong Lề Luật mà Ðức Chúa đã truyền qua trung gian ông Mô-sê có chép rằng:
"Con cháu Ít-ra-en sẽ ở lều suốt kỳ đại lễ tháng thứ bảy.” 15 Họ
công bố và loan truyền trong khắp các thành của họ và ở Giê-ru-sa-lem rằng:
"Anh em hãy lên núi lấy cành ô-liu, ô-liu dại, cành sim, chà là và cây rậm
lá, đem về dựng lều như lời đã chép.” 16 Vậy dân ra đi, đem cành lá
về dựng lều trên sân thượng, dưới sân nhà, tại khuôn viên Ðền Thờ Thiên Chúa,
tại quảng trường cửa Nước và quảng trường cửa Ép-ra-im. 17 Toàn thể
cộng đồng những người từ nơi tù đày trở về, đều dựng lều và ở lều. Từ thời ông
Giê-su-a, con ông Nun, cho đến hôm đó, con cái Ít-ra-en chưa bao giờ làm như
thế. Ðó là một niềm vui rất lớn.
18
Từ
ngày đầu cho đến ngày cuối, hôm nào ông Ét-ra cũng đọc sách Lề Luật của Thiên
Chúa. Cuộc lễ diễn ra suốt bảy ngày, và ngày thứ tám là buổi bế mạc trọng thể,
như đã quy định.
Chương 09
Nghi
thức sám hối
1
Ngày
hai mươi bốn tháng ấy, con cháu Ít-ra-en họp nhau lại ăn chay, mình mang bao
bị, đầu rắc bụi đất. 2 Những người thuộc nòi giống Ít-ra-en tách
mình khỏi những người thuộc chủng tộc khác, rồi họ đứng lên thú nhận tội lỗi mình
và lỗi lầm của cha ông. 3 Ðứng tại chỗ, họ đọc sách Lề Luật của Ðức
Chúa, Thiên Chúa của họ, trong một phần tư ngày; còn một phần tư kia, họ thú
nhận tội lỗi và phủ phục trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ. 4 Ðứng
trên đài dành cho các thầy Lê-vi, có các ông Giê-su-a, Bin-nui, Cát-mi-ên,
Sơ-van-gia, Bun-ni, Sê-rếp-gia, Ba-ni, Cơ-na-ni. Các ông lớn tiếng kêu lên Ðức
Chúa, Thiên Chúa của mình. 5 Còn các thầy Lê-vi là Giê-su-a,
Cát-mi-ên, Ba-ni, Kha-sáp-nơ-gia, Sê-rếp-gia, Hô-đi-gia, Sơ-van-gia, Pơ-thác-gia
thì nói: "Mời anh em đứng lên chúc tụng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
em."
"Lạy
Chúa, từ muôn thuở cho đến muôn đời,
xin
chúc tụng danh Ngài vinh hiển,
danh
vượt trên mọi tiếng ca khen,
danh
vượt quá muôn lời chúc tụng.
6
Chính
Ngài là Ðức Chúa, là Ðức Chúa duy nhất.
Chính
Ngài đã tạo dựng các tầng trời,
các
tầng trời cao ngất, cùng toàn thể thiên binh;
chính
Ngài đã tạo dựng trái đất với muôn vật khắp nơi,
biển
khơi cùng muôn loài trong đó.
Chính
Ngài ban sự sống cho muôn vật muôn loài;
và
đạo binh thiên quốc phủ phục trước Thánh Nhan.
7
Lạy
Ðức Chúa,
chính
Ngài là Thiên Chúa, Ðấng chọn ông Áp-ram,
đem
ông ra khỏi Ua, là xứ người Can-đê,
và
cho ông tên mới, đó là Áp-ra-ham.
8
Thấy
lòng ông trung tín trước Thánh Nhan,
Chúa
đã cùng ông lập giao ước,
ban
cho ông và dòng dõi
xứ
người Ca-na-an, người Khết, người E-mô-ri,
người
Pơ-rít-di, người Giơ-vút, người Ghia-ga-si.
Lời
đã hứa, Ngài giữ vẹn toàn,
bởi
vì Ngài vẫn luôn công chính.
9
Chúa
đã nhìn thấy cảnh khốn cùng
của
tổ tiên chúng con bên Ai-cập.
Ngài
đã nghe thấu tiếng kêu than
của
cha ông chúng con bên Biển Sậy.
10
Chúa
đã giáng xuống điềm thiêng dấu lạ
phạt
Pha-ra-ô cùng với bầy tôi và toàn dân trong xứ,
vì
Ngài biết chúng căm thù ghen ghét cha ông chúng con,
và
Ngài đã làm cho Thánh Danh lừng lẫy
như
mọi người còn thấy ngày nay.
11
Chúa
cho biển rẽ ra trước mặt họ,
họ
đi qua lòng biển vẫn ráo chân.
Còn
những kẻ đuổi theo, Ngài xô xuống vực thẳm
như
quăng một hòn đá, xuống dòng nước cuốn trôi.
12
Chúa
dùng một cột mây hướng dẫn họ ban ngày,
và
dùng một cột lửa dẫn dắt họ ban đêm, để soi đường cho họ.
13
Chúa
đã ngự xuống núi Xi-nai,
từ
trời cao Ngài đã phán dạy
ban
cho họ quyết định công minh, ban luật lệ vững bền
cùng
thánh chỉ và lệnh truyền trọn hảo.
14
Chúa
dạy cho họ biết ngày sa-bát
là
ngày thánh dành riêng cho Ngài.
Ngài
dùng ông Mô-sê là tôi trung của Ngài
mà
truyền cho họ giữ mệnh lệnh, thánh chỉ và Lề Luật.
15
Họ
đói, từ trời Chúa ban xuống bánh ăn.
Họ
khát, từ đá tảng Chúa ban cho nước uống.
Ngài
đã truyền cho họ chiếm đất đai
mà
Ngài đã giơ tay thề sẽ ban cho họ.
16
Nhưng
tổ tiên chúng con đã tỏ ra ngoan cố,
đã
cứng đầu cứng cổ không vâng lệnh Chúa truyền.
17
Họ
giả điếc làm ngơ, cũng chẳng thèm ghi nhớ
những
kỳ công Chúa làm.
Họ
cứng đầu cứng cổ muốn phản loạn cùng Ngài,
nuôi
trong lòng ý định trở lại kiếp làm tôi.
Nhưng
Chúa là Thiên Chúa luôn sẵn sàng thứ tha,
Ngài
từ bi nhân hậu, chậm giận, giàu tình thương,
đã
không bỏ rơi họ.
18
Ngay
cả khi họ đúc một con bê
tự
nhủ rằng: "Thần của ngươi đó,
thần
đã đưa ngươi lên từ miền đất Ai-cập",
và
cả khi họ xúc phạm nặng nề đến Chúa,
19
thì
Ngài vẫn mở lượng hải hà,
không
để họ bơ vơ trong sa mạc.
Cột
mây không rời họ ban ngày nhưng đi đầu dẫn lối.
Cột
lửa chẳng xa họ ban đêm nhưng soi đường cho họ.
20
Chúa
đã ban thần khí tốt lành
cho
họ nên khôn ngoan sáng suốt.
Ngài
cũng chẳng từ chối không cho họ man-na.
Khi
cơn khát dày vò, Ngài lại ban nước uống.
21
Bốn
mươi năm trường trong sa mạc,
có
Ngài nuôi dưỡng, nào họ thiếu thốn chi!
Áo
họ mặc không sờn, chân họ đi không sưng.
22
Chúa
đã ban cho họ các nước các dân,
đã
phân chia cho họ làm vùng biên giới.
Họ
đã chiếm đất của Xi-khôn, vua Khét-bôn,
và
đất của Ốc, vua Ba-san nữa.
23
Chúa
đã làm cho con cháu họ đông như sao trên trời,
rồi
Ngài lại dẫn đưa
vào
miền đất Ngài đã truyền cho bậc tổ tiên
phải
vào mà chiếm giữ.
24
Và
con cháu họ đã vào chiếm lấy đất đai.
Trước
mặt họ, Chúa đã hạ nhục người Ca-na-an
là
dân cư trong xứ
Ngài
đã trao nộp cư dân vào tay họ,
vua
chúa là thứ dân, để họ muốn làm gì mặc ý.
25
Họ
chiếm các thành trì kiên cố
và
đất đai mầu mỡ phì nhiêu,
rồi
họ còn chiếm đoạt những ngôi nhà của cải đầy dư,
những
hồ chứa nước đã đào sẵn,
những
gốc nho, những vườn ô-liu và bao nhiêu là cây trái.
Họ
được ăn uống thoả thuê, và trở nên to béo đẫy đà,
vui
hưởng một cuộc sống dồi dào sung túc,
nhờ
lòng nhân hậu lớn lao của Ngài.
26
Nhưng
họ đã nổi lên chống lại Chúa,
vất
bỏ sau lưng luật pháp Ngài,
đã
từng giết hại nhiều ngôn sứ,
những
vị thay mặt Ngài mà dạy dỗ bảo an,
mời
gọi họ ăn năn trở lại.
Và
họ đã xúc phạm nặng đến Ngài.
27
Vì
thế, Ngài đã trao nộp họ cho địch thủ mặc tình áp bức,
và
khi gặp gian nan khốn quẫn, họ đã kêu lên Ngài.
Và
Ngài, tự cõi trời cao thẳm, đã đoái nghe lời họ kêu xin,
và
mở lượng hải hà ban cho họ những vị cứu tinh
giải
thoát họ khỏi tay người áp bức.
28
Nhưng
vừa mới được thư thái bình an,
thì
trước Thánh Nhan, họ đã làm điều dữ.
Thế
nên Chúa lại phó mặc họ vào tay địch thù,
và
chúng chà đạp họ.
Họ
lại kêu lên Ngài, và Ngài, tự cõi trời cao thẳm,
đã
đoái nghe lời họ kêu xin,
và
biết bao phen đã mở lượng hải hà thương giải cứu.
29
Chúa
đã cảnh cáo cho họ trở về với Lề Luật của Chúa,
nhưng
họ đã tỏ ra lì lợm,
chẳng
chịu vâng theo mệnh lệnh Ngài;
họ
vi phạm các quyết định Ngài ban
để
con người tuân theo mà được sống;
họ
vùng vằng, chẳng ghé vai mang ách,
cứng
đầu cứng cổ, không chịu để tai nghe.
30
Ðã
nhiều năm Chúa kiên nhẫn với họ,
dùng
thần khí và ngôn sứ của Ngài mà đưa lời cảnh cáo.
Nhưng
họ chẳng màng lắng tai nghe,
nên
Ngài trao nộp họ vào tay dân tứ xứ.
31
Tuy
nhiên, do lượng hải hà,
Chúa
đã không diệt trừ, cũng chẳng bỏ rơi họ,
vì
Ngài là Ðấng nhân hậu từ bi.
32
Vậy
giờ đây, lạy Thiên Chúa chúng con thờ,
Thiên
Chúa cao cả, uy hùng và đáng sợ,
Ðấng
giữ giao ước và tỏ lòng nhân nghĩa,
xin
Ngài đừng coi nhẹ mọi nỗi gian truân
giáng
xuống trên chúng con, trên vua chúa, quan quyền,
trên
tư tế, ngôn sứ cùng bao tổ phụ và toàn thể dân Ngài,
từ
thời các vua chúa Át-sua cho đến ngày nay nữa.
33
Chúa
thật là công bình
trong
mọi việc xảy đến cho chúng con,
vì
Ngài đã xử sự theo lẽ thật,
còn
chúng con, chúng con lại đã làm điều dữ.
34
Hơn
nữa, vua chúa và quan quyền,
tư
tế và tổ tiên chúng con
đã
không tuân giữ Lề Luật Chúa,
không
quan tâm đến những mệnh lệnh của Ngài
cũng
như các chỉ thị Ngài dùng để răn dạy họ.
35
Khi
vua chúa còn cai trị lãnh thổ,
giữa
bao nhiêu của cải Chúa ban,
trong
miền đất phì nhiêu bát ngát
Chúa
trải rộng ra trước mặt họ,
họ
đã không phụng sự Ngài,
không
từ bỏ các việc làm xấu xa.
36
Nay,
Chúa thấy đó: chúng con là nô lệ,
trong
miền đất Chúa ban cho tổ tiên chúng con
để
các ngài hưởng hoa màu của cải;
Chúa
thấy đó: chúng con là nô lệ ngay tại miền đất này!
37
Ðất
đai trổ sinh nhiều hoa trái
là
để cho vua chúa nước ngoài,
Ngài
đặt họ lên cai trị chúng con
vì
tội lỗi chúng con đã phạm.
Họ
mặc tình thống trị người và vật của chúng con.
Tình
cảnh của chúng con thật là quẫn bách!"
Chương 10
Biên
bản những lời cam kết của cộng đoàn
1
Vì
tất cả những điều đó, chúng tôi thoả thuận cam kết và ghi thành văn bản. Trong
văn bản đóng dấu, có ghi tên các vị lãnh đạo, các thầy Lê-vi, các tư tế của
chúng tôi.
2
Trong
những văn bản đóng dấu, có ghi tên các ông: Nơ-khe-mi-a, quan tổng đốc, - con
ông Kha-khan-gia - và Xít-ki-gia.
3
Xơ-ra-gia,
A-dác-gia, Giếc-mơ-gia, 4 Pát-khua, A-mác-gia, Man-ki-gia, 5 Khát-tút,
Sơ-van-gia, Ma-lúc, 6 Kha-rim, Mơ-rê-mốt, Ô-vát-gia, 7 Ða-ni-en,
Ghin-thôn, Ba-rúc, 8 Mơ-su-lam, A-vi-gia, Mi-gia-min, 9 Ma-át-gia,
Bin-gai, Sơ-ma-gia: đó là các tư tế;
10
các
thầy Lê-vi: Giê-su-a, con ông A-dan-gia, Bin-nui thuộc nhóm con cháu ông
Khê-na-đát, Cát-mi-ên, 11 và anh em của họ: Sơ-van-gia, Hô-đi-gia,
Cơ-li-ta, Pơ-la-gia, Kha-nan, 12 Mi-kha, Rơ-khốp, Kha-sáp-gia, 13
Dắc-cua, Sê-rếp-gia, Sơ-van-gia, 14 Hô-đi-gia, Ba-ni,
Bơ-ni-nu;
15
những
người lãnh đạo dân: Pác-ốt, Pa-khát Mô-áp, Ê-lam, Dát-tu, Ba-ni, 16 Bun-ni,
Át-gát, Bê-vai, 17 A-đô-ni-gia, Bích-vai, A-đin, 18 A-te,
Khít-ki-gia, Át-dua, 19 Hô-đi-gia, Kha-sum, Bê-xai, 20 Kha-ríp,
A-na-thốt, Nê-vai, 21 Mác-pi-át, Mơ-su-lam, Khê-dia, 22 Mơ-sê-dáp-ên,
Xa-đốc, Giát-đu-a, 23 Pơ-lát-gia, Kha-nan, A-na-gia, 24 Hô-sê,
Kha-nan-gia, Kha-súp, 25 Ha Lô-khết, Pin-kha, Sô-vếch, 26 Rơ-khum,
Kha-sáp-gia, Ma-a-xê-gia, 27 A-khi-gia, Kha-nan, A-nan, 28 Ma-lúc,
Kha-rim, Ba-a-na.
29
Những
người khác trong dân, các tư tế, các thầy Lê-vi, những người giữ cửa, các ca
viên, những người phục vụ Ðền Thờ và tất cả những ai đã tách khỏi các dân tứ xứ
để gắn bó với Lề Luật của Thiên Chúa, vợ và con trai con gái của họ, tất cả các
trẻ em đã tới tuổi khôn, 30 thì liên kết với những người tai mắt
trong anh em đồng bào của họ, lấy lời thề độc và đoan hứa mà cam kết sống theo
Lề Luật Thiên Chúa đã ban nhờ ông Mô-sê, tôi trung của Người. Họ cũng cam kết
tuân giữ và thi hành mọi mệnh lệnh, quyết định và thánh chỉ của Ðức Chúa, Chúa
chúng ta:
31
Chúng
tôi sẽ không gả con gái cho các dân trong xứ và sẽ không cho con trai chúng tôi
lấy con gái của họ. 32 Nếu các dân trong xứ đem hàng hoá và các thứ
thực phẩm đi bán vào ngày sa-bát, thì chúng tôi sẽ không mua gì cả trong ngày
sa-bát và các ngày thánh. Năm thứ bảy, chúng tôi nghỉ canh tác và xoá mọi thứ
nợ. 33 Chúng tôi tự buộc mình phải nộp một chỉ bạc mỗi năm để lo
việc Nhà Thiên Chúa chúng tôi, 34 lo bánh tiến, hiến lễ thường tiến,
lễ toàn thiêu thường tiến, những hy lễ ngày sa-bát, ngày sóc, các lễ trọng, lo
các của thánh và các hy lễ tạ tội nhằm xin ơn xá tội cho Ít-ra-en, lo mọi công
việc liên quan đến Nhà của Thiên Chúa chúng tôi. 35 Chúng tôi, hàng
tư tế, hàng Lê-vi và dân chúng, chúng tôi đã bắt thăm về việc dâng củi: các chi
tộc sẽ luân phiên đem củi đến Nhà Thiên Chúa vào những thời gian nhất định
trong năm, để đốt trên bàn thờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, như đã chép
trong Lề Luật.
36
Chúng
tôi buộc mình hàng năm phải đem dâng vào Nhà Ðức Chúa những thổ sản đầu mùa của
chúng tôi và tất cả hoa trái đầu mùa mọi thứ cây, 37 cũng như các
con trai đầu lòng của chúng tôi và của thú vật, như đã chép trong Lề Luật. Các
con đầu lòng của bò ngựa, chiên dê đem tới Nhà Thiên Chúa cũng dành cho các tư
tế đang phục vụ Nhà Thiên Chúa chúng tôi. 38 Phần tốt nhất trong số
bột xay, trong những của trích dâng, hoa trái đầu mùa mọi thứ cây, rượu mới và
dầu tươi, chúng tôi sẽ đem dâng các tư tế tại các phòng trong Nhà Thiên Chúa
chúng tôi. Chúng tôi sẽ đóng một phần mười lợi tức đất đai của chúng tôi cho
các thầy Lê-vi; chính các thầy sẽ thu thuế thập phân này trong mọi thành chúng
tôi có đất canh tác. 39 Một tư tế trong số con cái ông A-ha-ron sẽ
đi với các thầy Lê-vi khi các thầy thu thuế thập phân; các thầy sẽ trích một
phần mười thuế thập phân bỏ vào các phòng nhà kho để dâng cho Nhà Thiên Chúa
chúng tôi, 40 vì con cái Ít-ra-en và con cái các thầy Lê-vi sẽ đem
của trích dâng lấy từ lúa mì, rượu và dầu tới các phòng đó; tại đây cũng có các
vật dụng của Ðền Thờ, có các tư tế đang phục vụ, những người giữ cửa và các ca
viên.
Như
vậy chúng tôi sẽ không xao nhãng công việc của Nhà Thiên Chúa chúng tôi.
Chương 11
Ông
Nơ-khe-mi-a phân bố cư dân
1
Các
vị lãnh đạo dân lập cư tại Giê-ru-sa-lem. Còn các người khác trong dân thì bắt
thăm: cứ mười người thì một người đến lập cư tại thành thánh Giê-ru-sa-lem,
chín người kia sẽ ở trong các thành khác. 2 Dân chúng chúc phúc cho
tất cả những ai tình nguyện đến lập cư tại Giê-ru-sa-lem.
3
Dưới
đây là các thủ lãnh miền đã lập cư tại Giê-ru-sa-lem. Còn tại các thành khác
của Giu-đa thì những người Ít-ra-en, các tư tế, các thầy Lê-vi, những người
phục vụ Ðền Thờ, và con cháu các nô lệ của vua Sa-lô-môn, mỗi người đều lập cư
tại phần đất của mình, trong thành của mình.
Dân
Do-thái ở Giê-ru-sa-lem
4
Con
cháu ông Giu-đa và con cháu ông Ben-gia-min, lập cư tại Giê-ru-sa-lem:
Trong
số con cháu ông Giu-đa, có các ông: A-tha-gia (A-tha-gia là con của Út-di-gia,
Út-di-gia con của Dơ-khác-gia, Dơ-khác-gia con của A-mác-gia, A-mác-gia con của
Sơ-phát-gia, Sơ-phát-gia con của Ma-ha-lan-ên, ông này thuộc hàng con cháu ông
Pe-rét); 5 và Ma-a-xê-gia (Ma-a-xê-gia là con của Ba-rúc, Ba-rúc con
của Côn Khô-de, Côn Khô-de con của Kha-da-gia, Kha-da-gia con của A-đa-gia,
A-đa-gia con của Giô-gia-ríp, Giô-gia-ríp con của Dơ-khác-gia, người Si-lô). 6
Tổng số con cháu ông Pe-rét lập cư tại Giê-ru-sa-lem lên đến bốn trăm sáu
mươi tám dũng sĩ.
7
Ðây
là con cháu ông Ben-gia-min: Xa-lu (Xa-lu là con của Mơ-su-lam, Mơ-su-lam con
của Giô-ết, Giô-ết con của Pơ-đa-gia, Pơ-đa-gia con của Cô-la-gia, Cô-la-gia
con của Ma-a-xê-gia, Ma-a-xê-gia con của I-thi-ên, I-thi-ên con của Giơ-sa-gia),
8 và các anh em đồng tộc của Gáp-bai, Xa-lai là chín trăm hai mươi
tám dũng sĩ.
9
Người
chỉ huy các dũng sĩ này là Giô-en, con của Dích-ri, và người chỉ huy phó của
thành là Giơ-hu-đa, con của Ha Xơ-nu-a.
10
Trong
hàng tư tế, có các ông: Giơ-đa-gia con của Giô-gia-ríp, Gia-khin, 11 Xơ-ra-gia
con của Khin-ki-gia (Khin-ki-gia con của Mơ-su-lam, Mơ-su-lam con của Xa-đốc,
Xa-đốc con của Mơ-ra-giốt, Mơ-gia-giốt con của A-khi-túp quản đốc Nhà Thiên
Chúa), 12 và các anh em đồng tộc của họ, những người lo việc Nhà
Thiên Chúa: tám trăm hai mươi hai người; rồi còn có A-đa-gia (A-đa-gia là con
của Giơ-rô-kham, Giơ-rô-kham con của Pơ-lan-gia, Pơ-lan-gia con của Am-xi,
Am-xi con của Dơ-khác-gia, Dơ-khác-gia con của Pát-khua, Pát-khua con của
Man-ki-gia) 13 và các anh em đồng tộc của ông là những người đứng đầu gia tộc:
hai trăm bốn mươi hai người; lại còn có A-mác-xai (A-mác-xai là con của
A-dác-ên, A-dác-ên là con của Ác-dai, Ác-dai con của Mơ-si-lê-mốt, Mơ-si-lê-mốt
con của Im-me)14 và các anh em của ông là một trăm hai mươi tám dũng sĩ.
Người
chỉ huy họ là Dáp-đi-ên, con của Ha-gơ-đô-lim.
15
Trong
số các thầy Lê-vi, có các thầy: Sơ-ma-gia (Sơ-ma-gia là con của Kha-súp,
Kha-súp con của Át-ri-cam, Át-ri-cam con của Kha-sáp-gia, Kha-sáp-gia con của
Bun-ni); 16 Sáp-thai và Giô-da-vát là những người thuộc hàng thủ
lãnh các thầy Lê-vi và lo ngoại vụ cho Nhà Thiên Chúa; 17 Mát-tan-gia
(Mát-tan-gia là con của Mi-kha, Mi-kha con của Dáp-đi, Dáp-đi con của A-xáp,
ông này là ca trưởng xướng những bài ca tạ ơn khi cầu nguyện); Bác-búc-gia,
người đứng thứ nhì trong anh em; Áp-đa (Áp-đa là con của Sam-mu-a, Sam-mu-a con
của Ga-lan, Ga-lan con của Giơ-đu-thun). 18 Tổng số các thầy Lê-vi
trong Thành Thánh là hai trăm tám mươi bốn.
19
Những
người giữ cửa: Ắc-cúp, Tan-môn và anh em đồng tộc của các ông canh gác cửa: một
trăm bảy mươi hai người.
Lời
ghi chú bổ túc
21
Những
người phục vụ Ðền Thờ cư ngụ tại Ô-phen; các ông Xi-kha và Ghít-pa điều khiển
họ. 22 Ðứng đầu các thầy Lê-vi ở Giê-ru-sa-lem là Út-di (Út-di là
con của Ba-ni, Ba-ni con của Kha-sáp-gia, Kha-sáp-gia con của Mát-tan-gia,
Mát-tan-gia con của Mi-kha). Út-đi thuộc hàng con cháu A-xáp, những người này
là ca viên có trách nhiệm phục vụ Nhà Thiên Chúa. 23 Quả thế, nhà
vua đã ra một chỉ thị liên can đến các ca viên và quy định công việc mỗi ngày
cho họ. 24 Người thừa lệnh nhà vua lo mọi việc cho dân là
Pơ-thác-gia con của Mơ-sê-dáp-ên, thuộc hàng con cháu của De-rác, ông này là
con ông Giu-đa.
20
Những
người Ít-ra-en, các tư tế và các thầy Lê-vi còn lại thì ở trong các thành khác
của Giu-đa, mỗi người tại phần đất cha ông, 25 tại các thôn ấp, trên
đồng ruộng của họ.
Dân
Do-thái ở ngoài Giê-ru-sa-lem
Một
số con cháu ông Giu-đa lập cư tại những nơi sau đây: Kia-giát Ác-ba và các vùng
phụ thuộc, Ði-vôn và các vùng phụ thuộc, Giơ-cáp-xơ-ên và các thôn ấp, 26 Giê-su-a,
Mô-la-đa, Bết Pe-lét, 27 Kha-xa Su-an, Bơ-e Se-va và các vùng phụ
thuộc, 28 Xích-lắc, Mơ-khô-na và các vùng phụ thuộc, 29 Ên
Rim-môn, Xo-rơ-a, Giác-mút, 30 Da-nô-ác, A-đu-lam và các thôn ấp phụ
thuộc hai nơi này, La-khít và đồng ruộng chung quanh, A-dê-ca và các vùng phụ
thuộc. Vậy họ đã định cư từ Bơ-e Se-va cho đến thung lũng Hin-nôm.
31
Con
cháu ông Ben-gia-min cư ngụ ở Ghe-va, Mích-mát, Ai-gia, Bết Ên và các thành phụ
thuộc; 32 ở A-na-thốt, Nốp, A-nan-gia, 33 Kha-xo, Ra-ma,
Ghít-ta-gim, 34 Kha-đích, Xơ-vô-im, Nơ-va-lát, 35 Lốt,
Ô-nô và Ghê Kha-ra-sim.
36
Trong
số các thầy Lê-vi, có những người đã từ Giu-đa sang Ben-gia-min.
Chương 12
Các
tư tế và thầy Lê-vi trở về dưới thời ông Dơ-rúp-ba-ven và Giê-su-a
1
Ðây
là những tư tế và những thầy Lê-vi đã hồi hương cùng với Dơ-rúp-ba-ven, con của
San-ti-ên, và cùng với Giê-su-a: Xơ-ra-gia, Giếc-mơ-gia, Ét-ra, 2 A-mác-gia,
Ma-lúc, Khát-tút, 3 Sơ-khan-gia, Rơ-khum, Mơ-rê-mốt, 4 Ít-đô,
Ghin-thôi, A-vi-gia, 5 Mi-gia-min, Ma-át-gia, Bin-ga, 6 Sơ-ma-gia
và Giô-gia-ríp, Giơ-đa-gia, 7 Xa-lu, A-móc, Khin-ki-gia, Giơ-đa-gia.
Những
người này là thủ lãnh các tư tế và anh em đồng tộc của họ vào thời ông Giê-su-a.
8 Các thầy Lê-vi là Giê-su-a, Bin-nui, Cát-mi-ên, Sê-rếp-gia,
Giơ-hu-đa, Mát-tan-gia; ông này cùng với anh em đồng tộc mình đảm trách các bài
hát tạ ơn, 9 đang khi ông Bác-búc-gia, ông Un-ni và anh em đồng tộc
đứng đối diện với họ tuỳ theo chức vụ.
Gia
phả các thượng tế từ năm 520 đến năm 405
10
Giê-su-a
sinh Giô-gia-kim, Giô-gia-kim sinh En-gia-síp, En-gia-síp sinh Gio-gia-đa, 11
Gio-gia-đa sinh Giô-na-than, Giô-na-than sinh Giát-đu-a.
Các
tư tế và các thầy Lê-vi thời thượng tế Giô-gia-kim
12
Vào
thời thượng tế Giô-gia-kim, các tư tế đứng đầu các gia tộc là các ông:
Mơ-ra-gia, gia tộc Xơ-ra-gia; Kha-nan-gia, gia tộc Giếc-mơ-gia; 13 Mơ-su-lam,
gia tộc Ét-ra; Giơ-hô-kha-nan, gia tộc A-mác-gia; 14 Giô-na-than,
gia tộc Ma-lúc; Giô-xếp, gia tộc Sơ-van-gia; 15 Át-na, gia tộc
Kha-rim; Khen-cai, gia tộc Mơ-ra-giốt; 16 Dơ-khác-gia, gia tộc
Ít-đô; Mơ-su-lam, gia tộc Ghin-thôn; 17 Dích-ri, gia tộc
A-vi-gia;..., gia tộc Min-gia-min; Pin-tai, gia tộc Mô-át-gia; 18 Sam-mu-a,
gia tộc Bin-ga; Giơ-hô-na-than, gia tộc Sơ-ma-gia; 19 Mát-tơ-nai,
gia tộc Giô-gia-ríp; Út-di, gia tộc Giơ-đa-gia; 20 Ca-lai, gia tộc
Xa-lai; Ê-ve, gia tộc A-móc; 21 Kha-sáp-gia, gia tộc Khin-ki-gia;
Nơ-than-ên, gia tộc Giơ-đa-gia.
22
Vào
thời các ông En-gia-síp, Gio-gia-đa, Giô-kha-nan và Giát-đu-a, những người đứng
đầu các gia tộc và các tư tế đều được ghi tên cho đến triều đại vua Ða-ri-ô,
người Ba-tư.
23
Sau
đây là các con cháu ông Lê-vi:
Những
người đứng đầu các gia tộc đều được ghi tên vào sách Sử biên niên cho đến thời
ông Giô-kha-nan, con ông En-gia-síp.
24
Thủ
lãnh các thầy Lê-vi là các ông: Kha-sáp-gia, Sê-rếp-gia, Giê-su-a, Bin-nui,
Cát-mi-ên, và các anh em đồng tộc của họ là những người đứng đối diện với họ để
ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa, theo lệnh vua Ða-vít, người của Thiên Chúa, 25
Mát-tan-gia, Bác-búc-gia, Ô-vát-gia, Mơ-su-lam; còn các thầy Tan-môn và
Ắc-cúp là những người giữ cửa, thì canh các nhà kho gần các cửa.
26
Những
người này sống dưới thời Giô-gia-kim, con của Giê-su-a, ông này là con của
Giô-xa-đắc, và dưới thời ông Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, cũng như dưới thời ông
Ét-ra, tư tế và kinh sư.
Khánh
thành tường thành Giê-ru-sa-lem
27
Dịp
khánh thành tường thành Giê-ru-sa-lem, người ta tìm các thầy Lê-vi từ khắp nơi
họ ở, đưa về Giê-ru-sa-lem để mừng lễ khánh thành trong niềm hân hoan, giữa
tiếng hát ngợi khen hoà với não bạt và cung đàn nhịp sáo. 28 Con
cháu các ca viên tụ họp nhau lại từ vùng chung quanh Giê-ru-sa-lem, từ các thôn
làng của người Nơ-tô-pha, 29 từ Bết Ha Ghin-gan, từ đồng ruộng ở
Ghe-va và Át-ma-vét, vì các ca viên đã lập ra các thôn làng chung quanh
Giê-ru-sa-lem. 30 Các tư tế và các thầy Lê-vi đã tự thanh tẩy, rồi
thanh tẩy dân, cửa thành và tường thành.
31
Bấy
giờ tôi đưa các thủ lãnh Giu-đa lên tường thành và chia hai đoàn rước lớn. Ðoàn
thứ nhất đi về phía tay mặt bên trên tường thành, hướng về phía cửa Rác. 32
Ði sau đoàn này, có ông Hô-sa-gia và một nửa hàng thủ lãnh Giu-đa. 33
Cùng các ông A-dác-gia, Ét-ra, Mơ-su-lam, 34 Giơ-hu-đa,
Ben-gia-min, Sơ-ma-gia và Giếc-mơ-gia 35 là những người thuộc hàng tư tế và có
mang theo kèn; rồi lại có ông Dơ-khác-gia (Dơ-khác-gia là con của Giô-na-than,
Giô-na-than con của Sơ-ma-gia, Sơ-ma-gia con của Mát-tan-gia, Mát-tan-gia con
của Mi-kha-gia, Mi-kha-gia con của Dắc-cua, Dắc-cua con của A-xáp) 36 và các
anh em đồng tộc của ông là Sơ-ma-gia, A-dác-ên, Mi-la-lai, Gi-la-lai, Ma-ai,
Nơ-than-ên, Giơ-hu-đa, Kha-na-ni, có mang theo những nhạc cụ của vua Ða-vít,
người của Thiên Chúa. Kinh sư Ét-ra đi dẫn đầu. 37 Ðến cửa Suối họ
tiến thẳng về phía trước, leo lên các bậc thang của Thành vua Ða-vít, rồi tiếp
tục đi lên bờ tường thành, phía trên đền vua Ða-vít, cho đến cửa Nước ở phía
đông.
38
Ðoàn
thứ hai đi về phía tay trái: tôi theo sau cùng với một nửa hàng thủ lãnh của
dân, dọc bờ tường thành, phía trên tháp Lò cho đến Tường Rộng, 39 rồi
phía trên cửa Ép-ra-im, cửa Giơ-sa-na và cửa Cá; phía trên tháp Kha-na-ên và
tháp Trăm, cho đến cửa Chiên. Mọi người dừng lại ở cửa Lao Xá.
40
Sau
đó, cả hai đoàn kiệu dừng lại ở Nhà Thiên Chúa. Cùng đi với tôi, có một nửa
hàng quan chức 41 và các tư tế là các ông: En-gia-kim, Ma-a-xê-gia,
Min-gia-min, Mi-kha-gia, En-giô-ê-nai, Dơ-khác-gia, Kha-nan-gia (các vị này có
mang theo kèn), 42 Ma-a-xê-gia, Sơ-ma-gia, E-la-da, Út-di,
Giơ-hô-kha-nan, Man-ki-gia, Ê-lam và Ê-de. Các ca viên hát vang lên dưới quyền
điều khiển của Gít-rác-gia. 43 Ngày hôm ấy, người ta dâng những lễ
vật quý giá và vui mừng hoan hỷ, vì Thiên Chúa đã cho họ được hưởng niềm vui,
một niềm vui lớn lao. Cả phụ nữ lẫn thiếu nhi cũng đều vui mừng hoan hỷ. Và
niềm vui của Giê-ru-sa-lem đã lan rộng ra xa.
Một
thời kỳ lý tưởng
44
Thời
ấy, có những người được đặt lên trông coi các phòng dùng để chứa những của
trích dâng, của đầu mùa và thuế thập phân, cũng như để thu gom những phần dành
cho các tư tế và các thầy Lê-vi lấy từ đồng ruộng của các thành theo Luật quy
định. Quả thật, Giu-đa lấy làm vui vì các tư tế và các thầy Lê-vi đang tại chức.
45 Các nhân vật này cũng như các ca viên và những người giữ cửa đều
lo việc thờ phượng Thiên Chúa và việc thanh tẩy theo lệnh vua Ða-vít và con vua
là Sa-lô-môn. 46 Thật thế, thuở xưa vào thời vua Ða-vít, lúc ông
A-xáp đứng đầu các ca viên, đã có những bài ca ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa. 47
Vào thời ông Dơ-rúp-ba-ven và ông Nơ-khe-mi-a, toàn dân Ít-ra-en ngày
ngày vẫn dâng các phần dành cho các ca viên và những người giữ cửa. Họ dâng cho
các thầy Lê-vi những phần của thánh; còn các thầy Lê-vi thì dâng những phần của
thánh cho con cháu ông A-ha-ron.
Chương 13
1
Thời
ấy, người ta đọc sách Mô-sê cho dân nghe. Trong sách ấy, có chép rằng người
Am-mon và người Mô-áp sẽ không bao giờ được nhập vào cộng đồng của Thiên Chúa, 2
vì chúng đã không đem bánh và nước ra nghênh đón con cái Ít-ra-en, và vì
chúng đã thuê Bi-lơ-am chống lại họ và nguyền rủa họ. Nhưng Thiên Chúa chúng ta
đã đổi lời nguyền rủa thành lời chúc phúc. 3 Sau khi nghe sách Luật,
họ loại mọi thành phần ô hợp ngoại bang ra khỏi Ít-ra-en.
Chuyến
đi thứ hai của ông Nơ-khe-mi-a
4
Trước
đó, tư tế En-gia-síp được đặt lên trông coi các phòng trong Nhà Thiên Chúa. Vì
có họ với Tô-vi-gia, 5 nên tư tế đã dọn cho ông này một phòng rộng
lớn. Ở đó trước kia có chứa các lễ vật, trầm hương và các vật dụng, thuế thập
phân lấy từ lúa mì, rượu và dầu; thuế này đã được quy định cho các thầy Lê-vi,
các ca viên và những người giữ cửa; tại đây cũng chứa của trích dâng dành cho
các tư tế. 6 Khi xảy ra những sự việc đó, tôi không có mặt ở
Giê-ru-sa-lem, vì năm ba mươi hai triều vua Ba-by-lon là Ác-tắc-sát-ta, tôi đến
yết kiến vua. Sau một thời gian, tôi được vua cho phép 7 trở về Giê-ru-sa-lem.
Bấy giờ, tôi nhận thấy hành động xấu xa của ông En-gia-síp có lợi cho Tô-vi-gia
là đã dọn cho ông này một phòng ở tiền đình của Nhà Thiên Chúa. 8 Tôi
rất bực mình và đã liệng tất cả đồ đạc của Tô-vi-gia ra khỏi phòng. 9 Tôi
bảo người ta thanh tẩy các phòng, rồi cho đem về lại đó các vật dụng của Nhà
Thiên Chúa, các lễ vật và trầm hương.
10
Tôi
cũng được biết là các thầy Lê-vi không nhận được phần dành riêng cho mình, và
các thầy này cũng như các ca viên phụ trách công việc Nhà Thiên Chúa đã bỏ đi,
ai về nhà nấy. 11 Tôi đã quở trách các quan chức với lời lẽ như sau:
"Tại sao lại bỏ bê Nhà Thiên Chúa?" Tôi triệu tập các thầy Lê-vi và
các ca viên, rồi trao cho họ các chức vụ trước kia. 12 Toàn thể
Giu-đa đã nộp vào kho thuế thập phân lấy từ lúa mì, rượu và dầu. 13 Tôi
truyền cho tư tế Se-lem-gia, cho kinh sư Xa-đốc và thầy Pơ-đa-gia thuộc giới
các thầy Lê-vi, trông coi các kho. Ngoài ra, để giúp họ một tay, còn có ông Kha-nan,
con ông Dắc-cua, cháu ông Mát-tan-gia, vì họ là những người đáng tin cậy. Nhiệm
vụ của họ là phân phát cho anh em đồng tộc của mình. 14 Lạy Thiên
Chúa của con, vì những điều đó xin Ngài nhớ đến con, xin đừng xoá bỏ các việc
nghĩa con đã làm cho Nhà Thiên Chúa của con, cũng như công việc trông coi Nhà
Ngài.
15
Thời
ấy, tại Giu-đa tôi thấy có những người đạp nho trong bồn ngày sa-bát; lại có
những người đem các bó lúa cùng với rượu, nho, vả, và mọi thứ đồ nặng chất lên
lưng lừa, rồi đưa về Giê-ru-sa-lem trong ngày sa-bát. Tôi đã cảnh cáo họ ngày
họ bán thực phẩm. 16 Ngay chính ở Giê-ru-sa-lem, có những người Tia
cư trú tại đó thường đem cá và mọi thứ hàng hoá bán cho con cái Giu-đa trong
ngày sa-bát. 17 Tôi đã lên tiếng khiển trách các thân hào Giu-đa rằng:
"Sao các ông lại làm điều xấu xa là vi phạm ngày sa-bát như thế? 18 Tổ
tiên các ông đã chẳng làm như vậy sao? Bấy giờ Thiên Chúa chúng ta đã giáng
xuống chúng ta và thành này tất cả tai hoạ đó. Và các ông, các ông lại làm tăng
thêm cơn thịnh nộ của Người đối với Ít-ra-en bằng cách vi phạm ngày sa-bát.” 19
Khi bóng chiều ngả xuống trên các cửa thành Giê-ru-sa-lem trước ngày
sa-bát, tôi ra lệnh phải đóng cánh cửa thành lại và chỉ được mở ra sau ngày
sa-bát. Tôi đặt một số tráng đinh ở các cửa để ngăn không cho mang đồ nặng vào
trong ngày sa-bát. 20 Một hai lần, các con buôn và những người bán
đủ thứ hàng hoá ngủ đêm ở ngoài Giê-ru-sa-lem. 21 Tôi lên tiếng quở
trách họ rằng: "Sao các người lại ngủ đêm ở trước tường thành? Nếu các
ngươi còn tái phạm, ta sẽ thẳng tay với các ngươi! " Từ đó, họ không đến
vào ngày sa-bát nữa. 22 Tôi bảo các thầy Lê-vi phải tự thanh tẩy và
đến canh cửa thành để thánh hoá ngày sa-bát. Lạy Thiên Chúa của con, lại cũng
vì những điều đó, xin nhớ đến con, xin mở lượng hải hà thương xót con!
23
Cũng
vào thời ấy, tôi thấy có những người Do-thái đã cưới vợ người Át-đốt, Am-mon,
Mô-áp; 24 một nửa số con cái họ chỉ nói tiếng Át-đốt hay tiếng dân
này dân nọ, nhưng không biết nói tiếng Do-thái. 25 Tôi quở trách,
nguyền rủa họ; tôi đánh đập một số người trong nhóm họ, giật tóc họ, bắt phải
thề nguyền nhân danh Thiên Chúa: "Các ông không được gả con gái cho con
trai chúng, hoặc cưới con gái chúng cho con trai các ông và cho chính các ông. 26
Không phải vì thế mà Sa-lô-môn, vua Ít-ra-en, đã phạm tội sao? Trong các
dân nước, chẳng có vua nào được như ông, lại được Thiên Chúa của mình yêu mến
và cho làm vua cai trị toàn thể Ít-ra-en. Thế mà ông đã để cho các bà vợ ngoại
bang đưa đến chỗ phạm tội! 27 Liệu có còn phải nghe nói các ông cũng làm điều dữ
lớn lao này đã là phản bội Thiên Chúa chúng ta mà cưới vợ ngoại bang
chăng?"
28
Một
người con của ông Giô-gia-đa, con của thượng tế En-gia-síp, bây giờ là con rể
Xan-ba-lát, người Khô-rôn. Tôi đã đuổi hắn khuất mắt tôi. 29 Lạy
Thiên Chúa của con, xin đừng quên họ là những kẻ đã xúc phạm nặng nề đến chức
tư tế và lời giao ước ràng buộc hàng tư tế cũng như các thầy Lê-vi.
30
Tôi
thanh tẩy họ cho khỏi mọi yếu tố ngoại bang và đặt các luật lệ quy định công
việc cho mỗi tư tế và thầy Lê-vi. 31 Tôi còn đặt ra các luật lệ về
việc dâng củi vào những thời kỳ nhất định cũng như về việc dâng hoa trái đầu
mùa.
Lạy
Thiên Chúa của con, xin nhớ đến con để con được phúc lành.
Giáo Huấn
Tô-bi-a
Chương 01
1
Ðây
là sách truyện ông Tô-bít, con ông Tô-bi-ên, cháu ông Kha-nan-ên, chắt ông
A-đu-ên, cháu ba đời ông Ga-ba-ên, cháu bốn đời ông Ra-pha-en, cháu năm đời ông
Ra-gu-ên. Ông thuộc dòng dõi ông A-xi-ên, chi tộc Náp-ta-li. 2 Vào
thời San-ma-ne-xe làm vua Át-sua, ông bị đày khỏi Tít-be, một thành ở miền nam
Ky-đi-ô, thuộc Náp-ta-li, trên miền Ga-li-lê Thượng, bên trên Khát-xo nằm lui
vào bên trong, hướng mặt trời lặn, ở phía bắc Phô-go.
Ông
Tô-bít bị lưu đày
3
Tôi
là Tô-bít, tôi đã từng ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày đời tôi. Tôi
cũng đã từng rộng tay bố thí cho anh em và đồng bào tôi, những người cùng đi
đày với tôi qua Ni-ni-vê, ở xứ Át-sua. 4 Khi tôi còn ở trong xứ tôi
là đất Ít-ra-en, và khi tôi còn trẻ, toàn bộ chi tộc của cha tôi là Náp-ta-li
đã ly khai với nhà Ða-vít, tổ tiên tôi, và thành đô Giê-ru-sa-lem. Trong tất cả
các chi tộc Ít-ra-en, thành này đã được chọn làm nơi cho mọi chi tộc Ít-ra-en
đến tế lễ; và tại đây, Ðền Thờ Thiên Chúa ngự đã được thánh hiến và xây cất cho
mọi thế hệ mai sau. 5 Còn tất cả anh em tôi, cũng như nhà Náp-ta-li
cha tôi, thì trên mọi núi đồi miền Ga-li-lê, lại cúng tế con bê mà Gia-róp-am,
vua Ít-ra-en, đã làm ra tại Ðan.
6
Chỉ
có mình tôi đã nhiều lần trẩy lên Giê-ru-sa-lem vào các dịp lễ, theo những điều
đã chép trong chiếu chỉ ngàn đời được ban truyền trong toàn cõi Ít-ra-en. Các
hoa quả đầu mùa và những con vật đầu lòng, cũng như một phần mười đàn vật và
lông những con cừu được xén lần đầu tiên, tôi đều mau mắn đưa tới Giê-ru-sa-lem.
7 Tôi dâng các thứ đó cho các thầy tư tế, con cái ông A-ha-ron, để
lo việc tế lễ; còn một phần mười lúa miến, rượu nho, ô-liu, thạch lựu, vả cùng
những trái cây còn lại, thì dâng cho con cái ông Lê-vi đang phục vụ tại
Giê-ru-sa-lem. Phần mười thứ hai, tôi nộp bằng tiền mặt trong sáu năm liền để
làm tiền tiêu dùng hằng năm tại Giê-ru-sa-lem. 8 Tiền đó, tôi tặng
cô nhi, quả phụ và những người ngoại kiều sống giữa con cái Ít-ra-en; ba năm
một lần, tôi đem đến tặng họ. Chúng tôi dùng số tiền đó mà ăn tiêu theo chiếu
chỉ được ban truyền trong luật Mô-sê liên quan đến những việc ấy, và theo các
huấn lệnh của bà Ðơ-vô-ra, thân mẫu cha ông chúng tôi là Kha-nan-ên, vì cha tôi
chết để lại tôi mồ côi. 9 Ðến tuổi thành nhân, tôi lấy một người
thuộc dòng dõi cha ông chúng tôi làm vợ; nhờ nàng, tôi được một đứa con trai và
đặt tên cho nó là Tô-bi-a.
10
Thời
lưu đày qua Át-sua, tôi cũng bị đi đày và đã tới Ni-ni-vê. Mọi anh em và những
người cùng một dòng máu với tôi đều đã dùng thức ăn của dân ngoại. 11 Còn
tôi, tôi vẫn kiêng không dùng thức ăn của dân ngoại. 12 Và bởi vì
tôi hết lòng tưởng nhớ Thiên Chúa tôi, 13 nên Người là Ðấng Tối Cao
đã làm cho tôi được vừa lòng đẹp mắt vua San-ma-ne-xe. Tôi đã trở thành người
mua sắm cho vua tất cả những gì vua cần dùng. 14 Vì vậy, tôi thường
hay qua xứ Mê-đi mua sắm cho vua, cho đến ngày vua băng hà; và tôi đã gởi ông
Ga-ba-ên, là anh em ông Gáp-ri, tại xứ Mê-đi, những túi bạc tính tất cả là ba
trăm ký.
15
Khi
vua San-ma-ne-xe băng hà, thái tử Xan-khê-ríp lên ngôi kế vị, thì các đường
Mê-đi bị cắt đứt, và tôi không thể qua Mê-đi được nữa. 16 Dưới thời
vua San-ma-ne-se, tôi đã rộng tay bố thí cho các anh em cùng một dòng máu với
tôi. 17 Cơm bánh của tôi, tôi cho người đói khát; quần áo của tôi,
tôi cho kẻ trần truồng; nếu thấy ai trong số đồng bào tôi chết và bị quăng thây
ra phía sau tường thành Ni-ni-vê, thì tôi chôn cất người đó. 18 Nếu
có ai bị vua Xan-khê-ríp giết chết trên đường vua trốn khỏi Giu-đê trở về,
trong những ngày Vua Trời trừng phạt vua về những lời phạm thượng đã thốt ra,
thì tôi cũng chôn cất. Quả vậy, trong cơn phẫn nộ, vua đã giết chết nhiều người
trong số con cái Ít-ra-en, còn tôi cứ đi lấy trộm xác họ mà chôn cất. Vua
Xan-khê-ríp đi tìm những xác đó mà không thấy. 19 Một người dân
thành Ni-ni-vê tố giác với vua rằng chính tôi là người chôn cất họ, nên tôi lẩn
tránh. Khi được biết là vua đã rõ chuyện tôi và đang cho người lùng bắt để giết
tôi, tôi sợ hãi và trốn thoát. 20 Thế là bao nhiêu của cải tôi có
đều bị tịch thu, không còn lại một chút gì mà không bị sung vào kho vua, trừ
An-na vợ tôi và Tô-bi-a con trai tôi.
21
Không
đầy bốn mươi ngày sau, hai người con trai của vua giết chết vua, rồi bỏ trốn
lên núi A-ra-rát. Hoàng tử Ê-xa-khát-đôn lên ngôi kế vị vua cha, và đặt
A-khi-ca, con trai của A-na-ên, người anh em tôi, lên trông coi việc tài chính
cả nước cùng nắm quyền điều khiển toàn bộ công việc quản trị. 22 Bấy
giờ, A-khi-ca bênh vực tôi và tôi đã trở xuống Ni-ni-vê. Quả vậy, dưới triều
Xan-khê-ríp, vua Át-sua, A-khi-ca đã từng làm quan đại chước tửu, chưởng ấn,
người trông coi việc quản trị và tài chính. Vua Ê-xa-khát-đôn lại đặt A-khi-ca
giữ các chức vụ một lần nữa: A-khi-ca là cháu trai và cùng một dòng họ với tôi.
Chương 02
Ông
Tô-bít bị mù
1
Dưới
triều vua Ê-xa-khát-đôn, tôi trở về nhà tôi. Người ta đã trả lại cho tôi An-na,
vợ tôi và Tô-bi-a, con trai tôi. Ngày lễ Ngũ Tuần của chúng tôi, tức là ngày lễ
thánh mừng các Tuần, người ta dọn cho tôi một bữa ăn ngon, và tôi nghiêng người
xuống để dùng bữa. 2 Người ta bày bàn, dọn cho tôi nhiều món. Tôi
nói với Tô-bi-a, con tôi: "Con ơi, con hãy đi tìm trong số các anh em
chúng ta bị đày ở Ni-ni-vê, một người nghèo hết lòng tưởng nhớ Thiên Chúa, rồi
dẫn người ấy về đây cùng dùng bữa với cha. Này, con ơi, cha đợi con cho đến khi
con về.” 3 Tô-bi-a ra đi, tìm một người nghèo trong số các anh em
chúng tôi. Khi trở về, nó nói: "Cha ơi! " Tôi bảo nó: "Cha đây,
con." Nó trả lời: "Thưa cha, có một người trong đồng bào chúng ta đã
bị giết và quăng ngoài chợ, là nơi bây giờ người ấy còn đang bị thắt cổ.” 4
Tôi liền chồm dậy, bỏ cả ăn, chẳng kịp nếm chút gì. Tôi đem người ấy ra
khỏi quảng trường và đặt trong một căn nhà nhỏ, chờ lúc mặt trời lặn sẽ đem
chôn. 5 Trở về nhà, tôi tắm rửa, rồi ăn bánh mà lòng cảm thấy ưu sầu
tang tóc. 6 Tôi nhớ lại lời ngôn sứ A-mốt đã nói về Bết Ên rằng:
"Những
ngày lễ của các ngươi sẽ biến thành tang tóc,
mọi
bài hát của các ngươi sẽ nên khúc ai ca."
Rồi
tôi khóc. 7 Khi mặt trời lặn, tôi đào huyệt chôn người ấy. 8 Láng
giềng nhạo cười tôi rằng: "Hắn vẫn còn chưa sợ! Người ta truy nã để giết
hắn về tội ấy và hắn đã trốn đi, thế mà hắn lại vẫn chôn cất người chết!"
9
Ngay
tối ấy, tôi tắm rửa, rồi đi vào sân nhà tôi. Tôi nằm dọc theo bức tường ở sân,
mặt để trần vì trời nóng. 10 Tôi không biết là trong bức tường phía
trên tôi có chim sẻ. Phân chim nóng hổi rơi xuống mắt tôi, tạo ra những vết sẹo
trắng. Tôi đến thầy thuốc xin chữa trị, nhưng họ càng xức thuốc cho tôi, thì
các vết sẹo trắng càng làm cho mắt tôi loà thêm, cho đến khi tôi bị mù hẳn.
Suốt bốn năm, mắt tôi không nhìn thấy gì cả. Tất cả anh em tôi đều lấy làm buồn
cho tôi, và ông A-khi-ca cấp dưỡng cho tôi trong hai năm, trước khi ông đi Ê-ly-mai.
11
Lúc
bấy giờ, An-na, vợ tôi, nhận làm những công việc dành cho phụ nữ. 12 Nàng
giao hàng cho chủ và họ trả tiền công cho nàng. Ngày mồng bảy tháng Ðy-trô,
nàng xén tấm vải đã dệt xong, rồi giao cho chủ. Tiền công bao nhiêu, họ trả hết
cho nàng, lại còn thưởng cho một con dê con để ăn một bữa. 13 Khi
nàng bước vào nhà, thì con dê bắt đầu kêu be be. Tôi mới gọi nàng lại và hỏi:
"Con dê nhỏ đó ở đâu ra vậy? Có phải của trộm cắp không? Ðem trả lại cho
chủ nó đi! Vì chúng ta không có quyền ăn của trộm cắp.” 14 Nàng bảo
tôi: "Ðó là quà người ta thưởng cho tôi, thêm vào số tiền công!" Tôi
không tin nàng và cứ bảo nàng phải trả lại cho chủ. Vì chuyện đó, tôi xấu hổ
cho nàng. Rồi nàng đáp lại rằng: "Các việc bố thí của ông ở đâu? Các việc
nghĩa của ông đâu cả rồi? Ðó, ai cũng biết là ông được bù đắp như thế nào
rồi!"
Chương 03
1
Bấy
giờ, lòng tôi tràn ngập ưu phiền; tôi rên la kêu khóc và bắt đầu thở than cầu
nguyện:
2
"Lạy
Chúa, Ngài là Ðấng công chính,
mọi
việc Ngài làm đều chính trực,
tất
cả đường lối Ngài đều là từ bi và chân thật;
chính
Ngài xét xử thế gian.
3
Và
giờ đây, lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con,
xin
đoái nhìn và chớ phạt con vì những tội con đã phạm
và
những điều ngu muội của con cũng như của cha ông con.
Các
ngài đã đắc tội trước Thánh Nhan
4
và
bất tuân mệnh lệnh của Ngài.
Ngài
đã để chúng con bị cướp phá, phải tù đày và chết chóc,
nên
trò cười, đề tài châm biếm và bia nhục mạ
cho
mọi dân tộc, nơi chúng con đã bị Ngài phân tán.
5
Vâng,
các phán quyết của Ngài thì nhiều và chân thật;
Ngài
đối xử như thế với con vì tội lỗi con,
bởi
chúng con đã không thi hành mệnh lệnh Ngài
và
đã chẳng sống theo chân lý trước nhan Ngài.
6
Và
nay, xin Ngài đối xử với con theo sở thích của Ngài,
xin
truyền rút sinh khí ra khỏi con,
để
con biến khỏi mặt đất và trở thành bụi đất.
Quả
thật, đối với con, chết còn hơn sống,
vì
con đã nghe những lời nhục mạ dối gian
khiến
con phải buồn phiền quá đỗi.
Lạy
Chúa, xin truyền lệnh cho con được giải thoát
khỏi
số kiếp gian khổ này.
Xin
để con ra đi vào cõi đời đời.
Lạy
Chúa, xin đừng ngoảnh mặt không nhìn con.
Quả
thật, đối với con, thà chết còn hơn là suốt đời
phải
nhìn thấy bao nhiêu gian khổ,
và
phải nghe những lời nhục mạ."
Cô
Xa-ra
7
Cũng
trong ngày hôm ấy, ở Éc-ba-tan xứ Mê-đi, cô Xa-ra, con gái ông Ra-gu-ên, đã
nghe một trong những người tớ gái của cha cô nói lời nhục mạ. 8 Số
là cô đã được gả cho bảy người chồng, nhưng họ đã bị ác quỷ Át-mô-đai-ô giết
chết trước khi ăn ở với cô theo tục lệ vợ chồng. Người tớ gái nói: "Chính
cô là kẻ sát phu! Coi đó, cô đã có bảy đời chồng mà chẳng được mang tên ông
nào! 9 Tại sao chỉ vì mấy người chồng của cô đã chết mà cô lại đánh đập chúng
tôi? Thôi, đi với mấy ông ấy cho rồi, và đừng bao giờ chúng tôi thấy cô có con
cái gì hết!” 10 Vậy ngày hôm ấy, lòng cô Xa-ra ưu phiền và cô kêu
khóc. Rồi lên lầu trên ở nhà cha cô, cô định thắt cổ tự tử. Nhưng nghĩ lại, cô
tự nhủ: "Sẽ không bao giờ người ta nhục mạ được cha tôi và nói với người:
"Ông chỉ có một cô con gái yêu quý, thế mà vì bạc phận, cô đã thắt cổ tự
tử! Như vậy, tôi sẽ làm cho tuổi già của cha tôi phải buồn phiền đi xuống âm
phủ. Nên tốt hơn là tôi đừng thắt cổ tự tử, mà phải cầu xin Chúa cho tôi chết
đi, để đời tôi không còn phải nghe những lời nhục mạ nữa.” 11 Ngay
lúc ấy, cô dang hai tay về phía cửa sổ, cầu nguyện rằng:
"Chúc
tụng Chúa, lạy Thiên Chúa từ nhân!
Chúc
tụng danh Chúa đến muôn đời,
và
mọi công trình của Chúa
phải
chúc tụng Ngài muôn muôn thuở.
12
Giờ
đây, mặt con hướng về Chúa, mắt con nhìn lên Ngài.
13
Xin
Chúa phán, thì con sẽ được biến khỏi mặt đất
và
không còn phải nghe những lời nhục mạ nữa.
14
Lạy
Chúa Tể, Ngài biết con trong sạch,
không
hề vương ô uế của đàn ông;
15
con
đã không làm ô danh chính mình
cũng
không làm ô danh cha con trên đất khách lưu đày.
Con
là con một của cha con,
và
người đâu có con nào khác để thừa kế;
người
cũng không có anh em cận thân,
không
còn ai trong họ hàng,
để
con phải giữ thân làm vợ người ấy.
Con
đã mất cả bảy người chồng,
vậy
con còn sống nữa làm chi?
Nếu
Chúa không ưng làm cho con chết,
thì
lạy Chúa, xin đoái nghe con kể lể nỗi nhục nhằn."
16
Ngay
lúc ấy, lời cầu xin của hai người là Tô-bít và Xa-ra đã được đoái nghe trước
nhan vinh hiển của Thiên Chúa. 17 Và thiên sứ Ra-pha-en được sai đến
chữa lành cho cả hai. Ông Tô-bít thì được khỏi các vết sẹo trắng ở mắt, để ông
được ngắm nhìn tận mắt ánh sáng của Thiên Chúa; còn cô Xa-ra, con gái ông
Ra-gu-ên, thì được kết duyên với cậu Tô-bi-a, con trai ông Tô-bít, và được
thoát khỏi tay ác quỷ Át-mô-đai-ô. Quả vậy, trong tất cả những người muốn lấy
Xa-ra, Tô-bi-a có quyền ưu tiên. Cùng lúc ấy, ông Tô-bít từ ngoài sân trở vào
nhà, còn Xa-ra, con gái ông Ra-gu-ên, thì từ lầu trên đi xuống.
Chương 04
Cậu
Tô-bi-a
1
Hôm
ấy, ông Tô-bít sực nhớ lại số bạc đã gửi ông Ga-ba-ên tại Ra-ghê, xứ Mê-đi, 2
và ông nghĩ bụng: "Này mình đã xin cho được chết, tại sao không kêu
Tô-bi-a, con của mình đến và nói cho nó hay về số bạc đó, trước khi mình chết?”
3 Vậy ông kêu Tô-bi-a, con ông lại; cậu đến gần ông, và ông nói với
cậu: "Con hãy chôn cất cha cho tử tế. Hãy thảo kính mẹ con và đừng bỏ rơi
người bao lâu người còn sống. Con hãy ăn ở đẹp lòng người và đừng làm điều chi
phiền lòng người cả. 4 Này con, con phải nhớ rằng mẹ con đã trải qua
bao nỗi ngặt nghèo vì con, khi con còn trong dạ mẹ. Khi người mất, con hãy chôn
cất người ngay bên cạnh cha, trong cùng một phần mộ.
5
Con
ơi, con hãy tưởng nhớ Ðức Chúa mọi ngày, đừng có ưng phạm tội và làm trái mệnh
lệnh của Người. Hãy thực thi công chính suốt mọi ngày đời con và đừng đi theo
những nẻo đường bất chính, 6 vì những ai sống theo sự thật thì sẽ
thành công trong sự nghiệp của mình. 7 Con hãy dùng của cải bố thí
cho tất cả những ai thực thi công chính, và khi bố thí, mắt con đừng có so đo.
Ðối với ai nghèo khổ, con đừng ngoảnh mặt làm ngơ, để rồi đối với con, Thiên
Chúa cũng sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ. 8 Tuỳ con có bao nhiêu, hãy
cho bấy nhiêu; có nhiều thì cho nhiều, có ít thì đừng ngại cho ít. 9 Như
thế là con tích trữ một vốn liếng vững chắc cho những ngày gian nan. 10 Thật
vậy, việc bố thí cứu cho khỏi chết và không để rơi vào cõi âm ty. 11 Vì
trước nhan Ðấng Tối Cao, của bố thí là một lễ vật quý giá cho những ai làm việc
bố thí.
12
Này
con, hãy tránh xa mọi thứ dâm ô, và nhất là hãy lấy một người thuộc dòng dõi
cha ông con làm vợ, chớ đừng lấy con gái dân ngoại, không xuất thân từ chi tộc
cha con, vì chúng ta là con cái hàng ngôn sứ. Con ơi, hãy nhớ rằng, từ khởi đầu
cha ông chúng ta là Nô-ê, Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp, tất cả đã lấy vợ trong
họ hàng anh em mình, và đã được Chúa chúc phúc nơi con cháu, và dòng dõi các
ngài sẽ được đất làm gia nghiệp. 13 Và giờ đây, hỡi con, hãy yêu
thương anh em con, và lòng con chớ coi rẻ anh em con, cũng như con trai con gái
của dân tộc con, mà không tìm vợ trong số những người ấy. Thật vậy, kiêu ngạo
sinh ra nhiều đổ vỡ và bất hoà, và ở dưng đưa tới túng thiếu và nghèo mạt, vì ở
dưng là mẹ của đói khát.
14
Bất
cứ ai đã làm việc cho con, thì tiền công của người ấy con không được giữ lại
qua đêm trong nhà, nhưng phải trả ngay cho họ. Nếu con làm tôi Thiên Chúa,
Người cũng sẽ trả công cho con. Này con, hãy cẩn thận trong mọi việc con làm, và
hãy tỏ ra con là nhà gia giáo trong mọi cách ăn thói ở của con. 15 Ðiều
gì con không thích, thì cũng đừng làm cho ai cả. Ðừng uống rượu đến say sưa,
cũng đừng lấy việc say sưa làm bạn đường của con.
16
Hãy
chia cơm sẻ áo cho người đói rách. Phàm là của dư thừa, con hãy lấy mà bố thí,
và mắt con đừng có so đo trong việc bố thí của con. 17 Cứ dọn thức
ăn phủ phê trên mộ người công chính, còn người tội lỗi thì đừng cho.
18
Biết
ai khôn ngoan thì tìm đến mà bàn hỏi và chớ coi thường bất cứ lời chỉ giáo nào
hữu ích. 19 Hãy chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa mọi lúc; hãy xin
Người dạy con cho biết theo nẻo chính đường ngay và giúp con thành công trong
mọi đường đi nước bước cũng như mọi toan tính của con. Thật vậy, không phải dân
nào cũng có khả năng suy xét, nhưng Chúa mới làm cho họ biết suy xét đúng, và
cũng chính Người hạ xuống tận đáy âm phủ, nếu Người muốn. Và giờ đây, hỡi con,
hãy ghi nhớ các mệnh lệnh ấy, và ước chi đừng bao giờ chúng bị xoá nhoà trong
lòng con.
20
Và
bây giờ, hỡi con, cha cho con biết rằng cha có gửi ba trăm ký bạc cho ông
Ga-ba-ên, người anh em ông Gáp-ri, tại Ra-ghê xứ Mê-đi. 21 Ðừng sợ,
hỡi con, vì chúng ta đã lâm cảnh nghèo túng. Con sẽ nắm trong tay nhiều của
cải, nếu con kính sợ Thiên Chúa, tránh xa mọi tội lỗi và làm điều lành trước
mặt Chúa, Thiên Chúa của con."
Chương 05
Người
bạn đồng hành
1
Bấy
giờ, cậu Tô-bi-a thưa với cha là ông Tô-bít rằng: "Thưa cha, tất cả những
gì cha đã truyền dạy con, con sẽ thi hành. 2 Nhưng làm sao con có
thể lấy lại số bạc nơi ông ấy, vì chính ông không biết con, và con cũng không
biết ông? Con sẽ cho dấu nào để ông ấy nhìn nhận và tin con mà trao cho con số
bạc? Ðường đến Mê-đi, con lại không biết để đi tới đó.” 3 Ông Tô-bít
trả lời Tô-bi-a, con ông rằng: "Chính ông ấy đã viết cho cha một bản văn
tự, và cha cũng viết cho ông một bản. Cha đã chia ra làm hai, cha với ông ấy
mỗi người giữ một nửa, và cha đã để chung với số bạc. Này, tính đến bây giờ là
hai mươi năm cha đã gửi số bạc ấy! Và giờ đây hỡi con, con hãy tìm lấy một
người đáng tin cậy để đi với con cho đến khi con trở về -chúng ta sẽ trả công
cho người ấy-, rồi hãy đi lấy số bạc kia tại nhà ông Ga-ba-ên.
4
Vậy
cậu Tô-bi-a đi tìm một người thông thạo đường để cùng đi với cậu đến Mê-đi. Cậu
ra đi và thấy thiên sứ Ra-pha-en đang đứng trước mặt cậu, nhưng cậu lại không
biết đó là thiên sứ của Thiên Chúa. 5 Cậu nói với thiên sứ:
"Anh bạn trẻ, anh là người ở đâu? " Thiên sứ đáp: "Tôi cũng là
con cái Ít-ra-en, anh em của anh. Tôi đến đây để làm việc." Cậu Tô-bi-a
liền hỏi: "Anh có biết đường đến Mê-đi không?” 6 Thiên sứ nói:
"Có. Tôi đã nhiều lần đến đó, tôi thông thạo và thuộc hết các đường. Tôi
thường hay đến Mê-đi và trọ nhà ông Ga-ba-ên, là người anh em của chúng tôi
đang cư ngụ tại Ra-ghê xứ Mê-đi. Bình thường thì Ra-ghê cách xa Éc-ba-tan hai
ngày đường, vì nằm ở miền núi.” 7 Cậu Tô-bi-a nói: "Này anh bạn
trẻ, anh hãy chờ tôi đi báo cho cha tôi hay đã, vì tôi cần có anh đi cùng với
tôi, và tôi sẽ trả công cho anh."8 Thiên sứ đáp: "Ðược, tôi sẽ chờ
anh. Chỉ có điều là đừng đi lâu quá."
9
Cậu
Tô-bi-a đi báo cho ông Tô-bít, cha cậu hay và nói: "Này con đã tìm ra một
người cũng là con cái Ít-ra-en, anh em chúng ta rồi." Cha cậu bảo:
"Con ơi, con hãy kêu người ấy đến đây cho cha, để cha xem người ấy thuộc
dòng dõi, chi tộc nào, và có đáng tin cậy để cùng đi với con không.” 10 Tô-bi-a
đi kêu người ấy và nói: "Anh bạn trẻ ơi! Cha tôi kêu anh đó."
Thiên
sứ vào nhà, và ông Tô-bít lên tiếng chào trước. Thiên sứ nói: "Chúc mừng,
chúc mừng ông vui mạnh!" Ông Tô-bít nói: "Còn vui gì nữa mà vui? Tôi
là người đã mù cả hai mắt, không còn thấy ánh sáng mặt trời, nhưng nằm trong
bóng tối như những người đã chết không được ngắm nhìn ánh sáng. Tuy tôi sống,
mà ở giữa người chết, nghe tiếng người, nhưng chẳng thấy một ai." Thiên sứ
nói với ông: "Ông hãy tin tưởng. Chúa sắp chữa lành cho ông rồi! Hãy tin
tưởng." Ông Tô-bít nói: "Tô-bi-a, con trai tôi, muốn đi đến xứ Mê-đi.
Anh có thể cùng đi với nó và đưa nó tới đó được không? Tôi sẽ trả công cho anh,
người anh em ạ." Thiên sứ nói: "Tôi có thể đi với cậu ấy. Tôi đã qua
Mê-đi nhiều lần, đã ngang dọc khắp các đồng bằng lại biết hết núi non và đường
sá ở đó.” 11 Ông Tô-bít nói: "Này người anh em! Gia tộc anh như
thế nào, và thuộc chi tộc nào? Xin người anh em cho tôi biết.” 12 Thiên
sứ nói: "Chi tộc tôi can gì đến ông?" Ông Tô-bít nói: "Này người
anh em, tôi muốn biết sự thật: anh là con ai và danh tánh là gì?” 13 Thiên
sứ đáp: "Tôi là A-da-ri-a, con Kha-nan-gia đại nhân, trong hàng anh em của
ông.” 14 Ông Tô-bít nói: "Này người anh em, chúc anh mạnh khoẻ
và được vạn an! Xin đừng phiền lòng, nếu như tôi đã muốn biết sự thật về gia
tộc của anh. Hoá ra anh là người anh em họ hàng của tôi, thuộc giống dòng tôn
quý và lương thiện. Tôi có biết hai ông Kha-nan-gia và Na-than, các con của
Sơ-ma-gia đại nhân. Hai ông đã cùng đi với tôi đến Giê-ru-sa-lem thờ lạy Chúa
và đã không rời xa chính lộ. Anh em của anh là người lương thiện; gốc gác anh
tốt lành, vậy xin chúc mừng anh!"
15
Ông
còn nói: "Tôi sẽ trả công cho anh mỗi ngày một quan tiền và sẽ đài thọ
những gì anh cần dùng, cũng như tôi xử với con tôi vậy. 16 Anh hãy
đi với con tôi, rồi tôi sẽ tặng thù lao cho anh.” 17 Thiên sứ nói:
"Tôi sẽ đi với cậu ấy. Xin ông đừng sợ, chúng tôi ra đi mạnh khoẻ và sẽ
trở về với ông mạnh khoẻ, vì đường đi rất an toàn." Ông Tô-bít nói:
"Xin Chúa chúc lành cho anh, người anh em ạ!" Rồi ông gọi con trai
đến và bảo: "Này con, hãy chuẩn bị hành lý và ra đi với người anh em của
con. Xin Thiên Chúa là Ðấng ngự trên trời gìn giữ hai anh em đi đường bình an,
rồi đưa các con mạnh khoẻ về với cha. Xin thiên sứ của Người cùng đi để phù hộ
hai anh em con!"
Trước
khi lên đường, Tô-bia-a hôn cha mẹ cậu. Ông Tô-bít nói: "Con đi mạnh giỏi!”
18 Mẹ cậu khóc oà lên và nói với ông Tô-bít: "Tại sao ông sai
con tôi đi? Sớm chiều nó chẳng phải là nơi nương tựa cho chúng ta! Chẳng sống
quấn quýt bên chúng ta đó sao? 19 Tiền rừng bạc bể nghĩa lý gì đâu sánh với
mạng sống của con chúng ta! 20 Ðức Chúa đã cho chúng ta được sống, chừng đó là
đủ rồi.” 21 Ông Tô-bít nói với bà: "Bà đừng có lo lắng: con
chúng ta mạnh khoẻ ra đi, nó cũng mạnh khoẻ trở về với chúng ta, và mắt bà sẽ
thấy ngày nó mạnh khoẻ trở về với bà. 22 Ðừng lo lắng, đừng sợ gì
cho chúng nó, em ạ! Vì sẽ có thiên thần bản mệnh cùng đi với con chúng ta, cuộc
hành trình của nó sẽ thành công, và nó sẽ trở về mạnh khoẻ!” 23 Bà
liền nín, không khóc nữa.
Chương 06
Con
cá
1
Chàng
thanh niên ra đi, thiên sứ cùng đi với cậu, con chó cũng ra đi với cậu và cùng
đi với hai người. Vậy là cả hai cùng đi, và đêm thứ nhất, họ qua đêm bên bờ
sông Tích-ra. 2 Chàng thanh niên xuống sông Tích-ra rửa chân, thì
con cá lớn nhảy vọt lên khỏi mặt nước chực táp bàn chân cậu. Cậu la lên. 3
Thiên sứ bảo cậu: "Hãy chộp lấy con cá và nắm cho chặt." Cậu
nắm chặt con cá và đem nó lên bờ. 4 Thiên sứ bảo: "Mổ bụng cá
ra, lấy mật, tim, gan và giữ nó bên mình, còn ruột thì quăng đi, vì mật, tim,
gan của nó làm ra được thứ thuốc công hiệu.” 5 Cậu Tô-bi-a mổ bụng
cá lấy mật, tim, gan, nướng một phần con cá để ăn và dành ra một phần đem ướp
muối. 6 Cả hai người cùng đi với nhau cho đến khi gần tới Mê-đi.
7
Bấy
giờ, cậu Tô-bi-a hỏi thiên sứ: "Anh A-da-ri-a, có thứ thuốc gì trong tim,
gan và mật con cá vậy?” 8 Thiên sứ trả lời: "Hãy lấy tim và gan
cá đem um khói, trước mặt một người đàn ông hoặc đàn bà bị quỷ hay thần khí ác
độc ám hại, thì sẽ tránh được mọi ám khí và từ này về sau không còn sợ ma quỷ
và ác thần ở với người đó nữa. 9 Còn mật, hãy đem xức lên mắt người
bệnh, ngay nơi bị sẹo trắng, và thổi vào mắt, chỗ có sẹo, thì mắt sẽ được
lành."
10
Khi
đã tới xứ Mê-đi và gần đến Éc-ba-tan, 11 thiên sứ Ra-pha-en nói với cậu
Tô-bi-a: "Em Tô-bi-a!" Cậu đáp: "Em đây!" Thiên sứ bảo:
"Ðêm nay, chúng ta phải trọ nhà ông Ra-gu-ên. Ông này là bà con của em và
có cô con gái tên là Xa-ra. 12 Ông không có con trai nối dõi, cũng
không có con gái, ngoài một mình cô Xa-ra. Trong tất cả mọi người, em là người
họ hàng gần cô nhất được cưới cô, và có quyền thừa kế tài sản cha cô. Cô bé
cũng khôn ngoan, cam đảm và rất đẹp; cha cô lại là người tôn quý.” 13 Thiên
sứ còn nói: "Em hẳn có quyền lấy cô ấy. Này em, hãy nghe tôi đây! Tối nay,
tôi sẽ nói về cô với cha cô để xin ông chịu cho cô làm vị hôn thê của em. Khi
nào từ Ra-ghê trở về, chúng ta sẽ làm lễ cưới cô ấy. Tôi nghĩ ông Ra-gu-ên
không thể từ chối gả cô ấy cho em mà gả cho người khác được, vì ông biết rõ là
trong tất cả mọi người, quyền ưu tiên cưới con gái ông là của em; chẳng vậy,
ông sẽ phải chết, theo phán quyết của sách Mô-sê. Giờ đây, này em, hãy nghe
tôi! Tối nay chúng ta sẽ nói về cô bé và sẽ xin cho em cưới cô; rồi khi nào từ
Ra-ghê trở về, chúng ta sẽ đem cô theo và đưa cô cùng đi với chúng ta về nhà
em."
14
Bấy
giờ, cậu Tô-bi-a trả lời thiên sứ Ra-pha-en rằng: "Anh A-da-ri-a, em nghe
nói cô ấy đã được gả cho bảy người rồi, và họ đã chết trong đêm động phòng: lúc
đến bên nàng thì họ chết. Em còn nghe có người nói là chính quỷ đã giết chết họ.
15 Hiện giờ em sợ lắm, vì, nàng, thì nó không làm hại, nhưng ai muốn
gần nàng thì nó giết. Em là con một của cha em, sợ rằng nếu em chết, em sẽ làm
cho cuộc đời của cha em và của mẹ em phải đau khổ vì em mà đi xuống mồ. Và các
ngài không có người con nào khác để chôn cất.” 16 Thiên sứ nói:
"Em không nhớ các mệnh lệnh cha ông của em truyền phải lấy vợ trong những
người thuộc gia tộc của em đó sao? Và giờ đây, này em, hãy nghe tôi! Ðừng lo
lắng về con quỷ đó nữa và hãy cưới cô ấy đi! Tôi đây biết rằng đêm nay cô ấy sẽ
được gả cho em. 17 Nhưng khi động phòng, em hãy lấy một chút gan và
tim cá đặt lên than trong lư hương; mùi hương sẽ toả ra, quỷ sẽ ngửi thấy và
chạy trốn; nó sẽ không bao giờ xuất hiện quanh cô nữa. 18 Trước khi
gần gũi nhau cả hai hãy đứng lên cầu nguyện, xin Ðức Chúa trên trời rủ lòng
thương và ban ơn cứu độ cho các em. Ðừng sợ, vì cô được tiền định làm vợ em từ
trước muôn đời. Chính em sẽ cứu cô, cô sẽ sống với em, và tôi chắc rằng nhờ cô,
em sẽ có con cái, và chúng nó sẽ như là anh em của em. Vậy em đừng lo lắng gì
cả!” 19 Sau khi Tô-bi-a nghe những lời thiên sứ Ra-pha-en nói và
được biết Xa-ra là chị em cùng dòng dõi gia tộc cha mình, thì cậu yêu cô tha
thiết, và lòng cậu gắn bó với cô.
Chương 07
Ông
Ra-gu-ên
1
Khi
vào tới Éc-ba-tan, Tô-bi-a nói với thiên sứ Ra-pha-en: "Anh A-da-ri-a, xin
anh dẫn em tới thẳng nhà ông Ra-gu-ên, người anh em của chúng tôi." Và
thiên sứ dẫn cậu tới nhà ông Ra-gu-ên. Thấy ông đang ngồi ở cửa sân, họ chào
ông trước. Ông đáp: "Chào các anh! Chúc các anh mạnh khỏe!" Rồi ông
dẫn họ vào nhà. 2 Ông nói với bà Ét-na, vợ ông: "Người thanh
niên này giống anh Tô-bít của tôi làm sao!” 3 Bà Ét-na bảo họ:
"Ngoài các anh, các anh từ đâu đến? " Họ trả lời: "Chúng tôi
thuộc số con cái Náp-ta-li đã bị đi đày ở Ni-ni-vê.” 4 Bà nói:
"Các anh có biết ông Tô-bít, người anh em chúng tôi không? " Họ đáp:
"Dạ, chúng tôi biết.” 5 Bà nói: "Ông ấy khoẻ mạnh
không?" Họ thưa: "Ông ấy khoẻ mạnh và còn sống." Rồi Tô-bi-a
nói: "Ông ấy là cha tôi đó!” 6 Ông Ra-gu-ên liền nhảy tới ôm hôn
cậu và khóc oà lên. Ông lên tiếng nói với Tô-bi-a: "Này cháu, cháu thật là
có phước, vì được một người cha tôn quý và lương thiện! Nhưng khốn thay! Người
công chính hay làm phước bố thí đó đã bị mù loà!" Ông chạy đến ôm lấy cổ
Tô-bi-a và khóc oà lên. 7 Bà Ét-na, vợ ông, khóc thương ông Tô-bít,
và cô Xa-ra, con gái hai ông bà, cũng khóc luôn. 8 Rồi ông hạ một
con cừu trong đàn, tiếp đãi họ thật là niềm nở.
9
Tắm
rửa xong, họ vào bàn, nghiêng người xuống để dùng bữa. Cậu Tô-bi-a nói với
thiên sứ Ra-pha-en: "Anh A-da-ri-a, xin anh nói với ông Ra-gu-ên gả cô em
gái Xa-ra cho em!” 10 Nghe lời ấy, ông Ra-gu-ên bảo cậu thanh niên:
"Này cháu, cháu cứ ăn uống qua đêm nay cho thoải mái, vì ngoài cháu ra,
không ai có quyền cưới Xa-ra, con gái của chú, cũng như chú đây không có quyền
gả cho người đàn ông nào khác ngoài cháu, vì cháu là người bà con gần nhất của
chú. Nhưng này cháu, nhất định chú phải cho cháu biết sự thật: 11 Chú
đã gả nó cho bảy người trong số anh em của chúng ta, nhưng họ đều chết cả, ngay
trong đêm họ đến gần nó. Vậy bây giờ, này cháu, cháu cứ ăn uống đi, rồi Ðức
Chúa sẽ xếp đặt cho chúng con. 12 Tô-bi-a nói: "Cháu sẽ không
ăn uống gì kể từ bây giờ, cho đến khi chú định đoạt về chuyện của cháu."
Ông Ra-gu-ên nói: "Thì chú đang làm đây. Em nó được gả cho cháu là chiếu
theo phán quyết của sách Mô-sê, và em nó được gả cho cháu cũng là do Trời định.
Vậy cháu hãy đón nhận cô em cháu đây. Từ nay, cháu là anh nó và nó là em của
cháu. Từ hôm nay và mãi mãi, nó được gả cho cháu. Con ơi! Ðức Chúa trên trời sẽ
cho chúng con đêm nay được toại nguyện; Người sẽ thương xót và cho chúng con
được bình an.” 13 Rồi ông Ra-gu-ên gọi Xa-ra, con gái ông. Cô đến
bên ông; ông cầm lấy tay cô, trao cho Tô-bi-a và nói: "Con hãy đón nhận em
con chiếu theo Lề Luật và phán quyết ghi trong sách Mô-sê dạy phải cho nó làm
vợ của con. Hãy lấy nó và đưa nó an lành mạnh khoẻ về nhà cha con; xin Thiên
Chúa trên trời ban cho chúng con được bình an!” 14 Ông gọi mẹ cô và
bảo đem giấy tới rồi viết tờ hôn thú cam kết là đã gả cô cho cậu chiếu theo
phán quyết của Luật Mô-sê.
Sau
đó, họ bắt đầu ăn uống. 15 Ông Ra-gu-ên gọi bà Ét-na, vợ ông, và
nói: "Này em, em đi dọn một phòng khác rồi dẫn Xa-ra tới đó đi.” 16 Bà
đi vào phòng trải giường như ông đã nói, và dẫn con vào. Bà oà lên khóc vì số
phận cô, rồi lau nước mắt và nói với cô: 17 "Con ơi, hãy tin
tưởng! Xin Ðức Chúa trên trời cho buồn phiền của con biến thành hoan lạc. Cứ
tin tưởng đi con!" Sau đó bà đi ra.
Chương 08
Ðào
huyệt
1
Ăn
uống xong, họ toan đi nằm. Họ đưa người thanh niên đi và dẫn vào phòng. 2 Tô-bi-a
nhớ lại lời của thiên sứ Ra-pha-en: cậu lấy trong túi ra gan cá cùng với tim,
và đặt trên than của lư hương. 3 Mùi cá đẩy lui quỷ, khiến nó chạy
trốn về miền Thượng Ai-cập. Thiên sứ Ra-pha-en đến đó buộc chân và trói nó lại
ngay tức khắc.
4
Khi
thân nhân đã ra khỏi phòng và đóng cửa lại, Tô-bi-a ngồi dậy, ra khỏi giường và
nói với Xa-ra: "Ðứng lên, em! Chúng ta hãy cầu nguyện, nài xin Ðức Chúa để
Người xót thương và ban ơn cứu độ cho chúng ta!” 5 Cô đứng lên, rồi
cả hai bắt đầu cầu nguyện và nài xin cho mình được cứu độ. Tô-bi-a bắt đầu như
sau:
"Lạy
Thiên Chúa của tổ tiên chúng con.
Xin
chúc tụng Chúa, xin chúc tụng Thánh Danh
đến
muôn thuở muôn đời!
Các
tầng trời và toàn thể công trình của Chúa
phải
chúc tụng Chúa đến muôn thuở muôn đời!
6
Chính
Chúa đã dựng nên ông A-đam,
dựng
nên cho ông một người trợ thủ và nâng đỡ
là
bà E-và, vợ ông.
Và
dòng dõi loài người đã sinh ra từ hai ông bà.
Chính
Chúa đã nói:
"Con
người ở một mình thì không tốt.
Ta
sẽ làm cho nó một người trợ thủ giống như nó.
7
Giờ
đây, không phải vì lòng dục, mà con lấy em con đây,
nhưng
vì lòng chân thành.
Xin
Chúa đoái thương con và em con
cho
chúng con được chung sống bên nhau đến tuổi già."
8
Rồi
họ đồng thanh nói: "A-men! A-men!” 9 Sau đó, họ ngủ luôn cho
đến sáng.
10
Ðang
khi ấy, ông Ra-gu-ên trỗi dậy, gọi đầy tớ lại; họ đi đào một cái huyệt, vì ông
nói: "Nó mà chết thì chúng ta sẽ trở thành đề tài cho người ta nhục mạ và
nhạo báng.” 11 Khi họ đào huyệt xong, ông Ra-gu-ên trở về nhà, gọi
vợ ông 12 và nói: "Em hãy sai một trong mấy tớ gái, bảo nó vào xem Tô-bi-a
còn sống hay đã chết, để nếu có làm sao chúng ta sẽ chôn nó và không ai biết
cả.” 13 Vậy họ sai tớ gái đi, thắp đèn lên và mở cửa; người đầy tớ
gái đi vào và thấy đôi vợ chồng đang nằm ngủ với nhau. 14 Người đầy
tớ gái ra ngoài cho hai ông bà biết Tô-bi-a còn sống và không có gì bất hạnh
xảy ra. 15 Thế là họ cất lời chúc tụng Thiên Chúa trên trời rằng:
"Lạy
Thiên Chúa, chúc tụng Ngài!
Xin
dâng Ngài mọi lời chúc tụng từ đáy lòng thuần khiết.
Mọi
loài phải chúc tụng Chúa đến muôn thuở muôn đời!
16
Chúc
tụng Ngài đã ban cho con niềm hoan lạc
vì
điều con lo ngại sẽ không xảy ra,
trái
lại, Ngài đã xử với chúng con
theo
lòng xót thương bao la của Ngài.
17
Chúc
tụng Chúa đã thương xót hai người con một này
lạy
Chúa Tể, xin cho chúng được hưởng
lòng
xót thương và ơn cứu độ,
để
chúng được sống trọn cuộc đời
trong
niềm hoan lạc và lòng xót thương! "
18
Sau
đó, ông bảo người nhà lấp huyệt lại trước khi trời sáng.
19
Ông
Ra-gu-ên bảo vợ làm thật nhiều bánh; còn ông đi ra đàn vật dẫn hai con bò và
bốn con cừu, bảo làm thịt; rồi người ta bắt đầu chuẩn bị ăn mừng. 20 Ông
gọi Tô-bi-a và nói: "Trong mười bốn ngày, con không được nhúc nhích khỏi
đây, nhưng phải ở lại, ăn uống trong nhà cha, và hãy làm cho lòng con gái cha
được vui sướng sau ngần ấy đau khổ. 21 Bao nhiêu tài sản của cha,
con hãy lấy phân nửa ngay từ bây giờ và trở về với cha con bình an vô sự; phân
nửa kia sẽ thuộc về chúng con, sau khi cha và mẹ con đây qua đời. Hãy tin
tưởng, hỡi con! Cha đây là cha con và bà Ét-na là mẹ con. Bây giờ và mãi mãi
cha mẹ ở bên con và em con. Hãy tin tưởng, hỡi con!"
Chương 09
Hôn
lễ
1
Lúc
ấy, Tô-bi-a gọi thiên sứ Ra-pha-en và nói: 2 "Anh A-da-ri-a,
anh hãy đem theo bốn gia nhân và hai con lạc đà, đi Ra-ghê và đến nhà ông
Ga-ba-ên, trao cho ông bản văn tự, nhận số bạc và mời ông ấy cùng với anh đến
dự lễ cưới. 3-4 Anh biết là cha tôi chắc đang tính từng ngày; nếu tôi chậm trễ
một ngày thôi, thì người sẽ buồn khổ biết bao. Anh thấy ông Ra-gu-ên đã thề hứa
điều gì, vì vậy, tôi không thể làm ngược với lời thề của ông.” 5 Vậy
thiên sứ Ra-pha-en đi cùng với bốn gia nhân và hai con lạc đà, đến Ra-ghê xứ
Mê-đi, và trọ nhà ông Ga-ba-ên. Thiên sứ trao cho ông bản văn tự, và cho ông
biết rằng, Tô-bi-a, con ông Tô-bít, đã lấy vợ và mời ông đến dự lễ cưới. Ông
Ga-ba-ên đứng dậy, thanh toán với thiên sứ các túi bạc có đóng dấu niêm phong,
rồi chất lên lưng lạc đà. 6 Họ cùng thức dậy sớm và đi dự lễ cưới.
Họ vào nhà ông Ra-gu-ên và thấy Tô-bi-a đã ngồi vào bàn. Tô-bi-a chạy ra đón
chào ông Ga-ba-ên. Ông bật khóc và chúc lành cho Tô-bi-a: "Ôi người con
tôn quý và lương thiện của một người cha tôn quý và lương thiện, công chính và
hay bố thí! Xin Ðức Chúa đổ phúc lành từ trời xuống cho cháu, cho vợ và cha mẹ
vợ cháu! Chúc tụng Thiên Chúa, vì tôi đã được thấy lại Tô-bít, người anh em họ
của tôi, qua người con giống ông như đúc! "
Chương 10
1
Trong
thời gian ấy, ông Tô-bít tính từng ngày một, xem mất bao nhiêu ngày đi, bao
nhiêu ngày về. Khi đã mãn hạn ước định cho ngày về, mà vẫn chưa thấy con, 2
ông tự nhủ: "Hay là nó bị giữ lại ở đó? Hoặc là ông Ga-ba-ên đã chết
và không có ai để trao bạc lại cho nó?” 3 Và ông bắt đầu lo buồn. 4
Bà An-na, vợ ông, nói: "Con tôi đã biến mất rồi; nó không còn ở giữa
đám người sống nữa!" Bà bắt đầu kêu la, thương khóc con và nói: 5 "Khốn
cho mẹ, con ơi! Con là ánh sáng cho đôi mắt mẹ, mà mẹ lại để con đi!” 6 Ông
Tô-bít nói với bà: "Nín đi em, đừng lo lắng gì, con nó mạnh khoẻ mà! Chắc
hẳn là có chuyện gì trục trặc đã xảy ra cho chúng ở đó; người cùng đi đường với
nó là người đáng tin cậy và là người anh em của chúng ta. Ðừng lo buồn về nó
nữa em; rồi nó sẽ có mặt ở đây mà!” 7 Bà trả lời: "Ông im đi để
tôi được yên, và đừng có lừa gạt tôi: con tôi đã biến mất rồi!" Và mỗi
ngày bà chạy ra ngoài, ngó trước ngó sau con đường con bà đã ra đi; bà không
nghe ai hết, và khi mặt trời lặn, bà trở về nhà, ai oán khóc than suốt cả đêm,
không tài nào ngủ được.
8
Sau
khi ông Ra-gu-ên đã làm tiệc cưới mười bốn ngày cho con gái như đã thề, Tô-bi-a
đến bên ông và thưa: "Xin cha để con đi, vì con biết cha mẹ con tưởng sẽ
không còn nhìn thấy con nữa. Vậy giờ đây, thưa cha, con van cha hãy để con đi
về nhà cha con. Con đã nói cho cha biết là con đã để người ở lại trong tình
trạng nào rồi.” 9 Ông Ra-gu-ên nói với Tô-bi-a: "Ở lại đây con,
ở lại với cha! Cha sẽ sai người đến anh Tô-bít, cha con, để đem tin tức của con
cho người." Nhưng Tô-bi-a thưa: "Không thể được! Con xin cha để con
đi khỏi đây về nhà cha con.” 10 Ông Ra-gu-ên liền đứng dậy, trao cho
Tô-bi-a người vợ của chàng là Xa-ra, cùng với phân nửa tài sản của ông gồm tôi
trai, tớ gái, bò, cừu, lừa, lạc đà, y phục, tiền bạc và đồ dùng. 11 Ông
để cho họ ra đi phấn khởi; ông chào từ biệt Tô-bi-a và nói: "Con đi mạnh
giỏi và bình an! Xin Ðức Chúa trên trời cho con và Xa-ra, vợ con, thành đạt, và
ước gì cha được nhìn thấy con cái của chúng con trước khi cha nhắm mắt!” 12
Rồi ông nói với Xa-ra, con gái ông rằng: "Con hãy về nhà cha mẹ
chồng con, vì từ nay các ngài là cha mẹ con, như thể các ngài đã sinh ra con
vậy. Con gái của cha, thôi, con đi bình an! Cha mong được nghe toàn những tin
tốt lành về con, bao lâu cha còn sống!" Ông hôn họ và để họ ra đi.
13
Rồi
đến lượt bà Ét-na nói với Tô-bi-a: "Này con và cũng là người anh em yêu
quý! Nguyện xin Ðức Chúa cho con được trở về đây và cho mẹ được nhìn thấy con
cái của con khi mẹ còn sống, cũng như của Xa-ra, con gái của mẹ, trước khi mẹ
nhắm mắt! Trước mặt Ðức Chúa, mẹ gởi gắm con gái mẹ cho con. Suốt đời con, đừng
bao giờ làm cho nó phải buồn. Chúc con đi bình an! Từ nay, mẹ là mẹ con, và
Xa-ra là em gái con. Mong tất cả chúng ta được thành đạt như nhau, mọi ngày
trong suốt cuộc đời!" Bà hôn cả hai người và để họ phấn khởi ra đi.
14
Thế
là Tô-bi-a rời khỏi nhà ông Ra-gu-ên, ra đi phấn khởi, hân hoan; cậu chúc tụng
Chúa Tể trời đất, là Vua muôn loài, vì Người đã làm cho cuộc hành trình của cậu
thành công. Ông Ra-gu-ên nói với cậu: "Chúc con được phước thờ cha kính
mẹ, bao lâu các ngài còn sống!"
Chương 11
Chữa
mắt ông Tô-bít
1
Khi
họ gần tới Ca-xe-rin, đối diện với Ni-ni-vê, thiên sứ Ra-pha-en nói 2 "Em
biết chúng ta đã để cha em ở lại trong tình trạng nào. 3 Chúng ta
hãy chạy lên trước vợ em, chuẩn bị nhà cửa, trong lúc những người kia đang tới.”
4 Cả hai người cùng đi, và thiên sứ nói: "Hãy cầm mật cá trong
tay." Có con chó theo sau thiên sứ và Tô-bi-a.
5
Bà
An-na ngồi, ngó trước ngó sau con đường mà con bà đã đi.6 Thấy cậu đang đến, bà
bảo cha cậu: "Này con ông đang đến với người bạn đồng hành của nó!"
7
Thiên
sứ Ra-pha-en nói với Tô-bi-a trước khi cậu đến gần cha: "Tôi biết là mắt
cha em sẽ mở ra. 8 Hãy tra mật cá vào mắt ông. Thuốc sẽ làm cho các
sẹo trắng teo lại và bay ra khỏi mắt ông. Cha em sẽ thấy lại được, sẽ nhìn thấy
ánh sáng."
9
Bà
An-na chạy đến ôm choàng lấy cổ con và nói: "Con ơi, mẹ lại thấy con! Từ
nay, mẹ có chết cũng được!" Rồi bà khóc oà lên. 10 Ông Tô-bít
đứng lên, chân đi loạng quạng bước qua cửa sân mà ra. 11 Tô-bi-a đi
về phía ông, tay cầm mật cá; cậu thổi vào mắt ông. Cậu giữ chặt lấy ông và nói:
"Thưa cha, xin cha cứ tin tưởng!" Cậu bôi thuốc cho ông và để thuốc
ngấm. 12 Rồi cậu lấy hai tay bóc vẩy ra khỏi khoé mắt ông. 13 Ông
ôm choàng lấy cổ cậu, vừa khóc vừa nói: "Con ơi, cha đã thấy con! Con là
ánh sáng cho đôi mắt cha!” 14 Rồi ông nói:
"Chúc
tụng Thiên Chúa!
Chúc
tụng Danh cao trọng của Người.
Chúc
tụng mọi thiên sứ thánh thiện của Người!
Ước
gì Danh cao trọng của Người che chở chúng ta!
Chúc
tụng mọi thiên sứ đến muôn đời!
Vì
tôi đã bị Người đánh phạt,
nhưng
nay lại được thấy Tô-bi-a, con tôi!"
15
Tô-bi-a
hoan hỷ bước vào nhà, miệng vang lời chúc tụng Thiên Chúa. Tô-bi-a kể cho cha
cậu biết là cuộc hành trình của cậu đã thành công, cậu đã mang bạc về, đã cưới
vợ là cô Xa-ra, con gái ông Ra-gu-ên như thế nào, và hiện giờ cô sắp tới, đang
tiến gần đến cửa thành Ni-ni-vê.
16
Ông
Tô-bít ra tận cửa thành Ni-ni-vê đón con dâu, vừa hoan hỷ vừa chúc tụng Thiên
Chúa. Thấy ông đi đứng, di chuyển hoàn toàn vững mạnh mà không cần ai cầm tay
dẫn đi, dân trong thành Ni-ni-vê đầy kinh ngạc. Trước mặt họ, ông Tô-bít xưng
tụng Thiên Chúa đã xót thương và mở mắt cho ông. 17 Rồi ông Tô-bít
đến bên Xa-ra, vợ của Tô-bi-a, con ông, chúc lành cho cô và nói: "Này con,
chúc con mạnh khoẻ! Chúc tụng Thiên Chúa của con, Ðấng đã dẫn con đến với cha
mẹ, con ơi! Xin Chúa giáng phúc cho cha con, cho Tô-bi-a, con của cha, cũng như
cho chính con, hỡi con! Con ơi! Con hãy phấn khởi hân hoan bước vào nhà con
đây, và xin Chúa giáng phúc cho con!” 18 Ngày ấy là ngày vui cho mọi
người Do-thái ở Ni-ni-vê. 19 Hai ông A-khi-ca và Na-bát, cháu ông
Tô-bít, cũng vui mừng đến nhà thăm ông.
Chương 12
Thiên
sứ Ra-pha-en
1
Mãn
tiệc cưới, ông Tô-bít gọi Tô-bi-a, con ông, và nói: "Này con, con hãy lo
trả công cho người bạn đồng hành của con, và trả thêm cho người ấy."
Tô-bi-a nói: "Thưa cha, biết trả anh ấy bao nhiêu bây giờ? 2 Dù con có đưa
cho anh ấy phân nửa những gì anh ấy đã mang về với con, con cũng không bị
thiệt! 3 Anh ấy đã đưa con trở về mạnh khoẻ, chữa cho vợ con, đem bạc về với
con, và đã chữa cha lành bệnh. Con phải trả thêm cho anh ấy bao nhiêu nữa?” 4
Ông Tô-bít trả lời: "Này con, theo lẽ công bình, anh ấy được quyền
lấy phân nửa tất cả những gì anh ấy mang về.” 5 Vậy Tô-bi-a gọi
thiên sứ lại và nói: "Xin anh lấy một nửa tất cả những gì anh đã mang về,
làm tiền công của anh. Chúc anh lên đường mạnh khoẻ!"
6
Bấy
giờ, thiên sứ kín đáo gọi hai cha con lại và nói: "Hãy chúc tụng Thiên
Chúa và tuyên xưng Người trước toàn thể sinh linh, về những điều tốt lành Người
đã làm cho cha con ông. Hãy chúc tụng và ca ngợi danh Người! Những việc Thiên
Chúa đã làm, hãy long trọng tỏ cho mọi người biết. Ðừng ngần ngại xưng tụng
Người! 7 Giữ kín bí mật của vua là điều tốt đẹp; nhưng công trình của Thiên
Chúa, thì phải tỏ bày và long trọng xưng tụng. Hãy làm điều lành thì cha con
ông sẽ không gặp điều dữ.
8
"Cầu
nguyện kèm theo đời sống chân thật, bố thí đi đôi với đời sống công chính, thì
tốt hơn có của mà ở bất công; làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc.
9 Việc bố thí cứu cho khỏi chết và tẩy sạch mọi tội lỗi. Những người
làm phúc bố thí sẽ được sống lâu. 10 Những ai phạm tội ăn ở bất công
là kẻ thù của chính mình.
11
"Tôi
sẽ tỏ cho ông và con ông biết tất cả sự thật, không giấu giếm chi. Tôi đã tỏ
cho cha con ông biết rồi và đã nói: Giữ kín bí mật của vua là điều tốt đẹp,
nhưng công trình của Thiên Chúa thì phải bày tỏ để tôn vinh Người. 12 Hãy
biết rằng khi ông và cô Xa-ra cầu nguyện, chính tôi đã tiến dâng những lời cầu
nguyện đó lên trước nhan vinh hiển của Ðức Chúa, để xin Chúa nhớ đến hai người;
tôi cũng làm như vậy khi ông chôn cất người chết. 13 Và khi ông
không ngại trỗi dậy, bỏ dỡ bữa ăn để đi chôn cất người chết, bấy giờ tôi được
sai đến bên ông để thử thách ông. 14 Thiên Chúa cũng sai tôi chữa
lành cho ông và cô Xa-ra, con dâu ông. 15 Tôi đây là Ra-pha-en, một
trong bảy thiên sứ luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Ðức
Chúa."
16
Hai
cha con bàng hoàng sợ hãi, sấp mình xuống đất. 17 Thiên sứ nói:
"Ðừng sợ! Bình an cho các ngươi! Hãy chúc tụng Thiên Chúa đến muôn đời! 18
Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi không phải do lòng tốt của tôi, mà do ý muốn
của Thiên Chúa. Vậy ngày ngày các ngươi hãy chúc tụng Thiên Chúa, hãy ngợi khen
Người! 19 Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thực ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là
một thị kiến mà các ngươi thấy. 20 Giờ đây, hãy chúc tụng Ðức Chúa
nơi trần gian, hãy xưng tụng Thiên Chúa. Này tôi lên cùng Ðấng đã sai tôi. Hãy
viết ra mọi điều đã xảy đến cho cha con ông." Và thiên sứ lên trời. 21
Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa. 22 Thế
là họ chúc tụng và ngợi khen Thiên Chúa, xưng tụng Người vì những công trình
hùng vĩ của Người, là làm cho họ được thấy một thiên sứ của Thiên Chúa!
Chương 13
Xi-on
1
Và
ông Tô-bít nói:
2
"Chúc
tụng Thiên Chúa, Ðấng muôn đời hằng sống,
chúc
tụng vương triều Người.
Chính
Người đánh phạt rồi lại xót thương,
đẩy
xuống tận âm ty trong lòng đất sâu thẳm,
rồi
kéo ra khỏi đại hoạ tiêu vong,
chẳng
có chi thoát khỏi tay Người.
3
Con
cái nhà Ít-ra-en hỡi,
nào
xưng tụng Chúa trước mặt chư dân,
chính
Người đã phân tán anh em vào giữa họ,
4
tại
đó, Người đã cho anh em thấy:
Người
là Ðấng cao cả muôn trùng.
Trước
toàn thể sinh linh, nào hãy suy tôn Chúa!
Bởi
Người là Chúa Tể, là Thiên Chúa ta thờ,
là
Thân Phụ của ta, là Thiên Chúa đến muôn thuở muôn đời.
5
Người
đánh phạt vì anh em làm điều gian ác,
nhưng
rồi lại thương xót anh em hết thảy
mà
quy tụ anh em về từ giữa chư dân,
nơi
anh em đã bị phân tán.
6
Nếu
anh em hết lòng hết dạ trở về với Chúa
mà
sống theo sự thật trước tôn nhan Người,
thì
Người sẽ trở lại với anh em,
không
còn ngoảnh mặt làm ngơ nữa.
7
Vậy
giờ đây,
hãy
chiêm ngưỡng việc Chúa đã làm cho anh em
mà
lớn tiếng xưng tụng Người.
Hãy
chúc tụng Người, là Chúa công minh chính trực,
suy
tôn Người, là vua hiển trị thiên thu.
8
Phần
tôi, giữa cảnh lưu đày, xin xưng tụng Chúa
và
làm cho dân tội lỗi biết rằng:
Người
là Ðấng cao cả quyền năng.
Tội
nhân hỡi, mau quay đầu trở lại,
trước
Thánh Nhan, hãy ăn ở ngay lành.
Biết
đâu Người chẳng ưng chẳng nhận
mà
dủ thương xót phận anh em?
9
Tôi
suy tôn Thiên Chúa của tôi,
hồn
tôi suy tôn Người là Thượng Ðế,
hân
hoan reo mừng Người, Ðấng muôn trùng cao cả.
10
Tại
Giê-ru-sa-lem, mọi người hãy xưng tụng Chúa
Và
nói rằng: hỡi thành thánh Giê-ru-sa-lem,
Chúa
đánh phạt ngươi
vì
những việc con cái ngươi làm,
nhưng
rồi lại xót thương
con
cái người công chính.
11
Hãy
nhiệt liệt tung hô Ðức Chúa,
chúc
tụng Người là Vua hiển trị thiên thu,
để
Ðền Thánh được xây dựng lại nơi ngươi
trong
bầu khí vui mừng.
12
Ðể
nơi ngươi, qua muôn ngàn thế hệ,
Chúa
ban niềm hoan lạc cho những kẻ lưu đày,
và
yêu thương mọi người bất hạnh.
13
Một
ánh sáng rạng ngời
sẽ
chiếu soi khắp mười phương đất;
từ
viễn xứ, người trăm họ kéo đến với ngươi.
Và
dân cư tận chân trời góc biển
sẽ
tới hát mừng danh thánh Chúa,
tay
bưng lễ vật dâng tiến Vua Trời.
Muôn
thế hệ sẽ làm cho ngươi hoan hỷ,
và
tên ngươi, thành được Chúa chọn,
sẽ
lưu truyền hậu thế đến ngàn năm.
14
Khốn
thay mọi kẻ nói lời độc dịa,
khốn
thay tất cả những ai hạ nhục ngươi
và
phá đổ tường luỹ ngươi
cũng
như tất cả những người
làm
cho tháp canh ngươi xiêu đổ
và
đốt phá nhà cửa nơi ngươi!
Thật
hạnh phúc đến muôn đời
tất
cả những ai kính sợ ngươi!
15
Trong
ngày đó, ngươi sẽ hân hoan phấn khởi
mừng
đoàn con những người công chính,
vì
chúng sẽ được quy tụ về đó cả
và
sẽ chúc tụng Chúa hiển trị đến muôn đời.
Phúc
thay những kẻ mến thương ngươi
và
những kẻ mừng vì ngươi được thái bình thịnh vượng.
16
Phúc
thay tất cả những ai than khóc
vì
những tai hoạ giáng xuống trên ngươi
bởi
họ sẽ vui mừng
thấy
ngươi được hưởng niềm vui bất tận.
Hồn
tôi ơi, hãy chúc tụng Thiên Chúa, là Ðức Vua cao cả,
17
vì
Người sẽ xây dựng lại thành Giê-ru-sa-lem
cùng
với thánh điện vững bền mãi mãi.
Thật
phúc cho tôi, nếu trong dòng dõi tôi còn ai sống sót
để
nhìn thấy vinh quang của Giê-ru-sa-lem
và
xưng tụng Ðức Vua trên trời! . ..
Cửa
thành thánh Giê-ru-sa-lem
sẽ
làm bằng ngọc xanh, ngọc biếc,
mọi
bức tường, toàn đá quý xây lên.
Người
ta sẽ dùng vàng để xây tường thành Giê-ru-sa-lem,
lấy
vàng ròng đắp nên thành luỹ.
Ðường
phố Giê-ru-sa-lem sẽ lát đá Ô-phia và hồng ngọc.
18
Các
cửa thành Giê-ru-sa-lem vang tiếng ca hoan hỷ,
mọi
nhà sẽ cùng hát: "Ha-lê-lui-a!
Chúc
tụng Thiên Chúa là Ðấng Ít-ra-en tôn thờ!
Và
những ai được Chúa Trời giáng phúc
sẽ
chúc tụng Thánh Danh đến muôn thuở muôn đời."
Chương 14
1
Lời
xưng tụng của ông Tô-bít kết thúc ở đây.
Ni-ni-vê
2
Ông
Tô-bít chết bình an, thọ một trăm mười hai tuổi và được mai táng trọng thể tại
Ni-ni-vê. Ông bị mù vào năm sáu mươi hai tuổi; và sau khi được thấy lại, ông
sống dư dật và hay làm phước bố thí. Ông không ngừng chúc tụng Thiên Chúa và
tuyên xưng Người là Ðấng cao cả. 3 Trước khi nhắm mắt, ông gọi
Tô-bi-a con ông lại và trối: "Con ơi! 4 Mau đem con cái đến Mê-đi, vì cha
tin rằng lời Thiên Chúa đã phán qua miệng ngôn sứ Na-khum, liên quan đến
Ni-ni-vê, sẽ ứng nghiệm: đó là mọi sự sẽ xảy ra và đổ xuống trên Át-sua và
Ni-ni-vê. Mọi lời sấm của các ngôn sứ Ít-ra-en đã được Thiên Chúa sai nói tiên
tri sẽ ứng nghiệm, không trừ một lời nào, và mọi sự sẽ xảy ra vào đúng thời
điểm. Ở ngay tại Mê-đi thì sẽ an toàn hơn ở Át-sua và Ba-by-lon. Thật vậy, cha
đây biết rõ và tin rằng tất cả những gì Thiên Chúa đã phán sẽ hoàn tất và ứng
nghiệm; không một điều nào trong các lời sấm sẽ bị bỏ qua:
Anh
em chúng ta đang sống nơi đất Ít-ra-en đều sẽ bị phân tán và lưu đày ra khỏi
miền đất tốt lành. Toàn đất Ít-ra-en sẽ thành hoang địa. Cho đến một ngày nào
đó, Sa-ma-ri và Giê-ru-sa-lem sẽ thành hoang địa, Ðền Thờ Thiên Chúa sẽ là nơi
sầu muộn và bị thiêu hủy. 5 Nhưng một lần nữa, Thiên Chúa sẽ lại
thương xót họ, đưa họ trở về đất Ít-ra-en. Họ sẽ kiến thiết lại Nhà Thiên Chúa
tuy không phải như lần đầu, trong khi đợi chờ thời gian tới hồi viên mãn. Lúc
đó, từ chốn lưu đày, họ sẽ đều trở về, và sẽ xây cất Giê-ru-sa-lem thật tráng
lệ, và trong thành, Nhà Thiên Chúa sẽ được xây dựng, như lời các ngôn sứ
Ít-ra-en đã tiên báo. 6 Mọi dân tộc trên toàn trái đất sẽ trở về với
Thiên Chúa, và thật sự kính sợ Người. Họ sẽ từ bỏ các ngẫu tượng đã từng lôi
kéo họ theo con đường lầm lạc dối gian. Với tấm lòng chính trực, họ sẽ chúc
tụng Thiên Chúa hằng hữu. 7 Tất cả con cái Ít-ra-en được cứu thoát
trong những ngày ấy và tưởng nhớ Thiên Chúa trong sự thật, đều sẽ tập hợp tiến
về Giê-ru-sa-lem. Họ sẽ vĩnh viễn an cư lạc nghiệp trên miền đất của tổ phụ
Áp-ra-ham mà người ta sẽ trao trả lại cho họ. Những ai thành tâm yêu mến Thiên
Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ; còn những kẻ làm điều tội lỗi và bất công sẽ khuất
dạng không còn trên mặt đất.
8-9
"Giờ đây, hỡi các con, cha trối lại cho các con những lời này: hãy phụng
thờ Thiên Chúa trong sự thật và làm đẹp lòng Người. Hãy truyền dạy con cái thực
thi công chính và làm việc bố thí, biết tưởng nhớ Thiên Chúa và chúc tụng danh
Người mọi lúc, trong sự thật, với hết sức mình.
"Và
giờ đây, con ơi, hãy ra khỏi Ni-ni-vê, đừng ở lại đây nữa. Ngày nào chôn cất mẹ
con bên cạnh cha rồi, con không nên trú ngụ thêm trên lãnh thổ này nữa. Bởi vì
nơi đây, cha thấy rất nhiều chuyện bất công, và người ta làm những việc xảo trá
gian tà mà không biết xấu hổ. 10 Này con, hãy xem những gì Na-đáp đã
làm cho ông A-khi-ca, người dưỡng dục nó. Nó đã chẳng bị nuốt sống vào lòng đất
đó sao? Thiên Chúa đã bắt nó đền tội nhãn tiền về sự bất kính của nó: A-khi-ca
ra đi về nơi ánh sáng, còn Na-đáp thì phải đi vào chốn tối tăm muôn đời vì đã
tìm cách giết chết ông A-khi-ca. Nhờ làm việc bố thí, ông A-khi-ca thoát khỏi
bẫy tử vong mà Na-đáp đã gài để giết ông, còn Na-đáp lại rơi vào cái bẫy tử
vong đã tiêu diệt nó. 11 Vậy giờ đây, các con ơi, hãy xem thành quả
của việc bố thí, thành quả của sự bất công: sự bất công giết chết. Này hơi thở
cha tàn rồi."
Người
ta đặt ông nằm trên giường; ông tắt thở và được mai táng trọng thể.
12
Khi
mẹ chết, ông Tô-bi-a chôn cất bà bên cạnh cha của ông. Sau đó ông cùng với vợ
đến xứ Mê-đi và cư ngụ tại Éc-ba-tan, gần nhà cha vợ là Ra-gu-ên, 13 ông
đối xử với cha mẹ vợ rất có hiếu và chôn cất hai ông bà tại Éc-ba-tan, xứ
Mê-đi. Ông hưởng gia tài, sự nghiệp của ông Ra-gu-ên cũng như của ông Tô-bít,
cha ông. 14 Ông chết vẻ vang, thọ một trăm mười bảy tuổi. 15 Trước
khi chết, ông được tin Ni-ni-vê bị huỷ diệt và thấy đoàn người Ni-ni-vê bị đem
đi đày qua xứ Mê-đi do lệnh A-khi-a-kha-rốt, vua xứ Mê-đi. Ông chúc tụng Thiên
Chúa về tất cả những gì Người đã làm cho con cái Ni-ni-vê và Át-sua. Trước khi
chết, ông vui sướng về số phận của Ni-ni-vê, và chúc tụng Ðức Chúa là Thiên
Chúa đến muôn thuở muôn đời.
Giu-đi-tha
Chương 01
I.
Cuộc Viễn Chinh Của Hô-Lô-Phéc-Nê
Na-bu-cô-đô-nô-xo
và Ắc-phắc-xát
1
Năm
thứ mười hai triều đại vua Na-bu-cô-đô-nô-xo cai trị người Át-sua ở Ni-ni-vê,
một thành phố lớn, là lúc vua Ắc-phắc-xát cai trị người Mê-đi ở Éc-ba-tan. 2
Ông Ắc-phắc-xát dùng loại đá đẽo rộng một thước rưỡi, dài ba thước xây
một thành luỹ chung quanh Éc-ba-tan. Ông làm tường thành cao ba mươi lăm thước
và dài hai mươi lăm thước. 3 Tại các cổng thành, ông cũng dựng các
tháp cao năm mươi thước đặt trên nền móng rộng ba mươi thước. 4 Ông
làm các cổng thành, mỗi cổng cao ba mươi lăm thước và rộng hai mươi thước để
các đạo quân hùng mạnh xuất trận và bộ binh diễu hành.
5
Trong
những ngày ấy, vua Na-bu-cô-đô-nô-xo giao chiến với vua Ắc-phắc-xát tại đồng
bằng rộng lớn, tức đồng bằng thuộc lãnh thổ Ra-gao. 6 Tất cả dân cư
miền núi, tất cả dân cư ở Êu-phơ-rát, Tích-ra, Hy-đát-pê và đồng bằng thuộc
quyền A-ri-ốc, vua người Ê-ly-mai đều về phe với ông. Cũng có rất nhiều sắc tộc
kéo đến tham chiến với con cái Khe-le-út.
7
Rồi
Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua nước Át-sua sai sứ giả đến với tất cả dân cư ở Ba-tư,
tất cả dân cư ở phương Tây, các dân cư ở Ki-li-ki-a, Ða-mát, Li-băng, An-ti-li-băng,
tất cả dân cư ở dọc theo bờ biển, 8 đến một số sắc tộc ở Các-men,
Ga-la-át, Ga-li-lê Thượng, đồng bằng rộng lớn Ét-rê-lon, 9 đến với
tất cả dân cư ở Sa-ma-ri và các thành thị của Sa-ma-ri, bên kia sông Gio-đan
cho tới Giê-ru-sa-lem, Ba-ta-nê, Khe-lút, Ca-đê, sông Ai-cập, Táp-nát, Ram-xết
và tất cả lãnh thổ Gô-sên, 10 cho tới bên kia Ta-ni, Mem-phít, đến
với tất cả dân cư Ai-cập cho tới biên giới Ê-thi-óp. 11 Nhưng tất cả
dân cư trên toàn cõi đất đều coi nhẹ mệnh lệnh của Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua nước
Át-sua; họ không đến tham chiến với ông vì họ không sợ ông, lại coi ông chẳng
ra gì. Họ đuổi các sứ giả của ông về tay không và còn sỉ nhục những người này
nữa. 12 Na-bu-cô-đô-nô-xo nổi trận lôi đình với tất cả các nước này.
Ông lấy ngai vàng và vương quốc của ông mà thề sẽ xử phạt tất cả miền
Ki-li-ki-a, Ða-mát, Xy-ri, ông sẽ dùng gươm tàn sát tất cả dân cư trên đất
Mô-áp, con cái Am-mon, tất cả xứ Giu-đê, tất cả mọi người ở Ai-cập, cho đến tận
biên giới hai biển.
Chiến
tranh chống Ắc-phắc-xát
13
Năm
thứ mười bảy, ông đem quân đi giao chiến với vua Ắc-phắc-xát. Ông chiến thắng
trong trận này: đẩy lui tất cả đạo quân, tất cả kỵ binh và chiến xa của
Ắc-phắc-xát. 14 Ông chiếm lãnh các thành trì của vua này và đến tận
Éc-ba-tan chiếm đoạt các tháp, cướp phá các đường phố và làm cho vẻ mỹ lệ của
thành ấy trở nên nhơ nhuốc. 15 Ông bắt được Ắc-phắc-xát tại miền núi
Ra-gao, dùng giáo đâm và làm cho tan xác.
16
Rồi
ông trở về với tất cả đám người ô hợp theo ông, một đoàn chiến binh nhiều vô
kể. Ông ở lại đó nghỉ ngơi; ông và đạo quân mở tiệc ăn mừng suốt một trăm hai
mươi ngày ròng rã.
Chương 02
Chiến
tranh ở phương Tây
1
Năm
thứ mười tám, ngày hai mươi hai tháng thứ nhất, có tiếng đồn trong triều đình
Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua nước Át-sua, là ông sắp trừng phạt toàn cõi đất như lời
ông nói. 2 Ông triệu tập tất cả triều thần, tất cả thân hào và tỏ
cho họ biết quyết định bí mật của ông. Chính miệng ông công bố đại hoạ cho toàn
cõi đất. 3 Họ quyết định tiêu diệt tất cả những ai không tuân hành
lệnh vua ban truyền.
4
Vậy
sau khi nghị quyết, Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua nước Át-sua cho vời Hô-lô-phéc-nê,
đại tướng chỉ huy quân đội và cũng là nhân vật thứ hai sau vua. Vua nói với ông:
5 "Ðại đế, chúa tể toàn cõi đất phán thế này: đây, ngươi hãy
lui ra, đem theo binh sĩ tinh nhuệ, chừng một trăm hai mươi ngàn bộ binh, một
số lớn chiến mã và mười hai ngàn kỵ binh. 6 Ngươi hãy đi chinh phạt
tất cả các xứ ở phương Tây, bởi vì chúng không chịu tuân theo mệnh lệnh của ta.
7 Hãy truyền cho chúng chuẩn bị đất và nước, vì ta đang phẫn nộ và sắp
đi đánh chúng; ta sẽ cho đạo quân của ta phủ lấp khắp mặt đất và tha hồ cướp
phá. 8 Người bị thương đầy trũng lấp khe; xác người chết tràn sông
ngập suối. 9 Ta sẽ đưa tù binh của chúng đến tận cùng cõi đất. 10
Vậy ngươi hãy đi chinh phục cho ta mọi lãnh thổ của chúng. Chúng sẽ đầu
hàng, và ngươi sẽ giam chúng lại cho ta chờ ngày ta trừng trị. 11 Còn
những kẻ bất tuân, đừng nhìn chúng mà thương hại, nhưng hãy đẩy chúng vào cuộc
thảm sát và cướp bóc trên toàn cõi đất ngươi chiếm được. 12 Vì ta
lấy mạng sống và vương quốc hùng mạnh của ta mà thề: những gì ta đã nói, ta sẽ
tự tay làm. 13 Phần ngươi, chớ vi phạm một điều nào trong các mệnh
lệnh của chúa tể ngươi, trái lại, phải chu toàn cho thấu đáo như ta đã chỉ thị
cho ngươi. Ngươi không được chậm trễ thi hành những điều ấy."
14
Hô-lô-phéc-nê
từ biệt chúa tể của ông; ông cho vời tất cả quan chức, tướng lãnh, sĩ quan quân
đội Át-sua. 15 Ông điểm danh số người được chọn để chiến đấu, như
chúa tể của ông đã truyền: chừng một trăm hai mươi ngàn người và mười hai ngàn
kỵ binh xạ thủ. 16 Ông sắp xếp họ thành đội ngũ tác chiến. 17 Sau
đó, ông dùng rất nhiều lạc đà, lừa và la để tải quân nhu, và mang theo vô số
chiên, bò, dê làm quân lương. 18 Người nào cũng được lãnh lương thực
dồi dào với rất nhiều vàng bạc xuất từ đền vua. 19 Ông cùng với tất
cả đạo quân xuất trận làm tiền phong cho Na-bu-cô-đô-nô-xo; ông cho chiến xa,
kỵ binh và bộ binh tinh nhuệ phủ lấp khắp mặt đất phía Tây. 20 Một
đám quân ô hợp cùng đi với chúng, nhiều như châu chấu, như cát trên mặt đất, vì
chúng quá đông, không sao đếm nổi.
Các
trạm nghỉ của đạo quân Hô-lô-phéc-nê
21
Chúng
đi khỏi Ni-ni-vê ba ngày đường thì tới được phía trước đồng bằng Béc-ti-lét; từ
Béc-ti-lét chúng tới đóng quân ở gần ngọn núi nằm về phía trái miền Ki-li-ki-a
Thượng. 22 Rồi từ đó, ông đem tất cả đạo quân gồm bộ binh, kỵ binh
và chiến xa, tiến lên miền núi. 23 Ông tàn phá Pút và Lút, cướp bóc
tất cả con cái Rát-xít và con cái Ít-ma-ên đang sống ở ven sa mạc phía nam từ
xứ người Khe-le-ôn. 24 Ông tiến dọc theo sông Êu-phơ-rát, băng qua
miền Mê-xô-pô-ta-mi-a và phá bình địa tất cả các thành nằm ở trên cao, dọc bờ
suối Áp-rô-na cho tới biển. 25 Ông chiếm các lãnh thổ thuộc xứ
Ki-li-ki-a và đánh tan tất cả những ai kháng cự; ông đi đến biên giới Gia-phét,
ở mạn nam, đối diện với xứ Ả-rập. 26 Ông bao vây toàn thể con cái
Ma-đi-an, đốt lều trại và cướp phá chuồng súc vật của họ. 27 Rồi ông
đi xuống phía đồng bằng Ða-mát vào mùa gặt lúa mì; ông đốt tất cả cánh đồng,
tiêu diệt bò dê chiên cừu, cướp bóc các thành thị, tàn phá các đồng ruộng và
dùng gươm tàn sát tất cả các thanh niên. 28 Sợ hãi và kinh hoàng ập
xuống trên toàn thể dân cư miền bờ biển là các dân ở Xi-đôn, Tia, trên các dân
cư ở Xua, ở Ô-ki-na và toàn thể dân cư ở Giam-ni-a. Các dân cư ở Át-đốt và ở
Át-cơ-lôn đều rất sợ hãi ông.
Chương 03
1
Họ
cử sứ giả đến gặp ông xin cầu hoà và nói: 2 "Này chúng tôi là
tôi tớ của đại đế Na-bu-cô-đô-nô-xo. Chúng tôi xin phủ phục trước mặt ngài; xin
ngài sử dụng chúng tôi như ý ngài muốn. 3 Kìa lều trại của chúng
tôi, tất cả cánh đồng lúa mì, bò bê, chiên cừu, tất cả chuồng súc vật trong lều
trại chúng tôi đều ở trước mặt ngài, xin ngài sử dụng như ý ngài muốn. 4 Này,
các thành thị của chúng tôi và dân cư trong thành đều là tôi tớ của ngài. Xin
ngài đến và đối xử với các thành ấy tuỳ theo tôn ý.” 5 Các người ấy
đến gặp Hô-lô-phéc-nê và trình với ông những lời lẽ trên.
6
Ông
và đạo quân đi xuống phía bờ biển. Ông cho canh phòng các thành ở trên cao và
tuyển mộ dân trong thành để trợ chiến. 7 Dân trong thành và tất cả
các miền phụ cận đội vòng hoa ra múa nhảy và đánh trống để nghênh đón ông. 8
Ông phá tất cả các điện thờ của họ, chặt các cột thờ, và được quyền diệt
tất cả các thần trên cõi đất, khiến mọi dân tộc chỉ thờ một mình
Na-bu-cô-đô-nô-xo, và mọi ngôn ngữ, mọi chi tộc phải kêu cầu Na-bu-cô-đô-nô-xo
như một vị thần.
9
Ông
Hô-lô-phéc-nê đến phía trước Ét-rê-lon, gần Ðô-tai-a, trước mặt dãy núi lớn xứ
Giu-đê. 10 Ông đóng quân ở giữa vùng Ghê-vai và thành
Xi-ky-thô-pô-li, rồi lưu lại đó một tháng trời để tập trung toàn bộ quân nhu
của đạo quân.
Chương 04
Giu-đê
náo động
1
Con
cái Ít-ra-en đang sống ở Giu-đê nghe biết tất cả những gì Hô-lô-phéc-nê, đại
tướng chỉ huy của Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua nước Át-sua, đã làm đối với các dân và
cách ông đã cướp bóc tất cả đền thờ của họ, rồi cho tiêu huỷ các đền thờ ấy như
thế nào. 2 Vì thế, khi nghe tin ông đến, họ sợ hãi, sợ hãi vô cùng
và lo lắng cho thành Giê-ru-sa-lem cũng như Ðền Thờ của Ðức Chúa là Thiên Chúa
của họ; 3 vì họ cũng vừa thoát cảnh lưu đày trở về và toàn dân cũng
mới được đoàn tụ ở Giu-đê; và các đồ thờ, bàn thờ và Ðền Thờ đều được thánh
hiến để tẩy sạch mọi ô uế. 4 Vì vậy, họ sai sứ giả đến khắp lãnh thổ
Sa-ma-ri, đến Cô-na, Bét Khô-rôn, Ben-ma-in, Giê-ri-khô, và đến Khô-ba,
Ai-xô-ra và thung lũng Sa-lem. 5 Họ chiếm trước tất cả các đỉnh núi
cao, xây tường đắp luỹ chung quanh làng mạc ở các nơi ấy và chuẩn bị lương thực
để đề phòng chiến tranh, vì đồng ruộng của họ vừa mới gặt hái xong. 6 Thượng
tế Giô-gia-kim bấy giờ đang ở Giê-ru-sa-lem, viết cho các dân cư ở Bai-ty-lu-a
và Bai-tô-mét-tha-im; thành này nằm trước mặt Ét-rê-lon, đối diện với đồng bằng
gần Ðô-tha-im. 7 Ông bảo họ trấn giữ các đường đèo lên núi, vì phải
qua các ngả đó mới vào được xứ Giu-đê; đàng khác cũng dễ chặn những ai tiến
lên, vì lối đi quá hẹp, chỉ đủ cho hai người thôi. 8 Con cái
Ít-ra-en làm theo lệnh của thượng tế Giô-gia-kim và của hội đồng kỳ mục toàn
dân Ít-ra-en đặt trụ sở tại Giê-ru-sa-lem.
Cầu
khẩn
9
Hết
mọi người nam trong dân Ít-ra-en đều tha thiết kêu lên cùng Thiên Chúa và sốt
sắng ăn chay. 10 Họ cùng với vợ con, súc vật, ngoại kiều, người làm
công và cả nô lệ mua được, tất cả đều mặc áo vải thô. 11 Hết mọi
người nam trong dân Ít-ra-en cùng với vợ con cư ngụ ở Giê-ru-sa-lem đều phủ
phục trước Ðền Thờ, rắc tro lên đầu, mặc áo vải thô ra trước nhan Ðức Chúa. 12
Họ trải vải thô lên cả bàn thờ. Họ đồng tâm khẩn khoản kêu lên cùng Thiên
Chúa Ít-ra-en, xin Người đừng để con họ bị cướp bóc, vợ họ bị bắt đi, các thành
trong phần gia nghiệp của họ bị tiêu huỷ, Ðền Thờ ra ô uế, bị nguyền rủa và trở
nên trò đùa cho dân ngoại. 13 Ðức Chúa lắng nghe tiếng họ kêu cầu và
đoái nhìn cơn khốn quẫn của họ. Dân chúng ăn chay nhiều ngày trong toàn xứ
Giu-đê và ở Giê-ru-sa-lem trước Ðền Thờ của Ðức Chúa toàn năng. 14 Thượng
tế Giô-gia-kim và tất cả những người phục vụ trước nhan Ðức Chúa, tức là các tư
tế và các thừa tác viên của Ðức Chúa, đều mặc áo vải thô, dâng lễ vật toàn
thiêu thường tiến, lễ vật khấn hứa và lễ vật tự nguyện của dân. 15 Họ
rắc tro lên mũ tế và hết sức kêu cầu cùng Ðức Chúa, xin Người thương thăm viếng
toàn thể nhà Ít-ra-en.
Chương 05
Hô-lô-phéc-nê
bàn kế hoạch giao chiến
1
Người
ta báo tin cho Hô-lô-phéc-nê, đại tướng chỉ huy quân đội Át-sua là con cái
Ít-ra-en đang chuẩn bị chiến tranh: họ đóng các cửa ải miền núi, xây tường đắp
luỹ trên tất cả các đỉnh núi cao và đặt chướng ngại vật ở đồng bằng. 2 Hô-lô-phéc-nê
đùng đùng nổi giận, ông triệu tập tất cả các vương hầu Mô-áp, các tướng lãnh
Am-mon và tất cả các tổng đốc miền bờ biển. 3 Ông nói với họ:
"Hỡi con cái Ca-na-an, giờ đây hãy nói cho ta hay: đám dân đang ở trên
miền núi là dân nào? Tên những thành chúng đang ở là gì? Ðạo quân chúng đông
bao nhiêu? Chúng hùng mạnh ở chỗ nào? Ai đứng đầu làm vua, chỉ huy binh lực
chúng? 4 Và tại sao chúng lại khinh thường không đến đón tiếp ta, như các dân
cư ở phía tây?"
5
A-khi-ô,
viên chỉ huy toàn thể con cái Am-mon, nói với ông: "Xin chủ tướng nghe lời
từ miệng tôi tớ ngài đây; tôi sẽ kể cho ngài sự thật về dân ấy, đám dân ở trên
miền núi đó, ở sát bên ngài. Không có lời dối trá nào phát ra từ miệng tôi tớ
ngài. 6 Dân này là dòng giống Can-đê. 7 Trước kia chúng
đã trú ngụ ở Mê-xô-pô-ta-mi-a, vì chúng không muốn theo các thần của cha ông
chúng ở đất Can-đê. 8 Chúng đã lìa bỏ đường lối của tổ tiên mà thờ
lạy Thiên Chúa trên trời, Thiên Chúa chúng đã biết. Vì thế chúng bị đuổi cho
khuất mắt các thần của chúng, phải chạy trốn sang Mê-xô-pô-ta-mi-a và trú ngụ ở
đó một thời gian dài. 9 Rồi Thiên Chúa của chúng truyền cho chúng
rời khỏi nơi trú ngụ mà đi tới đất Ca-na-an. Chúng định cư tại đây, được dư dật
vàng bạc và rất nhiều súc vật. 10 Nhưng vì nạn đói lan tràn khắp đất
Ca-na-an, nên chúng đi xuống Ai-cập và trú ngụ tại đó bao lâu còn kiếm được của
ăn. Ở đó chúng nên đông đúc, giống nòi chúng nhiều không đếm nổi. 11 Nhưng
vua Ai-cập đứng lên chống lại chúng, dùng biện pháp khôn khéo bắt phải lao động
cực nhọc, phải đúc gạch; vua hạ nhục và bắt chúng làm nô lệ. 12 Chúng
kêu lên cùng Thiên Chúa của chúng, nên Người đánh phạt khắp mặt đất Ai-cập,
giáng xuống những tai ương hết đường cứu chữa, khiến người Ai-cập phải đuổi
chúng đi cho khuất mắt. 13 Thiên Chúa làm cho Biển Ðỏ cạn khô trước
mắt chúng, 14 rồi dẫn đường cho chúng đến Xi-nai và Ca-đê Bác-nê-a.
Chúng đánh đuổi tất cả dân cư ở sa mạc, 15 định cư trong đất của
người E-mô-ri và dùng sức mạnh tiêu diệt tất cả người Khét-bôn. Vượt qua sông
Gio-đan, chúng chiếm tất cả miền núi làm gia nghiệp. 16 Chúng đánh
đuổi người Ca-na-an, người Pơ-rít-di, người Giơ-vút, người Si-khem, và tất cả
những người Ghia-ga-si cho khuất mắt. Rồi chúng định cư ở đó một thời gian lâu
dài. 17 Bao lâu chúng không phạm tội trước nhan Thiên Chúa của
chúng, thì chúng được hạnh phúc, vì Thiên Chúa, Ðấng ghét sự gian ác, luôn ở
với chúng. 18 Còn khi chúng xa lìa đường lối Người chỉ định, thì
chúng bị chiến tranh tiêu diệt, hết trận này đến trận khác, lại còn phải đày ải
nơi đất khách quê người. Ðền Thờ Thiên Chúa của chúng bị phá bình địa và thành
thị của chúng bị đối phương chiếm giữ. 19 Nhưng nay khi trở về với
Thiên Chúa của chúng, chúng đã thoát cảnh lưu lạc tha phương. Chúng chiếm lại
Giê-ru-sa-lem, nơi có Thánh Ðiện và định cư ở miền núi, vì nơi này còn hoang
vắng. 20 Vậy bây giờ, thưa tướng quân, thưa chủ tướng, giả như dân
ấy có lầm lỗi và đắc tội với Thiên Chúa của chúng, thì ta cứ để ý xem chúng có
thực sự làm gì nên cớ vấp ngã, lúc ấy ta hãy tiến lên và đánh chúng; 21 còn
nếu dân ấy không làm gì nên tội, thì xin chủ tướng bỏ qua, kẻo Ðức Chúa là
Thiên Chúa của chúng sẽ bảo vệ chúng và chúng ta sẽ nên trò cười cho bàn dân
thiên hạ."
22
A-khi-ô
vừa dứt lời, toàn dân đứng chung quanh lều đều phản kháng; các thân hào của
Hô-lô-phéc-nê, tất cả dân cư ở miền bờ biển và ở Mô-áp nói là phải đánh ông nhừ
tử. 23 Họ bảo: "Chúng ta sợ gì con cái Ít-ra-en. Này quả thực
đám dân ấy chẳng hùng chẳng mạnh để đối phó với một trận chiến cam go. 24 Vậy
giờ đây, thưa chủ tướng Hô-lô-phéc-nê, chúng ta hãy tiến lên và chúng sẽ trở
thành miếng mồi ngon cho toàn thể binh lực của ngài."
Chương 06
Ông
A-khi-ô bị nộp cho người Ít-ra-en
1
Khi
ngưng tiếng ồn ào của những người vây quanh hội nghị, Hô-lô-phéc-nê, đại tướng
chỉ huy quân đội Át-sua, liền nói với A-khi-ô và toàn thể con cái Mô-áp trước
mặt tất cả các dân ngoại bang: 2 "A-khi-ô, tên cầm đầu lính
đánh thuê cho Ép-ra-im, ngươi là ai mà dám nói tiên tri giữa chúng ta hôm nay?
Ngươi nói đừng giao chiến với nòi giống Ít-ra-en, vì Thiên Chúa của chúng sẽ
bảo vệ chúng? Ai là Thiên Chúa nếu không phải là Na-bu-cô-đô-nô-xo? Chính người
sẽ phái lực lượng của người tới tiêu diệt chúng khỏi mặt đất và Thiên Chúa của
chúng sẽ chẳng cứu chúng đâu. 3 Nhưng chúng ta, bầy tôi của
Na-bu-cô-đô-nô-xo, sẽ đánh chúng như đánh một người. Chúng sẽ không đương đầu
nổi với chiến mã hùng mạnh của chúng ta đâu. 4 Quả thật, chúng ta sẽ
thiêu huỷ chúng; núi đồi của chúng sẽ ngập chìm trong máu, thây ma nằm la liệt
khắp đồng bằng. Chân chúng không thể đứng vững trước mặt chúng ta, nhưng chúng
sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt. Ðó là lời của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, chúa tể toàn
cõi đất. Thật thế, một khi người đã phán thì không một lời nào của người lại vô
hiệu. 5 Còn ngươi, A-khi-ô, tên lính đánh thuê gốc người Am-mon,
ngươi đã thốt ra những lời ấy trong ngày tận số của ngươi; ngươi sẽ không nhìn
thấy mặt ta nữa, kể từ hôm nay cho đến khi ta trừng trị cái nòi giống đã ra
khỏi Ai-cập. 6 Gươm của binh sĩ ta, giáo của tôi tớ ta sẽ đâm thấu
sườn ngươi và ngươi sẽ ngã gục giữa đám thương binh của chúng khi ta trở về. 7
Các tôi tớ ta sẽ áp giải ngươi lên miền núi và bỏ ngươi lại một trong
những thành hẻo lánh. 8 Ngươi sẽ không chết trước khi cùng bị tiêu
diệt với chúng. 9 Nếu lòng ngươi còn hy vọng chúng không bị bắt, thì
ngươi đừng cúi gầm xuống như vậy! Ta đã nói thì không một lời nào của ta hoá ra
vô hiệu."
10
Hô-lô-phéc-nê
ra lệnh cho thuộc hạ đang đứng trực quanh lều của ông bắt giữ A-khi-ô, áp giải
đến Bai-ty-lu-a và trao nộp vào tay con cái Ít-ra-en. 11 Vậy thuộc
hạ của ông bắt giữ A-khi-ô, dẫn ông này ra khỏi trại đến cánh đồng; từ giữa
cánh đồng chúng đi lên phía núi, rồi đến các con suối ở bên dưới Bai-ty-lu-a. 12
Nhìn thấy chúng, dân quân trong thành liền cầm khí giới, ùa ra khỏi thành
-thành này nằm trên đỉnh núi-, còn tất cả binh lính bắn ná thì liệng đá xuống
để chặn đường chúng tiến lên. 13 Chúng trườn xuống khỏi núi, trói
A-khi-ô lại, quẳng xuống chân núi, rồi trở về với chủ mình.
14
Con
cái Ít-ra-en bỏ thành đi xuống, dừng lại bên A-khi-ô, cởi trói cho ông và đưa
ông đến Bai-ty-lu-a, rồi đem ông trình diện với các thủ lãnh trong thành 15 lúc
bấy giờ, là các ông Út-di-gia con ông Mi-kha, thuộc chi tộc Si-mê-ôn, Kháp-rít
con ông Gô-thô-ni-ên và Khác-mít con ông Man-ki-ên. 16 Các ông triệu
tập toàn thể kỳ mục trong thành. Tất cả thanh niên và phụ nữ cũng đều tới dự
đại hội. Các ông để A-khi-ô đứng giữa toàn dân; rồi ông Út-di-gia hỏi ông về
những việc đã xảy ra. 17 Ông trả lời cho họ biết những việc đã xảy
ra trong hội nghị của Hô-lô-phéc-nê, cùng tất cả những điều ông đã nói giữa các
thủ lãnh con cái Át-sua cũng như những lời Hô-lô-phéc-nê huênh hoang chống lại
nhà Ít-ra-en. 18 Nghe vậy, dân phủ phục xuống thờ lạy Thiên Chúa và
kêu cầu rằng: 19 "Lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa trên trời, xin
Chúa thấy cho: chúng thật là kiêu ngạo; xin thương xót giống nòi chúng con đang
phải nhục nhã, và hôm nay, xin đoái nhìn gương mặt những người đã được thánh
hiến cho Chúa.” 20 Rồi họ an ủi ông A-khi-ô và hết lời khen ngợi ông.
21 Sau đại hội, ông Út-di-gia đưa ông về nhà và mở tiệc khoản đãi
các kỳ mục. Suốt đêm ấy, họ kêu cầu xin Thiên Chúa Ít-ra-en cứu giúp.
Chương 07
II.
Vây Hãm Bai-Ty-Lu-A
Chinh
phạt Ít-ra-en
1
Hôm
sau, Hô-lô-phéc-nê ra lệnh cho tất cả binh lính và toàn thể dân đến trợ chiến
với ông phải rời trại đến sát Bai-ty-lu-a, chiếm trước các đường đèo đi lên núi
và giao chiến với con cái Ít-ra-en. 2 Hôm ấy, toàn thể đạo quân rời
trại. Ðạo quân chiến đấu gồm một trăm bảy mươi ngàn bộ binh, mười hai ngàn kỵ
binh, không kể quân nhu và đám người cùng đi bộ với chúng. Một đoàn người đông
vô kể. 3 Chúng đóng trại ở thung lũng gần Bai-ty-lu-a, phía có suối
nước; chúng rải quân theo chiều rộng từ Ðô-tha-im đến Ben-ba-im, theo chiều dài
từ Bai-ty-lu-a đến Ky-a-môn đối diện với Ét-rê-lon. 4 Thấy chúng
đông đảo như thế, con cái Ít-ra-en rất lo sợ. Họ bảo nhau: "Phen này chúng
sẽ quét sạch mặt đất. Chẳng núi, chẳng khe, chẳng đồi nào có thể chịu nổi sức
nặng của chúng.” 5 Mọi người đều cầm khí giới. Họ nổi lửa trên các
tháp và ở lại canh phòng suốt đêm ấy.
6
Sang
ngày thứ hai, Hô-lô-phéc-nê dẫn tất cả kỵ binh của ông ra giáp mặt với con cái
Ít-ra-en đang ở Bai-ty-lu-a. 7 Ông quan sát các đường tiến lên thành
của họ, dọ thám các suối nước và chiếm lấy, rồi đặt trạm lính canh, sau đó trở
về với dân của ông. 8 Tất cả các thủ lãnh con cái Ê-xau, các vị chỉ
huy dân Mô-áp và các tướng lãnh miền bờ biển đều đến với ông và nói: 9 "Xin
minh chủ nghe lời này để không một ai trong đạo quân của ngài bị thương vong. 10
Vì đám dân Ít-ra-en ấy chẳng tin vào giáo mác của chúng, nhưng lại cậy
vào đỉnh núi cao nơi chúng đang ở. Quả thật, leo lên các đỉnh núi đó không dễ
dàng gì.
11
"Vậy,
thưa minh chủ, xin đừng giao chiến với chúng theo đội ngũ, không một ai trong
dân quân của ngài sẽ gục ngã đâu. 12 Xin ngài cứ ở lại trong trại
với tất cả quân sĩ của ngài, án binh bất động; các tôi tớ ngài chỉ cần kiểm
soát các nguồn nước xuất phát từ chân núi, 13 bởi vì tất cả dân cư ở
Bai-ty-lu-a đều lấy nước từ đó. Chúng sẽ phải chết khát và sẽ trao nộp thành
của chúng. Còn chúng ta và dân quân của chúng ta sẽ lên các đỉnh núi kế cận.
Chúng ta sẽ lập tiền đồn trên các đỉnh núi ấy để không một ai thoát ra khỏi
thành. 14 Chúng và vợ con chúng sẽ chết dần chết mòn vì đói; trước
khi bị gươm đâm, chúng đã nằm phơi xác trên đường phố trước nhà chúng ở. 15
Như thế ngài sẽ bắt chúng phải đền tội ác chúng đã gây ra vì chúng đã nổi
loạn và không ra nghênh đón ngài để cầu hoà."
16
Lời
lẽ của họ làm vừa lòng Hô-lô-phéc-nê và các quan chức của ông. Ông ra lệnh thi
hành như lời họ nói. 17 Con cái Am-mon rời trại đi; năm ngàn người
trong số con cái Át-sua cùng đi với chúng. Chúng đóng quân ở dưới thung lũng,
chiếm các nơi có nước và các nguồn nước của con cái Ít-ra-en. 18 Con
cái Ê-xau và con cái Am-mon tiến lên và đóng quân ở trên núi đối diện với
Ðô-tha-im. Chúng cử một số người xuống phía nam và sang phía đông đối diện với
Éc-re-bên, gần Khút, trên bờ suối Mốc-mua. Số binh sĩ Át-sua còn lại đóng quân
ở đồng bằng và tràn ngập khắp mặt đất. Chúng dựng lều, đặt chỗ chứa quân nhu
thành một doanh trại dày đặc, đông đảo.
19
Con
cái Ít-ra-en kêu cầu cùng Ðức Chúa là Thiên Chúa của họ, vì tinh thần họ bạc
nhược và mọi kẻ thù vây hãm họ tứ phía, khiến họ không thể nào thoát khỏi vòng
vây. 20 Toàn thể đạo quân Át-sua gồm bộ binh, chiến xa và kỵ binh
vây hãm họ suốt ba mươi bốn ngày. Tất cả các vò đựng nước của dân cư ở
Bai-ty-lu-a vơi dần. 21 Các bể nước cạn sạch. Không có ngày nào họ
đủ nước uống cho đã khát, vì họ được phát cho uống có hạn chế. 22 Trẻ
con hao mòn, đàn bà và thanh niên kiệt sức vì khát; họ ngã gục ở ngoài đường
phố trong thành, ở các ngả đường ra cổng thành, chẳng còn chút sức lực nào nữa.
23
Toàn
dân gồm thanh niên, đàn bà con trẻ kéo nhau đến phản đối ông Út-di-gia và các
thủ lãnh trong thành. Họ lớn tiếng kêu la và nói trước mặt các kỳ mục: 24 "Xin
Thiên Chúa phân xử cho chúng tôi và các ông, vì các ông đã gây ra tội ác tày
trời cho chúng tôi là không cầu hoà với con cái Át-sua. 25 Vì thế,
giờ đây chẳng có ai đến cứu giúp chúng tôi. Trái lại, Thiên Chúa đã bán đứng
chúng tôi vào tay chúng, khiến chúng tôi phải phơi xác trước mặt chúng, phải
chết khát và bị tận diệt. 26 Vậy các ông hãy gọi ngay chúng lại và
trao nộp thành cho dân của Hô-lô-phéc-nê và cho toàn thể đạo quân của ông tha
hồ cướp phá. 27 Quả thật, thà bị chúng cướp bóc, thà phải làm nô lệ
mà bảo toàn được tính mạng và khỏi phải thấy tận mắt cảnh con lìa đời, vợ hấp
hối. 28 Chúng tôi xin thề nhân danh trời đất và Thiên Chúa chúng ta
là Ðức Chúa của cha ông chúng ta, Ðấng trừng phạt chúng ta tuỳ theo tội ác
chúng ta và lầm lỗi của cha ông chúng ta: các ông cứ thực hiện các điều ấy ngay
ngày hôm nay.” 29 Mọi người oà lên khóc giữa đại hội và lớn tiếng
kêu cầu cùng Ðức Chúa là Thiên Chúa.
30
Rồi
ông Út-di-gia nói với họ: "Này anh em, can đảm lên! Chúng ta hãy kiên nhẫn
cầm cự năm ngày nữa; trong thời gian ấy, Ðức Chúa, Thiên chúa chúng ta sẽ
ngoảnh mặt lại thương xót chúng ta, vì Người sẽ chẳng bỏ rơi chúng ta mãi mãi. 31
Nếu những ngày ấy trôi qua mà chẳng ai đến cứu giúp, tôi sẽ làm theo lời
anh em.” 32 Ông giải tán dân; ai nấy về trạm gác của mình. Họ đi đến
các tường thành và các tháp canh của thành; còn vợ con thì cho về nhà. Trong
thành, chẳng ai còn nhuệ khí.
Chương 08
III.
Bà Giu-Ði-Tha
Tiểu
sử bà Giu-đi-tha
1
Trong
những ngày ấy, bà Giu-đi-tha nghe biết những chuyện đó. Bà là con gái ông
Mơ-ra-ri; ông Mơ-ra-ri là con ông Ốc; ông Ốc là con ông Giô-xếp; ông Giô-xếp là
con ông Út-di-ên; ông Út-di-ên là con ông Khen-ki-gia; ông Khen-ki-gia là con
ông Kha-na-ni-a; ông Kha-na-ni-a là con ông Ghít-ôn; ông Ghít-ôn là con ông
Ra-pha-in; ông Ra-pha-in là con ông A-khi-túp; ông A-khi-túp là con ông Ê-li-a;
ông Ê-li-a là con ông Khen-ki-gia; ông Khen-ki-gia là con ông Ê-li-áp; ông
Ê-li-áp là con ông Nơ-than-ên; ông Nơ-than-ên là con ông Sơ-lu-mi-ên; ông
Sơ-lu-mi-ên là con ông Xa-ra-xa-đai; ông Xa-ra-xa-đai là con ông Ít-ra-en. 2
Chồng bà là ông Mơ-na-se, người cùng chi tộc và gia tộc của bà. Ông đã
chết vào mùa gặt lúa mạch. 3 Quả thật, khi ông đang trông coi những
người bó lúa ở ngoài đồng, thì bị trúng nắng và ngã bệnh liệt giường. Ông chết
ở Bai-ty-lu-a là thành của ông. Người ta chôn cất ông bên cạnh tổ tiên tại cánh
đồng nằm giữa Ðô-tha-im và Ba-la-môn. 4 Bà Giu-đi-tha ở goá đã được
ba năm bốn tháng. 5 Bà làm một căn phòng nhỏ trên sân thượng nhà bà;
bà mặc áo vải thô và áo goá phụ. 6 Bà ăn chay suốt thời gian ở goá,
trừ các ngày áp sa-bát và các ngày sa-bát, các ngày áp ngày mồng một và các
ngày mồng một, cũng như các ngày lễ ngày hội của nhà Ít-ra-en. 7 Dung
mạo bà xinh đẹp, dáng điệu thật duyên dáng. Hơn nữa, ông Mơ-na-se, chồng bà,
còn để lại cho bà vàng bạc, tôi tớ trai gái, súc vật và ruộng nương. Bà thừa
hưởng tất cả tài sản ấy. 8 Không một ai chê trách bà được điều gì,
vì bà rất kính sợ Thiên Chúa.
Bà
Giu-đi-tha và các kỳ mục
9
Bà
Giu-đi-tha nghe được những lời dân chúng ta thán chống lại vị thủ lãnh, vì tinh
thần họ đã ra bạc nhược bởi thiếu nước. Bà cũng được nghe tất cả những lời ông
Út-di-gia đã nói với họ và lời ông thề sẽ nộp thành cho quân Át-sua sau năm
ngày cầm cự. 10 Bà sai người nữ tỳ cai quản tất cả tài sản của bà đi
mời hai vị kỳ mục của thành là các ông Kháp-rít và Khác-mít. 11 Các
ông đến nhà bà. Bà nói với các ông:
"Thưa
các vị thủ lãnh của dân cư ở Bai-ty-lu-a, xin nghe tôi nói đây. Lời các vị nói
trước mặt dân hôm nay, cũng như lời các vị đã thề giữa Thiên Chúa và các vị đều
không phải. Các vị nói là sẽ trao nộp thành cho kẻ thù, nếu trong thời gian các
vị ấn định, Ðức Chúa không ngoảnh lại cứu giúp chúng ta. 12 Vậy các
vị là ai mà hôm nay giám thử thách Thiên Chúa và chiếm chỗ Thiên Chúa ở giữa
con cái loài người? 13 Và giờ đây, các vị thử thách Ðức Chúa toàn năng, nhưng
đến muôn đời các vị cũng chẳng hiểu được gì. 14 Quả thật, đối với
các vị, tâm khảm con người đã khôn dò, suy tưởng con người đã khôn thấu, thì
làm sao các vị có thể hiểu được Thiên Chúa, Ðấng làm nên mọi sự, làm sao hiểu
được tư tưởng và thấu suốt được dự tính của Người? Không, nhất định không, thưa
anh em, đừng chọc giận Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta. 15 Giả như
trong năm ngày ấy, Người không muốn cứu giúp chúng ta, thì vào những ngày Người
muốn, Người vẫn thừa sức bảo vệ chúng ta hoặc tiêu diệt chúng ta trước mặt kẻ
thù. 16 Còn các vị, đừng đòi hỏi Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, đảm
bảo những quyết định của Người, bởi vì Thiên Chúa đâu phải là phàm nhân mà có
thể bị đe doạ, đâu phải là con người mà chịu khuất phục. 17 Vì thế,
một khi chúng ta kiên nhẫn đợi chờ Người cứu độ và kêu cầu Người đến cứu giúp,
Người sẽ đoái nghe lời chúng ta, nếu điều ấy đẹp lòng Người.
18
"Thật
ra, trong các thế hệ của chúng ta, hay trong ngày hôm nay, không chi tộc hay
gia tộc nào, không thị trấn nào hay thành phố nào của chúng ta thấy xuất hiện
những kẻ thờ lạy các thần do tay người phàm làm ra, như đã xảy ra trước kia, 19
khiến cha ông chúng ta đã bị gươm đâm và cướp phá, nhiều người đã ngã gục
trước mặt quân thù. 20 Còn chúng ta, chúng ta không nhận biết một
thần nào khác ngoài Thiên Chúa; vì thế chúng ta hy vọng Người sẽ chẳng khinh
thường chúng ta hoặc bất cứ ai trong giống nòi chúng ta.
21
"Bởi
vậy, nếu chúng ta bị bắt thì toàn cõi Giu-đê cũng bị mất, Nơi Thánh sẽ bị cướp
phá. Thiên Chúa sẽ đòi chúng ta phải lấy máu mà đền vì đã để cho Nơi Thánh bị
xúc phạm. 22 Anh em chúng ta bị sát hại, xứ sở phải lưu đày, gia
nghiệp trở nên hoang tàn, trách nhiệm ấy Người sẽ trút lên đầu chúng ta giữa
các dân chúng ta phải làm nô lệ; chúng ta sẽ trở thành cớ vấp ngã và nên trò cười
cho những kẻ chinh phục chúng ta; 23 bởi vì cảnh nô lệ sẽ chẳng đưa
chúng ta tới chỗ vẻ vang, trái lại, Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta sẽ biến nó
thành nỗi tủi nhục. 24 Vậy giờ đây, thưa anh em, chúng ta hãy nêu
gương cho anh em chúng ta, vì sinh mạng của họ gắn liền với chúng ta; cả Nơi
Thánh, Ðền Thờ và bàn thờ cũng đều tuỳ thuộc vào chúng ta.
25
"Vì
những lý do đó, chúng ta hãy tạ ơn Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, Người đã thử
thách chúng ta cũng như đã thử thách cha ông chúng ta. 26 Các vị hãy
nhớ lại những điều Người đã làm cho ông Áp-ra-ham, những gì Người đã thử thách
ông I-xa-ác, những gì đã xảy ra cho ông Gia-cóp ở Mê-xô-pô-ta-mi-a thuộc xứ
Xy-ri, lúc ông đang chăn chiên cho ông La-ban là cậu của ông. 27 Ðức
Chúa không bắt chúng ta đi qua lửa như đã bắt các ông để thử lòng các ông và
Người cũng không trừng phạt chúng ta, nhưng đánh phạt những ai đến gần người,
để cảnh cáo."
28
Ông
Út-di-gia nói với bà: "Tất cả những điều bà nói là do thiện tâm mà ra;
không ai cưỡng được lời bà. 29 Vì không phải hôm nay bà mới tỏ rõ
tài khôn ngoan, nhưng ngay từ thời bà còn niên thiếu, toàn dân đã biết đến trí
thông minh của bà. Những điều bà nghĩ trong lòng là hay. 30 Thế
nhưng dân đang cực khổ vì khát, buộc chúng tôi phải làm như chúng tôi đã nói
với họ và phải thề điều chúng tôi không thể vi phạm. 31 Vậy giờ đây,
xin bà cầu nguyện cho chúng tôi, vì bà là một phụ nữ đạo hạnh, và Ðức Chúa sẽ
cho mưa rào đổ xuống đầy bể nước chúng tôi và chúng tôi sẽ không còn kiệt sức
nữa."
32
Ðoạn
bà Giu-đi-tha nói với họ: "Xin các vị nghe đây, tôi sẽ làm một việc, mà
việc này sẽ được truyền tụng cho con cháu thuộc giống nòi chúng ta, từ thế hệ
này đến thế hệ kia. 33 Ðêm nay, các vị đứng ở cổng thành; còn tôi,
tôi sẽ đi ra với người nữ tỳ. Và nội trong những ngày các vị đã nói là sẽ trao
nộp thành cho kẻ thù, Ðức Chúa sẽ dùng tôi mà viếng thăm Ít-ra-en. 34 Còn
các vị, đừng tìm cách dò xét công việc của tôi vì tôi sẽ chẳng nói cho các vị
biết, cho đến khi những việc tôi làm được hoàn tất.” 35 Ông
Út-di-gia và các thủ lãnh liền nói với bà: "Chúc bà ra đi bình an và xin
Ðức Chúa là Thiên Chúa hằng đi trước bà để báo oán kẻ thù của chúng ta!” 36
Rồi họ ra khỏi lều và đến vị trí của mình.
Chương 09
Lời
cầu nguyện của bà Giu-đi-tha
1
Bà
Giu-đi-tha sấp mặt xuống đất, rắc tro lên đầu, cởi áo vải thô đang mặc. Tại Ðền
Thờ của Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem, vào một buổi dâng hương ban chiều, bà
Giu-đi-tha lớn tiếng kêu cầu cùng Ðức Chúa. Bà nói:
2
"Lạy
Ðức Chúa, Thiên Chúa của cha con là Si-mê-ôn,
Ngài
đã trao gươm vào tay người để trừng trị lũ ngoại bang.
Chúng
cởi dây lưng người thiếu nữ,
làm
cho nàng nhơ nhuốc, lột trần ra cho nàng xấu hổ
và
cưỡng hiếp để làm nhục nàng.
Quả
thật, Ngài đã nói: "Không được phép làm điều ấy",
thế
mà chúng lại làm như vậy.
3
Vì
thế, Ngài đã để cho các thủ lãnh của chúng bị sát hại,
và
giường của chúng vấy máu,
nơi
đây chúng lừa người ta, nay chúng bị lừa lại;
Ngài
đánh phạt tên nô lệ cũng như người quyền thế,
đánh
phạt người quyền thế ngự trên ngai vàng.
4
Ngài
để cho vợ chúng bị bắt đi,
con
gái chúng phải lưu đày;
còn
tất cả chiến lợi phẩm, Ngài chia cho đoàn con yêu quý,
vì
họ nhiệt tâm nhiệt tình với Ngài;
máu
nhuốc nhơ của chúng làm họ kinh tởm,
nên
họ đã kêu cầu Ngài cứu giúp.
Lạy
Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con,
thân
con goá bụa, xin đoái thương nghe lời.
5
Quả
vậy, quá khứ, hiện tại và tương lai,
tất
cả đều do Ngài thực hiện.
Ðiều
xảy ra bây giờ cũng như sắp xảy ra,
Ngài
đều suy tính cả.
Ðiều
gì đã xảy ra, cũng do Ngài suy tính.
6
Ngài
muốn vật gì, vật ấy liền xuất hiện và thưa:
"Có
chúng con hiện diện!"
Quả
thật, mọi đường lối của Ngài đều có sẵn,
và
phán quyết của Ngài được tiên liệu hết.
7
Kìa
quân Át-sua, chúng đông vô kể,
chúng
kiêu ngạo vì có nhiều chiến mã, kỵ binh.
Chúng
vênh vang vì bộ binh hùng mạnh,
cậy
vào giáo, vào khiên, vào cung tên cũng như nỏ bắn đá.
Chúng
đâu nhận biết rằng
Ngài
là Ðức Chúa, Ðấng tiêu diệt mọi thứ chiến tranh.
8
Danh
Ngài là Ðức Chúa,
Ngài
sẽ dùng quyền năng đập tan sức mạnh của chúng,
sẽ
nổi trận lôi đình bẻ gãy dũng lực của chúng.
Quả
thật, chúng lăm le xâm phạm đến nơi thánh của Ngài,
làm
ô uế nơi Ngài ngự trị,
chốn
tôn vinh danh thánh của Ngài.
Chúng
dùng gươm chặt gãy góc cong của bàn thờ.
9
Xin
Ngài nhìn xem chúng ngạo mạn
mà
trút cơn thịnh nộ lên đầu chúng.
Xin
cho tay goá bụa này thêm mạnh mẽ
để
hoàn thành điều con suy tính.
10
Xin
cho môi miệng con biết dùng xảo ngôn hoa ngữ,
để
Ngài đánh đứa nô lệ cùng với tên thủ lãnh,
và
đánh tên thủ lãnh cùng với đứa tôi đòi.
Xin
Ngài dùng bàn tay nhi nữ
mà
bẻ gãy thói kiêu căng của chúng.
11
Vì
sức mạnh của Ngài không dựa vào số đông,
quyền
lực của Ngài chẳng ở nơi người mạnh thế.
Nhưng
Ngài là Thiên Chúa của kẻ khiêm nhu,
là
Ðấng cứu giúp người hèn mọn,
Ðấng
đỡ nâng kẻ cô thế, Ðấng bảo vệ người bị bỏ rơi,
Ðấng
Cứu Tinh của những ai thất vọng.
12
Vâng,
vâng, lạy Thiên Chúa của cha con,
Thiên
Chúa của dân Ít-ra-en, Chúa Tể trời đất,
Ðấng
sáng tạo sông ngòi biển khơi, Vua muôn loài thụ tạo,
xin
lắng nghe lời con khẩn cầu.
13
Xin
làm cho lời con nói và mưu chước của con
gây
thương tích và sát hại những kẻ mưu toan làm tội ác
chống
lại giao ước của Ngài, chống lại Nhà được thánh hiến
và
đỉnh núi Xi-on, cũng như Nhà của con cái Ngài.
14
Xin
làm cho mọi dân nước và chi tộc nhận biết rằng:
Ngài
là Thiên Chúa,
vị
Thiên Chúa nắm giữ mọi quyền năng và sức mạnh;
và
chẳng một ai khác, ngoại trừ Ngài,
có
thể phù hộ dòng giống Ít-ra-en."
Chương 10
IV.
Bà Giu-Ði-Tha Và Tướng Hô-Lô-Phéc-Nê
Bà
Giu-đi-tha đến trại tướng Hô-lô-phéc-nê
1
Vậy
sau khi dứt lời kêu cầu cùng Thiên Chúa Ít-ra-en và nói xong tất cả những lời
ấy, 2 bà Giu-đi-tha không phủ phục nữa; bà trỗi dậy, gọi người nữ tỳ
và đi xuống nhà, nơi bà thường ở trong các ngày sa-bát và ngày lễ. 3 Bà
cởi tấm áo vải thô đang mặc, trút bỏ áo bà goá, lấy nước tắm rửa, xức dầu thơm
hảo hạng, bới tóc chải đầu, trùm khăn lên, mặc áo sang trọng trước kia bà vẫn
mặc khi ông Mơ-na-se, chồng bà, còn sống. 4 Bà đi dép, mang kiềng,
đeo xuyến, nhẫn, bông tai và tất cả các đồ trang sức. Bà trang điểm rất lộng
lẫy đến nỗi bất cứ người đàn ông nào cũng phải đưa mắt nhìn bà. 5 Rồi
bà trao cho người nữ tỳ một bầu da đầy rượu, một vò dầu; bà chất đầy túi da:
nào là bột lúa mạch, nào là bánh vả khô, nào là bánh làm bằng bột nguyên chất.
Bà bọc tất cả các bình lại, rồi đặt lên vai người nữ tỳ.
6
Cả
hai đi ra phía cổng thành Bai-ty-lu-a. Họ thấy ông Út-di-gia và hai vị kỳ mục
của thành là Kháp-rít và Khác-mít đang đứng đó. 7 Khi thấy diện mạo
bà biến đổi và y phục ra khác, họ rất sửng sốt vì sắc đẹp của bà nên nói với bà:
8 "Xin Thiên Chúa của cha ông chúng ta ban ơn giúp sức cho bà,
xin Người hoàn thành công việc bà sắp thực hiện cho con cái Ít-ra-en được hiển
vinh và cho Giê-ru-sa-lem được ca tụng."
9
Bà
Giu-đi-tha phục lạy Thiên Chúa, và nói với họ: "Xin các ông ra lệnh mở
cổng thành cho tôi. Và tôi sẽ đi ra để hoàn tất những điều các ông vừa nói với
tôi." Thế rồi họ truyền cho các thanh niên mở cổng cho bà như bà yêu cầu. 10
Các thanh niên đã làm y như thế. Bà Giu-đi-tha và người nữ tỳ cùng đi ra.
Dân quân trong thành cứ nhìn theo đang lúc bà từ núi đi xuống, mãi cho đến khi
bà băng qua thung lũng; và họ chẳng còn thấy bà nữa.
11
Bà
Giu-đi-tha và người nữ tỳ đi thẳng vào thung lũng. Lính gác tiền đồn của quân
Át-sua bắt gặp bà. 12 Chúng giữ bà lại và hỏi: "Bà thuộc dân
nào? Từ đâu đến? Ði đâu?" Bà trả lời: "Tôi là một người phụ nữ
Híp-ri; tôi bỏ họ mà trốn, vì họ sắp bị trao nộp làm miếng mồi ngon cho các ông.
13 Còn tôi, tôi đến gặp tướng Hô-lô-phéc-nê, vị chỉ huy quân đội các
ông, để đưa những tin chính xác. Tôi sẽ chỉ cho tướng quân phải tiến theo con
đường nào để bá chủ toàn miền núi mà không một người lính nào bị thiệt mạng!” 14
Bọn lính nghe bà nói, cứ nhìn chằm chằm vào mặt bà, vì trước mặt chúng,
bà thực là một trang tuyệt thế giai nhân. Chúng nói với bà: 15 "Bà
đã cứu được mạng mình rồi đấy, vì đã vội vàng xuống gặp chủ tướng chúng tôi.
Vậy giờ đây, bà hãy đến lều của ông; một số người trong bọn chúng tôi sẽ hộ
tống bà, cho tới khi giao bà trực tiếp cho ông. 16 Khi đứng trước
mặt ông, bà đừng hồi hộp sợ hãi, nhưng hãy báo cho ông những điều bà vừa nói.
Và ông sẽ đối xử tử tế với bà.” 17 Vậy chúng tuyển một trăm quân đi
hộ vệ bà và người nữ tỳ; chúng dẫn hai người tới lều của tướng Hô-lô-phéc-nê.
18
Từ
khắp nơi trong doanh trại, người ta ùn ùn kéo nhau đến, vì tin bà Giu-đi-tha
xuất hiện đã lan ra tới tận các lều; người ta đến vây quanh lấy bà, đang lúc bà
đứng bên ngoài lều của tướng Hô-lô-phéc-nê, chờ người ta báo tin cho ông biết
là bà đã đến. 19 Chúng sửng sốt vì sắc đẹp của bà; và cũng vì bà,
chúng thán phục luôn con cái Ít-ra-en. Chúng bảo nhau: "Ai dám khinh
thường dân ấy, một dân có những phụ nữ xinh đẹp như thế? Nếu còn để một tên đàn
ông nào của chúng sống sót thì chẳng hay gì, vì những tên ấy có thể đánh lừa cả
thiên hạ."
20
Các
cận vệ của tướng Hô-lô-phéc-nê cũng như tất cả các võ quan của ông ra dẫn bà
vào trong lều. 21 Tướng Hô-lô-phéc-nê đang nằm nghỉ trên giường có
giăng màn may bằng vải điều dát vàng, bích ngọc và đá quý. 22 Người
ta báo tin cho ông biết là bà Giu-đi-tha đã đến; ông ra tận cửa lều, có những
người cầm đèn bằng bạc đi trước. 23 Khi bà Giu-đi-tha đến trước mặt
ông và các võ quan của ông, thì tất cả mọi người đều sửng sốt vì nhan sắc của
bà. Bà sấp mình xuống đất phủ phục trước mặt ông, nhưng thuộc hạ của ông nâng
bà dậy.
Chương 11
Hội
ngộ lần đầu giữa bà Giu-đi-tha và tướng Hô-lô-phéc-nê
1
Tướng
Hô-lô-phéc-nê nói với bà Giu-đi-tha: "Này bà, cứ yên tâm, đừng hồi hộp sợ
hãi, vì chưa bao giờ ta làm hại ai đã ưng phục vụ vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua
toàn cõi đất. 2 Ngay cả bây giờ, giả như dân tộc của bà đang ở trên
núi kia đừng có khinh thường ta, thì ta cũng chẳng cầm giáo đánh chúng, chính
chúng đã muốn rước hoạ vào thân. 3 Và giờ đây bà hãy nói cho ta biết
tại sao bà đã lén bỏ chúng trốn đi mà đến với ta. Quả thật bà đến đây là thoát
nạn rồi! Cứ yên tâm! Bà sẽ sống đêm nay và nhiều đêm khác nữa. 4 Thật
thế, sẽ chẳng ai làm hại bà, mà ngược lại người ta sẽ đối xử tử tế với bà, như
vẫn thường đối xử với các tôi tớ của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, chúa tể của
ta."
5
Bà
Giu-đi-tha nói với ông: "Xin ngài nghe nữ tỳ ngài nói; xin cho phép tôi tớ
đây được hầu chuyện ngài. Ðêm nay nữ tỳ ngài sẽ không dám nói lời thất thiệt
với chủ tướng. 6 Và nếu ngài làm điều nữ tỳ ngài nói, thì Thiên Chúa
sẽ đưa các hành động của ngài đến chỗ thành công, và chúa tể tôi sẽ không phải
luống công về các điều người toan tính. 7 Quả thật, nhân danh mạng
sống của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua toàn cõi đất, và nhân danh vương quốc hùng
mạnh của vua, chính vua đã sai ngài đi sửa dạy trăm họ, nữ tỳ xin thề rằng: nhờ
ngài, không những thiên hạ được làm tôi vua, mà cả dã thú, súc vật, chim trời
cũng đều nhờ sức mạnh của ngài mà được sống dưới quyền vua Na-bu-cô-đô-nô-xo và
tất cả triều đình của vua.
8
"Thật
thế, chúng tôi đã nghe biết ngài là người tài trí mưu lược: khắp cõi đất người
ta loan truyền rằng trong toàn vương quốc, ngài là người hoàn hảo độc nhất vô
nhị, kiến thức uyên bác, tài thao lược tuyệt vời. 9 Hơn nữa, những
gì A-khi-ô đã nói trong hội nghị của ngài, chúng tôi đều nghe biết cả, bởi vì
dân quân thành Bai-ty-lu-a đã cứu sống ông ta và ông ta đã tường thuật cho họ
tất cả những điều ông ta đã nói lúc còn ở với ngài. 10 Vì thế, thưa
tướng quân, thưa chủ tướng, xin ngài đừng bỏ qua lời ông ta nói, mà trái lại
xin hãy lưu tâm, bởi vì đó là sự thật! Quả vậy, nòi giống chúng tôi sẽ không bị
trừng phạt, không bị gươm đao khuất phục, nếu họ không đắc tội với Thiên Chúa
của họ. 11 Vậy giờ đây tôi xin nói để chủ tướng khỏi mất công vô ích
là cái chết sẽ giáng xuống trên họ nhãn tiền, vì tội lỗi đang vây hãm họ, bởi
họ chọc giận Thiên Chúa của họ, mỗi khi vi phạm điều không được phép. 12 Quả
thật, một khi thiếu thực phẩm, khan hiếm nước, thì họ muốn giết súc vật của họ
và tất cả những gì Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ không được ăn, như đã ghi trong
Lề Luật. 13 Cả những lúa mì dâng làm của lễ đầu mùa, cả rượu và dầu
nộp thuế thập phân -những thứ này được thánh hiến và dành riêng cho các tư tế
là những người phục vụ trước nhan Thiên Chúa của chúng tôi ở Giê-ru-sa-lem-, họ
đã quyết định dùng hết những thứ mà không một thường dân nào được phép đụng tay
tới. 14 Họ cử người lên Giê-ru-sa-lem -vì thật ra dân cư ở đó cũng
phải làm như vậy- để xin hội đồng kỳ mục cho phép dùng và mang về cho dân. 15
Vậy ngày nào phép đó được công bố và thi hành, thì chính ngày ấy họ sẽ bị
nộp cho ngài tiêu diệt.
16
"Vì
thế, chính nữ tỳ của ngài đây, khi biết rõ sự thể, đã lén bỏ họ mà trốn thoát.
Thiên Chúa sai tôi đến để cùng với ngài thực hiện những việc mà trên toàn cõi
đất, bất cứ ai nghe nói cũng phải rụng rời tay chân. 17 Nữ tỳ của
ngài đây là người sùng đạo, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa trên trời. Và giờ
đây, thưa chủ tướng, tôi xin ở lại bên ngài; và đêm đêm, xin cho phép nữ tỳ
ngài được ra bờ khe để cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Người sẽ cho tôi biết khi
nào họ phạm tội. 18 Bấy giờ tôi sẽ trở lại báo cho ngài; ngài sẽ
xuất trận cùng với toàn thể đạo quân và không một người nào trong họ có thể
chống nổi ngài. 19 Tôi sẽ hướng dẫn ngài đi khắp xứ Giu-đê cho tới
khi đến thành Giê-ru-sa-lem. Tôi sẽ đưa chiến xa của ngài vào giữa thành. Họ
như đàn chiên không người chăn dắt, nhưng chính ngài sẽ chăn dắt họ. Sẽ không
có một con chó nào dám sủa trước mặt ngài. Vì tất cả những điều ấy, tôi đã được
linh tính báo cho biết và tôi được sai đến thuật lại cho ngài."
20
Lời
lẽ của bà Giu-đi-tha làm vừa lòng tướng Hô-lô-phéc-nê và các võ quan của ông.
Chúng thán phục trí khôn ngoan của bà và nói: 21 "Từ chân trời
này đến chân trời kia trên khắp cùng cõi đất, chưa hề thấy một phụ nữ nào dung
nhan kiều diễm, ngôn từ sắc sảo như thế!” 22 Bấy giờ tướng
Hô-lô-phéc-nê nói với bà: "Thiên Chúa hành động thật chí lý khi sai bà đi
trước dân bà, để chúng ta nắm được thế mạnh, còn những kẻ khinh miệt chúa tể
của tôi phải diệt vong. 23 Phần bà, trông bà duyên dáng quá, lời bà
nói dịu dàng biết bao. Quả thật, nếu bà làm được như bà nói, thì Thiên Chúa của
bà sẽ là Thiên Chúa của tôi. Bà sẽ ở trong cung điện vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, bà
sẽ lừng danh trên toàn cõi đất."
Chương 12
1
Ông
ra lệnh đưa bà vào gian phòng trưng bày các đồ bằng bạc của ông, và truyền thết
bà món ăn riêng của ông, lại mời bà uống thứ rượu dành riêng cho ông. 2 Nhưng
bà Giu-đi-tha nói: "Tôi sẽ không dùng những thức ăn ấy để khỏi lỗi luật;
những thứ tôi mang theo đây cũng đủ rồi.” 3 Tướng Hô-lô-phéc-nê nói
với bà: "Nhỡ hết lương thực bà mang theo, thì chúng tôi kiếm đâu ra những
thứ như thế để cung cấp cho bà? Vì chẳng có ai thuộc nòi giống bà đang ở với
chúng tôi.” 4 Bà Giu-đi-tha nói với ông: "Thưa chủ tướng, tôi
xin lấy mạng sống ngài mà thề: nô tỳ ngài đây chưa dùng hết lương thực mang
theo, thì Ðức Chúa đã dùng bàn tay này mà thực hiện điều Người đã định!” 5
Sau đó, các thuộc hạ của tướng Hô-lô-phéc-nê đưa bà vào lều. Bà ngủ cho tới
nửa đêm và đến gần sáng thì thức dậy. 6 Bà sai người đến thưa với
tướng Hô-lô-phéc-nê rằng: "Xin chủ tướng ra lệnh để cho nô tỳ ngài được đi
cầu nguyện.” 7 Tướng Hô-lô-phéc-nê ra lệnh cho các cận vệ không được
ngăn trở bà. Bà ở trong doanh trại đã được ba ngày. Ban đêm bà ra bờ khe
Bai-ty-lu-a, trầm mình trong suối nước thuộc doanh trại. 8 Khi lên
bờ, bà cầu nguyện cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, xin Người hướng dẫn bà đi
đúng đường lối để con cái dân Người được hồi phục. 9 Thanh sạch rồi,
bà trở về và ở lại trong lều cho tới khi người ta mang bữa ăn chiều đến.
Bà
Giu-đi-tha dự tiệc với tướng Hô-lô-phéc-nê
10
Ðến
ngày thứ tư, tướng Hô-lô-phéc-nê mở tiệc khoản đãi riêng các thân hữu, nhưng
không mời một ai trong số các võ quan. 11 Ông nói với hoạn quan
Ba-gô-át, người trông coi tất cả tài của ông: "Ngươi hãy đi thuyết phục cô
gái Híp-ri đang ở lều ngươi, đến đây ăn uống với chúng ta. 12 Này,
thật là bẽ mặt, nếu chúng ta để người đàn bà xinh đẹp như thế ra đi mà chẳng ân
ái với nàng; nếu ta không dụ dỗ được nàng, nàng sẽ chê cười chúng ta.” 13 Ông
Ba-gô-át ra khỏi lều tướng Hô-lô-phéc-nê, đến gặp bà Giu-đi-tha và nói:
"Nữ tỳ xinh đẹp kia ơi, đừng ngại đến gặp chủ tướng của tôi để được ông
trọng đãi, để được cùng chúng tôi hân hoan uống rượu, và để ngày hôm nay cô
nương trở thành một trong số phụ nữ Át-sua được vào ở trong cung điện vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo.” 14 Bà Giu-đi-tha trả lời: "Tôi là ai mà dám
cưỡng lại chủ tướng? Bất cứ điều gì người lấy làm ưa thích, tôi xin mau mắn thi
hành; đó cũng là niềm vui của tôi cho đến ngày tôi nhắm mắt."
15
Bà
trỗi dậy, trang điểm, sửa soạn xiêm y, đeo tất cả đồ trang sức. Người nữ tỳ đi
trước, trải xuống đất, trước mặt tướng Hô-lô-phéc-nê, những tấm thảm lông chiên
ông Ba-gô-át đã trao cho bà; hằng ngày bà vẫn trải những tấm thảm ấy ra khi
dùng bữa. 16 Bà Giu-đi-tha đi vào và sấp mình phục lạy. Trái tim
tướng Hô-lô-phéc-nê rung động vì bà; tâm hồn ngất ngây, ông thèm khát được
chung chăn gối với bà; từ ngày trông thấy bà, ông những tìm dịp quyến rũ bà. 17
Tướng Hô-lô-phéc-nê nói với bà: "Uống đi em! Ta cùng vui đi nào!” 18
Bà Giu-đi-tha liền nói: "Thiếp xin uống hầu chủ tướng. Quả thật đối
với thiếp, từ lúc chào đời cho đến hôm nay, chưa bao giờ thiếp được vẻ vang như
thế này.” 19 Rồi bà cầm lấy những của ăn thức uống người nữ tỳ đã
dọn sẵn mà ăn uống trước mặt tướng Hô-lô-phéc-nê. 20 Ông đắm đuối vì
bà nên uống rất nhiều rượu; có lẽ suốt cả đời, chưa ngày nào ông uống nhiều như
vậy.
Chương 13
1
Trời
đã về khuya, các thuộc hạ của tướng Hô-lô-phéc-nê vội vàng lui gót. Từ bên ngoài,
ông Ba-gô-át đóng cửa lều lại, và đuổi khéo những người còn túc trực bên chủ
tướng. Chúng đi ngủ. Tất cả đều mệt lả vì quá chén. 2 Chỉ còn một
mình bà Giu-đi-tha ở lại trong lều, và tướng Hô-lô-phéc-nê nằm sóng sượt trên
giường vì say khướt. 3 Bà Giu-đi-tha đã dặn người nữ tỳ đứng ngoài
phòng ngủ của bà phải canh chừng cẩn thận lúc bà đi ra ngoài như mọi khi, vì bà
nói là sẽ đi ra ngoài cầu nguyện. Bà cũng nói với ông Ba-gô-át như thế.
4
Sau
khi mọi người từ lớn chí bé đã rời khỏi lều của tướng Hô-lô-phéc-nê, không còn
ai ở lại trong phòng ngủ nữa, thì bà Giu-đi-tha đứng bên cạnh giường của ông,
thầm nghĩ trong lòng rằng:
"Lạy
Ðức Chúa là Thiên Chúa các đạo binh.
Giờ
đây xin nhìn xem các việc tay con sắp làm
để
Giê-ru-sa-lem được tán dương ca tụng.
5
Vì
chính bây giờ là lúc
Ngài
củng cố phần gia nghiệp của Ngài,
và
thực hiện điều con đang dự tính,
để
đập tan quân thù nổi dậy chống chúng con."
6
Ðoạn
bà tiến đến phía đầu giường của tướng Hô-lô-phéc-nê, gỡ lấy thanh đại đao của
ông, 7 rồi lại gần giường, nắm lấy tóc ông. Bà nói: "Lạy Ðức
Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, giờ đây xin ban sức mạnh cho con!” 8 Bà
lấy hết sức bình sinh chém vào cổ ông hai nhát cho đầu lìa khỏi thân. 9 Rồi
bà lăn xác ông xuống đất, tháo mùng ra khỏi cọc. Một lát sau, bà đi ra và trao thủ
cấp tướng Hô-lô-phéc-nê cho người nữ tỳ. 10 Cô bỏ thủ cấp vào cái
túi da đựng thức ăn; rồi cả hai cùng đi ra như thói quen vẫn làm khi đi cầu
nguyện. Họ băng qua doanh trại, đi dọc theo khe, tiến lên núi Bai-ty-lu-a và
đến cổng thành.
Bà
Giu-đi-tha đem thủ cấp tướng Hô-lô-phéc-nê về Bai-ty-lu-a
11
Từ
đằng xa, bà Giu-đi-tha lên tiếng gọi những người canh cổng: "Mở cổng, mở
cổng mau! Thiên Chúa, Thiên Chúa chúng ta ở cùng chúng ta; Người vẫn còn biểu
dương sức mạnh của Người trong Ít-ra-en và thi thố quyền năng của Người chống
lại kẻ thù, như Người đã làm hôm nay!” 12 Vừa nghe tiếng bà, dân
quân trong thành vội vã chạy xuống cổng và đi mời các kỳ mục. 13 Tất
cả mọi người từ lớn chí bé ùn ùn kéo nhau đến, vì không ai ngờ rằng bà có thể
trở về, họ mở cổng, nghênh đón hai người: nhóm lửa cho sáng rồi đứng vây quanh.
14 Bà Giu-đi-tha nói với họ thật to: "Hãy ca ngợi Thiên Chúa!
Hãy ca ngợi Người, hãy ca ngợi Thiên Chúa! Người đã không rút lại lòng thương
xót của Người đối với nhà Ít-ra-en, nhưng đêm nay đã dùng tay tôi mà nghiền nát
kẻ thù của chúng ta.” 15 Rồi bà lôi cái thủ cấp ra khỏi túi da cho
họ thấy và nói: "Ðây là thủ cấp Hô-lô-phéc-nê, đại tướng chỉ huy quân đội
Át-sua, và đây là cái mùng ông ta đã nằm trong lúc say tuý luý. Ðức Chúa đã
dùng bàn tay nhi nữ mà hạ ông ta. 16 Thật vậy, có Ðức Chúa hằng
sống, Ðấng đã giữ gìn tôi trên đường tôi đi, tôi xin thề: "Nhan sắc tôi đã
quyến rũ ông ta, khiến ông ta phải mất mạng, mà chưa kịp phạm tội với tôi cho
tôi phải nhuốc nhơ và xấu hổ."
17
Toàn
dân hết sức kinh ngạc. Họ sấp mình thờ lạy Thiên Chúa và đồng thanh nói:
"Lạy Thiên Chúa chúng con, xin chúc tụng Ngài. Hôm nay Ngài huỷ diệt kẻ
thù của dân Ngài!” 18 Ông Út-di-gia nói với bà:
"Này
trang nữ kiệt, bà được Thiên Chúa Tối Cao ban phúc
hơn
tất cả các phụ nữ trên cõi đất này.
Chúc
tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa,
Ðấng
dựng nên trời đất;
Người
đã hướng dẫn bà chặt đầu tướng giặc!
19
Vì
cho đến muôn đời muôn thuở,
những
ai hằng nhớ đến sức mạnh của Thiên Chúa
sẽ
không lãng quên lòng trông cậy bà đặt nơi Người.
20
Nguyện
xin Thiên Chúa thực hiện cho bà những điều ấy
để
muôn đời bà được tán dương.
Xin
Người viếng thăm và ban cho bà muôn phúc lộc,
vì
bà đã không tiếc mạng sống mình
khi
nòi giống chúng ta lâm cảnh nhục nhã;
bà
đã cứu chúng ta thoát hoạ diệt vong
vì
bà đã sống ngay thẳng trước nhan Thiên Chúa."
Toàn
dân đáp lại: "A-men! A-men! "
Chương 14
V.
Chiến Thắng
Người
Do-thái vây hãm doanh trại quân Át-sua
1
Bà
Giu-đi-tha nói với dân thành Bai-ty-lu-a: "Thưa anh em, xin nghe tôi nói
đây. Anh em hãy đem thủ cấp này bêu lên lỗ châu mai trên tường thành của anh em.
2 Rồi khi bình minh vừa ló rạng và mặt trời xuất hiện trên mặt đất,
mỗi người trong anh em hãy cầm lấy vũ khí, tất cả các người cường tráng hãy ra
khỏi thành. Anh em hãy đặt một vị chỉ huy cai quản những người này và làm như
đi xuống cánh đồng tấn công tiền đồn con cái Át-sua; nhưng đừng có xuống! 3
Quân Át-sua cũng sẽ lấy toàn bộ binh giáp vũ khí, đi ra trạm gác, đánh thức các
tướng lãnh của mình, rồi ồ ạt tuốn đến lều Hô-lô-phéc-nê, nhưng không tìm thấy
ông ta. Nỗi kinh hoàng sẽ ập xuống trên chúng, nên chúng sẽ bỏ chạy, trốn thoát
anh em. 4 Bấy giờ anh em và toàn thể dân cư trên khắp lãnh thổ
Ít-ra-en sẽ đuổi theo và hạ sát chúng trên đường chúng tháo chạy.
5
"Nhưng
trước khi làm những việc ấy, anh em hãy gọi ông A-khi-ô người Am-mon đến đây
cho tôi, để ông thấy và nhận ra kẻ đã dám miệt thị nhà Ít-ra-en và sai ông đến
với chúng ta như đi vào chỗ chết.” 6 Vậy người ta gọi ông A-khi-ô
đang ở nhà ông Út-di-gia đến. Khi vừa tới nơi, ông thấy một người trong hội nghị
toàn dân đang cầm thủ cấp tướng Hô-lô-phéc-nê, ông liền sấp mặt xuống đất,
khiếp vía kinh hồn. 7 Nhưng người ta vực ông dậy, ông lại nằm vật
dưới chân bà Giu-đi-tha, phủ phục trước mặt bà và nói:
"Bà
đáng được chúc tụng trong mọi lều trại ở Giu-đa
và
trong tất cả các dân nước,
khi
nghe đến danh bà, ai cũng đều kinh hãi!
8
"Giờ
đây, xin bà thuật lại cho tôi những việc bà đã làm trong mấy ngày qua!" Bà
Giu-đi-tha đứng giữa dân chúng, kể lại cho ông tất cả những việc bà đã làm từ
ngày bà ra đi cho đến lúc bà đang nói với họ. 9 Bà vừa dứt lời, toàn
dân lớn tiếng hoan hô và reo mừng vang dậy khắp thành. 10 Khi thấy
tất cả những việc Thiên Chúa của Ít-ra-en đã làm, ông A-khi-ô vững tin vào
Thiên Chúa. Ông chịu phép cắt bì và được nhận vào nhà Ít-ra-en kể từ ngày ấy.
11
Bình
minh vừa ló rạng, người ta bêu đầu Hô-lô-phéc-nê ở tường thành; đàn ông
Ít-ra-en người nào cũng cầm khí giới, đi ra theo từng toán đến các đường đèo
lên núi. 12 Vừa thấy họ, con cái Át-sua liền phái người đến với các
vị chỉ huy. Những người này đến gặp các tướng, các người chỉ huy một ngàn quân
và tất cả các thủ lãnh của chúng. 13 Rồi chúng đến lều của tướng
Hô-lô-phéc-nê và nói với Ba-gô-át, người trông coi tất cả các tài sản của ông
ta: "Xin ông đánh thức chủ tướng, vì lũ nô lệ cả gan xuống phía chúng ta
gây chiến với chúng ta để chuốc lấy hoạ diệt vong.” 14 Ba-gô-át đi
vào, lay động bức rèm cửa lều, vì tưởng là tướng Hô-lô-phéc-nê đang ngủ với bà
Giu-đi-tha. 15 Nhưng không thấy động tĩnh gì, Ba-gô-át liền vén rèm
đi vào phòng ngủ và thấy ông ta đã chết, xác bị quăng ở cửa lều mà không có đầu.
16 Hắn kêu thất thanh, khóc lóc, rên la, tru tréo, xé áo mình ra. 17
Hắn bước vào lều bà Giu-đi-tha, nhưng chẳng thấy bà đâu. Hắn lao mình về
phía quân lính, kêu la ầm ĩ: 18 "Quân nô lệ xảo quyệt! Chỉ một
con mụ Híp-ri thôi đã mang ô nhục đến cho nhà vua Na-bu-cô-đô-nô-xo! Vì này
tướng Hô-lô-phéc-nê đang nằm dưới đất không còn đầu nữa.” 19 Vừa
nghe những lời ấy, các người đứng đầu quân đội Át-sua xé nhung phục ra, kinh
hồn bạt vía, kêu la, tru tréo ở giữa doanh trại.
Chương 15
1
Khi
vừa nghe biết chuyện mới xảy ra, những người còn ở trong lều trại đều thất kinh.
2 Sợ hãi và kinh hoàng ập xuống trên đầu chúng; không còn người nào
bên cạnh người nào, nhưng chúng nhất loạt chạy tứ tán, theo mọi ngả đường ở đồng
bằng cũng như trên miền núi. 3 Cả những quân đóng trên núi chung
quanh Bai-ty-lu-a cũng quay lưng chạy trốn. Bấy giờ con cái Ít-ra-en -những
người có khả năng chiến đấu- đều đổ xô đuổi theo chúng. 4 Ông
Út-di-gia phái người đến Bai-tô-mét-tha-im, Be-bai, Khô-bai, Cô-la và khắp lãnh
thổ Ít-ra-en báo tin về những sự việc đã xảy ra, để mọi người đổ xô đuổi theo
quân giặc mà tiêu diệt chúng. 5 Vừa nghe tin ấy, con cái Ít-ra-en,
mọi người đều nhất loạt xông ra đánh và tàn sát chúng, cho đến tận Khô-ba. Cả những
người từ Giê-ru-sa-lem và từ khắp miền núi cũng đến hỗ trợ, vì họ đã được báo
tin về những việc xảy ra trong doanh trại quân thù. Các người ở Ga-la-át và
Ga-li-lê giáng một đòn chí tử vào sườn quân địch, đuổi theo chúng cho tới
Ða-mát và đến tận lãnh thổ của chúng. 6 Còn những người khác ở
Bai-ty-lu-a thì tràn vào doanh trại quân Át-sua mà cướp phá; vì vậy họ trở nên
rất giàu. 7 Chém giết xong, con cái Ít-ra-en trở về, chiếm hữu tất
cả những gì còn lại. Dân ở các làng mạc, các lều trại miền núi hay đồng bằng
cũng chiếm được nhiều chiến lợi phẩm. Số chiến lợi phẩm chiếm được nhiều vô kể.
Tạ
ơn
8
Thượng
tế Giô-gia-kim và hội đồng kỳ mục con cái Ít-ra-en ở Giê-ru-sa-lem đến mục kích
những sự tốt lành Ðức Chúa đã làm cho dân Ít-ra-en, và diện kiến bà Giu-đi-tha
để chúc mừng. 9 Khi vào nhà bà, mọi người đồng thanh chúc tụng và
nói với bà:
"Bà
làm cho Giê-ru-sa-lem hãnh diện,
cho
Ít-ra-en vinh hiển,
cho
giống nòi chúng ta được vinh dự lớn lao.
10
Chính
tay bà làm nên những việc ấy
và
thực hiện những điều tốt lành cho nhà Ít-ra-en.
Thiên
Chúa hài lòng về những việc của bà.
Xin
Thiên Chúa toàn năng ban cho bà nhiều ơn phúc,
đến
muôn thuở muôn đời."
Mọi
người đáp: "A-men".
11
Toàn
dân cướp đoạt doanh trại suốt ba mươi ngày. Người ta tặng bà Giu-đi-tha cái lều
của tướng Hô-lô-phéc-nê, tất cả vật dụng bằng bạc, cùng với giường, chậu và mọi
thứ đồ đạc khác của ông ta. Bà nhận và chất tất cả lên lưng lừa. Bà cho thắng
các cỗ xe và chất hết lên đó. 12 Hết thảy phụ nữ Ít-ra-en đều chạy
ùa ra để nhìn xem bà; họ ca tụng bà, một số phụ nữ tổ chức múa nhảy để chúc
mừng. Bà Giu-đi-tha tay cầm chùm hoa sim, phân phát lá hoa cho các phụ nữ tháp
tùng bà. 13 Bà và các phụ nữ tháp tùng đội vòng hoa kết bằng cành
ô-liu; bà đi trước toàn dân, dẫn đầu đoàn phụ nữ múa nhảy. Tất cả đàn ông
Ít-ra-en mang vũ khí và đội vòng hoa đi sau, miệng hát thánh thi. 14 Bà
Giu-đi-tha đứng giữa con cái Ít-ra-en xướng lên bài ca tạ ơn và toàn dân hoạ
theo.
Chương 16
1
Bà
Giu-đi-tha cất tiếng nói:
"Hãy
ca ngợi Thiên Chúa của tôi, theo nhịp trống,
hát
lên mừng Người, rập tiếng chiêng,
trầm
bổng hoà vang thánh ca cùng thánh vịnh,
hãy
suy tôn và cầu khẩn danh Người.
2
Vì
Ðức Chúa là vị thần tiêu diệt chiến tranh,
Người
đặt doanh trại ngay giữa lòng dân thánh,
để
giải thoát tôi khỏi tay phường bách hại.
3
Quân
Át-sua đến từ núi rừng phương bắc,
kéo
nhau đến hàng vạn quân binh,
chúng
đông đảo làm tắt nghẽn khe suối,
chiến
mã chúng che lấp cả núi đồi.
4
Chúng
dự định đốt cháy quê hương tôi,
tuốt
lưỡi gươm hạ sát đoàn trai trẻ,
lũ
bé thơ, quẳng bừa dưới đất,
bọn
thiếu nhi, đem giết tha hồ,
còn
trinh nữ, bắt đem đi hết.
5
Nhưng
Ðức Chúa toàn năng đã dùng tay nhi nữ
khiến
chúng phải tháo lui.
6
Quả
thật người hùng của chúng,
thanh
niên không thắng nổi,
con
cái Ti-tan chẳng hạ được y,
người
khổng lồ cũng vô phương áp đảo.
Thế
mà Giu-đi-tha, con gái Mơ-ra-ri,
đã
dùng nhan sắc khiến y phải tê liệt.
7
Ðể
vực dậy nhà Ít-ra-en đang điêu đứng,
áo
goá phụ, bà trút bỏ đi,
dầu
ngát thơm điểm tô gương mặt,
8
dải
khăn xinh buộc gọn tóc trên đầu,
áo
lụa mịn làm y mê mẩn.
9
Dép
bà đi khiến y hoa mắt, nhan sắc bà giam hãm hồn y,
cổ
họng y, thanh đại đao xuyên thủng.
10
Quân
Ba-tư run rẩy khi thấy bà táo bạo,
dân
Mê-đi khiếp đảm vì bà quá can trường.
11
Bấy
giờ dân tôi đang khốn khổ
cất
tiếng hò la làm chúng phải thất kinh,
người
yếu nhược hô lên, khiến chúng hoảng hồn;
họ
cất tiếng, chúng quay lưng tháo chạy.
12
Lũ
trẻ thơ đã đâm giết chúng,
đả
thương chúng như những kẻ đào binh.
Chúng
phải tiêu vong vì Ðức Chúa của tôi đánh phạt.
13
Mừng
Chúa Tể tôi thờ, tôi hát bài ca mới:
Lạy
Chúa, Ngài vĩ đại vinh quang,
mạnh
mẽ lạ lùng, không ai thắng được.
14
Muôn
loài Ngài dựng lên phải phụng thờ Ngài,
vì
Ngài đã phán, chúng liền xuất hiện,
Ngài
gửi sinh khí tới, chúng được tác thành.
Tiếng
Ngài phán ra, nào ai chống nổi!
15
Núi
với biển có ầm ầm chuyển động,
đá
có chảy tan như sáp trước mặt Ngài,
thì
đối với những ai hằng kính sợ,
Ngài
vẫn tỏ lòng nhân hậu từ bi.
16
Quả
thật, hiến tế dâng lên Ngài,
hương
thơm có ngào ngạt,
cũng
chẳng đáng kể chi;
lễ
toàn thiêu với nhiều mỡ béo
càng
không đáng kể gì.
Còn
những ai kính sợ Ðức Chúa muôn đời vẫn lớn lao.
17
Khốn
thay dân tộc nào dám đứng lên chống lại giống nòi tôi!
Ðức
Chúa toàn năng sẽ trừng phạt chúng
trong
ngày Người xét xử.
Người
sẽ khiến lửa thiêu, khiến giòi bọ rúc rỉa thân xác chúng.
Chúng
sẽ phải than khóc và đau khổ muôn đời! "
18
Vừa
đến Giê-ru-sa-lem, cả đoàn người thờ lạy Thiên Chúa. Sau khi đã thanh tẩy, toàn
dân thượng tiến lễ toàn thiêu, lễ vật khấn hứa và tự nguyện. 19 Bà
Giu-đi-tha cũng tiến dâng mọi đồ đạc của tướng Hô-lô-phéc-nê mà dân đã tặng bà;
cả cái mùng đã lấy ở phòng ngủ của ông ta, bà cũng dâng làm lễ vật tru hiến
kính Thiên Chúa. 20 Dân chúng hân hoan mừng lễ ở Giê-ru-sa-lem trước
Nơi Thánh ròng rã ba tháng trời; bà Giu-đi-tha cũng ở lại với họ.
Tuổi
già và cái chết của bà Giu-đi-tha
21
Sau
những ngày đó, ai nấy trở về phần đất gia nghiệp của mình. Bà Giu-đi-tha trở
lại Bai-ty-lu-a và cư ngụ trong phần đất bà vẫn có. Ngay trong buổi sinh thời,
tiếng tăm bà đã lừng lẫy khắp nơi. 22 Nhiều người muốn kết duyên với
bà, nhưng chẳng một ai được bà ưng thuận, trong suốt đời bà, kể từ khi chồng bà
là ông Mơ-na-se khuất núi và về sum họp với tổ tiên. 23 Danh tiếng
bà mỗi ngày một thêm lừng lẫy. Bà sống tại nhà chồng bà, tuổi đời rất cao, thọ
được một trăm lẻ năm tuổi. Bà trả tự do cho người nữ tỳ. Cuối cùng bà qua đời ở
Bai-ty-lu-a và được chôn cất trong hang mộ bên cạnh ông Mơ-na-se, chồng bà. 24
Nhà Ít-ra-en khóc thương bà suốt bảy ngày. Trước khi nhắm mắt, bà
Giu-đi-tha đã phân phát của cải cho tất cả bà con bên chồng cũng như cho thân
quyến của bà.
25
Không
còn một ai làm cho con cái Ít-ra-en phải sợ nữa, trong suốt thời bà Giu-đi-tha
còn sống cũng như mãi về sau, khi bà đã qua đời.
Ét-te
Chương 01
Phần
Mở Ðầu
Giấc
chiêm bao của ông Moóc-đo-khai
1a
Năm thứ hai triều đại Ác-tắc-sát-ta, ngày mồng một tháng Ni-xan, ông
Moóc-đo-khai, con ông Gia-ia (ông Gia-ia là con ông Sim-y, ông Sim-y con ông
Kít), thuộc chi tộc Ben-gia-min, đã có một giấc chiêm bao. 1b Ông là một người
Do-thái cư ngụ tại thành Su-san, một nhân vật có thế giá, giữ một chức vụ trong
hoàng cung. 1c Ông thuộc số những người đi đày, bị vua Ba-by-lon là
Na-bu-cô-đô-nô-xo bắt rời khỏi Giê-ru-sa-lem và phát lưu cùng với vua Giu-đa là
Giơ-khon-gia.
1d
Ðây là giấc chiêm bao: bỗng nhiên, nổi lên những tiếng la lối om sòm, sấm sét
rền vang, đất rung chuyển, rối loạn xảy ra trên mặt đất! 1đ Và này hai con rồng
lớn tiến ra, cả hai đều sẵn sàng giao chiến. Chúng hét lên một tiếng lớn. 1e
Khi tiếng chúng vang ra, mọi dân nước chuẩn bị chiến tranh chống lại dân công
chính. 1g Và này một ngày tối tăm u ám, trên mặt đất chỉ thấy toàn những gian
truân, ngặt nghèo, sầu khổ và rối loạn lớn lao. 1h Tất cả dân công chính đều
bấn loạn vì kinh khiếp trước những tai hoạ sắp xảy đến cho họ. Thấy mình sắp bị
tiêu diệt, họ kêu lên cùng Thiên Chúa. 1i Từ tiếng kêu cứu đó, người ta thấy
như từ dòng suối nhỏ phát ra một con sông lớn, nước đầy tràn. 1k Mặt trời mọc
lên, toả lan ánh sáng. Kẻ thấp hèn được cất nhắc lên và nuốt sống người cao
sang quyền thế.
1l
Sau khi chiêm bao thấy những gì Thiên Chúa có ý thực hiện, ông Moóc-đo-khai
tỉnh dậy; ông giữ lại điều đó trong lòng và mãi đến tối, dùng đủ cách để tìm
hiểu ý nghĩa.
Âm
mưu chống lại vua
1m
Rồi ông Moóc-đo-khai nghỉ ngơi tại hoàng cung với hai viên thái giám của vua là
Bi-gơ-than và Te-rét, những người canh gác hoàng cung. 1n Sau khi nghe biết âm
mưu và tìm hiểu cặn kẽ mối bận tâm của họ, lại được tin họ đang chuẩn bị tra
tay hại vua Ác-tắc-sát-ta, ông liền báo cho vua biết các sự việc đó. 1o Vua cho
người điều tra về hai viên thái giám. Họ đã thú tội và bị hành quyết. 1p Vua
cho ghi chép các sự việc đó vào sách Sử biên niên; ông Moóc-đo-khai cũng ghi
chép các sự việc đó. 1q Rồi vua truyền cho ông Moóc-đo-khai phải nhận một chức
vụ trong hoàng cung và ban quà tặng thưởng cho ông, vì các sự việc đó. 1r Nhưng
Ha-man, con ông Hăm-mơ-đa-tha, người Bu-ghê, là nhân vật cao sang quyền thế
trong triều đình; ông tìm cách hại ông Moóc-đo-khai và dân của ông, vì vụ hai
viên thái giám của vua.
I.
Vua A-Suê-Rô Và Hoàng Hậu Vát-Ti
Bữa
tiệc của vua A-suê-rô
1
Bấy
giờ là thời vua A-suê-rô. Vua này cai trị một trăm hai mươi bảy miền từ Ấn-độ
cho đến Ê-thi-óp. 2 Thời ấy, vua A-suê-rô đã ngồi vững trên ngai tại
thành Su-san. 3 Năm thứ ba của triều đại, vua cho dọn tiệc thết đãi
tất cả các khanh tướng và quần thần. Các tướng lãnh trong đạo binh Ba-tư và
Mê-đi, các nhà quý tộc và các tổng đốc đều tề tựu lại trước mặt vua. 4 Vua
muốn phơi bày cho họ thấy cảnh giàu sang tráng lệ của vương quốc cũng như uy
thế rực rỡ huy hoàng của nhà vua trong vòng nhiều ngày, tức một trăm tám mươi
ngày.
5
Mãn
thời gian ấy, vua lại cho dọn một bữa tiệc bảy ngày trong sân ngự uyển thuộc
hoàng cung để thết đãi dân chúng từ lớn đến nhỏ đang ở trong thành Su-san. 6
Tại đây, có căng những bức màn bằng sợi gai trắng tinh và đỏ tía. Người
ta dùng dải bằng sợi gai mịn và hồng điều móc những bức màn đó vào các vòng bạc
và treo lên các cột trụ bằng đá bạch ngọc. Trong sân ngự uyển, có kê những ghế
dài bằng vàng, bằng bạc trên nền lát đá vân ban, đá cẩm thạch, khảm xà cừ và đá
ngọc đen. 7 Người ta dùng các bình vàng đủ kiểu mời thực khách uống.
Nhà vua cho tiếp rượu dồi dào xứng với cung cách của bậc vương đế, 8 nhưng
lại ra lệnh không được ép ai, vì vua truyền cho các quản gia hoàng cung phải
làm theo sở thích của mỗi người
Vụ
hoàng hậu Vát-ti
9
Hoàng
hậu Vát-ti cũng cho dọn tiệc đãi các mệnh phụ trong hoàng cung của vua A-suê-rô.
10 Ngày thứ bảy, trong lúc rượu làm lòng vua vui sướng, vua truyền
cho bảy viên thái giám phục vụ vua là các ông: Mơ-hu-man, Bít-dơ-tha,
Khác-vô-na, Bi-gơ-tha, A-vác-tha, Dê-tha và Các-cát, 11 phải mời
hoàng hậu Vát-ti đội triều thiên hoàng hậu vào chầu vua, để dân chúng và các
khanh tướng chiêm ngưỡng sắc đẹp của bà, vì bà là người có nhan sắc. 12 Nhưng
hoàng hậu Vát-ti từ chối không chịu đến theo lệnh vua chuyển đạt qua các viên
thái giám. Vua rất tức giận; cơn thịnh nộ của vua bừng bừng bốc lên. 13 Bấy
giờ, vua ngỏ lời với các nhà hiền triết am tường luật pháp. Quả thật, vua
thường trình bày các sự việc liên quan đến mình cho những người am tường luật
pháp và công lý. 14 Nhóm nhân vật thân cận nhà vua gồm các ông:
Các-sơ-na, Sê-tha, Át-ma-tha, Tác-sít, Me-rét, Mác-xơ-na và Mơ-mu-khan là bảy
quan chức cao cấp người Ba-tư và Mê-đi, những nhân vật thường được triều yết
vua và chiếm địa vị cao nhất trong vương quốc. 15 Vua nói:
"Theo luật, phải xử thế nào với hoàng hậu Vát-ti, vì bà đã không tuân hành
lệnh vua chuyển đạt qua các viên thái giám?” 16 Ông Mơ-mu-khan nói
trước mặt vua và các quan chức: "Hoàng hậu Vát-ti đã đắc tội không chỉ với
đức vua, mà còn với tất cả các quan trong hàng quần thần và toàn thể dân chúng
ở trong mọi miền thuộc quyền đức vua.17 Quả thế, chuyện hoàng hậu sẽ lan ra đến
toàn thể nữ giới, làm cho họ nhìn đức lang quân của họ với cặp mắt khinh bỉ; họ
sẽ nói: vua A-suê-rô đã cho mời hoàng hậu Vát-ti vào trước long nhan, thế mà bà
đã chẳng vào. 18 Ngay ngày hôm nay, khi nghe chuyện hoàng hậu, các
mệnh phụ người Ba-tư và Mê-đi cũng sẽ ăn nói như thế với quần thần của đức vua.
Bấy giờ sẽ sinh ra biết bao là khinh bỉ và tức giận! 19 Vậy nếu đẹp lòng đức
vua, thì xin đức vua ban sắc chỉ, ghi vào số các luật lệ dân Ba-tư và Mê-đi;
sắc chỉ này không thể huỷ bỏ được và nội dung như sau: từ nay, bà Vát-ti không
còn được vào chầu vua A-suê-rô nữa. Xin đức vua ban chức hoàng hậu của bà cho
một người khác xứng đáng hơn. 20 Chỉ dụ của đức vua sẽ được công bố
trong toàn vương quốc, dù rất bao la; khi đó, toàn thể nữ giới, từ sang đến
hèn, đều tỏ lòng kính trọng đức lang quân của họ."
21
Lời
đề nghị đó vừa ý vua và các quan chức. Vua làm theo lời đề nghị của ông
Mơ-mu-khan. 22 Vua cho gửi thư đến mọi miền, miền nào theo chữ viết
của miền ấy, dân nào theo tiếng nói của dân ấy, để mọi người đàn ông làm chủ
nhà mình và nói tiếng dân mình.
Chương 02
II.
Ông Moóc-Ðo-Khai Và Bà Ét-Te
Bà
Ét-te trở thành hoàng hậu
1
Sau
những biến cố đó, khi cơn giận đã dịu xuống, vua A-suê-rô lại nhớ đến bà
Vát-ti, nhớ đến những gì bà đã làm và những quyết định của vua đối với bà. 2
Các quan hầu cận vua mới nói: "Phải kiếm cho đức vua những thiếu nữ
còn trinh và có nhan sắc. 3 Xin đức vua bổ nhiệm các tổng đốc trong
mọi miền thuộc vương quốc để tập hợp về thành Su-san tất cả các thiếu nữ còn
trinh và có nhan sắc, rồi đem vào hậu cung, đặt dưới quyền viên thái giám của
vua là Hê-ghe, người có nhiệm vụ trông nom phụ nữ. Phải cung cấp cho họ các mỹ
phẩm. 4 Thiếu nữ nào được vua ưa thích, sẽ làm hoàng hậu thay thế bà
Vát-ti." Lời đề nghị đó vừa ý vua, và vua đã cho thi hành như vậy.
5
Trong
thành Su-san, có một người Do-thái tên là Moóc-đo-khai, con ông Gia-ia (ông
Gia-ia là con ông Sim-y, ông Sim-y là con ông Kít), thuộc chi tộc Ben-gia-min. 6
Từ Giê-ru-sa-lem, ông đã bị đi đày trong số những người bị đi đày cùng
với vua Giu-đa là Giơ-khon-gia, những người mà vua Ba-by-lon là
Na-bu-cô-đô-nô-xo đã phát lưu. 7 Ông nuôi nấng dạy dỗ Ha-đát-xa, tức
là Ét-te, con gái của người chú ông, vì cô ta mồ côi cả cha lẫn mẹ. Thiếu nữ
dung mạo xinh đẹp và dễ coi. Sau khi cha mẹ cô qua đời. Ông Moóc-đo-khai đã
nhận cô làm con.
8
Khi
lệnh vua và chỉ dụ được công bố, một số đông thiếu nữ được tập hợp về thành
su-san, đặt dưới quyền ông Hê-ghe. Cô Ét-te cũng được đưa về hoàng cung, ở dưới
quyền ông Hê-ghe, người có nhiệm vụ trông nom phụ nữ. 9 Thiếu nữ
được ông ưa thích và được lòng ông. Ông vội cung cấp các mỹ phẩm và phần lương
thực cần thiết cho cô. Ông còn cho bảy cung nữ tuyển chọn trong hoàng cung để
phục vụ cô, rồi chuyển cô và các cung nữ đó về phòng tốt nhất trong hậu cung. 10
Cô Ét-te không tiết lộ gì về dân tộc, nguồn gốc của mình, vì ông
Moóc-đo-khai cấm cô không được tiết lộ. 11 Mỗi ngày, ông
Moóc-đo-khai lui tới sân hậu cung để biết tin về sức khoẻ của cô Ét-te và về
những gì xảy ra cho cô.
12
Một
thiếu nữ được vào hầu vua A-suê-rô sau thời gian mười hai tháng thi hành đúng
quy chế dành cho các phụ nữ. Thời gian trau dồi sắc đẹp diễn tiến như sau cho
đến lúc hoàn thành: sáu tháng dùng dầu thơm mộc dược, sáu tháng thoa kem và
dùng các mỹ phẩm khác của phụ nữ. 13 Thiếu nữ nào rời hậu cung để
vào hoàng cung thì được lãnh tất cả những gì cô xin và được mang theo. 14 Thiếu
nữ đó vào hoàng cung lúc ban chiều, và sáng hôm sau, trở về một hậu cung khác
dưới quyền viên thái giám Sa-át-gát, người được vua trao nhiệm vụ trông nom các
cung phi. Cô không còn được vào hầu vua nữa, trừ khi vua đem lòng sủng ái và
gọi đích danh.
15
Nay
đến lượt Ét-te vào hầu vua. Cô là con gái ông A-vi-kha-gin, chú ông
Moóc-đo-khai; ông này là người đã nhận cô làm con. Cô chẳng xin gì, ngoại trừ
những món viên thái giám của vua đã dặn. Viên thái giám này tên là Hê-ghe, có
nhiệm vụ trông nom phụ nữ. Ai nhìn thấy cô cũng đem lòng thương mến. 16 Cô
được đem vào hoàng cung hầu vua A-suê-rô. Bấy giờ là tháng thứ mười, tức là
tháng Tê-vết, năm thứ bảy triều đại vua. 17 Vua yêu quý cô hơn mọi
phụ nữ khác. Cô được vua mến thương và ưu ái hơn mọi trinh nữ. Vì thế, vua đội
triều thiên cho cô và tôn làm hoàng hậu thay thế bà Vát-ti.
18
Vua
mở tiệc linh đình đãi các khanh tướng quần thần, gọi là tiệc mừng hoàng hậu
Ét-te. Vua cho tất cả các miền nghỉ lễ một ngày và rộng tay ban phát tặng vật
xứng bậc đế vương.
Ông
Moóc-đo-khai và quan Ha-man
19
Khi
các trinh nữ được tập hợp lần thứ hai, lúc ông Moóc-đo-khai ngồi ở cung môn, 20
hoàng hậu Ét-te vẫn không cho biết bà thuộc dòng giống nào, dân tộc nào,
theo lời ông Moóc-đo-khai đã dặn. Bà vẫn thi hành chỉ thị của ông như hồi còn
được ông nuôi nấng dạy dỗ. 21 Bấy giờ, ông Moóc-đo-khai ngồi ở cung
môn. Có hai viên thái giám của vua là Bi-gơ-than và Te-rét đang giữ phận sự gác
cửa hoàng cung, đã nổi giận vì bất mãn, nên tìm cách giết vua A-suê-rô. 22
Biết chuyện đó, ông Moóc-đo-khai liền báo cho hoàng hậu Ét-te; hoàng hậu
tâu lại vua những điều ông Moóc-đo-khai đã tiết lộ. 23 Sự việc được
điều tra và xác nhận, hai viên thái giám kia liền bị treo cổ. Vụ này được ghi
chép vào sách Sử biên niên trước mặt vua.
Chương 03
1
Sau
biến cố đó, vua A-suê-rô thăng chức cho ông Ha-man, con ông Hăm-mơ-đa-tha,
người A-gác. Vua cất nhắc ông lên, đặt ông đứng đầu mọi khanh tướng hầu cận vua.
2 Quần thần nhất nhất đều cúi chào bái lạy ông Ha-man vì vua đã
truyền như thế. Nhưng ông Moóc-đo-khai đã chẳng cúi chào, cũng không bái lạy. 3
Quần thần trong triều nói với ông Moóc-đo-khai: "Tại sao ông lại lỗi
lệnh vua?” 4 Ngày nào họ cũng lặp đi lặp lại như thế, nhưng ông vẫn
không chịu nghe; Ông cho họ thấy ông là người Do-thái. Họ mới trình sự việc cho
ông Ha-man để xem ông Moóc-đo-khai còn giữ thái độ đó nữa không. 5 Khi
thấy ông Moóc-đo-khai chẳng cúi chào, cũng không bái lạy mình, ông Ha-man hết
sức phẫn nộ. 6 Nhưng đối với ông Ha-man, vì đã biết ông Moóc-đo-khai
thuộc dân tộc nào, nên nếu chỉ giết một mình ông ta thôi thì tầm thường quá. Vì
vậy, ông Ha-man tìm cách tiêu diệt cả dân tộc của ông Moóc-đo-khai. Ðó là hết
mọi người Do-thái đang sống trong toàn vương quốc của vua A-suê-rô.
III.
Người Do-Thái Bị Ðe Dọa
Sắc
chỉ tru diệt người Do-thái
7
Tháng
thứ nhất, tức tháng Ni-xan, vào năm thứ mười hai triều đại vua A-suê-rô, người
ta gieo "Pua" (nghĩa là bắt thăm) trước mặt ông Ha-man để biết ngày
biết tháng. Thăm rơi trúng ngày mười bốn tháng thứ mười hai, tức là tháng A-đa.
8 Ông Ha-man thưa với vua A-suê-rô: "Trong khắp các miền thuộc
vương quốc của đức vua, có một dân sống tản mác, rải rác đó đây giữa các dân.
Luật lệ của chúng không giống như luật lệ của bất cứ dân nào khác. Luật lệ của
đức vua, chúng chẳng tuân chẳng giữ. Quyền lợi của đức vua không cho phép để
chúng yên như vậy. 9 Nếu đẹp lòng đức vua, thì xin đức vua cho viết
sắc lệnh tru diệt chúng. Thần xin cân ba trăm ngàn ký bạc trao cho công chức
đem vào kho bạc của đức vua."
10
Bấy
giờ, vua tháo bửu ấn ở tay ra trao cho cừu địch của người Do-thái là ông
Ha-man, con ông Hăm-mơ-đa-tha, người A-gác. 11 Rồi vua nói với ông
Ha-man: "Ta tặng khanh số bạc đó, trao cho khanh cả dân tộc đó nữa. Khanh
muốn làm gì chúng thì làm."
12
Ngày
mười ba tháng thứ nhất, các ký lục của vua được triệu đến. Trên sắc lệnh có ghi
tất cả những gì ông Ha-man đã chỉ thị để gửi đến các thủ hiến của nhà vua, các
tổng đốc coi mỗi miền và các quan chức coi từng sắc dân, miền nào theo chữ viết
của miền ấy, dân nào theo tiếng nói của dân ấy. Sắc lệnh được soạn thảo nhân
danh vua A-suê-rô và niêm phong bằng bửu ấn nhà vua, 13 rồi được
trao cho các phu trạm mang đến tất cả các miền dưới quyền vua. Mục đích là thủ
tiêu, giết chết, tru diệt mọi người Do-thái từ trẻ đến già, cả thiếu nhi lẫn
phụ nữ, nội trong một ngày, ngày mười ba tháng thứ mười hai, tức là tháng A-đa.
Ngoài ra, sắc lệnh còn cho phép cướp của nữa.
13a
Sau đây là bản sao sắc lệnh trên:
"Ðại
vương A-suê-rô viết như sau cho các tổng đốc của một trăm hai mươi bảy miền từ
Ấn-độ đến Ê-thi-óp, và cho các quan chức dưới quyền:
13b
Cai quản muôn dân nước, làm bá chủ toàn cõi địa cầu, ta không muốn say men
quyền bính mà sinh thói kiêu căng, nhưng muốn luôn lãnh đạo sao cho khoan dung
hiền hoà, không ngừng bảo đảm cho toàn dân một cuộc sống yên ổn, giúp cho vương
quốc được thái bình thịnh vượng, ai nấy dễ dàng đi lại cho đến tận biên thuỳ,
để phục hồi cảnh an hoà mọi người hằng mong ước. 13c Ðể tìm cách thực hiện dự
kiến trên, ta đã bàn hỏi các vị cố vấn. Trong số đó, quan Ha-man giữa chúng ta
là một nhân vật khôn ngoan xuất chúng, đã tỏ ra luôn thành tâm thiện chí và hết
dạ tín trung, nên trong vương quốc, đã lên tới địa vị thứ nhì. 13d Ông đã cho
ta thấy rằng có một dân đầy ác ý, sống trà trộn với trăm họ trên toàn cõi địa
cầu, theo những luật lệ đối nghịch hẳn với các nước khác, chẳng hề đếm xỉa đến
sắc dụ của các vua, khiến cho vương quốc không thể đạt tới sự thống nhất, vương
quốc mà ta vẫn điều khiển một cách hoàn hảo, không ai chê trách được.
13đ
Vậy, ta khẳng định rằng đây là lũ dân lập dị, luôn chống đối mọi người, có nếp
sống khác biệt vì tuân hành thứ luật pháp xa lạ, phạm những tội ác tầy trời
chống lại quyền lợi của ta, với ý đồ gây bất ổn cho vương quốc.
13e
Do đó, ta truyền rằng: ngày mười bốn tháng thứ mười hai, tức là tháng A-đa năm
nay, phải tận diệt tất cả những kẻ được đề cập trong văn thư của quan Ha-man,
người đã được ta bổ nhiệm làm phụ chính lo việc triều đình cho ta. Phải lấy
gươm của địch thù chúng mà tận diệt chúng cùng với vợ con, không nương tay,
không thương xót. 13g Như thế, nội trong một ngày, những kẻ xưa nay vốn đầy ác
ý đều bị tống xuống âm phủ, để từ đây, việc triều chính được mãi mãi ổn định và
êm xuôi."
14
Sắc
chỉ này đã được công bố và có hiệu lực luật pháp cho mọi miền. Bản sao cũng đã
được phổ biến, để vào ngày ấn định, mọi dân sẵn sàng tuân theo. 15 Theo
lệnh vua, phu trạm tức tốc lên đường. Sắc chỉ được công bố tại thành Su-san.
Trong
khi vua cùng quan Ha-man ngồi chè chén say sưa, thì cả thành Su-san đều xôn xao
náo động.
Chương 04
Ông
Moóc-đo-khai và hoàng hậu Ét-te đẩy lui hiểm hoạ
1
Khi
biết tất cả những sự kiện trên, ông Moóc-đo-khai xé áo mình ra, mặc lấy bao bị
và rắc tro lên người. Ông ra giữa thành, lớn tiếng thốt lên những lời đắng cay
chua xót. 2 Ông đến tận trước cung môn là nơi không ai được phép vào
mà lại mặc bao bị. 3 Trong mỗi miền, bất cứ nơi đâu mệnh lệnh và chỉ
dụ của vua được chuyển tới, người ta cũng đều chứng kiến một cảnh thê lương
buồn thảm: dân Do-thái ăn chay, khóc lóc, than van. Nhiều người nằm trên tro
trên đất, mình mặc bao bị.
4
Các
cung nữ và thái giám báo tin cho hoàng hậu Ét-te. Bà hết sức bàng hoàng. Bà gửi
áo ra cho ông Moóc-đo-khai mặc và xin ông cởi bỏ bao bị. Ông không chịu nghe. 5
Bà mới cho gọi ông Ha-thác là một trong những viên thái giám nhà vua đặt
làm người phục vụ bà. Bà truyền cho ông đi gặp ông Moóc-đo-khai để biết sự việc
đã xảy ra và lý do của sự việc đó.
6
Ông
Ha-thác ra gặp ông Moóc-đo-khai tại quảng trường đối diện với cung môn. 7 Ông
Moóc-đo-khai cho ông biết tất cả những sự việc đã xảy ra và biết chuyện ông
Ha-man đã hứa sẽ cân một số bạc bỏ vào kho của vua nhằm tru diệt người Do-thái.
8 Ông Moóc-đo-khai trao cho ông bản sao sắc chỉ đã công bố ở Su-san
nhằm huỷ diệt họ, mục đích là cho bà Ét-te xem bản sao đó và biết các sự việc.
Ông Moóc-đo-khai cũng nhắn bà phải vào chầu vua để xin vua tỏ lòng nhân hậu và
khẩn nài vua thương xót dân tộc bà. Ông nhắn rằng: 8a "Con hãy nhớ lại
thuở hàn vi của con, những ngày con đã được chính tay cha nuôi dưỡng. Người
chiếm địa vị thứ nhì trong vương quốc là Ha-man đã đề nghị vua chống lại chúng
ta, nhằm dẫn chúng ta đến chỗ chết. 8b Con hãy cầu khẩn Chúa và xin vua thương
tình tha chết cho chúng ta."
9
Ông
Ha-thác trở vào, chuyển những lời này đến hoàng hậu Ét-te. 10 Bà ngỏ
lời với ông Ha-thác, truyền cho ông ra gặp ông Moóc-đo-khai và nói: 11 "Bề
tôi của vua và dân các miền thuộc quyền vua, ai cũng biết rõ: bất cứ người nào,
nam cũng như nữ, không được triệu vời mà dám vào chầu vua ở phía trong sân
rồng, thì đều chịu một luật duy nhất là phải chết, trừ phi vua giơ phủ việt
vàng ra, người ấy mới được sống. Mà con đây đã ba mươi ngày rồi không được
triệu vào chầu vua."
12
Người
ta cho ông Moóc-đo-khai biết những điều bà Ét-te đã nói. 13 Ông nhờ
người trả lời: "Ðừng tưởng rằng trong cả dân Do-thái, chỉ có mình con ở
tại hoàng cung là được thoát nạn. 14 Vì đến lúc này mà con vẫn cứ
ngậm miệng làm thinh, thì người Do-thái sẽ nhận được sự trợ giúp và giải cứu từ
một nơi khác; còn chính con và nhà cha con lại bị tru diệt. Biết đâu không phải
vì thời buổi như thế này mà con đã lên tới địa vị hoàng hậu?"
15
Bà
Ét-te nhờ người trả lời ông Moóc-đo-khai: 16 "Xin cha cứ đi tập
hợp tất cả những người Do-thái ở Su-san lại. Xin bà con ăn chay cầu nguyện cho
con. Suốt ba ngày đêm, đừng ăn uống gì cả. Con và các cung nữ cũng sẽ làm như
thế. Sau đó, dầu pháp luật không cho phép, con cũng vào chầu vua. Có chết con
cũng đành.” 17 Ông Moóc-đo-khai rút lui và làm theo mọi điều hoàng
hậu Ét-te dặn.
Lời
cầu nguyện của ông Moóc-đo-khai
17a
Ông nhắc lại mọi công việc Chúa đã làm mà cầu xin với Chúa:
17b
"Lạy Chúa, Chúa là Vua toàn năng,
Chúa
nắm quyền điều khiển vũ trụ.
Khi
Chúa muốn cứu độ Ít-ra-en,
nào
ai đương đầu nổi với Ngài!
17c
Chính Ngài đã tạo dựng trời đất
và
thực hiện mọi kỳ công dưới bầu trời.
Lạy
Chúa, Ngài là Chúa vạn vật.
Ai
chống lại được Ngài?
17d
Lạy Chúa, Ngài biết mọi sự, Ngài biết rõ:
Không
phải vì xấc xược, kiêu kỳ hoặc háo danh
mà
con làm thế,
đã
không bái lạy tên Ha-man ngạo mạn kiêu căng.
Quả
thật, để cứu Ít-ra-en,
thì
có phải hôn bàn chân hắn, con đây cũng sẵn sàng.
17đ
Nhưng con đã làm thế để khỏi đặt cái vinh của người phàm
trên
vinh quang Thiên Chúa.
Con
sẽ không bái lạy một ai, ngoại trừ Ngài, lạy Chúa,
và
con sẽ không làm thế vì kiêu ngạo.
17e
Giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa.
Chúa
là Vua, là Thiên Chúa tổ phụ Áp-ra-ham,
xin
tha cho dân Ngài,
vì
thù địch đang để tâm để ý chúng con
nhằm
tìm cách huỷ diệt.
Chúng
những mong phá huỷ
phần
sản nghiệp ngàn xưa của Ngài.
17g
Xin Ngài đừng chê bỏ dân riêng thuộc về Ngài,
dân
Ngài đã chuộc lấy từ Ai-cập.
17h
Xin nghe lời con nguyện
mà
thương đến phần gia nghiệp của Ngài.
Lạy
Chúa, cảnh tang tóc chúng con, xin biến thành hoan lạc
để
chúng con được sống mà ca tụng danh Ngài.
Xin
Ngài đừng huỷ diệt
đoàn
dân luôn mở miệng ngợi khen Ngài."
17i
Toàn thể Ít-ra-en hết lòng hết sức kêu van Chúa, vì cái chết ở trước mặt họ
rồi.
Lời
cầu nguyện của hoàng hậu Ét-te
17k
Hoàng hậu Ét-te khắc khoải âu lo đến chết được, liền tìm đến nương ẩn bên Chúa.
Tâm hồn sầu khổ, bà cởi bỏ y phục lộng lẫy, mặc áo tang vào. Thay cho dầu thơm
quý giá, bà lấy bụi tro dơ bẩn rắc lên đầu; bà hãm mình phạt xác nhiệm nhặt;
thay vì trang điểm trau chuốt, bà để cho tóc xoã rối bời. Bà cầu xin cùng Chúa,
Thiên Chúa Ít-ra-en:
17l
"Lạy Chúa của con, lạy Vua chúng con,
Ngài
là Thiên Chúa duy nhất.
Này
con đang liều mạng, xin đến cứu giúp con.
Con
cô đơn, chẳng còn ai cứu giúp, ngoại trừ Ngài.
17m
Lạy Chúa, trong chi tộc của cha ông,
từ
khi lọt lòng mẹ, con từng được nghe biết
là
chính Ngài đã chọn Ít-ra-en giữa muôn ngàn dân tộc,
đã
tuyển chọn cha ông chúng con
giữa
mọi bậc tiền bối của các ngài
để
làm thành gia nghiệp mãi mãi thuộc về Ngài.
Ngài
thực hiện cho cha ông chúng con
mọi
điều Ngài đã hứa.
17n
Nay chúng con đã phạm tội trước nhan Ngài,
và
Ngài đã trao nộp chúng con vào tay kẻ thù địch
vì
chúng con đã thờ các thần minh của chúng.
Lạy
Chúa, Ngài công minh chính trực xiết bao!
17o
Bây giờ, tuy chúng con phải nuốt cay ngậm đắng
làm
nô lệ cho thù địch chúng con,
chúng
vẫn chưa lấy làm thoả mãn.
Chúng
lại còn đặt tay lên tay các tượng thần của chúng,
liên
kết cùng thần minh nhằm huỷ bỏ
mệnh
lệnh Ngài đã ban, nhằm phá tan gia nghiệp của Ngài,
dập
tắt vinh quang không ngừng chiếu toả
trên
thánh điện, trên bàn thờ của Ngài,
17p
nhằm mở miệng chư dân
để
họ hát mừng công đức các thần minh hư ảo
và
mãi mãi sùng bái ông vua mang xác phàm.
17q
Lạy Chúa, xin đừng trao phủ việt của Ngài
cho
những gì hư ảo
cũng
đừng để cho thù địch nhạo cười khi chúng con gục ngã.
Nhưng
xin lấy mưu đồ của chúng mà quật lại chúng đi.
Và
những kẻ manh tâm hại chúng con,
xin
đưa ra làm gương cho thiên hạ.
17r
Lạy Chúa, ngày chúng con gặp gian truân cùng khốn,
xin
nhớ đến chúng con mà chứng tỏ quyền năng của Ngài.
Lạy
Vua các thần minh, Ðấng thống trị mọi kẻ cầm quyền,
xin
ban cho con lòng dũng cảm,
17s
và dạy con biết nói lời êm tai
khi
phải ra trước mặt loài sư tử.
Xin
đổi lòng con sư tử ấy để nó căm thù kẻ chống lại chúng con,
khiến
cho hắn và quân đồng loã phải tiêu diệt hoàn toàn.
17t
Thần dân Ngài, xin Ngài giải thoát.
Con
cô đơn, xin đến cứu giúp con.
Lạy
Chúa, ngoài Ngài ra, con đâu còn ai nữa!
17u
Ngài thấu biết mọi sự trên đời,
Ngài
biết rõ lòng con hằng căm ghét
cái
vinh của những kẻ không Lề Luật,
và
con cũng nhờm tởm gớm ghê
việc
chăn gối với những kẻ không cắt bì
cũng
như với những người dân ngoại.
17v
Ngài biết rõ con đang cùng đường túng thế,
con
ghê tởm cái huy hiệu kiêu hãnh mang trên đầu
trong
những ngày xuất hiện trước công chúng;
con
ghê tởm nó như ghê tởm cái khăn phải dùng khi khó ở.
Con
chẳng mang nó vào những ngày bình an.
17x
Nữ tỳ của Chúa đã không hề đồng bàn với Ha-man,
chẳng
coi trọng tiệc tùng vua đãi,
chẳng
thèm uống thứ rượu tế thần.
17y
Từ ngày thay đổi địa vị cho đến nay,
nữ
tỳ của Chúa chẳng hề được vui sướng
nếu
không có những niềm vui bên Ngài,
lạy
Chúa là Thiên Chúa tổ phụ Áp-ra-ham.
17aa
Lạy Thiên Chúa quyền uy dũng lực trên hết thảy mọi người,
xin
nghe tiếng những kẻ sờn lòng nản chí.
Xin
giải thoát chúng con khỏi tay những kẻ độc ác,
xin
giải thoát con khỏi cơn sợ hãi này! "
Chương 05
Hoàng
hậu Ét-te vào chầu vua
1
Ngày
thứ ba, cầu nguyện xong, hoàng hậu Ét-te bỏ áo cầu nguyện, mặc phẩm phục huy
hoàng. 1a Ðẹp lộng lẫy, bà cầu khẩn Thiên Chúa là Ðấng thấu suốt và cứu độ mọi
người. Rồi bà đem theo hai cung nữ: bà tựa vào một cô, trông thật thướt tha
duyên dáng; còn cô kia theo sau, nâng đuôi áo cho bà. 1b Bà hết sức xinh đẹp,
đôi má tươi hồng, vẻ mặt hớn hở, dễ thương, nhưng lòng đau như thắt vì khiếp
sợ. 1c Qua các cửa, bà đến trước mặt vua. Vua ngự trên ngai báu, mang trọn bộ
long bào dùng trong những buổi triều yết, mình đầy vàng bạc châu báu, dáng vẻ
rất đáng sợ. 1d Vua ngẩng mặt lên nhìn, đôi mắt rực sáng, giận dữ đến cực độ.
Hoàng hậu khuỵu xuống, tái mặt đi vì yếu sức; bà dựa đầu vào cô cung nữ đi
trước. 1đ Thiên Chúa làm cho vua đổi lòng, khiến vua ra dịu hiền. Từ trên ngai
vàng, vua lo âu lao mình xuống, đưa cánh tay đỡ lấy bà cho đến khi bà tỉnh lại.
Rồi vua lấy lời trấn an khích lệ bà: 1e "Sao thế, Ét-te? Ta là anh của em
mà! Yên tâm đi! Em không phải chết đâu! Lệnh của ta chỉ áp dụng cho thường dân
thôi. Lại đây em!” 2 Vua đưa phủ việt vàng lên đặt vào cổ bà, rồi ôm
hôn bà và nói: "Hãy nói cho ta hay!” 2a Bà nói với vua: "Tâu chúa
thượng, thiếp nhìn thấy ngài giống như thiên sứ của Thiên Chúa. Tâm hồn thiếp
bị rúng động vì khiếp sợ vẻ oai nghi của ngài. Quả thế, tâu chúa thượng, ngài
thật kỳ diệu và long nhan ngài thật hấp dẫn! “ 2b Ðang nói thế bà lại khuỵu
xuống. Vua bị rúng động, còn các cận thần thì tìm cách làm cho bà tỉnh lại. 3
Vua nói với bà: "Hoàng hậu Ét-te, chuyện gì thế? Khanh muốn xin gì?
Dù nửa nước ta cũng sẽ ban!” 4 Bà Ét-te đáp: "Nếu đẹp lòng đức
vua, thì hôm nay, xin đức vua cùng quan Ha-man đến dự yến tiệc thiếp đã dọn hầu
đức vua.” 5 Vua liền nói: "Hãy mau mau triệu Ha-man đến để làm
như Ét-te vừa nói." Vua đã cùng quan Ha-man đến dự yến tiệc bà Ét-te dọn. 6
Giữa tiệc rượu, vua lại nói với bà Ét-te: "Khanh thỉnh cầu gì, ta sẽ
ban cho. Khanh muốn xin gì, dù nửa nước cũng sẽ được.” 7 Bà Ét-te
đáp: "Ðiều thiếp thỉnh cầu, điều thiếp muốn xin... 8 Nếu thiếp
được đức vua thương đến, nếu đức vua vui lòng ban điều thiếp muốn xin và thực
hiện điều thiếp thỉnh cầu, thì ngày mai xin đức vua cùng quan Ha-man lại tới dự
yến tiệc thiếp sẽ dọn hầu các ngài. Rồi thiếp sẽ tuân theo lời đức vua phán
dạy."
9
Hôm
ấy, Ha-man vui vẻ ra về, lòng phơi phới hân hoan. Nhưng khi thấy ông
Moóc-đo-khai ở cung môn không buồn đứng dậy cũng chẳng thèm nhúc nhích, y hết
sức căm giận ông. 10 Ha-man dằn lòng trở về nhà, sai người đi mời
bạn hữu và vợ là De-rết đến. 11 Y kể cho họ nghe nào là y giàu có
vinh hiển, nào là con cái đông đúc, nào là bao nhiêu việc vua đã làm để đề cao
y và cất nhắc y lên trên hàng khanh tướng quần thần của nhà vua. 12 Y
nói: "Hơn nữa, ngoài tôi ra, hoàng hậu Ét-te đã chẳng mời ai khác cùng đức
vua đến dự yến tiệc của bà. Ngày mai, bà lại mời tôi với đức vua lần nữa. 13
Nhưng tất cả những điều đó chưa làm tôi thoả mãn, bao lâu tôi còn thấy
tên Do-thái Moóc-đo-khai ngồi tại cung môn.” 14 De-rết, vợ y, và tất
cả các bạn hữu của y đều nói: "Ngài cứ cho dựng một cái giá cao hai mươi
lăm thước, rồi sáng mai xin đức vua cho treo cổ tên Moóc-đo-khai lên. Sau đó,
ngài sẽ vui vẻ theo đức vua vào dự tiệc." Ha-man ưng thuận đề nghị đó và
cho dựng giá treo cổ.
Chương 06
IV.
Người Do-Thái Trả Thù
Ha-man
thất bại nhục nhã
1
Chính
đêm ấy, vua mất ngủ. Vua mới truyền đem tập Kỷ Yếu, sách Sử biên niên của hoàng
triều ra đọc trước mặt vua. 2 Trong sách có chép rằng: ông
Moóc-đo-khai tố cáo hai viên thái giám gác cửa hoàng cung là Bi-gơ-than và
Te-rét đã tìm cách tra tay hại vua A-suê-rô. 3 Bấy giờ vua nói:
"Ðã làm gì để tuyên dương và đề cao Moóc-đo-khai vì công trạng đó
chưa?" Gia nhân tâu lại: "Thưa đức vua, chưa làm gì cho ông ấy cả.” 4
Vua nói: "Ai ở ngoài sân đó?" Lúc ấy, Ha-man vừa đến sân ngoài
của hoàng cung để xin vua cho treo cổ ông Moóc-đo-khai lên giá đã dọn sẵn cho
ông. 5 Gia nhân liền thưa: "Có quan Ha-man đang đứng ngoài
sân." Vua nói: "Cho phép quan ấy vào.” 6 Ha-man vào. Vua
hỏi: "Nhà vua muốn tuyên dương một người thì nên làm gì cho người đó?
" Ha-man tự nhủ: "Ngoài ta ra, nào đức vua còn muốn tuyên dương ai
được nữa?” 7 Nên Ha-man mới tâu vua: "Ðức vua muốn tuyên dương
ai, 8 thì ngày lễ gia miện, đức vua đã mặc long bào nào, đã cỡi con
ngựa nào, 9 nay xin đem trao cho một trong các vị cao cấp nhất của
đức vua, để vị này mặc long bào ấy cho người đức vua muốn tuyên dương, rồi đặt
người đó lên cỡi con ngựa ấy mà đem đi dạo trong quảng trường của thành phố. Vị
này sẽ đi trước người đó và hô to: "Ðây là cách đức vua đãi ngộ người đức
vua muốn tuyên dương.” 10 Vua liền nói: "Khanh mau lấy long bào
và ngựa như vừa nói, và làm như vậy cho ông Moóc-đo-khai, người Do-thái. Tất cả
các điều khanh vừa nói, đừng bỏ sót một chi tiết nào."
11
Ha-man
lấy long bào mặc cho ông Moóc-đo-khai, đem ngựa ra cho ông cỡi, rồi vừa dẫn đi
trong quảng trường của thành phố, vừa hô to trước mặt ông: "Ðây là cách
đức vua đãi ngộ người đức vua muốn tuyên dương.” 12 Ông Moóc-đo-khai
trở về cung môn; còn Ha-man thì tức tốc chạy về nhà, lòng buồn bã, đầu trùm
khăn. 13 Ha-man thuật lại cho vợ là De-rết và cho mọi bạn hữu nghe
tất cả những gì đã xảy ra. Các bạn hữu khôn ngoan đó và De-rết vợ y mới nói:
"Nếu Moóc-đo-khai thuộc dòng giống Do-thái thì trước mặt hắn, ngài chỉ mới
bắt đầu tuột dốc đó thôi. Ngài sẽ không thắng được hắn đâu. Trước mặt hắn, ngài
sẽ tuột dốc thê thảm."
Ha-man
dự yến tiệc cùng hoàng hậu Ét-te
14
Câu
chuyện còn dang dở thì các thái giám của vua đến. Họ vội vàng triệu Ha-man tới
dự yến tiệc bà Ét-te đã dọn.
Chương 07
1
Vua
và Ha-man đến dự yến tiệc với hoàng hậu Ét-te. 2 Ngày thứ hai này,
giữa tiệc rượu, vua cũng lại nói với bà Ét-te: "Hoàng hậu Ét-te, khanh
thỉnh cầu gì, ta sẽ ban. Khanh xin gì, dù nửa nước, ta cũng sẽ ban cho.” 3
Hoàng hậu Ét-te đáp: "Nếu thiếp được đức vua thương chiếu cố và nếu
đẹp lòng đức vua, thì xin nhận lời thiếp khẩn cầu mà cho thiếp được sống, xin
nghe lời thiếp nài van mà cho dân thiếp được sống, 4 vì thiếp và dân
của thiếp đã bị bán đứng cho người ta triệt hạ, giết chết, tru diệt. Giả như bề
tôi đây có bị bán làm tôi trai tớ gái người ta, thiếp sẽ chẳng nói gì; nhưng
đối phương sau này không thể bù đắp được thiệt hại mà đức vua sẽ phải chịu.” 5
Vua A-suê-rô ngỏ lời với hoàng hậu Ét-te: "Tên đó là ai? Kẻ cả gan
hành động như thế hiện đang ở đâu?” 6 Bà Ét-te thưa: "Ðối
phương ấy, địch thù ấy, chính là tên Ha-man khốn nạn này đây!" Trước mặt
vua và hoàng hậu, Ha-man kinh hoàng sợ hãi. 7 Vua bừng bừng nổi
giận, đứng lên, bỏ tiệc rượu, đi ra ngự uyển. Còn Ha-man thì ở lại nài xin
hoàng hậu Ét-te cứu sống mình, vì y quá hiểu: thảm hoạ sẽ xảy đến cho y, vua đã
quyết định rồi.
8
Khi
vua từ ngự uyển trở lại phòng tiệc rượu thì Ha-man đã nằm vật xuống giường, bên
cạnh bà Ét-te. Vua nói: "Lại còn tính xâm phạm đến cả hoàng hậu tại hoàng
cung, ngay khi ta có mặt hay sao?" Vua vừa nói xong, người ta liền lấy
khăn che mặt Ha-man lại. 9 Một trong các thái giám là ông Khác-vô-na
nói trước mặt vua: "Kìa, sẵn có cái giá Ha-man dựng lên để treo cổ ông
Moóc-đo-khai. Chính nhờ lời báo cáo của ông này mà đức vua đã thoát nạn. Cái giá
đó cao hai mươi lăm thước, dựng ngay tại nhà Ha-man." Vua liền nói:
"Treo cổ y lên đó!” 10 Ha-man bị treo cổ lên cái giá dành sẵn
cho ông Moóc-đo-khai. Thế là nhà vua hả giận.
Chương 08
Vua
đổi lòng, mến chuộng dân Do-thái
1
Ngày
hôm ấy, vua A-suê-rô ban cho hoàng hậu Ét-te tài sản của Ha-man, cừu địch của
người Do-thái. Ông Moóc-đo-khai vào chầu vua, vì bà Ét-te đã cho vua biết ông
họ hàng làm sao với bà. 2 Chiếc bửu ấn đã lấy lại của Ha-man, vua
rút ra trao cho ông Moóc-đo-khai. Còn bà Ét-te thì đặt ông coi sóc tài sản của
Ha-man.
3
Bà
Ét-te lại vào thưa chuyện với vua. Bà sấp mình dưới chân vua mà khóc lóc, xin
vua thương cất đi cái thảm hoạ Ha-man, người A-gác, đã tính gây ra và xin vua
phá tan ý đồ của y toan hại người Do-thái. 4 Vua đưa phủ việt vàng
lên trước mặt bà Ét-te. Bà chỗi dậy, đứng trước mặt vua 5 và thưa: "Nếu
đẹp lòng đức vua, nếu thiếp được đức vua thương, nếu sự việc này đức vua xét là
nên, và nếu thiếp làm vừa mắt đức vua, thì xin đức vua cho viết sắc chỉ thu hồi
các văn thư mà Ha-man, con ông Hăm-mơ-đa-tha, người A-gác, đã viết. Ha-man đã
nghĩ và viết các văn thư ấy nhằm tru diệt người Do-thái sống trong các miền
thuộc quyền đức vua. 6 Làm sao thiếp lại có thể đành lòng chứng kiến
tai hoạ giáng xuống dân của thiếp? Làm sao thiếp lại có thể đành lòng chứng
kiến cảnh nòi giống của thiếp bị diệt vong?"
7
Vua
A-suê-rô nói với hoàng hậu Ét-te và ông Moóc-đo-khai người Do-thái: "Tài
sản của Ha-man, ta đã tặng cho bà Ét-te rồi đó, còn Ha-man thì đã bị treo cổ vì
muốn tra tay giết người Do-thái. 8 Vậy chư khanh cứ theo sự xét đoán
của mình mà nhân danh vua viết về người Do-thái thế nào cho phải, rồi lấy bửu
ấn của nhà vua mà niêm lại, vì công văn nào đã được soạn thảo nhân danh nhà vua
và niêm bửu ấn thì không thể thu hồi.” 9 Các ký lục nhà vua được
triệu đến. Lúc đó là tháng thứ ba, tức là tháng Xi-van, ngày hai mươi ba. Theo
đúng lệnh của ông Moóc-đo-khai, họ soạn thảo công văn gửi cho người Do-thái,
cho các thủ hiến, các tổng đốc và các quan chức các miền từ Ấn-độ cho đến
Ê-thi-óp. Có một trăm hai mươi bảy miền, miền nào theo chữ viết của miền ấy,
dân nào theo tiếng nói của dân ấy, người Do-thái theo chữ viết và tiếng nói của
họ. 10 Các công văn được soạn thảo nhân danh vua A-suê-rô và niêm
bửu ấn, rồi các phu trạm chuyển đi. Họ cỡi những con ngựa nhanh nhất nuôi trong
chuồng nhà vua. 11 Vua cho người Do-thái ở trong bất cứ thành nào
được quyền tụ họp để bảo vệ sinh mạng, để huỷ diệt, giết chết và tru diệt tất
cả những kẻ mang vũ khí đến tấn công họ, cho dù bọn người này thuộc sắc dân nào
hay ở miền nào đi nữa, kể cả vợ con chúng; họ cũng được quyền cướp đoạt của cải
của bọn chúng. 12 Lệnh này phải thi hành tại khắp các miền thuộc
quyền vua A-suê-rô nội trong một ngày; đó là ngày mười ba tháng thứ mười hai,
tức là tháng A-đa.
Sắc
chỉ phục hồi quyền của người Do-thái
12a
Ðoạn văn sau đây là bản sao công văn:
12b
"Ðại vương A-suê-rô gửi các tổng đốc cai trị một trăm hai mươi bảy tỉnh từ
Ấn-độ đến Ê-thi-óp, và gửi những trung thần quan tâm đến quốc sự. Chúc chư
khanh vạn an.
12c
Có lắm kẻ khi được các bậc ân nhân lấy lòng từ ái bao la mà đối xử thì sinh
thói kiêu căng. Chẳng những chúng mưu hại thần dân ta, mà vì chưa thoả mãn với
danh vọng dư đầy, chúng còn nuôi ý đồ tra tay hại chính các ân nhân của mình.
12d Chúng loại trừ tâm tình biết ơn ra khỏi lòng người. Không những thế, sau
khi bị cuốn hút theo lời lẽ ba hoa của những kẻ không biết gì đến sự thiện,
chúng còn cứ tưởng mình sẽ thoát được án công minh của Thiên Chúa là Ðấng hằng
nhìn thấy mọi sự và gớm ghét sự dữ. 12đ Nhiều kẻ cầm quyền đã trao việc triều
chính cho bạn bè tín cẩn, và biết bao phen vì nghe theo họ mà trở thành đồng
loã trong việc đổ máu người vô tội để rồi bị lôi kéo vào những tai hoạ không
sao thoát khỏi. 12e Chẳng qua là vì những tên bịp bợm ấy đã dùng mưu mô thâm
độc mà lừa dối các bậc cầm quyền vốn có lòng ưu ái chân thật. 12g Không cần
dùng những chuyện cổ xưa truyền lại, các khanh có thể nhìn vào những điều tai
nghe mắt thấy ngày nay mà nhận ra rằng lũ ôn dịch nắm việc triều chính kia đã
mưu toan phạm biết bao tội ác. 12h Ta sẽ chú tâm đến tương lai, lo sao cho mọi
người trong vương quốc được bình an thư thái. 12i Ta sẽ thực hiện nhiều cải
cách, luôn niềm nở tiếp nhận và xét xử những vụ sẽ đệ trình lên ta.
12k
Riêng Ha-man, con của Hăm-mơ-đa-tha người Ma-kê-đô-ni-a, y thực là một người xa
lạ đối với đồng bào Ba-tư, lại còn xa lạ hơn nữa đối với một người có lòng từ
ái như ta, nhưng đã được ta đón tiếp như một khách quý. 12l Y còn được hưởng
lòng nhân nghĩa ta vốn dành cho mọi dân tộc đến mức được công khai gọi là quốc
phụ và được mọi người bái lạy như nhân vật chiếm địa vị thứ hai sau ngai vàng.
12m Nhưng vì không thắng nổi tính kiêu căng, y đã tìm cách làm cho ta mất cả
quyền bính lẫn tính mạng. 12n Y đã dùng những thủ đoạn tinh vi và những lập
luận quanh co mà xin tiêu diệt vị cứu tinh và ân nhân của ta là Moóc-đo-khai;
đồng thời, với chính những thủ đoạn và lập luận trên, y còn tiêu diệt con người
đức hạnh đã cùng ta chia sẻ địa vị cao sang trong vương quốc là Ét-te, và xin
tiêu diệt cả dân tộc của hai nhân vật đó. 12o Hành động như thế, y tưởng có thể
đưa ta vào thế cô lập và phải chuyển quyền cai trị của người Ba-tư sang tay
người Ma-kê-đô-ni-a.
12p
Nhưng ta nhận thấy rằng dân Do-thái mà tên cực kỳ gian ác đó muốn tận diệt
không phải là những tội phạm, trái lại họ chính là những người có luật lệ rất
công minh hướng dẫn. 12q Họ là con cái Thiên Chúa Tối Cao, vĩ đại, hằng sống,
Ðấng vẫn giữ gìn cho vương quốc của ta và của tổ tiên ta được hưng thịnh. 12r
Vậy không thi hành những công văn mà Ha-man, con của Hăm-mơ-đa-tha đã gửi là
chư khanh làm đúng, vì kẻ thảo ra các công văn đó đã bị treo cổ cùng với cả nhà
y tại cửa thành Su-san. Thế là Thiên Chúa, chủ tể muôn loài, đã xét xử công
minh mà không trì hoãn. 12s Bản sao sắc chỉ này, chư khanh phải công khai niêm
yết khắp nơi, đồng thời chư khanh phải để cho người Do-thái sống theo luật lệ
riêng của họ; cũng phải tăng cường lực lượng giúp họ đẩy lui những kẻ sẽ đến
tấn công họ trong ngày gian truân, ngày mười ba tháng thứ mười hai tức là tháng
A-đa. 12t Quả thật, Thiên Chúa, Ðấng làm chủ vạn vật, đã biến ngày ấy thành
ngày hoan lạc cho dân tộc được tuyển chọn thay thế ngày tận diệt dân tộc này.
12u Còn các ngươi, hỡi người Do-thái, hãy tổ chức các cuộc liên hoan mà mừng
ngày đặc biệt ấy như một trong những ngày lễ trọng của các ngươi. Như thế,
trong hiện tại cũng như tương lai, đối với ta và những người Ba-tư thành tâm
thiện chí, ngày ấy trở thành ngày kỷ niệm cuộc giải thoát; còn đối với những kẻ
âm mưu chống lại ta, ngày ấy sẽ là ngày nhắc nhở cảnh diệt vong của chúng.
12v
Thành nào và nói chung miền nào bất cứ không chịu thi hành chỉ thị này là chọc
giận ta, ta sẽ dùng gươm, dùng lửa tiêu diệt hết. Nơi đó chẳng những sẽ không
có bóng người qua lại, mà cả đến muông thú, chim trời cũng ghét bỏ và mãi mãi
tránh xa."
13
Sắc
chỉ này được công bố và có hiệu lực luật pháp trong mọi miền. Bản sao cũng được
phổ biến cho mọi dân tộc, để vào ngày ấn định, người Do-thái sẵn sàng trả đũa
địch thù. 14 Theo lệnh vua, phu trạm cỡi ngựa nhanh nhất nuôi trong
chuồng nhà vua tức tốc lên đường. Sắc chỉ được công bố tại thành Su-san. 15
Ông Moóc-đo-khai rời hoàng cung, mặc triều phục bằng vải trắng điểm màu
đỏ tía, đội triều thiên lớn bằng vàng, khoác cẩm bào bằng vải quý màu đỏ tươi.
Dân chúng khắp thành Su-san đều reo vui mừng rỡ. 16 Ðối với dân
Do-thái, ngày ấy là một ngày tràn ngập ánh sáng, chan chứa vui mừng, hân hoan
và vinh dự. 17 Trong mỗi miền và mỗi thành, bất cứ nơi đâu, mệnh
lệnh và chỉ dụ của vua được chuyển tới, người cũng ta đều chứng kiến cảnh tượng
dân Do-thái vui sướng hân hoan mở tiệc ăn mừng. Giữa các dân trong xứ, nhiều
người tự xưng là Do-thái vì quá sợ người Do-thái.
Chương 09
Ngày
Pu-rim
1
Ngày
mười ba tháng thứ mười hai, tức là tháng A-đa, mệnh lệnh và chỉ dụ của vua đến
lúc phải thi hành. Trong ngày kẻ thù của người Do-thái mong thắng được họ, thì
người Do-thái đã lật ngược thế cờ: chính họ đã thắng những kẻ thù ghét họ. 2
Người Do-thái tụ họp lại trong các thành của họ, trong mọi miền thuộc
quyền vua A-suê-rô, để tra tay hại những kẻ mưu hại họ. Không ai dám đương đầu
với họ, vì các dân đều khiếp sợ người Do-thái. 3 Mọi quan chức các
miền, mọi tổng đốc và công chức nhà vua đều yểm trợ người Do-thái vì rất sợ ông
Moóc-đo-khai. 4 Quả thế, ông Moóc-đo-khai là nhân vật có thế lực
trong hoàng cung và danh tiếng của ông lan ra khắp mọi miền. Quả thế, uy tín
của ông Moóc-đo-khai ngày càng lớn.
5
Người
Do-thái dùng gươm đâm chém hết mọi địch thù của họ. Ðó là một cuộc tàn sát, một
cuộc tận diệt. Họ đối xử tuỳ thích với những kẻ thù ghét họ. 6 Trong
thành Su-san, có đến năm trăm người bị giết chết, bị tận diệt. 7 Ngoài
ra họ còn giết Pác-san-đa-tha, Ða-lơ-phôn, Át-pa-tha, 8 Pô-ra-tha,
A-đan-gia, A-ri-đa-tha, 9 Pác-mát-ta, A-ri-xai, A-ri-đai và
Vai-da-tha, 10 tức là mười người con của Ha-man, cháu ông
Hăm-mơ-đa-tha. Ha-man vốn là cừu địch của người Do-thái. Nhưng những người này
không tra tay cướp của.
11
Chính
ngày ấy, con số những người bị giết trong thành Su-san được đệ trình lên vua. 12
Vua nói với hoàng hậu Ét-te: "Nội trong thành Su-san, người Do-thái
đã giết chết, đã tận diệt năm trăm người cùng với mười người con của Ha-man;
thế thì họ đã làm gì trong các miền khác thuộc quyền vua? Khanh thỉnh cầu gì,
ta sẽ ban cho; khanh có muốn xin gì nữa thì cũng sẽ được.” 13 Bà
Ét-te thưa: "Nếu đẹp lòng đức vua, xin ban phép cho người Do-thái ở Su-san
ngày mai cũng được hành động như sắc chỉ đã cho phép hành động ngày hôm nay;
còn mười đứa con của Ha-man thì xin treo cổ chúng lên giá.” 14 Vua
truyền làm như thế. Một sắc chỉ được công bố ở Su-san, và mười người con của
Ha-man bị treo cổ. 15 Người Do-thái ở Su-san tụ họp lại cả ngày mười
bốn tháng A-đa nữa và ở đó đã giết thêm ba trăm người. Nhưng họ đã không tra
tay cướp của.
16
Những
người Do-thái khác trong các miền thuộc quyền vua cũng tụ họp lại để tự bảo vệ
tính mạng và sống yên ổn, không sợ địch thù nữa. Họ đã giết bảy mươi lăm ngàn
kẻ thù ghét họ, nhưng không tra tay cướp của. 17 Ðó là ngày mười ba
tháng A-đa. Ngày mười bốn cùng tháng, họ nghỉ ngơi và biến ngày này thành một
ngày tiệc tùng vui vẻ. 18 Còn những người Do-thái ở Su-san thì tụ
họp lại ngày mười ba và ngày mười bốn tháng ấy; họ nghỉ ngơi ngày mười lăm và
biến ngày này thành một ngày tiệc tùng vui vẻ. 19 Vì thế những người
Do-thái ở thôn quê và các thị trấn không phòng thủ thì biến ngày mười bốn tháng
A-đa thành một ngày vui vẻ tiệc tùng, một ngày hội hè lễ lạt; ngày đó họ gửi
phần ăn cho nhau. 19a Còn những người ở thành phố thì hân hoan mừng ngày mười
lăm tháng A-đa như ngày lễ; ngày đó, họ cũng gửi phần ăn cho người thân cận.
V.
Ngày Lễ Pu-Rim
Thiết
lập ngày Pu-rim
20
Ông
Moóc-đo-khai ghi chép các sự việc đó và gửi thư cho mọi người Do-thái trong
khắp các miền thuộc quyền vua A-suê-rô, kẻ ở gần cũng như người ở xa. 21 Ông
truyền cho họ hằng năm phải biến ngày mười bốn và ngày mười lăm tháng A-đa 22
thành những ngày người Do-thái được sống yên ổn, không phải sợ hãi thù địch.
Ông cũng truyền phải mừng tháng A-đa: tháng đó, phiền muộn biến thành hân hoan,
ngày tang tóc trở nên ngày đại lễ. Họ phải biến những ngày ấy thành những ngày
tiệc tùng vui vẻ, một cơ hội gửi phần ăn cho nhau và quà tặng cho người nghèo. 23
Những điều người Do-thái bắt đầu giữ và những gì ông Moóc-đo-khai đã viết
cho họ, thì họ công nhận làm tập tục. 24 Quả thế, cừu địch của mọi
người Do-thái là Ha-man, con ông Hăm-mơ-đa-tha người A-gác, đã âm mưu chống lại
người Do-thái nhằm tận diệt họ; y đã gieo "Pua" (nghĩa là bắt thăm)
để loại trừ và tận diệt họ. 25 Nhưng khi bà Ét-te đến trước mặt vua,
thì vua ban sắc chỉ truyền rằng: âm mưu độc ác Ha-man đã nghĩ ra để chống người
Do-thái phải quay lại giáng xuống đầu y; y cùng với các con phải bị treo cổ lên
giá. 26 Vì vậy, người ta gọi những ngày này Pu-rim, do tiếng
"Pua". Cũng vì mọi lời viết trong lá thư trên, vì những gì liên quan
đến sự việc họ đã chứng kiến, và vì những chuyện đã xảy đến cho họ, 27 nên
người Do-thái đã quy định và công nhận việc sau đây làm tập tục không thể huỷ
bỏ được đối với họ cũng như dòng dõi họ và tất cả những ai liên kết với họ:
hằng năm, họ phải mừng hai ngày đó theo như đã ghi chép và vào thời gian đã ấn
định. 28 Ðời đời, phải kỷ niệm và mừng những ngày đó trong mỗi gia
đình, mỗi miền và mỗi thành. Người Do-thái không được bãi bỏ những ngày Pu-rim
ấy, cũng không được để cho dòng dõi họ quên những ngày ấy.
29
Hoàng
hậu Ét-te, ái nữ của ông A-vi-kha-gin và của ông Moóc-đo-khai người Do-thái,
lấy tất cả uy tín của mình mà viết văn thư phê chuẩn văn thư thứ hai trên đây
về lễ Pu-rim. 30 Ông Moóc-đo-khai đã gửi các văn thư ấy đến tất cả
mọi người Do-thái ở một trăm hai mươi bảy tỉnh trong vương quốc của vua
A-suê-rô kèm theo những lời lẽ chân thành cầu chúc bình an. 31 Mục
đích của văn thư ấy là để thiết lập những ngày lễ Pu-rim vào đúng thời gian như
ông Moóc-đo-khai người Do-thái và hoàng hậu Ét-te đã ấn định cho họ và theo
đúng cách thức các vị ấy đã quy định cho họ và dòng dõi họ về việc ăn chay và
kêu cầu. 32 Như thế, lệnh của bà Ét-te đã phê chuẩn các điều liên hệ
đến lễ Pu-rim và đã được ghi vào sách.
Chương 10
Ca
ngợi ông Moóc-đo-khai
1
Vua
A-suê-rô bắt cư dân ở đất liền cũng như ở hải đảo phải nộp thuế. 2 Mọi
sự việc diễn tả uy quyền của vua, mọi chiến công của vua, bài tường thuật về
chức vị cao cả mà vua đã tặng phong cho ông Moóc-đo-khai, tất cả đã chẳng được
ghi chép trong sách Sử biên niên các vua Mê-đi và Ba-tư đó sao?
3
Quả
thật ông Moóc-đo-khai người Do-thái, quan đệ nhị của vua A-suê-rô, là nhân vật
có uy thế lớn đối với người Do-thái, và được đông đảo đồng bào của ông quý mến.
Ông không ngừng mưu cầu lợi ích cho dân ông và hằng chăm lo cho cả nòi giống
được hưởng thái bình.
3a
Ông Moóc-đo-khai nói: "Các điều xảy ra trên đây đều do bàn tay Thiên Chúa.
3b Thật thế, khi tôi nhớ lại những gì đã thấy trong giấc chiêm bao về các sự
việc này, thì quả không có gì đã bị bỏ sót: 3c một con suối nhỏ đã thành sông;
rồi có ánh sáng, có mặt trời, có nước dồi dào. Ét-te là con sông ấy; vua đã
cưới nàng và phong làm hoàng hậu. 3d Còn hai con rồng là tôi và Ha-man. 3đ Các
dân tộc là những dân đã cấu kết với nhau nhằm huỷ diệt tên của người Do-thái; 3e
còn dân của tôi là Ít-ra-en, những người đã kêu cầu Thiên Chúa và đã được cứu
thoát. Ðức Chúa đã cứu dân Người, Ðức Chúa đã giải thoát chúng tôi khỏi tất cả
những tai hoạ ấy. Thiên Chúa đã làm những điềm thiêng dấu lạ lớn lao chưa từng
xảy ra nơi các dân tộc. 3g Vì thế, Người đã làm ra hai số phận: một dành cho
dân Thiên Chúa, và một dành cho mọi dân tộc. 3h Hai số phận ấy đã được thể hiện
cho mọi dân tộc vào đúng giờ, đúng buổi, đúng ngày Thiên Chúa đã ấn định. 3i Và
Thiên Chúa đã nhớ đến dân Người, đã trả lại quyền lợi chính đáng cho dân Người
chọn làm gia nghiệp. 3k Ðối với họ, qua mọi thế hệ và cho đến muôn đời, những
ngày ấy trong tháng A-đa, tức là ngày mười bốn và ngày mười lăm, sẽ là những
ngày hội đầy hân hoan vui sướng trước nhan Thiên Chúa, trong dân của Người là
Ít-ra-en.
Lời
ghi chú về bản dịch Hy-lạp
3l
Năm thứ tư, triều đại vua Pơ-tô-lê-mai và bà Cơ-lê-ô-pát, ông Ðô-xi-thê xưng
mình là tư tế và thầy Lê-vi cùng với con ông là Pơ-tô-lê-mai, đã mang đến bức
thư trên đây về lễ Pu-rim. Các ông ấy nói: đây chính là bức thư đó, và người
phiên dịch là ông Ly-xi-ma-khô, con ông Pơ-tô-lê-mai, cư dân thành Giê-ru-sa-lem.
Ma-ca-bê 1
Chương 01
I.
Lời Nói Ðầu
Vua
A-lê-xan-đê và các tướng kế vị
1
Vua
A-lê-xan-đê, con vua Phi-líp-phê, người Ma-kê-đô-ni-a, xuất thân từ đất
Kít-tim, đã đánh bại Ða-ri-ô, vua nước Ba-tư và Mê-đi, và đã trị vì thay thế
vua Ða-ri-ô - trước đó vua A-lê-xan-đê đã cai trị Hy-lạp - 2 Sau đó vua đánh
nhiều trận, chiếm nhiều thành trì và giết các vua chúa trong vùng. 3 Vua
rong ruổi khắp nơi cho đến tận cùng cõi đất và thu chiến lợi phẩm của nhiều dân
tộc; toàn cõi đất im hơi lặng tiếng trước mặt vua khiến vua sinh lòng tự cao tự
đại; 4 vua tập hợp một đạo quân rất hùng hậu, chinh phục các miền,
các dân và các vương hầu. Họ phải triều cống vua. 5 Sau đó, vua ngã
bệnh liệt giường và nghĩ mình sắp chết. 6 Vua triệu tập các viên
tướng lừng danh của mình, đó là những người đã được nuôi dưỡng cùng với vua từ
buổi thiếu thời, rồi vua chia vương quốc cho họ trước khi nhắm mắt. 7 Vua
A-lê-xan-đê trị vì được mười hai năm thì băng hà. 8 Các viên tướng
của vua lên nắm quyền, mỗi người một miền. 9 Sau khi vua băng hà,
tất cả đều xưng vương, cha truyền con nối trong vòng nhiều năm, gây ra bao tai
hoạ trên cõi đất.
Vua
An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê đưa văn hoá Hy-lạp vào Ít-ra-en (2 Mcb 4:7-17)
10
Từ
trong bọn này, một mầm mống tội lỗi đã nảy sinh : đó là An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê,
con vua An-ti-ô-khô ; vua này đã phải làm con tin ở Rô-ma, trước khi làm vua
năm một trăm ba mươi bảy theo lịch triều Hy-lạp. 11 Lúc bấy giờ, từ
trong Ít-ra-en đã nảy sinh những đứa vô lại, chúng đã dụ dỗ nhiều người như
sau: "Nào chúng ta đi ký kết giao ước với các dân tộc láng giềng, vì từ
khi sống cách biệt họ, chúng ta gặp phải nhiều tai hoạ.” 12 Những
người này thấy lời ấy thật vừa lòng. 13 Một số người trong dân vội
đi yết kiến nhà vua. Vua đã cho phép họ sống theo các tập tục của dân ngoại. 14
Thế là họ đã xây một thao trường ở Giê-ru-sa-lem theo thói các dân ngoại;
15 họ huỷ bỏ dấu vết cắt bì, chối bỏ Giao Ước thánh để mang chung
một ách với dân ngoại và bán mình để làm điều dữ.
Chinh
phạt Ai-cập lần thứ nhất. Cướp phá Ðền Thờ.
16
Khi
vua An-ti-ô-khô thấy vương quyền đã vững, thì tính làm vua đất Ai-cập nữa để
cai trị cả hai nước. 17 Vua tiến vào Ai-cập với một đoàn quân đông
đảo gồm : chiến xa, voi, kỵ binh và một đội tàu chiến lớn. 18 Vua
giao chiến với vua Ai-cập là Pơ-tô-lê-mai. Vua này quay lưng chạy trốn và nhiều
người bị tử thương. 19 Họ chiếm đoạt các thành trì kiên cố trong đất
Ai-cập và thu chiến lợi phẩm của đất Ai-cập. 20 Vua An-ti-ô-khô trở
về sau khi đã đánh bại Ai-cập năm một trăm bốn mươi ba, và vua tiến lên đánh
Ít-ra-en ; vua tiến lên đến tận Giê-ru-sa-lem với một đoàn quân đông đảo.
21
Ông
ngạo nghễ đi vào thánh điện và chiếm đoạt bàn thờ bằng vàng, trụ đèn và mọi đồ
phụ tùng, 22 bàn để bánh tiến, các bình dùng trong lễ rưới, chén,
bình hương bằng vàng, bức trướng, các triều thiên ; và ông lột hết các vật
trang trí bằng vàng ở mặt tiền Ðền Thờ. 23 Ông lấy bạc, vàng, các
vật quý giá, lấy cả các kho tàng đã được cất giấu mà ông tìm được. 24 Vơ
vét tất cả xong, ông trở về xứ sở, sau khi đã chém giết thật dã man và nói năng
hết sức ngạo mạn.
25
Tang
tóc bao trùm khắp cõi Ít-ra-en.
26
Thủ
lãnh, kỳ mục khóc than ai oán,
thanh
niên thiếu nữ yếu nhược suy tàn,
người
phụ nữ đâu còn vẻ đẹp.
27
Tân
lang cất khúc ai ca,
tân
nương than khóc chốn khuê phòng.
28
Ðất
rung chuyển vì dân cư trên đó,
cả
nhà Gia-cóp phải nhục nhã ê chề.
Tướng
A-pô-lô-ni-ô. Việc kiến thiết đồn quân.
29
Hai
năm sau, vua An-ti-ô-khô phái một viên tướng lo việc thuế má đến các thành
thuộc miền Giu-đa ; ông này đến Giê-ru-sa-lem cùng với một đoàn quân đông đảo. 30
Khi nói với dân ông giả bộ hiếu hoà và họ đã tin. Rồi bất chợt ông ập vào
thành, đánh một đòn chí tử, tiêu diệt một số đông dân Ít-ra-en. 31 Ông
thu chiến lợi phẩm trong thành rồi nổi lửa đốt thành, triệt hạ nhà cửa và tường
luỹ chung quanh. 32 Ðàn bà con trẻ thì bắt đi đày, còn súc vật thì
chiếm đoạt. 33 Rồi chúng xây lại Thành vua Ða-vít, có tường luỹ đồ
sộ và vững chắc, có tháp kiên cố, và coi như đồn quân của chúng. 34 Ở
đó, chúng cho định cư một đám dân tội lỗi, những đứa vô lại, và chúng càng thêm
mạnh thế. 35 Chúng tích trữ khí giới và lương thực, tập trung các
chiến lợi phẩm lấy được ở Giê-ru-sa-lem và chất vào đó. Chúng trở nên một cạm
bẫy đáng sợ.
36
Ðó
là một ổ phục kích đối với Thánh Ðiện,
một
đối thủ hung ác của Ít-ra-en mọi thời.
37
Chúng
đổ máu vô tội chung quanh Thánh Ðiện
và
làm cho Thánh Ðiện ra ô uế.
38
Dân
thành Giê-ru-sa-lem thấy chúng liền trốn chạy,
Thành
Thánh nên nơi cư ngụ cho kẻ ngoại bang,
nên
xa lạ đối với con cái mình,
Thành
bị chính con cái mình từ bỏ.
39
Thánh
Ðiện nên sa mạc hoang vu,
các
ngày lễ hoá thành tang tóc,
các
ngày sa-bát trở nên nỗi nhục,
vinh
dự đã biến thành nhơ nhuốc.
40
Xưa
càng vinh nay càng nhục,
xưa
cao cả nay thấp hèn.
Thiết
lập nền phụng tự ngoại giáo
41
Rồi
vua An-ti-ô-khô ra chiếu chỉ trong toàn vương quốc truyền cho mọi người phải
nhập thành một dân duy nhất 42 và ai nấy phải bỏ tục lệ của mình. Mọi dân tộc
đều chấp hành lệnh vua. 43 Trong dân Ít-ra-en, có nhiều người hưởng
ứng việc thờ phượng vua đã truyền ; họ dâng lễ tế cho các ngẫu tượng, vi phạm
luật sa-bát. 44 Vua cũng sai sứ giả đem sắc chỉ đến Giê-ru-sa-lem và
các thành miền Giu-đa, truyền phải theo tục lệ xa lạ đối với dân miền này: 45
cấm không được dâng lễ toàn thiêu, lễ hy tế và lễ rưới trong Thánh Ðiện,
phải vi phạm luật sa-bát và các ngày lễ; 46 phải làm cho Thánh Ðiện
và dân thánh ra ô uế. 47 Vua còn truyền phải lập các bàn thờ, các
nơi tế tự, các đền miếu ; phải sát tế heo và những loài vật ô uế, 48 không
được cắt bì cho con trai nữa ; phải làm cho chính mình ra kinh tởm vì mọi thứ ô
uế và vi phạm 49 đến nỗi quên cả Lề Luật và thay đổi mọi tập tục. 50 Ai
không tuân lệnh vua thì phải chết. 51 Trên đây là nội dung chiếu chỉ
vua đã ra cho toàn vương quốc. Vua còn đặt những người có nhiệm vụ giám sát
toàn dân và truyền cho tất cả các thành ở Giu-đa, không trừ thành nào, phải
dâng lễ tế. 52 Nhiều người trong dân đã bỏ Lề Luật mà hùa theo chúng
; những người ấy đã làm bao điều xấu xa trong xứ, 53 khiến dân
Ít-ra-en phải tìm nơi ẩn khuất mà nương náu.
54
Ngày
mười lăm tháng Kít-lêu, năm một trăm bốn mươi lăm, vua cho dựng Ðồ ghê tởm khốc
hại trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và cho lập các bàn thờ trong các thành miền
Giu-đa chung quanh Giê-ru-sa-lem. 55 Trước cửa nhà và ngoài quảng
trường, người ta dâng hương. 56 Gặp sách Luật ở đâu, thì đem xé và
quăng vào lửa. 57 Bắt gặp sách Giao Ước ở nhà ai và biết ai còn tuân
giữ Lề Luật, thì đem ra xử tử theo phán quyết của vua. 58 Tháng này
qua tháng khác, chúng đàn áp không nương tay những người Ít-ra-en chúng bắt gặp
trong các thành. 59 Ngày hai mươi lăm mỗi tháng, chúng dâng lễ tế
trên bàn thờ chúng đã xây bên trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu. 60 Chiếu
theo chỉ dụ, phụ nữ nào làm phép cắt bì cho con thì chúng cột đứa bé vào cổ và
đem xử tử. 61 Cả gia đình cùng với những người đã làm phép cắt bì
đều bị xử tử.
62
Nhưng
nhiều người trong dân Ít-ra-en vẫn kiên tâm vững chí, nhất định không ăn những
thức ăn ô uế. 63 Họ thà chết chẳng thà để cho mình ra ô uế vì thức
ăn, vi phạm Giao Ước thánh. Cuối cùng họ đã chết. 64 Một cơn thịnh
nộ lớn đe doạ Ít-ra-en.
Chương 02
II.
Ông Mát-Tít-Gia Khơi Dậy Cuộc Thánh Chiến
Ông
Mát-tít-gia và các con
1
Bấy
giờ ông Mát-tít-gia, con ông Gio-an xuất hiện: ông Gio-an là con ông Si-mê-ôn,
tư tế thuộc dòng dõi ông Giô-a-ríp. Ông Mát-tít-gia đã rời Giê-ru-sa-lem đến cư
ngụ ở Mô-đin. 2 Ông có năm người con trai: ông Gio-an, biệt danh là
Gát-đi; 3 ông Si-môn cũng gọi là Thát-xi; 4 ông Giu-đa
cũng gọi là Ma-ca-bê; 5 ông E-la-da cũng gọi là Au-a-ran; ông
Giô-na-than cũng gọi là Áp-phút. 6 Khi chứng kiến những sự phạm
thượng ở miền Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, 7 ông Mát-tít-gia thốt lên:
"Khốn thân tôi! Chẳng lẽ tôi sinh ra để chứng kiến tai hoạ dân tôi và tai
hoạ Thành Thánh phải chịu, và để ngồi đó mà nhìn Thành Thánh bị nộp vào tay
quân thù, nhìn Thánh Ðiện rơi vào tay những kẻ ngoại bang?"
8
Ðền
Thờ của Thành
giống
như một người mất hết vẻ vinh quang;
9
Mọi
vật dụng làm cho Thành được vinh quang
bị
tước đoạt mất rồi;
trẻ
thơ bị giết ngoài đường phố,
thanh
niên gục ngã vì gươm quân thù.
10
Có
dân nào lại không được hưởng
một
phần cung điện làm gia nghiệp,
không
chiếm đoạt chiến lợi phẩm của Thành?
11
Tất
cả vẻ tráng lệ của Thành đã bị cướp đi;
Thành
mất hết tự do, trở nên nô lệ.
12
Nơi
Thánh huy hoàng xưa là niềm vinh dự của chúng ta,
nay
trở thành hoang phế.
Chư
dân đã làm cho Nơi Thánh ra uế tạp.
13
Chúng
ta còn sống nữa làm gì?"
14
Ông
Mát-tít-gia và các con xé áo mình ra, mặc áo vải thô mà để tang ; họ đau đớn vô
cùng.
Thử
thách nhân dịp tế thần ở Mô-đin
15
Các
viên chức của vua An-ti-ô-khô, những người có nhiệm vụ cưỡng bức người Do-thái
chối đạo, đã tới thành Mô-đin để tế thần. 16 Nhiều người Ít-ra-en đã
đến theo chúng. Nhưng ông Mát-tít-gia và các con thì họp lại thành nhóm riêng. 17
Các viên chức của vua lên tiếng nói với ông Mát-tít-gia rằng: "Ông
là thủ lãnh, là người có danh giá, là bậc vị vọng trong thành này, lại được con
cái và anh em ủng hộ. 18 Vậy xin mời ông tiến lên làm người đầu tiên
thi hành chỉ dụ của đức vua, giống như tất cả các dân tộc, các người Giu-đa và
những người còn ở lại Giê-ru-sa-lem đã làm. Rồi ông và các con sẽ được kể vào số
bạn hữu đức vua, sẽ được danh giá, được nhiều vàng bạc và bổng lộc.” 19 Ông
Mát-tít-gia lớn tiếng đáp lại: "Cho dù tất cả các dân tộc trong vương quốc
của vua có nghe lời vua và ai cũng chối bỏ việc thờ phượng của cha ông mình và
tuân theo lệnh vua, 20 thì tôi, các con tôi và anh em tôi, chúng tôi
vẫn trung thành với Giao Ước của cha ông chúng tôi. 21 Không đời nào
chúng tôi bỏ Lề Luật và các tập tục! 22 Chúng tôi sẽ không tuân theo lệnh vua
mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải, vẹo bên trái.” 23 Ông
vừa dứt lời thì có một người Do-thái công khai tiến ra tế thần trên bàn thờ ở
Mô-đin theo như chỉ dụ của vua. 24 Trước cảnh tượng đó, ông
Mát-tít-gia bừng lửa nhiệt thành, ruột gan ông sôi sục, lòng đạo đức khiến ông
nổi giận đùng đùng : ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ. 25 Ông
cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do-thái tế thần.
Rồi ông phá đổ bàn thờ. 26 Ông bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật
giống như ông Pin-khát trong vụ Dim-ri, con của Xa-lu. 27 Rồi ông Mát-tít-gia
rảo khắp thành và hô lớn tiếng : "Ai nhiệt thành với Lề Luật và tuân giữ
Giao Ước, hãy theo tôi!” 28 Sau đó, ông và các con trốn lên núi, bỏ
lại trong thành tất cả tài sản.
Thử
thách nhân ngày sa-bát trong hoang địa
29
Bấy
giờ, nhiều người Do-thái muốn sống công minh chính trực đã xuống hoang địa và
lập cư tại đó; 30 cả vợ con, súc vật cùng đi với họ để tránh những
tai hoạ đang đè nặng trên họ. 31 Người ta báo tin cho các viên chức
của vua và binh lính đồn trú tại Giê-ru-sa-lem, Thành vua Ða-vít : có những
người đã chống lại lệnh vua, đi xuống hoang địa tìm nơi ẩn núp. 32 Một
đoàn quân đông đảo đuổi theo và bắt kịp họ ; chúng dựng trại trước mặt họ và
chuẩn bị giao chiến vào ngày sa-bát. 33 Chúng bảo họ: "Thế là
đủ rồi, hãy đi ra và làm theo lệnh của đức vua thì các ngươi sẽ được sống.” 34
Họ trả lời: "Chúng tôi sẽ không đi ra, cũng chẳng làm theo lệnh của
vua mà vi phạm luật ngày sa-bát.” 35 Chúng liền ập vào đánh họ. 36
Nhưng họ không đánh trả, không ném một hòn đá nào vào chúng, cũng không
chận đường vào nơi ẩn núp. 37 Họ nói : "Nào chúng ta cùng chết
để giữ trọn Luật của chúng ta. Có trời đất chứng giám là chúng ta bị giết một
cách bất công!” 38 Thế là chúng tấn công họ vào chính ngày sa-bát ;
họ đã chết cùng với vợ con và súc vật. Số người chết khoảng một ngàn.
Hoạt
động của ông Mát-tít-gia và nhóm của ông
39
Khi
hay tin đó, ông Mát-tít-gia và các bạn đau đớn vô cùng. 40 Họ bảo
nhau: "Nếu tất cả chúng ta cứ làm như anh em chúng ta đã làm, nếu chúng ta
không chiến đấu chống lại dân ngoại để bảo tồn sự sống và các tập tục của chúng
ta, e rằng chẳng bao lâu nữa chúng sẽ quét sạch chúng ta khỏi mặt đất.” 41
Vậy ngày hôm ấy họ quyết định: "Bất cứ người nào đến tấn công chúng
ta vào ngày sa-bát, chúng ta sẽ ứng chiến để không phải chết như các anh em chúng
ta đã chết trong các nơi ẩn núp."
42
Bấy
giờ, nhóm Khi-xi-đin gồm những người mạnh mẽ can trường trong Ít-ra-en, và mọi
người tự nguyện trung thành với Lề Luật đã kề vai sát cánh với họ; 43 tất
cả những người đang trốn tránh tai ương cũng liên minh với họ và làm cho họ trở
nên mạnh thế. 44 Họ hợp thành một đạo binh ; họ phẫn nộ đánh quân
tội lỗi và căm tức đánh phường vô đạo. Ðám còn lại thì trốn sang phía dân ngoại
để được sống. 45 Ông Mát-tít-gia và các bạn rảo quanh khắp nơi, phá
đổ bàn thờ, 46 bắt phải làm phép cắt bì cho những trẻ em nào chưa
được cắt bì mà họ gặp thấy trên lãnh thổ Ít-ra-en. 47 Họ đánh đuổi
bọn người ngạo mạn. Mọi việc vào tay họ đều trôi chảy. 48 Họ đã dành
lại Lề Luật từ tay dân ngoại và vua chúa, không để cho kẻ tội lỗi thắng thế.
Di
chúc. Ông Mát-tít-gia qua đời.
49
Gần
đến ngày ông Mát-tít-gia qua đời, ông nói với các con : "Bây giờ là thời
của ngạo mạn, lăng mạ, đảo điên và lôi đình thịnh nộ. 50 Vậy giờ
đây, hỡi các con, hãy bừng lửa nhiệt thành đối với Lề Luật và hãy hy sinh mạng
sống để bảo vệ Giao Ước của tổ tiên chúng ta.
51
Hãy
nhớ lại sự nghiệp các bậc tổ tiên đã thực hiện vào thời của các ngài, các con
sẽ được vinh quang hiển hách và lưu danh muôn thuở.
52
Ông
Áp-ra-ham lại không được kể là người trung tín trong cơn thử thách, và lại
chẳng được kể là người công chính đó sao?
53
Ông
Giu-se đã giữ mệnh lệnh trong buổi khốn cùng và đã trở nên chúa Ai-cập. 54
Ông Pin-khát, cha ông chúng ta, vì được lửa nhiệt thành nung nấu nên đã
đón nhận giao ước bảo đảm chức tư tế đời đời.
55
Ông
Giô-suê, vì đã hoàn thành sứ mạng, nên đã trở thành thủ lãnh dân Ít-ra-en. 56
Ông Ca-lếp, vì đã làm chứng trong đại hội, nên đã được phần gia nghiệp
trong xứ.
57
Vua
Ða-vít, vì lòng mộ đạo nên đã được ngai báu làm gia nghiệp muôn đời.
58
Ông
Ê-li-a, vì được lửa nhiệt thành với Lề Luật nung nấu nên đã được đưa lên đến
tận trời.
59
Kha-na-ni-a,
A-da-ri-a và Mi-sa-ên, vì tin nên đã thoát khỏi ngọn lửa hồng.
60
Ða-ni-en,
vì chính trực nên đã thoát khỏi nanh sư tử.
61
Vì
vậy, các con hãy tâm niệm rằng : từ đời này qua đời khác, hết những ai đặt hy
vọng vào Thiên Chúa sẽ không bị suy tàn.
62
Ðừng
sợ những lệnh truyền của con người tội lỗi ấy; vì vinh quang của nó sẽ biến
thành phân thành dòi.
63
Hôm
nay nó tự cao tự đại, nhưng ngày mai chẳng còn thấy nó đâu, vì nó đã trở về tro
bụi và dự định của nó cũng tiêu tan.
64
Các
con ơi, vì Lề Luật, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Nhờ Lề Luật các con sẽ được
vinh quang.
65
Ðây
Si-mê-ôn, người anh em của các con, cha biết nó là người mưu lược; các con hãy
luôn nghe lời nó : chính nó sẽ là cha của các con. 66 Còn Giu-đa
Ma-ca-bê, mạnh mẽ can trường từ thuở bé, chính nó sẽ là thủ lãnh các toán quân
của các con và nó sẽ cầm quân giao chiến với dân ngoại. 67 Phần các
con, hãy quy tụ lại hết mọi người tuân giữ Lề Luật và hãy trả thù cho dân của
các con. 68 Hãy giáng trả cho dân ngoại oán thù chúng đã gây ra và
hãy gắn bó với điều Luật truyền.” 69 Bấy giờ ông Mát-tít-gia chúc
phúc cho các con, rồi về sum họp với tổ tiên. 70 Ông qua đời năm một
trăm bốn mươi sáu và được mai táng trong phần mộ tổ tiên ở Mô-đin. Toàn dân
Ít-ra-en khóc thương ông thảm thiết.
Chương 03
III.
Ông Giu-Ða Ma-Ca-Bê,
Thủ
Lãnh Người Do-Thái (166-160)
Lời
ca tụng ông Giu-đa Ma-ca-bê
1
Ông
Giu-đa cũng gọi là Ma-ca-bê, con ông Mát-tít-gia, đứng lên thay cha. 2 Tất
cả anh em ông và mọi người thuộc phe của cha ông đều ủng hộ ông, và họ phấn
khởi tham gia cuộc kháng chiến của dân Ít-ra-en.
3
Ông
đã làm cho dân mình được tiếng tăm lừng lẫy.
Ông
mặc áo giáp như một vị anh hùng, mình mang đầy võ khí.
Ông
giao tranh nhiều trận và vung gươm bảo vệ trại quân.
4
Khi
hành động, ông giống như sư tử,
như
sư tử con rống lên săn mồi.
5
Phát
hiện ra quân vô đạo, ông liền đánh đuổi
và
phóng hoả đốt những kẻ gây rối trong dân.
6
Quân
vô đạo co rúm lại vì nỗi kinh hoàng ông gây ra cho chúng,
mọi
kẻ làm điều gian ác phải thất điên bát đảo
và
cuộc giải phóng trôi chảy nhờ tay ông.
7
Ông
làm cho vua chúa phải ngậm đắng nuốt cay;
nhờ
chiến tích của ông, tổ phụ Gia-cóp được vui lòng thoả dạ;
tới
muôn đời, nhắc nhở đến ông vẫn còn là một mối phúc.
8
Ông
rong ruổi các thành xứ Giu-đa
để
tiêu diệt những quân vô đạo
và
hướng cơn thịnh nộ ra khỏi Ít-ra-en.
9
Tiếng
tăm ông vang lừng đến tận cùng cõi đất;
ông
quy tụ lại những người sắp tiêu vong.
Những
thắng lợi bước đầu (2 Mcb 8:1-7)
10
A-pô-lô-ni-ô
quy tụ dân ngoại cùng với một đạo quân hùng mạnh từ Sa-ma-ri, để giao chiến với
dân Ít-ra-en. 11 Ðược tin, ông Giu-đa ra nghênh chiến ; ông đánh bại
và giết chết A-pô-lô-ni-ô. Nhiều người bị tử thương, còn đám sống sót thì trốn
chạy. 12 Quân Ít-ra-en thu chiến lợi phẩm của chúng ; còn ông Giu-đa
thì lấy thanh gươm của A-pô-lô-ni-ô và dùng gươm đó để chiến đấu suốt đời ông.
13
Nghe
biết là ông Giu-đa đã tập hợp quanh mình đông đảo quần chúng, cùng với những
người trung thành và sẵn sàng chiến đấu, Xê-rôn, tướng chỉ huy quân đội Xy-ri, 14
tự nhủ : "Ta phải làm cho danh ta lừng lẫy và ta sẽ được vinh hiển
trong vương quốc này. Ta sẽ giao chiến với Giu-đa cùng với dân ở đó là bọn
người đã coi thường lệnh vua.” 15 Vậy ông ta đã lên đường giao chiến
; cùng đi với ông, có một đoàn quân hùng mạnh gồm những kẻ vô đạo để tiếp tay
với ông trả thù con cái Ít-ra-en. 16 Khi chúng tiến đến gần đèo Bết
Khô-rôn, thì ông Giu-đa đem theo một nhúm người ra nghênh chiến. 17 Vừa
thấy đoàn quân đến nghênh chiến với mình, những người này nói với ông Giu-đa :
"Chúng ta chỉ có một nhúm người thì làm sao có thể đương đầu nổi với một
số đông hùng mạnh như thế kia? Chúng ta lại mệt lử, vì cả ngày nay chưa ăn uống
gì.” 18 Ông Giu-đa nói : "Nhiều người mà bị rơi vào tay một ít
người, chuyện đó cũng dễ thôi! Vả lại, đối với Trời, dùng nhiều người hay ít
người mà cứu thoát cũng chẳng khác nhau. 19 Bởi vì người ta thắng
trận không phải nhờ số quân đông đảo, nhưng là nhờ Trời ban sức mạnh cho. 20
Chúng nó đến đánh chúng ta, thật bạo ngược gian tà, nhằm tiêu diệt chúng
ta, và vợ con chúng ta, rồi cướp bóc chúng ta; 21 còn chúng ta,
chúng ta giao chiến để bảo toàn sinh mạng và các tập tục của chúng ta. 22 Chính
Trời sẽ nghiền nát chúng nó trước mặt chúng ta ; vậy anh em đừng sợ!” 23 Nói
xong, ông bất thần xông vào chúng. Xê-rôn cùng với đoàn quân bị nghiền nát
trước mặt ông. 24 Quân Ít-ra-en đuổi theo chúng từ Bết Khô-rôn cho
đến đồng bằng. Khoảng tám trăm người bọn chúng đã ngã gục ; số còn lại chạy
trốn sang đất người Phi-li-tinh. 25 Thiên hạ bắt đầu sợ ông Giu-đa
và các anh em. Các dân tộc chung quanh đều kinh hãi. 26 Tiếng tăm
ông Giu-đa đồn đến tai vua. Chư dân bàn tán về những trận đánh của ông.
Vua
An-ti-ô-khô chuẩn bị tấn công Ba-tư và Giu-đa
Quan
nhiếp chính Ly-xi-a.
27
Nghe
biết những chuyện đó, vua An-ti-ô-khô đùng đùng nổi giận, sai người đi tập hợp
toàn thể quân đội trong vương quốc thành một đoàn quân rất hùng hậu. 28 Vua
mở kho báu, phát lương cả năm cho quân đội, và truyền lệnh cho họ phải sẵn sàng
ứng phó với mọi tình huống. 29 Vậy khi vua thấy bạc trong các kho
không đủ, phẩm vật các miền triều cống lại ít, do những mối bất hoà và tai ương
vua gây ra trong xứ này vì đã dẹp bỏ các tục lệ có từ xưa, 30 vua sợ
không có gì để chi dùng và ban phát, như đã xảy ra nhiều lần, vì xưa nay vua
vẫn là người hào phóng vượt hẳn các vua trước. 31 Tâm hồn vua vô
cùng bối rối ; vua quyết định sang Ba-tư lấy phẩm vật các miền triều cống và
thu thật nhiều bạc. 32 Vua để cho ông Ly-xi-a, một người danh giá và
thuộc hoàng tộc, trông coi việc nước từ sông Êu-phơ-rát cho đến biên giới
Ai-cập 33 và nuôi nấng con vua là An-ti-ô-khô cho đến khi vua trở về. 34 Vua
trao cho ông một nửa số quân cùng với voi và truyền cho ông thi hành mọi quyết
định của mình, nhất là về vấn đề dân cư ở Giu-đê và Giê-ru-sa-lem. 35 Vua
truyền cho ông đem quân đến đánh dân ấy, để đập tan và quét sạch lực lượng
Ít-ra-en cũng như số còn sót lại ở Giê-ru-sa-lem, khiến chẳng ai nhắc đến họ ở
nơi đó nữa; 36 rồi cho những người ngoại bang được đến định cư trong
khắp lãnh thổ của họ, đồng thời chia đất họ thành từng phần. 37 Vua
đem theo một nửa số quân còn lại và năm một trăm bốn mươi bảy, vua rời kinh đô
An-ti-ô-khi-a lên đường. Vua vượt sông Êu-phơ-rát và băng qua các miền thượng
du.
Tướng
Ni-ca-no và Goóc-ghi-át đem quân Xy-ri tới xứ Giu-đa (2 Mcb 8:8-15)
38
Ông
Ly-xi-a đã chọn Pơ-tô-lê-mai con của Ðô-ry-mê-nê, Ni-ca-no và Goóc-ghi-át,
những người thế lực trong số các bạn hữu của vua 39 và cùng với họ, ông sai bốn
mươi ngàn bộ binh, bảy ngàn kỵ binh tiến đến xứ Giu-đa và tàn phá miền ấy theo
lệnh của vua. 40 Họ ra đi cùng với cả đoàn quân và đến đóng trại ở
gần Em-mau, thuộc miền Sơ-phê-la. 41 Ðám con buôn trong miền ấy nghe
đồn về chúng, liền đem theo rất nhiều vàng bạc và cả xích sắt, đến chỗ đóng
quân để mua con cái Ít-ra-en làm nô lệ. Quân đội Xy-ri và Phi-li-tinh cũng tiến
đến nhập đoàn với chúng. 42 Ông Giu-đa và các anh em thấy tai hoạ
gia tăng, quân đội ngoại bang chiếm đóng lãnh thổ, đồng thời được biết lệnh vua
truyền phải tiêu diệt hoàn toàn dân Ít-ra-en, 43 họ bảo nhau :
"Ta phải phục hồi dân ta đang bị suy sụp và hãy chiến đấu để bảo vệ dân
tộc và Nơi Thánh của ta.” 44 Cộng đoàn được triệu tập để chuẩn bị
giao chiến, để cầu nguyện và nài xin lòng trắc ẩn.
45
Giê-ru-sa-lem
không người cư ngụ như sa mạc hoang vu;
dân
thành không một ai qua lại, Thánh Ðiện bị giày xéo,
Ðô
Thị thành nơi ở cho người ngoại bang,
nên
lữ quán cho dân ngoại mất rồi!
Nhà
Gia-cóp không còn hân hoan,
đã
im bặt tiếng kèn tiếng sáo.
Người
Do-thái họp nhau ở Mít-pa (2 Mcb 8:16-23)
46
Vậy
người Do-thái họp nhau lại và kéo đến Mít-pa, đối diện với Giê-ru-sa-lem, vì ở
đó trước kia có một nơi cho người Ít-ra-en cầu nguyện. 47 Ngày hôm
ấy, họ ăn chay, mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu và xé áo mình ra. 48 Họ
mở sách Luật để xem phải làm thế nào, giống như dân ngoại vẫn thỉnh vấn các
ngẫu tượng. 49 Họ mang theo y phục vẫn dùng khi tế tự cũng như của
đầu mùa và thuế thập phân ; lại đưa những người có lời khấn na-dia đến, khi
những người này đã mãn thời kỳ khấn đặc biệt. 50 Họ lớn tiếng kêu
lên Trời rằng : "Chúng con phải làm gì cho những người này, phải dẫn đưa
họ đi đâu? 51 Bởi vì Nơi Thánh của Ngài đã bị giày xéo và ra ô uế, các tư tế
của Ngài phải chịu cảnh tang tóc và nếm mùi ô nhục. 52 Này các dân
ngoại hùa nhau chống lại chúng con nhằm tiêu diệt chúng con. Chính Ngài biết
những điều chúng đang toan tính chống lại chúng con. 53 Làm sao
chúng con có thể đương đầu với chúng nếu chính Ngài không ra tay phù trợ?” 54
Rồi họ thổi kèn và kêu lớn tiếng.
55
Sau
đó, ông Giu-đa cắt đặt những người chỉ huy dân quân : điều khiển một ngàn, một
trăm, năm mươi, mười người. 56 Còn những người vừa mới xây nhà, cưới
vợ hoặc mới trồng được vườn nho, hay những người nhát gan, thì ông bảo họ về
nhà, đúng như Lề Luật dạy. 57 Bấy giờ đoàn quân lên đường và đến
đóng trại ở phía nam Em-mau. 58 Ông Giu-đa nói với họ: "Anh em
hãy võ trang, hãy tỏ ra là những người can đảm! Hãy sẵn sàng để sáng mai giao
chiến với dân ngoại này, những dân đã hùa nhau chống lại chúng ta nhằm tiêu
diệt chúng ta và Nơi Thánh của chúng ta, 59 vì thà chết ngoài mặt trận
còn hơn là phải chứng kiến những tai hoạ mà dân tộc và Nơi Thánh của chúng ta
phải gánh chịu. 60 Trời muốn sao, xin Người làm như vậy !"
Chương 04
Trận
chiến ở Em-mau (2 Mcb 8:23-29)
1
Goóc-ghi-át
đem theo năm ngàn bộ binh và một ngàn kỵ binh tinh nhuệ. Ðoàn quân lên đường
trong đêm tối 2 để ập vào doanh trại của người Do-thái và tấn công bất thình
lình. Có mấy người trong đồn quân dẫn đường cho ông. 3 Hay tin,
chính ông Giu-đa và những người lính dũng cảm đã lên đường để đánh quân của vua
đóng trại ở Em-mau, 4 trong khi các binh đội vẫn còn đang tản mác
bên ngoài doanh trại. 5 Ông Goóc-ghi-át đến doanh trại của ông
Giu-đa vào ban đêm. Thấy không có ai, ông liền đi vào miền núi để truy lùng
người Do-thái, vì ông bảo : "Bọn này trốn chúng ta.” 6 Vừa tảng
sáng ông Giu-đa xuất hiện trong cánh đồng cùng với ba ngàn quân ; quân của ông
không có áo giáp, cũng chẳng có gươm như họ muốn. 7 Họ thấy doanh
trại của dân ngoại vừa hùng mạnh vừa được bố phòng, có kỵ binh bao bọc ; quân
của chúng toàn là những người đã được huấn luyện để chiến đấu.
8
Ông
Giu-đa nói với quân của ông: "Anh em đừng sợ hãi vì thấy chúng đông đảo,
cũng đừng hoảng hốt khi bị tấn công. 9 Hãy nhớ lại : tổ tiên chúng
ta đã được cứu thoát như thế nào tại Biển Ðỏ, khi bị quân Pha-ra-ô đuổi theo. 10
Vậy bây giờ, chúng ta hãy kêu lên Trời, xin Người thương đến chúng ta.
Xin Người nhớ lại giao ước đã thiết lập với tổ tiên mà nghiền nát đoàn quân
đang ở trước mặt chúng ta hôm nay. 11 Bấy giờ mọi dân tộc sẽ biết
rằng có một Ðấng cứu chuộc và giải thoát Ít-ra-en."
12
Ngước
mắt lên, quân ngoại bang thấy người Do-thái đang tiến lại đánh mình. 13 Chúng
liền ra khỏi doanh trại để giao chiến. Quân của ông Giu-đa thổi kèn. 14 Họ
xông vào trận chiến. Dân ngoại bị nghiền nát và chạy trốn về phía cánh đồng; 15
tất cả đám hậu quân đều bị gươm đâm ngã gục. Người Do-thái đuổi theo
chúng cho đến Ghe-de, mãi cho đến đồng bằng miền I-đu-mê, miền Át-đốt và
Giam-ni-a. Khoảng ba ngàn quân của chúng đã ngã gục.
16
Sau
khi đuổi theo bọn chúng, ông Giu-đa cùng với đạo quân trở về. 17 Ông
nói với dân : "Anh em đừng ham chiến lợi phẩm, vì chiến cuộc vẫn còn tiếp
diễn. 18 Goóc-ghi-át và đạo quân của hắn đang ở trên núi gần chúng
ta. Bây giờ anh em hãy đứng vững trước mặt quân thù và giao chiến với chúng ;
sau đó anh em sẽ tha hồ mà thu chiến lợi phẩm.” 19 Ông Giu-đa vừa
nói xong, thì một cánh quân xuất hiện ; từ trên núi nhìn xuống, 20 chúng
thấy đồng bọn đã tẩu thoát, doanh trại bị thiêu huỷ : quả thật, chỉ thấy khói
cũng biết được điều gì mới xảy ra. 21 Trước cảnh tượng ấy chúng hoảng
hốt vô cùng, nay lại thấy đoàn quân của ông Giu-đa đang ở trong cánh đồng, sẵn
sàng chiến đấu, 22 cả bọn liền chạy trốn sang đất của người
Phi-li-tinh. 23 Bấy giờ ông Giu-đa trở lại để cướp phá doanh trại.
Quân của ông lấy được nhiều vàng bạc, vải đỏ tía, vải điều màu sò huyết và rất
nhiều của cải. 24 Khi trở về, người Do-thái ngợi khen chúc tụng Trời
"vì Người nhân từ, muôn ngàn đời Người vẫn trọn tình thương.” 25 Ngày
hôm ấy quân Ít-ra-en đại thắng.
26
Một
số quân ngoại bang thoát nạn, về báo cho ông Ly-xi-a biết mọi việc đã xảy ra. 27
Ðược tin ấy, ông sững sờ, chán nản, vì sự việc xảy ra tại Ít-ra-en đã
không diễn tiến theo ý ông, và những gì vua truyền cho ông làm đã không đạt kết
quả.
Ông
Ly-xi-a xuất chinh lần đầu (2 Mcb 11:1-12)
28
Năm
sau, ông Ly-xi-a tập họp sáu mươi ngàn quân tinh nhuệ, và năm ngàn kỵ binh để
quyết chiến với người Do-thái. 29 Chúng đến miền I-đu-mê và đóng
trại ở Bết Xua. Ông Giu-đa đem mười ngàn quân ra nghênh chiến với chúng. 30
Khi thấy đoàn quân hùng mạnh ấy, ông đã cầu nguyện rằng : "Lạy Ðấng
cứu độ Ít-ra-en, xin chúc tụng Ngài ; Ngài đã dùng bàn tay của tôi tớ Ngài là
vua Ða-vít mà đập tan cuộc tiến công của con người hùng mạnh và đã trao nộp
đoàn quân Phi-li-tinh vào tay ông Giô-na-than, con vua Sa-un, và vào tay người
mang khí giới cho ông. 31 Xin Ngài cũng dồn đoàn quân này vào vòng
vây hãm của dân Ngài là Ít-ra-en ; xin cho chúng phải nhục nhã vì đã quá tin
vào quân đội và kỵ binh của chúng. 32 Xin làm cho chúng khiếp đảm,
cho khí thế kiêu hùng của chúng rã tan, cho chúng phải lao đao vì thất bại. 33
Xin cho chúng phải ngã quỵ trước lưỡi gươm của những kẻ yêu mến Ngài, và
cho mọi người nhận biết Thánh Danh được chúc tụng ngợi khen Ngài.” 34 Họ
xông vào giáp chiến ; có khoảng năm ngàn người trong số quân của ông Ly-xi-a đã
ngã gục ; chúng đã ngã gục trước mặt người Do-thái. 35 Thấy hàng ngũ
của mình tán loạn, còn hàng ngũ của ông Giu-đa đầy nhuệ khí và sẵn sàng sống
vinh quang hay chết anh hùng, ông Ly-xi-a liền quay về An-ti-ô-khi-a. Tại đây,
ông mộ lính đánh thuê để trở lại miền Giu-đê với lực lượng hùng hậu hơn.
Lễ
thanh tẩy và cung hiến Ðền Thờ (2 Mcb 10:1-8)
36
Bấy
giờ ông Giu-đa và các anh em nói: "Này, kẻ thù của chúng ta đã bị đập tan,
chúng ta hãy lên thanh tẩy và cung hiến Nơi Thánh.” 37 Tất cả đoàn
quân tập hợp lại và lên núi Xi-on. 38 Họ thấy Thánh Ðiện tan hoang,
bàn thờ dâng lễ toàn thiêu ra ô uế, cửa ngõ bị thiêu rụi, tiền đường cây cỏ mọc
um tùm như trên rừng trên núi, phòng ốc bị phá huỷ. 39 Họ xé áo mình
ra, kêu la thảm thiết và rắc tro lên đầu. 40 Rồi họ sắp mặt xuống
đất. Họ hò la theo tiếng kèn hiệu và kêu lên trời.
41
Khi
ấy, ông Giu-đa ra lệnh cho quân lính giao chiến với quân đội đang đóng ở trong
đồn quân, cho đến khi thanh tẩy xong Nơi Thánh. 42 Ông chọn những vị
tư tế không có gì đáng trách, thiết tha với Lề Luật, 43 và để các
ông thanh tẩy Nơi Thánh, rồi khiêng những viên đá nhơ nhuốc ném vào nơi ô uế.
44
Họ
bàn luận xem phải xử sự thế nào đối với bàn thờ dâng lễ toàn thiêu đã ra ô uế, 45
và họ đã ngả theo ý kiến hợp lý này là nên phá huỷ đi, để khỏi làm cớ cho
họ phải ô nhục vì dân ngoại đã làm cho bàn thờ ấy ra nhơ nhuốc. Thế là họ đã
phá huỷ bàn thờ dâng lễ toàn thiêu 46 và đem những tảng đá đặt vào nơi xứng hợp
trên núi Nhà Tạm, chờ đến khi có một vị ngôn sứ tới chỉ cách phải giải quyết
như thế nào. 47 Họ lấy những tảng đá còn nguyên theo như Luật
truyền, mà xây bàn thờ mới theo kiểu cũ. 48 Họ đã trùng tu Nơi
Thánh, bên trong Nhà Tạm và thánh hiến các tiền đình. 49 Họ làm
những đồ thánh mới và đưa vào trong Ðền Thờ trụ đèn, bàn thờ để đốt hương và
bàn đặt bánh tiến. 50 Họ đốt hương trên bàn thờ và thắp đèn trên trụ
để chiếu sáng trong Ðền Thờ. 51 Họ đặt bánh trên bàn và giăng các
bức trướng. Họ đã hoàn tất mọi việc phải làm.
52
Ngày
hai mươi lăm tháng chín -tức là tháng Kít-lêu- năm một trăm bốn mươi tám, họ
dậy sớm 53 và theo như Luật truyền, họ dâng lễ tế trên bàn thờ dâng lễ toàn
thiêu họ vừa mới xây. 54 Họ đã cử hành lễ cung hiến bàn thờ giữa
tiếng đàn tiếng hát, tiếng hạc cầm và tiếng não bạt, vào đúng lúc đúng ngày
trước đây dân ngoại đã làm cho ra ô uế. 55 Toàn dân sấp mặt xuống
thờ lạy và chúc tụng Trời, Ðấng đã giúp họ thành công. 56 Họ cử hành
lễ cung hiến bàn thờ trong tám ngày liên tục, hoan hỷ dâng lễ toàn thiêu, hy lễ
hiệp thông và tạ ơn. 57 Họ lấy các triều thiên bằng vàng và những tấm
biển mà trang trí mặt tiền Ðền Thờ, đồng thời cũng sửa sang các lối ra vào, các
phòng ốc và làm lại các cửa phòng. 58 Dân chúng vui mừng khôn kể
xiết và quên hẳn nỗi nhục nhằn dân ngoại đã gây ra. 59 Ông Giu-đa
cùng với anh em và toàn thể đại hội Ít-ra-en quyết định là hằng năm, trong thời
gian tám ngày từ hai mươi lăm tháng Kít-lêu, phải cử hành lễ cung hiến bàn thờ
thật tưng bừng rộn rã.
60
Thời
ấy, họ đã xây tường cao, tháp kiên cố chung quanh núi Xi-on, hầu ngăn chặn dân
ngoại khỏi giày xéo những nơi này như chúng đã làm trước kia. 61 Ông
Giu-đa cắt một toán quân ở đó để canh giữ. Ông củng cố Bết Xua, cho dân có cột
pháo đài để phòng ngự phía I-đu-mê.
Chương 05
Chinh
phạt dân I-đu-mê và dân Am-mon (2 Mcb 10:14-23)
1
Vậy
khi các dân tộc lân bang nghe tin bàn thờ đã được xây lại, Thánh Ðiện đã được
tái thiết như thuở xưa thì chúng vô cùng phẫn nộ. 2 Chúng quyết tâm
tiêu diệt giống nòi Gia-cóp đang sống ở giữa chúng ; chúng bắt đầu chém giết và
trục xuất họ.
3
Ông
Giu-đa giao chiến với con cái Ê-xau ở xứ I-đu-mê, vùng Ắc-ra-bát-tê-nê, vì
chúng đã bao vây dân Ít-ra-en. Ông giáng cho chúng một đòn chí tử, đẩy lui
chúng và tịch thu chiến lợi phẩm. 4 Ông cũng nhớ lại ác tâm của con
cái Bai-an ; chúng trở thành cạm bẫy và chướng ngại khiến dân vấp ngã, vì đã
đặt những ổ phục kích ở dọc đường. 5 Ông dồn chúng vào các tháp
canh, bao vây và tru hiến chúng, rồi phóng hoả đốt các tháp canh cùng với mọi
người ở trong đó. 6 Ðoạn ông qua chỗ dân Am-mon, gặp phải một cánh
quân hùng mạnh và một đám dân quân đông đảo, dưới quyền chỉ huy của ông
Ti-mô-thê. 7 Ông giao chiến với chúng nhiều trận ; chúng bị đè bẹp
trước mặt ông và ông đã đánh bại chúng. 8 Ông chiếm thành Gia-de và
các thành phụ thuộc, rồi trở về Giu-đê.
Sơ
lược về các trận chiến ở Ga-li-lê và Ga-la-át
9
Dân
ngoại ở Ga-la-át liên minh với nhau chống lại những người Ít-ra-en đang sống
trên lãnh thổ của chúng nhằm tiêu diệt họ. Họ trốn vào pháo đài Ða-thê-ma. 10
Họ gửi cho ông Giu-đa và các anh em bức thư nội dung như sau: "Các
dân ngoại ở chung quanh đang liên minh với nhau nhằm chống lại và tiêu diệt
chúng tôi; 11 chúng chuẩn bị đến chiếm pháo đài nơi chúng tôi đang
ẩn nấp. Chính Ti-mô-thê thống lãnh quân đội của chúng. 12 Vậy bây
giờ xin ông tới giải thoát chúng tôi khỏi tay chúng, vì nhiều người trong chúng
tôi đã ngã gục. 13 Tất cả anh em chúng ta đang sống ở miền Tô-bi-a
đã bị giết ; vợ con họ bị đem đi đày, tài sản họ bị tước đoạt. Ở đó khoảng một
ngàn người đã bị sát hại.” 14 Họ còn đang đọc thư thì có những sứ
giả khác từ miền Ga-li-lê về tới, áo quần tả tơi, cũng thông báo những việc như
thế. 15 Họ nói: "Chư dân ở Pơ-tô-lê-mai, Tia, Xi-đôn và khắp
miền Ga-li-lê thuộc ngoại bang liên minh với nhau chống lại chúng tôi để huỷ
diệt chúng tôi.” 16 Nghe biết những tin ấy, ông Giu-đa và dân chúng
tổ chức đại hội để bàn bạc xem phải làm gì cho các anh em mình đang gặp cơn
quẫn bách và sắp bị kẻ thù tấn công. 17 Ông Giu-đa nói với anh mình
là ông Si-môn: "Xin anh tự chọn lấy quân đi giải thoát các anh em ở miền
Ga-li-lê; còn tôi và chú Giô-na-than sẽ đi đến miền Ga-la-át.” 18 Ông
để ông Giô-xếp con ông Dơ-khác-gia và ông A-da-ri-a thủ lãnh của dân, ở lại
Giu-đê cùng với số quân còn lại để trấn giữ. 19 Ông chỉ thị cho họ
rằng: "Các ông hãy chỉ huy đám quân này, và đừng giao chiến với dân ngoại
cho đến khi chúng tôi trở về.” 20 Ông Si-môn đem ba ngàn quân tiến
về miền Ga-li-lê, còn ông Giu-đa đem tám ngàn quân tiến về miền Ga-la-át.
Các
cuộc chinh phạt ở Ga-li-lê và Ga-la-át (2 Mcb 12:10-37)
21
Ông
Si-môn sang miền Ga-li-lê giao chiến nhiều trận với dân ngoại, và dân ngoại đã
bị ông đè bẹp. 22 Ông đuổi theo chúng cho đến tận cổng thành
Pơ-tô-lê-mai. Phía dân ngoại, có khoảng ba ngàn người ngã gục và ông Si-môn đã
thu được của chúng nhiều chiến lợi phẩm. 23 Ông tập hợp những người
Do-thái từ miền Ga-li-lê và Ác-bát-ta cùng với vợ con và tất cả tài sản của họ
; ông vô cùng hoan hỷ đưa cả đoàn về miền Giu-đê.
24
Còn
ông Giu-đa Ma-ca-bê cùng với em mình là Giô-na-than đã vượt sông Gio-đan và đi
ba ngày đường trong hoang địa. 25 Họ gặp người Na-ba-tê ; những
người này đã niềm nở tiếp đón họ, và thuật lại cho họ nghe tất cả những gì đã
xảy ra cho anh em họ ở miền Ga-la-át, 26 đồng thời cũng cho họ biết một
số đông những người ấy đã bị vây hãm trong các thành kiên cố và to lớn là
Bo-xo-ra, Bo-xo, A-lê-ma, Khát-phô, Ma-kết và Các-na-in như thế nào. 27 Trong
các thành khác thuộc miền Ga-la-át cũng có những người bị vây hãm ; kẻ thù của
họ đã quyết định là ngày mai sẽ tấn công để chiếm các pháo đài và tận diệt mọi
người ở đó nội trong một ngày.
28
Lập
tức, ông Giu-đa và đoàn quân quay ngược trở lại, hướng về phía hoang địa
Bo-xo-ra. Ông đã chiếm được thành, vung gươm giết hết mọi đàn ông, thu tất cả
chiến lợi phẩm và phóng hoả đốt thành. 29 Rồi đang đêm, ông bỏ đó ra
đi, đem quân đến pháo đài Ða-thê-ma. 30 Ðến sáng, họ ngước mắt nhìn
thì thấy một đám quân đông vô kể, đang bắc thang, đặt máy để chiếm pháo đài và
tấn công những người đang ẩn nấp ở bên trong. 31 Khi thấy cuộc giao
tranh đã bắt đầu và nghe tiếng kêu la trong thành thấu đến trời, xen lẫn tiếng
kèn và tiếng la hét inh ỏi, 32 ông Giu-đa bảo quân lính của ông :
"Hôm nay anh em hãy chiến đấu để giải thoát anh em chúng ta.” 33 Ông
chia quân thành ba cánh và đánh bọc hậu; họ thổi kèn và cầu nguyện lớn tiếng. 34
Khi nhận ra đó là ông Ma-ca-bê, quân đội ông Ti-mô-thê liền chạy trốn. Ông
Ma-ca-bê đã giáng cho chúng một đòn chí tử, và ngày hôm ấy, bọn chúng có khoảng
tám ngàn người ngã gục. 35 Sau đó, ông Giu-đa quay về A-lê-ma, tấn
công và chiếm thành ; ông giết hết mọi đàn ông trong thành, thu chiến lợi phẩm
và phóng hoả đốt thành. 36 Rồi ông bỏ đó ra đi, tiến chiếm các thành
Khát-phô, Ma-kết, Bo-xo và các thành khác thuộc miền Ga-la-át. 37 Sau
những biến cố trên, ông Ti-mô-thê tập hợp một đạo quân khác và đến đóng trại
đối diện với Ra-phôn, bên kia suối. 38 Ông Giu-đa sai người đi do thám
trại quân địch ; những người này về báo cáo với ông rằng: "Tất cả dân
ngoại ở chung quanh chúng ta đã được tập hợp thành một đạo quân thật đông đảo,
dưới quyền chỉ huy của Ti-mô-thê, 39 cả dân Ả-rập cũng được thuê làm
quân tiếp ứng ; chúng đang đóng trại bên kia suối, sẵn sàng đến giao chiến với
ông." Bấy giờ ông Giu-đa đi ra nghênh chiến với chúng. 40 Khi
ông Giu-đa và đoàn quân tới gần suối nước, ông Ti-mô-thê nói với các người chỉ
huy quân đội của mình: "Nếu ông ta qua đánh chúng ta trước, chúng ta sẽ
không chống cự nổi, chắc chắn ông ta sẽ thắng chúng ta. 41 Nhưng nếu
ông ta sợ mà đóng quân lại bên kia sông, thì chúng ta sẽ qua đánh và sẽ thắng
ông ta."
42
Khi
đến gần suối nước, ông Giu-đa cho các ký lục trong dân đứng bên bờ suối và
truyền cho họ rằng : "Các ông không được để một người nào ở lại trong trại
; mọi người phải ra trận hết.” 43 Rồi ông đi tiên phong qua phía
địch, tất cả dân quân theo sau. Hết thảy dân ngoại đã bị ông đè bẹp, chúng
quăng vũ khí và chạy trốn đến đền thờ Các-na-in. 44 Người Do-thái
đến chiếm thành ; họ phóng hoả đốt đền thờ và mọi người ở bên trong. Thế là
thành Các-na-in bị triệt hạ, từ nay không ai có thể cự nổi ông Giu-đa nữa.
45
Ông
Giu-đa tập hợp mọi người Ít-ra-en đang ở miền Ga-la-át lại, từ bé chí lớn, cùng
với vợ con và đồ đạc thành một đoàn người thật đông đảo, đi về xứ Giu-đa. 46
Trên đường trở về, họ đến Ép-rôn, một thành vừa lớn vừa kiên cố. Họ không
thể đi sang bên phải hay bên trái mà chỉ còn cách băng qua thành. 47 Dân
thành ấy không cho họ đi qua và lấy đá chặn cổng lại. 48 Ông Giu-đa
sai người đến ôn tồn nói với họ: "Xin vui lòng cho chúng tôi đi qua đất
các ngài để trở về quê hương chúng tôi. Không ai làm gì thiệt hại cho các ngài
đâu. Chúng tôi chỉ đi bộ qua thôi !" Nhưng chúng không muốn mở cho ông. 49
Ông Giu-đa truyền công bố cho mọi người là ai nấy phải ở nguyên vị trí
của mình. 50 Còn quân lính thì dàn trận và tấn công thành suốt ngày
suốt đêm hôm ấy; thế là thành đã rơi vào tay ông Giu-đa. 51 Ông vung
gươm giết hết đàn ông, triệt hạ thành, thu chiến lợi phẩm, rồi giẫm lên xác
chết mà đi qua thành. 52 Ông vượt sông Gio-đan tiến về phía Ðồng
Bằng Lớn đối diện với Bết San. 53 Ông Giu-đa ra sức tập hợp những
người lẽo đẽo theo sau, và khích lệ dân chúng trên suốt quãng đường, cho đến
khi về tới đất Giu-đa. 54 Họ vui mừng hoan hỷ lên núi Xi-on tiến
dâng lễ toàn thiêu, bởi vì họ đã trở về bình an, không một ai gục ngã.
Thất
trận ở Giam-ni-a
55
Trong
thời gian ông Giu-đa và ông Giô-na-than đang ở miền Ga-la-át và ông Si-môn, anh
ông Giu-đa, đang ở miền Ga-li-lê, đối diện với Pơ-tô-lê-mai, 56 thì
ông Giô-xếp con ông Dơ-khác-gia và ông A-da-ri-a, hai người chỉ huy quân đội,
nghe biết những chiến công và những cuộc giao tranh của họ, 57 mới
nói : "Cả chúng ta nữa, chúng ta phải làm cho tên tuổi chúng ta nên lừng
lẫy! Chúng ta hãy đi giao chiến với các dân ngoại chung quanh.” 58 Hai
ông ra lệnh cho quân đội thuộc quyền mình và tất cả cùng đi Giam-ni-a. 59 Tướng
Goóc-ghi-át và quân của ông ta ra khỏi thành đón đánh họ. 60 Ông
Giô-xếp và ông Dơ-khác-gia bị thảm bại và bị rượt đuổi cho đến ranh giới xứ
Giu-đê. Ngày hôm ấy có khoảng hai ngàn người trong dân Ít-ra-en bị ngã gục. 61
Ðó là một tổn thất nặng nề cho dân, bởi vì họ đã không nghe lời ông
Giu-đa và các anh em ông, cứ tưởng rằng mình cũng lập được chiến công. 62 Hai
ông ấy không thuộc giống nòi những người được dùng để cứu thoát dân Ít-ra-en.
Thắng
lợi ở miền I-đu-mê và Phi-li-tinh
63
Vị
anh hùng Giu-đa và các anh em ông đã được vinh quang hiển hách trước mặt toàn
dân Ít-ra-en và tất cả các dân ngoại, bất cứ ở nơi nào tên tuổi ông được nói
đến. 64 Người ta họp nhau lại bên các ông để ca tụng các ông. 65
Ông Giu-đa và các anh em cất quân đi giao chiến với con cái Ê-xau trong
miền đất phía nam. Ông đã hạ được Khép-rôn và các làng phụ thuộc. Ông cũng phá
huỷ các pháo đài và phóng hoả đốt những ngọn tháp ở chung quanh. 66 Rồi
ông lại đi tới đất người Phi-li-tinh và băng qua Ma-rê-sa. 67 Ngày
hôm ấy, có những tư tế đã gục ngã trong cuộc chiến ; vì muốn lập chiến công, họ
đã ra giao chiến mà không bàn tính cẩn thận. 68 Sau đó, ông Giu-đa
quay về Át-đốt, miền đất của người Phi-li-tinh; ông phá đổ các bàn thờ, thiêu
huỷ các tượng thần chạm trổ, thu chiến lợi phẩm rồi trở về xứ Giu-đa.
Chương 06
Vua
An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê chết (2 Mcb 9:1-17)
1
Còn
vua An-ti-ô-khô thì rảo khắp các miền thượng du. Vua nghe tin ở Ba-tư có thành
Ê-ly-mai, một thành nổi tiếng vì nhiều của cải vàng bạc. 2 Ðền thờ
trong thành cũng có nhiều báu vật, có cả những mảnh giáp trụ bằng vàng, có áo
giáp và vũ khí mà con vua Phi-líp-phê là A-lê-xan-đê đã để lại ; ông này là vua
miền Ma-kê-đô-ni-a và là người đầu tiên cai trị nước Hy-lạp. 3 Vậy
vua An-ti-ô-khô đã tới đó, tìm cách đánh chiếm và cướp phá thành, nhưng không
thành công, vì dân trong thành đã hay tin trước. 4 Họ đứng lên giao
chiến chống lại vua khiến vua phải bỏ chạy về Ba-by-lon, lòng buồn não ruột. 5
Bấy giờ vua đang ở Ba-tư. Có người đến báo cho vua biết là các đoàn quân
sang đất Giu-đa đã bị thảm bại: 6 Tướng Ly-xi-a chỉ huy đoàn quân
tinh nhuệ nhất đã bị người Do-thái đẩy lui. Những người này càng thêm mạnh nhờ
vũ khí, quân nhu và và nhiều chiến lợi phẩm thu được của những đoàn quân đã bị
họ đánh tan tành. 7 Họ đã triệt hạ Ðồ ghê tởm do vua xây ở trên bàn
thờ dâng lễ toàn thiêu tại Giê-ru-sa-lem, rồi xây tường luỹ cao chung quanh
Thánh Ðiện giống như ngày xưa. Cả thành Bết Xua của vua, họ cũng xây như vậy. 8
Nghe tin ấy, vua rất đỗi kinh hoàng. Vua lâm bệnh liệt giường vì phiền
não, lại cũng vì sự việc không diễn ra như lòng mong ước. 9 Vua nằm
liệt như thế đã lâu, nỗi buồn cứ ngày đêm ray rứt. Tưởng như ngày chết đã gần
kề, 10 vua cho vời bạn hữu đến và nói: "Tôi không thể chợp mắt,
vì nỗi âu lo canh cánh bên lòng. 11 Tôi tự nhủ: Tại sao giờ đây tôi
phải điêu đứng khổ sở như thế này? Trước kia, khi đang cầm quyền, tôi hạnh phúc
và được yêu mến biết bao! 12 Nhưng bây giờ, nhớ lại thời ở Giê-ru-sa-lem, tôi
đã lấy mọi vật dụng bằng bạc bằng vàng, đã sai người đi tiêu diệt dân cư ở miền
Giu-đa mà không có lý do chính đáng. Hồi tưởng lại những hành vi tàn bạo đó, 13
tôi biết chắc rằng chính vì thế mà tôi gặp phải bao nhiêu tai biến, và
giờ đây sắp phải chết nơi đất khách quê người vì buồn phiền vô hạn.
Vua
An-ti-ô-khô V lên nối ngôi (2 Mcb 9:18-29)
14
Vua
cho vời ông Phi-líp-phê, một trong số các bạn hữu của vua, và đặt ông lên làm
nhiếp chính trong toàn vương quốc. 15 Vua trao cho ông Phi-líp-phê
vương miện, cẩm bào và ấn tín của vua để ông nuôi nấng và giáo dục An-ti-ô-khô,
con vua, để sau này lên ngôi kế vị. 16 Vua An-ti-ô-khô băng hà tại
Ba-tư năm một trăm bốn mươi chín. 17 Hay tin ấy, ông Ly-xi-a lập con
vua là An-ti-ô-khô lên ngôi kế vị. Vua này là người đã được ông Ly-xi-a nuôi
nấng từ nhỏ và đặt tên là Êu-pa-to.
Ông
Giu-đa Ma-ca-bê bao vây đồn quân ở Giê-ru-sa-lem
18
Ðịch
quân đóng tại đồn đã vây chặt dân Ít-ra-en ở chung quanh Nơi Thánh. Chúng tìm
mọi dịp để gây hoạ cho dân và tiếp tay với dân ngoại. 19 Ông Giu-đa
quyết định tiêu diệt chúng và triệu tập đại hội toàn dân để bao vây. 20 Năm
một trăm năm mươi, họ tập hợp nhau bao vây đồn quân. Họ đặt những cỗ pháo và
những máy bắn đá. 21 Nhưng một số bên địch thoát khỏi vòng vây. Có
mấy tên vô đạo trong dân Ít-ra-en cũng hùa theo chúng. 22 Cả bọn đến
yết kiến và tâu vua An-ti-ô-khô Êu-pa-to: "Ngài còn đợi đến bao giờ mới
xét xử và báo thù cho anh em chúng tôi? 23 Phần chúng tôi, chúng tôi đã sẵn
sàng phục vụ vua cha, đã thi hành các mệnh lệnh và tuân giữ các chỉ dụ của
người. 24 Chính vì thế mà đồng bào chúng tôi đến bao vây đồn quân và
coi chúng tôi như người dưng nước lã; hơn thế nữa, tìm được ai trong chúng tôi,
chúng cũng giết chết và cướp đoạt tài sản. 25 Chúng ra tay không
phải riêng gì với chúng tôi, mà còn với toàn lãnh thổ của ngài nữa. 26 Kìa
chúng đang đóng trại gần đồn quân ở Giê-ru-sa-lem. Chúng lăm le chiếm đồn quân
nên đã tăng cường phòng thủ Thánh Ðiện và Bết Xua. 27 Ngài không sớm
ngăn chặn, chúng còn làm mạnh hơn thế nữa, và bấy giờ có muốn ngăn chặn cũng vô
phương."
Cuộc
chinh phạt của vua An-ti-ô-khô V và tướng Ly-xi-a.
Trận
Bết Dơ-khác-gia.
28
Nghe
thế, vua An-ti-ô-khô nổi giận. Vua triệu tập tất cả các bạn hữu, các tướng lãnh
trong quân đội và các vị chỉ huy kỵ binh. 29 Lại có những đạo quân
đánh thuê từ những vương quốc khác và nhiều hải đảo cũng đến với vua. 30 Tổng
số quân sĩ của vua lên tới một trăm ngàn bộ binh, hai mươi ngàn kỵ binh, ba
mươi hai thớt voi trận. 31 Chúng tiến quân qua ngã I-đu-mê và đóng
trại gần Bết Xua, rồi giao chiến trong nhiều ngày, có máy bắn đá yểm trợ. Nhưng
từ thế bị bao vây, quân Do-thái thoát ra được, phóng hoả đốt các máy bắn đá và
chiến đấu thật anh hùng.
32
Bấy
giờ ông Giu-đa rời bỏ đồn quân đến đóng ở Bết Dơ-khác-gia, đối diện với doanh
trại của vua. 33 Sáng hôm sau, vua dậy sớm, dẫn đoàn quân trực chỉ
Bết Dơ-khác-gia, tại đây quân đội đã sẵn sàng giao chiến. Người ta thổi loa, 34
đem nước cốt nho và dâu cho voi thấy để kích thích chúng xung trận. 35
Voi cũng được phân phối cho các đội quân. Cạnh mỗi thớt voi có một ngàn
quân, mình mặc áo giáp kết bằng khâu sắt, đầu đội mũ chiến bằng đồng, lại có
năm trăm kỵ binh tinh nhuệ đi bên mỗi con vật. 36 Ðám kỵ binh này
phải tính trước nơi con vật sắp tiến đến, và hễ nó đi đến đâu, bọn chúng cũng
phải đi theo, không rời một bước. 37 Trên mỗi con vật có một cái
tháp kiên cố bằng gỗ để che chở cho nó. Tháp được cột vào con vật bằng những
sợi dây đai. Trong mỗi tháp có ba người lính có thể giao chiến trên mình con
vật ; ngoài ra còn có một quản tượng. 38 Số kỵ binh còn lại, vua xếp
cho đi hai bên đoàn quân để quấy rối quân của ông Giu-đa và bảo vệ quân của
chúng.
39
Khi
mặt trời chiếu vào khiên thuẫn bằng vàng bằng đồng, thì núi non cũng phản chiếu
và lấp lánh như những ngọn đuốc. 40 Một phần đoàn quân của vua dàn
trận trên núi cao, còn phần khác thì ở dưới đồng bằng. Chúng thận trọng tiến
lên, hàng hàng lớp lớp. 41 Mọi người đều rúng động khi nghe thấy
tiếng ồn ào của đám đông ấy : tiếng bước chân huỳnh huỵch và tiếng vũ khí chạm
vào nhau loảng xoảng, vì đoàn quân ấy thật đông đảo và hùng mạnh. 42 Ông
Giu-đa và đoàn quân tiến ra nghênh chiến. Trong đoàn quân của vua có sáu trăm
người ngã gục. 43 Ông E-la-da Au-a-ran thấy trong số những con vật
có một con mang áo giáp đóng huy hiệu hoàng gia, lại to lớn hơn các con khác,
nên tưởng rằng vua đang ngự trên đó; 44 thế là ông liều mạng cứu dân
và được lưu danh muôn thuở. 45 Ông dũng cảm xông vào con thú đang đi
giữa đội quân và chém giết hai bên tả hữu, khiến chúng phải giãn ra. 46 Ông
luồn xuống dưới bụng voi ; đâm từ dưới lên và giết chết nó ; con vật ngã xuống
đất đè lên ông. Thế là ông chết ngay tại chỗ. 47 Người Do-thái liền
rút lui khi thấy lực lượng của vương quốc và tinh thần của quân đội chúng.
Bết
Xua thất thủ. Núi Xi-on bị vây hãm.
48
Nhưng
đoàn quân của vua An-ti-ô-khô lên tận Giê-ru-sa-lem để tấn công người Ít-ra-en.
Vua đóng trại để bao vây miền Giu-đê và núi Xi-on. 49 Vua ký hoà ước
với dân Bết Xua ; dân này đã ra khỏi thành vì bị vây hãm quá lâu không còn đủ lương
thực, và năm ấy lại là năm sa-bát, năm cho đất nghỉ. 50 Vua đã chiếm
thành Bết Xua và đặt một toán quân canh giữ. 51 Trong một thời gian
dài, vua đóng quân trước Thánh Ðiện, đặt những cỗ pháo, máy bắn đá, dàn phóng
hoả, dàn phóng đá, phóng tên và các cây cung. 52 Quân Ít-ra-en cũng
chế tạo máy để chống lại các loại máy của chúng và họ đã giao chiến trong một
thời gian dài. 53 Nhưng lương thực trong kho đã hết, vì năm ấy là
năm thứ bảy, lại vì những người Do-thái tỵ nạn từ phía dân ngoại trở về Giu-đê đã
ăn hết số lương thực dự trữ. 54 Trong Nơi Thánh chỉ còn lại một ít
người, bởi vì nạn đói đang hoành hành dữ dội. Những người khác đã phân tán đi
mỗi người một ngả.
Người
Do-thái được tự do hành đạo
55
Tướng
Ly-xi-a nghe tin ông Phi-líp-phê đã được vua An-ti-ô-khô, lúc còn sinh thời,
trao cho trách nhiệm giáo dục hoàng tử An-ti-ô-khô để sau này lên ngôi kế vị. 56
Ông cũng được tin là ông này đã từ Ba-tư và Mê-đi trở về cùng với quân
đội hoàng gia và đang tìm cách nắm chính quyền. 57 Tướng Ly-xi-a vội
vàng ra lệnh lên đường. Ông nói với vua, với tướng lãnh và dân quân : "Mỗi
ngày chúng ta một suy yếu, lương thực thì ít ỏi, địa điểm chúng ta vây hãm thì
kiên cố. Vả lại còn bao nhiêu việc nước đang đè nặng trên vai. 58 Vậy
giờ đây, chúng ta hãy ngưng chiến, hãy làm hoà với những người ấy và cả dân tộc
họ. 59 Chúng ta cứ để họ sống theo các tục lệ của họ như trước kia.
Họ đã phẫn uất và hành động như trên chẳng qua là vì chúng ta đã huỷ bỏ các tục
lệ của họ.” 60 Vua và các thủ lãnh tán thành lời ông đề nghị ; vua
sai sứ giả đến cầu hoà với người Do-thái. Những người này chấp thuận. 61 Vua
và các thủ lãnh cam kết với họ; vì thế họ đã ra khỏi các pháo đài. 62 Vua
tiến vào núi Xi-on; nhưng khi chứng kiến tận mắt pháo đài, thì gác lời cam kết
ra một bên và ra lệnh triệt hạ các tường luỹ bao quanh. 63 Rồi vua
vội vã lên đường trở về An-ti-ô-khi-a. Thấy ông Phi-líp-phê đang làm chủ thành,
vua đã giao chiến với ông và dùng võ lực chiếm lại thành.
Chương 07
Ðê-mết-ri-ô
I lên ngôi. Ông Bắc-khi-đê và ông An-ki-mô
được
cử đến miền Giu-đa. (2 Mcb 14:1-14)
1
Năm
một trăm năm mươi mốt, ông Ðê-mết-ri-ô, con của ông Xê-lêu-cô, bỏ Rô-ma. Cùng
với một ít dân quân, ông đi lên một thành ở miền duyên hải và xưng vương tại đó.
2 Vậy khi ông Ðê-mết-ri-ô đi vào hoàng triều cương thổ của tổ tiên,
thì quân đội bắt giữ vua An-ti-ô-khô và tướng Ly-xi-a mà điệu về cho ông. 3
Biết sự việc xảy ra, ông nói: "Ðừng để cho ta phải thấy mặt chúng!” 4
Quân đội đã giết chết cả hai người; còn ông Ðê-mết-ri-ô thì lên ngôi cai
trị vương quốc. 5 Bấy giờ tất cả bọn người hại dân phản đạo trong
Ít-ra-en đến gặp vua, có An-ki-mô dẫn đường. Ông này đang có tham vọng làm
thượng tế. 6 Chúng tố cáo dân trước mặt vua rằng: "Giu-đa và
các anh em hắn đã tàn sát tất cả các bạn hữu của ngài; hắn đã bắt chúng tôi
phải rời quê cha đất tổ mà phiêu bạt khắp nơi. 7 Giờ đây, xin ngài
cử một người thân tín đến mà xem tận mắt cảnh đổ nát hoang tàn Giu-đa đã gây
nên cho chúng tôi và cho lãnh địa của ngài, đồng thời trừng trị chúng và những
ai ủng hộ chúng."
8
Vua
đã chọn Bắc-khi-đê; ông ta là một trong số các bạn hữu của vua, đang cai quản
Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát, lại là người có thế lực trong vương quốc và trung
thành với vua. 9 Ông được vua phái đi cùng với tên phản đạo
An-ki-mô; tên này đã được vua đặt làm thượng tế và được lệnh phải giết hại con
cái Ít-ra-en để trả thù. 10 Cùng với đông đảo quân sĩ, chúng lên
đường và đến miền Giu-đa. Chúng phái các sứ giả đến gặp ông Giu-đa và các anh
em ông, giả bộ cầu hoà. 11 Nhưng các người này không mảy may lưu ý
đến lời lẽ của chúng, bởi vì thấy chúng đến cùng với một đám quân đông đảo. 12
Tuy vậy, một nhóm ký lục đã hội họp với An-ki-mô và Bắc-khi-đê để mưu tìm
một giải pháp thoả đáng. 13 Nhóm Khi-xi-đin là những người đầu tiên
trong con cái Ít-ra-en đến cầu hoà với chúng. 14 Họ nói: "Một
tư tế thuộc dòng dõi A-ha-ron mà mang quân đội đến, chắc không phải là để làm
hại chúng ta.” 15 An-ki-mô dùng lời lẽ ôn hoà mà nói với họ, lại còn
cam kết rằng: "Chúng tôi không mang tai hoạ đến cho các ông và bạn hữu các
ông đâu!” 16 Thế là họ tin hắn; nhưng hắn đã bắt giữ sáu mươi người
trong bọn họ và đem giết trong cùng một ngày, như lời chép trong Kinh Thánh: 17
"Chúng để xác những kẻ hiếu trung với Ngài nằm la liệt khắp nơi, và
máu của họ đổ ra quanh khắp cả Giê-ru-sa-lem, chẳng ai chôn cất.” 18 Nỗi
kinh hoàng sợ hãi ập xuống trên toàn dân; người ta nói: "Nơi bọn chúng,
chẳng có gì là chân thật công minh, bởi vì chúng đã vi phạm lời cam kết và thề
hứa."
19
Bắc-khi-đê
rời Giê-ru-sa-lem đến đóng quân ở Bết-dét ; hắn sai quân đi bắt nhiều người trước
kia đã bỏ hàng ngũ mà theo hắn, và bắt một số người trong dân, đem giết đi rồi
quăng vào một giếng lớn. 20 Sau đó, hắn trao miền ấy cho An-ki-mô và
để quân đội ở lại để trợ giúp. Ðoạn Bắc-khi-đê trở về gặp vua. 21 Còn
An-ki-mô thì hết sức vận động để được nhìn nhận là thượng tế. 22 Tất
cả những kẻ chuyên gây xáo trộn trong dân đều về phe với hắn ; chúng tung hoành
trên đất Giu-đa, gây cho Ít-ra-en biết bao thảm hoạ. 23 Khi thấy các
tai hoạ An-ki-mô và bọn người theo hắn gây ra cho con cái Ít-ra-en còn tệ hại
hơn cả dân ngoại, 24 ông Giu-đa liền rảo quanh khắp lãnh thổ Giu-đê
để trả thù những kẻ đã đầu hàng, và ngăn không cho chúng qua lại miền đất ấy
nữa.
Tướng
Ni-ca-no. Trận Kha-phác-xa-la-ma. (2 Mcb 14:26-30)
25
Khi
An-ki-mô thấy ông Giu-đa và những người theo ông trở nên hùng mạnh, lại biết
mình không thể chống cự nổi, thì hắn về gặp vua và vu cáo cho họ những điều xấu
xa. 26 Vua liền phái Ni-ca-no, đi tiêu diệt họ. Ông là một trong
những danh tướng của vua, nhưng lại thù ghét dân Ít-ra-en. 27 Ông
Ni-ca-no đến Giê-ru-sa-lem với một đạo quân hùng hậu ; ông sai người đến gặp
ông Giu-đa và các anh em giả bộ cầu hoà như sau: 28 "Xin đừng
để xảy ra giao tranh giữa tôi và các ông. Tôi sẽ đem một ít quân tháp tùng đến
gặp các ông trong tinh thần hoà hoãn.” 29 Ông ta đến gặp ông Giu-đa;
đôi bên chào hỏi nhau thật hoà hoãn ; trong khi đó phía địch sẵn sàng bắt cóc
ông Giu-đa. 30 Nhưng khi được biết Ni-ca-no đến gặp mình là có hậu
ý, ông Giu-đa đâm sợ không còn muốn gặp ông ta nữa. 31 Biết âm mưu
bị lộ, Ni-ca-no đem quân nghênh chiến với ông Giu-đa ở gần Kha-phác-xa-la-ma. 32
Phía Ni-ca-no có khoảng năm trăm người ngã gục, số còn lại chạy trốn vào
Thành vua Ða-vít.
Ni-ca-no
doạ đốt Ðền Thờ (2 Mcb 14:31-36)
33
Sau
đó, Ni-ca-no lên núi Xi-on. Một số tư tế đã ra khỏi Nơi Thánh và cùng với các
kỳ mục trong dân đến chào ông ta một cách thân tình, rồi chỉ cho thấy lễ toàn
thiêu người ta đang dâng để cầu cho vua. 34 Nhưng ông ta chế giễu
nhạo báng, phỉ nhổ họ, lại buông những lời ngạo mạn 35 và giận dữ thề rằng:
"Phen này, nếu Giu-đa và đoàn quân của hắn không bị trao nộp vào tay ta,
thì khi trở về bình yên vô sự, ta sẽ phóng hoả đốt Nhà này!" Rồi ông ta
đùng đùng nổi giận ra đi. 36 Các tư tế vào đứng trước bàn thờ dâng
lễ toàn thiêu và trước cung thánh ; họ khóc lóc than rằng: 37 "Lạy
Thiên Chúa, chính Ngài đã đã chọn Nhà này làm nơi kêu cầu Danh Thánh và làm nơi
cho dân Ngài đến cầu nguyện khấn xin. 38 Xin Ngài trả thù con người
ấy cùng với đoàn quân của ông ta. Xin cho chúng ngã gục dưới lưỡi gươm; xin nhớ
lại những lời lộng ngôn của chúng và đừng để cho chúng sống sót!"
Tướng
Ni-ca-no ở Kha-đa-sa (2 Mcb 15:1-36)
39
Bỏ
Giê-ru-sa-lem, Ni-ca-no đến đóng trại ở Bết Khô-rôn ; tại đây có một đạo quân
của Xy-ri đến nhập bọn. 40 Còn ông Giu-đa thì đóng trại ở Kha-đa-sa
cùng với ba ngàn người. Bấy giờ ông Giu-đa cầu nguyện như sau: 41 "Xưa
kia, khi những người của vua phạm thượng, thì sứ thần của Ngài đã xuất hiện và
giết chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong bọn chúng; 42 hôm
nay, xin Ngài cũng đập tan đoàn quân ấy trước mặt chúng con, để tất cả những
người khác đều biết rằng hắn đã ăn nói ngang tàng phạm đến Nơi Thánh; xin Ngài
xét xử hắn theo sự gian ác hắn đã làm."
43
Ngày
mười ba tháng A-đa, hai đoàn quân giao chiến với nhau. Quân của Ni-ca-no bị đè
bẹp; chính ông ta là người đầu tiên ngã gục trong trận chiến. 44 Ðoàn
quân của Ni-ca-no thấy ông ta đã ngã gục, liền vứt khí giới bỏ chạy. 45 Quân
Do-thái đuổi theo chúng suốt một ngày đường, từ Kha-đa-sa đến ranh giới Ghe-de;
họ thổi kèn ở phía sau chúng để làm hiệu. 46 Từ khắp các làng mạc
chung quanh miền Giu-đê, người ta đổ ra bao vây những kẻ chạy trốn khiến chúng
phải quay trở lại mà đạp lên nhau. Tất cả đều ngã gục dưới lưỡi gươm, không một
ai sống sót. 47 Sau khi thu chiến lợi phẩm cùng với của cướp được,
họ chặt đầu Ni-ca-no và tay phải của ông ta, là cánh tay đã từng giơ lên một
cách ngạo mạn. Họ đem về bêu ở gần Giê-ru-sa-lem. 48 Dân chúng rất
đỗi vui mừng ; họ hân hoan mừng ngày hôm ấy như một ngày đại lễ. 49 Họ
ấn định hằng năm sẽ mừng ngày ấy vào ngày mười ba tháng A-đa. 50 Ðất
Giu-đa được yên hàn trong một thời gian ngắn.
Chương 08
Ca
tụng người Rô-ma
1
Ông
Giu-đa được nghe nói về tiếng tăm của người Rô-ma: họ là những chiến binh dũng
cảm, lại niềm nở đón tiếp tất cả những người muốn gia nhập hàng ngũ của họ ; họ
tỏ tình hữu nghị với bất cứ ai đến với mình. Họ là những chiến binh dũng cảm. 2
Người ta cũng thuật lại cho ông Giu-đa những cuộc giao tranh và những
chiến công người Rô-ma đã lập được giữa dân Ga-lát, là dân họ đã chinh phục
được và bắt phải triều cống. 3 Ông cũng được nghe nói về tất cả
những gì họ đã làm trong miền Tây Ban Nha để chiếm các mỏ vàng mỏ bạc ở đó. 4
Họ đã chinh phục được cả vùng nhờ mưu lược và lòng kiên nhẫn - dù vùng ấy
rất xa xôi đối với họ; cả những vua từ tận cùng cõi đất tấn công họ, rốt cuộc
cũng bị họ đánh tan, bị giáng cho một đòn chí tử. Còn những dân khác thì phải
triều cống họ hàng năm. 5 Ngay cả các ông Phi-líp-phê và Péc-xê, vua
dân Kít-ti và những kẻ nổi lên chống lại họ, cũng bị họ đánh tan trong trận
chiến và bị họ chinh phục. 6 An-ti-ô-khô Cả, vua A-xi-a, giao chiến
với họ, đem theo một trăm hai mươi thớt voi cùng với kỵ binh, chiến xa và một
đạo quân thật hùng hậu, nhưng rồi cũng bị họ đánh tan. 7 Họ đã bắt
sống ông ta, rồi bắt cả ông lẫn các người kế vị ông phải triều cống thật nặng,
phải nộp các con tin và nhượng 8 xứ Ấn-độ, xứ Mê-đi, xứ Ly-đi-a và một vài vùng
trong số các vùng đẹp nhất, sau đó họ đem tất cả tặng cho vua Êu-mê-nê. 9 Người
Hy-lạp dự tính tiêu diệt họ. 10 Hay tin ấy, người Rô-ma phái một
tướng duy nhất đến tấn công; họ đã giao chiến với chúng và phía chúng có nhiều
người bị tử thương. Họ bắt vợ con chúng đi đày, cướp phá tài sản, làm chủ đất
đai, triệt hạ các pháo đài của chúng và bắt chúng làm nô lệ cho đến ngày nay. 11
Các nước khác và các đảo, tất cả những ai nổi lên chống lại họ đều bị họ
tàn phá và bắt làm nô lệ.
12
Còn
các bạn hữu và những ai cậy dựa vào họ thì họ vẫn giữ tình hữu nghị. Họ đã
khuất phục được các vua gần xa ; nghe đến danh họ, ai cũng đều sợ hãi. 13 Họ
giúp ai làm vua thì người ấy được, muốn hạ bệ ai cũng tuỳ ý họ. Họ đạt tới tột
đỉnh quyền lực. 14 Dầu vậy, không một ai trong họ đã đội vương miện
hay mặc cẩm bào để được vinh hoa phú quý. 15 Họ lập ra một nghị viện
gồm ba trăm hai mươi nghị viên, mỗi ngày bàn bạc về tất cả những gì liên quan đến
dân chúng nhằm làm cho xã hội được tốt đẹp. 16 Mỗi năm, họ chỉ trao
cho một người quyền lãnh đạo và cai trị toàn lãnh thổ ; mọi người đều vâng phục
con người duy nhất đó và giữa họ không có đố kỵ ghen tương.
Người
Do-thái liên minh với người Rô-ma
17
Ông
Giu-đa chọn ông Êu-pô-lê-mô con ông Gio-an, cháu ông Ắc-cô, và ông Gia-xon con
ông E-la-da, rồi phái các ông sang Rô-ma ký kết hoà ước hữu nghị và liên minh
với người Rô-ma, 18 nhằm rũ bỏ ách đô hộ, vì họ thấy người Hy-lạp đã
bắt dân Ít-ra-en phải làm nô lệ. 19 Hai ông khởi hành đi Rô-ma. Sau
chuyến đi thật lâu dài, họ tới nghị viện và lên tiếng nói: 20 "Ông
Giu-đa cũng gọi là Ma-ca-bê, và các anh em cùng với dân Do-thái sai chúng tôi
đến gặp quý ngài để ký hiệp ước liên minh và hoà bình, hầu chúng tôi được kể
vào số đồng minh và bạn hữu của quý ngài.” 21 Ðề nghị đó làm người
Rô-ma hài lòng. 22 Ðây là bản sao bức thư họ đã khắc trên các tấm
bảng đồng và gửi về Giê-ru-sa-lem để làm bằng chứng hiệp ước liên minh và hoà
bình.
23
"Chúc
người Rô-ma và dân Do-thái đời đời thịnh vượng, ngoài biển khơi cũng như trên
đất liền ! Ước gì họ không gặp gươm giáo và quân thù! 24 Nếu xảy ra chiến tranh
ở chính Rô-ma hay ở nơi nào trong liên minh thuộc quyền bá chủ của Rô-ma, 25
thì dân Do-thái sẽ tận tình cùng tham chiến, tuỳ theo hoàn cảnh đòi hỏi, 26
và không được cung cấp lúa mì, khí giới, tiền bạc, tàu bè giúp đỡ phe
địch. Phía Rô-ma đã quyết định như thế và đòi hỏi phải thi hành vô điều kiện
những lời cam kết. 27 Cũng vậy, nếu có chiến tranh chống lại chính
dân Do-thái, thì người Rô-ma cũng sẽ tận tình tham chiến, tuỳ theo hoàn cảnh
đòi hỏi, 28 và cũng sẽ không cung cấp lúa mì, khí giới, tiền bạc,
tàu bè giúp đỡ đối phương. Phía Rô-ma đã quyết định như thế và sẽ nghiêm chỉnh
thi hành những lời cam kết. 29 Người Rô-ma đã quy định cho dân
Do-thái những điều khoản trên. 30 Nhưng nếu sau này, trong những
điều nói trên đôi bên muốn thêm bớt gì, thì phải cùng nhau thoả thuận, và điều
thêm hay bớt sẽ có giá trị."
31
Còn
về những tai hoạ vua Ðê-mết-ri-ô gây ra cho người Do-thái, chúng tôi đã viết
cho vua ấy rằng: "Tại sao nhà vua lại đem ách đô hộ đè lên người Do-thái
là bạn hữu và đồng minh của chúng tôi? 32 Vậy nếu họ còn tố cáo nhà vua nữa,
thì chúng tôi sẽ phân xử cho họ, và sẽ giao chiến với nhà vua ngoài biển khơi
cũng như trên đất liền."
Chương 09
Trận
Bê-rê-a. Ông Giu-đa Ma-ca-bê tử trận.
1
Nhưng
khi nghe tin tướng Ni-ca-no cùng với đạo quân bị đánh bại trong cuộc chiến, vua
Ðê-mết-ri-ô lại quyết định cử tướng Bắc-khi-đê và An-ki-mô cùng với đạo quân
tinh nhuệ nhất đi tới Giu-đa. 2 Chúng lên đường đi tới Ga-li-lê và
đóng trại gần Mai-xa-lốt thuộc miền Ác-bê-lê. Chúng tiến chiếm thành ấy và đã
giết hại nhiều người. 3 Tháng thứ nhất năm một trăm năm mươi hai,
chúng đóng trại gần Giê-ru-sa-lem. 4 Rồi lại cùng với hai mươi ngàn
bộ binh và hai ngàn kỵ binh đi tới Bê-rê-a. 5 Bấy giờ ông Giu-đa
đang đóng trại ở Ê-la-xa, có ba ngàn quân tinh nhuệ cùng ở với ông. 6 Khi
thấy địch vừa đông vừa mạnh, quân của ông Giu-đa rất sợ hãi ; nhiều người bỏ
doanh trại trốn đi, chỉ còn lại tám trăm quân. 7 Ông Giu-đa thấy
đoàn quân của mình tán loạn lúc sắp phải giao tranh; lòng ông tan nát vì không
còn thời giờ để tập hợp họ. 8 Dù nao núng, ông vẫn nói với những
người ở lại: "Ðứng lên nào! Chúng ta cùng tiến lên chống lại quân thù; may
ra có thể đương đầu với chúng!” 9 Nhưng họ ngăn ông và nói:
"Lúc này chúng ta không thể làm gì khác hơn là cứu lấy mạng mình. Rồi đây
chúng ta sẽ cùng với cả các anh em chúng ta quay trở lại và giao chiến chống
lại chúng, vì hiện nay chúng ta quá ít!” 10 Ông Giu-đa trả lời:
"Chạy trốn chúng ư! Không đời nào tôi làm điều ấy. Nếu giờ của chúng ta đã
điểm, thì vì anh em chúng ta, chúng ta sẽ chết anh hùng. Ðừng làm gì phương hại
đến thanh danh của chúng ta."
11
Ðạo
quân đối phương rời doanh trại và dừng lại để nghênh chiến. Kỵ binh chia thành
hai đoàn; những người bắn ná bắn nỏ đi trước, cùng với quân xung phong gồm toàn
những người thiện chiến. 12 Bắc-khi-đê ở bên cánh hữu. Quân sĩ hàng
hàng lớp lớp từ hai phía tiến lên theo tiếng kèn; cả quân của ông Giu-đa cũng
thổi kèn. 13 Ðất rung chuyển vì tiếng hò la của các đạo quân. Cuộc
giao tranh bắt đầu từ sáng sớm và kéo dài mãi đến tối.
14
Khi
ông Giu-đa nhận thấy Bắc-khi-đê và lực lượng hùng mạnh của quân địch tập trung
ở phía bên hữu, thì tất cả những người quả cảm đều quy tụ lại bên ông, 15 và
họ đập tan cánh quân phía bên hữu của địch. Họ đuổi theo chúng cho đến tận núi
A-da-ra. 16 Cánh quân bên tả thấy cánh quân bên hữu bị đánh tan,
liền quay trở lại bám sát ông Giu-đa và phe ông mà đánh tập hậu. 17 Cuộc
giao tranh diễn ra thật là ác liệt ; đôi bên đều có nhiều người bị thương vong.
18 Cả ông Giu-đa cũng tử trận; còn những người khác thì bỏ chạy.
Ðám
tang ông Giu-đa
19
Ông
Giô-na-than và ông Si-môn đưa thi hài ông Giu-đa là anh em của họ, về mai táng
trong phần mộ của tổ tiên ở Mô-đin. 20 Toàn dân Ít-ra-en khóc thương
ông và tổ chức tang lễ trọng thể ; họ để tang nhiều ngày và khóc rằng: 21 "Than
ôi, người anh hùng giải thoát Ít-ra-en nay ngã gục.” 22 Còn những
chuyện khác liên quan đến ông Giu-đa, đến các cuộc giao tranh, các chiến công
của ông và các việc vĩ đại ông đã thực hiện, đã không được viết lại vì quá
nhiều!
IV.
Ông Giô-Na-Than
Làm
Thủ Lãnh Và Thượng Tế (160-143)
Phe
thân Hy-lạp thắng thế.
Ông
Giô-na-than, thủ lãnh phe kháng chiến.
23
Sau
khi ông Giu-đa qua đời, phường vô đạo lại xuất đầu lộ diện trên toàn lãnh thổ
Ít-ra-en ; mọi kẻ làm điều gian ác cũng tái xuất hiện. 24 Bấy giờ,
xảy ra một nạn đói kinh khủng ; dân trong miền đều ngả theo chúng. 25 Bắc-khi-đê
tuyển lựa những quân vô đạo và đặt chúng lên cai quản khắp miền. 26 Bọn
này truy lùng và bắt bớ các bạn hữu ông Giu-đa và điệu họ đến cho Bắc-khi-đê;
ông ta đã trừng phạt và nhạo báng họ. 27 Quả là một thời kỳ gian nan
khốn khổ cho Ít-ra-en, như chưa từng thấy bao giờ, kể từ ngày không còn vị ngôn
sứ nào xuất hiện nữa.
28
Bấy
giờ, tất cả bạn hữu ông Giu-đa họp nhau lại; họ nói với ông Giô-na-than: 29
"Từ khi anh của ông là Giu-đa qua đời, chẳng ai có khả năng như ông
để chống chọi với quân thù, với Bắc-khi-đê và tất cả những người thù nghịch với
dân tộc chúng ta. 30 Vậy ngay hôm nay, chúng tôi xin đề cử ông thay
ông Giu-đa để lãnh đạo và chỉ huy chúng tôi tiếp tục chiến đấu.” 31 Từ
lúc ấy, ông Giô-na-than nhận quyền chỉ huy và ông đứng ra thay thế anh mình là
ông Giu-đa.
Ông
Giô-na-than hoạt động trong sa mạc Tơ-cô-a.
Vụ
thảm sát gần Mê-đơ-va.
32
Hay
tin ấy, Bắc-khi-đê tìm cách giết ông Giô-na-than. 33 Biết thế, ông
Giô-na-than cùng với anh là ông Si-môn và tất cả những người thuộc phe ông trốn
vào sa mạc Tơ-cô-a, và đóng trại gần hồ nước Át-pha. 34 Bắc-khi-đê
được tin này vào một ngày sa-bát. Thế là cùng với toàn thể quân sĩ, ông đích
thân đi đến vùng bên kia sông Gio-đan.
35
Ông
Giô-na-than phái anh mình là ông Gio-an, người chỉ huy quân binh đến xin các
thân hữu người Na-ta-bê cho phép được gửi nhờ số hành lý quá nhiều của họ. 36
Nhưng dân Giam-ri ở Mê-đơ-va đã xông ra bắt ông Gio-an và cướp tất cả
những gì họ có rồi đem đi. 37 Sau khi các việc đó xảy ra, người ta
báo cho ông Giô-na-than và anh ông là Si-môn biết rằng: "Dân Giam-ri sắp
tổ chức một đám cưới linh đình; từ Na-đa-bát, chúng sẽ rước dâu rất trọng thể,
vì cô dâu là con gái của một trong những thân hào nổi tiếng xứ Ca-na-an. 38
Ông Giô-na-than và ông Si-môn nhớ lại cái chết đẫm máu của em mình là ông
Gio-an, nên đã phục kích ở một nơi ẩn khuất trên núi. 39 Ngước mắt
lên, họ thấy một đám đông ồn ào mang theo rất nhiều hành lý; ra đón cô dâu có
chú rể cùng với các bạn hữu và anh em mang theo trống cơm, nhạc cụ và nhiều vũ
khí. 40 Từ ổ phục kích, người Do-thái xông ra đánh giết chúng ;
nhiều người bị thương vong ; còn những người khác thì trốn lên núi. Họ thu lấy
tất cả chiến lợi phẩm. 41 Thế là lễ cưới thành lễ tang, tiếng nhạc
du dương thành tiếng khóc thảm sầu. 42 Sau khi đã bắt kẻ thù đền nợ
máu của em mình, hai anh em ông Giô-na-than trở lại vùng đầm lầy sông Gio-đan.
Vượt
sông Gio-đan
43
Nghe
tin ấy, Bắc-khi-đê dẫn một đoàn quân đông đảo đến tận bờ sông Gio-đan. Hôm đó
là một ngày sa-bát. 44 Ông Giô-na-than nói với những người thuộc phe
ông: "Ðứng lên! Chúng ta hãy giao chiến để bảo vệ sinh mạng của chúng ta.
Hôm nay không còn như những lần trước nữa: 45 này cuộc chiến đang
diễn ra cùng lúc ở trước mặt và sau lưng chúng ta; một bên là nước sông
Gio-đan, bên kia là đầm lầy và bụi rậm; không còn chỗ thoát thân. 46 Vậy
giờ đây, anh em hãy kêu lên Trời, xin Người cứu chúng ta khỏi tay thù địch.” 47
Cuộc giao tranh bắt đầu ; ông Giô-na-than vung tay đánh Bắc-khi-đê, nhưng
ông này giật lùi ra sau và tránh được. 48 Ông Giô-na-than và các
người thuộc phe ông nhảy xuống sông Gio-đan và bơi qua bờ bên kia; quân địch
không vượt qua sông đuổi theo họ. 49 Ngày hôm ấy, phía Bắc-khi-đê có
khoảng một ngàn người ngã gục.
Bắc-khi-đê
tăng cường phòng thủ. An-ki-mô chết.
50
Trở
về Giê-ru-sa-lem, Bắc-khi-đê cho xây những thành kiên cố ở miền Giu-đê: đó là
pháo đài ở Giê-ri-khô, Em-mau, Bết Khô-rôn, Bết Ên và Tham-na-tha, Pha-ra-thôn
và Tê-phôn ; các pháo đài này có luỹ cao, có cửa có then. 51 Rồi ông
ta đặt quân trong các thành đó để chúng quấy phá dân Ít-ra-en. 52 Ông
ta cũng tăng cường phòng thủ các thành Bết Xua, Ghe-de và đồn quân ; ông cắt
đặt quân canh và trích trữ lương thực trong các thành ấy. 53 Ông ta
bắt cóc con cái của các vị chỉ huy trong miền ấy làm con tin, rồi đem nhốt
trong đồn quân ở Giê-ru-sa-lem.
54
Tháng
thứ hai, năm một trăm năm mươi ba, An-ki-mô ra lệnh triệt hạ tường của tiền
đình bên trong Nơi Thánh, phá huỷ công trình của các ngôn sứ. Ông ta bắt đầu
công việc triệt hạ, 55 vào lúc ấy, An-ki-mô bị đánh phạt, công việc
phải đình chỉ. Ông ta bị cấm khẩu, bất toại, không nói được một lời nào nữa, và
cũng không thể trối trăng được gì. 56 Bấy giờ An-ki-mô đã chết, quằn
quại trong đau đớn. 57 Thấy An-ki-mô chết rồi, Bắc-khi-đê liền trở
về yết kiến vua. Xứ Giu-đa được yên hàn trong hai năm.
Bao
vây Bết-ba-xi
58
Tất
cả quân vô đạo bàn bạc với nhau : "Này, Giô-na-than và những kẻ theo hắn
đang sống yên hàn tin tưởng. Bây giờ, chúng ta hãy đi mời ông Bắc-khi-đê đến ;
ông sẽ tóm gọn tất cả bọn chúng nội trong một đêm.” 59 Chúng đi bàn
bạc với Bắc-khi-đê. 60 Ông này ra đi, dẫn theo đoàn quân đông đảo;
ông ta bí mật gửi thư cho tất cả các đồng minh ở miền Giu-đê, yêu cầu bắt
Giô-na-than và những người theo ông. Nhưng công việc bất thành, vì âm mưu của
chúng bị bại lộ. 61 Phe ông Giô-na-than đã bắt được khoảng năm mươi
người trong số những kẻ mưu đồ chuyện xấu xa tại miền ấy. Họ đã đem chúng giết
đi.
62
Sau
đó, ông Giô-na-than và ông Si-môn cùng với những người theo ông rút vào sa mạc
ở Bết-ba-xi. Họ đã tái thiết và củng cố những gì đã bị triệt hạ. 63 Ðược
tin ấy, Bắc-khi-đê tập hợp toàn thể quân lực và cầu cứu đồng minh ở miền Giu-đê.
64 Ông ta đến đóng quân gần Bết-ba-xi và tiến đánh thành trong nhiều
ngày ; ông ta làm cả máy bắn đá. 65 Ông Giô-na-than để anh mình là
ông Si-môn ở lại trong thành, còn ông cùng với một số người ra ngoài thành. 66
Ông đánh bại Ô-đô-mê-ra, các anh em hắn và dân Pha-xi-rôn ngay tại chỗ
chúng đóng trại; bọn này bắt đầu đánh; chúng cùng với các đạo quân tiến lên. 67
Ông Si-môn và những người theo ông ra khỏi thành và phóng hoả đốt các máy
bắn đá. 68 Họ giao chiến với Bắc-khi-đê, đè bẹp ông ta và làm cho
ông ta vô cùng điêu đứng vì kế hoạch và cuộc tấn công của ông ta đã thất bại. 69
Bắc-khi-đê đùng đùng nổi giận vì quân vô đạo đã bày kế cho ông ta đến
miền ấy; ông ta giết chết nhiều người trong bọn chúng và quyết định trở về xứ. 70
Hay tin, ông Giô-na-than sai người đến ký kết hoà ước và trao trả cho ông
ta những người đã bị bắt làm tù binh. 71 Bắc-khi-đê chấp thuận và
làm theo đề nghị của ông Giô-na-than; ông ta cam kết rằng bao lâu còn sống sẽ
không mưu hại ông Giô-na-than nữa. 72 Ông ta trao trả cho ông
Giô-na-than những người trước đây ở Giu-đa đã bị ông ta bắt làm tù binh. Rồi
ông ta trở về xứ và không dám đến lãnh thổ của người Do-thái nữa. 73 Thế
là cảnh binh đao chấm dứt ở Ít-ra-en. Ông Giô-na-than định cư ở Mích-mát. Ông
bắt đầu làm thủ lãnh xét xử dân và loại trừ phường vô đạo ra khỏi Ít-ra-en.
Chương 10
Cuộc
tranh giành ảnh hưởng
giữa
vua A-lê-xan-đê Ba-la và vua Ðê-mết-ri-ô.
Ông
Giô-na-than được vua A-lê-xan-đê đặt làm thượng tế.
1
Năm
một trăm sáu mươi, A-lê-xan-đê con vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê lên đường đi
đánh chiếm thành Pơ-tô-lê-mai. Người ta nghênh đón ông và ông đã xưng vương tại
đó. 2 Nghe tin ấy, vua Ðê-mết-ri-ô tập hợp đông đảo binh sĩ và ra
nghênh chiến. 3 Vua Ðê-mết-ri-ô gửi cho ông Giô-na-than một bức thư
với lời lẽ hoà nhã, lại còn hứa cho ông Giô-na-than quyền cao chức trọng. 4
Quả thật, vua nói: "Chúng ta phải mau ký hoà ước với dân Do-thái
trước khi họ ký hoà ước với A-lê-xan-đê để chống lại chúng ta; 5 vì
Giô-na-than sẽ nhớ lại mọi tai hoạ chúng ta đã gây ra cho ông ta, cho anh em và
dân tộc của ông ta.” 6 Vua đã cho ông Giô-na-than quyền được tuyển
mộ quân lính, chế tạo vũ khí và làm đồng minh với vua; vua lại truyền phải trao
trả cho ông những con tin đang bị cầm giữ trong đồn quân.
7
Ông
Giô-na-than đến Giê-ru-sa-lem, đọc thư này trước mặt toàn dân và binh sĩ trong
đồn quân.8 Những người này vô cùng sợ hãi khi được biết vua đã cho ông
Giô-na-than được quyền tuyển mộ quân lính. 9 Binh sĩ trong đồn quân
đã trao trả con tin cho ông Giô-na-than; ông cho họ trở về với gia đình. 10
Ông Giô-na-than định cư ở Giê-ru-sa-lem, bắt đầu xây dựng và tái thiết
thành phố. 11 Ông truyền cho nhân công dùng đá đẽo xây dựng lại
tường luỹ và vòng đai núi Xi-on để tăng cường phòng thủ, và họ đã làm như vậy. 12
Binh sĩ ngoại quốc đang đóng trong các pháo đài do Bắc-khi-đê xây đều bỏ
trốn; 13 ai cũng bỏ vị trí mình mà trở về quê quán. 14 Chỉ
có ở Bết Xua là còn sót lại một số người đã bỏ Lề Luật và các lệnh truyền; bởi
vì đó là nơi họ ẩn náu.
15
Vua
A-lê-xan-đê được biết những lời vua Ðê-mết-ri-ô hứa hẹn với ông Giô-na-than và
được nghe kể về các cuộc giao tranh cũng như những chiến công mà chính ông và
các anh em ông đã thực hiện, cùng với những gian lao họ đã phải chịu, 16 thì
nói: "Bao giờ chúng ta mới tìm được một con người như thế? Vậy bây giờ
chúng ta hãy biến con người ấy thành bạn hữu và đồng minh của chúng ta!” 17
Vua đã viết một bức thư và gửi vho ông Giô-na-than, nội dung như sau: 18
"Vua A-lê-xan-đê gửi lời chào người anh em Giô-na-than! 19 Chúng tôi
nghe nói rằng ông là một chiến binh dũng cảm, xứng đáng là bạn của chúng tôi. 20
Vì thế hôm nay, chúng tôi đặt ông làm thượng tế của dân tộc ông và tặng
ông danh hiệu bạn hữu đức vua -vua gửi cho ông Giô-na-than một áo cẩm bào và
một triều thiên bằng vàng- để ông cùng nghĩ đến ích lợi chung và giữ tình hữu
nghị giữa chúng ta."
21
Thế
là ông Giô-na-than đã mặc phẩm phục thánh nhân dịp lễ Lều, tháng bảy năm một
trăm sáu mươi. Ông đã tập hợp quân đội và chế tạo được nhiều vũ khí.
Vua
Ðê-mết-ri-ô I gửi thư cho ông Giô-na-than
22
Nghe
biết những chuyện ấy, vua Ðê-mết-ri-ô lấy làm bực mình; vua nói: "Chúng ta
đã làm gì khiến A-lê-xan-đê lại vượt chúng ta mà tranh thủ được tình hữu nghị
của người Do-thái và biến họ thành điểm tựa? 24 Ta sẽ đích thân viết cho họ một
bức thư khuyến khích và hứa hẹn chức tước bổng lộc khiến họ ủng hộ ta.” 25
Vua đã gửi cho họ một bức thư nội dung như sau:
"Vua
Ðê-mết-ri-ô gửi lời chào dân tộc Do-thái!
26
Anh
em vẫn giữ những điều đã ký kết với chúng tôi và duy trì tình hữu nghị với
chúng tôi chứ không cấu kết với kẻ thù của chúng tôi. Chúng tôi được biết như
thế và lấy làm vui mừng. 27 Xin anh em cứ tiếp tục giữ lòng trung
tín với chúng tôi, rồi chúng tôi sẽ đền ơn anh em vì những việc anh em đã làm
cho chúng tôi. 28 Chúng tôi sẽ dành nhiều đặc miễn và tặng anh em
nhiều bổng lộc. 29 Ngay từ bây giờ, tôi sẽ giải phóng cho anh em, sẽ
miễn cho mọi người Do-thái khỏi phải triều cống, khỏi phải nộp thuế muối và
tiền vàng. 30 Kể từ hôm nay, một phần ba hoa lợi, một nửa số trái
cây vẫn phải đem nộp, tôi cũng miễn luôn cho. Ðặc miễn này có giá trị kể từ hôm
nay và mãi mãi trên đất Giu-đa và ba quận trước kia thuộc xứ Sa-ma-ri và
Ga-li-lê. 31 Giê-ru-sa-lem sẽ là Nơi Thánh ; thành này cũng như các
vùng phụ thuộc được miễn không nộp thuế thập phân và các thứ thuế khác.
32
Ðối
với đồn quân ở Giê-ru-sa-lem, tôi cũng từ bỏ mọi quyền hành và trao lại cho
thượng tế, để tuỳ ông cắt đặt người canh giữ. 33 Những người Do-thái
nào đã bị bắt đi khỏi đất Giu-đa và đang phải lưu đày trong khắp vương quốc của
tôi, tôi trả tự do cho họ mà không đòi hỏi điều kiện nào. Họ được miễn thuế, kể
cả thuế đánh vào súc vật. 34 Tất cả các ngày lễ, các ngày sa-bát,
các ngày đầu tháng, các ngày đã được ấn định để mừng đại lễ, ba ngày trước và
sau lễ, đó là những ngày miễn thuế và tha nợ cho mọi người Do-thái đang sống
trong vương quốc của tôi. 35 Không ai có quyền đòi hỏi hoặc sách
nhiễu người nào trong số những người ấy về bất cứ điều gì. 36 Phải
cho người Do-thái được đăng ký vào quân đội hoàng gia, khoảng ba mươi ngàn
người, và phải cấp lương thực cho họ như cho tất cả đạo quân hoàng gia. 37
Trong số này có những người được chỉ định vào pháo đài xung yếu của vua;
lại có những người được tín cẩn giao cho những chức vụ quan trọng trong vương
quốc. Những người chỉ huy và các tướng lãnh của họ phải xuất thân từ phía họ và
phải sống theo các tục lệ của họ, theo lệnh vua đã truyền trong đất Giu-đa.
38
Còn
ba quận trước kia thuộc Sa-ma-ri đã sáp nhập vào Giu-đê, thì nay vĩnh viễn phải
sáp nhập vào Giu-đê, và thuộc quyền một người, không phải tuân phục quyền nào
khác ngoài quyền của thượng tế. 39 Tôi lấy thành Pơ-tô-lê-mai và các
vùng phụ thuộc làm quà tặng cho Nơi Thánh ở Giê-ru-sa-lem để đài thọ những phí
tổn trong việc phụng tự. 40 Riêng tôi, mỗi năm tôi tặng mười lăm
ngàn se-ken bạc trích từ nguồn lợi hoàng gia, thu được ở những nơi thuộc quyền
tôi. 41 Và tất cả số thặng dư mà các nhân viên tài chính đã không
nộp trong những năm trước, từ nay sẽ phải nộp để chi phí vào những công việc
của Ðền Thờ. 42 Ngoài ra, số tiền năm ngàn se-ken bạc trích từ nguồn
lợi của Nơi Thánh theo kết toán hàng năm sẽ được miễn, bởi vì số tiền đó dành
cho các tư tế lo việc phụng tự. 43 Bất cứ ai trốn tại Ðền Thờ ở
Giê-ru-sa-lem và các miền phụ thuộc, vì thiếu thuế nhà vua hoặc vì bất cứ lý do
nào khác, đều được tha hết. Ngoài ra họ còn được sử dụng tất cả những gì họ có
trong vương quốc của tôi. 44 Còn đối với công tác xây dựng và tái
thiết Nơi Thánh, các phí tổn sẽ do quỹ nhà vua đài thọ. 45 Ðối với
việc xây dựng tường thành Giê-ru-sa-lem và tăng cường phòng thủ vòng đai, các
phí tổn sẽ do quỹ nhà vua đài thọ, kể cả việc xây dựng tường thành ở miền
Giu-đê."
Ông
Giô-na-than từ khước bổng lộc của vua Ðê-mết-ri-ô.
Vua
Ðê-mết-ri-ô tử trận.
46
Nghe
những lời đề nghị trên, ông Giô-na-than và dân chúng không tin cũng không đón
nhận vì nhớ lại những tai hoạ lớn lao ở Ít-ra-en cũng như những cảnh điêu đứng
vua Ðê-mết-ri-ô đã gây ra cho họ. 47 Họ quyết định ủng hộ vua
A-lê-xan-đê vì vua này là người đầu tiên đã có thái độ hoà hoãn với họ ; và vì
xưa nay họ vẫn là đồng minh của vua. 48 Bấy giờ vua A-lê-xan-đê tập
hợp đông đảo quân sĩ và đóng trại đối diện với quân của vua Ðê-mết-ri-ô. 49
Hai vua giao chiến với nhau; đoàn quân của vua A-lê-xan-đê chạy trốn. Vua
Ðê-mết-ri-ô đuổi theo và đã chiến thắng. 50 Vua Ðê-mết-ri-ô chiến
đấu quyết liệt cho đến khi mặt trời lặn, nhưng vua đã ngã gục ngày hôm ấy.
Vua
A-lê-xan-đê cưới công chúa Cơ-lê-ô-pát. Ông Giô-na-than được cử làm quân sư và
tổng trấn.
51
Vua
A-lê-xan-đê sai sứ giả đến gặp vua Ai-cập là Pơ-tô-lê-mai để nói với vua ấy
những lời như sau: 52 "Tôi đã trở về vương quốc của tôi và đã
ngự trên ngai vàng của tổ tiên tôi. Tôi đã lên nắm quyền, đã đập tan
Ðê-mết-ri-ô và làm chủ được miền đất của chúng tôi. 53 Tôi đã giao
chiến với ông ta; ông ta cùng với đạo quân đã bị đập tan và chúng tôi đã ngự
trên ngai vàng của vương quốc ông ta. 54 Vậy giờ đây, chúng ta hãy
thiết lập quan hệ hữu nghị với nhau. Xin ngài gả ái nữ của ngài cho tôi. Tôi sẽ
thành rể của ngài, tôi sẽ tặng ngài và tặng nàng những món quà xứng đáng với
ngài."
55
Vua
Pơ-tô-lê-mai trả lời như sau: "Thật là một ngày hạnh phúc, ngày ngài trở
về quê cha đất tổ và ngự trên ngai vương quốc tổ tiên. 56 Vậy giờ
đây, tôi sẽ thực hiện những điều ngài đã viết; chỉ xin ngài đến gặp tôi ở
Pơ-tô-lê-mai, để chúng ta giáp mặt nhau, rồi tôi sẽ cho ngài làm rể tôi như ngài
đã nói.
57
Vua
Pơ-tô-lê-mai đã cùng với ái nữ là Cơ-lê-ô-pát rời Ai-cập. Cả hai đến thành
Pơ-tô-lê-mai vào năm một trăm sáu mươi hai. 58 Vua A-lê-xan-đê
nghênh đón vua Pơ-tô-lê-mai và vua này đã gả ái nữ Cơ-lê-ô-pát cho vua
A-lê-xan-đê. Ðám cưới đã được tổ chức ở Pơ-tô-lê-mai thật linh đình, xứng bậc
vua chúa. 59 Sau đó, vua A-lê-xan-đê viết thư mời ông Giô-na-than
đến gặp vua. 60 Ông Giô-na-than đã long trọng đến Pơ-tô-lê-mai và
gặp cả hai vua. Ông biếu hai vua và bạn hữu của hai vua vàng bạc và rất nhiều
quà. Hai vua rất hài lòng. 61 Bấy giờ trong dân Ít-ra-en, có những
quân tai ác, những đứa vô lại, hùa nhau kiện cáo chống lại ông. Nhưng vua
A-lê-xan-đê chẳng thèm đếm xỉa gì. 62 Trái lại, vua còn truyền thay
áo cho ông Giô-na-than và mặc cho ông áo cẩm bào. Người ta đã làm như thế. 63
Vua cho ông ngồi bên cạnh mình và nói với các vị chức sắc: "Hãy cùng
với ông Giô-na-than đi ra giữa phố phường và công bố cho mọi người biết là
không ai được kiện cáo ông về bất cứ điều gì, không ai được gây phiền hà cho ông
vì bất cứ lý do gì.” 64 Vậy khi những người kiện cáo thấy ông được
vẻ vang như lệnh vua công bố, lại thấy ông được mặc áo cẩm bào, thì tất cả đều
bỏ trốn. 65 Vua đã cho ông được vẻ vang và đã kể ông vào số các bạn
hữu thân tín nhất, lại còn đặt ông làm quân sư và tổng trấn. 66 Rồi
ông Giô-na-than trở về Giê-ru-sa-lem bình an vui vẻ.
Vua
Ðê-mết-ri-ô II. Ông Giô-na-than đánh bại tướng A-pô-lô-ni-ô,
tổng
trấn vùng Coi-lê Xy-ri.
67
Năm
một trăm sáu mươi lăm, Ðê-mết-ri-ô con vua Ðê-mết-ri-ô đệ nhất rời đảo Cơ-rê-ta
về quê cha đất tổ. 68 Nghe tin đó, vua A-lê-xan-đê rất đỗi lo ngại,
liền quay về An-ti-ô-khi-a. 69 Vua Ðê-mết-ri-ô xác nhận ông
A-pô-lô-ni-ô là tổng trấn miền Coi-lê Xy-ri. Ông tập hợp một đoàn quân đông đảo
và đến đóng trại gần Giam-ni-a. Ông phái người đến nói với thượng tế
Giô-na-than rằng: 70 "Chỉ có mình ông dấy lên chống chúng tôi
và vì ông mà tôi trở thành mục tiêu cho thiên hạ nhạo cười và sỉ nhục, cớ sao
ông lại đem quân đánh chúng tôi trong miền núi? 71 Vậy bây giờ, nếu ông cậy vào
quân đội của ông, thì hãy xuống đồng bằng gặp chúng tôi, rồi ta sẽ đọ sức với
nhau ở đó, bởi vì lực lượng trong các thành phố đứng về phía tôi. 72 Hãy
tìm hiểu xem tôi là ai và những người trợ lực cho chúng tôi là ai. Người ta bảo
rằng : các ông không thể đứng vững trước mặt chúng tôi được, vì ngay cả tổ tiên
các ông cũng đã hai lần bị tan tác tại chính quê nhà. 73 Bây giờ ông
sẽ không thể đương đầu với đoàn kỵ binh và một lực lượng như thế ở đồng bằng là
chỗ không có lấy một hòn đá, một viên sỏi, một nơi chốn mà trú ẩn."
74
Nghe những lời lẽ của ông A-pô-lô-ni-ô, tâm trí ông Giô-na-than giao động. Ông
tuyển mười ngàn quân và rời khỏi Giê-ru-sa-lem. Ông Si-môn, anh ông, cũng đến
tiếp viện. 75 Ông đóng trại gần Gia-phô, nhưng dân thành đã khoá cửa
lại, vì ở đó có quân canh của ông A-pô-lô-ni-ô. Thế là người Do-thái tấn công
thành; 76 dân thành hoảng sợ liền mở cửa, và ông Giô-na-than đã làm
chủ được Gia-phô. 77 Hay tin ấy, ông A-pô-lô-ni-ô điều động ba ngàn
kỵ binh và một đoàn quân đông đảo tiến về Át-đốt, như thể muốn băng qua miền
ấy, nhưng thực ra là tiến vào đồng bằng, vì ông ta có một đội kỵ binh hùng hậu
mà ông rất tin tưởng. 78 Ông Giô-na-than đuổi theo ông ta cho đến
Át-đốt. Hai đoàn quân đã giao chiến với nhau. 79 Ông A-pô-lô-ni-ô để
lại một ngàn kỵ binh mai phục ở phía sau quân Do-thái. 80 Ông
Giô-na-than biết có một ổ phục kích đàng sau mình, và kỵ binh địch đã bao vây
doanh trại của ông và phóng tên vào dân quân từ sáng đến chiều. 81 Nhưng dân
quân vẫn kiên cường chiến đấu theo lệnh ông Giô-na-than, trong khi kỵ binh địch
đã mệt mỏi. 82 Bấy giờ ông Si-môn kéo quân đến tấn công đám quân địch, vì kỵ
binh chúng đã kiệt sức, nên bị quân của ông Si-môn đè bẹp và phải chạy trốn. 83
Kỵ binh địch chạy tản mác khắp cánh đồng, trốn đến Át-đốt và lẩn vào Bết
Ða-gôn, đền thờ ngẫu tượng của chúng để thoát thân. 84 Nhưng ông Giô-na-than
phóng hoả đốt Át-đốt và các thành chung quanh ; ông thu lấy chiến lợi phẩm rồi
phóng hoả đốt đền thờ Ða-gôn và những người đang ẩn náu bên trong. 85 Có khoảng
tám ngàn người ngã gục vì bị gươm đâm hoặc bị chết cháy. 86 Rời khỏi nơi đó,
ông Giô-na-than đến đóng trại ở Át-cơ-lôn; dân trong thành ra nghênh đón ông
hết sức long trọng. 87 Sau đó, ông Giô-na-than cùng với những người thuộc phe
ông trở về Giê-ru-sa-lem, mang theo nhiều chiến lợi phẩm. 88 Vậy khi hay biết
những điều ấy, vua A-lê-xan-đê lại muốn làm cho ông Giô-na-than được vẻ vang
hơn nữa. 89 Vua gửi cho ông một cái khuy cài áo bằng vàng, theo thói quen vẫn
dành cho các hoàng thân. Vua cũng tặng cho ông thành Éc-rôn và toàn vùng phụ cận
để làm sở hữu riêng.
Chương 11
Vua
Pơ-tô-lê-mai VI ủng hộ vua Ðê-mết-ri-ô II.
Cái
chết của vua Pơ-tô-lê-mai VI và vua A-lê-xan-đê Ba-la.
1
Vua
Ai-cập là Pơ-tô-lê-mai tập trung quân lính đông như cát ngoài bãi biển và tập
trung nhiều chiến thuyền; vua mưu mô chiếm vương quốc của vua A-lê-xan-đê và
sáp nhập vào vương quốc của mình. 2 Vua Pơ-tô-lê-mai đi đến Xy-ri,
nói năng hoà nhã, nên dân thành đã mở cửa đón vua, theo lệnh của vua
A-lê-xan-đê vì vua ấy là nhạc phụ của vua A-lê-xan-đê. 3 Nhưng vừa
tới thành nào vua đặt ngay lính canh trong thành ấy. 4 Khi vua đến
gần Át-đốt, người ta chỉ cho vua thấy đền thờ Ða-gôn bị thiêu huỷ, thành Át-đốt
và các vùng phụ cận bị triệt hạ, xác người nằm rải rác đó đây và những xác
người mà ông Giô-na-than đã phóng hoả đốt thành than trong cuộc giao chiến, vì
những xác ấy đã bị chất thành đống trên đường vua đi. 5 Người ta
thuật lại cho vua những gì ông Giô-na-than đã gây ra, có ý cho vua khiển trách
ông; nhưng vua làm thinh. 6 Ông Giô-na-than đến Gia-phô và nghênh
đón vua long trọng; hai bên chào hỏi nhau và nghỉ đêm tại đó. 7 Ông
Giô-na-than tháp tùng vua đến sông có tên là Ê-lêu-thê-rô, rồi trở về
Giê-ru-sa-lem. 8 Còn vua Pơ-tô-lê-mai thì chiếm cứ các thành miền
duyên hải cho đến cảng Xê-lêu-ki-a và tìm cách mưu hại vua A-lê-xan-đê. 9 Vua
Pơ-tô-lê-mai sai sứ đến gặp vua Ðê-mết-ri-ô và thưa: "Xin mời ngài đến,
chúng ta cùng ký giao ước với nhau và tôi sẽ gả con gái của tôi cho ngài, người
con gái hiện là vợ A-lê-xan-đê, rồi ngài sẽ cai trị vương quốc của thân phụ
ngài. 10 Quả thật, tôi lấy làm tiếc là đã gả con gái cho ông ta, vì
ông ta đã tìm cách giết tôi.” 11 Vua Pơ-tô-lê-mai trách móc như thế
vì muốn chiếm đoạt vương quốc của vua A-lê-xan-đê. 12 Sau khi bắt
con gái về, nhà vua gả cho vua Ðê-mết-ri-ô và đoạn giao với vua A-lê-xan-đê.
Mối thù nghịch giữa đôi bên thật là rõ rệt. 13 Vua Pơ-tô-lê-mai tiến
vào An-ti-ô-khi-a và lên ngôi cai trị miền A-xi-a; như vậy nhà vua cai trị cả
hai hai miền Ai-cập và A-xi-a. 14 Trong thời gian ấy, vua
A-lê-xan-đê đang ở miền Ki-li-ki-a vì dân cư miền ấy nổi loạn. 15 Nghe
biết những việc đã xảy ra, vua A-lê-xan-đê liền đi giao chiến với vua
Pơ-tô-lê-mai. Vua này lên đường nghênh chiến cùng với một lực lượng hùng hậu,
khiến vua A-lê-xan-đê phải bỏ chạy. 16 Vua A-lê-xan-đê trốn vào miền
Ả-rập và nương náu tại đó ; thế là vua Pơ-tô-lê-mai toàn thắng. 17 Nhưng
một người Ả-rập tên là Dáp-đi-ên đã chặt đầu vua A-lê-xan-đê và gửi về cho vua
Pơ-tô-lê-mai. 18 Hai ngày sau vua Pơ-tô-lê-mai cũng chết. Quân
Ai-cập đóng trong các pháo đài của vua đã bị dân cư ở đó sát hại. 19 Vua
Ðê-mết-ri-ô lên ngôi trị vì năm một trăm sáu mươi bảy.
Bang
giao giữa vua Ðê-mết-ri-ô II và ông Giô-na-than
20
Bấy
giờ ông Giô-na-than tập hợp dân Giu-đê tiến đánh đồn quân ở Giê-ru-sa-lem. Ông
cho làm nhiều máy để tấn công. 21 Có những tên vô lại thù ghét chính
dân tộc mình, đã đi gặp vua Ðê-mết-ri-ô và báo cho vua biết ông Giô-na-than
đang bao vây đồn quân. 22 Thoạt nghe, vua nổi giận ; rồi khi vừa hay
biết, vua lập tức lên đường đến Pơ-tô-lê-mai. Vua viết thư cho ông Giô-na-than,
yêu cầu ông ngưng vây hãm đồn quân và đến Pơ-tô-lê-mai gặp vua để thương nghị
càng sớm càng tốt. 23 Khi vừa hay biết, ông Giô-na-than ra lệnh tiếp
tục vây hãm, rồi tuyển một số kỳ mục Ít-ra-en và một số tư tế cùng ông lao mình
vào nguy hiểm. 24 Ông lên đường đi gặp vua ở Pơ-tô-lê-mai, mang theo
vàng bạc, quần áo và nhiều thứ quà khác khiến vua rất hài lòng. 25 Bấy
giờ có một số tên vô đạo trong dân đi tố cáo ông. 26 Nhưng vua đối
xử với ông như các vua trước đã đối xử, và đã làm cho ông được vẻ vang trước mặt
toàn thể các bạn hữu của vua. 27 Vua chuẩn nhận chức thượng tế và
tất cả các tước vị ông đã có trước kia, lại còn kể ông vào số bạn hữu thân tín
nhất của mình. 28 Ông Giô-na-than xin vua miễn thuế cho miền Giu-đê
và ba hạt thuộc miền Sa-ma-ri ; đổi lại, ông hứa dâng cho vua chín ngàn ký bạc.
29 Vua chấp thuận và viết cho ông Giô-na-than một bức thư nội dung
như sau:
Hiến
chương mới thuận lợi cho người Do-thái
30
"Vua
Ðê-mết-ri-ô gửi lời chào Giô-na-than, người anh em và gửi lời chào dân tộc
Do-thái. 31 Chúng tôi đã gửi cho ông Lát-thê-nê, hoàng thân của
chúng tôi một bức thư liên quan đến anh em. Ðây là bản sao chúng tôi gửi cho
anh em để anh em được tường: 32 Vua Ðê-mết-ri-ô gửi lời chào thân
phụ là Lát-thê-lê! 33 Ðối với dân tộc Do-thái là bạn hữu luôn giữ lòng thành
tín với chúng ta, chúng tôi quyết định đối xử tử tế với họ vì lẽ họ đã có lòng
yêu mến chúng ta. 34 Chúng tôi công nhận họ có chủ quyền trên cả
lãnh thổ Giu-đê lẫn ba quận A-phê-rê-ma, Lốt và Ra-ma-tha-gim. Các quận này
cũng như tất cả các vùng phụ thuộc đã được tách khỏi miền Sa-ma-ri và sáp nhập
vào miền Giu-đê nay được dành cho những người lo việc tế tự ở Giê-ru-sa-lem. Từ
đây họ không phải nộp thuế về hoa màu và trái cây cho hoàng gia, mà trước đây
hằng năm họ vẫn phải nộp. 35 Còn những khoản thuế khác vẫn phải nộp
cho chúng tôi như thuế thập phân, các thứ thuế, thuế ruộng muối, thuế tiền
vàng, từ nay chúng tôi cũng miễn hết. 36 Không được huỷ bỏ một điều
khoản nào trong các điều khoản trên, kể từ bây giờ cho tới mãi mãi. 37 Vậy
xin ngài sao thêm một bản và trao cho ông Giô-na-than để ông đặt trên núi
thánh, tại nơi mọi người có thể nhìn thấy."
Vua
Ðê-mết-ri-ô được ông Giô-na-than tiếp viện
38
Thấy
cõi đất đã im hơi lặng tiếng trước mặt mình và không còn sức kháng cự nào nữa,
vua Ðê-mết-ri-ô liền cho giải ngũ toàn thể quân đội, ai về nhà nấy, chỉ giữ lại
số quân ngoại bang vua đã tuyển mộ trong đám dân trên các đảo. Vì thế tất cả
quân đội do các vua trước để lại đều thù ghét vua. 39 Vậy Try-phôn,
một người thuộc phe vua A-lê-xan-đê, thấy tất cả quân đội xầm xì chống lại vua
Ðê-mết-ri-ô, ông ta liền đi gặp một người Ả-rập tên là I-man-cu-ê; ông này đang
nuôi dưỡng người con trai của vua A-lê-xan-đê là An-ti-ô-khô. 40 Ông
ta cố nài ép ông I-man-cu-ê trao đứa trẻ cho mình để đưa nó lên ngôi kế vị vua
cha. Ông ta còn cho ông này biết tất cả những gì vua Ðê-mết-ri-ô đã làm, cũng
như thái độ thù nghịch của quân đội đối với vua ấy. Ông ta đã lưu lại đó một
thời gian dài.
41
Ðang
lúc ấy, ông Giô-na-than sai người đến gặp vua Ðê-mết-ri-ô, yêu cầu vua trục
xuất khỏi Giê-ru-sa-lem tất cả số quân đóng trong Ðô Thị, cũng như số quân
trong các pháo đài, bởi vì chúng luôn gây chiến với Ít-ra-en. 42 Vua
Ðê-mết-ri-ô sai người đến nói với ông Giô-na-than rằng: "Không phải tôi
chỉ làm có bấy nhiêu cho ông và dân tộc ông mà thôi, nhưng một khi có thời cơ
thuận tiện, tôi còn làm cho ông và dân tộc ông được vẻ vang, hiển hách nữa. 43
Còn bây giờ, ông sẽ làm một việc nghĩa, nếu ông gửi người đến giúp tôi,
vì tất cả quân đội của tôi đều đã trở mặt.” 44 Ông Giô-na-than đã
gửi đến An-ti-ô-khi-a ba ngàn quân, những chiến binh dũng cảm ; họ đến với vua
và vua đã mừng rỡ khi thấy họ. 45 Dân chúng tập trung lại ở giữa
thành, khoảng một trăm hai mươi ngàn người ; họ tính giết vua. 46 Vua
chạy trốn vào cung điện; dân thành chiếm giữ các đường phố và bắt đầu tấn công.
47 Vua kêu gọi người Do-thái tiếp viện ; những người này tập trung
lại bên vua, rồi bủa ra khắp thành và đã giết chết khoảng một trăm ngàn người
trong ngày hôm ấy. 48 Họ phóng hoả đốt thành và ngày hôm ấy thu được
nhiều chiến lợi phẩm, đồng thời cứu thoát được vua. 49 Khi thấy
người Do-thái đã làm chủ được thành phố như ý họ muốn, thì dân cư trong thành
phố mất tinh thần ; họ kêu xin với vua: 50 "Chúng tôi xin ngưng
chiến ; xin vua bảo người Do-thái đừng tấn công chúng tôi và thành phố nữa!” 51
Chúng quăng vũ khí xin cầu hoà, còn người Do-thái thì được vinh quang
trước mặt vua và trước mặt toàn dân trong vương quốc của vua ; họ đã trở về
Giê-ru-sa-lem, mang theo nhiều chiến lợi phẩm. 52 Vua Ðê-mết-ri-ô
củng cố ngai vàng trong vương quốc ; cõi đất im hơi lặng tiếng trước mặt vua. 53
Nhưng vua đã thất ước, không giữ tất cả những gì đã hứa và đối xử lạnh
nhạt với ông Giô-na-than, coi ông như người xa lạ, không đền đáp công ơn ông đã
làm cho vua, lại còn làm cho ông phải vô cùng điêu đứng.
Ông
Giô-na-than chống lại vua Ðê-mết-ri-ô.
Ông
Si-môn tái chiếm Bết Xua. Vụ A-xo.
54
Sau
đó, Try-phôn trở về, đem theo An-ti-ô-khô còn non trẻ. An-ti-ô-khô bắt đầu lên
ngôi trị vì vương quốc. 55 Toàn thể quân đội trước đây đã bị vua
Ðê-mết-ri-ô giải ngũ nay tập trung lại bên vua An-ti-ô-khô và giao chiến với
vua Ðê-mết-ri-ô, khiến vua này phải trốn chạy. 56 Try-phôn đã bắt
lấy voi và chiếm được thành An-ti-ô-khi-a.
57
Vua
An-ti-ô-khô trẻ đã viết cho ông Giô-na-than như sau: "Tôi công nhận ông là
thượng tế và đặt ông cai quản bốn quận. Ông được kể vào hàng bạn hữu của vua.” 58
Vua cũng gửi cho ông chén vàng và bộ bát đĩa, lại cho ông được quyền dùng
chén vàng để uống, được mặc áo cẩm bào và dùng khuy cài áo bằng vàng. 59 Vua
đặt anh của ông là Si-môn làm quân sư coi từ Thang Tia cho đến ranh giới Ai-cập.
60 Ông Gio-na-than ra đi, rảo khắp Vùng bên kia sông Êu-phơ-rát và
các thành phố. Toàn thể quân đội Xy-ri họp lại bên ông để cùng ông chiến đấu.
Ông đến Át-cơ-lôn ; dân thành ra đón ông rất long trọng. 61 Từ đó,
ông đi đến Ga-da. Vì người ta đóng cổng nên ông đã bao vây thành, phóng hoả đốt
và cướp phá các vùng phụ cận. 62 Dân thành Ga-da van nài ông
Giô-na-than và ông đã cho ngưng chiến. Nhưng ông đã bắt hết con trai các thủ
lãnh làm con tin và cho đưa về Giê-ru-sa-lem. Ðoạn ông rảo qua khắp miền ấy cho
đến tận Ða-mát.
63
Ông
Giô-na-than nghe biết là các tướng lãnh của vua Ðê-mết-ri-ô đang ở Kê-đét thuộc
miền Ga-li-lê, cùng với một đạo quân đông đảo ; họ mưu toan truất chức ông. 64
Ông đi nghênh chiến với họ, để anh ông là Si-môn ở lại miền ấy. 65 Ông
Si-môn đóng trại gần Bết Xua, giao chiến nhiều ngày và công hãm thành ấy. 66
Dân thành van nài ông cho ngưng chiến. Ông chấp thuận, nhưng đuổi họ ra
khỏi đó, chiếm lấy thành và đặt quân canh giữ. 67 Còn ông
Giô-na-than cùng với đoàn quân đóng trại gần suối Ghen-nê-xa. Sáng sớm, họ đến
cánh đồng A-xo. 68 Và này, đoàn quân ngoại bang chặn đánh ông trong
cánh đồng; trước đó, chúng đã bố trí một ổ phục kích trong miền núi để đánh
ông, còn chúng thì dàn trận trực chiến với ông. 69 Bấy giờ, quân ở
các ổ phục kích rời bỏ vị trí, xông ra giao chiến. 70 Mọi người
thuộc phe ông Giô-na-than phải chạy trốn hết, chẳng còn lại một ai, ngoại trừ
ông Mát-tít-gia, con ông Áp-sa-lôm và ông Giu-đa, con ông Khan-phi. Hai ông này
là thủ lãnh các toán quân. 71 Ông Giô-na-than xé áo mình ra, rắc bụi
lên đầu và cầu nguyện. 72 Rồi ông quay lại giao chiến với quân thù,
khiến chúng phải chạy tứ tán. 73 Thấy vậy, những người thuộc phe ông
Giô-na-than đang chạy trốn, liền quay trở lại với ông và cùng ông truy kích cho
đến tận Kê-đét, mãi tới doanh trại của chúng. Ðoạn họ đóng trại ở đó. 74 Ngày
hôm ấy, có khoảng ba ngàn quân ngoại bang ngã gục ; còn ông Giô-na-than thì trở
về Giê-ru-sa-lem.
Chương 12
Ông
Giô-na-than giao hảo với người Rô-ma và Xi-pác-ta
1
Thấy
hoàn cảnh thuận lợi, ông Giô-na-than đã chọn một số người và phái họ đi Rô-ma
để củng cố và tái lập tình hữu nghị với người Rô-ma. 2 Ðối với người
Xi-pác-ta và những người ở nơi khác, ông cũng gửi thư nhằm cùng một mục đích. 3
Vậy các sứ giả đã đến Rô-ma. Họ vào Nghị viện và nói: "Thượng tế
Giô-na-than và dân tộc Do-thái đã phái chúng tôi đến tái lập hữu nghị và liên
minh giữa đôi bên như đã có trước đây.” 4 Nghị viện đã trao thư cho
họ đến các nhà chức trách địa phương yêu cầu những người này đưa họ trở về đất
Giu-đa an toàn.
5
Ðây
là bản sao bức thư ông Giô-na-than viết cho người Xi-pác-ta:
6
"Thượng
tế Giô-na-than, Hội đồng kỳ mục của dân tộc, các tư tế và toàn dân Do-thái, xin
gửi lời chào người Xi-pác-ta anh em. 7 Trước đây, có một bức thư do
ông A-rê-ô, là người bấy giờ cai trị anh em, gửi cho thượng tế Ô-ni-a, nói rằng
anh em là bạn hữu của chúng tôi, theo bản sao đính kèm. 8 Ông Ô-ni-a
đã long trọng tiếp đón người được cử tới và đã nhận bức thư nói rõ về mối liên
minh và tình hữu nghị. 9 Phần chúng tôi, dù không cần đến những
chuyện như thế, bởi vì chúng tôi đã có sẵn Sách Thánh trong tay làm nguồn an ủi,
10 chúng tôi cũng mạn phép cử người đi tái lập tình huynh đệ và hữu
nghị với anh em, để khỏi mang tiếng là đối xử với anh em như người dưng nước
lã, bởi vì thời gian đã quá lâu kể từ ngày anh em gửi thư cho chúng tôi. 11
Phần chúng tôi, trong mọi dịp, vào các ngày lễ cũng như các ngày thích
hợp khác, chúng tôi vẫn không ngừng nhớ đến anh em, trong các lễ tế và các lời
cầu nguyện của chúng tôi, vì nhớ đến những người anh em thật là điều phải đạo
và xứng đáng. 12 Chúng tôi cũng vui mừng vì anh em được vinh quang
hiển hách. 13 Còn chúng tôi, chúng tôi đã gặp bao cơn thử thách,
phải đương đầu với biết bao cuộc chiến, và bị các vua chung quanh tấn công, 14
nhưng chúng tôi đã không muốn phiền hà anh em cũng như các đồng minh và
bạn hữu khác của chúng tôi vì các cuộc giao tranh đó, 15 bởi lẽ
chúng tôi được sự trợ giúp từ Trời và nhờ vậy được giải thoát khỏi tay quân
thù. Chính những kẻ thù của chúng tôi phải nhục nhã. 16 Vì thế chúng
tôi đã chọn ông Nu-mê-ni-ô con ông An-ti-ô-khô và ông An-ti-pa-te con ông
Gia-xon và phái họ đến gặp người Rô-ma để tái lập hữu nghị và liên minh đã có
trước đây giữa chúng tôi với họ. 17 Vậy chúng tôi cũng truyền cho họ
đến gặp cả anh em nữa, để chào thăm và chuyển cho anh em bức thư nói về việc
tái lập mối dây thân hữu của chúng tôi. 18 Vậy giờ đây, xin anh em
vui lòng trả lời cho chúng tôi về vấn đề trên."
19
Còn
đây là bản sao bức thư gửi cho ông Ô-ni-a:
20
"A-rê-ô,
vua dân Xi-pác-ta gửi lời chào thượng tế Ô-ni-a! 21 Có một bản văn liên quan
đến dân Xi-pác-ta và dân Do-thái viết rằng họ là anh em với nhau và đều thuộc
dòng dõi ông Áp-ra-ham. 22 Vì bây giờ chúng tôi được biết như thế,
nên xin anh em vui lòng viết cho tôi về cảnh thanh bình của anh em. 23 Phần
chúng tôi, chúng tôi xin báo cho anh em hay là súc vật của anh em, tài sản của
anh em là của chúng tôi, và các vật sở hữu của chúng tôi là của anh em. Vì vậy
chúng tôi truyền phải thông báo cho anh em theo chiều hướng đó."
Ông
Giô-na-than đi tới miền Coi-lê Xy-ri.
Ông
Si-môn đi tới miền duyên hải.
24
Ông
Giô-na-than nghe tin là ;các tướng lãnh của vua Ðê-mết-ri-ô đã quay trở lại,
mang theo đạo quân đông đảo hơn trước để giao chiến với ông. 25 Ông
liền rời khỏi Giê-ru-sa-lem và đi tới miền Kha-mát để nghênh chiến với chúng,
vì ông không muốn cho chúng có thời giờ để tràn vào miền đất của ông. 26 Ông
phái người đi do thám doanh trại của chúng; họ trở về báo cho ông hay là chúng
định ập vào tấn công lúc ban đêm. 27 Khi mặt trời lặn, ông
Giô-na-than ra lệnh cho những người thuộc phe ông phải tỉnh thức, cầm khí giới
sẵn sàng giao chiến suốt đêm. Ông còn đặt lính canh chung quanh trại. 28 Khi
nghe tin ông Giô-na-than và những người thuộc phe ông sẵn sàng giao chiến, thì
quân địch sợ hãi, tâm thần hoảng hốt; chúng đã nổi lửa trong doanh trại của
chúng. 29 Ông Giô-na-than và những người thuộc phe ông không hay
biết gì cho đến sáng, vì họ vẫn nhìn thấy ánh lửa. 30 Ông liền đuổi
theo chúng, nhưng không bắt kịp bởi vì chúng đã vượt qua sông Ê-lêu-thê-rô. 31
Bấy giờ ông Giô-na-than quay ra đánh những người Ả-rập cũng gọi là người
Da-ba-đê. Ông đánh bại họ và thu lấy chiến lợi phẩm. 32 Rồi ông nhổ
trại, lên đường đi Ða-mát và rảo qua khắp miền ấy. 33 Còn ông Si-môn
cũng ra đi, tiến đến tận Át-cơ-lôn và các pháo đài lân cận. Ðoạn ông quay về
Gia-phô và đã chiếm được thành, 34 vì ông được biết là dân thành
muốn nộp pháo đài cho những người thuộc phe vua Ðê-mết-ri-ô. Ông đặt một toán
quân ở đó để canh giữ thành.
Công
trình phòng thủ Giê-ru-sa-lem
35
Sau
khi trở về, ông Giô-na-than triệu tập đại hội các kỳ mục trong dân ; ông cùng
với họ quyết định xây dựng các pháo đài ở miền Giu-đê, 36 nâng cao
các tường luỹ Giê-ru-sa-lem và dựng một bức tường lớn giữa đồn quân và thành
phố để ngăn cách đôi bên và cô lập đồn quân cho binh lính không mua bán gì được.
37 Dân chúng họp nhau lại để tái thiết thành, bởi vì một phần tường
luỹ ở chỗ suối, về phía đông, đã sụp đổ ; họ cũng tu bổ khu phố gọi là
Kha-phê-na-tha. 38 Còn ông Si-môn thì tái thiết thành Át-đi-đa thuộc
miền Sơ-phê-la, ông tăng cường phòng thủ và lắp cửa đóng then cho thành.
Ông
Giô-na-than sa vào tay quân thù
39
Trong
khi đó, Try-phôn tìm cách nắm quyền cai trị A-xi-a, đội lấy vương miện và ra
tay hại vua An-ti-ô-khô. 40 Vì sợ ông Giô-na-than không để cho mình
hành động, lại còn tấn công mình nữa, nên ông ta tìm cách bắt giết ông
Giô-na-than. Vì thế ông ta lên đường đi Bết San.
41
Ông
Giô-na-than ra nghênh chiến, cùng với bốn mươi ngàn quân tinh nhuệ, đi tới Bết
San. 42 Thấy ông đến cùng với đoàn quân đông đảo, Try-phôn sợ không
dám ra tay hại ông. 43 Ông ta long trọng tiếp đón ông Giô-na-than và
giới thiệu với tất cả các bạn hữu, lại còn tặng quà và truyền cho các bạn hữu
cũng như quân đội phải tuân lệnh ông như tuân lệnh mình. 44 Ông ta
nói với ông Giô-na-than: "Sao ông lại bắt tất cả đám dân này phải cực
nhọc, đang lúc giữa chúng ta không có chiến tranh? 45 Vậy bây giờ, xin ông
tuyển lấy một ít người tháp tùng, còn bao nhiêu cho về nhà hết, rồi cùng với
tôi đi đến thành Pơ-tô-lê-mai. Tôi sẽ nộp cho ông thành đó, cùng với các pháo
đài, cũng như quân đội còn lại và tất cả các quan chức, rồi sẽ bỏ đó quay về.
Chính vì thế mà tôi có mặt ở đây.” 46 Vì cả tin, ông Giô-na-than đã
làm như ông ta nói : ông cho binh lính giải ngũ và họ đã trở về đất Giu-đa. 47
Ông chỉ giữ lại ba ngàn quân, trong số đó hai ngàn để ở Ga-li-lê, còn một
ngàn đi theo ông. 48 Nhưng thoạt khi ông Giô-na-than vào
Pơ-tô-lê-mai, dân thành liền đóng cổng lại. Họ bắt lấy ông, còn những người
cùng đi vào với ông đều bị họ dùng gươm giết chết. 49 Try-phôn sai
quân đội và kỵ binh đến miền Ga-li-lê và miền Ðồng Bằng Lớn tàn sát mọi người
thuộc phe ông Giô-na-than. 50 Nhưng những người này nghe tin ông
Giô-na-than đã bị bắt và bị giết cùng với các người theo ông, nên họ khuyến
khích nhau siết chặt hàng ngũ để sẵn sàng chiến đấu. 51 Bọn người
đuổi theo thấy họ liều mạng chiến đấu liền quay về. 52 Mọi người đều
đã về tới đất Giu-đa bằng an vô sự. Họ đã tổ chức tang lễ cho ông Giô-na-than
và những người cùng đi với ông. Họ sợ hãi lắm. Toàn dân Ít-ra-en đớn đau và sầu
thảm vô cùng. 53 Tất cả các dân tộc chung quanh đều tìm cách tiêu
diệt họ. Thật thế, chúng bảo nhau: "Bọn ấy bây giờ không còn ai chỉ huy,
không có ai trợ lực. Vậy chúng ta hãy tấn công chúng để không còn ai trong loài
người nhớ tới chúng nữa."
Chương 13
V.
Ông Si-Môn Làm Thượng Tế
Và
Thủ Lãnh Dân Do-Thái (143-134)
Ông
Si-môn nắm quyền lãnh đạo
1
Ông
Si-môn được tin Try-phôn tập hợp đông đảo quân lính để kéo đi tiêu diệt đất
Giu-đa. 2 Thấy dân chúng run rẩy hãi hùng, ông lên Giê-ru-sa-lem tập
hợp dân chúng lại, 3 khuyến khích và nói với họ: "Hẳn anh em
biết tất cả những gì tôi, anh em tôi và nhà cha tôi đã làm để bênh vực Lề Luật
và Nơi Thánh, cùng những cuộc giao chiến, những nỗi ngặt nghèo chúng tôi đã trải
qua. 4 Bởi vậy tất cả các anh em tôi đã chết vì Ít-ra-en, chỉ còn
sót lại một mình tôi. 5 Vậy giờ đây, tôi đâu còn tiếc mạng sống mình
dù gặp phải bất cứ cảnh gian nguy nào, vì tôi chẳng hơn gì các anh em tôi! 6
Trái lại, tôi sẽ báo thù cho dân tộc, cho Nơi Thánh, cho vợ con của anh em, bởi
vì, do lòng thù ghét, tất cả các dân ngoại đã toa rập với nhau để tiêu diệt
chúng ta.” 7 Vừa nghe những lời ấy, tinh thần dân chúng bừng lên như
lửa; 8 họ lớn tiếng đáp lại rằng: "Chính ông là người chỉ huy
chúng tôi thay thế cho ông Giu-đa và ông Giô-na-than em ông. 9 Xin
ông lãnh đạo cuộc kháng chiến của chúng tôi. Những gì ông bảo chúng tôi, chúng
tôi sẽ thi hành.” 10 Ông Si-môn đã quy tụ mọi người có khả năng
chiến đấu. Ông vội vã hoàn thành công việc xây đắp tường luỹ Giê-ru-sa-lem và
tăng cường phòng thủ chung quanh thành, 11 rồi phái ông Giô-na-than,
con ông Áp-sa-lôm, đưa một đạo quân đáng kể đến Gia-phô. Ông này đã trục xuất
tất cả dân cư trong thành và ở lại đó.
Ông
Si-môn đẩy lui Try-phôn khỏi miền Giu-đa
12
Try-phôn
rời Pơ-tô-lê-mai, cùng với đoàn quân đông đảo tiến vào đất Giu-đa, dẫn theo ông
Giô-na-than đang bị giữ làm tù binh. 13 Ông Si-môn đóng trại ở
Át-đi-đa, đối diện với cánh đồng. 14 Khi Try-phôn được tin ông
Si-môn đã lên thay em là ông Giô-na-than và sắp sửa ra giao chiến với mình,
liền sai sứ giả đến nói với ông Si-môn rằng: 15 "Ông
Giô-na-than em ông mắc nợ kho tàng nhà vua một số bạc: món nợ này có liên quan
đến các chức vụ của ông ấy. Vì thế, ông ấy đã bị chúng tôi bắt giữ. 16 Vậy
nếu ông gửi cho chúng tôi ba ngàn ký bạc và hai người con trai của ông ấy làm
con tin, để một khi được thả, ông ấy không chống lại chúng tôi, bấy giờ chúng
tôi sẽ thả ông ấy.” 17 Dù biết rằng chúng nói như thế là có ý lừa
gạt, nhưng ông Si-môn vẫn cho lấy bạc và tìm hai đứa trẻ, vì sợ dân chúng căm
phẫn 18 mà nói rằng: "Tại ông ấy không gửi bạc và các đứa trẻ cho Try-phôn
mà ông Giô-na-than đã phải chết.” 19 Vậy ông đã gửi các đứa trẻ và
ba ngàn ký bạc, nhưng Try-phôn đã lừa dối, không chịu thả ông Giô-na-than. 20
Sau đó, Try-phôn lên đường đi chiếm và tiêu diệt đất Giu-đa, theo đường
vòng qua ngã A-đô-ra. Nhưng ông Si-môn và đoàn quân của ông bám sát Try-phôn
trên đường di chuyển. 21 Cùng lúc, quân ở trong đồn phái các sứ giả
đến gặp Try-phôn, giục ông ta đến gặp chúng qua ngã sa mạc và gửi lương thực
cho chúng. 22 Try-phôn chuẩn bị tất cả kỵ binh của ông ta để ra đi.
Nhưng hôm ấy tuyết rơi quá nhiều, nên ông ta đã không đến được vì có tuyết. Sau
đó, ông ta ra đi, tới miền Ga-la-át. 23 Khi gần tới Bát-ca-ma, ông
ta đã giết chết ông Giô-na-than ; ông này được mai táng tại đó. 24 Ðoạn
Try-phôn trở về xứ sở.
Ông
Giô-na-than được mai táng ở Mô-đin. Ông Si-môn xây mộ.
25
Ông
Si-môn sai người đem hài cốt ông Giô-na-than, em ông về, rồi mai táng ở Mô-đin,
thành của tổ tiên ông. 26 Toàn dân Ít-ra-en khóc thương ông thảm
thiết và để tang ông nhiều ngày. 27 Ông Si-môn xây trên mộ thân phụ
và các anh em ông một đài tưởng niệm cao, ở xa cũng thấy, bằng đá nhẵn cả mặt
trước lẫn mặt sau. 28 Ông dựng bảy kim tự tháp, từng đôi một đối
diện nhau, để kính nhớ cha mẹ và bốn người anh em của ông. 29 Ông
làm những cây cột lớn chung quanh các kim tự tháp để trang trí; trên những cây
cột, ông đặt các bộ binh giáp để ghi nhớ muôn đời; bên các bộ binh giáp là
những chiếc thuyền được chạm trổ, ai đang đi biển cũng nhìn thấy được. 30 Ðó
là ngôi mộ do ông Si-môn xây ở Mô-đin; ngôi mộ ấy vẫn còn cho tới ngày nay.
Vua
Ðê-mết-ri-ô II ủng hộ ông Si-môn
31
Nhưng
Try-phôn đã dùng thủ đoạn đối xử với vua An-ti-ô-khô còn non trẻ và đã giết vua.
32 Ông ta chiếm ngôi của vua An-ti-ô-khô, nắm quyền cai trị A-xi-a
và gây ra biết bao thảm hoạ trong xứ. 33 Ông Si-môn xây dựng lại các
pháo đài trong xứ Giu-đê, với những tháp cao chung quanh, với tường luỹ kiên cố
và các cửa có then cài. Ông cũng dự trữ lương thực trong các pháo đài ấy. 34
Rồi ông tuyển một số người và cử đi gặp vua Ðê-mết-ri-ô để xin vua miễn
thuế cho xứ Giu-đê, bởi vì mọi việc Try-phôn làm chỉ là để cướp bóc. 35 Ðể
phúc đáp về những vấn đề ấy, vua Ðê-mết-ri-ô viết cho ông bức thư như sau:
36
"Vua
Ðê-mết-ri-ô gửi lời chào ông Si-môn là thượng tế và bạn hữu của vua cùng gửi
lời chào các kỳ mục cũng như dân tộc Do-thái! 37 Chiếc triều thiên bằng vàng và
cành lá cọ anh em gửi, chúng tôi đã nhận được; chúng tôi sẵn sàng làm hoà hẳn
với anh em và viết cho các quan chức để họ miễn thuế cho anh em. 38 Tất
cả những điều chúng tôi đã quy định cho anh em, nay vẫn còn giá trị ; các pháo
đài anh em đã xây cũng thuộc quyền anh em. 39 Chúng tôi miễn thứ cho
anh em tất cả những sơ suất và lầm lỗi đã mắc phải từ trước đến nay, kể cả
chiếc triều thiên mà anh em còn thiếu nợ; và nếu có thu khoản thuế nào khác ở
Giê-ru-sa-lem, thì nay không thu nữa. 40 Những người nào trong anh
em có khả năng đăng ký vào đội cận vệ của chúng tôi, thì những người ấy được
đăng ký. Ước gì có hoà bình giữa chúng ta.” 41 Năm một trăm bảy
mươi, dân Ít-ra-en đã được thoát khỏi ách thống trị của dân ngoại. 42 Dân
bắt đầu ghi trên các văn thư và giao kèo: "Năm thứ nhất đời Si-môn, đại
nhân, thượng tế, quân sư và thủ lãnh dân Do-thái."
Ông
Si-môn chiếm Ghe-de
43
Bấy
giờ, ông Si-môn đóng trại gần Ghe-de và cho các đạo quân bao vây thành; ông làm
một cái tháp lăn và đưa đến tấn công thành. Ông đánh hạ và chiếm được một tháp.
44 Những người ở trong tháp lăn nhảy bổ vào thành, gây ra náo loạn
lớn. 45 Dân cư trong thành cùng với vợ con leo lên tường luỹ, áo
xống tả tơi. Họ kêu lớn tiếng, van nài ông Si-môn, xin cầu hoà 46 và nói:
"Xin ngài đừng xử với chúng tôi theo các việc gian ác của chúng tôi, nhưng
theo lòng thương xót của ngài.” 47 Ông Si-môn đồng ý và không tấn
công, nhưng trục xuất họ ra khỏi thành. Ông thanh tẩy những nhà nào có để ngẫu
tượng, rồi tiến vào thành giữa tiếng hát thánh thi và lời ca chúc tụng. 48
Ông trừ khử mọi thứ ô uế và cho những ai tuân giữ Lề Luật được định cư
trong thành, đoạn ông tăng cường phòng thủ thành và xây cất dinh thự cho mình
tại đó.
Ông
Si-môn đánh chiếm Ðô Thị ở Giê-ru-sa-lem
49
Bấy
giờ binh lính trong đồn ở Giê-ru-sa-lem bị ngăn cản không được ra vào miền ấy
để mua bán ; chúng thiếu thốn cực khổ và nhiều người trong bọn đã phải chết đói.
50 Chúng kêu cứu ông Si-môn xin cầu hoà và ông đã chấp thuận. Ông
trục xuất chúng ra khỏi đó và thanh tẩy đồn quân cho sạch mọi điều nhuốc nhơ. 51
Người Do-thái vào đồn ngày mười ba tháng hai năm một trăm bảy mươi mốt,
giữa tiếng ca mừng và những cành lá cọ phất phới, giữa tiếng hạc, tiếng cầm và
tiếng não bạt vang rền, với tiếng hát thánh thi và thánh ca, bởi vì một kẻ thù
ác hiểm đã bị loại ra khỏi Ít-ra-en. 52 Ông Si-môn quyết định là
hằng năm phải cử hành ngày đó thật tưng bừng. Ông tăng cường phòng thủ Núi Ðền
Thờ dọc theo đồn quân, rồi chính ông và những người theo ông đến cư ngụ ở đó. 53
Sau đó, khi thấy người con là Gio-an đã trưởng thành, ông Si-môn liền đặt
lên làm thống lãnh toàn thể quân đội. Ông này đã đến cư ngụ ở Ghe-de.
Chương 14
Ca
tụng ông Si-môn
1
Năm
một trăm bảy mươi hai, vua Ðê-mết-ri-ô tập hợp quân đội và lên đường đến Mê-đi
xin cầu viện để giao chiến với Try-phôn. 2 Ác-xa-kê, vua Ba-tư và
Mê-đi được tin vua Ðê-mết-ri-ô đã xâm nhập lãnh thổ của mình, liền phái một trong
các tướng lãnh đi bắt sống vua Ðê-mết-ri-ô. 3 Vị tướng này đã lên
đường và đánh bại đoàn quân của vua Ðê-mết-ri-ô, bắt được vua và giải về trình
diện vua Ác-xa-kê. Vua này đã tống giam vua Ðê-mết-ri-ô.
4
Ðất
Giu-đa được yên hàn trong suốt thời gian ông Si-môn cai trị.
Ông
mưu cầu lợi ích cho dân tộc mình,
hết
mọi ngày đời ông, ai cũng lấy làm vừa ý
về
uy quyền và vinh quang của ông.
5
Thêm
vào bao vinh quang sẵn có,
ông
đã lấy Gia-phô, biến thành hải cảng,
và
mở đường tới các hải đảo xa xăm.
6
Ông
mở rộng biên cương cho dân tộc
và
giữ vững quyền kiểm soát trong xứ,
7
dẫn
đưa về nhiều kẻ bị lưu đày,
làm
bá chủ Ghe-de, Bết Xua và đồn quân;
ông
loại ra khỏi đồn quân mọi điều ô uế
không
một ai chống cự nổi ông.
8
Dân
chúng được an cư lạc nghiệp,
đất
đai sinh sản ra hoa màu
và
cây cối trong cánh đồng trổ sinh hoa trái.
9
Các
kỳ mục ngồi ở công trường
trò
chuyện với nhau về thời thịnh trị,
còn
thanh niên mặc chiến bào rực rỡ.
10
Ông
cấp lương thực và lo phòng thủ cho các thành,
khiến
tên tuổi ông vang dội đến tận cùng cõi đất.
11
Ông
kiến tạo hoà bình cho xứ sở
và
Ít-ra-en đầy hoan hỷ mừng vui.
12
Ai
cũng được ngồi dưới cây nho, cây vả của mình
không
còn ai làm họ phải sợ hãi khiếp kinh.
13
Quân
xâm lăng, ông đánh bạt khỏi xứ
vào
thời ấy, vua chúa bị đánh tơi bời.
14
Ông
nâng dậy kẻ nghèo hèn trong dân,
và
tuân giữ Lề Luật
cùng
tiêu diệt hết quân vô đạo và phường gian ác.
15
Ông
làm cho Nơi Thánh được vẻ vang
và
tăng thêm đồ thờ trong Nơi Thánh.
Lập
lại giao ước với Xi-pác-ta và Rô-ma
16
Tin
ông Giô-na-than đã chết lan tới Rô-ma và đến tận Xi-pác-ta. Người ta rất đỗi lo
ngại. 17 Nhưng khi họ được tin rằng ông Si-môn, anh ông, đã làm
thượng tế thay ông và chính ông này đã giữ vững được miền ấy cùng với các thành
trong miền, 18 thì họ đã viết cho ông vào các tấm bảng đồng để tái
lập hoà ước hữu nghị và liên minh mà trước đây họ đã ký kết với ông Giu-đa và
ông Giô-na-than, anh em ông. 19 Bản văn này được đọc lên trước đại
hội ở Giê-ru-sa-lem.
20
Dưới
đây là bản sao bức thư của người Xi-pác-ta:
"Các
pháp quan và dân thành Xi-pác-ta gửi lời chào thượng tế Si-môn, các kỳ mục, các
tư tế và những người khác trong dân Do-thái, anh em của họ! 21 Các sứ giả được
cử đến với dân chúng tôi đã báo cho chúng tôi biết về vinh quang và uy thế của
anh em. Chúng tôi lấy làm vui mừng vì họ đã tới. 22 Chúng tôi đã kể
những điều họ nói vào số những nghị quyết của dân như sau: "Ông Nu-mê-ni-ô
con ông An-ti-ô-khô và ông An-ti-pa-te con ông Gia-xon, sứ giả của dân Do-thái
đã đến gặp chúng tôi để tái lập tình hữu nghị với chúng tôi. 23 Dân
chúng hài lòng đón tiếp những con người ấy cách long trọng và xếp bản sao các
lời họ nói vào trong công hàm, để dân Xi-pác-ta giữ lấy làm kỷ niệm. Ngoài ra,
bản sao những điều ấy cũng được viết để gửi cho thượng tế Si-môn."
24
Sau
đó, ông Si-môn phái ông Nu-mê-ni-ô đến Rô-ma, đem theo chiếc thuẫn bằng vàng
nặng năm trăm ký để xác nhận giao ước với họ.
Sắc
lệnh làm vẻ vang cho ông Si-môn
25
Khi
nghe những chuyện ấy, dân nói: "Chúng ta biết lấy gì đền đáp ông Si-môn và
các con ông? 26 Bởi vì chính ông, cũng như các anh em ông và nhà cha ông đã
đứng vững. Ông đã dùng khí giới đánh đuổi quân thù ra khỏi Ít-ra-en, và tái lập
tự do cho dân." Họ đã khắc văn bản vào bảng đồng và đặt trên những tấm bia
tại núi Xi-on. 27 Ðây là bản sao văn bản ấy:
"Ngày
mười tám tháng E-lun, năm một trăm bảy mươi hai, tức là năm thứ ba đời thượng
tế Si-môn đại nhân, trong sân A-xa-ra-mên, 28 giữa đại hội các tư
tế, nhân dân, các thủ lãnh của dân tộc và các kỳ mục trong xứ, người ta đã
thông tri cho chúng tôi là:
29
Khi
trong xứ xảy ra nhiều cuộc giao tranh, ông Si-môn, con ông Mát-tít-gia, tư tế
thuộc dòng dõi ông Giô-a-ríp đã cùng với các anh em mình xông pha nguy hiểm,
đứng lên chống lại những kẻ thù của dân tộc để duy trì Nơi Thánh cũng như Lề
Luật và làm cho dân tộc mình được vẻ vang hiển hách. 30 Ông
Giô-na-than đã quy tụ dân tộc mình và trở nên thượng tế của họ, đoạn ông về sum
họp với gia tiên. 31 Các thù địch của người Do-thái muốn xâm chiếm
xứ sở của họ và ra tay phá huỷ Nơi Thánh. 32 Bấy giờ, ông Si-môn
đứng lên chiến đấu để bảo vệ dân tộc. Ông đã chi tiêu nhiều tiền của riêng để
võ trang cho các chiến binh dũng cảm của dân tộc và cấp lương cho họ. 33 Ông
tăng cường phòng thủ các thành miền Giu-đê, cũng như Bết Xua, một thành nằm ở
trên biên giới miền Giu-đê, là nơi trước đây quân thù đã tàng trữ vũ khí ; ông
đặt ở đó một đội quân người Do-thái để canh gác. 34 Ông cũng tăng
cường phòng thủ Gia-phô, một thành thuộc miền duyên hải và Ghe-de, một thành
nằm trên biên giới Át-đốt, là nơi trước đây quân thù đồn trú. Tại đây, ông đã
cho người Do-thái định cư và cung cấp cho họ tất cả những gì cần thiết để sinh
sống. 35 Dân chúng thấy lòng trung thành của ông Si-môn và vinh
quang mà ông quyết tâm thực hiện cho dân tộc mình, họ đã tôn ông lên làm thủ
lãnh và làm thượng tế của họ, vì tất cả những gì ông thực hiện, vì đức công
chính cũng như lòng trung thành đối với dân tộc mình, và vì ông đã luôn tìm mọi
cách để đề cao dân tộc. 36 Dưới thời ông Si-môn, nhờ tay ông, mọi
việc đều được trôi chảy, từ việc đánh đuổi các dân ngoại ra khỏi xứ cho đến việc
đánh đuổi những người sống trong Thành vua Ða-vít ở Giê-ru-sa-lem. Tại đây,
chúng đã xây một đồn quân để từ đó đi ra, làm ô uế các vùng chung quanh Nơi
Thánh, và xúc phạm nặng nề đến sự thánh thiện của Nơi Thánh. 37 Ông
đã cho quân lính Do-thái định cư tại đó, và tăng cường phòng thủ để xứ sở và
thành phố được yên ổn ; đồng thời ông cũng nâng cao thành luỹ Giê-ru-sa-lem.
38
Chính
vì thế, vua Ðê-mết-ri-ô công nhận ông là thượng tế, 39 kể ông vào số
bạn hữu của vua và làm cho ông được rất mực vẻ vang. 40 Quả vậy, vua
đã nghe biết người Rô-ma gọi người Do-thái là bạn hữu, là đồng minh và anh em,
lại còn đón tiếp long trọng các sứ giả của ông Si-môn nữa. 41 Vua
cũng nghe biết người Do-thái đồng ý để ông Si-môn làm thủ lãnh và thượng tế của
họ mãi cho tới khi có một vị ngôn sứ đáng tin xuất hiện. 42 Vua còn
nghe biết ông làm quân sư của họ và chịu trách nhiệm về Nơi Thánh; chính ông
cắt đặt những người điều hành các công việc, quản trị xứ sở, trông coi vũ khí
và các pháo đài. 43 Ông đảm nhận trách nhiệm về Nơi Thánh ; mọi
người phải tôn phục ông ; tất cả các văn thư trong xứ đều phải được viết nhân
danh ông ; ông được mặc áo cẩm bào và mang huy hiệu bằng vàng. 44 Không
một người nào trong dân và trong các tư tế được loại bỏ một điều nào trong các
điều trên, cũng không được nói ngược lại những mệnh lệnh của ông, không được
quy tụ người trong miền mà không có sự đồng ý của ông, không được mặc áo cẩm
bào và mang khuy cài áo bằng vàng. 45 Bất cứ ai làm ngược lại hay vi
phạm điều nào trong những điều trên, người ấy phải chịu hình phạt. 46 Tất
cả dân chúng đều đồng ý cho ông Si-môn được quyền thi hành những điều nói trên.
47 Ông Si-môn chấp thuận và đồng ý làm thượng tế, làm quân sư và thủ
lãnh người Do-thái và các tư tế cũng như đứng đầu mọi người. 48 Có
lệnh truyền là phải khắc văn bản ấy vào bảng đồng và đặt bên ngoài Nơi Thánh, ở
nơi mọi người có thể nhìn thấy được. 49 Ngoài ra, còn để bản sao
trong kho tàng cho ông Si-môn và các con có thể sử dụng."
Chương 15
Bức
thư của vua An-ti-ô-khô VII. Cuộc bao vây thành Ðô-ra.
1
Từ
các hải đảo, vua An-ti-ô-khô, con vua Ðê-mết-ri-ô gửi một bức thư cho ông
Si-môn là tư tế và thủ lãnh của người Do-thái cũng như cho toàn dân, 2 nội
dung như sau:
"Vua
An-ti-ô-khô gửi lời chào ông Si-môn, thượng tế và thủ lãnh, cùng gửi lời chào
dân Do-thái! 3 Vì có một số người tai ác đã chiếm đoạt vương quốc của cha ông
chúng tôi, nên bây giờ tôi muốn đòi lại chủ quyền để khôi phục vương quốc như
trước kia. Vì thế, tôi đã tuyển mộ đông đảo quân lính và trang bị nhiều chiến
thuyền. 4 Tôi định đổ bộ lên miền ấy để truy lùng những kẻ đã tàn
phá xứ sở và làm tan hoang nhiều thành phố thuộc vương quốc của chúng tôi. 5
Vậy giờ đây, tôi xác nhận mọi khoản miễn thuế các vua trước tôi đã miễn
cho ông, và mọi phẩm vật các vị ấy đã miễn cho ông. 6 Tôi cho ông
được quyền đúc tiền riêng để lưu hành trong xứ của ông. 7 Giê-ru-sa-lem
và Nơi Thánh được tự do. Tất cả vũ khí ông đã chế tạo, các pháo đài ông đã xây
và đang chiếm giữ, vẫn thuộc về ông. 8 Tất cả các khoản ông đang nợ
hay sẽ nợ ngân quỹ hoàng gia, tôi tha cho ông ngay từ bây giờ và mãi mãi về sau.
9 Khi nào lấy lại được vương quốc, chúng tôi sẽ làm cho ông, dân tộc
ông và Ðền Thờ được rất mực vẻ vang, đến toàn cõi đất đều thấy sự vẻ vang của
các ông."
10
Năm
một trăm bảy mươi tư, vua An-ti-ô-khô ra đi, đến đất của tổ tiên mình ; quân
đội theo vua hết, chỉ còn rất ít ở lại với Try-phôn. 11 Vua
An-ti-ô-khô đuổi theo khiến ông ta phải trốn vào Ðô-ra, một thành thuộc miền
duyên hải, 12 vì ông ta biết rằng tai hoạ đang dồn dập đổ đến, và
quân đội đã bỏ rơi ông ta. 13 Vua An-ti-ô-khô đóng trại gần Ðô-ra,
cùng với một trăm hai mươi ngàn quân có khả năng chiến đấu và tám ngàn kỵ binh.
14 Vua bao vây thành trong khi các chiến thuyền từ ngoài khơi xáp
vào bờ. Thế là vua công hãm thành cả trên đất lẫn dưới biển, không để cho ai ra
hay vào được.
Các
sứ giả từ Rô-ma trở về xứ Giu-đê.
Công
bố giao ước với người Rô-ma.
15
Ông
Nu-mê-ni-ô và những người cùng đi với ông từ Rô-ma trở về mang theo thư gửi cho
các vua và các xứ sở, trong đó viết như sau:
16
"Lu-ki-ô,
quan chấp chính người Rô-ma gửi lời chào vua Pơ-tô-lê-mai! 17 Các sứ giả của
người Do-thái do thượng tế Si-môn và dân Do-thái cử tới đã đến gặp chúng tôi;
họ là bạn hữu và đồng minh của chúng tôi; họ đến để tái lập hoà ước hữu nghị và
liên minh đã có từ ban đầu. 18 Họ đã đem tới chiếc thuẫn bằng vàng
nặng năm trăm ký. 19 Vì vậy chúng tôi lấy làm hài lòng viết cho các
vua và các xứ sở là đừng mưu hại họ, đừng tấn công họ và các thành cũng như xứ
sở của họ và đừng liên minh với những ai tấn công họ. 20 Chúng tôi
cũng quyết định nhận chiếc thuẫn họ mang tới. 21 Vậy nếu có những kẻ
tai ác nào bỏ xứ sở của chúng, trốn sang bên anh em, thì anh em hãy nộp chúng
cho thượng tế Si-môn, để ông trừng phạt theo luật của chúng."
22
Ông
Lu-ki-ô cũng viết những điều ấy gửi cho các vua Ðê-mết-ri-ô, Át-ta-lô,
A-ri-a-ra-thê, Ác-xa-kê, 23 và cho tất cả các miền: Xam-xa-mê,
Xi-pác-ta, Ðê-lô, Myn-đô, Xi-ky-ôn, Ca-ri, Xa-mốt, Pam-phy-li-a, Ly-ki-a,
Ha-li-các-nát-xô, Rô-đô, Pha-xê-lít, Cô, Xi-đê, A-ra-đô, Goóc-ty-na, Cơ-ni-đô,
Sýp và Ky-rê-nê. 24 Ngoài ra, bản sao những điều trên còn được viết
gửi cho thượng tế Si-môn.
Vua
An-ti-ô-khô vây hãm thành Ðô-ra
và
trở thành thù địch của ông Si-môn
25
Vua
An-ti-ô-khô đóng trại gần Ðô-ra, trong vùng ngoại ô, và cho những cánh quân
liên tục tiến đến gần thành; vua làm máy móc, vây chặt Try-phôn, không để cho
ai ra hay vào được. 26 Ông Si-môn phái hai ngàn quân tinh nhuệ đến
giúp vua chiến đấu, cùng với bạc vàng và một số lớn vật dụng. 27 Nhưng
chẳng những vua không muốn nhận, mà còn đi ngược lại những điều trước đây vua
đã giao ước với ông và coi ông như người xa lạ. 28 Vua phái ông
A-thê-nô-bi-ô, một trong số các bạn hữu của vua, đến thảo luận với ông như sau:
"Các ông đã chiếm được Gia-phô, Ghe-de và đồn quân ở Giê-ru-sa-lem là
những thành thuộc vương quốc của tôi. 29 Các ông đã tàn phá lãnh thổ
các thành ấy, gây ra đại hoạ trong xứ và làm chủ nhiều nơi trong vương quốc của
tôi. 30 Vậy bây giờ các ông hãy nộp các thành đã chiếm và vật triều
cống của những nơi các ông đang làm chủ ở ngoài ranh giới miền Giu-đê. 31 Nếu
không, các ông phải nộp mười lăm ngàn ký bạc để thay thế, và mười lăm ngàn ký
khác bù lại những tàn phá các ông đã gây ra, và bù lại những vật triều cống của
các thành các ông đã chiếm. Nếu không nữa, chúng tôi buộc lòng phải gây chiến
với các ông.” 32 Vậy ông A-thê-nô-bi-ô, bạn hữu của vua, đến
Giê-ru-sa-lem. Ông đã chứng kiến cảnh sang trọng của ông Si-môn, với tủ đầy
chén đĩa bằng vàng bằng bạc, với số gia nhân đông đảo. Ông ta lấy làm kinh
ngạc. Ông ta thông báo cho ông Si-môn những lời của vua. 33 Ðáp lại,
ông Si-môn nói: "Chúng tôi không chiếm đất ngoại bang, cũng không chiếm
giữ tài sản của người ngoại bang. Ðó là phần gia nghiệp của tổ tiên chúng tôi,
đã một thời bị các kẻ thù chiếm giữ bất công. 34 Phần chúng tôi chỉ
nhân cơ hội giành lại phần gia nghiệp của tổ tiên mà thôi. 35 Còn về
Gia-phô và Ghe-de mà các ông đang đòi, chính những thành ấy đã gây ra đại hoạ
cho dân và tàn phá xứ sở chúng tôi. Về các thành đó, chúng tôi sẽ nộp ba ngàn
ký bạc.” 36 Ông A-thê-nô-bi-ô không đáp lại lời nào; ông giận dữ
quay về gặp vua, thuật lại những lời trên và kể cho vua nghe về sự sang trọng
của ông Si-môn cũng như tất cả những gì ông đã chứng kiến. Vua đùng đùng nổi
giận.
Toàn
quyền Ken-đê-bai-ô quấy phá miền Giu-đê
37
Try-phôn
leo lên một chiến thuyền và trốn đến Oóc-thô-xi-a. 38 Vua
An-ti-ô-khô đã đặt Ken-đê-bai-ô làm tướng lãnh miền duyên hải và giao cho ông
ta các đạo quân bộ binh và kỵ binh. 39 Vua truyền cho ông ta đến
đóng trại đối diện với miền Giu-đê, và cũng ra lệnh cho ông ta tái thiết Kít-rôn,
tăng cường phòng thủ các Cửa thành hầu tấn công dân Do-thái. Còn vua thì truy
kích Try-phôn. 40 Ken-đê-bai-ô đến Giam-ni-a, bắt đầu khiêu khích
dân và xâm chiếm miền Giu-đê, tàn sát và bắt dân đi đày. 41 Ông ta
tái thiết Kít-rôn, cắt đặt kỵ binh và quân đội ở đó, để thực hiện các cuộc xuất
quân và càn quét trên khắp các nẻo đường miền Giu-đê, theo lệnh vua đã truyền
cho ông ta.
Chương 16
Các
con ông Si-môn đánh thắng tướng Ken-đê-bai-ô
1
Từ
Ghe-de, ông Gio-an lên báo cho cha là ông Si-môn những việc Ken-đê-bai-ô đã làm.
2 Ông Si-môn gọi hai người con trai lớn là Giu-đa và Gio-an lại mà
bảo: "Cha đây cũng như các anh em cha và nhà thân phụ cha đã lãnh đạo các
cuộc kháng chiến của Ít-ra-en từ hồi niên thiếu cho đến ngày nay. Công cuộc
giải phóng Ít-ra-en đã bao lần nhờ tay chúng ta mà được trôi chảy. 3 Bây
giờ, cha đã già ; còn các con, nhờ lòng Trời thương xót, các con đã khôn lớn,
các con hãy thay cha và các anh em của cha đi chiến đấu để bảo vệ dân tộc chúng
ta. Xin ơn trợ giúp từ Trời hằng ở với các con!” 4 Ông Gio-an đã
tuyển trong xứ một đạo quân gồm hai mươi ngàn người có khả năng chiến đấu và
các kỵ binh, rồi lên đường đi chống lại Ken-đê-bai-ô ; họ đã ngủ đêm ở Mô-đin. 5
Rồi họ dậy sớm, lên đường đi tới đồng bằng và kìa, một đạo quân đông đảo
gồm bộ binh và kỵ binh ra nghênh chiến với họ. Ở giữa đôi bên có con suối. 6
Ông Gio-an cùng với quân binh đóng trại đối diện với chúng. Thấy quân của
mình sợ không dám băng qua suối, ông đã băng qua trước. Nhìn thấy thế, họ cũng
băng qua theo ông. 7 Ông bố trí quân binh: xếp kỵ binh vào giữa bộ
binh, vì kỵ binh của đối phương rất đông. 8 Họ thổi kèn và
Ken-đê-bai-ô cùng với đạo quân của ông ta bị thảm hại. Nhiều người trong bọn
chúng bị tử thương ; số còn lại thì trốn vào pháo đài. 9 Bấy giờ ông
Giu-đa, anh ông Gio-an, bị thương, nhưng ông Gio-an vẫn đuổi theo chúng cho đến
Kít-rôn, một thành do Ken-đê-bai-ô tái thiết. 10 Chúng trốn vào các
tháp canh ở trong những cánh đồng miền Át-đốt. Ông Gio-an đã phóng hoả đốt các
tháp đó. Có khoảng hai ngàn người trong bọn chúng đã ngã gục; còn ông Gio-an
thì trở về miền Giu-đê an toàn.
Cái
chết bi thảm của ông Si-môn ở pháo đài Ðốc.
Ông
Gio-an, con ông Si-môn lên thay.
11
Pơ-tô-lê-mai,
con ông A-bu-bô, được đặt làm quân sư trông coi miền đồng bằng Giê-ri-khô. Ông
ta có rất nhiều vàng bạc, 12 vì là con rể của thượng tế. 13 Ông
ta sinh lòng tự cao, muốn chiếm lấy xứ và quyết định dùng mưu gian để tiêu diệt
cha con ông Si-môn. 14 Khi ấy, ông Si-môn rảo qua các thành trong
xứ, lo sắp xếp công việc quản trị các thành ấy; ông xuống Giê-ri-khô cùng với
các con là Mát-tít-gia và Giu-đa. Bấy giờ là năm một trăm bảy mươi bảy, tháng
mười một, tức là tháng Sơ-vát. 15 Với dụng tâm gian giảo, con trai
ông A-bu-bô đón tiếp họ ở một pháo đài nhỏ, gọi là Ðốc, do ông ta tái thiết.
Ông ta mở đại tiệc thết đãi họ, nhưng lại cho người ẩn núp ở đó. 16 Khi
cha con ông Si-môn đã say, Pơ-tô-lê-mai và những người thuộc phe ông ta xuất
đầu lộ diện, vũ khí lăm lăm, xông vào ông Si-môn đang ở trong phòng tiệc. Chúng
giết chết ông và hai người con trai cùng với một số lính hầu. 17 Thế
là ông ta đã phản bội trắng trợn, và đã lấy ác báo thiện.
18
Pơ-tô-lê-mai
làm bản báo cáo gửi về cho vua, để xin vua phái quân tiếp viện và trao miền đất
cũng như các thành phố người Do-thái cho ông ta. 19 Ông ta còn phái
một số người khác đến Ghe-de để tiêu diệt ông Gio-an ; ông ta cũng gửi thư cho
các người chỉ huy một ngàn quân, khuyên họ đứng về phe ông ta, để được bạc,
vàng và tặng phẩm. 20 Ông ta còn phái một số người khác nữa đến
chiếm Giê-ru-sa-lem và Núi Ðền Thờ. 21 Nhưng có một người đã mau lẹ
về Ghe-de báo cho ông Gio-an biết rằng cha ông và các anh em ông đã chết ;
người ấy còn nói thêm : "Ông ta còn sai người đến giết cả ông nữa!” 22
Nghe tin ấy, ông Gio-an rất đỗi bàng hoàng; ông bắt những người đến định
giết ông và đem giết đi, vì ông đã biết là chúng tìm cách giết ông. 23 Còn
những chuyện khác liên quan đến ông Gio-an, đến các cuộc giao tranh, các chiến
công mà ông đã lập, cũng như việc tái thiết các tường luỹ do ông thực hiện và
các công trình khác, 24 thì tất cả các những điều ấy đã được ghi
chép trong cuốn sách Sử biên niên thời ông làm thượng tế, bắt đầu từ khi ông
giữ chức thượng tế thay cho thân phụ ông.
Ma-ca-bê 2
Chương 01
I.
Các Thư Gửi Cho Người Do-Thái Ở Ai-Cập
Thư
Thứ Nhất
1
Anh
em Do-thái ở Giê-ru-sa-lem và miền Giu-đê xin kính chào anh em Do-thái ở Ai-cập
và kính chúc anh em được vạn an. 2 Xin Thiên Chúa ban phúc lộc cho
anh em và xin Người nhớ lại Giao Ước Người đã lập với các tôi trung của Người
là Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp. 3 Xin Người cho tất cả anh em hết
một lòng thờ phượng Người và làm theo ý Người với tâm hồn quảng đại và tinh
thần cương quyết. 4 Xin Người mở lòng anh em đón nhận Lề Luật cũng
như các lệnh truyền của Người và ban bình an cho anh em. 5 Xin Người
nhậm lời anh em cầu nguyện và cho anh em được hoà giải với Người; xin Người
đừng bỏ mặc anh em trong buổi gian nan. 6 Bây giờ, ở đây chúng tôi
đang cầu nguyện cho anh em. 7 Dưới triều vua Ðê-mết-ri-ô, năm một
trăm sáu mươi chín, chúng tôi, những người Do-thái, đã viết cho anh em:
"Suốt những năm phải vô cùng khốn đốn, kể từ khi Gia-xon và những người
theo ông phản bội Ðất Thánh và vương quốc, 8 phóng hoả đốt cổng Ðền
Thờ, đổ máu người vô tội, chúng tôi đã cầu xin Ðức Chúa và Người đã nhậm lời.
Chúng tôi đã dâng lễ hy tế và tinh bột lúa miến; chúng tôi đã thắp đèn và dâng
bánh!” 9 Vậy giờ đây, xin anh em cử hành các ngày lễ Lều trong tháng
Kít-lêu. Thư đề năm một trăm tám mươi tám.
Thư
Thứ Hai
Lời
mở đầu
10
"Những
người Do-thái ở Giê-ru-sa-lem và miền Giu-đê, cùng với Hội đồng kỳ mục và ông
Giu-đa xin kính chào ngài A-rít-tô-bu-lô, quốc sử của vua Pơ-tô-lê-mai và hậu
duệ của các vị tư tế đã được xức dầu tấn phong, cùng xin gửi lời chào thăm
những người Do-thái ở Ai-cập. Kính chúc ngài và anh em được dồi dào sức khỏe.
Tạ
ơn vì vua An-ti-ô-khô bị trừng phạt
11
"Ðược
Thiên Chúa giải thoát khỏi những tai hoạ lớn lao, chúng tôi hết lòng tạ ơn
Người, vì Người đã chiến đấu chống lại nhà vua. 12 Chính Người đã
tiêu diệt những kẻ đánh phá Thành Thánh. 13 Thật thế, tướng chỉ huy
của chúng dẫn một đạo quân được coi là bách chiến bách thắng đến Ba-tư, đã bị
đánh tan trong đền thờ nữ thần Na-nai-a vì chúng đã mắc phải mưu của các tư tế
nữ thần. 14 Viện cớ kết hôn với nữ thần, vua An-ti-ô-khô cùng với
các bạn hữu đã đến nơi ấy, chiếm đoạt nhiều của cải làm như của hồi môn. 15
Sau khi các tư tế của nữ thần Na-nai-a đem trình các báu vật, vua
An-ti-ô-khô cùng một số người tiến vào nội vi điện thờ. Nhưng khi vua vừa tiến
vào, các tư tế đóng cửa đền thờ lại, 16 mở cửa bí mật trên trần nhà,
ném đá như sấm sét xuống đầu vị tướng chỉ huy; rồi họ phanh thây ông ra từng
mảnh và chặt đầu quẳng ra cho những người đứng ở ngoài. 17 Xin chúc
tụng Thiên Chúa chúng ta vì mọi việc Người làm: Người đã trao nộp quân vô đạo
vào tay thần chết.
Lửa
thiêng được gìn giữ lạ lùng
18
"Vậy
sắp đến ngày hai mươi lăm tháng Kít-lêu, là ngày mừng lễ thanh tẩy Ðền Thờ,
chúng tôi thấy cần phải cho anh em biết điều ấy, để cả anh em cũng mừng lễ Lều
và lễ Lửa đã được tổ chức từ thời ông Nơ-khe-mi-a; ông đã dâng lễ hy tế sau khi
xây xong Ðền Thờ và bàn thờ dâng lễ toàn thiêu. 19 Quả vậy, khi cha
ông chúng ta bị dẫn sang Ba-tư, các tư tế đạo đức thời ấy đã bí mật lấy lửa từ
bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, đem cất vào một lỗ hổng của một cái giếng cạn, và
họ đã giấu kỹ đến nỗi không ai biết ở chỗ nào. 20 Nhiều năm đã trôi
qua, vào lúc Thiên Chúa muốn, vua Ba-tư đã sai ông Nơ-khe-mi-a truyền cho con
cháu các tư tế phải tìm cho ra lửa xưa cha ông họ đã giấu. Nhưng các người này
cho biết là không tìm thấy lửa mà chỉ thấy một thứ nước đặc. Ông Nơ-khe-mi-a truyền
cho họ múc hết nước ấy đem về. 21 Sau khi các thứ cần thiết để dâng
hy tế được mang lên bàn thờ, ông Nơ-khe-mi-a truyền cho các tư tế lấy nước ấy
tưới lên củi và các lễ vật đặt trên củi. 22 Làm như vậy xong được
một lúc thì mặt trời, trước đó bị mây che phủ, bây giờ bắt đầu chiếu sáng, và
một ngọn lửa lớn bùng lên khiến mọi người sững sờ kinh ngạc. 23 Ðang
khi lửa thiêu huỷ lễ vật, thì các tư tế cầu nguyện cùng với tất cả mọi người;
ông Giô-na-than xướng lên, những người khác cùng với ông Nơ-khe-mi-a đáp lại. 24
Và nội dung lời cầu nguyện ấy như sau: "Lạy Ðức Chúa, lạy Ðức Chúa
là Thiên Chúa, Ðấng tạo thành vạn vật, Ðấng oai nghiêm, dũng mãnh, công chính
và khoan dung, chỉ mình Ngài là vua, chỉ mình Ngài tốt lành, 25 chỉ
mình Ngài quảng đại, chỉ mình Ngài công chính, toàn năng và vĩnh cửu. Ngài là
Ðấng cứu thoát Ít-ra-en khỏi mọi tai hoạ, là Ðấng tuyển chọn và thánh hoá cha
ông chúng con. 26 Xin đón nhận hy tế chúng con dâng để cầu cho toàn
thể Ít-ra-en; xin bảo vệ và thánh hoá phần gia nghiệp của Ngài. 27 Xin
tập hợp anh em chúng con đang tản mác khắp nơi; xin giải phóng những người bị
dân ngoại bắt làm nô lệ; xin nhìn đến những người bị khinh khi và bị coi là ghê
tởm, để chư dân nhận biết Ngài là Thiên Chúa của chúng con. 28 Xin
trừng trị những ai áp bức chúng con và bọn người kiêu căng nhục mạ chúng con. 29
Xin định cư dân Ngài trong thánh địa như ông Mô-sê đã nói!"
30
Bấy
giờ các tư tế hát thánh thi. 31 Sau đó, khi các tế phẩm được thiêu
huỷ rồi, ông Nơ-khe-mi-a truyền đổ phần nước còn lại lên những tảng đá lớn. 32
Công việc này vừa xong, thì một ngọn lửa bùng lên, nhưng lại bị át đi vì
ánh sáng đốt trên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu. 33 Khi hay biết sự
việc, người ta báo cho vua Ba-tư rằng có một thứ nước xuất hiện tại nơi các tư
tế bị lưu đày đã cất giấu lửa. Ông Nơ-khe-mi-a và các bạn đã dùng nước ấy mà
thanh tẩy các tế phẩm. 34 Vậy sau khi điều tra sự việc, nhà vua cho
rào chung quanh và biến nơi ấy thành khu đất thiêng. 35 Vì thế, nhà
vua nhận được rất nhiều tặng phẩm và đem chia cho các người được lòng vua. 36
Ông Nơ-khe-mi-a và các bạn gọi nước ấy là "Nép-tha", nghĩa là
"Thanh tẩy"; còn phần đông gọi là "Nép-thai."
Chương 02
Ngôn
sứ Giê-rê-mi-a cất giấu đồ thờ phượng
1
Theo
các hồ sơ lưu trữ, người ta biết rằng ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã truyền cho những người
bị lưu đày phải cất giữ lửa như đã chỉ. 2 Sau khi trao sách Luật cho
những người bị phát lưu, ngôn sứ đã chỉ thị cho họ không được quên những mệnh
lệnh của Ðức Chúa và không được để cho tâm trí ra lầm lạc khi nhìn thấy các
tượng bằng vàng, bằng bạc và đồ trang trí các tượng ấy. 3 Ông cũng
dùng những lời tương tự để khuyến khích họ đừng sao nhãng Lề Luật. 4 Cũng
bản văn ấy còn cho biết là vị ngôn sứ được báo mộng, đã truyền phải đưa Lều và
Hòm Bia cùng đi với ông lên núi ông Mô-sê đã lên để nhìn ngắm cơ nghiệp của
Thiên Chúa. 5 Khi đến đó, ông Giê-rê-mi-a gặp thấy một cái nhà giống
hình một cái hang; ông đưa Lều, Hòm Bia và bàn thờ dâng hương vào đấy, rồi bít
cửa lại. 6 Sau đó, một số người đồng hành với ông tính trở lại để
ghi dấu đường, nhưng không tìm ra. 7 Biết chuyện ấy, ông Giê-rê-mi-a
trách mắng họ: "Nơi ấy chẳng ai được biết cho đến khi Thiên Chúa tập hợp
dân lại và tỏ lòng thương xót họ. 8 Bấy giờ Ðức Chúa sẽ cho thấy tất
cả những thứ đó: vinh quang của Ðức Chúa và đám mây sẽ xuất hiện, như dưới thời
ông Mô-sê, cũng như sau này dưới thời vua Sa-lô-môn, khi vua cầu cho lễ thánh
hiến Ðền Thờ được cử hành long trọng.” 9 Cũng bản văn ấy cho biết
vua Sa-lô-môn, một người khôn ngoan tột bậc, đã cử hành lễ cung hiến và khánh
thành Ðền Thờ như thế nào. 10 Xưa kia, khi ông Mô-sê cầu xin Ðức
Chúa, thì lửa từ trời đã xuống thiêu huỷ các lễ vật hiến tế như thế nào, thì
khi vua Sa-lô-môn cầu xin, lửa cũng đốt cháy các lễ vật toàn thiêu như vậy. 11
Ông Mô-sê đã nói: "Vật gì đã dâng lên làm của lễ đền tội, thì không
được phép ăn, mà phải đốt sạch.” 12 Cũng vậy, vua Sa-lô-môn đã mừng
lễ suốt tám ngày liền.
Thư
viện của ông Nơ-khe-mi-a
13
Các
việc trên đây đã được thuật lại trong hồ sơ lưu trữ và trong Hồi ký của ông
Nơ-khe-mi-a. Ngoài ra cũng còn thuật lại việc ông thành lập thư viện, thu thập
các sách liên quan đến các vua và ngôn sứ, các sách của vua Ða-vít, các thư của
các vua liên quan đến các lễ vật biệt hiến. 14 Cũng vậy, ông Giu-đa
đã thu thập tất cả các sách đã bị phân tán hồi chúng tôi gặp chiến tranh: các
sách đó hiện chúng tôi đang giữ. 15 Vậy khi nào cần tới, xin anh em
cho người đến mang về.
Kêu
gọi mừng lễ thánh hiến
16
Vậy
sắp đến ngày mừng lễ thanh tẩy Ðền Thờ, chúng tôi viết thư này cho anh em, mong
anh em xử sự thế nào cho đẹp khi mừng các ngày lễ ấy. 17 Quả thật,
chính Thiên Chúa đã cứu thoát toàn thể dân Người và ban cho tất cả được thừa
hưởng gia nghiệp, vương quyền, chức tư tế và ơn được hiến thánh, 18 như
Người đã hứa trong Lề Luật. Vì thế, chúng tôi hy vọng rằng chẳng bao lâu nữa,
chính Thiên Chúa sẽ thương xót và tập hợp chúng tôi lại từ khắp tứ phương thiên
hạ về Nơi Thánh, bởi vì Người đã cứu chúng tôi khỏi những tai hoạ lớn lao và
thanh tẩy Nơi Thánh này.
II.
Lời Tựa Của Tác Giả
19
Còn
những chuyện về ông Giu-đa Ma-ca-bê và các anh em, về lễ thanh tẩy Ðền Thờ vĩ
đại, về việc cung hiến bàn thờ, 20 cũng như về những cuộc chiến
chống lại vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê và Êu-pa-to con vua, 21 về
những cuộc hiển linh dành cho nghĩa quân chiến đấu bênh vực Do-thái giáo, với
lực lượng không đáng kể mà đã cướp phá toàn miền và đuổi được quân xâm lăng
đông đảo, 22 về việc khôi phục Ðền Thờ lừng danh khắp nơi, về việc
giải phóng thành, về Lề Luật bị huỷ bỏ nay sắp được tái lập, về việc Ðức Chúa
mở lượng từ bi thương xót tất cả mọi người; 23 tất cả những việc đó,
ông Gia-xon, người Ky-rê-nê, đã trình bày trong năm cuốn sách, nay chúng tôi
thu gọn lại thành một cuốn duy nhất.
24
Quả
thật, khi nhìn thấy những con số dài vô tận và nỗi khó khăn của những người
muốn nghiên cứu các trình thuật lịch sử vì tư liệu quá dồi dào, 25 chúng
tôi đã cố trình bày sao cho hấp dẫn đối với những người muốn đọc, sao cho thuận
tiện đối với những người muốn ghi nhớ các sự kiện, và sao cho hữu ích đối với
tất cả những ai muốn làm bạn với sách vở. 26 Ðối với chúng tôi, lãnh
trách nhiệm nặng nề là làm công việc tóm tắt này, thật không phải dễ; công việc
ấy đòi hỏi phải đổ nhiều mồ hôi và phải thức khuya dậy sớm. 27 Công
việc này cũng khó khăn như công việc của người đãi tiệc tìm cách thoả mãn thực
khách; tuy nhiên, để bày tỏ lòng biết ơn đối với nhiều người, chúng tôi xin sẵn
sàng đảm nhận trách nhiệm nặng nề đó. 28 Chúng tôi xin nhường cho
tác giả trình bày cặn kẽ từng chi tiết, còn chúng tôi, chúng tôi sẽ theo các
nét chính trong bản tóm lược. 29 Thật thế, cũng như một kiến trúc sư
thiết kế ngôi nhà mới, phải bận tâm bận trí lo cho toàn bộ công trình, còn thợ
sơn thợ vẽ chỉ lưu ý đến những gì thích hợp cho công việc trang trí, thiết
tưởng công việc của chúng tôi cũng như vậy. 30 Ði sâu vào từng sự
kiện lịch sử, bàn rộng đến các vấn đề và lao tâm khổ tứ, về các chi tiết, thì
xứng hợp với tác giả; 31 còn tìm cách diễn tả tóm tắt cho gọn gàng
thay vì đi vào chi tiết thì đó là công việc của người lược thuật.
32
Vậy
bây giờ chúng ta vào đề ngay, không thêm gì ngoài những điều đã nói. Thật là
ngây ngô nếu phần mở đầu thì dài, còn những phần chính thì lại quá ngắn.
Chương 03
III.
Truyện Quan Hê-Li-Ô-Ðô-Rô
Quan
Hê-li-ô-đô-rô đến Giê-ru-sa-lem
1
Trong
khi Thành Thánh được thái bình thịnh trị và Lề Luật thi hành nghiêm túc, nhờ
thượng tế Ô-ni-a là người đạo hạnh và ghê tởm sự dữ, 2 thì cả các
vua cũng tôn trọng Nơi Thánh và dâng nhiều lễ vật quý giá để làm cho đền thờ
thêm rực rỡ vinh quang, 3 đến độ vua Xê-lêu-cô ở A-xi-a đã lấy tài
sản riêng mà đài thọ mọi khoản chi phí về việc tế tự. 4 Nhưng có một
người tên là Si-môn, thuộc chi tộc Bin-ga, được đặt làm quản lý Ðền Thờ; ông
bất đồng ý kiến với thượng tế về những vụ vi phạm luật kinh tế trong thành. 5
Vì không thể thắng thượng tế Ô-ni-a, nên ông đã đến gặp A-pô-lô-ni-ô, quê
ở Thác-xê-ô, bấy giờ đang làm tướng vùng Coi-lê Xy-ri và Phê-ni-xi, 6 và
đã báo cáo với ông A-pô-lô-ni-ô rằng kho tàng ở Giê-ru-sa-lem đầy dẫy của cải,
nhiều đến nổi không tài nào đếm hết số lượng tiền bạc to lớn ấy, mà số bạc ấy
lại không thuộc về ngân quỹ dành cho tế tự, nên có thể buộc phải đặt tất cả của
cải ấy dưới quyền vua. 7 Vậy tướng A-pô-lô-ni-ô đi gặp nhà vua và
cho vua biết về của cải người ta đã báo cho ông. Vua chọn ông Hê-li-ô-đô-rô
đang làm tể tướng, và sai ông đi mang theo mệnh lệnh phải tịch thu những của
cải nói trên. 8 Lập tức ông Hê-li-ô-đô-rô lên đường, bề ngoài là đi
thanh tra các thành thuộc vùng Coi-lê Xy-ri và Phê-ni-xi, nhưng kỳ thực là thi
hành ý định của vua. 9 Ðến Giê-ru-sa-lem, ông được thượng tế của
thành phố tiếp đón thân tình. Ông cho thượng tế biết chuyện người ta đã tiết lộ
và nói rõ lý do khiến ông có mặt ở đây; rồi ông hỏi sự việc đó có đúng như vậy
không. 10 Thượng tế trả lời rằng đó là tài sản của cô nhi quả phụ
gửi, 11 và một phần là của ông Hiếc-ca-nô, con ông Tô-bi-a, một nhân
vật rất thế giá, -không đúng như tên Si-môn vô đạo bày đặt-. Tất cả của cải ấy
chỉ có mười hai ngàn ký bạc và sáu ngàn ký vàng. 12 Vả lại, không
bao giờ được phép làm hại những người vốn đặt tin tưởng vào Nơi Thánh và Ðền
Thờ, là chốn tôn nghiêm, là nơi bất khả xâm phạm, được cả thế giới coi trọng.
Thành
phố xáo trộn
13
Nhưng
dựa vào các chỉ dụ, ông Hê-li-ô-đô-rô nhất mực nói rằng phải đem tất cả của cải
ấy xung vào kho tàng nhà vua. 14 Vì thế vào ngày ấn định, ông tiến
hành kiểm tra tất cả của cải ấy. Khắp cả thành, người ta lo sợ không ít. 15
Các tư tế mặc lễ phục nằm sắp mình trước bàn thờ dâng lễ toàn thiêu, cầu
khẩn Chúa Trời là Ðấng ra luật về việc ký thác của cải, xin Người gìn giữ
nguyên vẹn những của người ta ký thác. 16 Ai nhìn thấy diện mạo của
thượng tế, cũng phải đau lòng, vì dáng điệu và sắc mặt của ông biểu lộ nỗi lo
sợ trong tâm hồn. 17 Nỗi lo sợ bao trùm con người ông, thân xác ông
run lẩy bẩy, khiến người ta thấy rõ tâm hồn ông đang bị nỗi thống khổ xâu xé. 18
Từng đoàn người đổ xô ra khỏi nhà, đi cầu nguyện chung với nhau vì Nơi
Thánh sắp bị ô nhục. 19 Ðàn bà mặc váy vải thô tràn ngập đường phố;
con gái chưa chồng người thì chạy tuốn ra cổng, kẻ thì lên tường thành, một số
nghiêng mình ra cửa sổ. 20 Tất cả đều giơ tay lên trời cầu nguyện. 21
Thảm hại biết bao khi nhìn thấy đám đông cúi rạp mình xuống và thượng tế
sợ hãi kinh hoàng. 22 Vậy đang khi họ cầu xin Thiên Chúa toàn năng
giữ gìn cẩn thận và nguyên vẹn những của người ta ký thác, 23 thì
ông Hê-li-ô-đô-rô tiến hành điều đã quyết định.
Ông
Hê-li-ô-đô-rô bị trừng phạt
24
Nhưng
ngay tại nơi ông và quân cận vệ lúc ấy đang có mặt tại kho tàng, thì Ðức Chúa
là Vua cao cả và quyền năng biểu lộ vinh quang rực rỡ, đến nỗi những ai cả gan
đi vào đều bị Thiên Chúa quyền năng đánh phạt, khiến cho phải thất điên bát đảo.
25 Thật vậy, trước mặt chúng xuất hiện một con ngựa với một kỵ binh
oai phong lẫm liệt, yên cương lộng lẫy; con ngựa hung hăng nhảy chồm lên, đưa
hai vó trước đánh ông Hê-li-ô-đô-rô; còn kỵ binh trông như mặc áo giáp bằng
vàng. 26 Cùng lúc ấy, có hai thanh niên khác xuất hiện, sức mạnh phi
thường, diện mạo tuấn tú, y phục bảnh bao; mỗi người đứng một bên, đánh ông tới
tấp, giáng cho nhiều đòn chí tử. 27 Ðột nhiên ông ngã quỵ xuống đất,
mặt tối sầm lại; người ta vực ông lên, đặt vào cáng. 28 Vừa mới đây
chính con người này đã đi vào kho tàng nói trên cùng với đám người tháp tùng và
nhóm cận vệ; thì giờ đây lại phải để cho người ta khiêng ra ngoài vì không thể
tự cứu mình được. Ai cũng thấy rõ ràng đó là do quyền năng Thiên Chúa.
29
Trong
khi ông Hê-li-ô-đô-rô bị Thiên Chúa quyền năng quật ngã phải nằm bất động, nói
chẳng ra lời, không còn chút hy vọng và vô phương cứu chữa, 30 thì
những người Do-thái chúc tụng Ðức Chúa, Ðấng đã làm cho Nơi Thánh được tràn
ngập vinh quang. Chỉ mới đây Ðền Thờ chìm đắm trong kinh hoàng náo động, thì
bây giờ nhờ Ðức Chúa toàn năng xuất hiện, lại tràn đầy vui sướng hân hoan. 31
Một số bạn hữu ông Hê-li-ô-đô-rô vội vàng xin thượng tế Ô-ni-a khẩn cầu
Ðấng Tối Cao cứu sống người sắp trút hơi thở cuối cùng.
32
Thượng
tế Ô-ni-a sợ vua hồ nghi người Do-thái bày mưu hãm hại ông Hê-li-ô-đô-rô, nên
đã dâng hy lễ cầu xin Thiên Chúa cứu chữa ông. 33 Trong khi thượng
tế dâng lễ xá tội, thì cũng hai người thanh niên ấy, mặc cùng một thứ y phục
như trước, lại hiện ra với ông Hê-li-ô-đô-rô và nói: "Ngươi phải hết lòng
tạ ơn thượng tế Ô-ni-a, vì quả thật nhờ thượng tế mà Ðức Chúa đã tri ân cho
ngươi được sống. 34 Ngươi đã bị Chúa Trời quật ngã, thì chính ngươi
phải công bố cho mọi người biết quyền năng cao cả của Thiên Chúa." Nói
xong, họ biến mất.
Ông
Hê-li-ô-đô-rô được ơn trở lại
35
Sau
khi dâng hy lễ kính Ðức Chúa, ông Hê-li-ô-đô-rô đã long trọng thề hứa với Ðấng
đã ban lại cho ông sự sống. Ông chào từ biệt thượng tế Ô-ni-a, rồi cùng đoàn
quân trở về với vua. 36 Ông làm chứng cho mọi người về những việc
Thiên Chúa cao cả đã làm, mà chính ông đã được nhìn thấy tận mắt. 37 Vua
hỏi ông Hê-li-ô-đô-rô xem ai là người xứng đáng để được cử đi Giê-ru-sa-lem một
lần nữa. Ông trả lời: 38 "Nếu vua có kẻ thù, hay người nào âm
mưu phản quốc, thì xin sai đến đó; nếu nó còn sống sót mà trở về với vua thì
cũng bị đánh tơi bời; vì quả thật, quyền năng cao cả của Thiên Chúa bao trùm
Nơi Thánh. 39 Quả vậy Ðấng ngự trên trời luôn giữ gìn che chở nơi
ấy; Người sẽ quật ngã và tiêu diệt những ai đến đó làm điều ác.” 40 Ðó
là truyện ông Hê-li-ô-đô-rô và việc bảo vệ kho tàng.
Chương 04
IV.
Việc Truyền Bá Văn Hóa Hy-Lạp.
Cuộc
Bách Hại Dưới Triều An-Ti-Ô-Khô Ê-Pi-Pha-Nê.
Tội
ác của viên quản lý Si-môn
1
Ông
Si-môn được nói đến ở trên là người trước kia đã tiết lộ kho tàng và phản bội
tổ quốc, lúc này lại vu khống thượng tế Ô-ni-a, coi thượng tế như người đã
ngược đãi ông Hê-li-ô-đô-rô và gây ra các tai hoạ. 2 Ông Si-môn dám
gọi vị ân nhân của thành phố, người bảo vệ đồng bào, người nhiệt thành với Lề
Luật là kẻ mưu phản. 3 Hận thù ngày càng gia tăng, đến nỗi một trong
số những người được ông Si-môn tin cậy đã phạm tội sát nhân. 4 Thượng
tế Ô-ni-a nhận thấy cuộc tranh chấp thật là nguy hiểm và sự ủng hộ của ông
A-pô-lô-ni-ô, con ông Mê-nét-thê-ô, tướng chỉ huy miền Coi-lê Xy-ri và
Phê-ni-xi càng làm cho ông Si-môn thêm độc ác, 5 nên thượng tế
Ô-ni-a đến yết kiến nhà vua, không phải để tố cáo đồng bào mình, nhưng vì lợi
ích chung của toàn dân và riêng cho mỗi người. 6 Quả thật, thượng tế
thấy rõ nếu nhà vua không can thiệp, thì đất nước không thể hưởng bình an, và
ông Si-môn chẳng bỏ được tính ngông cuồng.
Thượng
tế Gia-xon du nhập văn hoá Hy-lạp
7
Khi
vua Xê-lêu-cô băng hà và vua An-ti-ô-khô biệt danh là Ê-pi-pha-nê nắm quyền cai
trị vương quốc, thì ông Gia-xon, em của ông Ô-ni-a, lăm le đoạt chức thượng tế.
8 Nhân một buổi yết kiến vua, ông hứa nộp cho vua mười ngàn ký bạc
và thêm hai ngàn bốn trăm ký lấy từ nguồn lợi khác; 9 ngoài ra ông
còn hứa sẽ nộp bốn ngàn năm trăm ký bạc nữa, nếu ông được phép dùng quyền riêng
thiết lập một thao trường và một trung tâm huấn luyện thanh niên, cùng lập danh
sách những người ở Giê-ru-sa-lem phò vua An-ti-ô-khô. 10 Ðược nhà
vua chấp thuận, lại có quyền trong tay, ông Gia-xon liền cưỡng bách đồng bào
sống theo lối Hy-lạp. 11 Ông cũng bãi bỏ các đặc quyền nhà vua đã
ban cho người Do-thái vì lòng nhân đạo, nhờ hoạt động của ông Gio-an, cha của
ông Êu-pô-lê-mô, người sau này được cử làm đại sứ ký kết hoà ước hữu nghị và
liên minh với người Rô-ma. Ông còn huỷ bỏ các tổ chức hợp pháp và lập ra các
tục lệ mới trái với Lề Luật. 12 Quả vậy ông lấy làm thích thú xây
dựng một thao trường ngay dưới chân đồi Ắc-rô-pô-li và đưa các học viên ưu tú
của trường huấn luyện thanh niên thuộc quyền ông tới thao luyện. 13 Lúc
ấy, có Gia-xon, một con người đầy gian ác, một tên vô đạo, không phải là thượng
tế. Nhờ ông ta mà văn hoá Hy-lạp đạt tới cao điểm và phong tục ngoại giáo phát
triển tràn lan, 14 đến nỗi các tư tế không còn hăm hở phục vụ bàn
thờ nữa, nhưng lại coi khinh Ðền Thờ, chểnh mảng trong việc dâng hy lễ; nên khi
vừa nghe có tiếng ném đĩa báo hiệu là họ vội vàng đến đấu trường tham dự trò
chơi trái với Lề Luật. 15 Các tư tế không còn đếm xỉa gì đến danh dự
quốc gia, mà lại rất mực ham chuộng vẻ huy hoàng của văn hoá Hy-lạp. 16 Chính
vì thế, họ lại phải rơi vào hoàn cảnh khó khăn, vì những kẻ mà họ cố theo đòi
bắt chước cách ăn thói ở và muốn được nên giống về mọi mặt, lại trở nên kẻ thù
và người đàn áp họ. 17 Hành động ngạo ngược chống Luật Thiên Chúa
đâu phải chuyện thường. Ðó là điều giai đoạn sau sẽ chứng minh.
18
Trong
cuộc đại hội thể dục thể thao, tổ chức bốn năm một lần ở Tia, có nhà vua hiện
diện, 19 ông Gia-xon, một người đê tiện đã cử một phái đoàn khán giả
với tư cách là những người phò vua An-ti-ô-khô từ Giê-ru-sa-lem đến mang theo
ba trăm quan tiền để dâng lễ kính thần Hê-rắc-lê. Nhưng các người mang tiền xin
đừng dùng số bạc ấy để tế lễ, vì việc đó không thích hợp, mà lại xin dùng vào
một khoản khác. 20 Vậy số bạc ấy lẽ ra phải được dùng vào vào việc
dâng lễ kính thần Hê-rắc-lê, theo ý người gửi, nhưng do lời yêu cầu của những
người mang tiền, người ta lại đem dùng vào việc đóng tàu chiến.
Vua
An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê được hoan nghênh ở Giê-ru-sa-lem.
21
Ông
A-pô-lô-ni-ô, con ông Mê-nét-thê-ô, được cử làm khâm sai sang Ai-cập dự lễ đăng
quang của vua Pơ-tô-lê-mê Phi-lô-mê-tô. Khi được biết vua Phi-lô-mê-tô chống
đối đường lối chính trị của mình, vua An-ti-ô-khô không tỏ ra bận tâm về an
ninh của chính mình, nên đích thân đến Gia-phô, rồi đến Giê-ru-sa-lem. 22 Vua
được ông Gia-xon và thành phố nghênh đón rất trọng thể. Vua tiến vào thành phố
giữa hội hoa đăng và tiếng hò reo vang trời dậy đất; sau đó vua dẫn đoàn quân
đến đóng trại ở Phê-ni-xi.
Ông
Mê-nê-la-ô làm thượng tế
23
Ba
năm sau ông Gia-xon sai ông Mê-nê-la-ô, em ông Si-môn, đem tiền bạc dâng cúng
nhà vua và hoàn thành công việc thương lượng những vấn đề cần thiết. 24 Khi
được vào chầu vua, ông Mê-nê-la-ô xử sự khéo léo như một nhân vật quan trọng
đến nỗi đã chiếm được cảm tình của vua. Ông lại còn dâng cho vua số bạc trội
hơn số bạc của ông Gia-xon chín ngàn ký, nên đã đoạt chức thượng tế. 25 Nhận
được sắc chỉ của vua, ông trở về; ông chẳng có gì xứng với chức thượng tế, mà
chỉ có bộ mặt đằng đằng sát khí của tên bạo chúa và những cơn giận lồng lộn của
con thú dữ. 26 Và như vậy ông Gia-xon đã mưu mô đoạt chức thượng tế
của anh mình, thì giờ đây lại bị người khác mưu mô đoạt mất, nên bó buộc phải
trốn sang miền Am-ma-ni-tít. 27 Còn ông Mê-nê-la-ô tuy là người có
thực quyền, nhưng lại không nộp số bạc như đã hứa với vua. 28 Vì thế
ông Xốt-ra-tô, vị chỉ huy đồi Ắc-rô-pô-li, lên tiếng khiếu nại, vì chính ông có
bổn phận thu thuế. Do đó, cả hai đã bị vua triệu hồi. 29 Ông
Mê-nê-la-ô để cho em là ông Ly-xi-ma-khô làm thượng tế thay mình, còn ông
Cơ-ra-tê, thủ lãnh người đảo Sýp, thay thế ông Xốt-ra-tô.
Thượng
tế Ô-ni-a bị ám sát
30
Trong
thời gian ấy, dân Tác-xô và Ma-lốt nổi loạn, vì hai thành này được tặng cho bà
An-ti-ô-khít, cung nữ của vua. 31 Vậy vua hối hả đi dàn xếp việc
này, trao quyền nhiếp chính cho một quan đại thần là ông An-rô-ni-cô. 32 Ông
Mê-nê-la-ô tưởng là nắm được cơ hội thuận tiện nên đã ăn cắp một ít đồ bằng
vàng của Ðền Thờ đem biếu ông An-rô-ni-cô; ông cũng may mắn bán được một số đồ
khác ở Tia và các thành lân cận. 33 Thượng tế Ô-ni-a biết rõ các
điều ấy liền khiển trách ông Mê-nê-la-ô, sau khi đã rút vào nơi trú ẩn an toàn
ở Ðáp-nê, gần An-ti-ô-khi-a. 34 Bởi thế, ông Mê-nê-la-ô đi gặp riêng
ông An-rô-ni-cô và hối thúc ông này ra tay hạ sát ông Ô-ni-a. Vậy ông
An-rô-ni-cô đến gặp ông Ô-ni-a, dùng mưu trấn an, giơ tay phải lên thề. Tuy ông
Ô-ni-a có nghi ngờ, nhưng ông An-rô-ni-cô cũng đã thuyết phục được ông ra khỏi
nơi trú ẩn an toàn. Lập tức ông thủ tiêu ông Ô-ni-a, chẳng kể gì công lý. 35
Chính vì thế, không những người Do-thái mà cả nhiều người ngoại bang cũng
phẫn uất và bất bình về tội sát hại của con người ấy.
36
Khi
vua từ các miền thuộc xứ Ki-li-ki-a trở về, các người Do-thái trong thành và cả
những người Hy-lạp vốn ghét tội ác đều đến gặp vua, vì ông Ô-ni-a đã bị sát hại
vô lý. 37 Vua An-ti-ô-khô rất đỗi ưu phiền, vua động lòng trắc ẩn,
khóc thương người quá cố đầy khôn ngoan và giàu đức độ. 38 Vua đùng
đùng nổi giận, bắt lột ngay áo vải điều An-rô-ni-cô đang mặc, truyền xé rách
xiêm y, rồi dẫn đi khắp thành phố, cho đến chính nơi ông ta đã phạm tội sát hại
ông Ô-ni-a, và tại đó vua đã cho tên sát nhân lìa đời. Thế là Ðức Chúa đã giáng
cho ông ta một hình phạt đích đáng.
Ly-xi-ma-khô
bị giết trong cuộc nổi loạn
39
Ðã
xảy ra nhiều vụ ăn trộm của Ðền Thờ trong thành phố, do ông Ly-xi-ma-khô chủ
mưu và ông Mê-nê-la-ô đồng loã. Tin đồn lan ra ngoài, dân chúng hùa nhau chống
lại ông Ly-xi-ma-khô. Nhiều đồ vật bằng vàng đã bị lấy mất. 40 Khi
thấy dân chúng nổi dậy, lòng đầy căm phẫn, ông Ly-xi-ma-khô vũ trang cho khoảng
ba ngàn người. Ông ra lệnh cho chúng đàn áp dã man, dưới quyền chỉ huy của tên
Au-ra-nô, tuổi tuy cao nhưng tính ngông cuồng lại chẳng kém. 41 Thấy
ông Ly-xi-ma-khô tấn công, dân chúng người thì lượm đá, kẻ thì cầm gậy, một số
người bốc tro có sẵn ở đấy, ném loạn xạ vào quân của ông Ly-xi-ma-khô. 42 Vì
thế, họ làm cho nhiều người trong bọn chúng bị thương, một số chết và khiến
những tên còn sót lại phải đào tẩu: còn chính tên ăn cắp của Ðền Thờ thì bị hạ
sát ngay bên cạnh kho tàng.
Ông
Mê-nê-la-ô bị kiện nhưng được tha
43
Người
ta truy tố ông Mê-nê-la-ô về những việc ấy. 44 Khi vua An-ti-ô-khô
đến Tia, ba sứ giả được hội đồng kỳ mục cử đi buộc tội ông ta. 45 Ông
Mê-nê-la-ô biết mình thua cuộc, nên hứa tặng ông Pơ-tô-lê-mai, con ông
Ðô-ry-mê-nê, một số tiền lớn, để ông ta can thiệp với nhà vua. 46 Thế
là ông Pơ-tô-lê-mai đưa vua ra ngoài hành lang như để hóng mát và ông ta đã làm
cho nhà vua thay đổi ý kiến.47 Nhà vua tha cho ông Mê-nê-la-ô, người đã gây ra
tất cả các tội ác, khỏi bị tố cáo, nhưng lại kết án tử hình những người đáng
thương ấy - giả như họ có biện hộ cho mình trước dân man di, thì cũng được tha
về trắng án. 48 Vậy những người biện hộ cho thành, cho dân và các đồ
thờ phượng đã phải lãnh ngay một bản án bất công. 49 Chính vì vậy,
cả dân thành Tia vốn ghét tội ác cũng đã lo mai táng họ hết sức trọng thể. 50
Còn ông Mê-nê-la-ô, dựa vào bọn cường quyền tham nhũng mà vẫn tại chức,
mỗi ngày một thêm độc ác và trở nên kẻ thù nguy hiểm của đồng bào.
Chương 05
Chinh
phạt Ai-cập lần thứ hai
1
Vào
thời ấy, vua An-ti-ô-khô chuẩn bị chinh phạt Ai-cập lần thứ hai. 2 Bỗng
nhiên trong khắp thành phố, hầu như suốt bốn mươi ngày, thấy xuất hiện những kỵ
binh mặc áo dát vàng chạy trên không, những đoàn quân võ trang xếp thành hàng
ngũ, 3 những đoàn kỵ binh sẵn sàng chiến đấu, những cuộc tấn công và
phản kích, khiên thuẫn giương lên, giáo mác chất thành đống, gươm tuốt trần,
tên bắn vun vút, những đồ bằng vàng sáng choang và áo giáp đủ loại. 4 Vì
thế, mọi người cầu nguyện, xin cho cuộc hiển linh ấy trở nên điềm lành.
Trận
tấn công của ông Gia-xon và cuộc đàn áp của vua An-ti-ô-khô
5
Nhưng
có tin đồn thất thiệt là vua An-ti-ô-khô băng hà, nên ông Gia-xon đem khoảng
một ngàn người, bất ngờ đến tấn công thành Giê-ru-sa-lem. Quân bảo vệ tường
thành bị đẩy lui, rốt cuộc thành đã bị chiếm và ông Mê-nê-la-ô phải chạy trốn
vào Ắc-rô-pô-li. 6 Ông Gia-xon thẳng tay tàn sát đồng bào, mà không
nghĩ rằng thắng đồng bào là một thất bại nặng nề, lại cứ tưởng mình lập được
chiến công nơi kẻ thù chứ không phải nơi người đồng chủng. 7 Thực
ra, ông ta không nắm được quyền hành, và cuối cùng vì âm mưu xảo quyệt mà phải
chuốc lấy nhục nhã và lại phải trốn sang miền Am-ma-ni-tít. 8 Thế là
cuộc đời ô trọc của ông ta đến hồi kết thúc: bị tố cáo với vua A-rê-ta nước
Ả-rập, phải trốn từ thành nọ tới thành kia, bị mọi người đuổi bắt, bị gớm ghét
như tên phản bội Lề Luật, bị kinh tởm như tên lý hình làm hại tổ quốc và đồng
bào, cuối cùng phải phiêu bạt sang tận Ai-cập. 9 Kẻ đã trục xuất
biết bao người ra khỏi tổ quốc, nay phải bỏ mạng ở chốn tha hương, sau khi sang
tá túc nơi người La-kê-đai-môn với hy vọng tìm được chốn tựa nương bên cạnh
người đồng chủng. 10 Kẻ đã ném xác nhiều người, không cho chôn cất,
nay chẳng được một ai tiếc thương, chẳng được an táng, và cũng chẳng được yên
nghỉ trong phần mộ của tổ tiên.
11
Nghe
biết các biến cố ấy, vua An-ti-ô-khô kết luận là xứ Giu-đê đã phản nghịch. Bởi
thế vua rời Ai-cập, lòng đầy căm phẫn, dùng bạo lực đánh chiếm thành
Giê-ru-sa-lem. 12 Rồi vua truyền cho binh sĩ hễ gặp ai là cứ thẳng
tay tàn sát, và cắt cổ những ai trốn lên mái nhà. 13 Trẻ già đều
vong mạng, đàn ông, đàn bà, con nít đều bị giết; thiếu nữ lẫn hài nhi bị cắt cổ.
14 Chỉ ba ngày thôi mà tám mươi ngàn người đã bị diệt vong: bốn mươi
ngàn phải chết, số còn lại bị đem bán làm nô lệ.
Cướp
phá Ðền Thờ (1 Mcb 1:20-24)
15
Vẫn
chưa hài lòng, vua còn táo bạo đi vào Ðền Thờ thánh thiện nhất trên toàn cõi
đất này, nhờ tên phản bội Lề Luật và tổ quốc là Mê-nê-la-ô dẫn lối đưa đường. 16
Bàn tay ô uế của vua đã chiếm các đồ thánh, cũng bàn tay nhơ nhớp này vơ
vét những tặng vật do các vua khác hiến dâng để làm cho Nơi Thánh tăng thêm vẻ
huy hoàng và niềm vinh dự.
17
Vua
An-ti-ô-khô sinh lòng tự cao tự đại, nên không thấy rằng Chúa Tể càn khôn đã
nổi giận trong một thời gian ngắn vì tội lỗi của dân cư trong thành; bởi thế,
Người đã lơ là với Nơi Thánh. 18 Nhưng nếu dân thành không chìm đắm
trong tội lỗi, thì vua An-ti-ô-khô cũng sẽ chung một số phận với Hê-li-đô-ô-rô,
người được vua Xê-lêu-cô sai đến thanh tra kho tàng. Quả thật, khi vừa đến nơi,
ông đã bị ngay một trận đòn đích đáng nên mới từ bỏ dự định ngông cuồng ấy. 19
Không phải vì Nơi Thánh mà Ðức Chúa đã chọn dân, nhưng trái lại, chính vì
dân mà Ðức Chúa đã chọn Nơi Thánh. 20 Bởi vậy, khi đã đồng lao cộng
khổ với dân, thì sau này, Nơi Thánh cũng sẽ cùng với dân được chung phần phúc
lộc Ðức Chúa tặng ban. Nơi Thánh đã bị Ðấng Toàn Năng bỏ rơi vì nổi giận, thì
một khi được hoà giải lại cùng Chúa Tể càn khôn, nơi ấy sẽ đầy tràn vinh quang
rực rỡ.
21
Vậy
sau khi chiếm đoạt của Ðền Thờ năm mươi bốn ngàn ký bạc, vua An-ti-ô-khô vội vã
trở về An-ti-ô-khi-a; vì kiêu ngạo, vua tưởng mình có thể làm cho thuyền bơi
trên đất, chân đi trên biển, lòng vua hoá ra tự cao tự đại. 22 Vua
đặt các quan đô hộ để hành hạ nòi giống Ít-ra-en: ở Giê-ru-sa-lem có ông
Phi-líp-phê thuộc dân Phy-gi-a, tính tình độc ác hơn cả người bổ nhiệm ông ta; 23
ở Gơ-ri-dim có ông An-rô-ni-cô. Ngoài những người này ra, còn có ông
Mê-nê-la-ô là người đàn áp đồng bào còn tệ hơn những người khác.
Tướng
A-pô-lô-ni-ô
Vì
ghét cay ghét đắng người Do-thái, 24 nên vua phái tướng
A-pô-lô-ni-ô, người lo việc thuế má, dẫn một đạo quân hai mươi hai ngàn người,
đi hạ sát tất cả những người đang trong tuổi sung sức, còn đàn bà, con trẻ thì
đem bán làm nô lệ. 25 Ông ta đến Giê-ru-sa-lem, giả bộ hoà hoãn, đợi
cho đến ngày sa-bát là ngày thánh. Lợi dụng ngày người Do-thái nghỉ việc, ông
ta hạ lệnh cho tất cả binh sĩ cầm vũ khí. 26 Ông ta truyền chém giết
tất cả những ai ra xem, rồi cùng với quân lính cầm vũ khí rảo khắp thành tàn
sát một số khá đông dân chúng.
27
Bấy
giờ, ông Giu-đa, biệt danh là Ma-ca-bê, đã cùng với mươi người rút vào sa mạc.
Tại đây ông và những người cùng phe đã sống như những thú rừng, chỉ ăn toàn rau
cỏ để tránh không vi phạm luật ô uế.
Chương 06
Thiết
lập nền phụng tự ngoại giáo
1
Ít
lâu sau, vua sai một trưởng lão người A-thê-na đến bắt người Do-thái phải từ bỏ
những luật pháp của cha ông, không được sống theo luật Thiên Chúa. 2 Ông
ta lại còn làm ô uế Ðền Thờ ở Giê-ru-sa-lem và đổi thành nơi kính thần Dớt
Ô-lim-pi-ô, đổi điện thờ ở núi Gơ-ri-dim thành nơi kính thần Dớt Dê-ni-ô, hợp
với lòng dân ở nơi ấy. 3 Tai hoạ chồng chất khiến mọi người phải
điêu đứng và khó lòng chịu đựng nổi. 4 Quả thật, dân ngoại du nhập
vào Ðền Thờ những thói đồi bại, những cảnh chè chén say sưa; chúng đú đởn với
bọn điếm, đi lại với đàn bà tại tiền đường Nơi Thánh và còn đem cả những điều
trái luật vào tận bên trong. 5 Bàn thờ dâng lễ toàn thiêu chất đầy
những lễ vật bị cấm và bất hợp pháp. 6 Không được phép nghỉ việc
ngày sa-bát, không được giữ các ngày lễ của cha ông, ngay cả xưng mình là người
Do-thái cũng không được. 7 Hằng tháng, vào ngày mừng sinh nhật của
vua, người Do-thái phải ngậm đắng nuốt cay mà dự các bữa tiệc cúng thần. Ðến
ngày lễ kính thần Ði-ô-ny-xô, họ buộc phải đội vòng hoa trường xuân đi kiệu
thần Ði-ô-ny-xô. 8 Do kiến nghị của dân thành Pơ-tô-lê-mai, nhà vua
ban hành sắc lệnh cho các thành Hy-lạp lân cận phải xử sự với người Do-thái
cũng như thế, và buộc họ phải dự các bữa tiệc cúng thần. 9 Còn những
ai nhất định không chịu theo phong tục Hy-lạp, thì sẽ phải chết. Như thế là có
thể dự đoán được tai hoạ sắp xảy ra. 10 Vậy có hai thiếu phụ bị điệu
đến vì đã làm phép cắt bì cho con. Người ta cột đứa trẻ vào ngực các thiếu phụ,
rồi công khai dẫn họ đi khắp phố phường và xô họ từ trên tường thành xuống. 11
Những người Do-thái khác tụ tập nhau tại các hang gần thành để bí mật
mừng ngày sa-bát. Người ta tố cáo họ với ông Phi-líp-phê nên tất cả đã bị thiêu
sống: họ không dám chống cự, vì sợ vi phạm ngày cực thánh.
Ý
nghĩa cuộc bách hại
12
Vậy
tôi khuyên những ai sẽ đọc sách này đừng sờn lòng nản chí vì những tai họa nói
trên, và xin hiểu cho rằng các hình phạt ấy xảy ra không phải để huỷ diệt, mà
là để giáo dục nòi giống chúng ta. 13 Không để cho những kẻ ngạo
ngược yên thân trong một thời gian dài, mà lại mau mắn trừng phạt chúng thì đó
là dấu chỉ một ân huệ lớn lao của Thiên Chúa. 14 Quả thật, đối với
các dân tộc khác, Chúa Tể nhẫn nại chờ đợi cho đến khi tội lỗi chúng ngập đầu
mới trừng phạt; còn đối với chúng ta, Người không xử như thế. 15 Người
không để tội lỗi chúng ta chồng chất rồi mới trừng phạt. 16 Vì thế
Người chẳng bao giờ rút lại lòng thương xót dành cho chúng ta; Người có dùng
tai hoạ để giáo dục dân Người, thì cuối cùng Người vẫn không bỏ rơi. 17 Nhắc
lại bấy nhiêu, thiết tưởng cũng tạm đủ, bây giờ xin tiếp tục câu chuyện.
Ông
E-la-da tử đạo
18
Có
một người tên là E-la-da, một trong những kinh sư quan trọng tuy tuổi đã cao
nhưng trông rất đẹp lão. Ông bị ép phải há miệng ăn thịt heo. 19 Nhưng
ông thà chết vinh hơn sống nhục, nên đã tự ý tiến ra nơi hành hình, 20 sau
khi đã khạc nhổ hết thịt ra. Ông đã làm như vậy theo thói thường của những
người can đảm là từ chối những thứ Luật Lệ không cho phép ăn, dù phải ăn để
sống. 21 Vì quen biết ông E-la-da đã lâu năm, nên những người chủ
toạ bữa tiệc cúng thần trái với Lề Luật, kéo riêng ông ra một chỗ. Họ khuyên
ông nói với người ta đem thịt đến, thứ thịt được phép dùng, tự tay ông dọn lấy,
rồi chỉ giả vờ ăn thịt cúng, như vua đã truyền. 22 Làm như vậy ông
mới thoát chết, lại còn được đối xử nhân đạo, vì trước kia ông đã xử tốt với họ.
23 Nhưng ông đã có một quyết định dứt khoát, thật xứng với tuổi cao,
và uy thế của bậc lão thành, với vẻ khả kính của mái tóc trắng phau vì lao tâm
khổ tứ, với tác phong hoàn hảo từ buổi thiếu thời, nhất là phù hợp với Luật
thánh do chính Thiên Chúa lập ra. Ông trả lời họ thật đích đáng là cứ việc đưa
ngay ông xuống âm phủ. 24 Ông nói: "Ở tuổi chúng ta, giả vờ là
điều bất xứng, e rằng có nhiều thanh niên sẽ nghĩ là ông già E-la-da đã chín
mươi tuổi đầu, mà còn theo những lề thói dân ngoại. 25 Rồi bởi tôi
đã giả vờ và ham sống thêm một ít lâu nữa, nên họ bị lầm lạc vì tôi, còn tôi
thì chuốc lấy vết nhơ và ô nhục cho tuổi già. 26 Dù hiện nay tôi có
tránh được hình phạt của người ta, thì sống hay chết tôi cũng sẽ không thoát
khỏi bàn tay của Ðấng Toàn Năng. 27 Vậy giờ đây, khi can đảm từ giã
cuộc đời, tôi sẽ tỏ ra xứng đáng với tuổi già, 28 và để lại cho đám
thanh niên một tấm gương cao đẹp về cái chết tự nguyện và cao quý, vì đã trung
thành với các Lề Luật đáng kính và thánh thiện."
Nói
thế rồi, ông đi thẳng đến nơi hành hình. 29 Những người điệu ông đến
nơi đó đổi thiện cảm họ vừa có đối với ông thành ác cảm, vì họ cho những lời
ông nói là điên khùng. 30 Khi sắp chết vì đòn vọt, ông vừa rên vừa
nói: "Ðức Chúa là Ðấng thông suốt mọi sự, hẳn Người biết là dù có thể
thoát chết, nhưng tôi vẫn cam chịu những lằn roi gây đau đớn dữ dằn trong thân
xác, còn trong tâm hồn, tôi vui vẻ chịu khổ vì lòng kính sợ Người."
31
Con
người ấy đã từ giã cuộc đời như thế đó. Cái chết của ông để lại không những cho
các thanh niên, mà còn cho đại đa số dân chúng một tấm gương về lòng cao thượng
và một hình ảnh đáng ghi nhớ về nhân đức.
Chương 07
Cuộc
tử đạo của bảy anh em
1
Có
bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh
họ, để bắt họ ăn thịt heo là thức ăn luật Mô-sê cấm. 2 Thay mặt cho
anh em mình, một người lên tiếng nói: "Vua muốn tra hỏi chúng tôi cái gì?
Vua muốn biết điều gì? Chúng tôi sẵn sàng thà chết chẳng thà vi phạm luật pháp
của cha ông chúng tôi.” 3 Vua tức giận, ra lệnh nung một cái chảo
lớn. 4 Nung xong, vua liền ra lệnh cắt lưỡi người vừa nói thay cho
anh em, lột da đầu và chặt cụt chân tay của anh ngay trước mắt các anh em và bà
mẹ. 5 Chặt chân tay anh rồi, vua truyền lệnh đưa anh còn đang thở
thoi thóp đến lò lửa mà nướng. Khi khói trong chảo bốc lên, lan tỏa ra xa, bà
mẹ và các anh em khích lệ nhau chết cho anh dũng. 6 Họ nói:
"Ðức Chúa là Thiên Chúa, Người thấy rõ, và chắc chắn người dủ lòng thương
chúng ta, như lời ông Mô-sê nói trong bài ca của ông, để làm chứng cho mọi
người rằng: "Ðức Chúa sẽ dủ lòng thương hàng tôi tớ."
7
Người
thứ nhất bị giết như thế rồi, chúng điệu người thứ hai đến chỗ hành hình. Sau
khi lột da đầu và tóc của anh, chúng hỏi: "Mày có muốn ăn trước khi thân
xác bị chặt ra từng mảnh không?” 8 Nhưng anh dùng tiếng mẹ đẻ trả
lời rằng: "Không." Vì thế, anh liền phải chịu các cực hình y như
người thứ nhất. 9 Khi sắp trút hơi thở cuối cùng, anh nói: "Vua
là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng
bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi
sống lại để hưởng sự sống đời đời."
10
Sau
người này, đến lượt người thứ ba bị tra tấn. Vừa được yêu cầu anh liền thè
lưỡi, can đảm đưa tay ra, 11 và khẳng khái nói: "Tôi có được
lưỡi này, tay này, là do Chúa Trời ban. Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh
những thứ đó, và tôi hy vọng nhờ Chúa Trời, tôi sẽ lấy lại được.” 12 Nhà
vua và quần thần phải sửng sốt vì lòng can đảm của người thanh niên đã dám coi
thường đau khổ.
13
Người
này chết rồi, người ta cũng tra tấn hành hạ người thứ tư như vậy. 14 Khi
sắp tắt thở, anh nói như sau: "Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào
lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không
được sống lại để hưởng sự sống đâu."
15
Sau
đó, người ta điệu người thứ năm ra hành hạ. 16 Anh nhìn thẳng vào
vua và nói: "Dù vua thuộc loài hư nát, vua lại có quyền trên người ta, vua
muốn làm gì thì làm. Nhưng vua đừng tưởng Thiên Chúa đã bỏ rơi giống nòi chúng
tôi. 17 Còn vua, hãy kiên nhẫn mà ngắm nhìn quyền năng cao cả của
Người, xem Người sẽ hành tội vua và dòng giống vua thế nào?"
18
Sau
người này, người ta điệu người thứ sáu đến. Khi sắp chết anh nói: "Vua
đừng có lừa dối mình mà chi! Quả thật, chúng tôi phải chịu cực hình như thế này
cũng là tại chúng tôi, vì chúng tôi đắc tội với Thiên Chúa, nên mới gặp phải
những điều quái gở này. 19 Còn vua, đừng tưởng rằng vua sẽ không bị
trừng phạt, vì vua đã dám đứng lên chống lại Thiên Chúa.” 20 Bà mẹ
là người rất mực xứng đáng cho ta khâm phục và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy
người con trai phải chết nội trong có một ngày, thế mà bà vẫn can đảm chịu đựng
nhờ niềm trông cậy bà đặt nơi Ðức Chúa. 21 Bà dùng tiếng mẹ đẻ mà
khuyến khích từng người một, lòng bà đầy tâm tình cao thượng; lời lẽ của bà tuy
là của một người phụ nữ, nhưng lại sôi sục một chí khí nam nhi; bà nói với các
con: 22 "Mẹ không rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế
nào. Không phải mẹ ban cho các con hơi thở và sự sống. Cũng không phải mẹ sắp
đặt các phần cơ thể cho mỗi người trong các con. 23 Chính Ðấng Tạo
Hoá càn khôn đã nắn đúc nên loài người, và đã sáng tạo nguồn gốc muôn loài.
Chính Người do lòng thương xót, cũng sẽ trả lại cho các con hơi thở và sự sống,
bởi vì bây giờ các con trọng Luật Lệ của Người hơn bản thân mình."
24
Vua
An-ti-ô-khô cho là người mẹ sỉ nhục mình nhưng vẫn khinh thường những lời mạt
sát đó. Bởi vậy chẳng những vua khuyên người con trai út còn sống sót, mà lại
thề hứa làm cho anh được giàu sang hạnh phúc, nếu anh bỏ tục lệ của tổ tiên.
Ngoài ra, vua còn coi anh là bạn hữu và trao cho anh những chức vụ quan trọng. 25
Nhưng vì người thiếu niên không thèm để ý gì tới, nên vua mới cho gọi bà
mẹ đến và nhờ bà khuyên nhủ hầu cứu mạng cho anh. 26 Vua phải mất
nhiều lời bà mới bằng lòng thuyết phục người con. 27 Nghiêng mình về
phía anh, bà chế nhạo tên bạo chúa và dùng tiếng mẹ đẻ nói với anh những lời
sau đây: "Con ơi, con hãy thương mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm,
mẹ đã nuôi nấng dạy dỗ con đến ngần này tuổi đầu. 28 Mẹ xin con hãy
nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm
nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy. 29 Con
đừng sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp
nhận cái chết, để đến ngày Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các anh con cho
mẹ."
30
Bà
vừa dứt lời thì người thiếu niên nói: "Các người còn chờ đợi gì nữa, tôi
chẳng nghe theo lệnh vua đâu, nhưng tôi chỉ vâng theo lệnh của Lề Luật Thiên
Chúa đã ban cho cha ông chúng tôi qua ông Mô-sê. 31 Còn vua đã bày
ra đủ thứ trò độc ác để hại người Híp-ri; vua sẽ chẳng thoát khỏi bàn tay Thiên
Chúa. 32 Chúng tôi phải khổ là vì tội chúng tôi.33 Nếu Ðức Chúa hằng
sống đã giáng cơn thịnh nộ xuống chúng tôi trong chốc lát, để sửa phạt và giáo
huấn, thì Người lại cho các tôi tớ được hoà giải với Người. 34 Còn
vua, hỡi kẻ vô đạo và đê tiện nhất trong loài người, vua đừng có tự cao tự đại
hão huyền, mà nuôi những hy vọng viễn vông, và đang tay hành hạ các tôi tớ Chúa
Trời. 35 Vì vua sẽ không thoát khỏi án phạt của Thiên Chúa toàn
năng, là Ðấng thấu suốt mọi sự. 36 Còn các anh của chúng tôi, sau
khi đã chịu cực hình trong giây lát vì lòng trung thành với Giao Ước của Thiên
Chúa thì giờ đây đang được hưởng sự sống đời đời. Còn vua, khi Thiên Chúa xét
xử, vua sẽ phải chuốc lấy án phạt vì tội kiêu ngạo. 37 Phần tôi,
cũng như các anh tôi, tôi xin phó dâng xác hồn theo luật pháp của cha ông, và
khẩn cầu Thiên Chúa sớm thương đến dân tộc chúng tôi. Tôi cũng xin Người cho
vua khi gặp thử thách và tai hoạ, phải tuyên xưng rằng chỉ có Người là Thiên
Chúa. 38 Chớ gì tôi và các anh tôi là những người cuối cùng phải
gánh chịu cơn thịnh nộ mà Ðấng Toàn Năng và Công Minh đã giáng xuống trên dân
tộc chúng tôi."
39
Bấy
giờ, vua nổi giận và phải ngậm đắng nuốt cay vì những lời lăng nhục ấy, nên đã
trừng trị anh tàn bạo hơn những người khác. 40 Vậy anh đã chết mà
vẫn hoàn toàn trong sạch và một niềm tin cậy vào Ðức Chúa. 41 Sau
cùng bà mẹ cũng đã chết theo các con.
42
Chuyện
về các bữa tiệc cúng thần và các hình khổ quái ác, như thế đã đủ rồi.
Chương 08
V.
Do-Thái Giáo Thắng Thế.
Kẻ
Bắt Ðạo Phải Chết. Ðền Thờ Ðược Thanh Tẩy.
Ông
Giu-đa Ma-ca-bê vào mật khu (1 Mcb 3:1-26)
1
Ông
Giu-đa Ma-ca-bê và những người cùng phe bí mật len lỏi vào các làng. Họ kêu gọi
bà con thân thích, liên kết những người vốn trung thành với đạo Do-thái. Họ đã
quy tụ được khoảng sáu ngàn người. 2 Họ cầu khẩn Ðức Chúa, xin Người
đoái nhìn đám dân đang bị mọi người bị chà đạp và đoái thương Ðền Thờ đã bị
quân vô đạo làm cho ra ô uế. 3 Họ cũng xin Người xót thương thành
phố đã bị phá huỷ gần như bình địa, và lắng nghe máu người vô tội đang kêu lên
Người. 4 Xin Người nhớ đến các trẻ thơ vô tội bị tàn sát dã man và
những lời lộng ngôn phạm đến Danh Người; xin tỏ ra lòng Người ghê tởm sự dữ.
5
Một
khi ông Ma-ca-bê chỉ huy quân đội, thì không dân tộc nào chống cự nổi, và Ðức
Chúa đã đổi cơn thịnh nộ thành lòng xót thương. 6 Ông xuất hiện bất
ngờ, đốt các thành và làng mạc, chiếm các vị trí xung yếu và buộc khá đông quân
thù phải tháo chạy. 7 Thừa lúc đêm tối, ông tung ra các cuộc tấn
công như thế. Tiếng đồn về lòng dũng cảm của ông lan ra khắp vùng.
Giao
tranh với Ni-ca-no và Goóc-ghi-át (1 Mcb 3:38 - 4:27)
8
Ông
Phi-líp-phê nhận thấy con người ấy càng ngày càng tiến và càng thành công, nên
đã viết thư cho ông Pơ-tô-lê-mai đang chỉ huy vùng Coi-lê Xy-ri và Phê-ni-xi,
xin ông đến trợ giúp công việc của vua. 9 Ông này liền chọn ông
Ni-ca-no là con ông Pát-rốc-lô và là một trong những bạn hữu thân thiết nhất
của vua, rồi sai ông đem không dưới hai mươi ngàn quân thuộc mọi sắc dân đi
tiêu diệt toàn thể giống nòi Do-thái. Ông còn cấp thêm cho ông Ni-ca-no một phụ
tá là ông Goóc-ghi-át, một tướng lãnh dày kinh nghiệm chiến trường. 10 Ông
Ni-ca-no trù tính bán tù binh Do-thái lấy sáu mươi ngàn ký bạc nộp cho vua để
triều cống người Rô-ma. 11 Lập tức ông cho người tới các thành phố
miền duyên hải, mời người ta đến mua các nô lệ Do-thái và dạm bán với giá chín
mươi tên là ba mươi ký bạc. Ông đâu ngờ rằng Ðấng Toàn Năng sắp giáng phạt ông.
12
Người
ta cho ông Giu-đa biết là ông Ni-ca-no đang tới gần; ông Giu-đa liền thông báo
cho người của ông hay là giặc đã đến. 13 Các kẻ nhát gan và những
người không tin vào sự trừng phạt của Thiên Chúa đã chạy tán loạn khắp nơi. 14
Những người khác thì bán hết những gì còn lại, đồng thời cầu xin Ðức Chúa
giải thoát những ai đã bị Ni-ca-no vô đạo đem bán trước khi giao chiến. 15
Nếu Người không vì họ mà giải thoát, thì ít ra cũng vì giao ước Người đã
lập với tổ tiên họ, và vì Danh oai nghiêm cao cả của Người mà họ không ngớt kêu
cầu.
16
Vậy
ông Giu-đa Ma-ca-bê tập hợp dân quân lại, sĩ số chừng sáu ngàn. Ông khích lệ
cho họ đừng sợ kẻ thù tác oai tác quái, cũng đừng vì thấy các dân vô cớ đem
nhiều quân đến đánh mà sợ. Ông khuyên họ hãy can đảm chiến đấu, 17 đừng
bao giờ quên là chúng đã xúc phạm nặng nề đến Nơi Thánh, đã ngược đãi hành hạ
dân thành, và còn phế bỏ truyền thống của cha ông. 18 Ông nói:
"Quả thật, bọn chúng vừa cậy vào khí giới, vừa cậy vào lòng dũng cảm của
mình, còn chúng ta, chúng ta tin cậy vào Thiên Chúa Toàn Năng. Trong nháy mắt,
Người có thể triệt hạ không những bất cứ ai chống lại chúng ta, mà còn có thể
triệt hạ toàn thế giới.” 19 Ông còn kể lại cho họ biết tổ tiên đã
được ơn phù trợ như thế nào: chẳng hạn dưới thời Xan-kê-ríp, một trăm tám mươi
ngàn người đã bị tiêu diệt. 20 Rồi trong trận chiến đánh người
Ga-lát ở Ba-by-lon cũng vậy: số người tham chiến tất cả chỉ có tám ngàn, cộng
thêm bốn ngàn quân Ma-kê-đô-ni-a, thế mà lúc quân Ma-kê-đô-ni-a gặp khó khăn,
thì tám ngàn người kia đã tiêu diệt được một trăm hai mươi ngàn địch: chính nhờ
có Chúa Trời cứu giúp mà họ đã thắng lớn.
21
Nhờ
lời ông nói mà dân quân thêm can đảm và sẵn sàng chết vì Lề Luật, vì tổ quốc.
Ông chia quân làm bốn đơn vị. 22 Ðứng đầu mỗi đơn vị, ông đặt một
người anh em của ông: đó là ông Si-môn, Giô-xếp và Giô-na-than, mỗi người chỉ
huy một ngàn năm trăm quân. 23 Ngoài ra, ông còn chỉ thị cho ông
Ét-ri-a đọc Sách Thánh. Rồi sau khi ra khẩu hiệu "Thiên Chúa phù hộ",
chính ông chỉ huy đơn vị thứ nhất tiến đánh Ni-ca-no. 24 Nhờ có Ðấng
Toàn Năng liên minh trợ chiến, họ đã giết hơn chín ngàn quân địch, đánh bị
thương và làm cụt chân tay đại đa số quân khác của tướng Ni-ca-no, đồng thời
buộc tất cả quân còn lại phải chạy trốn. 25 Họ cũng tịch thu số tiền
của những người định đến mua họ làm nô lệ. Sau khi đuổi theo quân địch một
quãng đường khá dài, họ đành phải quay về vì thời giờ bắt buộc: 26 lúc
ấy là chiều áp ngày sa-bát rồi, họ không thể tiếp tục đuổi theo chúng được nữa.
27 Sau khi lấy khí giới của địch và thu hồi chiến lợi phẩm, họ mừng
ngày sa-bát, hết lòng chúc tụng và ngợi khen Ðức Chúa, vì chính ngày hôm đó
Người đã cứu thoát họ, đã mở lòng thương xót họ. 28 Sau ngày sa-bát,
họ chia một phần chiến lợi phẩm cho những người đã bị bách hại và cho các cô
nhi quả phụ; phần còn lại, họ và con cái họ chia nhau. 29 Chia xong,
họ tổ chức cầu nguyện chung với nhau, xin Ðức Chúa mở lượng từ bi mà ban cho
các tôi tớ Người được mãi mãi giao hoà với Người.
Các
tướng Ti-mô-thê và Bắc-khi-đê thất trận
30
Trong
cuộc giao tranh với quân của tướng Ti-mô-thê và Bắc-khi-đê, quân của ông Giu-đa
đã giết được hơn hai chục ngàn tên, chiếm được những pháo đài rất cao. Chiến
lợi phẩm thu được nhiều vô kể, họ chia thành hai phần đều nhau: một phần cho
họ, một phần cho những người đã bị bách hại, cho cô nhi quả phụ và cho cả những
người già lão. 31 Thu khí giới của địch quân xong, họ cẩn thận đem
cất vào chỗ an toàn; còn lại bao nhiêu lợi phẩm, họ mang về Giê-ru-sa-lem.32 Họ
giết được tên chỉ huy, một trong những người thân cận của Ti-mô-thê; hắn độc ác
vô cùng, đã bao phen gieo tai rắc hoạ cho người Do-thái. 33 Trong
khi mừng chiến thắng ở quê nhà, họ thiêu sống những kẻ đã phóng hoả đốt các cửa
Ðền Thờ, rồi thiêu luôn Ca-lít-thê-nê đang trốn trong một cái nhà nhỏ; thế là
hắn đã nhận lấy phần thưởng xứng đáng dành cho kẻ phạm thánh.
Tướng
Ni-ca-no chạy trốn và tuyên bố có Thiên Chúa
34
Còn
tướng Ni-ca-no đại gian đại ác, kẻ dẫn đưa một ngàn con buôn đến mua người
Do-thái, 35 thì đã bị hạ nhục. Những người hạ nhục hắn chính là
những người hắn cho là hèn hạ. Âu cũng nhờ có bàn tay Ðức Chúa trợ giúp. Hắn đã
phải trút bỏ hết quân phục sang trọng, một thân một mình băng qua đồng ruộng mà
trốn như một tên nô lệ đào tẩu. May mắn lắm hắn mới về được An-ti-ô-khi-a, vì
lúc ấy đạo quân của hắn đã bị tiêu diệt rồi. 36 Con người này vốn
huênh hoang là sẽ bán tù binh ở Giê-ru-sa-lem lấy tiền chu toàn phận sự triều
cống người Rô-ma. Nay hắn phải tuyên bố rằng người Do-thái có vị thần nào đó
bảo vệ, nên không thể bị hại bao lâu họ còn sống theo Lề Luật Vị ấy truyền.
Chương 09
Cái
chết của vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê (1 Mcb 6:1-17)
1
Vào
thời ấy, vua An-ti-ô-khô đã phải rút lui khỏi các miền thuộc Ba-tư, chẳng vẻ
vang chút nào. 2 Số là vua đã đến một thành phố tên là Péc-xê-pô-li,
xông vào cướp của đền thờ và chiếm luôn thành ấy. Vì thế dân thành đã đứng lên
cầm khí giới tự vệ. Bấy giờ dân bản xứ đánh cho vua An-ti-ô-khô phải bỏ chạy và
xấu hổ rút quân. 3 Trong lúc đang ở Éc-ba-tan, vua nghe biết những
chuyện đã xảy đến cho tướng Ni-ca-no và cho quân của tướng Ti-mô-thê. 4 Vua
đùng đùng nổi giận, tưởng rằng sẽ trút được lên đầu người Do-thái nỗi nhục của
kẻ phải tháo chạy. Vì thế vua ra lệnh cho người đánh xe phải phóng thẳng một
mạch không được ngừng. Vua tự cao tự đại tuyên bố: "Ðến Giê-ru-sa-lem, ta
sẽ biến thành này nên mồ chôn tập thể cho bọn Do-thái." Vua đâu biết rằng
bản án của Chúa Trời đang chờ đợi vua. 5 Quả thế, vua vừa nói xong
thì Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en là Ðấng thấu suốt mọi sự, đã bắt vua mang
một chứng bệnh không thuốc chữa, và không ai thấy. Ruột gan vua quặn đau dữ
dội, hết cơn này đến cơn khác. 6 Âu cũng là chuyện hợp lý thôi, bởi
vì vua đã từng làm cho bao người khác phải đau lòng xót dạ và bắt họ chịu vô
vàn nỗi thống khổ chưa từng thấy. 7 Thế nhưng vua vẫn không chừa
được tính ngạo nghễ, vẫn giữ thói kiêu căng, cứ phun lửa giận trên đầu người
Do-thái, nên mới ra lệnh phải chạy mau hơn nữa. Xe đang chạy ầm ầm thì đột
nhiên, vua ngã văng ra thật mạnh, khiến toàn thân đều bị thương tích. 8 Chỉ
vừa mới đây, vì kiêu ngạo không ai bằng, vua tưởng mình có quyền ra lệnh cho
sóng cả, có sức đem núi lớn đặt lên bàn cân, thì bây giờ đang nằm sóng sượt
trên mặt đất và phải nhờ người khác cáng đi. Ðiều đó chứng tỏ cho mọi người
thấy quyền năng của Thiên Chúa. 9 Khắp thân mình kẻ vô đạo ấy, giòi
bọ cứ nhung nhúc. Và tuy vua còn sống, thịt cứ rữa ra từng mảng làm cho vua đau
đớn vô cùng. Mùi hôi thối xông lên khiến cả đạo quân không sao chịu được. 10
Mới một lát trước đây, vua tưởng chừng như sao trên trời cũng ở trong tầm
tay, thì giờ đây không ai thèm khiêng vua nữa, vì không chịu nổi mùi hôi thối
nồng nặc.
11
Mãi
đến lúc này, khi toàn thân đã rữa, vua mới bắt đầu chừa được thói kiêu ngạo
thái quá, mới biết thân biết phận nhờ trận đòn Thiên Chúa giáng xuống và nhờ
những cơn đau không ngớt hoành hành. 12 Chính vua cũng không sao
chịu nổi mùi hôi thối của mình, nên đã nói: "Suy phục Thiên Chúa là phải
đạo. Ðã mang thân phận phải chết, thì đừng nghĩ sẽ bằng được Thiên Chúa.” 13
Vua gian ác này đã khấn hứa với Chúa Tể, nhưng Người đâu còn xót thương
được nữa. Vua đã hứa 14 là sẽ tuyên bố Thành Thánh được tự do, vì trước đây vua
hăm hở đến đó nhằm phá cho bình địa và biến thành mồ chôn tập thể. 15 Còn
những người Do-thái và con cái họ, trước kia vua xét là chẳng đáng được chôn,
nhưng chỉ đáng quẳng cho mãnh thú và cho chim săn mồi, thì nay vua hứa là sẽ
cho được bình quyền với dân thành A-thê-na. 16 Vua còn hứa là Ðền
Thánh vua đã cướp phá thì vua sẽ dâng cúng những báu vật tuyệt hảo để trang
hoàng; đồ thờ thì vua cũng sẽ đền gấp bội; còn các khoản chi phí cho việc tế
tự, vua sẽ lấy quỹ riêng mà đài thọ. 17 Cuối cùng, vua hứa sẽ trở
thành tín đồ Do-thái và bất cứ nơi đâu có người ở, vua sẽ đến công bố quyền
năng của Thiên Chúa.
Vua
An-ti-ô-khô gửi thư cho người Do-thái
18
Nhưng
đau đớn vẫn không giảm chút nào, vì án công minh của Thiên Chúa đã giáng xuống.
Trong tình trạng tuyệt vọng, vua đã viết cho người Do-thái một lá thư được ghi
lại dưới hình thức một lời thỉnh nguyện, nội dung như sau:
19
"An-ti-ô-khô,
vua và thẩm phán tối cao, gửi lời vấn an, lời chúc khang ninh và thịnh vượng
đến thần dân Do-thái quý mến. 20 Nếu các ngươi và con cái được an
mạnh, công ăn việc làm được như ý, thì ta tạ ơn Thiên Chúa hết lòng. 21 Phần
ta, tuy đang liệt giường và kiệt sức, nhưng vẫn nhớ đến lòng kính trọng và tấm
thịnh tình các ngươi dành cho ta. Từ các miền thuộc Ba-tư trở về, ta đã lâm
trọng bệnh, tưởng cần phải lo cho nền an ninh chung của mọi người. 22 Ta
không thất vọng về sức khoẻ của mình, trái lại, vẫn rất hy vọng được khỏi bệnh.
23 Nhưng ta thấy xưa kia, mỗi khi đi chinh phạt các miền thượng du,
phụ vương ta đều đã chỉ định người kế vị, 24 để nếu có chi bất ngờ
xảy đến, hoặc có tin gì đồn ra, thì thần dân biết việc triều chính đã được trao
cho ai rồi, khỏi lo lắng gì nữa. 25 Ngoài ra, ta cũng biết rằng các
vương hầu lân bang, các thủ lãnh của các nước chung quanh vương quốc hằng rình
rập thời cơ, chờ cho biến cố bất ngờ xảy tới. Vì thế, nay ta chỉ định hoàng tử
An-ti-ô-khô lên kế vị. Ðã nhiều lần ta ân cần gửi gắm hoàng tử cho nhiều người
trong các ngươi, mỗi khi ta lên các tỉnh miền thượng du. Ta cũng viết cho hoàng
tử lá thư đính kèm. 26 Vậy ta khuyến cáo, ta yêu cầu các ngươi hãy
nhớ lại các ân huệ chung hay riêng ta đã ban. Mỗi người hãy giữ mối thiện cảm
vẫn dành cho ta và cho hoàng tử. 27 Quả thật ta xác tín rằng hoàng
tử sẽ nghiêm chỉnh theo đuổi đường lối của ta trong tinh thần khoan dung và
nhân đạo, mà sống hoà hợp với các ngươi."
28
Như
vậy vua sát nhân và lộng ngôn này đã phải chịu đau đớn kinh khủng như chính vua
đã làm cho người khác phải đau khổ. Vua đã chịu số phận hẩm hiu là kết liễu
cuộc đời nơi đất khách quê người, trên miền rừng núi. 29 Ông
Phi-líp-phê, người bạn của vua từ thời thơ ấu, đã mang xác vua về. Nhưng vì sợ
hoàng tử của vua An-ti-ô-khô, ông Phi-líp-phê đã lánh qua Ai-cập, sống với ông
Pơ-tô-lê-mai Phi-lô-mê-tô.
Chương 10
Thanh
tẩy Ðền Thờ (1 Mcb 4:36-61)
1
Nhờ
có Ðức Chúa hướng dẫn, ông Ma-ca-bê và các chiến hữu đã chiếm lại Ðền Thờ và
thành phố. 2 Các bàn thờ do quân dị chủng xây tại quảng trường, cũng
như các nơi thánh, họ đều triệt hạ. 3 Sau khi đã thanh tẩy Ðền Thờ,
họ làm một bàn thờ khác dâng lễ toàn thiêu. Họ đập đá lấy lửa, dùng lửa đó mà
dâng hy lễ sau hai năm gián đoạn. Họ cũng thắp hương, đốt đèn và dâng bánh tiến
như đã làm trước kia. 4 Làm xong, họ sấp mình phủ phục, nài xin Ðức
Chúa đừng để họ lâm vào những thảm hoạ vừa qua. Nếu họ còn phạm tội, thì xin
Người mở lượng khoan dung mà sửa phạt, chứ đừng trao nộp họ vào tay những dân
phạm thượng và dã man. 5 Chính ngày trước kia Ðền Thờ bị dân dị
chủng làm ô uế, thì nay cũng ngày ấy, Ðền Thờ được thanh tẩy, đó là ngày hai
mươi lăm tháng Kít-lêu. 6 Họ hân hoan mừng lễ tám ngày liền, như
mừng lễ Lều, để nhớ lại lễ Lều họ đã mừng trước đó ít lâu, khi họ còn phải sống
trên rừng núi, trong hang sâu như loài dã thú. 7 Vì thế, tay cầm
những bó hoa sim, những cành lá xanh tươi và những tàu chà là, miệng hát lên
những bài thánh ca, họ chúc tụng Ðấng đã cho cuộc lễ thanh tẩy Nơi Thánh của
Người được diễn tiến tốt đẹp. 8 Họ đã bỏ phiếu quyết định và chỉ thị
cho toàn dân Do-thái hằng năm phải mừng các ngày lễ ấy.
VI.
Ông Giu-Ða Chống Lại Các Dân Lân Bang
Và
Tướng Ly-Xi-A Của Vua Êu-Pa-To
Ông
Pơ-tô-lê-mai Mác-rôn bị thất sủng
9
Trên
đây là những gì liên quan đến cái chết của vua An-ti-ô-khô hiệu Ê-pi-pha-nê. 10
Nay chúng tôi xin trình bày các biến cố dưới triều vua An-ti-ô-khô
Êu-pa-to, con của vua vô đạo ấy. Chúng tôi lược tóm các tai hoạ do chiến tranh
gây nên. 11 Số là vua Êu-pa-to vừa nắm quyền cai trị vương quốc, đã
chỉ định một ông Ly-xi-a nào đó làm tể tướng và làm tổng trấn miền Coi-lê Xy-ri
và Phê-ni-xi. 12 Ông Pơ-tô-lê-mai cũng gọi là Mác-rôn, thấy người ta
bất công với dân Do-thái, nên ông là người đầu tiên đã đối xử công bằng với họ,
và cố gắng lấy tinh thần hiếu hoà mà cai trị họ. 13 Do đó ông đã bị
các bạn hữu của vua Êu-pa-to tố cáo với vua. Người ta không bỏ lỡ một cơ hội
nào mà không nói thẳng vào tai ông rằng ông là đồ phản nghịch. Lý do là vì vua
Phi-lô-mê-tô đã trao đảo Sýp cho ông cai trị mà ông lại bỏ về quy thuận vua
An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê. Rồi, vì không có khả năng chu toàn chức vụ, ông đã
uống thuốc độc từ giã cuộc đời.
Tướng
Goóc-ghi-át và các thành trì xứ I-đu-mê (1 Mcb 5:1-8)
14
Tướng
Goóc-ghi-át được đặt làm tổng trấn vùng I-đu-mê. Ông mộ lính đánh thuê và lợi
dụng mọi cơ hội để gây chiến với người Do-thái. 15 Cùng lúc ấy, cậy
mình có những pháo đài kiên cố, người I-đu-mê quấy nhiễu người Do-thái. Họ lại
còn tiếp đón những kẻ bị trục xuất khỏi Giê-ru-sa-lem và tìm mọi cách để gây
chiến. 16 Ông Ma-ca-bê và các chiến hữu đã khẩn khoản nài xin Thiên
Chúa cùng với họ chiến đấu. Rồi họ xông tới các pháo đài của người I-đu-mê. 17
Họ tấn công như vũ bão, chiếm các vị trí ấy và đẩy lui tất cả quân địch đang
chiến đấu trên tường thành. Ai rơi vào tay họ là họ giết; họ đã hạ sát không
dưới hai chục ngàn. 18 Ít nhất có chín ngàn tên trốn vào hai tháp
canh rất kiên cố, được trang bị đầy đủ để có thể cầm cự lúc bị bao vây. 19
Ông Ma-ca-bê để các ông Si-môn, Giô-xếp và Dắc-cai ở lại đó cùng với số
quân cần thiết để bao vây chúng; còn chính ông thì thân hành đến những nơi nào
cần hơn. 20 Nhưng quân lính của ông Si-môn tham lam nên đã bị một số
người trong các tháp canh ấy dùng tiền mua chuộc. Họ đã nhận bảy mươi ngàn quan
tiền và để cho một số địch tẩu thoát. 21 Ðược tin này, ông Ma-ca-bê
liền triệu tập các thủ lãnh trong dân lại và kết tội họ vì tham tiền mà bán
đứng anh em, thả kẻ thù ra để chúng đánh lại. 22 Ông xử tử những kẻ
can tội phản bội, và lập tức ông chiếm được hai tháp canh. 23 Bách
chiến bách thắng, ông tiêu diệt hơn hai mươi ngàn địch trong hai pháo đài ấy.
Ông
Giu-đa hạ tướng Ti-mô-thê và chiếm Ghe-de
24
Tướng
Ti-mô-thê trước đây đã bị người Do-thái đánh bại, nay chiêu mộ vô số lính đánh
thuê và tập trung rất nhiều chiến mã từ A-xi-a đưa về. Ông tiến đến Giu-đê nhằm
dùng vũ lực chiếm lấy xứ này. 25 Khi ông đến gần, ông Ma-ca-bê và
các chiến hữu liền khẩn cầu Thiên Chúa, bỏ bụi đất lên đầu, mặc áo vải thô, 26
sấp mình phủ phục ngay dưới chân phía trước của bàn thờ dâng lễ toàn
thiêu. Họ xin Người thương xót, trở thành kẻ thù của kẻ thù họ, đối phương của
đối phương họ như Lề Luật đã nói rõ.
27
Cầu
nguyện xong, họ mang khí giới đi ra khỏi thành một quãng khá xa. Ðến gần kẻ
thù, họ dừng lại. 28 Bình minh vừa ló rạng, đôi bên giáp chiến; một
bên tin chắc sẽ chiến thắng vẻ vang vì dựa vào lòng dũng cảm của mình, đồng
thời vào sự trợ giúp của Ðức Chúa, còn bên kia lấy căm thù làm động lực chiến
đấu. 29 Ðang khi trận chiến diễn ra ác liệt, thì quân địch thấy trên
trời xuất hiện năm nhân vật lẫm liệt oai phong, cỡi ngựa ngậm hàm thiết vàng,
chỉ huy quân Do-thái. 30 Các vị này kéo ông Ma-ca-bê vào giữa, lấy
áo giáp của mình che chở cho ông, giữ gìn ông cho khỏi bị thương tích. Họ nhắm
quân địch mà bắn tên tung chớp, khiến chúng loà mắt chạy tán loạn và bị đánh
tan tành. 31 Hai mươi ngàn năm trăm tên địch và hơn sáu trăm kỵ binh
đã bị hạ sát. 32 Còn chính tướng Ti-mô-thê thì phải trốn vào một
pháo đài gọi là Ghe-de. Pháo đài này là một thành trì rất kiên cố do tướng
Khai-rê-a chỉ huy. 33 Ông Ma-ca-bê và các chiến hữu đã hăng say phấn
khởi vây thành này được bốn ngày. 34 Những kẻ bên trong ỷ vào địa
thế an toàn, nên cứ nặng lời phạm thượng và thốt ra những câu thô lỗ tục tằn. 35
Rạng sáng ngày thứ năm, trong số các chiến hữu của ông Ma-ca-bê, có hai
mươi thanh niên nghe những lời lộng ngôn kia thì đùng đùng nổi giận. Họ sôi sục
khí thế nam nhi, xông lên tường thành, gặp ai giết nấy, như những con thú đang
nổi giận. 36 Những người khác cũng tiến lên đánh tập hậu những kẻ bị
vây hãm bên trong, phóng hoả đốt các tháp canh và nhóm lửa thiêu sống bọn lộng
ngôn. Trong khi đó, hai mươi thanh niên kia phá cổng, đón cánh quân còn lại
tiến chiếm thành. 37 Họ hạ sát tướng Ti-mô-thê đang trốn trong một
bể nước; họ giết luôn tướng Khai-rê-a em ông cùng với ông A-pô-lô-pha-nê. 38
Sau chiến thắng này, họ hát những bài thánh thi, những câu ca ngợi mà
chúc tụng Ðức Chúa là Ðấng đã ban xuống Ít-ra-en bao hồng ân cao cả và đã cho
họ chiến thắng quân thù.
Chương 11
Cuộc
chinh phạt thứ nhất của tướng Ly-xi-a (1 Mcb 4:26-35)
1
Ít
lâu sau, hoàng thân Ly-xi-a là người giám hộ của vua và cũng là người nhiếp
chính vô cùng phẫn uất vì những sự việc đã xảy ra. 2 Ông tập hợp
chừng tám chục ngàn bộ binh và toàn thể kỵ binh, rồi lên đường tiến đánh người
Do-thái. Mục đích của ông là biến Giê-ru-sa-lem thành nơi cư trú cho người
Hy-lạp, 3 bắt Ðền Thờ phải nộp thuế như các đền thờ của dân ngoại và
hằng năm bán chức thượng tế. 4 Ông chẳng đếm xỉa gì đến quyền năng
của Thiên Chúa, nhưng lại quá tự tin vì có hàng vạn bộ binh, hàng ngàn kỵ mã và
có đến tám chục thớt voi.
5
Vào
xứ Giu-đê, ông tiến gần đến thành Bết Xua, một trọng điểm cách Giê-ru-sa-lem
chừng hai mươi tám cây số, và vây hãm thành ấy. 6 Ông Ma-ca-bê và
các chiến hữu nghe biết ông Ly-xi-a đến công hãm các pháo đài, liền cùng với
dân khóc than kêu cầu Ðức Chúa, xin Người sai một sứ giả kịp thời đến cứu
Ít-ra-en. 7 Rồi chính ông Ma-ca-bê là người đầu tiên cầm khí giới,
khích lệ mọi người cùng với ông liều mạng cứu thoát anh em. Nhiệt khí bừng bừng,
họ nhất tề xông vào trận chiến. 8 Lúc họ đến gần Giê-ru-sa-lem, thì
bỗng có một kỵ binh mình mặc áo trắng, tay cầm khí giới bằng vàng, hiện ra chỉ
huy họ. 9 Mọi người đồng thanh chúc tụng Thiên Chúa giàu lòng thương
xót. Họ cảm thấy hăng say phấn khởi đến nỗi sẵn sàng đâm chém không những kẻ
thù, mà cả đến những con thú dữ dằn nhất; thậm chí ngay vách sắt tường đồng, họ
cũng sẵn sàng chọc thủng. 10 Nhờ có Ðức Chúa xót thương và được một
đồng minh từ trời xuống giúp, họ dàn trận tiến lên. 11 Như sư tử vồ mồi,
họ xông vào quân địch, hạ sát mười một ngàn bộ binh, một ngàn sáu trăm kỵ mã,
và buộc tất cả những tên khác phải tháo lui. 12 Ðại đa số bọn chúng
bị thương, trút hết binh giáp chạy cứu lấy mạng; chính Ly-xi-a cũng phải đào
thoát thật nhục nhã ê chề.
Hoà
ước ký với người Do-thái. Bốn lá thư liên quan đến hoà ước.
(1
Mcb 6:56-61)
13
Nhưng
ông Ly-xi-a không phải là người thiếu thông minh. Ông nghĩ lại việc thất trận
vừa qua và nhận ra rằng sở dĩ người Híp-ri bách chiến bách thắng là nhờ có
Thiên Chúa Toàn Năng liên minh trợ lực. 14 Ông sai sứ giả đến với
họ, đề nghị ký một hoà ước dựa trên những điều kiện thoả đáng, và ông hứa sẽ
thuyết phục nhà vua làm thân với họ. 15 Tất cả những điều ông
Ly-xi-a đề nghị, ông Ma-ca-bê đều ưng thuận, vì chỉ quan tâm đến lợi ích chung.
Cũng thế, những gì ông Ma-ca-bê đề nghị trong văn thư gửi ông Ly-xi-a liên quan
đến người Do-thái, đều được nhà vua chấp nhận.
16
Sau
đây là nội dung bức thư ông Ly-xi-a gửi cho người Do-thái: "Ly-xi-a gửi
lời chào thăm toàn dân Do-thái. 17 Các ông Gio-an và Áp-sa-lôm được
anh em cử đến gặp tôi, sau khi trình văn thư đính kèm, đã yêu cầu tôi chấp
thuận những điều khoản được nêu ra trong đó. 18 Vì thế, tất cả những
gì cần trình lên nhà vua, tôi đã đệ trình. Còn những vấn đề có thể giải quyết,
tôi đã chấp thuận. 19 Vậy nếu anh em tiếp tục giữ thái độ hợp tình
hợp lý đối với lợi ích quốc gia, thì trong tương lai tôi sẽ cố gắng phục vụ lợi
ích của anh em. 20 Còn những vấn đề phụ, thì theo chỉ thị của tôi,
sứ giả của anh em và đại diện của tôi sẽ thảo luận với nhau. 21 Chúc
anh em vạn an. Năm một trăm bốn mươi tám, ngày hai mươi bốn tháng Ði-ô
Cô-rin-tô."
22
Còn
chiếu chỉ của nhà vua thì có nội dung như sau: "Vua An-ti-ô-khô gửi lời
chào thăm người anh em Ly-xi-a. 23 Từ khi phụ vương ta về sum họp với
chư thần, ta hằng mong muốn cho thần dân trong vương quốc được an cư lạc nghiệp.
24 Ta nghe biết người Do-thái không chịu sống theo phong tục Hy-lạp
như phụ vương ta mong muốn, nhưng lại thích sống theo phong cách riêng của mình
hơn, nên đã xin được giữ các luật lệ của mình. 25 Nay vì muốn cho
dân tộc ấy được sống yên hàn, ta quyết định trả lại Ðền Thờ cho chúng, và cho
phép chúng sống theo tục lệ cha ông. 26 Vậy ngươi hãy cho sứ giả đến
gặp chúng và bắt tay làm hoà, để một khi biết được ý muốn của ta, chúng an tâm
và vui vẻ làm ăn sinh sống."
27
Còn
chiếu chỉ của vua gửi cho dân Do-thái thì có nội dung như sau: "Vua
An-ti-ô-khô gửi lời thăm hỏi Hội đồng kỳ mục và toàn dân Do-thái. 28 Các
ngươi được vạn an thì quả là điều ta mong ước. Phần ta, ta vẫn được khang kiện.
29 Mê-nê-la-ô đã trình cho ta biết nguyện vọng của các ngươi là trở
về quê hương làm ăn sinh sống. 30 Vậy tất cả những ai lên đường
trước ngày ba mươi tháng Xan-ti-cô sẽ được đảm bảo không bị trừng phạt. 31
Ta cho phép người Do-thái dùng thức ăn riêng, giữ các lề luật của mình
như trước; không ai trong các ngươi bị trừng phạt cách nào vì những lỗi phạm vô
ý. 32 Ta cũng đã sai Mê-nê-la-ô đến trấn an các ngươi. 33 Chúc
các ngươi an mạnh. Năm một trăm bốn mươi tám, ngày mười lăm, tháng
Xan-ti-cô."
34
Người
Rô-ma cũng gửi thư cho người Do-thái, nội dung thế này: "Quyn-tô Mem-mi-ô,
Ti-tô Ma-ni-li-ô và Ma-ni-ô Xéc-ghi-ô, sứ thần Rô-ma, gửi lời chào thăm dân
Do-thái. 35 Những điều hoàng thân Ly-xi-a chấp thuận cho anh em,
chúng tôi cũng tán thành. 36 Còn những điều hoàng thân xét là cần đệ
trình đức vua, thì xin anh em xem xét cho kỹ, rồi phái người đến gặp chúng tôi
ngay để chúng tôi có thể trình bày với đức vua cách nào có lợi nhất cho anh em,
vì chúng tôi đang trên đường tới An-ti-ô-khi-a. 37 Vì thế xin anh em
gấp rút phái người đến gặp chúng tôi, cho chúng tôi biết ý kiến. 38 Chúc
anh em vạn an. Năm một trăm bốn mươi tám, ngày mười lăm tháng Xan-ti-cô."
Chương 12
Biến
cố xảy ra tại Gia-phô và Giam-ni-a
1
Ký
kết các hiệp ước xong, tướng Ly-xi-a trở về triều đình; còn người Do-thái quay
lại với đồng áng. 2 Nhưng trong số các tổng trấn, có các tướng
Ti-mô-thê, A-pô-lô-ni-ô con ông Ghen-nai-ô, Giê-rô-ni-mô và Ðê-mô-phôn, rồi cả
tướng Ni-ca-no người Sýp, đã không để cho người Do-thái sống yên ổn thái bình.
3
Dân
thành Gia-phô đã phạm một tội ác tày trời. Chúng mời người Do-thái cư ngụ trong
thành đưa vợ con xuống những chiếc thuyền chúng đã bố trí sẵn, làm như thể
không có hiềm thù chi với họ. 4 An tâm vì đã có một quyết định của
toàn thể dân thành, người Do-thái nhận lời mời để chứng tỏ mình hiếu hoà và
không chút ngờ vực. Nhưng khi ra khơi, họ bị nhận chìm, có ít nhất là hai trăm
người chết.
5
Biết
được tội ác dã man chúng gây ra cho đồng bào mình, ông Giu-đa đã loan tin cho
quân lính. 6 Rồi sau khi khẩn cầu Thiên Chúa là thẩm phán công minh,
ông tiến đánh bọn người đã giết hại anh em ông. Ðang đêm, ông phóng hoả đốt hải
cảng, thiêu rụi thuyền bè, chém giết những kẻ trốn trong đó. 7 Vì
nội thành đóng kín, ông rút về, nhưng vẫn giữ ý định sẽ trở lại làm cỏ toàn
thành Gia-phô. 8 Tuy nhiên, khi biết những người ở Giam-ni-a cũng
tính có những thủ đoạn tương tự đối với người Do-thái đang sinh sống tại đây, 9
ông Giu-đa cũng tấn công dân thành Giam-ni-a vào ban đêm, phóng hoả đốt
hải cảng, thuyền bè. Mãi tận Giê-ru-sa-lem, cách đó khoảng năm mươi cây số,
người ta còn thấy ánh lửa.
Chinh
phạt vùng Ga-la-át (1 Mcb 5:9-54)
10
Lúc
đó ông Giu-đa đem quân lên đường đi đánh tướng Ti-mô-thê. Vừa rời khỏi thành
được hai cây số, ông đã bị người Ả-rập tấn công. Bọn này có ít nhất năm ngàn bộ
binh và năm trăm kỵ mã. 11 Trận chiến diễn ra ác liệt. Nhờ có Thiên
Chúa trợ giúp, quân của ông Giu-đa đã chiến thắng. Bị thất trận, dân du mục
Ả-rập đã xin cầu hoà với ông Giu-đa. Chúng hứa sẽ nộp đàn súc vật cho ông và sẽ
phục vụ ông bất cứ lúc nào. 12 Ông Giu-đa hiểu rằng chúng sẽ có thể
giúp ích cho ông rất nhiều, nên đã chấp thuận cho chúng làm hoà. Sau khi ngưng
chiến, chúng trở về phần đất của mình. 13 Ông Giu-đa cũng tấn công
một thành kia có luỹ kiên cố và tường thành bao quanh; trong thành có nhiều dân
tộc khác nhau sinh sống. Thành đó gọi là Cát-pin. 14 Dân trong
thành, cậy vào tường luỹ vững chắc và kho lương thực dự trữ, đã đối xử lỗ mãng
với ông và những người theo phe ông: chửi bới, nói lời phạm thượng và thốt ra
những câu thô lỗ tục tằn. 15 Ông Giu-đa và những người thuộc phe ông
kêu cầu Chúa Tể càn khôn, Ðấng đã khiến cho thành Giê-ri-khô phải sụp đổ vào
thời ông Giô-suê mà không cần máy phá thành hay chiến cụ. Rồi như mãnh thú, họ
xông lên tường thành. 16 Nhờ thánh ý Thiên Chúa, họ đã chiếm được
thành; họ ra tay chém giết, đến nỗi cái hồ bên cạnh rộng bốn trăm thước như
lênh láng máu.
Trận
đánh ở Các-ni-on (1 Mcb 5:37-44)
17
Rời
khỏi đó, ông Giu-đa và những người thuộc phe ông đi một trăm bốn mươi cây số
tới Kha-rắc, nơi người Do-thái, cũng gọi là người Tô-bi-a đang sinh sống. 18
Nhưng họ không gặp tướng Ti-mô-thê tại các nơi ấy, vì trước đó ông ta đã
rút lui, bởi không làm nên công chuyện gì. Tuy nhiên, ông ta đã để lại một đội
quân rất hùng hậu trấn giữ nơi ấy. 19 Các tướng lãnh của ông
Ma-ca-bê là Ðô-xi-thê và Xô-xi-pát-rô vẫn tiến đánh và tiêu diệt được hơn mười
ngàn địch quân mà tướng Ti-mô-thê đã để lại ở pháo đài. 20 Còn ông
Ma-ca-bê thì chia đạo quân của mình thành nhiều cánh quân và đặt người chỉ huy
những cánh quân ấy; rồi xông đánh tướng Ti-mô-thê, người đang nắm trong tay một
trăm hai mươi ngàn bộ binh và hai ngàn năm trăm kỵ binh. 21 Ðược tin
ông Giu-đa đang tới, tướng Ti-mô-thê cho đưa đàn bà, trẻ con và các đồ đoàn đến
một nơi gọi là Các-ni-on, vì đây là một vị trí hiểm trở, khó lui tới, đường sá
lại nhỏ hẹp. 22 Khi cánh quân thứ nhất của ông Giu-đa vừa xuất hiện,
địch quân hốt hoảng, sợ hãi, vì Ðấng thấu suốt mọi sự đã hiển linh trên chúng.
Chúng đổ xô chạy tứ tán đến nỗi nhiều lần gây thương tích lẫn cho nhau và bị
đâm vì chính mũi gươm của mình. 23 Ông Giu-đa truy kích chúng gắt
gao, tàn sát bọn hung hãn và tiêu diệt được khoảng ba ngàn tên. 24 Chính
tướng Ti-mô-thê cũng rơi vào tay quân của các ông Ðô-xi-thê và Xô-xi-pát-rô;
nhưng ông ta đã khéo lươn lẹo van nài xin được thả và được an toàn tính mạng.
Ông ta viện cớ là đang bắt giữ cha mẹ và cả anh em của nhiều người trong đám
quân lính và những người ấy có thể bị khốn đốn. 25 Vì thế, sau khi
ông ta đã dài dòng thuyết phục họ bằng lời cam kết là sẽ đưa những người ấy trở
về an toàn, thì, để cứu các anh em mình, họ đã thả ông ta ra.
26
Rồi
ông Giu-đa tiến vào Các-ni-on, và A-téc-ga-tê-on, sát hại hai mươi lăm ngàn tên
địch.
Ông
Giu-đa từ Ép-rôn và Xi-ky-thô-pô-li trở về (1 Mcb 5:45-54)
27
Sau
khi đánh bại và tiêu diệt quân thù, ông Giu-đa còn đem quân tiến đánh Ép-rôn,
một thành kiên cố, nơi tướng Ly-xa-ni-a cùng với nhiều người thuộc các bộ lạc
khác nhau đang trú đóng. Trai tráng được bố trí trước các tường thành; chúng
chiến đấu anh dũng; bên trong lại có dự trữ nhiều máy móc và cung tên. 28 Sau
khi kêu cầu Chúa Tể cao cả, Ðấng đã dùng quyền năng đập tan sức mạnh quân thù,
người Do-thái chiếm được thành; họ sát hại chừng hai mươi lăm ngàn tên địch đồn
trú trong đó. 29 Rời nơi ấy, họ tiến đánh Xi-ky-thô-pô-li, cách Giê-ru-sa-lem
khoảng một trăm mười cây số. 30 Nhưng các người Do-thái sinh sống ở
đó làm chứng rằng dân thành Xi-ky-thô-pô-li đối đãi với họ rất tử tế và tiếp
đón họ ân cần trong cơn quẫn bách. 31 Ông Giu-đa và các người theo
ông cám ơn dân thành này và khuyến khích họ cứ giữ mối thịnh tình này với người
Do-thái.
Rồi
ông giu-đa và các người theo ông trở về Giê-ru-sa-lem, gần ngày mừng lễ các
Tuần.
Trận
chiến chống lại tướng Goóc-ghi-át
32
Sau
lễ gọi là lễ Ngũ Tuần, ông Giu-đa và các người theo ông tiến đánh tướng
Goóc-ghi-át, tổng trấn miền I-đu-mê. 33 Goóc-ghi-át xuất trận cùng
với ba ngàn bộ binh và bốn trăm kỵ binh. 34 Ðôi bên giao chiến và
một số người Do-thái bị ngã gục.
35
Có
một người tên là Ðô-xi-thê, một kỵ binh dũng cảm thuộc đạo quân miền Tô-bi-a. Ông
khống chế được tướng Goóc-ghi-át, nắm lấy áo khoác trận của ông, lôi mạnh kéo
đi và định bắt
36
Vì
chiến đấu đã lâu, quân của ông Ét-ri-a mệt lử, nên ông Giu-đa kêu cầu cùng Ðức
Chúa xin Người tỏ mình ra là Ðấng trợ chiến và chỉ huy cuộc giao tranh. 37
Sau đó, ông dùng tiếng mẹ đẻ thét lên lệnh xung phong và hát thánh thi,
rồi xuất kỳ bất ý xông vào đám quân của tướng Goóc-ghi-át, khiến chúng phải
thất trận.
Lễ
tế cầu cho chiến sĩ trận vong
38
Ông
Giu-đa thu quân và đến thành A-đu-lam. Ðã đến ngày thứ bảy, họ thanh tẩy theo
tục lệ và mừng ngày sa-bát ở đó. 39 Ngày hôm sau, vào lúc phải làm,
quân của ông Giu-đa đi thu các tử thi những người bị giết chết và đưa về chôn
cất với những người thân trong phần mộ tổ tiên. 40 Nhưng bên trong
áo trận của mỗi tử thi, người ta đều tìm thấy lá bùa của tượng thần ở
Giam-ni-a: đó là điều luật cấm; vì thế ai cũng thấy rõ bởi lý do nào những
người ấy đã bị giết chết. 41 Vậy mọi người chúc tụng Ðức Chúa, vì
Người là thẩm phán công minh đã phơi bày ra ánh sáng những điều bí ẩn. 42 Họ
bắt đầu khẩn nguyện, xin Chúa tẩy sạch tội lỗi đã phạm. Vị anh hùng Giu-đa
khuyên nhủ toàn quân giữ mình sạch tội, vì họ đã nhìn thấy nhãn tiền những việc
xảy ra là do tội của những người đã bị giết chết. 43 Ông Giu-đa
quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giê-ru-sa-lem để xin dâng lễ
đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ
sống lại. 44 Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh
đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và
ngu xuẩn. 45 Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho
những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức. 46 Ðó là lý do khiến
ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi
tội lỗi.
Chương 13
Cuộc
chinh phạt của vua An-ti-ô-khô và tướng Ly-xi-a.
Ông
Mê-nê-la-ô bị tử hình.
1
Năm
một trăm bốn mươi chín, ông Giu-đa và những người theo ông nghe tin vua
An-ti-ô-khô Êu-pa-to đem đoàn quân đông đảo tới đánh xứ Giu-đê. 2 Cùng
đi với vua còn có Ly-xi-a, người giám hộ của vua và cũng là quan nhiếp chính;
ông này dẫn một đạo quân Hy-lạp gồm một trăm mười ngàn bộ binh, năm ngàn ba
trăm kỵ binh, hai mươi hai thớt voi và ba trăm xe trận có trang bị câu liêm.
3
Cả
Mê-nê-la-ô cũng nhập bọn với chúng: ông ta dùng nhiều thủ đoạn để thuyết phục
vua An-ti-ô-khô, không phải vì mục đích cứu nước, nhưng với hy vọng được nắm
lại quyền hành. 4 Thế nhưng, Vua các vua đã khiến cho vua
An-ti-ô-khô nổi giận với tên gian ác ấy; vì Ly-xi-a đã trình cho vua biết ông
ta là người đã gây ra mọi tai hoạ, nên vua cho điệu ông ta đến Bê-roi-a để hành
hình theo thói tục địa phương. 5 Ở đấy có một cái tháp cao hai mươi
lăm thước, chứa đầy tro; trên đỉnh tháp có một cái máy lớn xoay tròn, phía nào
cũng rớt thẳng xuống tro. 6 Kẻ nào can tội cướp của Ðền Thờ hay vi
phạm bất cứ trọng tội nào khác, đều bị đưa lên và xô vào tháp cho chết. 7 Ðó
là số phận cuối cùng của Mê-nê-la-ô, một tên phản bội Lề Luật; ông ta đã phải
chết mà ngay cả một tấc đất để chôn cũng không có. 8 Thật là công
bình! Vì ông ta đã mắc rất nhiều tội xúc phạm đến bàn thờ; mà lửa và tro bàn
thờ đều thiêng thánh, nên ông ta đã phải chết trong đống tro.
Người
Do-thái cầu nguyện và đã thành công ở gần thành Mô-đin
9
Vậy
vua An-ti-ô-khô đến, lòng đầy những ý tưởng man rợ, định xử sự với người
Do-thái tàn nhẫn hơn là phụ vương của ông trước kia. 10 Ðược tin ấy,
ông Giu-đa ra lệnh cho toàn quân ngày đêm khẩn cầu Ðức Chúa, xin Người, bây giờ
cũng như bao lần trước trợ giúp những kẻ sắp mất Lề Luật, tổ quốc và Ðền Thánh.
11 Xin Người đừng để dân tộc vừa mới được hồi sinh lại phải rơi vào
tay chư dân ngạo mạn. 12 Sau khi mọi người đã cùng nhau làm như thế
là than khóc, ăn chay và phủ phục suốt ba ngày, để kêu xin Ðức Chúa nhân từ,
thì ông Giu-đa khích lệ và ra lệnh cho họ phải sẵn sàng. 13 Gặp
riêng các kỳ mục rồi, ông quyết định: trước khi đoàn quân của vua An-ti-ô-khô
xâm lược xứ Giu-đê và chiếm được thành Giê-ru-sa-lem, người Do-thái phải xuất
quân và giải quyết mọi việc nhờ ơn Ðức Chúa trợ giúp.
14
Vì
thế, sau khi phó thác quyết định cho Ðấng Tạo Hoá càn khôn, và khích lệ quân
binh chiến đấu anh dũng cho đến chết để bảo vệ Lề Luật, Ðền Thờ, Thành Thánh,
tổ quốc và thể chế, ông Giu-đa đóng quân gần thành Mô-đin. 15 Ông ra
khẩu hiệu chiến đấu cho quân binh: "Thiên Chúa toàn thắng"; rồi tuyển
một đoàn quân gồm trai tráng tinh nhuệ, đang đêm ông tấn công vào doanh trại
của vua An-ti-ô-khô, giết được khoảng hai ngàn tên địch trong trại. Ông đâm
chết con voi đầu đàn và tên quản tượng ngồi trong tháp. 16 Cuối cùng
họ đã làm cho doanh trại địch kinh hoàng tán loạn; rồi họ rút lui trong chiến
thắng vẻ vang, 17 lúc ấy ngày vừa bắt đầu. Cuộc tấn công đã kết thúc
nhờ có Ðức Chúa che chở phù trợ ông Giu-đa.
Vua
An-ti-ô-khô V thương thuyết với người Do-thái (1 Mcb 6:48-63)
18
Nếm
cảm được sự táo bạo của người Do-thái, vua An-ti-ô-khô thử áp dụng chiến thuật
đánh các vị trí quan trọng. 19 Vua tiến đánh Bết Xua, một pháo đài
kiên cố của người Do-thái, nhưng bị đẩy lui, thất bại và bị đè bẹp.
20
Ông
Giu-đa tiếp tế cho quân lính bên trong pháo đài những gì họ cần đến. 21 Nhưng
Rô-đô-cô thuộc quân Do-thái tiết lộ bí mật cho quân thù, nên đã bị theo dõi, bị
bắt và bị cầm tù. 22 Vua lại phải thương thuyết với dân thành Bết
Xua một lần nữa, phải ngưng chiến với họ rồi rút lui. Vua cũng tấn công ông
Giu-đa và những người theo ông, nhưng đã bị đè bẹp. 23 Hay tin
Phi-líp-phê đã được vua để lại ở An-ti-ô-khi-a lo việc triều chính, nay làm
loạn, nên vua bối rối. Vì thế, vua xin đầu hàng người Do-thái và thề chấp nhận
mọi điều kiện chính đáng; vua cũng ký hoà ước, làm lễ tế, tôn trọng Ðền Thờ và
dâng cúng hậu hỹ cho Nơi Thánh.
24
Vua
niềm nở tiếp đón ông Ma-ca-bê, và đặt ông Hê-ghê-mô-nít làm tổng trấn cai trị
từ Pơ-tô-lê-mai cho đến đất của người Ghe-ra. 25 Vua đến
Pơ-tô-lê-mai, nhưng dân thành này không hài lòng về hiệp ước. Quả thật, họ bất
mãn về các điều khoản trong hiệp ước, nên muốn huỷ bỏ. 26 Ly-xi-a
lên diễn đàn, ra sức biện hộ, thuyết phục, trấn an dân thành và gây được thiện
cảm với họ; rồi ông ta trở về An-ti-ô-khi-a. Ðó là chuyện về cuộc xuất chinh và
rút lui của vua An-ti-ô-khô Êu-pa-to.
Chương 14
VII.
Cuộc Chiến Ðấu Chống Lại Ni-Ca-No,
Tướng
Của Vua Ðê-Mết-Ri-Ô I. Ngày Ni-Ca-No.
Thượng
tế An-ki-mô can thiệp (1 Mcb 7:1-21)
1
Khoảng
ba năm sau, ông Giu-đa và những người theo ông nghe đồn rằng vua Ðê-mết-ri-ô,
con của vua Xê-lêu-cô, cùng với đoàn quân đông đảo và đội chiến thuyền đã đổ bộ
lên hải cảng Tri-pô-li. 2 Vua đã chiếm cứ cả vùng, sau khi thủ tiêu
vua An-ti-ô-khô và Ly-xi-a, giám hộ của vua này. 3 Có một người tên
là An-ki-mô, trước kia là thượng tế, nhưng đã cố tình vi phạm Lề Luật trong
thời loạn ly. Ông ta tưởng rằng không còn cách nào để tự cứu thoát, cũng không
thể lên bàn thờ dâng lễ toàn thiêu được nữa, 4 nên đã đến gặp vua
Ðê-mết-ri-ô vào năm một trăm năm mươi mốt và dâng tặng vua một triều thiên bằng
vàng với nhành thiên tuế; ngoài ra, ông ta còn dâng cho vua những nhánh ô-liu
thường dùng ở Ðền Thờ; ngày ấy ông ta sống yên lặng.
5
Tuy
nhiên, thời cơ xảy đến làm tăng thêm sự điên rồ của ông ta là khi được vua
Ðê-mết-ri-ô triệu đến Hội đồng cố vấn và được hỏi xem người Do-thái có thái độ
hay dự tính nào, ông ta liền trả lời: 6 "Những người Do-thái mà
người ta gọi là Khi-xi-đin, dưới quyền chỉ huy của Giu-đa Ma-ca-bê, là những kẻ
hiếu chiến và phản loạn. Chúng không để cho vương quốc được thái bình. 7 Do
đó, tôi đã bị tước mất vinh dự của tổ tiên, ý tôi muốn nói là chức thượng tế.
Bây giờ, tôi đến đây, 8 trước hết vì thành tâm lo đến quyền lợi của
đức vua, sau là vì công ích của đồng bào tôi; bởi sự điên cuồng của những kẻ
vừa nói trên mà toàn thể giống nòi chúng tôi gặp phải lao đao khốn khổ. 9 Tâu
đức vua, khi nào ngài biết rõ từng chi tiết các vấn đề ấy, xin ngài dùng các
biện pháp cần thiết để cứu xứ sở và đồng bào chúng tôi đang bị đe doạ tư bề, vì
ngài vẫn hằng nhân đạo đối với mọi người. 10 Bao lâu Giu-đa còn
sống, đất nước vẫn chưa được thái bình."
11
An-ki-mô
vừa nói như thế xong, các bạn hữu khác của vua Ðê-mết-ri-ô, vốn hiềm khích với
ông Giu-đa, cũng vội vàng khơi thêm lửa giận của vua. 12 Lập tức vua
chỉ định Ni-ca-no làm tướng chỉ huy đội voi trận, đặt ông ta làm tổng trấn xứ
Giu-đê và sai đi tới đó. 13 Vua ra lệnh cho ông ta phải giết ông
Giu-đa, đánh tan những người theo phe ông này, phục chức cho An-ki-mô làm
thượng tế của Ðền Thờ rất vĩ đại. 14 Các dân ngoại trước đây đã rời
khỏi Giu-đê để trốn tránh ông Giu-đa, nay lũ lượt kéo về liên kết với Ni-ca-no,
tưởng rằng nỗi bất hạnh và tai hoạ của người Do-thái sẽ thành điều may mắn cho
mình.
Tướng
Ni-ca-no kết thân với ông Giu-đa
15
Nghe
biết Ni-ca-no và dân ngoại đang đến tấn công mình, người Do-thái bỏ bụi đất lên
đầu và cầu xin cùng Ðấng đã thiết lập dân Người cho đến muôn đời và đã luôn
hiển linh để trợ giúp phần cơ nghiệp của Người là Ít-ra-en. 16 Rồi
theo lệnh của vị chỉ huy, lập tức họ rời khỏi đó và giáp chiến với quân địch
tại làng Ðét-xau. 17 Bấy giờ ông Si-môn, anh ông Giu-đa đang giao
chiến với Ni-ca-no, thì bị đối phương tấn công bất ngờ, nên ông phải tổn thất
nhẹ. 18 Tuy nhiên, bởi đã từng được nghe nói về chí nam nhi và lòng
dũng cảm chiến đấu vì tổ quốc của ông Giu-đa và những người theo ông, nên
Ni-ca-no sợ phải đi tới quyết định gây đổ máu. 19 Vì thế ông ta cử
các ông Pô-xi-đô-ni-ô, Thê-ô-đô-tô và Mát-tít-gia đến giảng hoà với người
Do-thái.
20
Vậy
sau khi cứu xét kỹ càng các đề nghị ấy, vị chỉ huy thông báo cho toàn quân
biết, và khi mọi người xem ra như đồng ý, thì thoả thuận ký hoà ước. 21 Ðôi
bên ấn định ngày các đại diện sẽ gặp nhau riêng. Mỗi bên chỉ có một xe tiến đến
chỗ họp, nơi có đặt hàng ghế danh dự. 22 Ông Giu-đa bố trí quân cầm
khí giới, trong tư thế sẵn sàng tại vị trí xung yếu, đề phòng địch quân tráo
trở bất ngờ; nhưng cuộc thương nghị diễn ra tốt đẹp. 23 Ni-ca-no lưu
lại Giê-ru-sa-lem, không làm điều chi thất sách, lại còn giải tán đám đông đã
lũ lượt kéo về liên kết với ông ta. 24 Ông ta luôn giữ ông Giu-đa ở
bên mình, và trong thâm tâm rất ngưỡng mộ con người ấy. 25 Ông ta
khuyên ông Giu-đa lập gia đình và sinh con cái. Thế là ông Giu-đa cưới vợ,
chung hưởng cuộc sống an nhàn và hạnh phúc.
An-ki-mô
gieo rắc tai hoạ. Ni-ca-no đe doạ Ðền Thờ.
26
An-ki-mô
thấy hai ông đối xử tử tế với nhau, nên lấy một bản sao hoà ước, đến yết kiến
vua Ðê-mết-ri-ô và trình với vua rằng Ni-ca-no có ý định chống lại quyền lợi
vương quốc, vì ông ta muốn cất nhắc ông Giu-đa, kẻ thù của vương quốc, lên kế
nghiệp mình. 27 Vua nổi giận và vì lời xúi xiểm quỷ quái của tên đại
gian ác ấy, nên viết thư cho Ni-ca-no, ngỏ ý không tán thành bản hoà ước đó, và
ra lệnh cho ông ta phải lập tức bắt trói ông Ma-ca-bê điệu về An-ti-ô-khi-a.
28
Ðược
thư ấy, Ni-ca-no hốt hoảng. Ông ta hết sức băn khoăn vì phải thất ước với một
người chẳng hề làm một điều chi bất chính. 29 Nhưng vì không thể
cưỡng lệnh vua, nên ông ta tìm dịp thuận tiện dùng mưu kế thi hành chỉ thị ấy. 30
Còn ông Ma-ca-bê, khi thấy Ni-ca-no tỏ ra lạnh nhạt với mình và đối xử
cứng cỏi khác thường, thì hiểu rằng sự lạnh nhạt ấy tiên báo một điềm chẳng
lành. Vì thế, ông tập hợp một số người theo ông trốn xa Ni-ca-no. 31 Sau
khi nhận ra mình bị mắc mưu ông Giu-đa, Ni-ca-no tiến lên Ðền Thánh vĩ đại,
đang lúc các tư tế dâng hy lễ như thường lệ. Ông ta truyền cho các tư tế phải
trao nộp con người ấy. 32 Họ cương quyết thề rằng không biết người
đang bị truy nã hiện nay ở đâu. 33 Ni-ca-no giơ tay phải về phía Ðền
Thờ mà thề như sau: "Nếu các ngươi không bắt trói Giu-đa đem nộp cho ta,
ta sẽ phá bình địa Ðền Thờ của Thiên Chúa, sẽ triệt hạ bàn thờ dâng lễ toàn
thiêu, rồi sẽ dựng ngay tại đó một điện thờ nguy nga dâng kính thần Ði-ô-ny-xô.”
34 Nói xong, ông ta bỏ đi. Nhưng các tư tế dang tay lên trời, khẩn
cầu cùng Ðấng hằng chiến đấu cho dân tộc chúng ta. Họ cầu nguyện như thế này: 35
"Lạy Ðức Chúa, Ngài chẳng cần gì cả. Ngài ưa thích có một Ðền Thờ để
lưu ngụ giữa chúng con. 36 Vậy nay, lạy Ðức Chúa, Ðấng vô cùng thánh
thiện, xin Ngài gìn giữ mãi Ngôi Nhà này, vừa mới được thanh tẩy cho khỏi bị ô
uế."
Cái
chết của ông Ra-dít
37
Khi
ấy có một người tên là Ra-dít, thuộc hàng kỳ mục ở Giê-ru-sa-lem, bị tố cáo với
Ni-ca-no. Ông là một người yêu mến đồng bào mình, tiếng tăm lừng lẫy và được
gọi là cha của dân Do-thái, vì ông đối xử nhân từ với họ. 38 Trong
giai đoạn đầu thời loạn ly, ông bị buộc tội là giữ đạo Do-thái, nhưng thực ra
ông chỉ đem hết nghị lực và cống hiến cuộc đời cho đạo ấy. 39 Ðể
chứng tỏ lòng ác cảm vốn có từ lâu đối với người Do-thái, Ni-ca-no sai hơn năm
trăm quân đi bắt ông Ra-dít, 40 vì nghĩ rằng một khi bắt được ông
này, ông ta sẽ gây tai hoạ cho họ. 41 Nhưng khi bọn lính sắp chiếm
được cái tháp, tông cửa vào sân và có lệnh đem lửa đến thiêu rụi các cửa, ông
Ra-dít thấy mình bị bao vây tứ phía, đã rút gươm ra đâm vào mình. 42 Ông
muốn chết vinh hơn là phải rơi vào tay bọn hung ác và bị nhục nhã, không xứng
với địa vị cao quý của mình. 43 Nhưng, trong lúc hỗn loạn, mũi gươm
đâm không trúng chỗ hiểm, hơn nữa quân địch lại đang tông cửa ùa vào bên trong,
ông đã nhanh chân chạy lên bờ tường và anh dũng gieo mình xuống giữa đám đông. 44
Lập tức chúng giãn ra tạo thành một khoảng trống và ông rơi vào giữa. 45
Tuy còn thoi thóp thở, nhưng lòng bừng bừng nhiệt khí, ông chỗi dậy, máu
chảy đầm đìa và bất kể vết thương đau đớn, ông chạy ngang qua đám đông; rồi
đứng trên một tảng đá dốc, 46 mặc dù mất gần hết máu, ông cũng móc
ruột xổ ra, cầm cả hai tay quăng vào đám đông. Ông khẩn cầu Ðấng làm chủ sự
sống và hơi thở, xin Người một ngày kia ban lại cho ông sự sống và hơi thở. Ông
qua đời như thế đó.
Chương 15
Những
lời lộng ngôn và phạm thượng của Ni-ca-no
1
Ni-ca-no
biết được ông Giu-đa và các người theo ông đang có mặt trong các miền thuộc xứ
Sa-ma-ri, nên quyết định tấn công họ vào ngày nghỉ, để được bảo đảm an toàn. 2
Những người Do-thái bị ép buộc theo ông ta nói: "Xin ông đừng tiêu
diệt họ cách tàn bạo và dã man như thế, nhưng hãy tôn vinh ngày mà chính Ðấng
thấu suốt mọi sự đã thánh hoá và quý trọng hơn những ngày khác.” 3 Lúc
ấy tên đại gian ác hỏi xem ở trên trời có vị Chúa Tể truyền phải mừng ngày
sa-bát không. 4 Những người Do-thái quả quyết: "Chính Ðức Chúa
hằng sống, Chúa Tể ngự trên trời, đã truyền phải giữ ngày thứ bảy.” 5 Ông
ta nói: "Chính ta, ta là chúa tể trần gian, ta truyền cho các ngươi phải
cầm khí giới và lo phục vụ nhà vua." Nhưng ông ta đã không thực hiện được
ý định đen tối của mình.
Ông
Giu-đa khích lệ binh lính và được ca tụng
6
Trong
khi Ni-ca-no huênh hoang tự cao tự đại, quyết định lấy những chiến lợi phẩm
tịch thu được của ông Giu-đa và những người theo ông mà dựng lên một đài chiến
thắng công cộng, 7 thì ông Ma-ca-bê vẫn một lòng tin tưởng và cậy
trông vào ơn phù trợ của Ðức Chúa. 8 Ông khuyên các người theo ông
đừng sợ dân ngoại tấn công, nhưng hãy nhớ lại những ơn phù trợ xưa kia Chúa
Trời đã ban cho họ, và bây giờ phải cậy trông vào Ðấng Toàn Năng sẽ làm cho họ
chiến thắng. 9 Ông dùng Sách Luật và các ngôn sứ mà khích lệ họ, lại
còn nhắc cho họ nhớ đến các trận đánh họ đã thắng; ông làm cho họ bừng bừng
nhiệt khí. 10 Sau khi làm cho họ phấn khởi, ông còn khích lệ họ nhiều
hơn nữa bằng cách tỏ cho họ thấy dân ngoại đã bất trung và bội ước.
11
Ông
võ trang cho mỗi người theo ông được an toàn, không phải bằng khiên thuẫn, giáo
mác cho bằng những lời khuyến khích cao thượng. Ngoài ra, ông còn thuật lại cho
họ nghe một giấc mơ đáng tin, giống như một thị kiến, làm cho họ phấn khởi vui
mừng. 12 Ðây là cảnh tượng ông thấy: ông Ô-ni-a, nguyên là thượng
tế, một người lương thiện tốt lành đã xử sự nhã nhặn, đối đãi hiền từ, nói năng
lịch sự và đã thực hành các nhân đức ngay từ buổi thiếu thời. Lúc ấy, ông dang
tay cầu nguyện cho toàn thể cộng đồng Do-thái. 13 Rồi một người khác
xuất hiện, cũng làm như ông Ô-ni-a. Người này nổi bật nhờ mái tóc bạc và phẩm
giá của mình, lại toả ra chung quanh một vẻ oai phong lẫm liệt khác thường. 14
Ông Ô-ni-a lên tiếng nói: "Ðây là Giê-rê-mi-a, ngôn sứ của Thiên
Chúa. Ông hằng yêu mến anh em đồng bào mình, cầu nguyện nhiều cho toàn dân và
tất cả Thành Thánh.” 15 Rồi ông Giê-rê-mi-a đưa tay phải ra trao cho
ông Giu-đa thanh gươm bằng vàng. Khi trao gươm, ông nói thế này: 16 "Hãy
nhận lấy thanh gươm thánh này. Ðó là món quà Thiên Chúa ban. Nhờ nó, ngươi sẽ
đánh tan quân địch."
Dàn
trận
17
Ðược
lời khích lệ của ông Giu-đa, những lời lẽ thật quý hoá, có sức khơi dậy lòng
can đảm và mang lại khí phách nam nhi cho thanh niên, người Do-thái quyết định
không còn giữ thế thủ trong trại nữa, nhưng can đảm tấn công và đem chí khí nam
nhi bám sát quân địch để giải quyết chiến cuộc, bởi vì Thành Thánh, tôn giáo và
Ðền Thờ đang gặp cơn nguy khốn. 18 Quả thật, đối với họ, lo lắng cho
vợ con, anh em và thân thích chỉ là phụ thuộc; còn nỗi lo sợ lớn hơn cả và
chính yếu hơn cả là Ðền Thờ đã được thánh hiến. 19 Những người còn ở
lại trong thành cũng lo sợ không kém; họ lo lắng vì cuộc giao tranh ngoài chiến
địa. 20 Mọi người chờ đợi giờ quyết định sắp đến, trong lúc địch
quân tập trung lực lượng, bày binh bố trận, đưa đàn voi trận tới vị trí xung
yếu, và dàn kỵ binh ra hai cánh. 21 Khi ông Ma-ca-bê nhìn thấy đông
đảo quân địch xuất hiện, trang bị đủ loại vũ khí, đàn voi trận hung hãn, ông
dang tay lên trời, khẩn cầu Ðức Chúa là Ðấng làm nên những công trình kỳ diệu,
vì ông biết rằng chiến thắng không phải là nhờ vũ khí, nhưng là do Người quyết
định ban cho những ai xứng đáng. 22 Trong khi khẩn cầu, ông nói như
thế này: "Lạy Chúa Tể, dưới triều Khít-ki-gia vua nước Giu-đê, Ngài đã sai
sứ thần của Ngài đến tiêu diệt một trăm tám mươi lăm ngàn quân của Xan-khê-ríp.
23 Vậy giờ đây, lạy Chúa Tể ngự trên trời, xin kịp thời phái sứ thần
đến đi trước chúng tôi, gieo sợ hãi và kinh hoàng cho địch quân. 24 Xin
Ngài vung cánh tay mạnh mẽ trừng phạt những kẻ nói lộng ngôn phạm thượng dám
tấn công dân thánh của ngài." Rồi ông kết thúc bằng những lời ấy.
Ni-ca-no
bại trận và chết
25
Quân
của Ni-ca-no tiến lên theo tiếng kèn và bài ca lâm trận. 26 Còn ông
Giu-đa và những người theo ông thì giao chiến với quân địch giữa những lời kêu
van cầu khẩn. 27 Tay chiến đấu mà lòng cầu khẩn Thiên Chúa, họ giết
ít nhất cũng được ba mươi lăm ngàn tên địch. Họ rất đỗi vui mừng vì Thiên Chúa
đã biểu lộ quyền năng của Người. 28 Diệt quân thù xong, họ vui sướng
trở về vì biết rằng Ni-ca-no đã ngã gục, mình còn mang đầy binh giáp.
29
Bấy
giờ, họ cất tiếng hò la inh ỏi, dùng tiếng mẹ đẻ mà chúc tụng Chúa Tể. 30 Rồi
ông Giu-đa, người luôn luôn chiến đấu ở hàng đầu, người đã cống hiến cả cuộc
đời mình cho đồng bào và vẫn giữ mối thân tình đối với dân tộc ngay từ thời
niên thiếu, đã ra lệnh chặt đầu, chặt tay và bả vai của Ni-ca-no đem về
Giê-ru-sa-lem. 31 Ðến nơi, ông triệu tập người đồng chủng, đặt các
tư tế đứng trước bàn thờ dâng lễ toàn thiêu và cho gọi quân canh ở Ðô Thị đến. 32
Ông giương cao thủ cấp của Ni-ca-no gian ác cho họ thấy, và cả cánh tay
của tên lộng ngôn phạm thượng ấy, kẻ đã dám ngạo mạn giơ tay chống lại Ðền
Thánh của Ðấng Toàn Năng. 33 Cắt lưỡi của tên Ni-ca-no khốn kiếp đó
rồi, ông hạ lệnh thái ra từng mảnh ném cho chim trời ăn, và truyền bêu trước
Ðền Thờ cánh tay là giá ông ta phải trả cho sự điên rồ của mình. 34 Lúc
ấy mọi người hướng lên trời chúc tụng Ðức Chúa hiển linh; họ nói: "Chúc
tụng Ðấng đã gìn giữ Nơi Thánh của Người khỏi bị ô uế."
35
Ông
Giu-đa cũng bêu thủ cấp của Ni-ca-no ở Ðô Thị, để cho mọi người thấy dấu chỉ tỏ
tường và hiển nhiên về ơn phù trợ của Ðức Chúa. 36 Mọi người bỏ
thăm, cùng nhau đi đến quyết định là đừng để ngày ấy trôi qua mà không ghi nhớ
gì cả, nhưng phải mừng vào ngày mười ba tháng mười hai, tức là tháng A-đa theo
tiếng Xy-ri, ngày áp của ngày Moóc-đo-khai.
Lời
kết
37
Các
sự kiện liên quan đến Ni-ca-no đã xảy ra như vậy. Kể từ thời kỳ ấy, người
Híp-ri hoàn toàn làm chủ thành Giê-ru-sa-lem. Tôi cũng xin kết thúc tác phẩm ở
đây. 38 Nếu công việc soạn thảo được xuôi xắn và thành công, thì đó
là điều tôi mong ước. Còn nếu tác phẩm kém giá trị và tầm thường, thì đó cũng
là tất cả điều tôi có thể làm. 39 Cũng như chỉ uống nguyên rượu hoặc
nguyên nước thì không tốt, nhưng uống rượu có pha nước thì mới ngon lành và thú
vị; cũng vậy nếu trình thuật được xếp đặt gọn gàng và hấp dẫn thì làm sướng tai
người đọc truyện. Vậy tôi xin chấm dứt ở đây.
Gióp
Chương 01
I.
Lời Mở Ðầu
Xa-tan
thử thách ông Gióp
1
Xưa
ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là một con người vẹn toàn và ngay thẳng,
kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác. 2 Ông sinh được bảy người con
trai và ba người con gái. 3 Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn
chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông
tôi tớ. Ông là người giàu có nhất trong số các con cái Phương Ðông. 4 Các
con trai ông có thói quen luân phiên tới nhà nhau tiệc tùng và cho người đi mời
ba cô em gái đến ăn uống với họ. 5 Mỗi khi hết vòng tiệc tùng, ông
Gióp cho gọi họ đến để thanh tẩy họ; rồi ông dậy thật sớm, dâng lễ toàn thiêu
cho mỗi người trong họ, vì ông tự nhủ: "Biết đâu các con trai ta đã chẳng
phạm tội và nguyền rủa Thiên Chúa trong lòng!" Lần nào ông Gióp cũng làm
như thế.
6
Vậy
một ngày kia, các con cái Thiên Chúa đến trình diện Ðức Chúa; Xa-tan cũng đến
trong đám họ. 7 Bấy giờ Ðức Chúa phán với Xa-tan: "Ngươi từ đâu
tới?" Xa-tan thưa với Ðức Chúa: "Rảo quanh cõi đất và lang thang khắp
đó đây.” 8 Ðức Chúa phán với Xa-tan: "Ngươi có để ý đến Gióp,
tôi tớ của Ta không? Thật chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con
người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác!” 9 Nhưng
Xa-tan thưa lại với Ðức Chúa: "Có phải Gióp kính sợ Thiên Chúa mà không
cầu lợi chăng? 10 Chẳng phải chính Ngài đã bao bọc, chở che nó tư bề, nó cũng
như nhà cửa và tài sản của nó sao? Ngài đã ban phúc lành cho công việc do tay
nó làm, và các đàn súc vật của nó lan tràn khắp xứ. 11 Ngài cứ thử
giơ tay đánh vào mọi tài sản của nó xem, chắc chắn là nó nguyền rủa Ngài thẳng
mặt!” 12 Ðức Chúa phán với Xa-tan: "Ðược, mọi tài sản của nó
thuộc quyền ngươi, duy chỉ có con người của nó là ngươi không được đưa tay đụng
tới." Rồi Xa-tan rút lui khỏi nhan Ðức Chúa.
13
Vậy
một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh
cả của họ, 14 thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp:
"Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, 15 dân
Sơ-va đã xông vào cướp lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có
mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.” 16 Người ấy còn đang nói thì
một người khác về thưa: "Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đã đốt
cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo
cho ông hay.” 17 Người này còn đang nói thì một người khác về thưa:
"Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ,
chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.” 18
Người ấy còn đang nói, thì một người khác về thưa: "Con trai con gái
ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, 19 thì một
trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè
trên đám trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay."
20
Bấy
giờ ông Gióp trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy 21
và nói:
"Thân
trần truồng sinh từ lòng mẹ,
tôi
sẽ trở về đó cũng trần truồng.
Ðức
Chúa đã ban cho, Ðức Chúa lại lấy đi:
xin
chúc tụng danh Ðức Chúa!"
22
Trong
tất cả những chuyện ấy, ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách
móc phạm đến Thiên Chúa.
Chương 02
1
Một
ngày kia, con cái Thiên Chúa đến trình diện Ðức Chúa; Xa-tan cũng đến trong đám
họ, để trình diện Ðức Chúa. 2 Bấy giờ, Ðức Chúa phán với Xa-tan:
"Ngươi từ đâu tới?" Xa-tan thưa với Ðức Chúa: "Rảo quanh cõi đất
và lang thang khắp đó đây.” 3 Ðức Chúa phán với Xa-tan: "Ngươi
có để ý đến Gióp, tôi tớ của Ta không? Thật chẳng có ai trên cõi đất này giống
như nó: một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa
điều ác! Nó vẫn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của nó, dù ngươi đã vô cớ
xúi giục Ta chống lại, để tiêu diệt nó.” 4 Và Xa-tan thưa lại với
Ðức Chúa: "Da đổi da! Tất cả những gì người ta có, người ta đều sẵn sàng
cho đi để cứu mạng sống mình. 5 Ngài cứ thử giơ tay đánh vào xương
vào thịt nó xem, chắc chắn là nó sẽ nguyền rủa Ngài thẳng mặt!” 6 Ðức
Chúa phán với Xa-tan: "Ðược, nó thuộc quyền ngươi, nhưng ngươi phải tôn
trọng mạng sống nó.” 7 Rồi Xa-tan rút lui khỏi nhan Ðức Chúa.
Vậy
Xa-tan hành hạ ông Gióp, khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân
cho tới đỉnh đầu. 8 Ông ngồi giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi. 9
Bấy giờ, vợ ông bảo: "Ông còn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của
ông nữa hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi!” 10 Nhưng
ông Gióp đáp lại: "Cả bà cũng nói như một mụ điên. Chúng ta đón nhận điều
lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?" Trong tất
cả những chuyện ấy, ông Gióp không để cho môi miệng thốt ra lời tội lỗi.
11
Ba
người bạn của ông Gióp nghe biết tất cả những tai hoạ xảy ra cho ông, liền kéo
đến, mỗi người từ xứ sở của mình, Ê-li-phát người Tê-man, Bin-đát người Su-ác,
Xô-pha người Na-a-mát. Họ bàn nhau đến để chia buồn và an ủi ông. 12 Từ
xa, họ ngước mắt nhìn, nhưng chẳng nhận ra ông. Họ bật khóc; mỗi người xé áo
mình ra và rắc tro lên đầu. 13 Rồi họ ngồi xuống đất, bên cạnh ông,
suốt bảy ngày đêm, chẳng nói với ông một lời, vì họ thấy rằng nỗi đau khổ của
ông quá lớn.
Chương 03
II.
Ðối Thoại
1.
Thiên Thứ Nhất
Ông
Gióp nguyền rủa ngày ông chào đời
1
Sau
cùng, ông Gióp mở miệng nguyền rủa ngày ông chào đời.2 Ông Gióp lên tiếng nói:
3
Phải
chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời,
cũng
như đêm đã báo:
"Ðứa
con trong bụng mẹ là một nam nhi!"
4
Phải
chi ngày ấy là đêm tối,
phải
chi từ nơi cao thẳm
Thiên
Chúa đừng để ý tới ngày ấy làm gì.
Phải
chi trên ngày ấy ánh sáng đừng chiếu rọi.
5
Phải
chi trên ngày ấy tối tăm mờ mịt bao trùm,
mây
đen đến che phủ và sương mù bỗng dưng ập xuống.
6
Phải
chi đêm ấy bị tối tăm xâm nhập,
không
được kể vào niên lịch,
không
được tính trong số các tháng.
7
Này,
phải chi đêm ấy là đêm cô đơn buồn thảm,
đêm
chẳng hề có tiếng reo vui.
8
Phải
chi những kẻ đã nguyền rủa ngày
đã
sẵn sàng đánh thức con giao long
cũng
nguyền rủa đêm ấy.
9
Phải
chi tinh tú ban mai thành tăm tối mịt mờ,
và
ban mai uổng công chờ ánh sáng,
không
hề thấy bình minh xuất hiện.
10
Vì
đêm ấy đã không đóng
kín
lòng dạ cưu mang tôi
khiến
mắt tôi khỏi nhìn thấy đau khổ.
11
Sao
tôi không chết đi lúc vừa mới chào đời,
không
tắt thở ngay khi lọt lòng mẹ?
12
Sao
lại có hai đầu gối đỡ lấy tôi,
có
đôi vú cho tôi bú mớm?
13
Chẳng
vậy thì giờ đây tôi đã nằm xuống yên hàn,
đã
an giấc nghỉ ngơi
14
cùng
các bậc vương hầu khanh tướng
đã
xây lăng xây mộ cho mình,
15
hay
những bậc thủ lãnh vàng bạc chất đầy nhà.
16
Chẳng
vậy thì giờ đây tôi đã không hiện hữu,
khác
nào thai nhi chết yểu bị đem chôn,
hay
trẻ sơ sinh không nhìn thấy ánh sáng.
17
Tại
đó, kẻ hung tàn không còn quấy phá nữa,
cũng
tại đó người kiệt sức lại được nghỉ ngơi.
18
Kẻ
tù đày được bình an thư thái,
chẳng
còn nghe giám thị quát mắng rầy la.
19
Lớn
bé đều như nhau,
nô
lệ được tự do, hết phải làm tôi chủ.
20
Sao
Người lại ban ánh sáng cho kẻ khốn cùng,
ban
sự sống cho ai nuốt cay ngậm đắng?
21
Họ
là những người mong chết mà không được,
tìm
cái chết hơn cả tìm kho báu.
22
Họ
phấn khởi mừng vui, hân hoan vì tìm thấy phần mộ.
23
Sao
lại ban ánh sáng và sự sống
cho
kẻ chẳng biết mình đi đâu,
cho
kẻ bị Thiên Chúa giam hãm tư bề?
24
Quả
thật, bánh tôi ăn chỉ là tiếng nức nở,
tiếng
tôi gào thét tựa nước lũ ngập tràn.
25
Những
gì làm tôi kinh hoàng sợ hãi nay đã xảy đến rồi.
Những
gì khiến tôi rụng rời khiếp sợ
nay
ập xuống trên tôi.
26
Tôi
chẳng được thư thái yên hàn,
tôi
hết được nghỉ ngơi, vì trăm điều phiền muộn.
Chương 04
Tin
tưởng vào Thiên Chúa
1
Bấy
giờ, ông Ê-li-phát, người Tê-man, lên tiếng nói:
2
Nếu
chúng tôi ngỏ lời, liệu anh chịu nổi không?
Nhưng
nào ai có thể cứ làm thinh chẳng nói!
3
Này
anh đã khuyên nhủ bao người,
đã
làm cho những đôi tay rã rời nên mạnh mẽ.
4
Người
lảo đảo mà đứng vững được là nhờ lời anh.
Cũng
nhờ anh mà đầu gối lung lay thành cứng cáp.
5
Giờ
đây, đến lượt anh, anh lại ra yếu nhược,
đến
phiên anh bị đánh, anh sợ hãi bàng hoàng.
6
Chẳng
lẽ lòng kính sợ của anh không làm anh tin tưởng,
và
cuộc sống vẹn toàn chẳng giúp anh hy vọng hay sao?
7
Xin
anh nhớ kỹ: Có ai vô tội mà phải tiêu vong?
Có
nơi nào người công chính lại bị huỷ diệt?
8
Ðiều
tôi thấy rành rành
là
những người vun trồng tội ác và gieo tai rắc hoạ
cuối
cùng chỉ gặt lấy hoạ tai.
9
Chúng
bị tiêu vong do hơi thở của Thiên Chúa,
chúng
phải tận diệt vì nộ khí của Người.
10
Tiếng
sư tử gầm, tiếng hùm thiêng rống,
Người
làm cho im bặt.
Người
bẻ gãy nanh sư tử con.
11
Sư
tử tiêu vong vì không còn mồi,
tất
cả bầy con phải tan tác.
12
Có
một lời chợt đến với tôi
và
tai tôi nghe được tiếng thì thầm.
13
Sau
những thị kiến ban đêm,
giữa
những cơn ác mộng,
khi
một giấc ngủ mê ập xuống trên người phàm,
14
thì
một nỗi kinh hoàng run sợ xâm chiếm con người tôi,
khiến
xương cốt tôi rụng rời kinh hãi.
15
Một
làn gió lướt qua mặt tôi làm tôi nổi gai ốc.
16
Kìa
có ai đứng đó, sừng sững trước mặt tôi,
hình
dáng trông không rõ.
Một
thoáng thinh lặng. .. rồi tôi nghe tiếng nói:
17
"Chẳng
lẽ người phàm công chính hơn Thiên Chúa?
Chẳng
lẽ con người lại thanh sạch
hơn
Ðấng dựng nên mình?
18
Anh
hãy xem: ngay các tôi tớ của Người,
Người
còn không tin tưởng,
Người
bắt lỗi cả các thiên sứ của Người.
19
Còn
nói chi kẻ cư ngụ trong ngôi nhà đất sét,
đặt
nền móng trên cát, trên bụi,
bị
chà đạp chẳng khác côn trùng.
20
Một
sớm một chiều chúng bị nghiền nát,
rồi
biến dạng, chẳng còn ai để ý lưu tâm.
21
Dây
căng lều của chúng đã chẳng bị cắt đứt rồi sao?
Chúng
chết mà chẳng hiểu tại sao mình chết."
Chương 05
1
Anh
cứ gọi xem! Liệu có ai trả lời anh chăng?
Trong
số các thánh, anh hướng về vị nào?
2
Quả
thật, nỗi sầu khổ làm người điên phải chết
và
giận hờn làm kẻ dại phải tiêu vong.
3
Chính
tôi, tôi đã thấy người điên mọc rễ,
và
lập tức tôi đã nguyền rủa nơi nó ở.
4
Chớ
gì con cái nó không còn chỗ tựa nương,
bị
chà đạp nơi cổng thành, không được ai giải thoát.
5
Cái
gì nó gặt được, chớ gì người đói ăn mất,
người
ta cứ lấy, bất kể hàng rào gai,
và
tài sản chúng, chớ gì những kẻ khác nuốt trửng.
6
Quả
thật, nỗi bất hạnh chẳng phải từ lòng đất chui lên,
và
khổ đau cũng chẳng mọc lên từ mặt đất.
7
Quả
thật, con người sinh ra để mà chịu khổ,
cũng
như những tia chớp loé lửa trên cao.
8
Phần
tôi, tôi sẽ thỉnh cầu Thiên Chúa,
sẽ
trình bày với Thiên Chúa vụ án của tôi.
9
Người
làm ra những điều vĩ đại khôn dò khôn thấu,
và
những điều kỳ diệu vô vàn vô kể.
10
Người
khiến mưa rơi trên mặt đất
và
đổ tràn nước xuống nương đồng.
11
Kẻ
mọn hèn, Người cất nhắc lên,
kẻ
phiền muộn, Người đặt ở nơi cao an toàn.
12
Mưu
đồ của hạng tinh khôn, Người phá vỡ,
khiến
tay chúng chẳng làm nên công trạng gì.
13
Người
bắt kẻ khôn ngoan
bằng
chính những xảo kế của chúng,
và
đi trước mưu toan của phường quỷ quyệt.
14
Giữa
ban ngày, chúng rơi vào bóng tối,
ngay
chính ngọ, chúng mò mẫm như lần bước trong đêm.
15
Người
cứu kẻ yếu hèn
khỏi
lưỡi gươm, khỏi tay người quyền thế.
16
Bấy
giờ kẻ nghèo khó lại bừng lên niềm hy vọng,
và
phường tội lỗi chẳng còn dám hé môi.
17
Phúc
thay người được Thiên Chúa sửa trị!
Chớ
coi thường giáo huấn của Ðấng Toàn Năng.
18
Người
gây thương tích, cũng chính Người băng bó,
đánh
bầm dập xong, lại ra tay chữa lành.
19
Sáu
lần Người giải thoát anh khỏi cơn khốn quẫn,
đến
lần thứ bảy, tai hoạ không sao hại được anh.
20
Người
cứu anh khỏi chết trong thời đói kém,
khỏi
lưỡi gươm sát hại trong buổi binh đao.
21
Anh
sẽ được chở che khi bị lăng nhục,
tai
hoạ có đến, anh cũng chẳng sợ chi.
22
Tai
ương đói kém chỉ khiến anh bật cười,
thú
vật rừng hoang chẳng làm anh sợ hãi.
23
Bởi
vì anh giao ước cả với đá ngoài đồng,
và
thú rừng sẽ cùng anh chung sống.
24
Anh
sẽ hưởng bình an tại nơi anh cư ngụ,
kiểm
điểm đàn vật, chẳng thấy thiếu con nào.
25
Anh
sẽ thấy con đàn cháu đống,
hậu
duệ anh đông đúc như cỏ mọc ngoài đồng.
26
Anh
xuống mồ khi tuổi già mà còn tráng kiện
như
lúa chín ngày mùa được đem đến sân phơi.
27
Ðó
là điều chúng tôi đã tìm tòi kỹ lưỡng,
sự
thật là như thế:
xin
anh nghe và rút tỉa điều lợi ích cho mình.
Chương 06
Chỉ
có ai đau khổ mới hiểu được nỗi khổ của mình
1
Bấy
giờ ông Gióp lên tiếng trả lời:
2
Ôi,
phải chi ai cân được nỗi sầu của tôi,
và
đặt lên bàn cân nỗi đau tôi phải chịu!
3
Nhưng
nỗi đau, nỗi sầu của tôi lại nặng hơn cát biển;
chính
vì thế mà tôi phải nghẹn ngào, nói năng lúng túng.
4
Vì
những tên nhọn của Ðấng Toàn Năng
đã
cắm ngập thân tôi, khiến tâm thần tôi ngấm toàn chất độc.
Những
nỗi kinh hoàng của Thiên Chúa
hàng
hàng lớp lớp ập xuống trên tôi.
5
Có
con lừa nào kêu bên đám cỏ non,
có
con bò nào rống giữa cỏ xanh mơn mởn?
6
Hỏi
có ai ăn nhạt mà không cần muối?
Liệu
nước rau sam có được chút hương vị nào chăng?
7
Những
thứ kia làm tôi ngán ngẩm, tôi chẳng buồn đụng đến.
8
Ai
làm cho điều tôi mong ước được thành tựu?
Ðiều
tôi hy vọng, ước gì Thiên Chúa khấng ban cho!
9
Ước
gì Thiên Chúa nghiền tôi tan nát,
Người
cứ vung tay chặt nhỏ tôi ra.
10
Ít
ra tôi còn có được niềm an ủi này,
còn
có được niềm vui trong nỗi đau khôn xiết:
Lời
của Ðấng Thánh, tôi không hề quên lãng.
11
Sức
tôi được ngần nào mà tôi dám cậy trông?
Kết
cuộc tôi ra sao để cho tôi kiên nhẫn?
12
Sức
của tôi, đâu phải là sức đá?
Thịt
của tôi, đâu cứng chắc như đồng?
13
Chẳng
lẽ hư không lại là nguồn trợ lực giúp tôi chờ đợi,
hay
khôn ngoan tài giỏi đã bỏ tôi mà trốn mất rồi?
14
Ai
từ chối chẳng xót thương bè bạn,
cũng
không kính sợ Ðấng Toàn Năng.
15
Anh
em tôi đã phản bội tôi, họ như dòng thác lũ,
như
lòng suối khi nước đã chảy qua.
16
Băng
đóng thành tảng, tuyết chất thành đống;
nước
đục ngầu khi băng giải tuyết tan,
17
rồi
cạn khô vào mùa nắng hạ.
Dưới
ánh nắng mặt trời, nước bốc hơi, không để lại dấu vết.
18
Ðoàn
lữ hành thay đổi hướng đi,
họ
phiêu bạt giữa chốn hoang vu rồi mất dạng.
19
Ðoàn
lữ hành Tê-ma chăm chăm tìm nước,
đoàn
người Sơ-va dạt dào hy vọng.
20
Nhưng
họ phải bẽ bàng vì đã quá tin tưởng chờ mong,
khi
đến nơi, họ thẹn thùng xấu hổ.
21
Ðối
với tôi trong lúc này, các anh là thế đó,
gặp
lúc nguy nan, các anh liền hốt hoảng.
22
Phải
chăng tôi đã từng năn nỉ các anh:
"Xin
ban cho tôi một ân huệ, là lấy một phần tài sản để giúp tôi
23
hay
giải thoát tôi khỏi tay địch thù,
cứu
giúp tôi khỏi tay phường hung bạo"?
24
Xin
vui lòng chỉ giáo, rồi tôi sẽ lặng thinh,
tôi
sai ở chỗ nào, xin chỉ cho tôi thấy.
25
Lời
ngay lẽ thẳng dễ thuyết phục biết bao,
nhưng
lời lẽ các anh thì bắt bẻ được gì?
26
Phải
chăng lời nói là điều các anh muốn bắt bẻ?
Nhưng
lời nói của người tuyệt vọng,
cứ
để mặc cho gió cuốn đi!
27
Ngay
trẻ mồ côi, các anh cũng rút thăm chia chác,
còn
bạn bè, các anh cũng bán luôn.
28
Xin
các anh nhìn tôi xem nào, chẳng lẽ tôi nói dối?
29
Hãy
trở lại, mong sao chẳng có gì dối gian.
Một
lần nữa, xin mau trở lại,
tôi
vẫn là một người công chính.
30
Phải
chăng tôi nói lời gian dối khi mở miệng?
Chẳng
lẽ chưa bao giờ tôi nếm mùi cay đắng gian truân?
Chương 07
1
Cuộc
sống con người nơi dương thế
chẳng
phải là thời khổ dịch sao?
Và
chuỗi ngày lao lung vất vả
đâu
khác gì đời kẻ làm thuê?
2
Tựa
người nô lệ mong bóng mát,
như
kẻ làm thuê đợi tiền công,
3
cũng
thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng,
số
phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề.
4
Vừa
nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: "Khi nào trời sáng?"
Mới
thức dậy, tôi liền tự hỏi: "Bao giờ chiều buông?"
Mãi
tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng.
5
Thịt
tôi chai ra, dòi bọ lúc nhúc,
da
tôi nứt nẻ, máu mủ đầm đìa.
6
Ngày
đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa,
và
chấm dứt, không một tia hy vọng.
7
Lạy
Ðức Chúa, xin Ngài nhớ cho,
cuộc
đời con chỉ là hơi thở,
mắt
con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ.
8
Những
đôi mắt từng nhìn thấy con chẳng nhận ra con nữa,
nhưng
nếu Ngài đưa mắt nhìn con, thì con sẽ chẳng còn.
9
Ví
tựa mây tan, ví tựa mây bay,
ai
xuống âm phủ rồi, chẳng còn lên được nữa!
10
Nó
chẳng trở về mái nhà xưa,
nơi
nó đã ở hết nhận ra nó rồi.
11
Chính
vì thế, con sẽ không ngậm miệng,
con
sẽ nói ra khi tâm thần sầu não,
sẽ
than thở lúc con tim cay đắng.
12
Con
đâu có phải là biển cả hay thủy quái dị hình,
khiến
Ngài phải cho người canh gác?
13
Nếu
con nói: "Giường con nằm sẽ an ủi con,
nơi
con ngủ sẽ làm dịu đi tiếng con than thở",
14
thì
khi ấy, Ngài sẽ làm con kinh hoàng vì giấc mộng,
làm
con hoảng sợ vì thị kiến.
15
Chẳng
thà bị treo cổ, chẳng thà phải chết
hơn
là sống lây lất, da bọc xương.
16
Con
chẳng thiết tha gì, con đâu có sống mãi,
xin
cứ để mặc con, vì đời con chỉ là hơi thở.
17
Con
người là gì để Ngài phải coi trọng, để Ngài phải lưu tâm,
18
để
sáng nào Ngài cũng phải thăm viếng,
để
mỗi lúc Ngài lại phải xét soi?
19
Ðến
bao giờ Ngài mới ngoảnh mặt đi
để
con yên thân nuốt trôi nước miếng?
20
Con
phạm tội có hề chi đến Ngài,
lạy
Ðấng dò xét phàm nhân?
Sao
Ngài cứ đặt con làm bia để bắn?
Phải
chăng con đã nên gánh nặng cho Ngài?
21
Chẳng
lẽ Ngài không xoá được tội ác của con,
không
bỏ qua được lỗi lầm con phạm?
Vì
chỉ ít nữa thôi, con sẽ ngủ vùi trong cát bụi.
Ngài
có tìm cũng chẳng thấy con đâu.
Chương 08
Cần
học hỏi về đức công chính của Thiên Chúa
1
Bấy
giờ ông Bin-đát, người Su-ác, lên tiếng nói:
2
Ðến
bao giờ anh còn phát ngôn kiểu đó,
còn
ăn nói ào ào tựa cơn gió mạnh?
3
Phải
chăng Thiên Chúa bẻ quặt công minh?
Phải
chăng Ðấng Toàn Năng uốn cong chính trực?
4
Con
cái anh mà đắc tội với Người,
Người
bắt chúng phải gánh
những
hậu quả do tội ác chính mình đã phạm.
5
Nếu
anh hăm hở kiếm tìm Thiên Chúa,
nếu
anh cầu khẩn Ðấng Toàn Năng,
6
nếu
anh trong sạch và ngay thẳng,
ngay
từ bây giờ, Người sẽ chở che anh,
Người
sẽ hoàn trả lại cho anh
địa
vị của một người công chính.
7
Tình
trạng xưa của anh sẽ chẳng là gì cả
so
với tương lai rực rỡ huy hoàng.
8
Anh
cứ hỏi thế hệ đã qua,
kinh
nghiệm cha ông, hãy gẫm suy cho kỹ.
9
Là
đám hậu sinh, chúng ta chẳng biết gì,
cuộc
đời chúng ta trên dương thế
chẳng
khác gì bóng câu.
10
Nhưng
các ngài sẽ dạy cho anh biết, sẽ nói cho anh hay,
các
ngài đã diễn tả kinh nghiệm qua câu châm ngôn này:
11
"Ở
bên ngoài đầm, đay mọc được chăng?
Chỗ
không có nước, sậy nào vươn nổi?
12
Khi
hãy còn non được cắt đem về,
nó
đã ra khô héo trước mọi thứ cỏ."
13
Ðó
là số phận của mọi kẻ lãng quên Thiên Chúa,
niềm
hy vọng của phường gian ác cũng tiêu tan như vậy.
14
Nơi
tin tưởng của nó như sợi chỉ treo mành,
chỗ
an toàn của nó khác chi tấm màng nhện.
15
Nó
dựa vào nhà, nhưng nhà không vững,
nó
bám vào nhà, nhưng nhà lung lay.
16
Dưới
ánh mặt trời, nó tràn trề nhựa sống,
và
đâm chồi nẩy lộc toả khắp thửa vườn.
17
Rễ
nó chằng chịt quanh đá tảng, ăn sâu vào khe đá.
18
Nhưng
nếu người ta bứng nó đi khỏi chỗ nó ở,
thì
nơi nó ở cũng chối bỏ nó:
"Có
bao giờ tôi thấy anh đâu!"
19
Ðường
nó đi, sung sướng như vậy đó!
Từ
bụi đất một mầm khác mọc lên.
20
Này,
Thiên Chúa chẳng loại bỏ con người toàn vẹn,
chẳng
tiếp tay cho phường gian ác.
21
Người
sẽ lại cho miệng anh rộn rã tiếng cười,
và
môi anh vang khúc hoan ca.
22
Kẻ
thù ghét anh phải thẹn thùng xấu hổ,
nơi
ở của phường gian ác cũng chẳng còn.
Chương 09
Ðức
công chính của Thiên Chúa vượt trên tất cả
1
Bấy
giờ ông Gióp lên tiếng nói:
2
Quả
thật, tôi biết rõ thế này: Trước nhan Thiên Chúa,
phàm
nhân cho mình là công chính thế nào được?
3
Nếu
ai thích tranh luận với Người,
thì
ngàn lần Người cũng không đáp lại một.
4
Có
ai lòng trí khôn ngoan, sức lực dũng mãnh,
đương
đầu với Người mà vẫn còn nguyên vẹn?
5
Người
chuyển núi dời non mà chúng không hay,
Người
lật nhào chúng trong cơn thịnh nộ,
6
Người
làm rung chuyển móng nền cõi đất
và
cột trụ của nó phải lung lay.
7
Người
ra lệnh là mặt trời không mọc,
Người
niêm ấn lên các vì sao.
8
Duy
mình Người trải rộng các tầng trời,
đạp
lên trên ba đào biển cả.
9
Người
làm ra Hùng tinh, Lạp Hộ,
chòm
Sao Mão và tinh tú Phương Nam.
10
Người
làm nên những điều vĩ đại khôn dò
và
những điều kỳ diệu không đếm xuể.
11
Này,
Người có đi qua tôi, tôi cũng chẳng thấy,
Người
có lướt tới, tôi cũng chẳng nhận ra.
12
Này
Người bắt đi, ai giành lại được?
Ai
dám hỏi Người: "Ngài làm gì thế?"
13
Thiên
Chúa không rút lại cơn thịnh nộ của Người,
các
đồng minh của thủy thần Ra-háp
phải
nằm rạp dưới chân Người.
14
Chẳng
lẽ tôi lại tranh cãi, hay tìm lý để chống đối Người sao?
15
Cho
dù tôi có lý, tôi cũng không tranh cãi,
nhưng
sẽ xin Ðấng xét xử tôi thương xót.
16
Tôi
có kêu cầu và Người đáp lại,
tôi
cũng chẳng tin là Người nghe tiếng tôi.
17
Người
vùi dập tôi trong cơn dông bão,
lại
vô cớ bắt tôi chịu thêm nhiều thương tích.
18
Người
chẳng để tôi kịp thở,
mà
lại dìm tôi trong bao nỗi đắng cay.
19
Cậy
vào sức ư? Chính Người lại là Ðấng hùng mạnh!
Cậy
vào toà xét xử? Nhưng ai cắt cử Người?
20
Cho
dù tôi có lý, miệng tôi cũng kết án tôi;
cho
dù tôi có vẹn toàn, nó vẫn chứng minh là tôi bất chính.
21
Tôi
vẹn toàn ư? Chính tôi cũng không hay,
tôi
chẳng màng sống nữa!
22
Tất
cả đều như nhau; vì thế tôi mới bảo:
đứa
gian ác cũng như kẻ vẹn toàn, chính Người tiêu diệt hết!
23
Nếu
thình lình xảy ra tai ương gây chết chóc,
thì
Người vẫn thản nhiên nhạo cười
trước
cảnh khốn cùng của người vô tội.
24
Miền
đất có bị trao vào tay kẻ dữ,
thì
Người cũng che mặt các quan toà,
nếu
không phải là Người thì ai đây?
25
Ngày
đời tôi trôi nhanh hơn kẻ chạy đua,
nó
qua mau, mà không thấy hạnh phúc.
26
Nó
lướt đi như những chiếc thuyền nan,
như
phượng hoàng bổ xuống bắt mồi.
27
Nếu
con nói: con sẽ quên đi lời than thở,
đổi
nét mặt mà hớn hở vui tươi,
28
thì
con lại khiếp sợ mọi nỗi đớn đau;
con
biết rằng: Ngài chẳng kể con là vô tội.
29
Vậy
nếu con đã làm điều dữ,
thì
nhọc nhằn vô ích mà làm chi?
30
Nếu
con có tắm bằng nước tuyết,
có
lấy thuốc tẩy mà rửa tay cho sạch,
31
bấy
giờ, Ngài sẽ nhận chìm con xuống bùn,
khiến
áo xống con cũng coi con là ghê tởm.
32
Vì
Người không phải là người phàm như tôi,
để
tôi tranh cãi với Người,
để
cùng với Người ra trước toà xét xử.
33
Giữa
chúng tôi chẳng ai làm trọng tài
để
đặt tay lên cả hai chúng tôi.
34
Phải
chi Người đẩy xa tôi ngọn roi của Người,
và
đừng làm tôi kinh hoàng sợ hãi!
35
Bấy
giờ tôi sẽ nói mà không còn sợ Người,
vì
tôi thấy tôi đâu có như vậy!
Chương 10
1
Hồn
tôi chẳng còn ham sống,
tôi
muốn để mặc cho tiếng thở than tuôn trào,
và
muốn thốt ra lời khi tâm hồn cay đắng.
2
Tôi
sẽ thưa với Thiên Chúa: Xin đừng kết án con,
xin
cho con biết tại sao Ngài tố cáo con.
3
Phải
chăng Ngài thích thú khi đàn áp,
khi
coi rẻ công trình tay Ngài sáng tạo,
và
ủng hộ mưu đồ của bọn ác nhân?
4
Phải
chăng mắt Ngài chỉ là mắt thịt,
và
Ngài nhìn theo kiểu phàm nhân?
5
Phải
chăng cuộc đời của Ngài
cũng
ngắn ngủi như đời người phải chết,
và
năm tháng của Ngài cũng chóng qua như cuộc nhân sinh?
6
Nhưng
chính Ngài tìm bắt lỗi con,
và
điều tra tội con đã phạm,
7
mặc
dầu Ngài biết: con không tội lỗi gì,
và
không ai thoát khỏi tay Ngài được.
8
Chính
tay Ngài đã tạo tác nên con,
chẳng
lẽ Ngài đổi ý mà huỷ diệt?
9
Xin
Ngài nhớ cho: Ngài đã tạo ra con bằng đất sét,
rồi
lại đưa con trở về cát bụi.
10
Há
chẳng phải Ngài đã tạo nên con như sữa lỏng,
rồi
làm con đặc lại như bơ?
11
Ngài
đắp lên con bằng da bằng thịt,
rồi
lấy gân lấy cốt mà dệt mà thêu.
12
Ngài
đã ban cho con tình thương và sự sống,
quan
tâm đến từng hơi thở của con.
13
Nhưng
có điều này Ngài luôn giữ kín,
con
biết rõ đó chính là ý nghĩ của Ngài.
14
Nếu
con phạm tội, Ngài để ý lưu tâm,
chẳng
bỏ qua lỗi lầm con phạm.
15
Nếu
con có tội, thì khốn cho con!
Mà
nếu có công chính, con cũng chẳng dám ngẩng đầu:
Tủi
hổ đầy tràn, lỗi lầm chồng chất.
16
Nếu
con ngẩng đầu, thì khác nào sư tử,
Ngài
liền săn đuổi con, Ngài hạ nhục con để bày tỏ uy quyền.
17
Nhằm
cáo tội con, Ngài đưa hết lý này đến lý khác;
nhằm
chống lại con, Ngài không ngớt khơi dậy cơn phẫn nộ;
nhằm
bao vây con, Ngài đưa thêm nhiều đoàn quân mới.
18
Vậy
thì tại sao Ngài lại kéo con ra khỏi lòng mẹ?
Phải
chi lúc đó con tắt thở cho rồi,
chẳng
còn ai nhìn thấy con nữa!
19
Con
sẽ được coi như không có,
được
đưa thẳng từ dạ mẹ xuống mồ.
20
Ngày
đời con, nào có được bao nhiêu!
Xin
Ngài nương tay, để con được đôi phần thanh thoả,
21
trước
khi con ra đi, không hẹn ngày trở lại,
đi
về nơi tăm tối, dưới bóng tử thần,
22
nơi
tăm tối, mịt mù, hỗn độn,
nơi
ánh sáng và bóng tối cũng như nhau.
Chương 11
Sự
khôn ngoan của Thiên Chúa mời gọi ông Gióp thú tội
1
Bấy
giờ ông Xô-pha, người Na-a-mát lên tiếng nói:
2
Kẻ
nhiều lời, phải chăng không ai đối đáp nổi?
Khéo
ăn khéo nói là chính trực hay sao?
3
Phải
chăng những lời lẽ ba hoa của anh
khiến
người ta câm miệng?
Anh
buông lời chế nhạo, mà chẳng ai làm anh nhục nhã sao?
4
Anh
dám khẳng định: "Ðiều tôi nói quả là đúng đắn.
Có
Thiên Chúa làm chứng: tôi là người thanh sạch."
5
Nhưng
phải chi Thiên Chúa lên tiếng
để
trực tiếp ngỏ lời với anh.
6
Phải
chi Người cho anh được biết
bao
nhiêu bí ẩn của lẽ khôn ngoan
vượt
quá tầm hiểu biết của người phàm.
Bấy
giờ anh mới rõ:
lầm
lỗi của anh, Thiên Chúa đã bỏ quên một phần.
7
Liệu
anh có dò nổi mầu nhiệm cao sâu của Thiên Chúa,
liệu
anh có nhận thức Ðấng Toàn Năng tuyệt hảo dường nào?
8
Sự
tuyệt hảo của Người
cao
hơn các tầng trời, liệu anh làm gì được,
sâu
thẳm hơn âm phủ, hỏi anh biết được gì,
9
trải
dài hơn cõi đất, rộng hơn cả biển sâu?
10
Nếu
Người đi qua để cầm tù, và triệu tập đại hội để xử án,
thì
ai ngăn cản được Người?
11
Quả
thật, Người biết rõ quân vô loại,
tội
ác, Người thấy ngay mà không cần chú ý.
12
Vì
thế, kẻ ngu si sẽ thành người am hiểu,
và
lừa hoang được huấn luyện thành người.
13
Phần
anh, nếu anh giữ lòng mình cho kiên vững,
nếu
anh dang tay hướng thẳng về Người,
14
nếu
anh ném xa điều gian ác trong tay,
và
không để cho bất công cư ngụ trong lều,
15
thì
bấy giờ, anh sẽ ngẩng mặt lên, không tì ố,
anh
sẽ được vững vàng, không sợ hãi chi.
16
Vì
bấy giờ anh sẽ quên tại hoạ,
dù
anh nhớ tới, nó cũng như dòng nước đã chảy qua.
17
Ðời
anh sẽ huy hoàng hơn mặt trời chính ngọ,
và
tháng ngày tăm tối
sẽ
trở thành như những buổi bình minh.
18
Anh
sẽ được vững dạ an lòng vì có niềm hy vọng:
dù
đã phải thẹn thùng xấu hổ,
anh
sẽ được nghỉ ngơi yên hàn.
19
Anh
sẽ nghỉ yên, không bị ai quấy phá,
có
nhiều người sẽ tìm đến cầu thân.
20
Còn
quân gian ác có mỏi mắt tìm
cũng
chẳng thấy nơi nương ẩn,
hy
vọng của chúng là trút hơi thở cuối cùng.
Chương 12
Thiên
Chúa quyền năng biểu lộ sự khôn ngoan
qua
các hành động của Người
1
Bấy
giờ ông Gióp lên tiếng nói:
2
Các
anh thật chỉ là con người!
Nhưng
cùng với các anh, sự khôn ngoan sẽ chết.
3
Tôi
đây, tôi cũng nghĩ được như các anh,
với
các anh, tôi đâu thua kém gì, ai chẳng biết như vậy?
4
Thế
mà bạn hữu đã nhạo cười tôi
là
người đã từng khẩn cầu Thiên Chúa và được Người đáp lại.
Than
ôi, người công chính vẹn toàn
lại
trở nên trò cười cho thiên hạ!
5
"Người
đã bất hạnh lại còn bị khinh chê!
Kẻ
đã trượt chân còn bị xô thêm nữa."
Những
kẻ gặp may lành thường xử sự như thế.
6
Nhưng
quân cướp lại sống bình an trong lều,
những
kẻ chọc giận Thiên Chúa được mọi bề yên ổn,
và
kẻ bắt Thiên Chúa phục vụ mình cũng thế!
7
Nhưng
anh cứ hỏi súc vật, chúng sẽ chỉ giáo cho anh,
cứ
hỏi chim trời, chúng sẽ cho anh biết.
8
Thú
rừng sẽ chỉ giáo cho anh hay,
cá
biển sẽ giải thích cho anh rõ.
9
Vì
trong giống vật, có con nào lại không biết
rằng
tay Ðức Chúa đã làm nên những điều đó!
10
Chính
Người nắm trong tay hồn của mọi sinh vật
cũng
như hơi thở của tất cả người phàm.
11
Lẽ
nào tai không phân biệt được lời nói,
và
cổ họng không thưởng thức được món ăn?
12
Người
tóc bạc được trí khôn ngoan,
bậc
tuổi cao có tài thông hiểu.
13
Nhưng
nơi Thiên Chúa có cả khôn ngoan lẫn sức mạnh,
mưu
lược cũng như tài thông hiểu đều thuộc về Người.
14
Người
phá huỷ, chẳng ai xây lại được,
Người
giam cầm, không ai cứu thoát nổi.
15
Người
giữ nước lại, trời liền hạn hán,
Người
thả nước ra, đất bị tan hoang.
16
Nơi
Người có cả dũng lực lẫn tài trí,
kẻ
lầm lạc cũng như người gây ra lầm lạc đều ở trong tay Người.
17
Người
bắt các mưu sĩ phải đi chân đất,
làm
cho các thẩm phán ra điên rồ.
18
Người
gỡ bỏ cân đai của vua chúa
và
bắt họ phải dùng khố thắt lưng.
19
Người
bắt các tư tế phải đi chân đất
Người
lật đổ những kẻ quyền uy.
20
Người
làm cho nhà hùng biện mất cả tài ăn nói,
cho
bậc lão thành chẳng còn óc biện phân.
21
Người
đổ nhuốc nhơ xuống hàng quyền quý,
và
nới lỏng dây lưng cho quân bạo tàn.
22
Người
vạch trần những tối tăm bí ẩn,
phơi
bày bóng tối tử thần ra ánh sáng.
23
Người
làm cho các dân lớn mạnh rồi tiêu diệt,
để
cho bành trướng rồi bắt phải lưu vong.
24
Người
làm cho thủ lãnh của dân ra ngu muội,
bắt
phải lang thang trong sa mạc không lối thoát.
25
Chúng
mò mẫm trong tăm tối mịt mù,
lảo
đảo như người thấm men say.
Chương 13
1
Những
chuyện này chính mắt tôi đã thấy,
chính
tai tôi đã nghe và đã hiểu.
2
Ðiều
các anh biết, tôi đây cũng biết, tôi chẳng thua kém gì.
3
Phần
tôi, tôi sẽ thưa với chính Ðấng Toàn Năng,
tôi
muốn biện hộ cho mình trước Thiên Chúa.
4
Còn
các anh, hạng láo khoét bày trò,
tất
cả các anh chỉ là bọn lang băm!
5
Phải
chi các anh biết nín lặng!
Như
thế các anh mới là người khôn ngoan.
6
Xin
các anh nghe lời tôi biện hộ;
xin
để ý lời miệng tôi phân trần.
7
Có
phải nhân danh Thiên Chúa mà các anh nói lời dối trá?
Có
phải vì Người, mà các anh bày chuyện điêu ngoa?
8
Có
phải các anh đứng về phe Người?
Có
phải các anh biện hộ cho Thiên Chúa?
9
Người
dò xét các anh, phải chăng đó là điều tốt?
Phải
chăng các anh phỉnh gạt Người
như
phỉnh gạt phàm nhân?
10
Hẳn
Người sẽ phiền trách các anh,
nếu
các anh đã bí mật theo phe phái.
11
Phải
chăng uy phong Người chẳng làm cho các anh khiếp sợ,
nỗi
kinh hoàng Người chẳng ập xuống các anh?
12
Lời
các anh khuyên bảo
chỉ
là những câu châm ngôn tầm thường như tro bụi,
lập
luận của các anh là thứ lập luận mềm nhũn như đất sét.
13
Im
đi, để mặc tôi! Chính tôi sẽ nói, rồi muốn ra sao thì ra.
14
Vì
thế tôi sẽ liều mạng đến một mất một còn.
15
Người
có thể giết tôi, tôi chẳng còn gì để hy vọng,
nhưng
trước nhan Người,
cách
sống của tôi, tôi phải biện hộ.
16
Ðó
chính là điều sẽ cứu tôi,
vì
trước nhan Người, ác nhân sẽ không dám xuất đầu lộ diện.
17
Xin
các anh để tâm nghe lời tôi nói,
lắng
tai nghe lời tôi giãi bày.
18
Này
đây tôi sắp sửa trình bày vụ việc,
tôi
biết rõ rằng tôi công chính.
19
Vậy
nếu có ai cãi và thắng được tôi,
tôi
sẽ làm thinh ngay và chết tức thì.
20
Chỉ
xin Chúa miễn cho con hai điều này thôi,
và
con sẽ không trốn để khỏi giáp mặt Ngài:
21
Xin
đừng để tay Ngài đè nặng lên con,
và
đừng làm con kinh hoàng sợ hãi.
22
Bấy
giờ Ngài gọi, con sẽ xin thưa,
hoặc
con có hỏi, Ngài sẽ trả lời.
23
Con
đã phạm bao nhiêu tội lỗi?
Bao
nhiêu lần con đã phản nghịch,
đã
đắc tội với Ngài, xin cho con được biết.
24
Sao
Ngài lại ẩn mặt, và xem con như thù địch của Ngài?
25
Có
phải điều Ngài muốn là làm run rẩy chiếc lá gió thổi bay,
hay
đuổi theo một cọng rơm khô héo?
26
Quả
thật, nhằm chống lại con,
Ngài
đã viết những lời cay đắng,
đã
kể ra các tội con phạm lúc xuân xanh,
27
đã
tra chân con vào cùm, theo dõi mọi đường nẻo con đi,
và
dò xét mọi dấu chân con bước.
28
Con
người mục nát như gỗ mọt, như tấm áo đã bị mối xông.
Chương 14
1
Con
người do phụ nữ sinh ra,
tuổi
đời ngắn ngủi, mà âu lo chồng chất.
2
Tựa
đoá hoa mới nở đã tàn,
con
người qua mau, khác nào bóng câu qua cửa sổ,
3
thế
mà Ngài lại để mắt nhìn xem,
còn
bắt ra đối chất với Ngài.
4
Ai
tìm thanh sạch được từ ô uế?
Dứt
khoát chẳng một ai!
5
Vì
tuổi con người đã được Ngài ấn định,
sống
được bao năm tháng là tuỳ thuộc ở Ngài.
Ngài
định giới hạn rồi, sao có thể vượt qua!
6
Xin
Ngài đừng để ý đến con người nữa,
cho
nó được an nhàn thư thái, và phấn khởi mừng vui
như
người làm mướn xong được một ngày.
7
Quả
vậy, đến như cây cối mà vẫn còn có niềm hy vọng,
bị
chặt rồi, còn có thể mọc lại xanh tươi,
và
không ngớt đâm chồi nảy lộc,
8
dầu
cho dưới đất rễ cây có già
và
gốc cây nằm chết trong cát bụi,
9
chỉ
cần một ít nước là đã vội đâm chồi,
nhánh
vươn dài như một cây non.
10
Còn
con người chết là nằm bất động,
sẽ
ở đâu khi tắt thở rồi?
11
Nước
biển có thể biến mất, sông ngòi có thể cạn khô,
12
cũng
thế, con người nằm xuống ngủ yên rồi
là
không thức dậy nữa.
Bao
lâu các tầng trời còn tồn tại,
nó
vẫn không thức giấc, không tỉnh dậy, không hết ngủ say.
13
Ôi,
giả như Ngài giấu con trong âm phủ,
cất
con ở đó cho đến lúc cơn giận Ngài nguôi,
cho
con một thời hạn, rồi lại nhớ đến con?
14
-
vì đã chết rồi, làm sao con người sống lại được?
Trong
suốt cả thời gian khổ dịch
con
vẫn cứ đợi chờ, cho tới khi Ngài nâng con dậy.
15
Bấy
giờ Ngài gọi, con sẽ xin thưa.
Bởi
vì Ngài những khát khao mòn mỏi
nhìn
thấy công trình do tay Ngài làm nên.
16
Bây
giờ Ngài đếm từng bước con đi,
nhưng
lúc ấy, Ngài sẽ không còn quan tâm đến tội con nữa.
17
Lúc
ấy, tội ác con, Ngài sẽ niêm trong bọc,
lỗi
lầm con, Ngài sẽ phủ lấp đi.
18
Than
ôi! Chẳng khác chi núi sập xuống vỡ tan,
đá
tảng bị dời qua chỗ khác,
19
chẳng
khác chi nước chảy đá mòn, và mưa rào cuốn trôi cát bụi,
cũng
vậy, hy vọng của người phàm, Ngài làm tiêu tan hết.
20
Ngài
quật cho nó ngã không dậy được, và nó phải ra đi,
Ngài
làm cho mặt mày nó ra xấu xa ghê tởm,
rồi
Ngài đuổi nó đi.
21
Con
cái nó có được vẻ vang rạng rỡ, nó cũng chẳng hay;
chúng
có bị khinh khi miệt thị, nó nào có biết!
22
Ðau
đớn trong thân xác, duy một mình nó chịu,
tang
tóc trong tâm hồn, chỉ một mình nó hay.
Chương 15
2.
Thiên Thứ Hai
Ông
Gióp tự kết án bằng những lời lẽ của ông
1
Bấy
giờ, ông Ê-li-phát người Tê-man lên tiếng nói:
2
Chẳng
lẽ người khôn ngoan muốn trả lời,
lại
dùng những lý lẽ vu vơ, và ngốn gió đông cho đầy bụng,
3
hoặc
dùng những lời vô tích sự, dùng những lời vô ích
mà
biện hộ cho mình?
4
Anh
huỷ bỏ luôn lòng kính sợ Thiên Chúa,
coi
thường cả việc suy gẫm trước nhan Người.
5
Quả
thật, tội của anh khiến anh nói năng như vậy đó,
anh
chọn kiểu ăn nói của phường xảo quyệt.
6
Chính
miệng anh, chứ không phải tôi đã kết án anh,
chính
môi anh quả quyết rằng anh mắc tội.
7
Có
phải anh là người đầu tiên đã sinh ra,
đã
chào đời trước khi đồi núi xuất hiện?
8
Có
phải anh đã hiện diện trong triều thần Thiên Chúa,
và
đã chiếm đoạt được khôn ngoan?
9
Có
gì anh biết mà chúng tôi không biết,
có
gì anh hiểu mà chúng tôi chẳng hay?
10
Trong
chúng tôi, có cả người già nua tóc bạc,
tuổi
đời vượt cả tuổi cha anh.
11
Phải
chăng anh cho là quá ít
những
an ủi Thiên Chúa dành cho anh,
cũng
như những lời lẽ nhẹ nhàng chúng tôi nói với anh?
12
Sao
anh đành để cho đam mê chế ngự,
để
cho mắt anh cũng đồng tình,
13
khi
anh quay ra giận dữ
và
thốt lên những lời chống lại Thiên Chúa?
14
Phàm
nhân là gì để tự cho mình là thanh sạch,
và
đứa con do người phụ nữ sinh ra là gì,
để
tự cho mình là công chính?
15
Ngay
các thánh của Người, Thiên Chúa còn không tin tưởng,
ngay
các tầng trời, cũng chẳng thanh sạch trước mắt Người,
16
huống
chi con người ghê tởm và hư đốn,
con
người chuyên làm điều gian ác như uống nước lã?
17
Nghe
tôi đi, tôi xin chỉ cho anh, tôi xin kể lại những điều đã thấy,
18
những
điều các bậc hiền nhân
đã
cho hay mà chẳng hề giấu giếm,
đó
cũng là điều cha ông xưa truyền lại.
19
Chỉ
các vị này
mới
được Thiên Chúa ban cho miền đất ta đang sống,
bấy
giờ nơi đó chẳng có ngoại kiều nào lẫn lộn.
20
Cả
cuộc đời đứa gian ác là một chuỗi lo âu,
năm
tháng dành cho kẻ hung tàn đã được đếm hết.
21
Bên
tai nó, tiếng kêu hãi hùng luôn văng vẳng,
đang
sống an lành, thì quân cướp bỗng đâu ào tới.
22
Nó
không tin rằng mình sẽ thoát khỏi cảnh tối tăm,
mà
thấy mình bị bỏ mặc cho gươm đâm chém.
23
Nó
rảo khắp đó đây tìm bánh, nhưng sẽ đi đâu?
Nó
biết rằng cái nắm chắc trong tay là chuỗi ngày đen tối.
24
Khốn
khổ ngặt nghèo làm nó thêm kinh hãi,
đổ
dồn trên nó như ông vua sẵn sàng lâm trận.
25
Cũng
chỉ vì nó đã dám dang tay chống lại Thiên Chúa,
cả
gan chống lại Ðấng Toàn Năng,
26
lấy
thuẫn dày che thân,
nó
cắm cổ cắm đầu xông vào Chúa.
27
Bởi
vì nó mặt mày núng nính và thân hình phì nộn.
28
Nó
ở trong các thành đã bị tàn phá,
trong
những ngôi nhà chẳng ai cư ngụ, sắp trở nên hoang tàn.
29
Nhưng
nó sao giàu nổi, tài sản nó sẽ chẳng bền lâu,
của
cải nó không che kín được xứ sở.
30
Nó
sẽ không thoát khỏi bóng tối,
chồi
non của nó, một ngọn lửa sẽ làm héo khô, tàn lụi,
hoa
của nó, gió sẽ cuốn đi.
31
Phải
chi nó đừng tin vào sự dối trá, nhưng nó đã làm,
vì
dối trá chính là những gì nó thu hoạch được.
32
Chưa
tới thời tới lúc, cành lá của nó đã úa tàn,
chẳng
còn xanh tươi nữa.
33
Khác
nào cây nho, nó làm rụng quả khi chưa chín,
như
cây ô-liu, nó để mất đi hoa trái của mình.
34
Quả
thật, phường gian ác sẽ không có con nối dõi,
lều
đứa ăn hối lộ sẽ bị lửa thiêu.
35
Ðứa
cưu mang gian ác, ắt sẽ sinh tai hoạ,
bụng
chúng chứa sẵn những điều gian.
Chương 16
Con
người không công chính còn Thiên Chúa công chính
1
Bấy
giờ, ông Gióp lên tiếng nói:
2
Những
điều như thế, tôi nghe đã bao lần.
Các
anh muốn ủi an nhưng tất cả chỉ gây thêm đau khổ.
3
"Những
lời lẽ viển vông như thế liệu đã chấm dứt chưa? "
Hoặc:
"Ðiều gì bắt anh phải trả lời thêm nữa? "
4
Giả
như các anh ở vào địa vị tôi,
tôi
cũng sẽ nói như các anh,
cũng
sẽ có những lời đối đáp,
sẽ
lắc đầu mai mỉa các anh.
5
Tôi
cũng sẽ dùng ba tấc lưỡi
để
làm cho các anh nên vững vàng,
sẽ
không tiếc mấp máy đôi môi
mà
làm cho các anh thêm mạnh mẽ.
6
Nếu
tôi có nói, nỗi khổ của tôi vẫn khôn nguôi,
tôi
mà nín thinh, nỗi khổ của tôi liệu có dứt?
7
Nhưng
giờ đây Thiên Chúa làm cho tôi kiệt quệ.
Phải,
Ngài đã gieo kinh hoàng
trên
mọi người thân cận của con.
8
Ngài
đã để cho dạ con phải nhăn nheo xấu xí,
đó
là một bằng cớ tố cáo con;
và
vẻ xanh xao gầy còm của thân thể
cũng
là một bằng cớ nữa tố cáo con.
9
Tôi
bị cơn giận của Người cấu xé và săn đuổi,
Người
nghiến răng nghiến lợi doạ dẫm tôi.
Kẻ
thù tôi đưa mắt nhìn tôi chòng chọc.
10
Chúng
há mồm há miệng doạ dẫm tôi, lại hè nhau chế giễu,
cùng
nhau tụ họp chống lại tôi.
11
Thiên
Chúa đã trao tôi cho bọn điên khùng,
quẳng
tôi vào tay phường gian ác.
12
Tôi
đang sống yên ổn thì Người đánh tôi,
nắm
lấy gáy tôi mà bẻ gãy,
rồi
dựng tôi lên làm bia mà bắn:
13
tên
nhọn của Người vây bủa lấy tôi,
đâm
thẳng vào lưng, không mảy may thương hại,
khiến
cho mật tôi đổ tràn ra đất.
14
Rồi
Người chọc thủng tôi lỗ chỗ;
tựa
trang chiến sĩ, Người nhảy vào đánh tôi tơi bời,
15
tôi
khoác lên da khô của mình tấm áo vải thô,
lại
vùi trán tôi trong bụi đất.
16
Khóc
lóc nhiều, mặt tôi đỏ ửng,
phiền
muộn quá, cặp mắt thâm quầng.
17
Thế
nhưng bàn tay tôi chẳng vương bạo lực,
và
lời cầu nguyện của tôi thật tinh tuyền.
18
Ðất
ơi, đừng vùi lấp máu ta đi,
ước
gì tiếng tôi kêu còn vọng ngân mãi mãi!
19
Ngay
giờ đây trên trời, tôi đã có một nhân chứng,
nơi
chốn cao xanh, tôi đã có một người bảo lãnh.
20
Bạn
bè của tôi chế nhạo tôi,
nhưng
tôi hướng nhìn lên Thiên Chúa, mắt đầm đìa giọt lệ.
21
Phải
chi nhân vật kia
có
thể làm trọng tài giữa con người và Thiên Chúa,
như
giữa hai con người với nhau.
22
Vì
năm tháng đời tôi đã được đếm hết,
con
đường tôi đang đi không dẫn tôi trở lại.
Chương 17
1
Hơi
thở tôi đã cạn, ngày đời tôi đã hết,
một
nấm mồ đang đợi chờ tôi.
2
Chung
quanh tôi lại chẳng phải là một đám người
ưa
cười đùa chế nhạo đó sao?
Suốt
canh khuya, mắt tôi đắm chìm trong cay đắng!
3
Xin
Ngài đứng ra bảo đảm cho con,
vì
ngoài Ngài ra, ai nào dám đưa tay cam kết?
4
Quả
thật, Ngài làm cho lòng chúng ra mù tối,
chẳng
còn nhận ra điều hay lẽ phải.
Vì
vậy, Ngài không chịu để cho chúng đắc thắng.
5
Tựa
như ai đó mời bạn đến chia phần,
trong
khi chính con mình lại mỏi mắt chờ mong.
6
Tôi
cũng nên trò cười cho thiên hạ,
ai
đưa mắt nhìn cũng phải ngoảnh mặt đi.
7
Mắt
tôi hoen mờ vì đau khổ, toàn thân tôi chỉ còn là cái bóng.
8
Thấy
cảnh này, người ngay thẳng cũng phải bàng hoàng,
người
vô tội phẫn nộ với ác nhân.
9
Nhưng
người công chính luôn giữ vững đường lối của mình,
kẻ
tay sạch lòng thanh sẽ được thêm sức mạnh.
10
Các
anh cứ trở lại, cứ đến đây,
nhưng
trong các anh, tôi chẳng thấy ai là khôn ngoan cả.
11
Ngày
đời tôi qua nhanh, toan tính của tôi thành mây khói,
cùng
với những ước mơ tôi hằng ấp ủ.
12
Thiên
hạ muốn biến đêm thành ngày,
tưởng
chừng bóng tối sẽ qua đi và trời sáng.
13
Nếu
tôi hy vọng âm phủ sẽ là nhà,
và
tôi sẽ kê giường trong bóng tối,
14
nếu
tôi nhìn nấm mồ mà nói: "Ðây là cha tôi!"
và
nhìn giòi bọ: "Ðây là mẹ, đây là chị tôi!",
15
thì
hy vọng của tôi ở chỗ nào,
hạnh
phúc của tôi, ai là người nhìn thấy?
16
Bấy
giờ hạnh phúc và hy vọng có đi vào âm phủ hay chăng,
khi
ta cùng nhau yên nghỉ trong bụi đất?
Chương 18
Giận
dữ cũng chẳng làm gì được Thiên Chúa
1
Bấy
giờ ông Bin-đát, người Su-ác, lên tiếng nói:
2
Ðến
bao giờ các anh còn nói những lời độc địa?
Cứ
suy nghĩ, rồi chúng tôi sẽ nói cho hay.
3
Tại
sao các anh coi chúng tôi như súc vật,
như
những đứa thô lỗ tục tằn?
4
Chính
anh đã tự dày vò trong khi giận dữ,
chẳng
lẽ vì anh mà cả trái đất lại bị bỏ hoang
và
núi đá chuyển mình dời chỗ?
5
Phải,
ánh sáng của ác nhân rồi sẽ tắt,
đuốc
phừng phừng của nó cũng không chiếu toả.
6
Trong
lều nó ở, ánh sáng thành bóng tối,
đèn
đóm cũng tắt luôn.
7
Bước
đi của nó xưa kia vững chắc, giờ đây lảo đảo,
mưu
đồ của nó làm cho nó ngả nghiêng.
8
Bởi
vì chân nó sa vào lưới, nó bước đi trên lưới đã giăng ra.
9
Cạm
bẫy sập xuống trúng gót chân nó,
và
dò lưới siết chặt thân mình.
10
Dây
bắt nó giấu ngầm dưới đất,
bẫy
gài nó nằm ở trên đường.
11
Nó
hoảng sợ vì bao nỗi kinh hoàng ập xuống từ khắp nơi,
theo
sát gót chân nó.
12
Ðói
khát trở nên bạn đồng hành,
tai
ương không ngớt nằm bên cạnh.
13
Bệnh
tật làm hao mòn da thịt nó,
tử
thần lấy đi nhiều phần thân thể.
14
Nó
đã bị lôi ra khỏi lều, và hết còn được sống yên ổn,
lại
bị dẫn đến gặp Vua Tàn Ác.
15
Người
ta sẽ cư ngụ trong lều nó đã ở
nhưng
nay chẳng còn thuộc về nó,
và
sẽ rắc lưu huỳnh tại nơi nó thường chăn súc vật.
16
Phía
dưới, rễ héo khô, phía trên, cành bị đốn.
17
Chẳng
ai trong xứ còn nhớ đến nó nữa,
tên
nó cũng không được nhắc đến trong miền.
18
Nó
bị tống khỏi chỗ đầy ánh sáng đến chốn tối tăm,
bị
đuổi khỏi nơi có người cư ngụ.
19
Trong
dân mình, nó sẽ chẳng có con có cháu,
tại
nhà nó ở, sẽ chẳng còn sống sót một ai.
20
Khi
thấy nó đến ngày tận số,
người
phương tây kinh hoàng, người phương đông sợ hãi.
21
Quả
thật, chỗ cư ngụ của kẻ bất công là như thế,
nơi
sinh sống của người không biết Thiên Chúa là như vậy!
Chương 19
Bị
Thiên Chúa và con người bỏ rơi, nhưng vẫn tin
1
Bấy
giờ, ông Gióp lên tiếng nói:
2
Ðến
bao giờ các anh còn hành hạ tôi,
còn
dùng lời lẽ mà đay nghiến?
3
Các
anh nhục mạ tôi đến cả chục lần rồi,
ăn
nói cộc cằn với tôi mà không biết xấu hổ!
4
Giả
như tôi có thực sự sai lầm, thì chỉ một mình tôi phải liên luỵ.
5
Nhưng
nếu quả các anh muốn lên mày lên mặt với tôi,
và
muốn chứng minh rằng:
nỗi
sỉ nhục tôi đang chịu là đích đáng,
6
thì
các anh hãy biết rằng người chèn ép và bủa lưới bắt tôi,
chính
là Thiên Chúa vậy.
7
Nếu
tôi kêu lên: "Tàn bạo quá!", chẳng có ai đáp lời,
và
nếu tôi có van nài đi nữa, cũng chẳng ai phân xử cho tôi.
8
Người
chặn đường cản lối, khiến tôi không tài nào vượt nổi;
Người
trải bóng tối trên mọi nẻo tôi đi.
9
Danh
dự của tôi, Người tước mất,
triều
thiên tôi đội, Người lấy đi.
10
Người
tận diệt tôi để tôi mất dạng;
như
người ta nhổ cây tận gốc,
Người
làm tiêu tan hy vọng của tôi.
11
Chống
lại tôi, Người bừng bừng giận dữ,
Người
coi tôi như thù địch của Người.
12
Quân
sĩ của Người ùn ùn kéo tới,
chúng
mở đường nhằm tấn công tôi,
rồi
đóng trại chung quanh lều tôi ở.
13
Anh
em tôi, Người đẩy họ xa tôi,
Người
quen biết coi tôi như người dưng nước lã.
14
Thân
bằng quyến thuộc đều dứt nghĩa đoạn tình,
khách
trọ nhà cũng lãng quên tôi.
15
Các
tớ gái tôi coi tôi như một người xa lạ,
chúng
nhìn tôi như một kẻ ngoại bang.
16
Gọi
tớ trai, chúng chẳng buồn thưa,
nhưng
tôi lại phải ngỏ lời năn nỉ.
17
Hơi
thở tôi khiến vợ tôi ghê tởm,
mùi
hôi thối xông ra làm cho anh em tôi gớm ghiếc.
18
Thậm
chí tôi bị bọn nhãi ranh chế giễu,
tôi
vừa đứng dậy là chúng đã chọc tôi.
19
Mọi
người thân thiết nhìn tôi mà ghê tởm,
đến
kẻ mến thương tôi cũng trở mặt với tôi.
20
Tôi
đâu còn là chi, tôi cũng chẳng có gì,
ngoài
thân thể chỉ là da bọc xương.
21
Xin
thương tôi, xin thương xót tôi,
hỡi
các anh là những người bè bạn,
vì
chính tay Thiên Chúa đã đánh tôi!
22
Tại
sao các anh bắt chước Thiên Chúa
mà
đi săn đuổi tôi, và vẫn không thoả mãn?
23
Ôi,
những lời tôi nói đây, phải chi có người chép lại,
phải
chi có người ghi vào sách,
24
có
người đục bằng sắt, trám bằng chì,
tạc
vào đá cho đến muôn đời!
25
Tôi
biết rằng Ðấng bênh vực tôi vẫn sống,
và
sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất.
26
Sau
khi da tôi đây bị tiêu huỷ,
thì
với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa.
27
Chính
tôi sẽ được ngắm nhìn Người,
Ðấng
mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ.
Lòng
tôi những tha thiết mong chờ.
28
Thật
vậy, các anh nói: "Làm sao săn đuổi nó,
để
có lý mà cáo tội nó đây? "
29
Bấy
giờ các anh hãy sợ lưỡi gươm kề cổ mình,
vì
cơn giận của các anh đáng tội chết.
Như
thế các anh sẽ biết rằng:
thế
nào cũng có một cuộc xét xử.
Chương 20
Thiên
Chúa công chính không miễn trừ ai
1
Bấy
giờ, ông Xô-pha người Na-a-mát lên tiếng nói:
2
Này
đây những suy nghĩ của tôi thúc đẩy tôi trả lời,
tâm
hồn tôi thật bồn chồn lo lắng.
3
Người
ta vừa cho tôi một bài học, lại vừa nhục mạ tôi,
chính
tâm trí tôi thúc đẩy tôi trả lời.
4
Chẳng
lẽ anh không biết: thời nào cũng vậy thôi
kể
từ khi con người được đặt trên trái đất:
5
niềm
vui của ác nhân thật là ngắn ngủi,
đứa
vô đạo có hân hoan sung sướng, chỉ trong chốc lát thôi?
6
Giả
như nó vươn mình lên tới trời, và đầu có chạm đến tầng mây,
7
thì
tựa bóng ma, nó sẽ tan biến đi mãi mãi,
ai
đã nhìn thấy nó sẽ hỏi: "Nó đâu rồi! "
8
Tựa
giấc mơ, nó bay đi mà không tìm lại được,
nó
biến mất, khác nào một thị kiến ban đêm.
9
Mắt
đã từng thấy nó, nay chẳng còn thấy nữa,
nó
cũng không nhìn thấy nơi nó đã ở xưa.
10
Con
cái nó phải đền cho những kẻ bần cùng,
phải
tự tay trả lại của nó đã chiếm.
11
Xương
cốt nó xưa đầy tràn nhựa sống,
nay
phải nằm yên trên cát bụi.
12
Nếu
trong miệng nó, gian ác đã nên như kẹo ngọt
cho
nó ngậm dưới lưỡi,
13
và
vì tiếc của, nó không dám bỏ đi,
nên
đã giữ lại trong cổ họng,
14
thì
sớm muộn gì trong bụng nó thức ăn sẽ biến chất
và
trở thành nọc độc giết người.
15
Của
cải nó đã ngốn, ắt nó phải mửa ra,
Thiên
Chúa sẽ tống ra khỏi lòng nó.
16
Nó
đã bú nọc độc, thì lưỡi rắn sẽ giết nó chết.
17
Dầu
chảy thành suối, mật và sữa chua đầy thung lũng,
nó
sẽ chẳng còn thấy bao giờ.
18
Kết
quả bao công lao khó nhọc của nó,
nó
phải hoàn trả lại mà không được hưởng dùng;
những
gì nó có nhờ trao đổi,
nó
cũng chẳng được một chút nào.
19
Vì
nó đã hành hạ, đã bỏ rơi những người cùng khốn,
đã
chiếm đoạt nhà cửa thay vì xây dựng,
20
vì
khát vọng của nó chẳng bao giờ thoả mãn,
nên
kho tàng của nó không cứu nó nổi đâu.
21
Chẳng
ai thoát khỏi mà không bị nó cấu xé,
nên
nó không thể thịnh đạt lâu dài.
22
Nó
đang thật sung túc thì gặp phải khốn quẫn,
mọi
khốn khổ bần cùng ập xuống trên nó.
23
Thiên
Chúa sẵn sàng làm cho nó đầy bụng,
khi
giáng xuống nó cơn thịnh nộ của Người,
và
cho tên bắn xuống nó như mưa.
24
Nó
có thoát được vũ khí bằng sắt,
thì
sẽ bị nỏ bằng đồng nhắm bắn.
25
Một
mũi tên cắm phập vào lưng,
mũi
nhọn xuyên qua gan mà vẫn chói sáng,
nhưng
cùng lúc, bao nỗi kinh hoàng đã đến tấn công.
26
Mọi
tai hoạ khủng khiếp nhất
đe
doạ những kho tàng nó thu tích được.
Một
ngọn lửa không ai thắp lên sẽ đốt nó,
thiêu
rụi hết những gì còn sót trong lều nó ở.
27
Trời
phơi bày tội ác nó phạm, đất nổi lên chống nó.
28
Tài
sản trong nhà nó tiêu tan và trôi đi hết cả
ngày
Thiên Chúa nổi trận lôi đình.
29
Ðó
là phần Thiên Chúa dành cho đứa ác nhân,
là
số phận Thiên Chúa định cho nó.
Chương 21
Thực
tế không phải vậy
1
Bấy
giờ ông Gióp lên tiếng nói:
2
Xin
hãy lắng nghe lời tôi nói, và như thế đã là yên ủi tôi.
3
Xin
chịu khó nghe, rồi tôi sẽ nói,
tôi
nói xong, các anh sẽ mặc sức nhạo cười.
4
Có
phải vì con người mà tôi than vãn?
Nếu
thế, tôi không mất bình tĩnh làm sao được?
5
Cứ
nhìn tôi đi, các anh sẽ phải sững sờ,
mau
đưa tay ra mà che miệng.
6
Chính
tôi khi nghĩ đến, tôi đã phải bàng hoàng,
phải
rùng mình sởn ốc.
7
Tại
sao kẻ gian ác vẫn sống nhởn nhơ,
càng
về già lại càng thêm của cải?
8
Trước
mặt chúng, dòng dõi chúng đứng vững như bàn thạch,
chúng
thấy con thấy cháu ngay trước mặt mình.
9
Nhà
cửa chúng yên ổn, không phải sợ hãi chi,
ngọn
roi Thiên Chúa không hề đụng tới.
10
Bò
mộng của chúng truyền giống không hư,
bò
cái của chúng sinh con không sẩy.
11
Con
cái chúng chạy nhảy như chiên cừu,
đám
trẻ thơ tung tăng đùa giỡn.
12
Chúng
hát ca theo nhịp trống, cung đàn,
chúng
vui đùa theo tiếng sáo vi vu.
13
Cuộc
đời chúng đầy tràn hạnh phúc,
chúng
đi về âm phủ thư thái an nhàn.
14
Thế
nhưng chúng đã từng nói với Thiên Chúa:
"Xin
Ngài xa chúng tôi,
chúng
tôi chẳng muốn biết đường lối của Ngài.
15
Ðấng
Toàn Năng là gì để chúng tôi phụng sự,
cầu
khẩn Người, chúng tôi được lợi chi? "
16
Hạnh
phúc chẳng ở trong tay chúng hay sao?
Ước
gì tôi lánh xa ý đồ phường gian ác!
17
Ðã
mấy lần đèn của ác nhân vụt tắt,
và
tai ương ập xuống trên mình?
Ðã
mấy lần Thiên Chúa nổi giận
chia
cho chúng phần chúng đáng phải chịu?
18
Có
bao giờ chúng như cọng rơm bị gió cuốn,
như
vỏ trấu bị cơn lốc cướp đi?
19
Người
ta vẫn bảo: "Thiên Chúa dành cho con cái nó
tai
ương nó phải chịu."
Ước
gì Người cứ phạt nó đi cho nó biết!
20
Ước
chi nó phải nhìn tận mắt cảnh sụp đổ của mình,
và
phải uống cho cạn chén lôi đình của Ðấng Toàn Năng!
21
Quả
thật, đối với nó, gia đình nó có nghĩa gì đâu,
khi
tháng năm đời nó phải kết liễu.
22
Chẳng
lẽ người ta lại dạy cho Thiên Chúa thế nào là hiểu biết?
Chính
Người là Ðấng xét xử chốn cao vời!
23
Có
kẻ phải lìa đời lúc còn sung sức,
khi
đang sống thư thái an nhàn,
24
thân
hình phương phi béo tốt,
tâm
hồn vui sướng thảnh thơi.
25
Có
người phải ra đi giữa lúc tâm hồn cay đắng,
hạnh
phúc chưa bao giờ được hưởng.
26
Kết
cuộc cả hai cùng nghỉ yên trong cát bụi,
mặc
cho giòi bọ rúc rỉa thân mình.
27
Ồ!
Tôi quá biết tâm tưởng của các anh,
các
anh có ẩn ý gì về tôi, tôi cũng rõ.
28
Quả
thật, các anh hỏi: "Cung điện bậc quyền thế ở đâu?
Ðâu
là nơi cư ngụ của phường gian ác? "
29
Chẳng
lẽ các anh không hỏi khách qua đường,
cũng
không hiểu lời họ giải thích?
30
Vào
ngày tai ương, kẻ ác được miễn trừ,
nó
thoát khỏi hiểm nguy trong ngày phẫn nộ.
31
Vậy
thì ai sẽ nói thẳng vào mặt nó về cách nó đã sống xưa nay,
và
hết mọi điều nó đã làm, ai là người sẽ trả cho nó?
32
Người
ta sẽ đưa nó ra nghĩa địa, để nó thức mà canh mồ của nó.
33
Những
hòn đất dưới khe đối với nó thật là êm dịu,
theo
sau nó là cả một đoàn người, đi trước nó, đông vô số kể.
34
Vậy
thì có nghĩa gì những lời ủi an vô tích sự
các
anh dành cho tôi?
Những
câu giải đáp của các anh, chỉ là trò giả dối!
Chương 22
3.
Thiên Thứ Ba
Thiên
Chúa trừng phạt nhân danh công lý
1
Ông
Ê-li-phát người Tê-man lên tiếng nói:
2
Người
phàm có thể hữu ích cho Thiên Chúa không?
Có
chăng người hiểu biết chỉ hữu ích cho chính mình.
3
Ðấng
Toàn Năng được lợi gì khi anh sống công chính,
Người
được ích chi khi anh sống vẹn toàn?
4
Chẳng
lẽ vì anh đạo đức mà Người sửa trị và đưa anh ra toà?
5
Há
chẳng phải vì anh đã làm vô số điều gian ác
và
đã phạm muôn vàn lầm lỗi?
6
Anh
đòi anh em nộp của cầm mà chẳng có lý do,
lại
còn lột cả áo che thân của họ.
7
Kẻ
mệt nhoài, anh chẳng cho nước uống,
người
đói lả, anh từ chối bánh ăn.
8
Anh
trao đất đai cho kẻ có quyền hành,
và
cho người thần thế được định cư.
9
Các
quả phụ, anh đuổi về tay trắng,
các
cô nhi, anh bắt phải bó tay.
10
Vì
thế, cạm bẫy bủa vây anh tứ phía
làm
cho anh bất chợt phải sợ hãi kinh hoàng.
11
Ánh
sáng ra tối tăm, anh đâu còn nhìn thấy,
một
khối nước phủ ngập thân anh.
12
Nào
chẳng phải Thiên Chúa ngự trên chốn cửu trùng,
hãy
nhìn các vì sao xa thăm thẳm: chúng cao vời biết mấy!
13
Anh
từng bảo: "Thiên Chúa biết gì đâu?
Qua
tầng mây đen tối, làm sao Người xét xử?
14
Mây
là tấm màn che khiến Người không nhìn thấy,
Người
đi trên vòm trời."
15
Anh
có theo đường xưa lối cũ,
đường
lối hạng người tội lỗi đã đi?
16
Chúng
bị quét sạch, dù chưa đến thời.
Một
con sông nhận chìm nền của chúng.
17
Chúng
thưa với Thiên Chúa: "Hãy tránh xa chúng tôi,
Ðấng
Toàn Năng làm chi được chúng tôi nào?"
18
Nhưng
nhà chúng, chính Người lại chất đầy của cải.
Ước
gì tôi lánh xa ý đồ của phường gian ác.
19
Nhìn
thấy chúng, người công chính vui mừng,
người
vô tội nhạo báng:
20
"Kẻ
thù chúng ta hẳn đã bị tiêu diệt
và
những gì chúng để lại đều bị lửa thiêu."
21
Hãy
sống thân tình với Thiên Chúa và xây dựng bình an,
anh
sẽ tìm lại được hạnh phúc.
22
Hãy
đón nhận giáo huấn miệng Người phán ra,
và
đặt lời Người dạy trong tâm hồn.
23
Nếu
anh trở lại cùng Ðấng Toàn Năng và hạ mình xuống,
nếu
anh đuổi tội ác ra khỏi lều,
24
nếu
anh quẳng vàng xuống đất,
liệng
vàng Ô-phia giữa đá cuội lòng sông,
25
thì
chính Ðấng Toàn Năng sẽ là vàng,
chính
Người sẽ là bạc cho anh.
26
Bấy
giờ anh sẽ lấy Ðấng Toàn Năng làm nguồn hoan lạc,
và
sẽ ngẩng mặt lên hướng về Thiên Chúa.
27
Khi
anh cầu xin Người, Người sẽ nhậm lời anh,
còn
anh chỉ phải lo giữ trọn lời nguyền.
28
Mọi
điều anh dự định sẽ thành công,
nẻo
đường anh đi, ánh sáng sẽ bừng lên chiếu rọi.
29
Vì
Người triệt hạ kẻ ăn nói kiêu căng
và
cứu vớt ai khiêm nhường cúi mặt.
30
Người
giải thoát kẻ vô tội,
anh
sẽ được giải thoát nhờ bàn tay trong sạch của anh.
Chương 23
Thiên
Chúa ở xa nên sự ác thắng thế
1
Bấy
giờ ông Gióp lên tiếng nói:
2
Mãi
tới hôm nay, lời than trách của tôi vẫn còn cay đắng;
giữa
lúc tôi than khóc, bàn tay Người đè nặng trên tôi.
3
Ai
sẽ cho tôi biết tôi phải tới đâu để tìm Người,
và
làm sao đến được nơi Người ngự?
4
Tôi
sẽ tỏ bày vụ việc trước nhan Người,
miệng
tôi chất chứa lời biện bạch.
5
Tôi
sẽ biết những điều Người trả lời tôi,
và
hiểu được những gì Người nói.
6
Với
tôi, Người có phải đem hết sức ra tranh luận?
Không,
Người chỉ cần lưu tâm để ý.
7
Bấy
giờ sẽ có kẻ lòng ngay tranh luận với Người,
và
muôn đời tôi sẽ thoát khỏi tay Người xét xử.
8
Này
có sang Ðông, tôi sẽ chẳng thấy Người,
đi
sang Ðoài, cũng không gặp được.
9
Tôi
lên Bắc để tìm Người, cũng không thấy,
có
xuống Nam, Người vẫn biệt tăm.
10
Quả
thật, con đường tôi đi, Người đã biết,
Người
có đem tôi thử trong lò, tôi sẽ nên như vàng tinh luyện.
11
Chân
tôi bước theo vết chân Người,
tôi
đã giữ đúng đường của Người, không trệch hướng.
12
Lệnh
môi Người truyền, tôi chẳng lìa xa,
lời
miệng Người phán, lòng tôi luôn ấp ủ.
13
Người
quyết định rồi, ai làm Người đổi ý,
điều
lòng Người muốn, ắt Người sẽ thi hành.
14
Quả
thật, Người thực hiện phán quyết về tôi,
cũng
như bao quyết định khác như vậy.
15
Vì
thế, đứng trước nhan Người, tôi đâm sợ hãi,
chỉ
nghĩ đến Người là đã khiếp kinh.
16
Thiên
Chúa làm cho tôi nhát đảm,
Ðấng
Toàn Năng khiến tôi phải kinh hoàng.
17
Nhưng
dù ngay giữa đêm trường bị tối tăm che mặt,
tôi
vẫn không nín lặng làm thinh.
Chương 24
1
Tại
sao Ðấng Toàn Năng
không
định trước thời gian trừng phạt,
và
những kẻ biết Người lại không thấy ngày Người xét xử?
2
Phường
gian ác đẩy lui lằn ranh,
cướp
bóc người chăn lẫn đàn vật.
3
Lừa
của cô nhi, chúng đem đi mất,
bò
của goá phụ, giữ làm đồ cầm.
4
Chúng
gạt người túng thiếu ra khỏi đường đi,
khiến
kẻ nghèo hèn trong xứ phải cùng nhau lẩn trốn.
5
Những
người này như lừa hoang trong sa mạc,
họ
đi kiếm công ăn việc làm,
tìm
thức ăn trong sa mạc, và tìm bánh cho lũ con thơ.
6
Giữa
đêm khuya, họ gặt lúa ngoài đồng,
và
mót nho trong vườn của tên gian ác.
10
Họ
bước đi mình trần, không áo mặc,
đói
như cào mà vẫn phải vác lúa trên vai.
11
Họ
ép dầu giữa hai thớt đá,
đạp
nho trong bồn mà cổ vẫn khát khô.
7
Họ
ngủ đêm, mình trần không áo mặc,
trời
lạnh giá mà chẳng có chăn mền.
8
Mưa
bão miền núi làm họ ướt đẫm,
họ
phải bám vào đá, vì không chỗ trú thân.
9
Phường
gian ác lôi trẻ mồ côi ra khỏi bầu sữa mẹ,
bắt
người nghèo nộp con làm của cầm.
12
Trong
thành phố, người hấp hối than van,
người
bị trọng thương thều thào kêu cứu,
nhưng
Thiên Chúa chẳng đoái nhận lời họ khẩn cầu.
13
Chúng
về hùa với bọn phản lại ánh sáng,
đường
quang minh chính đại, chúng chẳng nhận ra,
cũng
không bước theo nẻo chính lộ.
14
Trời
chưa rạng, kẻ sát nhân đã thức giấc,
nó
giết hại người túng thiếu và kẻ nghèo hèn;
ban
đêm nó như kẻ trộm đi lảng vảng.
15
Mắt
kẻ ngoại tình chờ chực đêm tối,
nó
tự nhủ: "Chẳng ai nhìn thấy ta!",
và
nó lấy khăn che mặt.
16
Trong
bóng tối, kẻ trộm đục các ngôi nhà
mà
ban ngày nó đã đánh dấu,
không
một ai trong chúng nhận ra ánh sáng mặt trời.
17
Quả
thật, đối với chúng, bình minh là bóng tử thần,
vì
chúng đã quá quen với bóng tử thần khủng khiếp.
18
Trên
mặt nước, nó trôi bềnh bồng,
trong
xứ, đất đai của nó bị nguyền rủa,
không
một ai quay lại phía vườn nho.
19
Hạn
hán và nóng nực hút nước của tảng băng thế nào,
thì
âm phủ cũng hút tội nhân như vậy.
20
Người
mẹ xưa kia cho nó bú, nay đã quên nó rồi,
tên
tuổi nó, người ta cũng không còn nhớ nữa.
Sự
bất công bị bẻ gãy như một cái cây.
21
Nó
xử tệ với người son sẻ không con cái,
và
không tử tế với người goá bụa.
22
Nhưng
Ðấng dùng sức mạnh lật đổ kẻ quyền hành
nay
đứng lên, không cho nó tin tưởng vào cuộc đời nữa.
23
Người
để cho nó sống yên hàn,
nhưng
mắt Người luôn dõi theo đường nẻo nó đi.
24
Nó
được đề cao trong một thời gian ngắn,
rồi
biệt tăm không còn nữa;
nó
tàn tạ như ngọn rau bị ngắt đi, và héo khô như đầu gié lúa.
25
Nếu
không phải như vậy,
ai
có thể nói ngược lại tôi, và cho lời tôi là vô giá trị?
Chương 25
Thánh
thi ca tụng quyền năng Thiên Chúa
1
Bấy
giờ, ông Bin-đát người Su-ác lên tiếng nói:
2
Thiên
Chúa nắm quyền thống trị,
Người
đáng kinh đáng sợ dường nào.
Người
thiết lập hoà bình trên cõi trời cao.
3
Cơ
binh Người, ai đếm được hết,
ánh
sáng Người, nào ai tránh nổi?
4
Trước
nhan Thiên Chúa
phàm
nhân cho mình là công chính thế nào được,
và
đứa con do người phụ nữ sinh ra
làm
sao dám coi mình là thanh sạch?
5
Này,
trước mắt Thiên Chúa, ngay cả ánh trăng cũng lu mờ
và
tinh tú cũng không thanh sạch,
6
thì
phương chi người phàm chẳng qua là giòi bọ
và
con người, cũng chỉ thuộc loại sâu.
Chương 26
Ông
Bin-đát nói vu vơ
1
Ông
Gióp lên tiếng đáp:
2
Quả
là anh bênh vực kẻ không sức lực
và
cứu giúp người không mạnh mẽ.
3
Anh
bày kế cho kẻ thiếu khôn ngoan
và
không tiếc lời dạy khôn cho thiên hạ.
4
Nhưng
anh nói những lời ấy cho ai
và
ai linh hứng cho anh nói?
5
Âm
hồn run rẩy trong lòng đất,
nước
và dân cư dưới nước thảy khiếp kinh.
6
Âm
phủ phơi trần trước mặt Người,
âm
ty không có màn che đậy.
7
Người
trải phương Bắc trên hư không
và
treo cõi đất trên khoảng trống.
8
Người
bao bọc nước trong đám mây,
nhưng
mây không rã tan trong nước,
9
Người
che mặt trăng rằm, trải mây lên bao phủ.
10
Trên
mặt nước Người đã vạch một vòng tròn
ngay
tại lằn ranh giữa ánh sáng và bóng tối.
11
Các
cột trời nghiêng ngả lung lay,
chúng
sững sờ khi Người hăm doạ.
12
Người
dùng sức mạnh chặt biển khơi,
lấy
trí tuệ phanh thây thủy thần Ra-háp.
13
Người
thở hơi làm trong sáng bầu trời,
và
đưa tay xả thây con rắn chui nhủi.
14
Ðó
là những việc chỉ nhìn được từ bên ngoài
mà
chúng ta thấy phản ánh lại cách yếu ớt,
Chương 27
Ông
Gióp nhìn nhận quyền năng Thiên Chúa
1
Ông
Gióp tiếp tục ngâm nga như sau:
2
Nhân
danh Thiên Chúa,
Ðấng
không nhận tôi là người công chính,
và
nhân danh Ðấng Toàn Năng,
Ðấng
làm cho hồn tôi phải cay đắng ngậm ngùi,
3
tôi
xin thề: bao lâu tôi còn chút hơi thở,
bao
lâu sinh khí Thiên Chúa còn ở trong tôi,
4
môi
tôi sẽ không nói điều xảo trá,
và
lưỡi tôi không thốt lời dối gian.
5
Chẳng
đời nào tôi công nhận các anh có lý!
Cho
đến khi trút hơi thở cuối cùng,
không
bao giờ tôi từ bỏ sự vẹn toàn của tôi.
6
Tôi
vững bước theo đường công chính, không rời bỏ,
lòng
tôi không xấu hổ thẹn thùng
về
bất cứ ngày nào trong đời tôi.
7
Ước
chi kẻ thù tôi phải gánh chịu số phận tên gian ác,
và
đối phương tôi phải gánh chịu số phận kẻ bất công.
8
Kẻ
gian ác hy vọng gì khi cầu nguyện,
khi
nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa?
9
Thiên
Chúa có nghe tiếng nó kêu than,
khi
cơn khốn cùng ập xuống trên nó?
10
Nó
có nhận Ðấng Toàn Năng làm nguồn hoan lạc,
có
kêu cầu Thiên Chúa mọi lúc không?
11
Tôi
sẽ dạy cho các anh hiểu quyền năng Thiên Chúa,
sẽ
không giấu ý định của Ðấng Toàn Năng.
12
Tất
cả các anh đã thấy đó,
sao
lại còn nói điều vô nghĩa viển vông?
Ý
kiến của ông Xô-pha
13
Ðây
là phần sở hữu Thiên Chúa dành cho quân gian ác,
và
đây là gia nghiệp Ðấng Toàn Năng để cho lũ bạo tàn.
14
Con
cái nó có nhiều thì cũng chết vì gươm,
cháu
chắt nó không được ăn thoả thích.
15
Những
kẻ sống sót sẽ bị Tử thần vùi dập
mà
không được các bà vợ khóc than.
16
Nó
có gom bạc nhiều như cát bụi,
có
chất áo quần thành đống như đất sét,
17
thì
cứ việc chất đi,
nhưng
người công chính sẽ hưởng dùng,
còn
bạc, người vô tội sẽ chiếm hữu.
18
Nó
xây nhà như nhện giăng tơ,
nó
dựng lều như người canh gác.
19
Lúc
đi ngủ, nó là người giàu, nhưng đó là lần cuối,
vì
khi bừng mắt dậy, chỉ thấy mình tay không.
20
Ban
ngày kinh hoàng sợ hãi bao vây nó,
ban
đêm cơn lốc cuốn nó đi.
21
Ngọn
gió đông thổi nó bay mất dạng,
bứng
nó khỏi nơi ở của mình.
22
Người
ta quấy nhiễu nó, chẳng chút xót thương,
khiến
nó phải chạy trốn trước bàn tay hung bạo.
23
Nhìn
thấy nó, thiên hạ vỗ tay nhạo cười,
và
huýt sáo tại khắp nơi nó ở.
Chương 28
4.
Ca Tụng Khôn Ngoan
Khôn
ngoan con người không thể đạt được
1
Quả
thật, có nơi để lấy bạc, có chỗ để luyện vàng.
2
Sắt
lấy ra từ đất, đá nung chảy thành đồng.
3
Người
ta xua bóng tối, đào bới cho đến cùng,
để
lấy đá từ nơi tối tăm mù mịt.
4
Những
kẻ xa lạ đào đường hầm
tại
những nơi không người qua lại;
chúng
bị treo lơ lửng, đu đưa xa cõi người phàm.
5
Ðất
trước kia sản xuất ra bánh ăn,
thì
nay đáy ngửa nghiêng như bị lửa đốt.
6
Tại
đây đá có nhiều lam ngọc và trong bụi đất có cả vàng.
7
Mãnh
cầm không biết đường tới đó
và
mắt kền kền cũng chẳng nhận ra.
8
Loài
mãnh thú chưa từng đặt chân đến,
và
sư tử con chưa qua đó bao giờ.
9
Người
ta tra tay đào đá lửa, làm đảo lộn núi non tận móng nền,
10
và
xẻ những đường hầm trong núi đá,
mắt
nhìn xem mọi thứ báu vật.
11
Người
ta đắp đập chặn các dòng sông,
và
đưa ra ánh sáng những điều bí ẩn.
12
Nhưng
khôn ngoan từ đâu ra, và trí hiểu ở chốn nào?
13
Người
phàm không lượng giá được khôn ngoan,
vì
khôn ngoan không ở trong đất dành cho kẻ sống.
14
Vực
thẳm nói: "Tôi không chứa khôn ngoan! "
Ðại
dương bảo: "Khôn ngoan không ở nơi tôi bao giờ! "
15
Người
ta không thể lấy vàng ròng thay thế,
cũng
không đem tiền rừng bạc bể mà mua.
16
Vàng
Ô-phia, mã não quý và lam ngọc
người
ta không dùng để định giá khôn ngoan.
17
Vàng
hay thủy tinh không thể sánh tày,
bình
vàng quý cũng không đổi lấy được khôn ngoan.
18
So
với khôn ngoan, san hô đá quý đều vô nghĩa,
được
khôn ngoan còn hơn được ngọc trai.
19
Người
ta không sánh khôn ngoan với hoàng ngọc xứ Cút,
cũng
không đánh giá ngang hàng với vàng ròng.
20
Khôn
ngoan từ đâu đến, trí hiểu phát xuất từ nơi nao?
21
Khôn
ngoan khuất dạng trước mắt người trần,
ẩn
mình đi, chim trời không nhìn thấy.
22
Âm
ty và tử thần lên tiếng bảo:
"Tiếng
tăm của khôn ngoan tai chúng tôi đã được biết."
23
Ðường
nẻo của khôn ngoan một mình Thiên Chúa tỏ,
chính
Người biết nơi ở của khôn ngoan.
24
Quả
thật, Người nhìn thấy tận cùng cõi đất,
Người
xem thấy mọi sự dưới vòm trời.
25
Khi
Người ban sức mạnh cho gió
và
định mức cho nước thủy triều,
26
khi
Người ra luật cho mưa, vạch đường cho sấm chớp,
27
bấy
giờ Người nhìn thấy và định giá khôn ngoan,
Người
thông hiểu và lại còn thấu suốt.
28
Rồi
Người nói với con người:
"Này,
kính sợ Chúa Thượng, đó là khôn ngoan,
tránh
xa điều ác, đó là trí hiểu."
Chương 29
5.
Kết Thúc Cuộc Ðối Thoại
Lời
than van và biện hô của ông Gióp
A.
Những ngày xa xưa
1
Ông
Gióp tiếp tục ngâm nga như sau:
2
Ai
sẽ làm cho tôi được như những tháng năm thuở trước,
như
những ngày Thiên Chúa giữ gìn tôi,
3
khi
trên đầu tôi, đèn Người chiếu sáng,
khi
trong bóng đêm, tôi bước đi theo ánh sáng của Người,
4
như
những ngày mùa thu thịnh vượng,
khi
Thiên Chúa bảo vệ lều tôi ở,
5
khi
Ðấng Toàn Năng còn ở với tôi
và
bên cạnh, các con trai tôi quây quần,
6
khi
tôi rửa chân trong sữa chua,
khi
đá tiết ra dầu cho tôi như suối.
7
Khi
tôi đi ra Cổng ở gần thành và đặt ghế ngồi tại công viên,
8
vừa
thấy tôi, các thanh niên lẩn trốn,
các
vị cao niên nhổm dậy đứng lên,
9
các
thủ lãnh ngừng nói, và lấy tay che miệng;
10
các
vị lãnh đạo đều lặng lẽ làm thinh, lưỡi dính chặt với hàm.
21
Họ
nghe tôi nói và chờ đợi, chăm chú theo dõi ý kiến của tôi.
22
Tôi
nói xong, không một ai cãi lại,
lời
tôi nói như giọt mưa thánh thót.
23
Họ
chờ đợi tôi như chờ đợi mưa rào,
mở
miệng ra như để đón mưa xuân.
24
Họ
chẳng dám tin, dù tôi có mỉm cười với họ,
nét
mặt tôi thay đổi thế nào, họ chẳng bỏ qua.
25
Tôi
vẽ đường chỉ lối và hướng dẫn họ,
sống
với họ như vua ở giữa ba quân,
như
người ủi an những kẻ ưu sầu.
11
Quả
thật, tai nào đã nghe, cũng đều khen tôi có phúc,
mắt
nào đã thấy, thảy đều làm chứng cho tôi.
12
Bởi
vì tôi giải thoát người nghèo khổ kêu cầu,
và
trẻ mồ côi không ai giúp đỡ.
13
Tôi
được người hấp hối chúc lành,
tôi
đem lại niềm vui cho lòng goá phụ.
14
Tôi
đã mặc lấy đức công chính như áo che thân,
lấy
lẽ công minh làm mũ đội đầu và áo khoác.
15
Tôi
nên mắt cho kẻ mù loà, thành chân cho người què quặt.
16
Tôi
là cha của người nghèo túng, tôi xử kiện cho người xa lạ.
17
Tôi
bẻ gãy răng kẻ bất công, và giật mồi khỏi nanh vuốt nó.
18
Bấy
giờ tôi tự nhủ: "Tôi sẽ chết trong tổ ấm của tôi,
và
gia tăng tuổi thọ như chim bằng.
19
Rễ
của tôi lan ra tận nguồn nước,
sương
đêm đọng lại trên cành lá của tôi.
20
Vinh
quang của tôi luôn đổi mới,
cung
nỏ trong tay tôi sẽ tăng thêm sức mạnh."
Chương 30
B.
Cơn khốn cùng hiện tại
1
Giờ
đây, tôi bị những người ít tuổi hơn nhạo cười,
cha
ông họ từng bị tôi khinh dể
và
xếp vào hạng chó canh bầy vật.
2
Cánh
tay mạnh mẽ của họ làm gì được cho tôi,
sinh
lực của họ đã tan biến mất rồi.
3
Kiệt
lực vì túng thiếu và đói lả:
họ
phải gặm đất khô trong miền đất hoang tàn đổ nát.
4
Họ hái
rau lê trong bụi rậm, đào rễ kim tước làm bánh ăn.
5
Họ
bị đuổi ra khỏi cộng đoàn, và bị đối xử như quân trộm cắp.
6
Họ
phải sống ở bên bờ khe, trong các hầm đất và hốc đá.
7
Họ
rống lên trong những bụi rậm,
chen
chúc nhau giữa các đám gai.
8
Con
cái kẻ ngu si đần độn cũng như con cái kẻ vô danh tiểu tốt
bị
đánh bật khỏi quê hương xứ sở.
9
Giờ
đây tôi thành cớ cho họ chê cười, nên đề tài cho họ đàm tiếu.
10
Họ
gớm ghiếc và lánh xa tôi,
nhổ
vào mặt tôi không chút ngần ngại.
11
Bởi
vì Thiên Chúa nới lỏng dây cung của tôi,
Người
làm tôi bị nhục, nên họ cũng chẳng coi tôi ra gì.
12
Bên
phải tôi, một đám người nổi dậy,
họ
làm tôi trượt chân, còn mở đường cho bất hạnh ập tới.
13
Họ
phá huỷ con đường tôi đi để tiêu diệt tôi,
tiến
đánh tôi không cần ai giúp đỡ.
14
Họ
ùa vào như đi qua một lỗ hổng lớn,
băng
mình qua đống đổ nát hoang tàn.
15
Kinh
hoàng lại ập xuống trên tôi,
niềm
hy vọng của tôi tiêu tan như gió thoảng,
ơn
cứu thoát của tôi biến mất tựa mây bay.
16
Và
giờ đây mạng sống tôi tàn lụi,
những
ngày khốn khổ vây bọc lấy tôi.
17
Ban
đêm, xương cốt tôi đau như bị chọc thủng,
các
vết thương nhức nhối khôn nguôi.
18
Người
nắm lấy áo tôi thật chặt, siết vào tôi như cổ áo dài.
19
Người
quăng tôi vào đống bùn nhơ,
khiến
tôi trở nên như tro như bụi.
20
Con
kêu lên Ngài, nhưng Ngài không đáp,
con
trình diện Ngài, nhưng Ngài chẳng lưu tâm.
21
Ngài
đối xử với con tàn nhẫn,
giương
cánh tay mạnh mẽ đánh phạt con.
22
Ngài
nâng con lên, cho cỡi mây đạp gió,
làm
con tan chảy trong giông tố bão bùng.
23
Quả
thật, con biết Ngài bắt con quay về cõi chết,
về
nhà hội ngộ của tất cả nhân sinh.
24
Dù
vậy, nào tôi đã chẳng giơ tay trợ giúp
kẻ
khốn cùng kêu cứu lúc lâm nguy?
25
Nào
tôi đã chẳng khóc người lầm than vất vả,
chẳng
động lòng thương kẻ túng nghèo?
26
Tôi
mong hạnh phúc, nhưng lại gặp bất hạnh,
chờ
ánh sáng, lại gặp tối tăm.
27
Ruột
gan tôi sôi sục không ngừng,
những
ngày khốn quẫn ập xuống trên tôi.
28
Tôi
bước đi trong tăm tối không ánh mặt trời,
giữa
lòng đại hội, tôi đứng lên cầu cứu.
29
Tôi
trở thành anh em với chó rừng, nên bạn hữu với đà điểu.
30
Da
tôi đã sạm đen, xương cốt bị thiêu trong cơn sốt.
31
Ðàn
tôi văng vẳng khúc nhạc sầu, sáo tôi dìu dặt cung ai oán.
Chương 31
Lời
biện hộ của ông Gióp
1
Tôi
đã kết ước với đôi mắt của tôi
là
không nhìn ngắm một thiếu nữ nào.
2
Từ
cõi trời cao, Thiên Chúa gửi gì xuống làm sở hữu,
từ
chốn cửu trùng, Ðấng Toàn Năng ban gì làm gia nghiệp?
3
Há
chẳng phải tai hoạ cho đứa bất công
và
bất hạnh cho kẻ làm điều dữ?
4
Ðường
tôi đi, lẽ nào Người chẳng thấy,
chân
tôi bước, Người không đếm được sao?
5
Giả
như tôi đồng hành cùng gian dối
và
chân tôi dồn bước với điêu ngoa
6
thì
Thiên Chúa cứ cân tôi trên bàn cân chính xác
và
Người sẽ nhận thấy tôi toàn vẹn.
7
Nếu
chân tôi đi trệch đường,
lòng
chiều theo con mắt, và tay dính vết nhơ,
8
thì
cái tôi gieo, người khác sẽ hưởng
và
các mầm non tôi trồng đều bị nhổ đi.
9
Nếu
tôi để lòng mê theo phụ nữ
hay
rình rập ngoài cửa nhà tha nhân,
10
thì
vợ tôi phải kéo cối xay cho người khác
và
thân xác nàng bị người ta chiếm đoạt.
11
Ðó
quả là một tội tày trời, tội ác đáng trừng phạt.
12
Ðó
là ngọn lửa đốt tan âm phủ, thiêu rụi cả mùa màng của tôi.
13
Giả
như tôi chà đạp quyền lợi
của
tôi trai tớ gái đang tranh tụng với tôi,
14
thì
tôi sẽ làm gì khi Thiên Chúa chỗi dậy,
khi
Người tra hỏi, tôi đáp lại thế nào?
15
Ðấng
đã tạo ra tôi trong dạ mẹ
không
phải là Ðấng tạo ra nó hay sao?
Cũng
một Thiên Chúa đã tạo ra chúng tôi hết thảy.
16
Phải
chăng tôi từ chối ước vọng của người nghèo,
làm
cho mắt goá phụ mỏi mòn vì trông ngóng?
17
Phải
chăng tôi ăn bánh một mình,
không
chia phần cho kẻ mồ côi?
18
Từ
thuở thanh xuân, tôi đã nuôi nó như một dưỡng phụ
và
đã hướng dẫn nó ngay từ lúc tôi lọt lòng mẫu thân.
19
Phải
chăng tôi đã thấy một kẻ khốn cùng không áo mặc,
thấy
một người nghèo không mền đắp,
20
mà
họ lại không chúc lành cho tôi,
vì
nhờ lông chiên của tôi mà được ấm?
21
Phải
chăng tôi đã giơ tay đánh trẻ mồ côi,
vì
biết mình được nâng đỡ nơi cổng thành?
22
Nếu
thế thì đầu tôi phải lìa khỏi cổ
và
cánh tay tôi phải đứt khỏi khuỷu tay.
23
Bởi
vì tai hoạ của Thiên Chúa làm tôi kinh hãi,
tôi
không thể đứng vững
trước
oai phong của Người.
24
Phải
chăng tôi lấy vàng làm bảo đảm
và
nói với vàng ròng: "Ngươi là chốn an toàn của ta! "
25
Phải
chăng tôi mừng vui vì có nhiều của cải,
vì
tài sản do tay tôi làm ra?
26
Phải
chăng tôi thấy ánh mặt trời rực rỡ
và
vầng trăng lộng lẫy huy hoàng
27
mà
lặng lẽ để cho lòng bị lôi cuốn
và
đưa tay lên miệng mà hôn?
28
Nếu
thế thì đó cũng là tội ác đáng trừng phạt,
vì
tôi đã dám chối bỏ Thiên Chúa, Ðấng ngự chốn trời cao.
29
Phải
chăng tôi mừng vui khi kẻ thù lâm nạn,
và
hoan hỷ khi nó gặp tai ương?
30
Không,
tôi không để cho lưỡi tôi phạm tội,
không
lấy lời nguyền rủa mà phó mặc hồn nó cho tử thần.
31
Phải
chăng những người trong lều tôi đã chẳng nói:
"Ai
là người không được cho ăn thịt thoả thuê? "
32
Người
xa lạ không phải nghỉ đêm ở ngoài,
tôi
đã mở cửa đón mời lữ khách.
33
Phải
chăng tôi như hạng người che đậy tội ác của mình
và
giấu giếm tội mình trong dạ?
34
Phải
chăng vì sợ dư luận quần chúng
sợ
bị các gia tộc khinh chê,
mà
tôi lặng thinh không dám ra khỏi cửa?
35
Ôi,
phải chi có người nghe tiếng tôi!
Ðây
là lời cuối cùng tôi nói, xin Ðấng Toàn Năng trả lời cho tôi.
Còn
bản cáo trạng kẻ thù tôi đã viết,
36
tôi
sẽ mang trên vai, và đội như vương miện.
37
Tôi
sẽ báo cho Người những bước chân của tôi
và
tiến lại gần Người như một thủ lãnh.
38
Giả
như đất của tôi kêu lên đòi báo oán,
và
những luống đất cùng nhau khóc oà,
39
giả
như tôi đã ăn quịt hoa màu ruộng đất,
lại
làm cho chủ đất trút hơi thở cuối cùng,
40
thì
thay vì lúa mì, gai góc sẽ mọc lên,
thay
vì lúa mạch, cỏ dại sẽ nảy mầm.
Ðến
đây hết lời của ông Gióp.
Chương 32
III.
Lời Lẽ Của Ông Ê-Li-Hu
Ông
Ê-li-hu can thiệp
1
Ba
người này thôi không trả lời ông Gióp, vì họ nghĩ ông là người công chính. 2
Nhưng ông Ê-li-hu, con ông Ba-rác-ên, người Bút, thuộc thị tộc Ram đã nổi
giận với ông Gióp, vì ông này dám cho mình công chính hơn Thiên Chúa. 3 Ông
Ê-li-hu cũng nổi giận với ba người bạn vì họ đã không tìm được câu trả lời nào
đáp lại ông Gióp, mà còn lên án Thiên Chúa nữa.
4
Ðang
khi họ tranh luận với ông Gióp, thì ông Ê-li-hu chờ, vì họ nhiều tuổi hơn ông. 5
Nhưng khi thấy ba người không còn thốt ra câu trả lời nào nữa, thì ông
Ê-li-hu nổi giận. 6 Ông Ê-li-hu, con ông Ba-rác-ên, người Bút, lên
tiếng nói:
Lời
mở đầu
Tôi
là một người trẻ, còn các ông là những người già,
vì
thế, tôi ngại ngùng sợ hãi
không
dám bày tỏ sự hiểu biết của tôi với các ông.
7
Tôi
tự nhủ: "Kẻ già mới có quyền ăn nói,
người
cao tuổi mới dạy lẽ khôn ngoan."
8
Nhưng
thực ra sinh khí trong con người,
tức
hơi thở của Ðấng Toàn Năng, mới làm cho hiểu biết.
9
Không
phải tuổi tác làm cho người ta được khôn ngoan,
và
chưa chắc người già cả đã phân biệt được phải trái.
10
Vì
thế tôi nói: "Xin hãy nghe tôi,
tôi
đây sẽ bày tỏ sự hiểu biết của mình."
11
Này
tôi đã chờ đợi lời lẽ của các ông,
đã
mở tai nghe các ông lý luận;
đang
lúc các ông tìm tòi chữ nghĩa.
12
Tôi
đã chú ý theo dõi các ông,
nhưng
chẳng ai bắt bẻ được ông Gióp,
không
người nào đối đáp nổi lời lẽ của ông.
13
Vậy
các ông đừng nói: "Chúng tôi đã tìm được khôn ngoan,
chính
Thiên Chúa dạy dỗ chúng tôi
chứ
không phải người phàm! "
14
Tôi
sẽ không chuẩn bị lời lẽ,
không
theo kiểu các ông mà trả lời ông Gióp.
15
Họ
sững sờ, không trả lời nữa, họ không có đủ lời.
16
Tôi
chờ đợi vì họ không nói,
họ
ngưng lại và không trả lời nữa.
17
Ðến
lượt tôi, tôi sẽ trả lời,
phần
tôi, tôi sẽ bày tỏ sự hiểu biết của tôi.
18
Quả
thật, tôi đầy ứ lời lẽ, thần khí ở trong tôi thúc giục tôi nói.
19
Phải,
lòng dạ tôi như rượu ứ đầy, làm nứt vỡ các bầu da mới.
20
Tôi
muốn nói cho lòng vơi nhẹ, nên mở miệng cất tiếng trả lời.
21
Tôi
sẽ không về phe ai cả,
cũng
chẳng tâng chẳng bốc một người nào.
22
Tôi
đâu biết tâng bốc; chẳng vậy, Ðấng đã làm ra tôi
sẽ
cất tôi đi trong khoảnh khắc.
Chương 33
Lòng
tự cao của ông Gióp
1
Này
ông Gióp, xin nghe tôi ngỏ lời,
xin
lắng nghe mọi lời lẽ của tôi.
2
Giờ
đây tôi mở miệng, lưỡi tôi thốt nên lời.
3
Lòng
dạ ngay thẳng của tôi trào ra lời uyên bác,
môi
miệng tôi nói lên chân lý tinh tuyền.
4
Sinh
khí của Thiên Chúa đã làm ra tôi,
hơi
thở của Ðấng Toàn Năng đã cho tôi được sống.
5
Nếu
có thể, ông trả lời tôi xem,
cứ
phi bác tôi và giữ vững lập trường.
6
Này,
đối với Thiên Chúa, tôi đây cũng như ông,
tôi
được nắn ra từ đất sét.
7
Sự
kinh hoàng của tôi không làm ông sợ hãi
và
tay tôi không đè nặng trên ông.
8
Ông
đã nói rõ vào tai tôi,
tôi
vẫn còn nghe văng vẳng lời ông nói:
9
"Tôi
trong sạch, không phạm tội bất trung,
tôi
tinh tuyền, chẳng hề vương tội lỗi.
10
Nhưng
Thiên Chúa đã tìm cớ hại tôi,
coi
tôi như thù địch của Người.
11
Người
lấy xiềng cùm chân tôi lại
và
canh chừng mọi nẻo tôi đi."
12
Vậy,
tôi xin trả lời: trong vấn đề này, ông không có lý,
bởi
vì Thiên Chúa cao cả hơn phàm nhân.
13
Tại
sao ông lại tranh tụng với Người?
Vì
Người đâu phải trả lẽ về các việc Người làm.
14
Thiên
Chúa nói một lần, rồi nói thêm lần nữa,
nhưng
người ta chẳng để ý lưu tâm.
15
Ðang
đêm, trong giấc mộng, xảy ra một thị kiến,
khi
một giấc ngủ mê ập xuống trên người phàm,
lúc
họ thiếp đi trên giường ngủ.
16
Bấy
giờ Người mở tai cho phàm nhân,
làm
cho họ sợ hãi vì những lời cảnh cáo,
17
để
kéo họ xa những việc đã làm
giúp
họ tránh được thói kiêu căng,
18
giữ
linh hồn khỏi sa vào vực thẳm,
cứu
sinh mạng khỏi rơi xuống đường hầm.
19
Người
dùng cơn đau trên giường mà giáo dục họ,
làm
cho xương cốt run rẩy không ngừng.
20
Họ
sống mà không còn thiết ăn,
cao
lương mỹ vị cũng chẳng màng.
21
Thân
hình họ trông thật là thiểu não, chỉ còn da bọc xương.
22
Sinh
mạng họ gần kề miệng hố,
tuy
còn sống mà như đã tiêu vong.
23
Nếu
bấy giờ bên họ có một sứ giả,
một
người bảo trợ được chọn trong muôn người,
để
bảo cho con người biết bổn phận của họ.
24
Người
ấy xót thương họ và van xin:
"Xin
Ngài tha cho nó khỏi xuống mồ, tôi đã tìm ra giá chuộc."
25
Da
thịt họ tươi tắn như thời trai trẻ,
họ
mạnh mẽ như lúc còn thanh niên.
26
Họ
khẩn cầu Thiên Chúa và Người thương cảm,
cho
họ mừng vui chiêm ngưỡng nhan Người,
cho
thiên hạ thấy rằng họ công chính.
27
Họ
cất tiếng ca giữa người phàm và nói:
"Tôi
đã phạm tội và lỗi đức công minh,
nhưng
Người lại không xử với tôi như tôi đáng tội.
28
Người
đã tha cho tôi khỏi sa xuống hố
và
cho được sống để nhìn thấy ánh quang."
29
Ðó
là tất cả mọi việc Thiên Chúa làm cho người ta
hai
lần rồi ba lần,
30
để
lôi kéo họ lên khỏi hố,
cho
nhìn thấy ánh sáng cõi nhân sinh.
31
Này
ông Gióp, xin lắng tai nghe,
im
lặng đi để tôi lên tiếng nói.
32
Nếu
ông có lời nào, xin đối đáp lại tôi,
ông
cứ nói vì tôi thích nghe ông biện bạch;
33
nếu
không, xin ông nghe tôi nói,
lẳng
lặng mà nghe tôi dạy lẽ khôn ngoan.
Chương 34
Ba
nhà khôn ngoan không biện hộ nổi cho Thiên Chúa
1
Ông
Ê-li-hu lên tiếng nói:
2
Hỡi
các nhà khôn ngoan, xin nghe lời tôi nói,
hỡi
các bậc thông thái, xin vui lòng lắng tai:
3
vì
như tai thẩm định lời lẽ, và như lưỡi thưởng thức món ăn,
4
thì
chúng ta hãy phân biệt điều nào là phải
và
điều nào là tốt giữa chúng ta.
5
Quả
thật, ông Gióp nói: "Tôi là người công chính,
thế
mà Thiên Chúa lại gạt bỏ sự chính trực của tôi;
6
tôi
ăn ở chính trực mà lại bị coi là dối trá,
tôi
bị bắn trọng thương mặc dù không phạm tội."
7
Ai
là người can đảm như ông Gióp
uống
lời chế nhạo như nước lã,
8
đồng
hành với bọn làm điều bất công
và
cùng đi với phường gian ác?
9
Ông
ấy nói: Người ta chẳng được lợi gì
khi
sống thân tình với Thiên Chúa!
10
Vì
thế, hỡi những người biết phân biệt phải trái,
xin
nghe tôi: không đời nào Thiên Chúa làm sự dữ,
Ðấng
Toàn Năng chẳng làm chuyện bất công bao giờ!
11
Thật
vậy, Người trả cho phàm nhân xứng với việc họ làm,
và
xử với mỗi người tuỳ theo cách họ sống.
12
Quả
thật, Thiên Chúa không làm điều dữ,
Ðấng
Toàn Năng không bẻ quặt lẽ công minh.
13
Ai
trao cõi đất cho Người gìn giữ,
ai
đặt Người trông coi toàn cõi địa cầu?
14
Nếu
Người muốn rút sinh khí lại và quy tụ hơi thở về mình,
15
thì
mọi sinh vật sẽ tắt thở cùng một lúc
và
phàm nhân sẽ trở về cát bụi.
16
Nếu
ông là người hiểu biết, xin hãy nghe điều này,
xin
lắng tai nghe lời tôi nói đây.
17
Người
ghét lẽ công bình, làm sao cai trị nổi?
Ông
có dám lên án Ðấng Công Chính, Ðấng Toàn Năng?
18
Chính
Người gọi vua chúa là "quân vô lại",
kêu
vương hầu là "phường gian ác"!
19
Người
không về phe với hàng thủ lãnh,
không
trọng người giàu, khinh kẻ nghèo,
vì
tất cả đều là công trình do tay Người tạo tác.
20
Nửa
đêm, họ lăn ra chết bất thình lình,
dân
chúng nổi dậy và họ phải tiêu vong,
chẳng
cần ai ra tay mà bạo chúa vẫn bị loại bỏ.
21
Thiên
Chúa để mắt trông
mọi
đường đi nước bước của con người.
22
Bóng
tối có dày đặc đến đâu
cũng
không thể làm nơi ẩn núp cho phường gian ác.
23
Vì
Thiên Chúa không hề ấn định
nơi
phàm nhân phải đến để hầu toà.
24
Người
lật đổ kẻ quyền thế mà không cần điều tra
và
đặt kẻ khác lên thay thế.
25
Chính
vì Người biết việc chúng làm,
chỉ
nội một đêm, chúng bị Người lật đổ và giẫm nát.
26
Như
phường tội lỗi, chúng bị Người bạt tai
giữa
thanh thiên bạch nhật.
27
Chỉ
vì chúng đã chẳng đi theo Người,
không
chủ tâm theo đường Người vạch sẵn,
28
khiến
cho tiếng kêu của những kẻ hèn yếu,
của
những kẻ khốn cùng
đã
vọng lên tới Chúa, và Người đã lắng nghe.
29
Nhưng
nếu Người cứ thản nhiên không đáp lại,
ai
lên án được Người,
nếu
Người ẩn mặt đi, nào có ai nhìn thấy?
Tuy
nhiên, Người vẫn chăm sóc mỗi dân tộc, mỗi cá nhân,
30
không
để cho kẻ gian ác cầm quyền,
chẳng
để cho ai đưa dân vào bẫy.
31
Nhưng
nếu có người thưa với Thiên Chúa:
"Con
xin nhận tội, điều gian ác, con sẽ không dám làm.
32
Xin
chỉ cho con điều con không thấy,
nếu
con đã bất công, con sẽ không tái phạm."
33
Vậy
theo ông nghĩ, liệu Người có trừng phạt hay không?
Tôi
biết ông chẳng thiết tha gì,
nhưng
chính ông phải chọn, chứ không phải tôi;
vì
thế, ông biết được điều gì, xin cứ nói.
34
Những
người biết điều hay lẽ phải
cũng
như các bậc khôn ngoan đang nghe tôi,
tất
cả đều sẽ nói:
35
"Ông
Gióp này ham nói mà chẳng hiểu gì,
lời
lẽ của ông chẳng khôn ngoan gì cả.
36
Mong
sao ông Gióp cứ phải chịu thử thách đến cùng,
vì
ông đã trả lời như phường gian ác:
37
đã
phạm bao tội lỗi, ông lại còn bất trung,
nhìn
chúng ta, ông vỗ tay cười nhạo
và
gia tăng lời chống báng Thiên Chúa."
Chương 35
Thiên
Chúa không dửng dưng trước công việc của con người
1
Ông
Ê-li-hu lại lên tiếng nói:
2
Ông
tưởng mình chính trực hay sao
khi
nói rằng: "Tôi công chính hơn Thiên Chúa"
3
hay
khi nói: "Nếu tôi không phạm tội,
có
hệ chi đến Ngài hay ích gì cho tôi?"
4
Chính
tôi sẽ trả lời cho ông
và
cho các bạn ông cùng một lúc.
5
Hãy
nhìn lên bầu trời mà ngắm xem:
các
tầng mây cao hơn ông biết mấy!
6
Giả
như ông phạm tội, ông làm chi được Người,
ông
gia tăng tội ác, có hại được Người không?
7
Nếu
ông công chính, ông đem lại chi cho Người,
liệu
Người sẽ nhận được gì từ tay ông?
8
Tội
ác của ông chỉ hại cho loài người,
lòng
đạo của ông chỉ lợi cho phàm nhân.
9
Bị
ức hiếp dã man, người ta rên rỉ
và
van xin khi bị kẻ cường quyền đàn áp.
10
Nhưng
chẳng ai buồn hỏi: "Thiên Chúa ở đâu rồi,
Người
là Ðấng đã tạo thành tôi,
đã
làm vọng lên bao ca khúc giữa đêm trường,
11
Người
là Ðấng cho chúng ta hiểu biết hơn dã thú,
khôn
ngoan hơn chim trời? "
12
Bấy
giờ nghe kêu cứu, Người cũng không đáp lại,
vì
kẻ gian ác vẫn còn ngạo mạn kiêu căng.
13
Thật
là công dã tràng:
Thiên
Chúa chẳng hề nghe, Ðấng Toàn Năng không thấy.
14
Người
lại càng không trả lời ông
khi
ông nói: ông không thấy Người,
và
sau khi trình bày với Người vụ kiện của ông,
ông
vẫn luôn chờ đợi;
15
hay
khi ông nói: Người không vì giận mà trừng phạt,
âu
cũng là vì Người chẳng quan tâm
đến
tội phản trắc của loài người.
16
Tôi
nghĩ rằng: ông Gióp mở miệng nói chuyện không đâu,
vì
thiếu hiểu biết mà dài dòng văn tự.
Chương 36
Ý
nghĩa đích thực những đau khổ của ông Gióp
1
Ông
Ê-li-hu lại nói:
2
Kiên
nhẫn thêm chút nữa, tôi sẽ chỉ cho ông,
vì
tôi chưa cạn lời biện hộ cho Thiên Chúa.
3
Tôi
sẽ dùng hiểu biết thời xa xưa truyền lại
để
biện minh cho Ðấng dựng nên tôi.
4
Quả
thật, lời lẽ của tôi không mảy may gian dối;
người
đang ở bên ông là một người hiểu nhiều biết rộng.
5
Này,
Thiên Chúa toàn năng chẳng khinh thường ai cả,
Người
toàn năng, trí tuệ khôn lường.
6
Người
không để cho kẻ gian tà được sống,
Người
xử công minh với ai nghèo hèn,
7
để
mắt trông nom người chính trực.
Người
đặt các vua lên ngai vàng,
cho
họ được cầm quyền mãi mãi.
Nhưng
rồi họ tự cao tự đại,
8
nên
đã bị xiềng xích gông cùm,
bị
trói buộc trong lầm than khốn quẫn.
9
Bấy
giờ, Người tỏ cho họ biết việc họ làm,
và
tội ác họ phạm do lòng kiêu căng.
10
Người
mở tai cho họ nghe lời cảnh cáo,
truyền
cho họ phải từ bỏ tội ác đã làm.
11
Nếu
họ lắng nghe và tuân giữ,
ngày
đời của họ sẽ dư đầy hạnh phúc,
tháng
năm của họ sẽ chan chứa niềm vui.
12
Nếu
không nghe lời, họ sẽ sa xuống hố,
vì
không hiểu biết, họ sẽ phải tiêu vong.
13
Những
kẻ gian ác lòng đầy giận dữ,
có
bị xiềng xích, cũng chẳng kêu cầu Người,
14
đời
họ sẽ lụi tàn giữa tuổi thanh xuân,
mạng
họ tiêu vong vì bọn trai điếm.
15
Nhưng
Thiên Chúa dùng cái nghèo để giải thoát người nghèo,
dùng
khổ đau mà mở mắt họ.
16
Cũng
thế, Người sẽ kéo ông khỏi cảnh khốn cùng,
cho
ông được an nhàn, hết bị tù túng.
Bàn
ăn của ông sẽ đầy cao lương mỹ vị.
17
Ông
sẽ đứng ra xét xử bọn ác nhân,
chúng
sẽ bị trừng trị đích đáng.
18
Hãy
coi chừng, đừng để cho mình bị giàu sang mê hoặc
hay
bị lung lạc vì quà cáp bạc tiền.
19
Kẻ
giàu người nghèo, kẻ mạnh người yếu,
ông
hãy xử như nhau.
20
Cũng
đừng ức hiếp người xa lạ
để
cất nhắc họ hàng thân thích.
21
Hãy
coi chừng, đừng trở lại làm điều bất công,
chính
vì điều đó mà ông phải khốn quẫn.
Thánh
thi ca ngợi đức khôn ngoan toàn năng
22
Hãy
xem: Thiên Chúa cao cả khi bày tỏ quyền năng,
tôn
sư nào sánh được với Người?
23
Ðường
lối của Người, ai bắt bẻ nổi?
Ai
nói được rằng: "Ngài xử sự bất công!"
24
Việc
Người làm, phàm nhân không ngớt lời ca tụng,
thì
ông hãy nhớ mà chúc tụng tán dương.
25
Việc
Người làm, phàm nhân chiêm ngắm,
hết
mọi người đều nhìn thấy từ xa.
26
Hãy
xem: Thiên Chúa cao vời, làm sao ta hiểu thấu,
ai
đếm nổi năm tháng của Người?
27
Các
giọt nước mưa, Người gom góp lại,
rồi
đem nghiền nát thành sương mù.
28
Các
tầng mây đổ mưa xuống, trên phàm nhân hết thảy.
29
Nhưng
nào ai hiểu được đường mây giăng mắc,
hiểu
được tiếng sấm phát ra từ lều trướng của Người?
30
Hãy
xem: Người giãi sáng chung quanh
và
bao trùm nền móng biển cả.
31
Quả
thật, Người dùng nước mà nuôi dưỡng chư dân
cho
họ có lương thực dồi dào.
32
Người
giấu tia chớp trong tay, chỉ cho nó mục tiêu phải đánh.
33
Sấm
sét rền vang loan báo Người hiện diện,
bão
bùng giông tố cho biết Người nổi trận lôi đình.
Chương 37
1
Chính
vì thế mà tim tôi run lẩy bẩy,
như
thể muốn nhảy tung ra ngoài.
2
Hãy
lắng nghe tiếng Người gầm thét
và
tiếng Người mở miệng thì thầm.
3
Khắp
chín tầng trời, Người khiến sấm ầm vang
và
cho chớp loé cả mười phương đất.
4
Phía
sau Người, một tiếng gầm vang dội,
Người
nổi sấm, dõng dạc oai hùng.
Tiếng
Người phán ra, chúng không chần chừ nữa.
5
Thiên
Chúa cho nổi sấm mà loan báo những kỳ công,
Người
thực hiện những việc lớn lao ta không hiểu thấu.
6
Người
ra lệnh cho tuyết: "Sa xuống đất đi!"
Rồi
bảo với mưa rào: "Rơi cho nặng hạt!"
7
Người
trói tay hết mọi người phàm
để
ai nấy nhận ra công trình Người thực hiện.
8
Muông
thú trở về hang, và nghỉ yên tại đó.
9
Từ
phương nam, gió lốc ào ào thổi
và
từ phương bắc gió lạnh tràn về.
10
Thiên
Chúa thở hơi, làm nên băng giá,
khiến
cho mặt nước đông đặc lại.
11
Người
dùng hơi nước tạo thành mây,
và
từ mây, Người làm cho chớp loé.
12
Mây
lang thang, xoay đủ mọi chiều,
theo
đúng chương trình Người hoạch định,
để
trên toàn cõi đất chúng thực thi mọi lệnh Người truyền.
13
Người
sai mây đi, có khi để trừng phạt, có khi nhằm giáng phúc.
14
Này
ông Gióp, xin hãy lắng tai nghe,
bao
kỳ công của Thiên Chúa,
ông
hãy đứng lên và ngắm xem cho kỹ.
15
Liệu
ông có biết Thiên Chúa xếp đặt như thế nào,
Người
khiến mây toả sáng làm sao?
16
Và
liệu ông có biết làm sao mây lơ lửng được giữa trời,
há
đó chẳng phải là kỳ công của bậc thầy uyên bác?
17
Này,
khi xứ sở im lìm dưới ngọn gió nam,
khiến
áo quần của ông nên quá nóng,
18
thì
liệu ông có làm được như Người là cán cho mây dẹp lại
như
tấm gương bằng kim loại cứng được không?
19
Xin
chỉ cho chúng tôi thấy rõ
điều
chúng tôi sẽ thưa lại với Người.
Thà
rằng chúng tôi đừng tranh luận nữa
vì
chúng tôi tối tăm mê muội quá.
20
Lời
tôi nói, liệu có ai thuật lại cho Người?
Có
ai lên tiếng nói, liệu Người có được thông báo chăng?
21
Giờ
đây, không ai nhìn thấy ánh sáng nữa
vì
đã bị mây che khuất,
nhưng
chỉ cần một cơn gió thoảng là mây bị xua tan,
22
và
từ phương bắc, xuất hiện một vừng sáng huy hoàng.
Thiên
Chúa đầy oai phong lẫm liệt.
23
Người
là Ðấng Toàn Năng, ta chẳng sao vươn tới,
Người
cao cả, vì Người hùng mạnh và công minh.
Người
quyền năng, vì Người chính trực,
nhưng
chẳng áp bức ai.
24
Vì
thế, mọi phàm nhân đều kính sợ Người.
Nhưng
Người không để ý
đến
những kẻ tưởng mình khôn ngoan.
Chương 38
IV.
Lời Ðức Chúa Phán Dạy
Lời
Thứ Nhất
Công
trình sáng tạo của Ðức Khôn Ngoan làm ông Gióp ngỡ ngàng
1
Bấy
giờ, giữa cơn bão táp, Ðức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp như sau:
2
Ai
là kẻ dám dùng những lời thiếu khôn ngoan hiểu biết,
để
làm cho kế hoạch của Ta ra tối tăm khó hiểu?
3
Như
dũng sĩ, hãy thắt chặt đai lưng,
Ta
sẽ tra hỏi ngươi và ngươi hãy trả lời.
4
Ngươi
ở đâu khi Ta đặt nền móng cho đất?
Nếu
ngươi thông hiểu thì cứ nói đi!
5
Ai
đã định kích thước cho đất,
ai
đã chăng dây đo, ngươi biết mà!
6
Ðế
của nó, lấy chi làm điểm tựa, đá góc của nó, ai đã đặt cho,
7
khi
các vì sao ban sáng đang hoà tấu nhịp nhàng
và
hết mọi con cái Thiên Chúa cùng rập tiếng tung hô?
8
Cửa
đại dương, ai ra tay khép lại
khi
nước tuôn trào từ đáy vực sâu,
9
khi
Ta giăng mây làm áo nó mặc,
phủ
sương mù làm tã che thân?
10
Ðường
ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn,
lại
đặt vào nơi cửa đóng then cài;
11
rồi
Ta phán: "Ngươi chỉ tới đây thôi,
chứ
không được tiến xa hơn nữa,
đây
là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành!"
12
Trong
cả đời ngươi, đã có lần nào
ngươi
từng ra lệnh cho buổi sáng,
chỉ
định vị trí cho hừng đông,
13
để
hừng đông nắm chắc mười phương đất,
giũ
cho sạch hết bọn gian tà?
14
Bấy
giờ, đất thay màu đổi sắc
tựa
màu đất sét dùng làm ấn niêm phong,
và
muôn loài xuất hiện tựa tấm áo lộng lẫy huy hoàng.
15
Nhưng
ác nhân thấy mình mất đi ánh sáng,
cánh
tay từng tung hoành, nay bị bẻ gãy.
16
Có
bao giờ ngươi đã đến tận nguồn biển cả
và
lang thang ở đáy vực sâu?
17
Có
ai từng mở cho ngươi lối vào âm phủ
và
ngươi thấy được cửa dẫn tới âm ty?
18
Có
khi nào ngươi hiểu mặt đất rộng chừng nào?
Nếu
ngươi biết hết mọi điều đó thì cứ nói đi!
19
Con
đường nào dẫn đến nơi ở của ánh sáng,
đâu
là nơi bóng tối cư ngụ,
20
để
ngươi đưa nó đến miền nó ở,
và
nhận ra đường về nhà nó?
21
Ðiều
này, hẳn ngươi biết rõ,
vì
khi ấy, ngươi đã chào đời,
và
đời ngươi đã qua bao năm tháng!
22
Có
bao giờ ngươi vào kho chứa tuyết,
hay
đã thấy kho mưa đá ở đâu?
23
Những
thứ đó, Ta để dành cho thời khốn quẫn,
cho
những ngày loạn lạc chiến tranh.
24
Ánh
sáng toả ra theo hướng nào,
trên
mặt đất, gió đông thổi về đâu?
25
Ai
đã xẻ mương cho nước lũ, vạch đường cho sấm chớp,
26
khiến
mưa rơi xuống miền đất không người,
xuống
sa mạc không một ai ẩn náu,
27
làm
ướt đẫm nơi khô cháy tiêu điều,
khiến
cỏ xanh mọc lên tươi tốt?
28
Thử
hỏi mưa có cha không,
những
giọt sương mai, ai đã sinh ra chúng?
29
Băng
đá phát sinh từ bụng dạ nào?
Sương
muối trên trời, ai đã sinh ra,
30
khi
nước đông lại như đá tảng
và
mặt vực thẳm trở nên rắn chắc?
31
Liệu
ngươi có cột được chòm Sao Mão,
có
mở được dây Lạp Hộ hay chăng?
32
Liệu
ngươi có làm được cho chòm sao Tất
mọc
đúng thời đúng buổi,
có
dẫn được Hùng Tinh cùng bầy con của nó?
33
Liệu
ngươi có biết được quy luật của trời,
có
ấn định được ảnh hưởng của trời đối với đất?
34
Liệu
tiếng ngươi có vọng thấu tầng mây,
khiến
trên ngươi cả khối nước trời đổ xuống?
35
Liệu
ngươi ra lệnh, chớp có phóng đi,
và
nói với ngươi: "Chúng em có mặt! "
36
Ai
làm cho cò lửa khôn ngoan,
ai
ban trí tuệ cho gà trống?
37
Ai
đủ khôn ngoan để đếm mây trời,
ai
nghiêng cho vò nước trời đổ xuống,
38
khiến
cho bụi đất quyện thành bùn
và
các tảng đất cùng dính lại?
39
Liệu
ngươi có săn được mồi cho sư tử cái,
có
làm dịu được cơn đói của sư tử con,
40
khi
chúng thu mình lại trong hang
hay
nằm mai phục trong rừng vắng?
41
Ai
cung cấp thức ăn cho loài quạ,
khi
đám quạ con kêu lên Thiên Chúa
và
lang thang đây đó vì thiếu của ăn?
Chương 39
1
Ngươi
có biết mùa sơn dương sinh nở,
có
nhìn thấy nai mẹ đẻ con?
2
Ngươi
có biết chúng mang thai mấy tháng,
và
biết được mùa chúng sinh nở?
3
Chúng
ngồi xổm, sinh một bầy con, trút bỏ cơn đau đớn.
4
Bầy
con mạnh mẽ, lớn lên giữa đồng hoang,
rồi
bỏ bầy, không trở về với mẹ.
5
Ai
đã trả tự do cho ngựa vằn,
ai
đã cởi dây cột lừa hoang?
6
Chính
Ta ban cho nó sa mạc khô cằn làm nhà ở,
đồng
chua nước mặn làm chỗ dung thân.
7
Nó
chế nhạo nơi phố phường huyên náo,
chẳng
nghe lời quát tháo của người cai.
8
Nó
rảo khắp núi đồi, nơi nó đang sinh sống
để
tìm kiếm cỏ non.
9
Liệu
trâu rừng có muốn phục vụ ngươi,
có
chịu qua đêm bên máng cỏ ngươi làm?
10
Liệu
ngươi có buộc được dây vào cổ nó mà bắt nó đi cày,
và
liệu nó có chịu đi theo ngươi cày bừa dưới thung lũng?
11
Liệu
ngươi có tin nó vì sức nó mạnh,
để
giao cho nó những công việc nặng nề?
12
Ngươi
có nghĩ rằng nó sẽ trở lại
và
đem lúa về sân phơi của ngươi không?
13
Cánh
đà điểu vỗ nhanh, nhưng không sao sánh nổi
với
cánh loài chim hạc, chim ưng.
14
Khi
nó bỏ trứng lại trên đất,
phó
mặc cho cát bụi nóng ran,
15
mà
quên rằng có thể có bàn chân giẫm nát,
hay
một con thú rừng giày đạp.
16
Nó
xử tệ với con, như chúng không phải là con của mình;
có
vất vả luống công, nó cũng không tiếc nuối.
17
Vì
Thiên Chúa không chịu ban cho nó khôn ngoan,
và
không chia cho nó phần trí tuệ.
18
Nhưng
đến hồi cất cánh tung bay,
nó
coi thường ngựa phi và người cưỡi.
19
Có
phải ngươi làm cho ngựa được mạnh sức
choàng
lên cổ nó một cái bờm
20
làm
cho nó nhảy được như châu chấu?
Tiếng
nó hí vang, gây kinh hoàng táng đởm.
21
Nó
lấy chân bới đất,
tự
hào vì sức mạnh, nhắm phía trước lao mình,
chẳng
màng chi vũ khí.
22
Nó
coi thường sợ hãi, bất chấp cả khiếp kinh,
trước
mũi gươm, nhất định không lùi bước.
23
Trên
đầu nó, tên bay vùn vụt, giáo và lao sáng quắc.
24
Giận
điên lên, nó nuốt chửng không gian,
nghe
tiếng kèn thúc quân, nó không cầm mình nổi.
25
Mỗi
lần kèn thúc, nó kêu: A ha!
Từ
đàng xa, nó đã đánh hơi được mùi chinh chiến,
nghe
được tiếng tướng lãnh quát vang và tiếng hò xung trận.
26
Có
phải nhờ trí tuệ của ngươi mà bồ câu bay được,
sải
cánh hướng về phương nam?
27
Có
phải vì ngươi ra lệnh mà chim bằng bay lên
tìm
nơi cao chót vót mà làm tổ?
28
Nó
chọn hang hốc làm nơi ẩn mình
và
nghỉ đêm trong khe núi đá.
29
Từ
chỏm núi cao, nó rình mồi, đôi mắt nhìn ra xa.
30
Bầy
con của nó uống máu đến say sưa;
xác
chết ở đâu là nó ở đó.
Chương 40
1
Bấy
giờ, Ðức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp:
2
Hỏi
rằng kẻ tranh luận với Ðấng Toàn Năng, có gì để chỉ trích,
và
kẻ kêu trách Thiên Chúa, có gì để trả lời?
3
Ông
Gióp thưa lại Ðức Chúa:
4
Vâng,
con đây tầm thường bé nhỏ, biết nói chi để trả lời Ngài?
Con
sẽ đưa tay lên che miệng.
5
Ðã
nói một lần rồi, con không lặp lại nữa,
có
nói lần thứ hai, cũng chẳng thêm được gì!
Lời
Thứ Hai
Thiên
Chúa chế ngự sức mạnh của sự dữ
6
Bấy
giờ, giữa cơn bão táp, Ðức Chúa lên tiếng trả lời ông Gióp:
7
Hãy
thắt chặt đai lưng như dũng sĩ,
Ta
sẽ tra hỏi ngươi, và ngươi hãy trả lời.
8
Phán
quyết của Ta, phải chăng ngươi cố tình phá bỏ,
lên
án Ta để biện minh cho mình?
9
Tay
ngươi có mạnh như tay Thiên Chúa,
tiếng
ngươi có vang như tiếng sấm của Người?
10
Hãy
lấy quyền uy cao cả làm đồ trang sức,
lấy
oai phong lẫm liệt làm áo che thân.
11
Hãy
trút cơn thịnh nộ lôi đình,
trừng
đôi mắt hạ đứa kiêu căng.
12
Hãy
giương cặp mắt hạ nhục phường kiêu hãnh,
và
đập tan tại chỗ bọn ác nhân.
13
Hãy
đem cả bọn vùi dưới cát,
giam
hết cả lũ trong nhà tù.
14
Bấy
giờ chính Ta sẽ ca tụng ngươi,
vì
tay phải ngươi sẽ giúp ngươi chiến thắng.
Con
thú Bơ-hê-mốt
15
Kìa
xem con thú Bơ-hê-mốt,
Ta
dựng nên nó như đã dựng nên ngươi, nó ăn cỏ như bò.
16
Hãy
nhìn nó đi: lưng mạnh mẽ, bụng rắn chắc,
17
đuôi
vươn dài tựa cây bá hương, gân đùi quấn chằng chịt,
18
xương
cốt tựa ống đồng, tứ chi như thanh sắt.
19
Nó
quả là tác phẩm tuyệt vời
trong
các công trình Thiên Chúa dựng nên;
nhưng
Ðấng Sáng Tạo lại trao gươm cho nó,
20
vì
núi non cung cấp cho nó cỏ ăn
và
mọi dã thú nô đùa ở đó.
21
Nó
nằm dưới đám sen, trong lùm sậy, dưới đầm lầy.
22
Nó
được sen lấy bóng chở che,
và
liễu ven suối rủ ngành bao bọc.
23
Này,
sông có tràn bờ, nó cũng không nao núng,
sông
Gio-đan có dâng lên tới mõm, nó vẫn cứ thản nhiên.
24
Ai
có thể chộp được mắt nó
và
lấy giáo xiên thủng mũi nó được?
Con
Giao Long
25
Liệu
ngươi có thả câu bắt được con Giao Long,
lấy
dây buộc lưỡi nó,
26
dùng
cây sậy xỏ vào lỗ mũi,
lấy
móc câu chọc thủng xương hàm?
27
Liệu
nó có tha thiết van nài ngươi,
dùng
những lời dịu dàng mà nói?
28
Liệu
nó có lập giao ước với ngươi,
ngươi
có mãi mãi nhận nó làm tôi tớ?
29
Liệu
ngươi có đùa với nó như với loài chim,
hay
nhốt nó lại làm trò chơi cho con gái nhỏ?
30
Ðồng
nghiệp của ngươi có thuận tình bán nó
hay
đem xẻ thịt chia phần giữa đám con buôn?
31
Liệu
ngươi có lấy đòng đâm da nó lỗ chỗ,
và
phóng lao chọc nó thủng đầu?
32
Cứ
thử đặt tay lên mình nó,
chỉ
cần nhớ lại cuộc giao tranh thôi,
ngươi
sẽ không còn dám chiến đấu nữa!
Chương 41
1
Này,
hy vọng thắng nó chỉ là ảo mộng,
chỉ
thấy nó thôi là đã rụng rời,
2
chẳng
ai gan đến độ khiêu khích nó,
đối
diện với nó, chẳng ai đứng vững.
3
Ai
đến gần nó mà yên lành được?
Dưới
gầm trời này, không có một ai!
4
Các
phần chi thể của nó, Ta không nói đến làm sao được!
Sức
mạnh vô song của nó, Ta sẽ kể ra.
5
Vạt
áo trước của nó, ai dám vén lên,
áo
giáp kép của nó, ai đã chui vào?
6
Hàm
của nó, ai đã mở ra?
Chung
quanh răng nó, toàn là kinh hãi.
7
Lưng
của nó tựa lớp lớp khiên che,
dính
chặt vào nhau như được đóng ấn.
8
Chúng
xếp khít vào nhau, khiến gió không sao lọt qua nổi.
9
Chúng
dính chặt vào nhau, thành một khối không thể tách rời.
10
Nó
hắt hơi khiến toả ra ánh sáng,
mắt
nó tựa ánh bình minh rạng ngời.
11
Miệng
nó phóng ra những ngọn đuốc,
phun
muôn ngàn tia lửa.
12
Từ
lỗ mũi, khói bốc lên ngùn ngụt,
như
chảo sôi sùng sục trên lò.
13
Hơi
thở của nó đốt than đỏ rực,
lửa
hồng từ miệng nó bốc lên.
14
Sức
mạnh nó tụ lại nơi cổ,
kinh
hoàng đi trước nó mở đường.
15
Thịt
yếm nó dính lại với nhau,
nên
rắn chắc, không sao lay chuyển.
16
Tim
nó cứng như đá, chắc như phần dưới thớt cối xay.
17
Nó
đứng lên, người hùng cũng run sợ, sóng cồn phải rút lui.
18
Có
đâm trúng nó, lưỡi gươm cũng không xuyên thủng được,
mũi
giáo, mũi lao hay mũi tên cũng thế.
19
Nó coi
sắt như rơm, coi đồng như gỗ mục,
20
gặp
cung nỏ cũng không chạy trốn,
coi
đá phóng như thể cọng rơm.
21
Ðối
với nó, côn trượng chẳng khác gì rơm rạ,
tiếng
lao rít chỉ khiến nó mỉm cười.
22
Dưới
bụng nó là những mảnh sành nhọn,
trên
đất bùn, nó duỗi dài như một cái trục lăn.
23
Nó
khiến vực sâu sôi lên như nồi nước,
làm
cho biển cả nên như lò đốt hương.
24
Nó
để lại phía sau một luồng ánh sáng,
biến
vực sâu thành mái đầu bạc.
25
Trên
cõi đất này, nó có một không hai,
bẩm
sinh nó không hề biết sợ.
26
Nó coi
khinh những con vật khổng lồ,
nó
là vua của muôn loài ác thú.
Chương 42
Câu
trả lời cuối cùng của ông Gióp
1
Ông
Gióp thưa với Ðức Chúa:
2
Con
biết rằng việc gì Ngài cũng làm được,
không
có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu.
3
"Ai
là kẻ dám dùng những lời thiếu khôn ngoan hiểu biết
để
làm cho kế hoạch của Ta
không
còn được rõ ràng minh bạch?"
Phải,
con đã nói dù chẳng hiểu biết gì
về
những điều kỳ diệu vượt quá sức con.
4
Vậy,
xin Ngài lắng nghe, và cho con thưa gửi đôi điều,
con
sẽ hỏi và xin Ngài đáp lại.
5
Trước
kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại,
nhưng
giờ đây, chính mắt con chứng kiến.
6
Vì
thế, điều đã nói ra, con xin rút lại,
trên
tro bụi, con sấp mình thống hối ăn năn.
V.
Ðoạn Kết
Ðức
Chúa quở trách ba nhà khôn ngoan
7
Sau
khi nói những lời ấy với ông Gióp, Ðức Chúa phán với ông Ê-li-phát, người
Tê-man: "Ta bừng bừng nổi giận với ngươi và cả hai người bạn của ngươi
nữa, bởi vì các ngươi đã không nói đúng đắn về Ta như Gióp, tôi tớ của Ta. 8
Vậy, bây giờ các ngươi hãy bắt bảy con bò và bảy con cừu, rồi đi gặp
Gióp, tôi tớ của Ta. Các ngươi hãy dâng lễ toàn thiêu để cầu cho các ngươi và
Gióp, tôi tớ của Ta, sẽ chuyển cầu cho các ngươi. Ta sẽ đoái nhìn nó và sẽ
không xử với các ngươi xứng với sự ngu xuẩn của các ngươi, vì các ngươi đã
không nói đúng đắn về Ta như Gióp, tôi tớ của Ta.” 9 Vậy ông
Ê-li-phát người Tê-man, ông Bin-đát người Su-ác và ông Xô-pha người Na-a-mát,
đã đi làm những điều Ðức Chúa phán với họ. Ðức Chúa đã đoái nhìn đến ông Gióp.
Ðức
Chúa khôi phục tài sản cho ông Gióp
10
Vậy
Ðức Chúa đã khôi phục tài sản cho ông Gióp, khi ông chuyển cầu cho các bạn của
mình. Ðức Chúa đã tăng gấp đôi những gì ông Gióp đã có trước kia. 11 Tất
cả anh em, chị em ông, tất cả bạn bè cũ lại tìm đến ông; họ đã cùng ăn bánh
trong nhà của ông. Họ chia buồn và an ủi ông về tất cả tai hoạ Ðức Chúa đã
giáng xuống trên ông. Mỗi người tặng ông một đồng bạc và một chiếc nhẫn vàng. 12
Ðức Chúa giáng phúc cho những năm cuối đời của ông Gióp nhiều hơn trước
kia. Ông có mười bốn ngàn con chiên, sáu ngàn lạc đà, một ngàn đôi bò và một
ngàn lừa cái. 13 Ông sinh được bảy con trai và ba con gái. 14 Ông
đặt tên cho cô thứ nhất là "Bồ Câu", cô thứ hai là "Hoa
Quế" và cô thứ ba là "Phấn Thơm". 15 Trong khắp xứ,
người ta không sao tìm được những thiếu nữ xinh đẹp như con gái ông Gióp. Cha
của các cô đã chia gia tài cho các cô như cho các anh em trai.
16
Sau
đó, ông Gióp còn sống thêm một trăm bốn mươi năm nữa, ông được thấy con cái
cháu chắt đến bốn đời. 17 Ông Gióp đã qua đời và tuổi thọ của ông
rất cao.
Thánh Vịnh
Thánh Vịnh 01-50
Thánh Vịnh 1:
Hai con
đường
(1) Phúc thay người chẳng nghe
theo lời bọn ác nhân,
chẳng bước vào đường quân tội
lỗi,
không nhập bọn với phường ngạo
mạn kiêu căng,
(2) nhưng vui thú với lề luật
Chúa,
nhẩm đi nhẩm lại suốt đêm ngày.
(3) Người ấy tựa cây trông bên
dòng nước,
cứ đúng mùa là hoa quả trổ sinh,
cành lá chẳng khi nào tàn tạ.
Người như thế làm chi cũng sẽ
thành.
(4) Ác nhân đâu được vậy:
chúng khác nào vỏ trấu gió thổi
bay.
(5) Nên ngày xử án, bọn ác nhân
làm sao đứng vững,
quân tội lỗi đâu được hợp đoàn
với chính nhân!
(6) Vì Chúa hằng che chở nẻo
đường người công chính,
còn đường lối ác nhân đưa tới chỗ
diệt vong.
Thánh Vịnh 2:
Ðấng
Mê-si-a là Vua chiến thắng
(1) Sao chư dân lại ồn ào náo
động?
Sao vạn quốc dám bày kế viển
vông?
(2) Vua chúa trần gian cùng nổi
dậy,
vương hầu khanh tướng rập mưu đồ
chống lại Ðức Chúa,
chống lại Ðấng Người đã xức dầu
phong vương.
(3) Chúng bảo nhau: "Xiềng
xích họ, nào ta bẻ gãy,
gông cùm họ, ta hãy quăng
đi!"
(4) Chúa ngự trời cao thấy thế
bật cười,
Người chế nhạo bọn chúng.
(5) Rồi nổi trận lôi đình, Người
quát nạt,
trút cơn thịnh nộ, khiến chúng
kinh hoàng,
(6) rằng: "Chính Ta đã đặt
vị quân vương Ta tuyển chọn,
lên trị vì Xi-on, núi thánh của
Ta."
(7) Tân vương lên tiếng: Tôi xin
đọc sắc phong của Chúa,
Người phán bảo tôi rằng:
"Con là con của Cha,
ngày hôm nay Cha đã sinh ra con.
(8) Con cứ xin, rồi Cha ban tặng
muôn dân nước làm sản nghiệp
riêng,
toàn cõi đất làm phần lãnh địa.
(9) Con sẽ dùng trượng sắt đập
chúng tan tành,
nghiền nát chúng như đồ sành đồ
gốm."
(10) Vậy giờ đây, hỡi các vua
chúa, hãy biết điều,
thủ lãnh trần gian, nào tỉnh ngộ!
(11) Ðem lòng kính sợ mà phụng
thờ Ðức Chúa,
(12) hãy khiếp run phủ phục dưới
chân Người!
Kẻo Chúa nổi lôi đình là các
ngươi mạt lộ,
lửa giận của Người giây lát sẽ
bừng lên!
Còn những ai ẩn náu bên Người,
thật hạnh phúc dường bao!
Thánh Vịnh 3:
Ðức Chúa
là Ðấng bảo vệ người công chính
(1) Thánh vịnh. Của vua Ða-vít,
khi vua chạy trốn con mình là Áp-sa-lôm.
(2) Lạy Chúa, thù địch con đông
vô kể,
người nổi dậy chống con thật quá
nhiều!
(3) Quá nhiều kẻ đang nói về con:
"Chúa Trời đâu cứu hắn!"
(4) Nhưng lạy Chúa, chính Ngài là
khiên che thuẫn đỡ,
là vinh dự của con,
là Ðấng cho con được ngẩng đầu
bất khuất.
(5) Tôi vừa cất tiếng kêu lên
cùng Chúa,
Chúa liền đáp lại từ núi thánh
của Người.
(6) Tôi nằm xuống và tôi thiếp
ngủ,
rồi thức dậy, vì Chúa đỡ nâng
tôi.
(7) Tôi chẳng còn phải sợ
lũ người đông vô số đang vây bọc
quanh tôi.
(8) Lạy Chúa, xin trỗi dậy,
cứu lấy con, lạy Thiên Chúa con
thờ.
Mọi kẻ thù con, Ngài đánh vỡ mặt,
bọn gian ác, Ngài đập gẫy răng.
(9) Chúa chính là nguồn ơn cứu
độ,
xin ban phúc lộc cho dân Ngài.
Thánh Vịnh 4:
Lời tạ
ơn
(1) Phần nhạc trưởng. Có họa đàn.
Thánh vịnh. Của vua Ða-vít.
(2) Lạy Thiên Chúa là đèn trời
soi xét,
khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời.
Lúc ngặt nghèo, Chúa đã mở lối
thoát cho con,
xin thương xót nghe lời con cầu
khẩn.
(3) Phàm nhân hỡi, cho đến bao
giờ
lòng vẫn còn chai đá
ưa thích chuyện hư không, chạy
theo điều giả dối?
(4) Hãy biết rằng: Chúa biệt đãi
người hiếu trung với Chúa;
khi tôi kêu, Chúa đã nghe lời.
(5) Hãy run sợ, và đừng phạm tội
nữa,
trên giường nằm, suy nghĩ và lặng
thinh.
(6) Hãy tiến dâng lễ tế như luật
truyền, và tin tưởng vào Chúa.
(7) Biết bao kẻ nói rằng:
"Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc?"
lạy Chúa, xin tỏa ánh tôn nhan
Ngài trên chúng con.
(8) Chúa ban xuống lòng con nhiều
hoan lạc
hơn khi thiên hạ được mùa lúa
rược đầy dư.
(9) Thư thái bình an vừa nằm con
đã ngủ,
vì chỉ có mình Ngài, lạy Chúa,
ban cho con được sống yên hàn.
Thánh Vịnh 5:
Lời kinh
sang xin ÐỨC CHÚA bảo vệ
(1) Phần nhạc trưởng. Có thổi
quyển. Thánh vịnh. Của vua Ða-vít.
(2) Lạy CHÚA, xin lắng tai nghe
lời con nói,
hiểu thấu điều con thầm thĩ
nguyện xin.
(3) Lạy Ðức Vua là Thiên Chúa con
thờ,
xin Ngài nghe tiếng con đang cầu
cứu.
(4) Vâng, Lạy CHÚA, chính Ngài là
Ðấng con van vỉ,
ngay từ sớm, Ngài đã nghe tiếng
con.
Ngay từ sớm, con tỏ bày ước
nguyện, rồi chăm chú đợi trông.
(5) Ngài không phải là một vị
thần ưa điều ác,
ác nhân đâu được ở với Ngài,
(6) trước nhan Ngài đứa kiêu căng
làm sao đứng vững!
Ngài ghét những kẻ làm điều ác,
(7) Diệt trừ bọn điêu ngoa, kinh
tởm lũ giết người,
Gớm ghê phường giảo quyệt.
(8) Phần con đây, nhờ tình Chúa
bao la,
Ðược bước vào nhà Chúa;
Con hết lòng kính sợ, hướng về
đền thánh mà phủ phục tôn thờ.
(9) Lạy CHÚA, kẻ thù con đang
rình sẵn,
Xin lấy đức công chính của Ngài
mà hướng dẫn con,
Xin san phẳng lối của Ngài để con
tiến bước.
(10) Môi miệng chúng chẳng có gì
thành thật,
Lòng dạ đầy chước độc mưu thâm.
Cửa họng chúng như nấm mồ mở
rộng,
Khéo đẩy đưa ba tấc lưỡi phỉnh
phờ.
(11) Lạy Chúa Trời, xin bắt chúng
đền tội,
Chúng đã mưu mô thì xin cho chúng
té nhào.
Chúng quá nhiều tội lỗi, xin đuổi
chúng đi,
Vì chúng đã phản nghịch cùng
Chúa.
(12) Còn những người trú ẩn bên
Chúa,
Ước chi họ đều được hỷ hoan
Và reo vui mãi tới muôn đời.
Chúa bảo vệ những người mến yêu
Danh Thánh,
Nhờ Ngài, họ phấn khởi mừng vui.
(13) Vâng lạy CHÚA, Ngài ban phúc
lành cho người công chính,
Lấy ân tình bao phủ như thuẫn đỡ
khiên che.
Thánh Vịnh 6:
Người
gặp thử thách van nài ÐỨC CHÚA thương
(1) Phần nhạc trưởng. Có họa đàn.
Theo đàn bát huyền. Thánh vịnh. Của vua Ða-vít.
(2) Lạy CHÚA, xin đừng trách mắng
con khi thịnh nộ,
đừng sửa trị con lúc nổi lôi
đình.
(3) Lạy CHÚA, xin đoái thương,
này con đang kiệt sức,
chữa lành cho, vì gân cốt rã rời.
(4) Toàn thân con rã rời quá đỗi,
mà lạy CHÚA, Chúa còn trì hoãn
đến bao giờ?
(5) Lạy CHÚA, xin trở lại mà giải
thoát con,
cứu độ con, bởi vì Ngài nhân hậu.
(6) Chốn tử vong, ai nào nhớ
Chúa,
nơi âm phủ, ai ngợi khen Ngài?
(7) Rên xiết đã nhiều, nên con
mệt mỏi,
trên giường ngủ, những thổn thức
năm canh,
từng giọt vắn dài, lệ tuôn đẫm
gối,
(8) mắt hoen mờ vì quá khổ đau,
thêm suy nhược bởi quân thù vây
hãm.
(9) Ði cho khuất, hỡi bọn làm
điều ác,
vì CHÚA đã nghe tiếng nức nở ta
rồi,
(10) CHÚA đã nghe tiếng ta cầu
khẩn,
CHÚA đón nhận lời ta nguyện xin.
(11) Ước gì hết mọi kẻ thù tôi
phải nhục nhã, rụng rời kinh
khiếp,
vội tháo lui, nhục nhã ê chề.
Thánh Vịnh 7:
Bị vu
oan, người công chính kêu cầu Thiên Chúa
(1) Lời than vãn. Của vua Ða-vít
hát lên trước ÐỨC CHÚA về vụ tên Cút thuộc chi tộc Ben-gia-min.
(2) Lạy CHÚA là Thiên Chúa của
con, con ẩn náu bên Ngài.
Xin cứu vớt và giải thoát con
khỏi tay mọi người đang đuổi bắt,
(3) kẻo họ vồ lấy con, xé nát như
sư tử,
mà không người giải thoát.
(4) Lạy CHÚA là Thiên Chúa của
con, nếu con đã lỗi lầm,
nếu tay con đã làm điều bất
chính,
(5) nếu con đã hại người thân
nghĩa
hoặc vô cớ bóc lột quân thù,
(6) thì chớ chi thù địch rượt
đuổi và bắt con,
chà đạp mạng sống con dưới đất,
chôn vùi danh dự xuống bùn đen.
(7) Lạy CHÚA, trong cơn thịnh nộ,
xin đứng lên
chế ngự lũ quân thù hung hãn.
Xin Ngài thức dậy bênh vực con,
Ngài là Ðấng cầm cân nảy mực.
(8) Chớ gì các dân họp nhau lại
quanh Ngài,
xin Ngài ngự chốn cao xanh thống
trị chúng.
(9) Lạy CHÚA là Ðấng xét xử muôn
dân nước,
xin CHÚA xử cho con, vì con công
chính và vô tội.
(10) Lạy Thiên Chúa công minh,
Chúa dò thấu lòng dạ con người,
xin làm cho bọn ác nhân hết đường
tác hại
và cho người công chính được vững
vàng.
(11) Khiên mộc che chở tôi là
Thiên Chúa,
Ðấng cứu độ những ai có lòng ngay
thẳng.
(12) Thiên Chúa là thẩm phán công
minh,
ngày ngày Chúa đe dọa
(13)nếu thế nhân không trở lại
cùng Người.
Kẻ ác mài gươm trương nỏ sẵn
sàng,
(14) Nó chuẩn bị vũ khí sát nhân,
lấy mũi tên biến thành tên lửa,
chính là để hại mình.
(15) Kìa nó manh tâm làm điều bất
chính,
cưu mang điều ác hại, ắt phải
sinh ra chuyện gian tà.
(16) Nó đào hầm đào hố, chính nó
lại sa chân.
(17) Hại người chẵng hóa hại
thân,
gậy ông đập xuống lại dần lưng
ông.
(18) Tôi tạ ơn CHÚA, bởi vì Người
công minh chính trực,
tôi đàn ca mừng danh CHÚA Tối
Cao.
Thánh Vịnh 8:
Oai
phong ÐỨC CHÚA và phẩm giá con người
(1) Phần nhạc trưởng. Có họa đàn
thành Gát. Thánh vịnh. Của vua Ða-vít.
(2) Lạy ÐỨC CHÚA là Chúa chúng
con,
lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp
cả địa cầu!
Uy phong Ngài vượt quá trời cao.
(3) Ngài cho miệng con thơ trẻ
nhỏ
cất tiếng ngợi khen đối lại địch
thù,
khiến kẻ thù quân nghịch phải
tiêu tan.
(4) Ngắm tầng trời tay Chúa sáng
tạo,
muôn trăng sao Chúa đã an bài,
(5) thì con người là chi, mà Chúa
cần nhớ đến,
phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận
tâm?
(6) Chúa cho con người chẳng thua
kém thần linh là mấy,
ban vinh quang danh dự làm mũ
triều thiên,
(7) cho làm chủ công trình tay
Chúa sáng tạo,
đặt muôn loài muôn sự dưới chân:
(8) Nào chiên bò đủ loại, nào thú
vật ngoài đồng,
(9) nào chim trời cá biển, mọi
loài ngang dọc khắp trùng dương.
(10) Lạy ÐỨC CHÚA là Chúa chúng
con,
lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp
cả địa cầu!
Thánh Vịnh 9 (9A):
Tạ ơn
ÐỨC CHÚA sau khi chiến thắng
(1) Phần nhạc trưởng. Al-muth
labben. Thánh vịnh. Của vua Ða-vít.
A-lép
(2) Lạy CHÚA, con hết lòng cảm
tạ,
kể ra đây muôn việc lạ Chúa làm.
(3) Mừng Ngài, con hân hoan nhảy
múa,
đàn hát kính danh Ngài, lạy Ðấng
Tối Cao.
Bết
(4) Ngài xuất hiện, địch thù con
tháo lui,
chúng té nhào mà chết.
(5) Chúa là vị thẩm phán chí
công, Ngài ngự tòa xét xử,
bênh vực và bảo vệ quyền lợi con.
Ghi-men
(6) Ngài hăm dọa chư dân, tiêu
diệt lũ gian tà,
tên tuổi chúng, cũng xóa đi vĩnh
viễn.
(7) Kẻ thù bị tiêu diệt, vạn kiếp
điêu linh;
thành quách chúng, Ngài phá cho
bình địa,
chẳng ai còn nhớ đến.
Hê
(8) Về phần Chúa, CHÚA ngự trị
ngàn đời,
Người lập tòa xét xử.
(9) Người xét xử thế giới theo lẽ
công minh,
cai trị muôn dân theo đường chính
trực.
Vau
(10) CHÚA là thành che chở người
bị áp bức,
là thành che chở trong những lúc
ngặt nghèo.
(11) Người nhận biết Thánh Danh,
sẽ một niềm tin cậy,
vì lạy CHÚA, Chúa chẳng bỏ rơi
những ai kiếm tìm Ngài.
Da-in
(12) Ðàn ca lên mừng CHÚA, Ðấng
ngự giữa Xi-on,
tường thuật cho muôn nước những
kỳ công của Người.
(13) Nợ máu Chúa không tha, nhưng
hãy còn nhớ mãi,
tiếng những người nghèo khổ, Chúa
chẳng quên bao giờ.
Khết
(14) Xin dủ lòng thương con, lạy
CHÚA,
đấy Ngài xem: địch thù làm cho
con khổ nhục.
Xin kéo con lên khỏi ngực tử
thần,
(15) để con dâng muôn lời ca tụng
Chúa
tại cửa thành Xi-on, và hoan hỉ
vì được Ngài cứu thoát.
Tết
(16) Kìa chư dân sa vào hố chúng
đào,
chân mắc lưới chính mình giăng
sẵn.
(17) CHÚA cho thiên hạ được biết
Người
khi ban hành phán quyết:
ác nhân phải mắc vào cặm bẫy do
chính chúng bày ra.
Giốt
(18) Phường ác nhân phải đi vào
âm phủ:
đám dân ngoại này đã từng quên
Thiên Chúa.
Cáp
(19) Nhưng người túng thiếu không
mãi bị bỏ quên,
kẻ nghèo khổ chẳng tuyệt vọng bao
giờ.
(20) Lạy CHÚA, xin đứng lên, đừng
để cho phàm nhân thắng thế.
Xin Chúa đòi chư dân ra trước mặt
Ngài mà xét xử.
(21) Lạy CHÚA, xin làm cho chúng
phải kinh hoàng,
chư dân phải nhận biết: mình chỉ
là phàm nhân.
Thánh Vịnh 10 (9B):
Lời kinh
tạ ơn
Lamét
(1) Lạy CHÚA, sao Chúa nỡ đứng
xa,
ngày khốn quẫn, sao Ngài đành ẩn
mặt?
(2) Kẻ ác kiêu căng đuổi bắt
người nghèo khổ:
họ mắc phải mưu nó đã bày ra.
(3) Kẻ ác khoe khoang tham vọng
của mình,
bóc lột người ta, xúc phạm khinh
thường CHÚA.
(4) Kẻ ác dám ngông nghênh bảo
rằng:
"Chúa chẳng phạt, vì có Chúa
đâu!"
Tư tưởng nó chung quy là vậy.
(5) Nó làm gì cũng vẫn thành
công,
đối với nó, phán quyết Ngài thật
quá xa vời.
Mọi thù địch, nó khinh thường tất
cả,
(6) lại còn tự nhủ: "Ta
không hề nao núng,
chẳng đời nào phải hoạn nạn
đâu!"
Pê
(7) Miệng độc dữ điêu ngoa, những
buông lời nguyền rủa,
lưỡi nói toàn chuyện gian ác bất
công.
(8) Nó phục cạnh xóm làng
giết trộm người vô tội, mắt rình
ai yếu thế.
A-in
(9) Chẳng khác nào sư tử phục sẵn
ở trong hang,
nó phục nơi ẩn khuất rình bắt
người nghèo khổ,
lừa vào lưới nó giăng.
(10) Nó rạp xuống, nép mình, vồ
lấy người yếu thế,
nanh vuốt ghì cho chặt.
(11) Nó nhủ thầm: "Thiên
Chúa đã quên,
Người che mặt, chẳng bao giờ thấy
nữa."
Cốp
(12) Lạy CHÚA, xin đứng dậy ra
tay,
xin đừng quên những người nghèo
khổ.
(13) Sao kẻ ác dám khinh thường
Thiên Chúa,
dám nhủ thầm: "Chúa chẳng
phạt đâu!"
Rết
(14) Nhưng Chúa nhìn nỗi khổ cực
đau thương,
Chúa để ý, tự tay lo liệu.
Người yếu thế giao phó đời mình
cho Chúa,
Kẻ mồ côi được chính Chúa phù
trì.
Sin
(15) Xin đập tan thế lực người
gian ác,
xin trị tội nó, để không ai còn
thấy nó nữa.
(16) CHÚA là Vua muôn thuở muôn
đời,
miền đất Chúa sạch bóng chư dân.
Tau
(17) Lạy CHÚA, Ngài nghe thấy ước
vọng của kẻ nghèo hèn;
Ngài cho họ an lòng và lắng tai
nghe họ,
(18) để bênh kẻ mồ côi và người
bị áp bức,
khiến cho kẻ mang thân cát bụi,
chẳng còn khủng bố ai.
Thánh Vịnh 11 (10):
ÐỨC CHÚA
là Ðấng kẻ lành tin tưởng
(1) Phần nhạc trưởng. Của vua
Ðavít.
Tôi ẩn mình bên CHÚA, tại sao các
người lại bảo tôi:
"Trốn về núi đi, này chim
sẻ!
(2) Kìa quân gian ác đã giương nỏ
lắp tên,
núp trong bóng tối nhằm bắn người
ngay thẳng.
(3) Khi nền móng cương thường đổ
nát
người công chính còn làm được
chuyện gì?"
(4) Nhưng ÐỨC CHÚA ngự trong
thánh điện,
ngai ÐỨC CHÚA đặt trên cõi trời;
Chúa đưa mắt nhìn, dò xét phàm
nhân.
(5) CHÚA dò xét người lành kẻ dữ,
ghét những ai ưa thích bạo tàn.
(6) Chúa đổ mưa tai họa xuống đầu
ác nhân;
lửa đỏ, diêm sinh và gió nóng
là phần riêng của chúng trên đời.
(7) Quả thật CHÚA là Ðấng công
chính,
ưa thích điều chính trực; những
kẻ sống ngay lành
được chiêm ngưỡng Thánh Nhan.
Thánh Vịnh 12 (11):
Chống
lại các kẻ chỉ nói những lời gian dối
(1) Phần nhạc trưởng. Họa đàn bát
huyền. Thánh vịnh. Của vua Ðavít.
(2) Xin cứu nguy, lạy CHÚA, vì
chẳng còn thấy ai đạo hạnh,
giữa Loài người, không một kẻ tín
trung.
(3) Người với người chỉ nói lời
gian dối,
môi phỉnh phờ, lòng một dạ hai.
(4) Ước gì CHÚA xẻo môi phỉnh
phờ, và cắt lưỡi ba hoa!
(5) Bọn chúng nói: "Sức mạnh
ta là ba tấc lưỡi,
với môi mép này, ai làm chủ được
ta?"
(6) CHÚA phán rằng: "Trước
cảnh người nghèo bị áp bức,
kẻ khốn cùng rên siết thở than,
giờ đây Ta đứng dậy,
ban ơn giải thoát cho kẻ mong
chờ."
(7) Lời CHÚA phán là lời chân
thật,
như bạc nấu trong lò, đã bảy lần
tinh luyện.
(8) Vâng lạy CHÚA, Ngài bảo vệ
chúng con,
giữ cho khỏi bọn này mãi mãi.
(9) Phường gian ác nhởn nhơ khắp
chốn,
chuyện đê hèn đầy dẫy nhân gian.
Thánh Vịnh 13 (12):
Lời kêu
than của người lành tin cậy vào ÐỨC CHÚA
(1) Phần nhạc trưởng. Thánh vịnh.
Của vua Ðavít.
(2) Lạy CHÚA, Ngài quên con mãi
tới bao giờ?
Tới bao giờ vẫn còn ngoảnh mặt
làm ngơ?
(3) Tới bao giờ hồn con vẫn còn
lo lắng
và lòng con ủ rũ đêm ngày?
Tới bao giờ kẻ thù con thắng mãi?
(4) Lạy CHÚA, là Thiên Chúa của
con,
xin đoái nhìn và thương đáp lại,
tỏa ánh sáng cho đôi mắt rạng
ngời,
để con khỏi ngủ giấc ngàn thu;
(5) để kẻ thù con không thể nói:
"Ta đã thắng nó rồi,"
và đối thủ không được mừng vui vì
thấy con gục ngã.
(6) Phần con đây, con tin cậy vào
tình thương CHÚA,
được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui
mừng.
Con sẽ hát bài ca dâng CHÚA, vì
phúc lộc Ngài ban.
Thánh Vịnh 14 (13):
Người
không tin vào Thiên Chúa (Tv 53)
(1) Phần nhạc trưởng. Của vua
Ðavít.
Kẻ ngu si tự nhủ: "Làm chi
có Chúa Trời!"
Chúng đã ra hư đốn, làm những
điều ghê tởm,
chẳng có một ai làm điều thiện.
(2) Từ trời cao, CHÚA nhìn xuống
loài người.
xem ai là kẻ có lương tri, biết
kiếm tìm Thiên Chúa.
(3) Người người đã lìa xa chính
lộ,
chỉ biết theo nhau làm chuyện suy
đồi,
chẳng có một ai làm điều thiện,
dẫu một người cũng không.
(4) Mọi kẻ làm điều ác, kẻ sống
trên xương máu đồng bào ta,
kẻ không cầu khẩn CHÚA, há chẳng
hiểu biết gì?
(5) Này chúng phải kinh hoàng sợ
hãi,
vì Thiên Chúa bênh dòng dõi chính
nhân.
(6) Các ngươi chế diễu dự tính
của người nghèo,
nhưng CHÚA là nơi họ ẩn náu.
(7) Từ Xi-on, ai sẽ đem ơn cứu độ
cho Ít-ra-en?
Khi CHÚA đổi vận mạng dân Người,
nhà Gia-cóp vui mừng biết mấy,
dân Ít-ra-en hớn hở dường bao!
Thánh Vịnh 15 (14):
Ai được
vào ngụ trong nhà Chúa?
(1) Thánh vịnh. Của vua Ðavít.
Lạy CHÚA, ai được vào ngụ trong
nhà Chúa,
Ðược ở trên núi thánh của Ngài?
(2) Là kẻ sống vẹn toàn, luôn làm
điều ngay thẳng,
bụng nghĩ sao nói vậy,
(3) miệng lưỡi chẳng vu oan,
không làm hại người nào,
chẳng làm ai nhục nhã.
(4) Coi khinh phường gian ác,
trọng ai kính CHÚA TRỜI,
lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng
chẳng rút lời,
(5) cho vay không đặt lãi, chẳng
nhận quà hối lộ
mà hại đến người ngay.
Phàm ai làm những điều này
Không hề nao núng chuyển lay bao
giờ.
Thánh Vịnh 16 (15):
ÐỨC CHÚA
là phần gia nghiệp
(1) Se sẽ. Của vua Ðavít.
Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con,
vì bên Ngài con đang ẩn náu.
(2) Con thưa cùng CHÚA: "Ngài
là Chúa con thờ,
ngoài Chúa ra đâu là hạnh
phúc?"
(3) Còn thần ngoại xứ này, những
thần linh xưa con sùng mộ,
(4) vẫn gia tăng tàn phá, và
thiên hạ tới tấp chạy theo.
Máu tế thần, con quyết chẳng
dâng,
tên của thần, môi con không tụng
niệm!
(5) Lạy CHÚA, Chúa là phần sản
nghiệp con được hưởng,
là chén phúc lộc dành cho con;
số mạng con, chính Ngài nắm giữ.
(6) Phần tuyệt hảo may mắn đã về
con,
vâng, gia nghiệp ấy làm con thỏa
mãn.
(7) Con chúc tụng CHÚA hằng
thương chỉ dạy,
ngay cả đêm trường, lòng dạ nhắn
nhủ con.
được Ngài ở bên, chẳng nao núng
bao giờ.
(9) Vì thế, tâm hồn con mừng rỡ,
và lòng dạ hân hoan,
thân xác con cũng nghỉ ngơi an
toàn.
(10) Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc
con trong cõi âm ty,
không để kẻ hiếu trung này hư nát
trong phần mộ.
(11) Chúa sẽ dạy con biết đường
về cõi sống:
trước Thánh Nhan, ôi vui sướng
tràn trề,
ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề
vơi!
Thánh Vịnh 17 (16):
Cầu xin
ÐỨC CHÚA cứu khỏi ác nhân
(1) Kinh nguyện của vua Ða-vít.
Lạy CHÚA, xin nghe con giãi bày
lẽ phải,
lời con than vãn, xin Ngài để ý;
xin lắng tai nghe tiếng nguyện
cầu
thốt ra từ miệng lưỡi chẳng điêu
ngoa.
(2) Con xin được Thánh Nhan soi
xét
vì mắt Ngài thấy rõ điều chính
trực.
(3) Chúa có xét lòng con, thăm
con giữa đêm trường,
có thử con bằng lửa, cũng chẳng
thấy điều gian.
(4) Con chẳng theo thói đời buông
những lời sai trái.
Con tuân giữ mọi lời Chúa dạy,
tránh xa đường lối kẻ bạo tàn,
(5) dõi vết chân Ngài, con không
vấp ngã.
(6) Con kêu lên Ngài, lạy Thiên
Chúa, vì Ngài đáp lời con.
Xin lắng tai và nghe tiếng con cầu.
(7) Xin biểu lộ tình thương diệu
kỳ của Chúa,
Ngài cứu ai trú ẩn dưới cánh tay
Ngài
khỏi quân thù xông đánh.
(8) Xin giữ gìn con như thể con
ngươi,
dưới bóng Ngài, xin thương che
chở,
(9) cho khỏi tay lũ ác nhân hãm
hại,
thoát bọn tử thù tứ phía bủa vây.
(10) Kẻ thù con lòng chai dạ đá,
mở miệng ra là ngạo mạn khinh
đời.
(11) Rầm rập tới, kìa chúng đã
bao quanh,
mắt trừng trừng, như muốn quật
con xuống đất,
(12) thật giống loài sư tử chực
nuốt sống ăn tươi,
hệt như con mãnh thú rình rập ở
bụi bờ.
(13) Lạy CHÚA, xin đứng dậy,
ra nghênh chiến, quật ngã quân
thù,
vung bảo kiếm, cứu mạng con cho
khỏi ác nhân.
(14) Lạy CHÚA, xin thẳng tay khai
trừ bọn chúng
khỏi thế giới loài người,
khỏi thế giới loài người, khỏi
chốn dương gian.
Số phận chúng ở đời là như vậy.
Án phạt Chúa đã dành,
xin Ngài bắt chúng nuốt cho đầy
bụng,
cả đàn con cũng được ăn thỏa
thích,
phần còn lại cho bầy cháu mai
sau.
(15) Về phần con, sống công minh
chính trực,
con sẽ được trông thấy mặt Ngài,
khi thức giấc, được thỏa tình
chiêm ngưỡng Thánh Nhan.
Thánh Vịnh 18 (17):
Vua tạ
ơn ÐỨC CHÚA cứu độ đã ban chiến thắng (2Sm 22,1-51)
(1) Phần nhạc trưởng. Của tôi tớ
ÐỨC CHÚA là Vua Ða-vít.
Ông nói lên lời bài ca này vào
ngày ÐỨC CHÚA đã cứu ông
khỏi bàn tay các địch thù và khỏi
tay vua Sa-un.
(2) Con yêu mến Ngài, LẠY CHÚA là
sức mạnh của con;
(3) Lạy Chúa lá núi đá, là thành
lũy, là Ðấng giải thoát con;
lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá
cho con trú ẩn,
là khiên mộc, là Ðấng cứu độ
quyền năng, là thành trì bảo vệ.
(4) Tôi kêu cầu CHÚA là Ðấng xứng
muôn lời ngợi khen,
và tôi được cứu thoát khỏi quân
thù.
(5) Sóng tử thần dồn dập chung
quanh,
thác diệt vong làm tôi kinh hãi,
(6) màng lưới âm ty bủa vây tứ
phía,
bẫy tử thần ập xuốn gtrên tôi.
(7) Lúc ngặt nghèo tôi kêu cầu
CHÚA,
kêu lên Người là Thiên Chúa của
tôi.
Từ thánh điện Người đã nghe tiếng
tôi cầu cứu,
lời tôi khấn nguyện vọng đến tai
Người.
(8) Trái đất bỗng ầm ầm rung
chuyển,
chân núi đồi chấn động lung lay,
vì Chúa nổi lôi đình.
(9) Từ thánh nhan Người, khói bốc
lửa thiêu,
và than hồng tung toé.
(10) Chúa nghiêng trời ngự xuống,
chân đạp lớp mây mù,
(11) ngự trên thần hộ giá, trên
cánh gió lượn bay:
(12) Chúa dùng bóng tối làm màn
bao phủ,
lấy mây đen nghịt làm trướng che
Người.
(13) Trước mặt Chúa, kìa chớp loé
mây bay,
mưa đá lẫn than hồng tuôn đổ.
(14) CHÚA nổi sấm vang trời, Ðấng
Tối Cao lên tiếng.
(15) Người bắn tên, khiến địch
thù tán loạn,
phóng chớp ra, làm chúng phải tan
tành.
(16) Lạy CHÚA, lòng đại dương
xuất hiện, thềm lục địa phơi trần,
khi thấy Ngài dọa nạt ngăm đe, và
bừng bừng nổi giận.
(17) Từ chốn cao vời, Chúa đưa
tay nắm lấy,
vớt tôi lên khỏi nước lũ mênh
mông,
(18) cứu tôi thoát đối phương tàn
bạo
và kẻ thù mạnh thế hơn tôi.
(19) Chúng tấn công tôi ngày tôi
lâm nạn,
nhưng CHÚA thương bênh đỡ phù
trì,
(20) Người kéo tôi ra chỗ thảnh
thơi,
vì yêu thương tôi nên Người giải
thoát.
(21) CHÚA xử tốt với tôi, bởi tôi
sống ngay lành.
Người ban thưởng cho tôi, vì tay
tôi trong sạch.
(22) Chính bởi tôi đã theo đường
lối CHÚA,
không lỗi đạo cùng Thiên Chúa tôi
thờ.
(23) Mọi quyết định của Người
luôn ở trước mặt tôi,
thánh chỉ Người truyền, tôi không
hề bỏ.
(24) Trước mặt Chúa, tôi là kẻ
thập toàn, và tránh xa tội lỗi.
(25) CHÚA ban thưởng cho tôi, bởi
tôi sống ngay lành,
và tay tôi trong sạch, như mắt
Người đã thấy.
(26) Lạy Chúa, Ngài giữ tín trung
với kẻ tín trung,
xử tuyệt hảo với người tuyệt hảo,
(27) ở liêm khiết cùng ai liêm
khiết,
nhưng dùng mưu mẹo với kẻ gian
ngoan.
(28) Vì Chúa cứu độ dân nghèo
hèn,
bắt kẻ vênh vang phải cúi mặt.
(29) Vâng, lạy CHÚA là Thiên Chúa
con thờ,
Chúa làm cho ngọn đèn của con
sáng tỏ,
Ngài soi chiếu vào đời con tăm
tối mịt mù.
(30) Cậy vào sức Ngài, con tấn
công bọn giặc,
nhờ ơn Ngài là Thiên Chúa của
con,
con vượt thành vượt luỹ.
(31) Ðường lối Thiên Chúa quả là
toàn thiện,
lời CHÚA hứa được chứng nghiệm tỏ
tường.
Chính Người là khiên che thuẫn đỡ
Cho những ai ẩn náu bên Người.
(32) Ngoài ÐỨC CHÚA, hỏi ai là
Thiên Chúa?
Ai là núi đá độ trì, ngoài Thiên
Chúa của ta?
(33) Chính Thiên Chúa đã làm cho
tôi nên hùng dũng,
và cho đường nẻo tôi đi được
thiện toàn.
(34) Chúa cho đôi chân này lanh
lẹ tựa chân nai,
Người đặt tôi đứng vững trên đỉnh
núi.
(35) Tập cho tôi thạo phép binh
đao,
luyện đôi tay rành nghề cung nỏ.
(36) Lạy Chúa, Ngài ban ơn cứu độ
làm khiên mộc chở che con,
Ngài đưa tay uy quyền nâng đỡ,
săn sóc ân cần giúp con lớn mạnh.
(37) Ðường con đi, Chúa mở rộng
thênh thang,
chân con bước không bao giờ lảo
đảo.
(38) Con đuổi theo, bắt được quân
thù,
chỉ trở về khi chúng bị dẹp tan.
(39) Ðánh cho quỵ, không sao dậy
nổi,
chúng ngã gục, nằm dưới chân con.
(40) Chúa làm cho con nên hùng
dũng
để xông ra chiến trường,
Ngài cho con đè bẹp đối phương.
(41) Ngài bắt cừu địch con quay
lưng chạy trốn;
con tiêu diệt những kẻ oán thù
con.
(42) Chúng kêu cứu mà không ai
cứu chữa,
kêu đến Chúa nhưng CHÚA chẳng đáp
lời.
(43) Con nghiền chúng nát tan như
bụi tro gió cuốn,
và quyét sạch chúng đi như bùn
đất ngoài đường.
(44) Chúa đã cứu con khỏi dân
phản loạn,
lại đặt con làm đầu các nước.
Dân xa lạ phải thần phục con,
(45) vừa nghe con ra lệnh, chúng
đã tuân hành.
Người nước ngoài cầu thân nịnh
bợ,
(46) người nước ngoài tiêu tan
nhuệ khí,
từ trong đồn luỹ, run rẩy kéo
nhau ra.
(47) ÐỨC CHÚA vạn vạn tuế!
Chúc tụng Người là núi đá cho tôi
trú ẩn.
Tôn vinh Thiên Chúa là Ðấng cứu
độ tôi,
(48) là Thượng Ðế giúp tôi rửa
sạch hận thù,
bắt chư dân quy phục quyền tôi.
(49) Lạy Chúa, Ngài giải thoát
con khỏi thù địch
cho thắng cả đối phương, cứu khỏi
người tàn bạo.
(50) Vì thế giữa muôn dân, con
cất lời cảm tạ,
dâng điệu hát cung đàn ca mừng
danh thánh Chúa.
(51) Chúa ban nhiều chiến thắng
lớn lao
cho Ðức Vua chính Người đã lập.
Chúa hằng ưu ái Ðấng Người đã xức
dầu tấn phong,
Làø Ða-vít cùng dòng dõi đến muôn
đời.
Thánh Vịnh 19 (18):
Ca tụng
ÐỨC CHÚA, Ðấng tạo thành vũ trụ và ban hành luật pháp
(1) Phần nhạc trưởng. Thánh vịnh.
Của vua Ða-vít.
(2) Trời xanh tường thuật vinh
quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay
Người làm.
(3) Ngày qua mách bảo cho ngày
tới,
đêm này kể lại với đêm kia.
(4) Chẳng một lời một lẽ, chẳng
nghe thấy âm thanh,
(5) mà tiếng vang đã dội khắp
hoàn cầu
và thông điệp loan đi tới chân
trời góc biển.
Chúa căng lều cho thái dương tại
đó,
(6) thái dương xuất hiện như tân
lang rời khỏi loan phòng,
và vui sướng lên đường như tráng
sĩ.
(7) Từ chân trời này, thái dương
xuất hiện,
rồi chuyển vần mãi đến chân trời
kia,
chẳng có chi tránh khỏi ánh dương
nồng.
(8) Luật pháp CHÚA quả là hoàn
thiện, bổ sức cho tâm hồn.
Thánh ý CHÚA thật là vững chắc,
cho người dại nên khôn.
(9) Huấn lệnh CHÚA hoàn toàn ngay
thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng.
Mệnh lệnh CHÚA xiết bao minh bạch,
cho đôi mắt rạng ngời.
(10) Lòng kính sợ CHÚA luôn trong
trắng, tồn tại đến muôn đời.
Quyết định CHÚA phù hợp chân lý,
hết thảy đều công minh,
(11) thật quý báu hơn vàng, hơn
vàng y muôn lượng,
ngọt ngào hơn mật ong, hơn mật
ong nguyên chất.
(12) Nên tôi tớ Ngài đây xin ra
công học hỏi;
ai giữ những điều này sẽ được
nhiều lợi ích.
(13) Nhưng nào ai thấy rõ các lầm
lỗi của mình?
Xin Ngài tha các tội con phạm mà
chẳng hay.
(14) Xin cũng giữ cho tôi tớ Ngài
khỏi kiêu ngạo,
đừng để tính xấu này thống trị
con.
Như thế con sẽ nên vẹn toàn
Không còn vương trọng tội.
(15) Lạy CHÚA là núi đá cho con
trú ẩn,
là Ðấng cứu chuộc con, cúi xin
Ngài vui nhận
bấy nhiêu lời miệng lưỡi thân
thưa,
và bao tiếng lòng con thầm thĩ
mong được thấu đến Ngài.
Thánh Vịnh 20 (19):
Xin ÐỨC
CHÚA ban cho vua chiến thắng
(1) Phần nhạc trưởng. Thánh vịnh.
Của vua Ða-vít.
(2) Ngày đức vua gặp bước gian
truân,
xin CHÚA đáp lời ngài.
Nguyện danh Chúa Trời nhà Gia-cóp
khấng phù hộ chở che.
(3) Từ thánh điện, cầu Chúa
thương cứu trợ,
từ Xi-on, nguyện Chúa nâng đỡ
ngài.
(4) Mong Chúa hằng nhớ đến mọi lễ
phẩm ngài dâng,
và hoan hỉ chấp nhận lễ toàn
thiêu của ngài.
(5) Xin Chúa ban như lòng ngài
ước nguyện,
và cho mọi điều ngài toan tính
được thành công.
(6) Ước gì chúng tôi được hoan hô
ngài chiến thắng,
được phất cờ mừng danh Thiên Chúa
chúng ta!
Ước gì CHÚA thoả mãn mọi điều
ngài khấn xin!
(7) Giờ đây tôi biết rằng: CHÚA
đã ban chiến thắng
cho đấng Chúa xức dầu tấn phong.
Từ thánh cung cao thẳm, Chúa đã
đáp lời người,
mà ra tay thực hiện những chiến
thắng oai hùng.
(8) Kẻ cậy chiến xa, người nhờ
chiến mã,
phần chúng tôi,
chỉ kêu cầu danh CHÚA là Thiên
Chúa chúng tôi.
(9) Bọn chúng đều quỵ xuống té
nhào,
còn chúng tôi vươn mình đứng
vững.
(10) Lạy CHÚA, xin giúp vua toàn
thắng;
ngày chúng con cầu khẩn, nguyện
xin Chúa đáp lời.
Thánh Vịnh 21 (20):
Tạ ơn
ÐỨC CHÚA ban cho vua nhiều ân huệ
(1) Phần nhạc trưởng. Thánh vịnh.
Của vua Ða-vít.
(2) Lạy CHÚA, Ngài tỏ uy lực
khiến nhà vua sung sướng,
Ngài đã chiến thắng, vua hoan hỉ
dường nào!
(3) Lòng vua ước nguyện sao, Chúa
đã ban như vậy,
miệng vua khấn xin gì, Ngài cũng
không từ chối.
(4) Chúa đã ân cần ban muôn phúc
lộc,
vương miện vàng, Ngài đội cho
vua.
(5) Vua xin được sống, Ngài cho
được sống,
năm tháng dài lâu, tuổi thọ miên
trường.
(6) Vì Ngài chiến thắng, nên nhà
vua rực rỡ vinh quang,
Ngài cho vua được oai phong lẫm
liệt.
(7) Ngài đặt vua làm nguồn hạnh
phúc đến muôn đời
và cho vua được hớn hở vui mừng
trước Nhan Thánh.
(8) Quả thế, vua tin tưởng vào
Chúa Tối Cao,
và nhờ CHÚA yêu thương, vua không
hề lay chuyển.
(9) Tâu đức vua, bàn tay ngài sẽ
nắm gọn địch thù,
tay hùng mạnh chụp đầu quân chống
đối.
(10) Khi xuất hiện, ngài khiến
chúng cháy như lò lửa.
CHÚA sẽ tiêu diệt chúng khi nổi
trận lôi đình,
lửa hồng sẽ đốt chúng tiêu tan.
(11) Ngài làm cho con cháu chúng
biến khỏi mặt đất
và miêu duệ chúng khỏi dương
gian.
(12) Cho dù chúng có chủ tâm hại
ngài
có bày mưu tính kế cũng chẳng làm
được chi.
(13) Ngài khiến chúng phải quay
lưng chạy,
cung nỏ ngài chĩa thẳng vào
chúng.
(14) Lạy CHÚA, xin đứng lên mạnh
mẽ oai hùng,
chúng con sẽ đàn ca chúc tụng
quyền năng Chúa.
Thánh Vịnh 22 (21):
Gặp đau
khổ, người lành cầu cứu, và ÐỨC CHÚA đã nhậm lời
(1) Phần nhạc trưởng. Ðiệu
"Con nai hừng đông".
Thánh vịnh. Của vua Ða-vít.
(2) Lạy Chúa con thờ, muôn lạy
Chúa,
Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?
Dù con thảm thiết kêu gào,
nhưng ơn cứu độ nơi nao xa vời!
(3) Ngày kêu Chúa, không lời đáp
ứng,
đêm van Ngài mà cũng chẳng yên.
(4) Thế nhưng Chúa ngự nơi đền,
vinh quang của Ít-ra-en là Ngài.
(5) Xưa tổ phụ vẫn hoài cậy Chúa,
họ cậy trông, Ngài đã độ trì,
(6) van nài liền được cứu nguy,
đã không thất vọng mỗi khi cậy
Ngài.
(7) Thân sâu bọ chứ người đâu
phải,
con bị đời mắng chửi dể duôi,
(8) thấy con ai cũng chê cười,
lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai:
(9) "Nó cậy CHÚA, mặc Người
cứu nó!
Người có thương, giải gỡ đi
nào!"
(10) Ðưa con ra khỏi thai bào,
vòng tay mẹ ẵm Chúa trao an toàn.
(11) Chào đời con được dâng cho
Chúa,
được Ngài là Chúa tự sơ sinh.
(12) Xa con Ngài đứng sao đành,
nguy hiểm bên mình không kẻ giúp
cho.
(13) Quanh con cả đàn bò bao kín,
thú Ba-san ùa đến bủa vây:
(14) Há mồm đe dọa gớm thay,
khác nào sư tử xé thây vang gầm.
(15) Tưởng mình như tan dần ra
nước,
toàn thân con xương cốt rã rời,
con tim đau đớn bồi hồi,
mềm như sáp chảy tơi bời ruột
gan.
(16) Nghe cổ họng khô ran như
ngói,
lưỡi với hàm dính lại cùng nhau,
chốn tử vong Chúa đặt vào;
(17) quanh con bầy chó đã bao
chặt rồi.
Bọn ác đó trong ngoài vây bủa,
chúng đâm con thủng cả chân tay,
(18) xương con đếm được vắn dài;
chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó
xem.
(19) Áo mặc ngoài chúng đem chia
chác,
còn áo trong cũng bắt thăm luôn.
(20) Chúa là sức mạnh con nương,
cứu mau, lạy CHÚA, xin đừng đứng
xa.
(21) Xin cứu mạng khỏi sa lưới
kiếm,
gỡ thân con thoát miệng chó rừng,
(22) khỏi nanh sư tử hãi hùng,
phận hèn khốn khổ thoát sừng trâu
điên.
(23) Con nguyện sẽ loan truyền
danh Chúa
cho anh em tất cả được hay,
và trong đại hội dân Ngài,
con xin dâng tiến một bài tán
dương.
(24) Hỡi những ai kính sợ ÐỨC
CHÚA,
hãy ca tụng Người đi!
Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp,
nào hãy tôn vinh Người!
Dòng dõi Ít-ra-en tất cả,
nào một dạ khiếp oai!
(25) Bởi vì Chúa đã chẳng coi
thường,
chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn
khốn khổ,
cũng không đành ngoảnh mặt làm
ngơ,
nhưng đã thương nghe lời cầu cứu.
(26) Chịu ơn Người, tôi dâng lời
ca tụng,
ngày đại hội toàn dân.
Ðiều khấn nguyền, tôi xin giữ
trọn
trước mặt những ai kính sợ Người.
(27) Kẻ nghèo hèn được ăn uống
thoả thuê,
người tìm CHÚA sẽ dâng lời ca
tụng.
Cầu chúc họ vui sống ngàn đời.
(28) Toàn thế giới, muôn người
nhớ lại
và trở về cùng CHÚA.
Mọi dân tộc dưới trần
phủ phục trước Tôn Nhan.
(29) Bởi vì CHÚA nắm quyền vương
đế,
Người thống trị chư dân.
(30) Mọi kẻ ngủ yên trong lòng
đất
sẽ đều bái lạy một mình Người,
phàm những ai trở về cát bụi
sẽ cùng phủ phục trước Thánh
Nhan.
Phần tôi, nguyện sẽ sống cho
Chúa,
(31) con cháu tôi sẽ phụng sự
Người.
Thiên hạ sẽ nói về Ðức Chúa
cho thế hệ tương lai,
(32) truyền tụng cho hậu sinh đức
công chính của Người,
rằng: "Ðức Chúa đã làm như
vậy!"
Thánh Vịnh 23 (22):
Mục tử
nhân hậu
(1) Thánh vịnh. Của vua Ða-vít.
CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi
chẳng thiếu thốn gì.
(2) Trong đồng cỏ xanh tươi,
Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong
lành
(3) và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo
chính
vì danh dự của Người.
(4) Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở
cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững
dạ an tâm.
(5) Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc
ngay trước mặt quân thù.
Ðầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
(6) Lòng nhân hậu và tình thương
CHÚA
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài
triền miên.
Thánh Vịnh 24 (23):
ÐỨC CHÚA
ngự vào đền thánh
(1) Thánh vịnh. Của vua Ða-vít.
CHÚA làm chủ trái đất cùng muôn
vật muôn loài,
làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân
cư.
(2) Nền trái đất, Người dựng trên
biển cả,
đặt vững vàng trên làn nước mênh
mông.
(3) Ai được lên núi CHÚA?
Ai được ở trong đền thánh của
Người?
(4) Ðó là kẻ tay sạch lòng thanh,
chẳng mê theo ngẫu tượng, không
thề gian thề dối.
(5) Người ấy sẽ được CHÚA ban
phúc lành,
được Thiên Chúa cứu độ thưởng
công xứng đáng.
(6) Ðây chính là dòng dõi những
kẻ kiếm tìm Người,
tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà
Gia-cóp.
(7) Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên,
cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính,
để Ðức Vua vinh hiển ngự vào.
(8) Ðức Vua vinh hiển đó là ai?
là ÐỨC CHÚA mạnh mẽ oai hùng
ÐỨC CHÚA oai hùng khi xuất trận.
(9) Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên,
cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính,
để Ðức Vua vinh hiển ngự vào.
(10) Ðức Vua vinh hiển đó là ai?
Là Chúa Tể càn khôn : chính Người
là Ðức Vua vinh hiển.
Thánh Vịnh 25 (24):
Xin ơn
tha thứ và cứu thoát
(1) Của vua Ða-vít.
A-lép
Lạy CHÚA, con nâng tâm hồn lên
cùng CHÚA.
Bết
(2) Lạy Thiên Chúa của con, con
tin tưởng nơi Ngài,
xin đừng để con tủi nhục,
đừng để quân thù đắc chí nhạo cười
con.
Ghi-men
(3) Chẳng ai trông cậy Chúa,
mà lại phải nhục nhằn tủi hổ,
chỉ người nào tự dưng phản phúc
mới nhục nhằn tủi hổ mà thôi.
Ða-lét
(4) Lạy CHÚA, đường nẻo Ngài, xin
dạy cho con biết,
lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con.
Hê
(5) Xin dẫn con đi theo đường
chân lý của Ngài
và bảo ban dạy dỗ,
vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu
độ con.
Sớm hôm con những cậy trông Ngài,
bởi vì Ngài nhân ái.
Da-in
(6) Lạy CHÚA, xin nhớ lại nghĩa
nặng với ân sâu
Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở
muôn đời.
Khết
(7) Tuổi xuân trót dại bao lầm
lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến,
nhưng xin lấy tình thương mà nhớ
đến con cùng.
Tết
(8) CHÚA là Ðấng nhân từ chính
trực, chỉ lối cho tội nhân,
Giốt
(9) dẫn kẻ nghèo hèn đi theo
đường công chính,
dạy cho biết đường lối của Người.
Cáp
(10) Tất cả đường lối CHÚA đều là
yêu thương và thành tín
đối với những kẻ nào giữ giao ước
và lề luật Chúa.
La-mét
(11) Lạy CHÚA, tội con thật nặng
nề,
vì danh Ngài, xin lượng thứ cho
con.
Mêm
(12) Phàm ai kính sợ CHÚA,
Người chỉ cho thấy đường phải
chọn.
Nun
(13) Họ sẽ được an vui hạnh phúc
một đời,
và con cháu thừa hưởng đất tổ
tiên.
Xa-méc
(14) CHÚA xử thân tình với những
ai kính sợ Chúa
và cho họ biết giao ước của
Người.
A-in
(15) Mắt tôi nhìn CHÚA không biết
mỏi
vì chính Người đã gỡ chân tôi
khỏi dò lưới.
Pê
(16) Lạy Chúa, xin đoái nhìn và
xót thương con,
vì thân này bơ vơ khổ cực.
Xa-đê
(17) Lòng đau như thắt, xin làm
cho thanh thoả,
và giải thoát con khỏi bước ngặt
nghèo.
(18) Xin Chúa thấy cho cảnh lầm
than khổ cực
và tha thứ hết mọi tội con.
Rết
(19) Xin Chúa thấy cho: thù địch
con đông vô kể,
chúng ghét thân này, ghét cay
ghét đắng.
Sin
(20) Xin bảo toàn sinh mạng và
giải thoát con,
đừng để con tủi nhục, bởi vì con
ẩn náu bên Ngài.
Tau
(21) Ước gì lòng trong sạch và
ngay thẳng
che chở giữ gìn con, vì con trông
cậy Chúa.
(22) Lạy Thiên Chúa, xin Ngài cứu
Ít-ra-en
thoát mọi nỗi truân chuyên ngặt
nghèo.
Thánh Vịnh 26 (25):
Người vô
tội tin tưởng cầu nguyện
(1) Của vua Ða-vít.
Lạy CHÚA, xin Ngài xử cho con, vì
con sống vẹn toàn.
Con tin tưởng vào CHÚA, không do
dự.
(2) Lạy CHÚA, xin dò xét và thử
thách con,
tâm can này xin đem thử lửa.
(3) Vâng, con hằng nghĩ tới tình
thương của Chúa
và sống theo chân lý của Ngài.
(4) Con không ngồi chung với quân
xảo trá,
chẳng giao du cùng bọn giả hình,
(5) hằng gớm ghét bè lũ vô lương,
không ngồi chung với phường gian
ác.
(6) Lạy CHÚA, con rửa tay nói lên
lòng vô tội
và đi vòng quanh bàn thờ Chúa,
(7) để hát bài cảm tạ tri ân
và tường thuật mọi kỳ công của
Ngài.
(8) Lạy CHÚA, con mến yêu ngôi
nhà Chúa ngự,
mến yêu nơi rạng ngời vinh quang
Chúa.
(9) Xin đừng bắt con đồng số kiếp
với tội nhân,
chung vận mạng với phường khát
máu.
(10) Tay chúng gây tội ác tầy
trời,
riêng tay mặt đầy quà hối lộ.
(11) Phần con đây, con sống vẹn
toàn,
xin giải thoát và xót thương con,
lạy Chúa,
(12) trên mặt đất bằng, chân con
đứng vững,
giữa lòng đại hội, con xin chúc
tụng Ngài.
Thánh Vịnh 27 (26):
Tin
tưởng và cậy trông vào ÐỨC CHÚA khi gặp gian nguy
(1) Của vua Ða-vít.
CHÚA là nguồn ánh sáng và ơn cứu
độ của tôi,
tôi còn sợ người nào?
CHÚA là thành luỹ bảo vệ đời tôi,
tôi khiếp gì ai nữa?
(2) Khi ác nhân xông vào, định
nuốt sống thân tôi,
ai ngờ chính đối phương, chính
những thù địch ấy,
lại lảo đảo té nhào.
(3) Dù cả một đạo quân vây đánh,
lòng tôi chẳng sợ gì.
Dù có phải lâm vào chiến trận,
tôi vẫn cứ cậy tin.
(4) Một điều tôi kiếm tôi xin,
là luôn được ở trong đền CHÚA tôi
mọi ngày trong suốt cuộc đời,
để chiêm ngưỡng CHÚA tuyệt vời
cao sang,
ngắm xem thánh điện huy hoàng.
(5) Ngày tôi gặp tai ương hoạn
nạn,
Người che chở tôi trong lều
thánh,
đem giấu tôi thật kín trong nhà,
đặt an toàn trên tảng đá cao.
(6) Nên giờ đây tôi ngẩng đầu đắc
ý,
nhìn quân thù vây bủa chung
quanh.
Tôi sẽ dâng lễ tế trong thánh
điện,
lễ tạ ơn, nhã nhạc vang lừng,
tôi sẽ đàn ca mừng kính CHÚA.
(7) Lạy CHÚA, cúi xin Ngài nghe
tiếng con kêu,
xin thương tình đáp lại.
(8) Nghĩ về Ngài, lòng con tự
nhủ: hãy tìm kiếm Thánh Nhan.
Lạy CHÚA, con tìm thánh nhan
Ngài,
(9) xin Ngài đừng ẩn mặt.
Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà
ruồng rẫy,
chính Ngài là Ðấng phù trợ con.
Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua
đuổi,
lạy Thiên Chúa, Ðấng cứu độ con.
(10) Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa,
thì hãy còn có CHÚA đón nhận con.
(11) Xin dạy con đường nẻo Ngài,
lạy CHÚA,
dẫn con đi trên lối phẳng phiu,
vì có những người đang rình rập.
(12) Xin đừng phó mặc con cho kẻ
thù hung hãn,
vì lũ chứng gian đứng dậy tố con,
giương bộ mặt hằm hằm sát khí.
(13) Tôi vững vàng tin tưởng
sẽ được thấy ân lộc CHÚA ban
trong cõi đất dành cho kẻ sống.
(14) Hãy cậy trông vào CHÚA, mạnh
bạo lên, can đảm lên nào!
Hãy cậy trông vào CHÚA.
Thánh Vịnh 28 (27):
Lời cầu
khẩn và tạ ơn
(1) Của vua Ða-vít.
Lạy CHÚA là núi đá cho con trú
ẩn,
con kêu lên Ngài, xin đừng nỡ giả
điếc làm ngơ.
Vì nếu Ngài cứ im hơi lặng tiếng,
thì con sẽ giống như kẻ đã xuống
mồ.
(2) Khi con hướng về nơi cực
thánh
giơ đôi tay cầu cứu van nài,
xin Ngài nghe tiếng con khẩn
nguyện.
(3) Xin Chúa đừng bắt con phải
chết
cùng quân tội lỗi, với bọn ác
nhân.
Miệng thì những nói bình an,
mà lòng thâm độc chỉ toan hại
người.
(4) Xin đối xử với chúng xứng với
việc chúng làm,
xứng với những hành vi xấu xa của
chúng.
Xin đối xử với chúng xứng với
những gì tay chúng làm ra,
trả cho chúng như chúng đáng tội.
(5) Vì chúng chẳng quan tâm đến
việc chúng làm,
và những công trình tay CHÚA thực
hiện.
Ước chi Người quật ngã chúng và
không đỡ chúng lên.
(6) Chúc tụng CHÚA vì Người nghe
tiếng tôi khẩn nguyện,
(7) CHÚA là sức mạnh, là khiên
mộc chở che tôi,
lòng tôi đặt tin tưởng nơi Người.
Tôi đã được Người thương trợ
giúp,
nên lòng tôi vui mừng hoan hỉ,
cất cao tiếng hát tạ ơn Người.
(8) CHÚA là sức mạnh cho dân
Chúa, là thành trì cứu độ
cho đấng Người đã xức dầu tấn
phong.
(9) Lạy Chúa, xin cứu độ dân
Ngài,
trên gia nghiệp này, giáng muôn
phúc cả,
dẫn dắt nâng niu đến muôn đời.
Thánh Vịnh 29 (28):
Tiếng
Chúa trong cơn phong ba bão táp
(1) Thánh vịnh. Của vua Ða-vít.
Hãy dâng CHÚA, hỡi chư thần chư
thánh,
dâng CHÚA quyền lực và vinh
quang.
(2) Hãy dâng CHÚA vinh quang xứng
danh Người,
và thờ lạy CHÚA uy nghiêm thánh
thiện.
(3) Tiếng CHÚA rền vang trên sóng
nước,
Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ
ầm ầm,
CHÚA ngự trên nước lũ mênh mông.
(4) Tiếng CHÚA thật hùng mạnh!
Tiếng CHÚA thật uy nghiêm!
(5) Tiếng CHÚA đánh gãy ngàn
hương bá,
CHÚA đánh gãy ngàn hương bá
Li-băng.
(6) Người làm cho dãy Li-băng
thành như bê nhảy nhót,
đỉnh Xia-giôn khác nào nghé tung
tăng.
(7) Tiếng CHÚA phóng ra ngàn tia
lửa,
(8) tiếng CHÚA lay động vùng sa
mạc,
lay động vùng sa mạc Ca-đê.
(9) Tiếng CHÚA lay động cả rặng
sồi,
tuốt trụi lá cây cao rừng rậm.
Còn trong thánh điện Người,
tất cả cùng hô: "Vinh danh
Chúa!"
(10) CHÚA ngự trị trên cơn hồng
thủy,
CHÚA là Vua ngự trị muôn đời.
(11) Xin CHÚA ban quyền lực cho
dân CHÚA,
tuôn đổ phúc lành cho dân hưởng
bình an.
Thánh Vịnh 30 (29):
Tạ ơn
ÐỨC CHÚA đã cứu khỏi chết
(1) Thánh vịnh.
Thánh ca vào dịp lễ khánh thành
Nhà. Của vua Ða-vít.
(2) Lạy CHÚA, con xin tán dương
Ngài,
vì đã thương cứu vớt,
không để quân thù đắc chí nhạo
cười con.
(3) Lạy CHÚA là Thiên Chúa con
thờ,
con kêu lên cùng Chúa, và Ngài đã
cho con bình phục.
(4) Lạy CHÚA, từ âm phủ Ngài đã
kéo con lên,
tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương
cứu sống.
(5) Hỡi những kẻ tín trung, hãy
đàn ca mừng CHÚA,
cảm tạ thánh danh Người.
(6) Người nổi giận, giận trong
giây lát,
nhưng yêu thương, thương suốt cả
đời.
Lệ có rơi khi màn đêm buông
xuống,
hừng đông về đã vọng tiếng hò
reo.
(7) Thuở được yên vui, có lần tôi
tự nhủ:
mình sẽ chẳng bao giờ nao núng!
(8) Lạy CHÚA, vì yêu thương,
Ngài đã đặt con trên núi an toàn.
Nhưng khi Ngài vừa ẩn mặt đi,
con liền thấy bàng hoàng sợ hãi.
(9) Lạy CHÚA, con đã kêu lên
Ngài,
năn nỉ với Ngài là Chúa của con.
(10) Chúa được lợi gì khi con
phải chết,
được ích chi nếu con phải xuống
mồ?
Nắm tro tàn làm sao ca tụng Chúa
và tuyên dương lòng thành tín của
Ngài.
(11) Lạy CHÚA, xin lắng nghe và
xót thương con,
lạy CHÚA, xin phù trì nâng đỡ.
(12) Khúc ai ca, Chúa đổi thành
vũ điệu,
cởi áo sô, mặc cho con lễ phục
huy hoàng.
(13) Vì thế, tâm hồn con ca ngợi
Chúa, và không hề nín lặng.
Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ,
xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu.
Thánh Vịnh 31 (30):
Lời cầu
nguyện tin tưởng của người gặp thử thách
(1) Phần nhạc trưởng. Thánh vịnh.
Của vua Ða-vít.
(2) Con ẩn náu bên Ngài, lạy
CHÚA,
xin đừng để con phải tủi nhục bao
giờ.
Bởi vì Ngài công chính, xin giải
thoát con,
(3) ghé tai nghe và mau mau cứu
chữa.
Xin Ngài nên như núi đá cho con
trú ẩn,
như thành trì để cứu độ con.
(4) Núi đá và thành luỹ bảo vệ
con, chính là Chúa.
Vì danh dự Ngài, xin dẫn đường
chỉ lối cho con.
(5) Lưới kẻ thù giăng, xin gỡ con
ra khỏi,
vì nơi con trú ẩn, chính là Ngài.
(6) Trong tay Ngài, con xin phó
thác hồn con,
Ngài đã cứu chuộc con, lạy CHÚA
TRỜI thành tín.
(7) Ngài ghét bọn thờ thần hư ảo,
phần con đây, lạy CHÚA, chỉ tin
tưởng nơi Ngài.
(8) Ðược Ngài thương, con vui
mừng hớn hở,
vì Ngài đã đoái nhìn phận con
cùng khốn.
Con lâm cảnh ngặt nghèo, Ngài lo
lắng chăm nom,
(9) chẳng trao nộp thân này vào
tay thù địch,
nhưng cho con rộng bước thênh
thang.
(10) Xin xót thương, lạy CHÚA,
bởi vì con lâm cảnh ngặt nghèo,
quá sầu đau, mắt đà mòn mỏi,
hồn ảo não và thân hình tiều tuỵ.
(11) Ðời tiêu hao trong nỗi u
buồn
và tháng năm tàn lụi giữa tiếng
thở than.
Con kiệt lực vì gặp bước khốn
cùng, gân cốt con rời rã.
(12) Con đã nên trò cười cho thù
địch
và cho cả hàng xóm láng giềng.
Bạn bè thân thích đều kinh hãi,
thấy con ngoài đường, ai cũng
tránh xa.
(13) Bị lãng quên, như kẻ chết
không người tưởng nhớ,
con hoá thành đồ hư vất bỏ.
(14) Con nghe thấy những lời độc
địa của bao người,
nhìn chung quanh: toàn những điều
khủng khiếp.
Chúng toa rập chống con, và mưu
toan lấy mạng.
(15) Nhưng con đây vẫn tin tưởng
nơi Ngài, lạy CHÚA,
dám thưa rằng : Ngài là Thượng Ðế
của con.
(16) Số phận con ở trong tay
Ngài.
Xin giải thoát con khỏi tay địch
thủ,
kKhỏi người bách hại con.
(17) Xin toả ánh tôn nhan rạng
ngời
trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình
thương mà cứu độ.
(18) Lạy CHÚA, xin đừng để con
phải nhục nhã, vì đã kêu cầu Ngài,
Nhưng ước gì ác nhân phải nhục
nhã
mà ngậm miệng sa xuống âm ty.
(19) Cho phường điêu ngoa phải
câm họng;
chúng kiêu ngạo khinh đời, buông
những lời hỗn xược
chống lại người công chính.
(20) Lạy Chúa, cao cả thay tấm
lòng nhân hậu,
Chúa dành cho kẻ kính sợ Ngài,
và thi thố trước mặt phàm nhân
cho ai tìm đến Ngài nương náu.
(21) Bên Thánh Nhan, Ngài giấu họ
kỹ càng
khỏi người đời mưu hại.
Ngài che chở họ trong lều thánh,
xa tầm lưỡi thị phi.
(22) Chúc tụng CHÚA đã tỏ tình
thương kỳ diệu đối với con
trong thành trì vững chắc.
(23) Vậy mà con đã nói vì hốt
hoảng:
"Con bị đuổi đi khuất mắt
Chúa rồi!"
Thế nhưng Ngài đã nghe tiếng van
nài
trong ngày con kêu cứu.
(24) Hết mọi người hiếu trung với
Chúa,
hãy yêu mến CHÚA đi!
CHÚA giữ gìn những ai thành tín
nhưng thẳng tay trừng trị người
ăn ở kiêu căng.
(25) Hỡi mọi người cậy trông vào
CHÚA,
mạnh bạo lên, can đảm lên nào!
Thánh Vịnh 32 (31):
Hạnh
phúc thay kẻ lỗi lầm mà được tha thứ
(1) Của vua Ða-vít. Thi Khúc.
Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được
tha thứ,
người có tội mà được khoan dung.
(2) Hạnh phúc thay, người CHÚA
không hạch tội,
và lòng trí chẳng chút gian tà.
(3) Bao lâu con lặng thinh không
thú lỗi,
thì gân cốt rã rời, cả ngày con
gào thét.
(4) Vì ngày đêm con bị tay Ngài
đè nặng,
nên sức lực hao mòn, như bị nắng
mùa hè thiêu đốt.
(5) Bởi thế, con đã xưng tội ra
với Ngài,
chẵng giấu Ngài lầm lỗi của con.
Con tự nhủ : "Nào ta đi thú
tội với Chúa,"
và chính Ngài đã tha thứ tội vạ
cho con.
(6) Vì thế, ai là người hiếu
trung với Chúa
sẽ kêu cầu Ngài lúc gặp cảnh gian
truân;
cho dầu nước lũ có ngập tràn
cũng không dâng tới họ.
(7) Chính Chúa là nơi con ẩn náu,
giữ gìn con khỏi bước ngặt nghèo.
Khắp bốn bề, Chúa làm trổi vang
lên
những khúc ca mừng con được giải
thoát.
(8) Chúa rằng : "Này đây Ta
răn dạy,
chỉ cho con biết đường lối phải
theo,
để mắt nhìn con, Ta ban lời
khuyên nhủ.
(9) Ðừng bắt chước lừa ngựa,
giống vô tri,
phải chế ngự bằng dây cương hàm
thiếc,
nếu không, nó chẳng chịu đến
gần."
(10) Bao đau khổ sẵn chờ kẻ dữ,
còn ai tin cậy CHÚA, luôn được
Người ấp ủ thương yêu.
(11) Hỡi những người công chính,
hãy vui lên trong CHÚA, hãy nhảy
mừng.
Mọi tâm hồn ngay thẳng, nào cất
tiếng hò reo.
Thánh Vịnh 33 (32):
Ca ngợi
ÐỨC CHÚA là Ðấng toàn năng, biết hết mọi sự và là Ðấng cứu độ duy nhất
(1) Người công chính hãy reo hò
mừng CHÚA,
kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi
khen.
(2) Tạ ơn CHÚA, gieo vạn tiếng
đàn cầm,
kính mừng Người, gảy muôn cung
đàn sắt.
(3) Nào dâng Chúa một khúc tân
ca,
rập tiếng hoan hô, nhã nhạc vang
lừng.
(4) Vì lời CHÚA phán quả là ngay
thẳng,
mọi việc Chúa làm đều đáng cậy
tin.
(5) Chúa yêu thích điều công minh
chính trực,
tình thương CHÚA chan hoà mặt
đất.
(6) Một lời CHÚA phán làm ra chín
tầng trời,
một hơi Chúa thở tạo thành muôn
tinh tú.
(7) Chúa dồn đại dương về một
chỗ,
Người đem biển cả trử vào kho.
(8) Cả địa cầu phải kính sợ CHÚA,
mọi thế nhân hãy khiếp oai Người.
(9) Vì Người đã phán, và muôn
loài xuất hiện,
Người ra lệnh truyền, tất cả được
dựng nên.
(10) CHÚA đảo lộn chương trình
muôn nước,
Người phá tan ý định chư dân.
(11) Chương trình CHÚA ngàn năm
bền vững,
ý định của lòng Người vạn kiếp
trường tồn.
(12) Hạnh phúc thay quốc gia được
CHÚA làm Chúa Tể,
hạnh phúc thay dân nào Người chọn
làm gia nghiệp.
(13) Từ trời cao nhìn xuống, CHÚA
thấy hết mọi người.
(14) Từ thiên cung Chúa ngự, Chúa
dõi theo người thế.
(15) Lòng mỗi người, chính Chúa
dựng nên,
việc họ làm, Chúa thông suốt cả.
(16) Vua thắng trận đâu phải bởi
hùng binh,
tráng sĩ thoát nguy đâu nhờ dũng
lực.
(17) Hão huyền thay, mong thắng
nhờ chiến mã,
nó mạnh đến đâu cũng không cứu
nổi người.
(18) CHÚA để mắt trông nom người
kính sợ Chúa,
kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu
thương,
(19) hầu cứu họ khỏi tay thần
chết
và nuôi sống trong buổi cơ hàn.
(20) Tâm hồn chúng con đợi trông
CHÚA,
bởi Người luôn che chở phù trì.
(21) Vâng, có Người, chúng tôi
mừng rỡ,
vì hằng tin tưởng ở Thánh Danh.
(22) Xin đổ tình thương xuống
chúng con, lạy CHÚA,
như chúng con hằng trông cậy nơi
Ngài.
Thánh Vịnh 34 (33):
ÐỨC CHÚA
là nơi người lành ẩn náu
(1) Của vua Ða-vít.
Khi ông giả điên trước mặt vua
A-vi-me-léc, ông bị đuổi và ra đi.
Alép
(2) Tôi sẽ không ngừng chúc tụng
CHÚA,
câu hát mừng Người chẳng ngớt
trên môi.
Bết
(3) Linh hồn tôi hãnh diện vì
CHÚA
xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà
vui lên.
Ghi-men
(4) Hãy cùng tôi ngợi khen ÐỨC
CHÚA,
ta đồng thanh tán tụng danh
Người.
Ða-lét
(5) Tôi đã tìm kiếm CHÚA, và
Người đáp lại,
giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh
hoàng.
Hê
(6) Ai nhìn lên CHÚA sẽ vui tươi
hớn hở,
không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi.
Da-in
(7) Kẻ nghèo này kêu lên và CHÚA
đã nhận lời,
cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn.
Khết
(8) Sứ thần của CHÚA đóng trại
chung quanh
để giải thoát những ai kính sợ
Người.
Tết
(9) Hãy nghiệm xem CHÚA tốt lành
biết mấy:
hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên
Người!
Giốt
(10) Kính sợ CHÚA đi, đoàn dân
thánh hỡi,
vì ai kính sợ Người, chẳng thiếu
thốn chi.
Cáp
(11) Kẻ giàu sang phải bần cùng
đói khổ,
còn ai tìm kiếm CHÚA chẳng thiếu
của gì.
La-mét
(12) Các con ơi, hãy đến mà nghe,
ta sẽ dạy cho biết đường kính sợ
CHÚA.
Mêm
(13) Ai là người thiết tha được
sống,
ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc
chứa chan?
Nun
(14) Phải giữ mồm giữ miệng, đừng
nói lời gian ác điêu ngoa;
Xa-méc
(15) hãy làm lành lánh dữ, tìm
kiếm bình an, ăn ở thuận hoà.
Pê
(17) CHÚA đối đầu với quân gian
ác,
xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời,
A-in
(16) nhưng để mắt nhìn người
chính trực
và lắng tai nghe tiếng họ kêu.
Xa-đê
(18) Họ kêu xin, và CHÚA đã nhận
lời,
giải thoát khỏi mọi cơn nguy
khốn.
Cốp
(19) CHÚA gần gũi những tấm lòng
tan vỡ,
cứu những tâm thần thất vọng ê
chề.
Rết
(20) Người công chính gặp nhiều
nỗi gian truân,
nhưng CHÚA giúp họ luôn thoát
khỏi.
Sin
(21) Xương cốt họ đều được CHÚA
giữ gìn,
dầu một khúc cũng không hề giập
gãy.
Tau
(22) Quân gian ác chết vì tội ác,
kẻ ghét người lành chuốc án phạt
vào thân.
(23) CHÚA cứu mạng các người tôi
tớ,
ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt
bao giờ.
Thánh Vịnh 35 (34):
Cầu xin
ÐỨC CHÚA cứu trong cơn nguy
(1) Của vua Ða-vít.
Lạy CHÚA, kẻ tố con, xin Ngài tố
lại,
Kẻ đánh con, xin Ngài đánh nó.
(2) Cầm mộc khiên, xin đứng dậy
phù trì,
(3) vung gươm giáo chống lại
những người bắt bớ con,
xin nói với con rằng : "Ta
là Ðấng cứu độ ngươi."
(4) Chớ gì những ai tìm hại mạng
sống con
phải xấu hổ thẹn thùng,
kẻ tính kế hại con
phải tháo lui nhục nhã!
(5) Chớ gì chúng nên như trấu gió
thổi bay,
khi chúng bị thiên thần CHÚA xua
đuổi!
(6) Chớ gì đường chúng đi nên tối
tăm trơn trượt,
khi chúng bị thiên thần CHÚA rượt
theo!
(7) Vì vô cớ chúng đã giăng lưới,
vô cớ chúng đào hố hại con.
(8) Chớ gì tai họa bất ngờ ập
trên chúng,
lưới chúng giăng, cho chúng mắc
vào,
cho chúng gặp phải tai họa đó!
(9) Hồn tôi sẽ vui mừng trong
CHÚA,
hoan hỉ vì Người cứu thoát tôi.
(10) Tự thâm tâm, tôi sẽ nói lên
rằng:
"Ai ví được như Ngài, lạy
CHÚA?
Ngài cứu kẻ nghèo hèn khỏi tay
người mạnh thế,
và cứu kẻ túng thiếu nghèo hèn
khỏi tay quân bóc lột."
(11) Bọn chứng nhân giả dối đứng
lên,
hạch hỏi tôi những điều tôi chẳng
biết.
(12) Chúng lấy oán đền ơn, này
thân tôi trơ trọi một mình.
(13) Nhưng phần tôi, những ngày
chúng đau yếu,
tôi đã từng khoác áo nhặm vào
thân,
lại ăn chay để hãm mình phạt xác,
lòng tôi ấp ủ câu kinh lời
nguyện,
(14) như cầu cho bạn hữu anh em.
Tôi lang thang như người khóc mẹ,
tôi tủi buồn cúi mặt xuống mà đi.
(15) Thế mà khi tôi vừa vấp ngã,
chúng vui mừng tụ hội với nhau.
Người lạ mặt cũng xúm vào đập
đánh
(16) và cấu xé không ngừng.
Chúng khiêu khích tôi và nặng lời
chế nhạo,
lại hằm hè nghiến lợi nghiến
răng.
(17) Lạy Chúa, sao Chúa đành nhìn
như vậy mãi?
Xin cứu mạng con khỏi thú dữ đang
gầm gừ,
cứu mạng duy nhất này khỏi bầy sư
tử.
(18) Giữa lòng đại hội, con sẽ tạ
ơn Chúa,
trước mặt quần chúng, con sẽ tán
dương Ngài.
(19) Xin đừng để bọn thù con vô
lý được đắc chí nhạo cười,
và những kẻ vô cớ ghét con nháy
nhau mà chế giễu.
(20) Vì chúng chẵng nói đến hoà
bình,
lại vu cáo những kẻ hiền lành
trong xứ sở.
(21) Chúng to mồm chế diễu con:
"A ha ! Mắt ta đã thấy
rồi!"
(22) Lạy CHÚA, Ngài thấy rồi, xin
đừng nín lặng,
lạy Chúa, xin đừng nỡ đứng xa.
(23) Xin thức dậy, đứng lên xét
xử, và biện hộ cho con,
lạy Thiên Chúa, lạy Chúa con thờ.
(24) Lạy CHÚA là Thiên Chúa con
thờ,
xin xử cho con theo lẽ công bình
của Chúa,
đừng để chúng đắc chí nhạo cười
con.
(25) Xin đừng để chúng nghĩ thầm
trong bụng:
"A ha ! Ta đã toại nguyện
rồi!"
Xin đừng cho chúng nói:
"Ta nuốt trửng nó rồi!"
(26) Những kẻ đắc chí vì con mắc
họa,
cho chúng đều xấu hổ nhục nhằn!
Những kẻ lên mặt với con,
cho chúng phải ê chề nhuốc nha
xấu hổ!
(27) Còn những người nào muốn
thấy con được minh oan,
chớ gì họ reo mừng hoan hỷ,
và luôn luôn nói rằng :"ÐỨC
CHÚA vĩ đại thay!
Người những muốn kẻ tôi trung
được an lành."
(28) Miệng lưỡi con sẽ nhẩm đi
nhắc lại :"Ngài là Ðấng công chính"
và suốt ngày, con sẽ ca ngợi tán
dương.
Thánh Vịnh 36 (35):
Ác nhân
thì độc dữ, còn ÐỨC CHÚA thì nhân từ
(1) Phần nhạc trưởng. Của tôi tớ
ÐỨC CHÚA. Của vua Ða-vít.
(2) Tội ác thì thào trong thâm
tâm kẻ dữ;
hắn không thấy cần phải kính sợ
Chúa Trời.
(3) Hắn tự cao tự đại, nên chẳng
thấy tội mình mà chê ghét.
(4) Lời nói toàn xảo quyết dối
gian,
hết lẽ khôn ngoan, hết điều lương
thiện!
(5) Nằm trên giường, hắn bày ra
chước độc mưu thâm,
hắn đứng lỳ trên nẻo đường bất
hảo,
không còn chê ghét việc gian tà.
(6) Lạy CHÚA, tình thương Ngài
cao ngất trời xanh,
lòng thành tín vượt ngàn mây
biếc.
(7) Công lý của Ngài như đỉnh núi
Thái Sơn,
quyết định của Ngài tựa vực sâu
thăm thẳm.
Lạy CHÚA, Ngài tế độ con người và
súc vật.
(8) Lạy Thiên Chúa, tình thương
Ngài quý trọng biết bao!
Phàm nhân tìm bóng Ngài trú ẩn.
(9) Họ được no say yến tiệc nhà
Ngài,
nơi suối hoan lạc, Ngài cho uống
thoả thuê.
(10) Ngài quả là nguồn sống,
nhờ ánh sáng của Ngài, chúng con
được nhìn thấy ánh sáng.
(11) Xin hằng thương những kẻ
biết Ngài,
và hằng xử công minh với những ai
có lòng ngay thẳng.
(12) Ðừng để quân ngạo mạn giày
xéo thân này
và phường độc dữ đánh đuổi con
đi.
(13) Kìa bọn làm điều ác đã nhào
xuống cả,
ngã quỵ rồi, không chỗi dậy nổi
đâu.
Thánh Vịnh 37 (36):
Số phận
người lành kẻ dữ
(1) Của vua Ða-vít.
A-lép
Bạn đừng nổi giận vì quân gian
ác,
chớ phân bì với kẻ bất lương,
(2) vì chúng tựa cỏ hoa mau úa
và giống như thanh thảo chóng
tàn.
Bết
(3) Cứ tin tưởng vào CHÚA và làm
điều thiện,
thì sẽ được ở trong đất nước và
sống yên hàn.
(4) Hãy lấy CHÚA làm niềm vui của
bạn,
Người sẽ cho phỉ chí toại lòng.
Ghi-men
(5) Hãy ký thác đường đời cho
CHÚA,
tin tưởng vào Người, Người sẽ ra
tay.
(6) Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm
rực rỡ tựa bình minh,
công lý bạn, Người sẽ cho huy
hoàng như chính ngọ.
Ða-lét
(7) Hãy lặng thinh trước mặt CHÚA
và đợi trông Người.
Bạn chẳng nên nổi giận
với kẻ được thành công hay với
người xảo trá.
Hê
(8) Dừng cơn phẫn nộ và chớ mãi
nổi xung,
đừng nổi giận kẻo sinh ra tội
lỗi,
(9) vì bọn gian ác sẽ bị diệt
trừ,
còn người trông đợi CHÚA, sẽ được
đất hứa làm gia nghiệp.
Vau
(10) Ít lâu nữa ác nhân sẽ chẳng
còn,
đến chỗ xưa cũng không tìm thấy
hắn.
(11) Còn kẻ nghèo hèn được đất
hứa làm gia nghiệp
và vui hưởng cảnh an lạc chan
hoà.
Da-in
(12) Kẻ gian ác mưu hại người
công chính, và hậm hực nghiến răng.
(13) Nhưng Chúa cười nhạo nó, vì
thấy nó đã đến ngày tàn.
Khết
(14) Phường ác nhân tuốt gươm
giương nỏ
nhằm hạ kẻ nghèo hèn, và giết
người chính trực;
(15) nhưng gươm chúng lại đâm vào
tim chúng, và nỏ gẫy tan tành.
Tết
(16) Ít tiền ít của mà là người
công chính
hơn nhiều vàng nhiều bạc mà là kẻ
ác nhân.
(17) Vì cánh tay bọn ác nhân sẽ
bị bẻ gẫy,
còn người công chính được CHÚA độ
trì.
Giốt
(18) CHÚA chăm sóc cuộc đời người
thiện hảo,
gia nghiệp họ tồn tại đến muôn
năm.
(19) Buổi gian nan họ không hề hổ
thẹn,
ngày đói kém lại được no đầy.
Cáp
(20) Còn quân gian ác sẽ phải
tiêu vong;
những kẻ thù của CHÚA
sẽ tan đi như cỏ nội hoa đồng,
tan đi thành mây khói.
La-mét
(21) Kẻ gian ác vay mà không trả,
người công chính thông cảm và cho
không.
(22) Người Chúa chúc lành được
đất hứa làm gia nghiệp,
kẻ Chúa nguyền rủa sẽ bị diệt
trừ.
Mêm
(23) CHÚA giúp con người bước đi
vững chãi,
ưa chuộng đường lối họ dõi theo.
(24) Dầu họ có vấp cũng không ngã
gục,
bởi vì đã có CHÚA cầm tay.
Nun
(25) Từ nhỏ dại tới nay tôi già
cả,
chưa thấy người công chính bị bỏ
rơi,
hoặc dòng giống phải ăn mày thiên
hạ.
(26) Ngày ngày họ thông cảm và
cho mượn cho vay,
dòng giống mai sau hưởng phúc
lành.
(27) Hãy làm lành lánh dữ, bạn sẽ
được một nơi ở muôn đời.
(28) Bởi vì CHÚA yêu thích điều
chính trực,
chẳng bỏ rơi những bậc hiếu
trung.
A-in
Quân bất chính sẽ hoàn toàn bị
tiêu diệt,
dòng giống ác nhân rồi cũng phải
tru di.
(29) Còn người công chính được
đất hứa làm gia nghiệp,
và định cư tại đó muôn đời.
Pê
(30) Miệng người công chính niệm
lẽ khôn ngoan,
và lưỡi họ nói lên điều chính
trực.
(31) Luật Thiên Chúa, họ ghi tạc
vào lòng,
bước chân đi không hề lảo đảo.
Xa-đê
(32) Kẻ gian ác rình mò, mưu giết
người công chính.
(33) Nhưng CHÚA không để họ lọt
vào tay ác nhân,
không để bị kết án khi phải ra
trước toà.
Cốp
(34) Hãy trông chờ CHÚA, giữ vững
đường lối Người,
rồi Người sẽ cất nhắc bạn lên
và ban đất hứa làm gia nghiệp
bạn sẽ nhìn thấy ác nhân bị diệt
trừ.
Rết
(35) Tôi đã thấy ác nhân ngạo
ngược,
nó vươn mình tựa hương bá xanh
tươi.
(36) Nay trở lại, nó không còn
nữa,
tìm kiếm hoài mà chẳng thấy tăm
hơi.
Sin
(37) Hãy xem kẻ thiện toàn, cứ
nhìn người chính trực,
ai hiếu hoà sẽ được con dòng cháu
giống.
(38) Quân tội lỗi đều bị diệt
trừ,
nòi ác nhân rồi cũng phải tru di.
Tau
(39) Còn chính nhân được CHÚA
thương cứu độ
và bảo vệ chở che trong buổi ngặt
nghèo.
(40) CHÚA phù trì và Người giải
thoát,
giải thoát khỏi ác nhân và thương
cứu độ,
bởi vì họ ẩn náu bên Người.
Thánh Vịnh 38 (37):
Lời cầu
khẩn của tội nhân lâm cơn cùng khốn
(1) Thánh vịnh. Của vua Ða-vít.
Ðể tưởng nhớ.
(2) Lạy CHÚA, xin đừng trách mắng
con khi thịnh nộ,
đừng sửa trị con lúc nổi lôi
đình.
(3) Trên mình con, những mũi tên
Ngài cắm ngập,
bàn tay Ngài giáng nặng xuống
thân con.
(4) Chính vì CHÚA giận, mà da
thịt con không chỗ nào lành;
vì tội lỗi của con, mà xương con
chẳng nơi đâu nguyên vẹn.
(5) Tội chồng chất ngập đầu ngập
cổ
như gánh nặng vượt quá sức con.
(6) Vết thương con nặng mùi, rữa
nát
bởi vì con điên cuồng;
(7) thân lom khom, rã rời, kiệt
sức,
suốt cả ngày con thiểu não lang
thang.
(8) Ngang lưng đầy lửa bỏng, da
thịt con không chỗ nào lành.
(9) Bị suy nhược, nát tan, kiệt
sức,
tim thét gào thì miệng phải rống
lên.
(10) Lạy Chúa, ước vọng của con,
Chúa đều thấu tỏ,
tiếng con than thở, làm sao Chúa
chẳng tường!
(11) Tim hồi hộp, sức con đã
kiệt,
mắt cũng chẳng còn sáng như xưa.
(12) Con bị tai ương, người thân
kẻ nghĩa chẳng tới gần,
bà con ruột thịt cũng đứng xa.
(13) Kẻ tìm giết con bủa giăng cạm
bẫy,
đứa mưu hại con buông lời độc
địa,
suốt ngày chúng nghĩ kế phỉnh gạt
con.
(14) Phần con, như kẻ điếc chẳng
nghe gì,
tựa người câm, không hề mở miệng,
(15) cầm bằng kẻ không nghe chi
hết,
chẳng một lời đối đáp ngoài môi.
(16) Lạy CHÚA, nơi Ngài con trông
cậy;
lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
chính Chúa sẽ đáp lời.
(17) Con nói :"Ước gì bọn
chúng đừng đắc chí nhạo cười con,
cũng đừng lên mặt khi chân con
lảo đảo."
(18) Thật thì con đã gần quỵ ngã,
nỗi khổ đau hằng canh cánh bên
lòng.
(19) Tội đã phạm, con xin xưng
thú,
lỗi lầm vương phải, con áy náy
băn khoăn.
(20) Kẻ vô cớ thù con đều mạnh
thế,
người vô lý ghét con thật quá
nhiều!
(21) Con làm ơn thì chúng trả
oán,
con theo đuổi điều lành, chúng
lại tố cáo con.
(22) Muôn lạy CHÚA, xin đừng bỏ
mặc,
đừng nỡ xa con, lạy Thiên Chúa
con thờ.
(23) Lạy Chúa cứu độ con, xin
Ngài mau phù trợ.
Thánh Vịnh 39 (38):
Trong
kiếp sống phù du, người đau yếu đặt hy vọng nơi ÐỨC CHÚA và xin Người đến cứu
giúp
(1) Phần nhạc trưởng. Của ông
Giơ-đu-thun.
Thánh vịnh. Của vua Ða-vít.
(2) Tôi đã nói :"Mình phải
giữ gìn trong nếp sống,
đề khi ăn nói khỏi lỗi lầm;
tôi quyết sẽ ngậm tăm, bao lâu
người gian ác còn đối mặt."
(3) Tôi câm lặng làm thinh chẳng
hé môi,
mà không ích lợi gì, nên cơn đau
lại càng nhức nhối.
(4) Nghe trong mình nung nấu tự
tâm can,
càng nghĩ ngợi, lửa càng bừng
cháy,
miệng lưỡi tôi phải thốt nên lời:
(5) "Lạy CHÚA, xin dạy cho
con biết:
đời sống con chung cuộc thế nào,
ngày tháng con đếm được mấy mươi,
để hiểu rằng kiếp phù du là thế.
(6) Ấy tuổi đời con, Chúa đo cho
một vài gang tấc,
kiếp sống này, Chúa kể bằng
không.
Ðứng ở đời, thật con người chỉ
như hơi thở,
(7) thấp thoáng trên đường tựa
bóng câu.
Công vất vả ngược xuôi : làn gió
thoảng,
ky cóp mà chẳng hay ai sẽ hưởng
dùng."
(8) Giờ đây con biết đợi trông
gì, lạy Chúa,
hy vọng của con đặt ở nơi Ngài.
(9) Xin giải thoát khỏi vòng tội
lỗi,
đừng để kẻ ngu đần thoá mạ con.
(10) Con câm miệng chẳng nói
chẳng rằng,
vì chính Chúa đã làm như vậy.
(11) Xin Ngài thôi đừng đánh con
nữa,
tay Ngài giáng xuống, thân này
nát tan.
(12) Chúa trị tội nhằm sửa dạy
con người,
điều họ tha thiết, Ngài làm tiêu
tan như mối đục,
thật con người chỉ như hơi thở.
(13) Lạy CHÚA, xin nghe lời con
nguyện cầu,
tiếng con kêu cứu, xin Ngài lắng
tai nghe.
Con khóc lóc, xin đừng làm ngơ
giả điếc,
vì con là thân khách trọ nhà
Ngài,
phận lữ hành như hết thảy cha
ông.
(14) Xin ngoảnh mặt đi cho lòng
con thanh thoả,
trước lúc thân này phải ra đi và
không còn nữa.
Thánh Vịnh 40 (39):
Cảm tạ
ÐỨC CHÚA và xin Người phù giúp
(1) Phần nhạc trưởng. Của vua
Ða-vít. Thánh vịnh.
(2) Tôi đã hết lòng trông đợi
CHÚA,
Người nghiênh mình xuống và nghe
tiếng tôi kêu.
(3) Người kéo tôi ra khỏi hố diệt
vong,
khỏi vũng lầy nhơ nhớp,
đặt chân tôi đứng trên tảng đá,
làm cho tôi bước đi vững vàng.
(4) Chúa cho miệng tôi hát bài ca
mới,
bài ca tụng Thiên Chúa chúng ta.
Thấy thế, nhiều người sẽ kính sợ
và tin tưởng vào CHÚA.
(5) Phúc thay người đặt tin tưởng
nơi CHÚA,
chẳng vào hùa với bọn kiêu căng
và những kẻ theo đường gian ác.
(6) Lạy CHÚA là Thiên Chúa con
thờ,
những kỳ công Ngài đã thực hiện
và những điều Ngài dự định cho
chúng con:
thật là nhiều vô kể!
Không một ai sánh được như Ngài.
Dầu con muốn loan đi kể lại,
nhưng quá nhiều, đếm nổi làm sao!
(7) Chúa chẳng thích gì tế phẩm
và lễ vật,
nhưng đã mở tai con;
lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa
không đòi,
(8) con liền thưa : "Này con
xin đến!
Trong sách có lời chép về con
(9) rằng : con thích làm theo
thánh ý,
và ấp ủ luật Chúa trong lòng, lạy
Thiên Chúa của con."
(10) Ðức công chính của Ngài,
con loan truyền giữa lòng đại
hội;
lạy CHÚA, Ngài từng biết : con
đâu có ngậm miệng làm thinh.
(11) Ðức công chính của Ngài,
con chẳng giữ riêng lòng mình
biết;
nhưng con đã nói lên đức trung
tín và ơn cứu độ của Ngài,
chẳng giấu giếm chi cùng đại hội
rằng Ngài thành tín và yêu thương.
(12) Phần Ngài, muôn lạy CHÚA,
xin chớ ngừng âu yếm cảm thương
con.
Lòng thành tín và yêu thương của
Ngài sẽ giữ gìn con mãi.
(13) Tai họa bủa vây con hằng hà
sa số,
tội ác con đổ xuống trên mình,
làm tối tăm mặt mũi,
thật nhiều hơn cả tóc trên đầu, khiến
rụng rời tâm trí.
(14) Lạy CHÚA, xin thương tình
cứu con,
muôn lạy CHÚA, xin mau phù trợ!
(15) Ước gì những kẻ tìm cướp
mạng sống con,
đều phải nhơ nhuốc thẹn thùng!
Ước gì bọn đắc chí vì con mắc họa
phải tháo lui nhục nhã!
(16) Những đứa cười ha hả nhạo
con
phải thẹn thùng chết điếng!
(17) Ước gì mọi kẻ tìm kiếm Chúa,
đều mừng vui hoan hỷ trong Ngài!
Và những ai cảm mến ơn Ngài tế độ
luôn nói rằng : "ÐỨC CHÚA vĩ
đại thay!"
(18) Thân phận con khốn khổ nghèo
hèn,
nhưng Chúa hằng nghĩ tới.
Ngài là Ðấng phù trợ, là Ðấng
giải thoát con,
lạy Thiên Chúa con thờ, xin đừng
trì hoãn!
Thánh Vịnh 41 (40):
Lời cầu
của bệnh nhân
(1) Phần nhạc trưởng. Thánh vịnh.
Của vua Ða-vít.
(2) Phúc thay kẻ lưu tâm đến
người nghèo khổ:
trong ngày hoạn nạn, sẽ được CHÚA
cứu nguy.
(3) CHÚA bảo vệ và giữ gìn mạng
sống,
lại ban cho hạnh phúc trên đời,
không trao họ cho địch thù hung
hãn.
(4) Người chăm nom khi liệt
giường liệt chiếu,
lúc bệnh hoạn, Người chữa cho
lành.
(5) Con đã thưa cùng Chúa:
Lạy CHÚA, xin thương xót và chữa
lành con,
quả thật con đắc tội với Ngài.
(6) Lũ địch thù buông câu nguyền
rủa
bao giờ nó mới chết, cho tên tuổi
xóa nhoà?
(7) Kẻ đến thăm, miệng nói lời
giả dối,
nhưng chủ ý thâu tin độc địa,
vừa ra khỏi nhà, đã vội rêu rao.
(8) Mọi kẻ ghét con đều bàn tán
thì thào,
tưởng tượng con mắc bệnh gì ghê
gớm:
(9) "Chứng nan y thâm nhập
nó rồi,
đã liệt giường là không dậy nổi
đâu!"
(10) Cả người bạn thân con hằng
tin cậy,
đã cùng con chia cơm sẻ bánh,
mà nay cũng giơ gót đạp con!
(11) Nhưng phần Ngài, lạy CHÚA,
xin thương xót và nâng con trỗi
dậy,
để con trả chúng mối hận này.
(12) Con sẽ nhận biết rằng Chúa
thương con thật,
nếu kẻ thù không đắc thắng hò
reo.
(13) Chúa nâng đỡ con vì con vô
tội,
và đặt con ở mãi trước nhan Ngài.
(14) Chúc tụng ÐỨC CHÚA là Thiên
Chúa Ít-ra-en,
từ muôn thuở cho đến muôn đời.
Amen. Amen.
Thánh Vịnh 42
(41):
Quy
hướng về Thiên Chúa và Ðền Thánh
(1) Phần nhạc trưởng. Thi khúc.
Của con cái ông Cô-rắc.
(2) Như nai rừng mong mỏi tìm về
suối nước trong,
hồn con cũng trông mong được gần
Ngài, lạy Chúa.
(3) Linh hồn con khao khát Chúa
Trời, là Chúa Trời hằng sống.
Bao giờ con được đến vào bệ kiến
Tôn Nhan?
(4) Châu lệ là cơm bánh đêm ngày,
khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi:
"Này Thiên Chúa ngươi
đâu?"
(5) Tôi thả hồn miên man tưởng
nhớ
thuở tiến về lều thánh cao sang
đến tận nhà Thiên Chúa,
cùng muôn tiếng reo mừng tán tạ,
giữa sóng người trẩy hội tưng
bừng.
(6) Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền
muộn,
xót xa phận mình mãi làm chi?
Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn
tán tụng Người,
Người là Ðấng cứu độ, là Thiên Chúa
của tôi.
(7) Lạy Chúa, con chìm sâu trong
phiền muộn,
nên chi từ giải đất Gio-đan,
cũng như rặng Khéc-môn cao ngất,
và núi nhỏ Mi-xa,
con tưởng nhớ đến Ngài.
(8) Kìa vực thẳm kêu gào vực
thẳm,
khi tiếng thác của Ngài tuôn đổ
ầm vang.
Sóng cồn theo nước cuốn,
Ngài để cho tràn ngập thân này.
(9) Ban ngày CHÚA gửi tình thương
xuống,
con ngâm nga bài thánh nhạc thâu
đêm
thành kinh nguyện dâng Chúa Trời
nguồn sống.
(10) Con thưa cùng Thiên Chúa,
là núi đá bảo vệ đời con :
"Chúa quên con sao đành?
Sao con phải lang thang tiều tụy,
bị quân thù áp bức mãi không thôi
?"
(11) Xương cốt con gãy rời từng
khúc,
bởi đối phương lăng nhục thân
này,
khi thiên hạ thường ngày cứ hỏi:
"Này Thiên Chúa ngươi
đâu?"
(12) Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền
muộn,
xót xa phận mình mãi làm chi?
Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn
tán tụng Người,
Người là Ðấng cứu độ, là Thiên
Chúa của tôi.
Thánh Vịnh 43 (42)
(1) Lạy Chúa Trời, xin xử cho
con,
biện hộ cho con chống lại phường
bất nghĩa,
xin cứu con thoát khỏi người xảo
trá gian tà.
(2) Chính Ngài là Thiên Chúa bảo
vệ con,
sao Ngài đành xua đuổi?
Sao con phải lang thang tiều tụy,
bị quân thù áp bức mãi không
thôi?
(3) Xin Ngài thương sai phái ánh
sáng và chân lý của Ngài,
để soi đường dẫn lối con đi về
núi thánh, lên đền Ngài ngự.
(4) Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên
Chúa,
tới gặp Thiên Chúa, nguồn vui của
lòng con.
Con gãy đàn dâng câu cảm tạ,
lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ.
(5) Hồn tôi hỡi, cớ sao phiền
muộn,
xót xa phận mình mãi làm chi?
Hãy cậy trông Thiên Chúa, tôi còn
tán tụng Người,
Người là Ðấng cứu độ, là Thiên
Chúa của tôi.
Thánh Vịnh 44 (43):
Các tai
hoạ Dân Thiên Chúa mắc phải
(1) Phần nhạc trưởng. Của con cái
ông Cô-rắc. Thi khúc.
(2) Lạy Thiên Chúa, tai chúng con
đã từng được nghe
truyện cha ông vẫn thường kể lại
về công trình Chúa đã làm nên
thời các cụ thuở xa xưa ấy,
(3) rằng tự tay Ngài trục xuất
chư dân,
còn họ, Ngài đem trồng vào đất
chúng;
Ngài làm tiêu hao nhiều nước
nhiều miền
và cho họ được thêm lớn mạnh.
(4) Vì đâu có phải nhờ gươm giáo
mà họ chiếm đất đai,
đâu phải cánh tay họ đem được
thắng lợi về.
Nhưng chính là nhờ tay hữu Chúa,
tay mạnh mẽ và ánh tôn nhan Ngài,
vì Ngài yêu thích họ.
(5) Chính Ngài là Vua, là Thiên
Chúa của con,
đã cho nhà Gia-cóp toàn công
thắng trận.
(6) Ngài trợ lực, chúng con quật
ngã quân thù,
nhờ danh Ngài, chúng con chà đạp
đối phương.
(7) Con chẳng có cậy tài cung nỏ,
cứu được mình, đâu bởi gươm đao.
(8) Nhưng chính Ngài cứu khỏi
địch thù
làm kẻ ghét chúng con phải nhục
nhã.
(9) Nhờ Thiên Chúa, chúng con
hằng nở mày nở mặt,
mãi ngàn thu, xin tán tụng danh
Ngài.
(10) Thế mà Ngài bỏ rơi, hạ nhục
chúng con,
với quân đội nhà, Ngài chẳng còn
xuất trận,
(11) làm chúng con thua giặc chạy
dài,
kẻ ghét chúng con cứ mặc tình
cướp phá.
(12) Ngài thí chúng con tựa bầy
chiên thịt,
bắt tản lạc đi giữa ngoại bang.
(13) Aáy dân Ngài, Ngài đem bán
rẻ,
giá cả thế này, lợi lộc gì đâu!
(14) Ngài để cho láng giềng thóa
mạ,
kẻ chung quanh phỉ báng chê bai.
(15) Ngài làm cho chúng con nên
trò cười cho dân ngoại,
chúng lắc đầu, tỏ vẻ khinh khi.
(16) Ðiều sỉ nhục cứ ngày ngày ám
ảnh,
quá hổ ngươi, đâu còn mặt mũi
nào!
(17) Nghe thoá mạ, nghe lộng ngôn
kêu réo,
thấy địch thù, thấy oán hận hờn
căm.
(18) Cơ sự đã xảy ra như vậy,
chúng con nào đã quên lãng Chúa
cho cam,
hay đã thất trung cùng với giao
ước của Ngài,
(19) hoặc đã dám manh tâm bỏ
Chúa,
nẻo đường Ngài, chân chẳng bước
theo,
(20) mà Chúa lại đẩy vào hang
sói,
khiến bóng tử thần phủ lấp chúng
con.
(21) Còn ví thử chúng con đã quên
danh Chúa,
mà giơ tay vái lạy tà thần,
(22) há Thiên Chúa lại chẳng
tường chẳng rõ?
Ngài biết thừa mọi bí ẩn tâm can!
(23) Aâu cũng vì Ngài, mà mỗi
ngày chúng con bị giết,
bị coi như bầy cừu để sát sinh.
(24) Lạy Chúa, xin tỉnh giấc !
Ngài cứ ngủ được sao?
Xin trỗi dậy đi nào, đừng đuổi
xua mãi mãi!
(25) Sao Ngài còn ngoảnh mặt,
quên rằng chúng con bị khổ cực đoạ đầy
(26) Mạng chúng con chôn vùi
trong cát bụi,
tấm thân này nằm bẹp dưới bùn
đen.
(27) Dám xin Ngài đứng lên phù
giúp,
lấy tình thương cứu chuộc dân
Ngài.
Thánh Vịnh 45 (44):
Bài ca
mừng hôn lễ Quân Vương
(1) Phần nhạc trưởng. Ðiệu: Bông
huệ.
Của con cái ông Cô-rắc. Thi khúc.
Tình ca.
(2) Lòng trào dâng những lời cẩm
tú,
miệng ngâm thơ mừng chúc thánh
quân,
lưỡi tôi ví tựa tay người phóng
bút.
(3) Giữa thế nhân, ngài vô song
tuyệt mỹ,
nét duyên tươi thắm nở môi ngài,
nên ngài được Thiên Chúa ban phúc
lành mãi mãi.
(4) Bảo kiếm hãy đeo lưng, này
kiện tướng,
(5) lẫm liệt oai hùng, hãy phóng
ngựa tiến lên
bênh sư thật, lòng nhân và công
lý.
Tay hữu ngài rắc gieo kinh hãi,
(6) tên nhọn vừa buông, dân gục
ngã dưới chân ngài,
địch thủ vương triều bị bắn trúng
tim.
(7) Ngôi báu Thiên Chúa tặng ban
cho ngài
sẽ trường tồn vạn kỷ,
vương trượng, vương trượng công
minh;
(8) ngài ưa điều chính trực, ghét
điều gian ác.
Chính vì vậy, Thiên Chúa là Thiên
Chúa của ngài
đã tôn phong ngài vượt trổi các
đồng liêu
mà xức cho dầu thơm hoan lạc.
(9) Quế trầm mộc dược, hương toả
long bào,
nhã nhạc điện ngà khiến ngài vui
thoả.
(10) Hàng cung nữ, có những vì
công chúa,
bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai,
trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy.
(11) Tôn nương hỡi, xin hãy nghe
nào,
đưa mắt nhìn và hãy lắng tai,
quên dân tộc, quên đi nhà thân
phụ.
(12) Sắc nước hương trời, Quân
Vương sủng ái,
hãy vào phục lạy : "Người là
Chúa của bà."
(13) Thiếu nữ thành Tia mang lễ
tới,
phú hào trong xứ đến cầu ân.
(14) Ðẹp lộng lẫy, này đây công
chúa,
mặc xiêm y dệt gấm thêu vàng,
(15) phục sức huy hoàng, được dẫn
tới Quân Vương,
cùng các trinh nữ theo sau hầu
cận.
(16) Lòng hoan hỷ, đoàn người
tiến bước,
vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung.
(17) Con cái ngài sẽ nối dòng
tiên đế,
ngài phong làm vương bá khắp trần
gian.
(18) Danh thơm ngài, thần xin
truyền tụng
thế hệ này tới thế hệ kia.
Vì thế, dân dân sẽ nức lòng ca
ngợi,
tiếng ngợi ca bất tận muôn đời.
Thánh Vịnh 46 (45):
Thiên
Chúa là nơi ẩn náu và sức mạnh của người tín hữu
(1) Phần nhạc trưởng. Của con cái
ông Cô-rắc.
Theo hồ kèn. Thánh ca.
(2) Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu,
là sức mạnh của ta.
Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ
khi ta phải ngặt nghèo.
(3) Nên dầu cho địa cầu chuyển
động,
núi đồi có sập xuống biển sâu,
(4) dầu cho sóng biển ầm ầm sôi
sục,
núi đồi có lảo đảo khi thủy triều
dâng,
ta cũng chẳng sợ gì.
(Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta
luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Gia-cóp là thành
bảo vệ ta.)
(5) Một dòng sông chảy ra bao
nhánh
đem niềm vui cho thành của Chúa
Trời:
đây chính là đền thánh Ðấng Tối
Cao.
(6) Thiên Chúa ngự giữa thành,
thành không lay chuyển;
ngay từ rạng đông, Thiên Chúa
thương trợ giúp.
(7) Muôn dân náo động, muôn nước
chuyển lay,
tiếng Người vang lên là trái đất
rã rời.
(8) Chính Chúa Tề càn khôn ở cùng
ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Gia-cóp là thành
bảo vệ ta.
(9) Ðến mà xem công trình của
CHÚA,
Ðấng gieo kinh hãi trên mặt địa
cầu.
Người chấm dứt chiến tranh trên
toàn cõi thế,
(10) cung tên bẻ gẫy, gươm giáo
đập tan,
còn khiên thuẫn thì quăng vào
lửa.
(11) Dừng tay lại : Hãy biết Ta
đây là Thiên Chúa!
Ta thống trị muôn dân, thống trị
địa cầu.
(12) Chính Chúa Tể càn khôn ở
cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Gia-cóp là thành
bảo vệ ta.
Thánh Vịnh 47 (46):
Thiên
Chúa là Vua khắp hoàn vũ
(1) Phần nhạc trưởng. Của con cái
ông Cô-rắc. Thánh vịnh.
(2) Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi!
Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò
reo!
(3) Vì ÐỨC CHÚA là Ðấng Tối Cao,
Ðấng khả úy,
là Vua Cả thống trị khắp địa cầu.
(4) Chính Người bắt muôn dân muôn
nước
phải phục quyền và quỵ luỵ chúng
tôi.
(5) Người chọn lựa cho chúng tôi
phần cơ nghiệp,
cơ nghiệp làm cho kẻ Người thương
là Gia-cóp
được nở mặt nở mày.
(6) Thiên Chúa ngự lên, rộn rã
tiếng hò reo,
CHÚA ngự lên, vang dội tiếng tù
và.
(7) Hãy đàn ca, đàn ca lên mừng
Thiên Chúa,
đàn ca lên nào, đàn ca nữa kính Vua
ta!
(8) Thiên Chúa là Vua toàn cõi
địa cầu,
hãy dâng Người khúc đàn ca tuyệt
mỹ.
(9) Thiên Chúa là Vua thống trị
chư dân,
Thiên Chúa ngự trên tòa uy linh
cao cả.
(10) Kìa vương hầu các dân tề tựu
cùng dân Thiên Chúa, Chúa của
Aùp-ra-ham.
Mọi thủ lãnh trần gian thuộc
quyền Thiên Chúa,
Ðấng siêu việt ngàn trùng.
Thánh Vịnh 48 (47):
Thiên
Chúa, Ðấng giải thoát và bảo vệ Xi-on
(1) Thánh ca. Thánh vịnh. Của con
cái ông Cô-rắc.
(2) Cao cả thay ÐỨC CHÚA là Thiên
Chúa chúng ta,
Ðấng thật xứng muôn lời ca tụng
trong thành đô của Người!
(3) Núi thánh Người thật nguy nga
hùng vĩ,
là niềm vui cho toàn thể địa cầu.
Núi Xi-on, bồng lai cực bắc,
là kinh thành của Ðức Ðại Vương.
(4) Giữa các lâu đài của Xi-on,
Thiên Chúa tỏ ra chính Người là
thành luỹ.
(5) Kìa vua chúa toa rập với
nhau,
cùng tiến quân một lúc.
(6) Nhưng mới thấy thành đã sững
sờ kinh ngạc,
quá hãi hùng, bỏ chạy thoát thân.
(7) Chúng run khiếp, chạy đi
chẳng nổi,
quằn quại như phụ nữ sắp sinh
con.
(8) Quay cùng như những chiếc tàu
trên biển cả
bị bão đánh tan tành.
(9) Chuyện xưa tai nghe, giờ đây
mắt thấy,
trong thành trì Chúa Tể càn khôn,
trong thành trì Thiên Chúa, Chúa
ta thờ;
Người củng cố thành đô đến muôn
đời muôn thuở.
(10) Lạy Thiên Chúa, giữa nơi đền
thánh,
chúng con hồi tưởng lại tình Chúa
yêu thương.
(11) Danh thánh Chúa gần xa
truyền tụng,
tiếng ngợi khen Ngài khắp cõi
lừng vang.
Tay hữu Chúa thi hành công lý,
(12) khiến núi Xi-on tưng bừng
hoan hỷ;
thành thị miền Giu-đa hớn hở nhảy
mừng
vì những điều Ngài đã phán quyết.
(13) Hãy đi vòng Xi-on, dọc theo
tường luỹ,
đếm tháp canh, xem được bao
nhiêu;
(14) hãy để tâm quan sát tường
thành, các lâu đài, ngắm xem cho tỏ.
Rồi kể lại cho thế hệ tương lai
(15) rằng : chính Người là Thiên
Chúa,
đời đời là Thiên Chúa chúng ta,
Người lãnh đạo chúng ta đến muôn
thuở.
Thánh Vịnh 49 (48):
Của đời
phù vân
(1) Phần nhạc trưởng. Của con cái
ông Cô-rắc. Thánh vịnh.
(2) Hãy nghe đây, ngàn muôn dân
hỡi,
lắng tai nào, hết thảy thế nhân,
(3) cả thường dân lẫn người quyền
quý,
hạng phú gia với kẻ cơ bần.
(4) Miệng tôi nói lời hay lẽ
phải,
lòng gẫm suy câu khéo điều khôn,
(5) tai lắng nghe nhịp câu ngạn
ngữ,
mượn phím đàn giải nghĩa nhiệm
mầu.
(6) Ngày vận hạn cớ chi phải sợ,
lúc bọn gian manh theo sát bủa
vây tôi?
(7) Chúng cậy vào của cải,
lại vênh vang bởi lắm bạc tiền.
(8) Nhưng nào có ai tự chuộc nổi
mình
và trả được giá thục hồi cho
Thiên Chúa?
(9) Mạng người dù giá cao mấy
nữa,
thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời.
(10) Nào phàm nhân sống mãi được
sao
mà chẳng phải đến ngày tận số?
(11) Kìa thiên hạ thấy người khôn
cũng chết,
kẻ ngu đần dại dột cũng tiêu
vong,
bỏ lại tài sản mình cho người
khác.
(12) Tuy họ lấy tên mình mà đặt
cho miền này xứ nọ,
nhưng ba tấc đất mới thật là nhà,
nơi họ ở muôn đời muôn kiếp.
(13) Dù sống trong danh vọng,
con người cũng không thể trường
tồn;
thật nó chẳng khác chi
con vật một ngày kia phải chết.
(14) Phường tự mãn tự kiêu, số
phận là thế đó,
bọn ỷ tài khéo nói, hậu vận chính
là đây.
(15) Như đoàn vật nhốt trong âm
phủ,
chính tử thần canh giữ chăn nuôi,
chúng nhào thẳng xuống nơi huyệt
mả,
sẽ tiêu tan cả đến hình hài,
chốn âm phủ thành nơi cư ngụ.
(16) Nhưng Chúa Trời sẽ chuộc
mạng tôi,
gỡ tôi ra khỏi quyền lực âm phủ.
(17) Ðừng sợ chi khi có kẻ phát
tài,
hoặc cửa nhà tăng thêm vẻ phong
lưu,
(18) vì khi chết, nó đâu mang
được cả,
kiếp vinh hoa chẳng theo xuống mộ
phần.
(19) Lúc sinh thời, nó tự hào tự
đắc:
"Mình làm nên, thiên hạ tán
dương mình!"
(20) Nhưng rồi nó cùng tổ tiên về
chung kiếp,
chẳng bao giờ còn được thấy ánh
dương!
(21) Dù sống trong danh vọng,
con người cũng không hiểu biết
gì;
thật nó chẳng khác chi
con vật một ngày kia phải chết.
Thánh Vịnh 50 (49):
Thế nào
là có lòng đạo đức thật
(1) Thánh vịnh của ông A-xáp.
ÐỨC CHÚA, Thượng Ðế chí tôn, nay
Người lên tiếng,
Từ khắp cõi đông tây, Người triệu
tập hoàn cầu.
(2) Tại Xi-on, cảnh sắc tuyệt
vời, Thiên Chúa hiển minh,
(3) Thiên Chúa ta ngự đến, Người
không nín lặng.
Hàng tiền đạo : kìa lửa hồng
thiêu đốt,
quân tả hữu : đây bạo vũ cuồng
phong.
(4) Chúa hạ lệnh đòi trời cao đất
thấp
phải ra phiên toà nghe Chúa xử
dân Người.
(5) Rằng : "Hãy triệu tập
cho ta những người trung hiếu,
những người đã giao ước với Ta
bằng hy lễ."
(6) Các tầng trời tuyên bố Chúa
công minh,
vì chính Người sẽ đứng ra xét xử.
(7) "Dân Ta hỡi, nghe đây Ta
phán dạy,
này Ít-ra-en, Ta dẫn chứng tố
ngươi.
Ta là Thượng Ðế, là Chúa ngươi
thờ,
(8) "Ta chẳng trách cứ ngươi
về hy lễ;
lễ toàn thiêu của ngươi
hằng nghi ngút trước mặt Ta đêm
ngày.
(9) "Bò của ngươi, Ta nào có
thiết;
chiên của ngươi, chẳng lẽ Ta ham!
(10) Vì thú rừng là của Ta hết
thảy,
cả ngàn muôn loài vật núi đồi.
(11) Mọi thứ chim trời, Ta đều
biết rõ,
động vật nơi hoang dã thuộc về
Ta.
(12) Ta mà đói, Ta đâu cần nói
ngươi hay,
vì trái đất với mọi loài, chính
Ta làm chủ.
(13) Thịt bò há là thức Ta ăn?
Máu chiên há là đồ Ta uống?
(14) "Hãy tiến dâng Thiên
Chúa lời tạ ơn làm hy lễ,
giữ trọn điều khấn nguyền cùng
Ðấng Tối Cao.
(15) Hãy kêu cầu Ta trong ngày
cùng khốn,
Ta sẽ giải thoát, và ngươi sẽ làm
hiển danh Ta."
(16) Với kẻ gian ác, Thiên Chúa
phán bảo rằng:
"Thánh chỉ của Ta, sao ngươi
thường nhắc nhở,
mở miệng ra là chữ thánh ước trên
môi?
(17) "Nhưng chính ngươi lại
ghét điều sửa dạy,
lời Ta truyền, đem vất bỏ sau
lưng.
(18) Gặp tên trộm đạo, ngươi hùa
theo nó,
với bọn gian dâm, cũng lại thông
đồng.
(19) Miệng tha hồ nói năng ác
độc,
ba tấc lưỡi đặt điều xảo trá;
(20) hễ ngồi lê là bới xấu anh em
và bêu diếu cả người ruột thịt.
(21) "Ngươi làm thế, chẳng
lẽ Ta thinh lặng,
ngươi tưởng rằng Ta cũng giống
ngươi sao?
Này đây Ta khiển trách,
những tội kia, Ta vạch rõ ngươi
xem.
(22) "Hỡi những người lãng
quên Thượng Ðế,
gắng mà hiểu cho tường,
kẻo rồi Ta xé nát, chẳng còn ai
cứu thoát được đâu!
(23) "Kẻ dâng lời tạơn làm
hy lễ sẽ làm hiển danh Ta.
Ai sống đời hoàn hảo, Ta cho
hưởng ơn cứu độ Chúa Trời."
Thánh Vịnh 51-100
Thánh Vịnh 51 (50):
Lạy
Thiên Chúa, xin xót thương con
(1) Phần nhạc trưởng. Thánh vịnh.
Của vua Ða-vít.
(2) Ngôn sứ Na-than đến gặp vua
vì vua đã đến với bà Bát Se-va.
(3) Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng
nhân hậu xót thương con,
mở lượng hải hà xoá tội con đã
phạm.
(4) Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.
(5) Vâng, con biết tội mình đã
phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.
(6) Con đắc tội với Chúa, với một
mình Chúa,
dám làm điều dữ trái mắt Ngài.
Như vậy, Ngài thật công bình khi
tuyên án,
liêm chính khi xét xử.
(7) Ngài thấy cho : lúc chào đời
con đã vương lầm lỗi,
đã mang tội khi mẹ mới hoài thai.
(8) Nhưng Ngài yêu thích tâm hồn
chân thật,
dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan.
(9) Xin dùng cành hương thảo
rảy nước thanh tẩy con, con sẽ
được tinh tuyền;
xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng
hơn tuyết.
(10) Xin cho con được nghe
tiếng reo mừng hoan hỷ,
để xương cốt bị Ngài nghiền nát
được nhảy múa tưng bừng.
(11) Xin ngoảnh mặt đừng nhìn bao
tội lỗi
và xoá bỏ hết mọi lỗi lầm.
(12) Lạy Chúa Trời, xin tạo cho
con một tấm lòng trong trắng,
đổi mới tinh thần cho con nên
chung thuỷ.
(13) Xin đừng nỡ đuổi con không
cho gần Nhan Thánh,
đừng cất khỏi lòng con thần khí
thánh của Ngài.
(14) Xin ban lại cho con niềm vui
vì được Ngài cứu độ,
và lấy tinh thần quảng đại đỡ
nâng con;
(15) đường lối Ngài, con sẽ dạy
cho người tội lỗi,
ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài.
(16) Lạy Thiên Chúa con thờ là
Thiên Chúa cứu độ,
xin tha chết cho con, con sẽ tung
hô Ngài công chính.
(17) Lạy Chúa Trời, xin mở miệng
con,
cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.
(18) Chúa chẳng ưa thích gì tế
phẩm,
con có thượng tiến lễ toàn thiêu,
Ngài cũng không chấp nhận.
(19) Lạy Thiên Chúa, tế phẩm dâng
Ngài là tâm thần tan nát,
một tấm lòng tan nát dày vò, Ngài
sẽ chẳng khinh chê.
(20) Xin rộng lòng tuôn đổ hồng
phúc xuống Xi-on,
thành luỹ Giê-ru-sa-lem, xin Ngài
xây dựng lại.
(21) Bấy giờ Ngài vui nhận tế
phẩm luật truyền,
lễ vật toàn thiêu, lễ vật hiến
tế.
Bấy giờ thiên hạ giết bò tơ dâng
trên bàn thờ Chúa.
Thánh Vịnh 52 (51):
Chống
lại người miệng lưỡi hiểm độc
(1) Phần nhạc trưởng. Thi khúc.
Của vua Ða-vít.
(2) Khi Ðô-ếch, người Ê-đôm, đến
báo cho vua Sa-un rằng:
"Ða-vít đến gặp ông
A-khi-me-léc!"
(3) Hỡi kẻ gian hùng, khoe chi
tội ác?
(4) Suốt ngày ngươi tính kế hại
người!
Này hỡi tên chuyên nghề lừa đảo,
Lưỡi ngươi khác nào dao sắc bén.
(5) Ngươi ưa điều dữ hơn điều
lành.
chuộng điều gian dối hơn sự thật.
(6) Ngươi thích nói toàn lời độc
ác,
ôi miệng lưỡi điêu ngoa!
(7) Nên Chúa Trời sẽ tiêu diệt
ngươi vĩnh viễn,
lượm ngươi đi, đem vất khỏi lều,
và bứng gốc khỏi nơi dương thế.
(8) Nhìn thấy vậy, chính nhân sợ
hãi,
(9) nhạo cười rằng: nó đích thị
là người
chẳng lấy Chúa làm nơi ẩn náu,
nhưng chỉ tin cậy vào đống tiền
đống của
và khoe khoang mưu độc của mình.
(10) Còn phần tôi,
khác gì cây ô-liu xanh rờn trong
nhà Thiên Chúa,
tôi tin cậy vào tình thương Thiên
Chúa
mãi mãi đến muôn đời.
(11) Lạy Chúa, con nguyện tạ ơn
Ngài luôn mãi, vì Ngài đã ra tay.
Trước mặt những người hiếu trung
với Chúa,
con trông đợi danh Ngài, vì danh
Ngài thiện hảo.
Thánh Vịnh 53 (52):
Người
không tin vào Thiên Chúa (Tv 14)
(1) Phần nhạc trưởng. Cho cơn
bệnh. Thi khúc. Của vua Ða-vít.
Kẻ ngu si tự nhủ : "Làm chi
có Chúa Trời!"
(2) Chúng đã ra hư đốn, làm những
điều ghê tởm,
chẳng có một ai làm điều thiện.
(3) Từ trời cao Thiên Chúa nhìn
xuống loài người,
xem ai là kẻ có lương tri, biết
kiếm tìm Thiên Chúa.
(4) Người người đã lìa xa chính
lộ,
chỉ biết theo nhau làm chuyện suy
đồi,
chẳng có một ai làm điều thiện,
dẫu một người cũng không.
(5) Những kẻ làm điều ác, kẻ sống
trên xương máu đồng bào ta,
kẻ không cầu khẩn Thiên Chúa, há
chẳng hiểu biết gì?
(6) Này chúng phải kinh hoàng sợ
hãi,
khi chẳng có chi phải kinh hoàng,
vì Thiên Chúa làm tan xương nát
thịt
những kẻ nào vây hãm dân Ta.
Chúng sẽ phải thẹn thùng, vì
Thiên Chúa đã ruồng bỏ chúng.
(7) Từ Xi-on, ai sẽ đem lại ơn
cứu độ cho Ít-ra-en?
Khi Chúa đổi vận mạng dân Người,
nhà Gia-cóp vui mừng biết mấy,
Dân Ít-ra-en hớn hở dường bao!
Thánh Vịnh 54 (53):
Xin ơn
phù giúp
(1) Phần ca trưởng. Theo huyền
cầm. Thi khúc. Của vua Ða-vít.
(2) Nhân vụ dân Díp đến gặp vua
Sa-un và thưa:
"Này, Ða-vít lại không ẩn
núp nơi chúng tôi đó sao?"
(3) Lạy Thiên Chúa, xin dùng uy
danh mà cứu độ,
lấy quyền năng Ngài mà xử cho
con.
(4) Lạy Thiên Chúa, xin nghe con
nguyện cầu,
lắng tai nghe lời con thưa gửi.
(5) Phường kiêu ngạo nổi lên chống
đối,
bọn hung tàn tìm hại mạng sống
con,
chúng không kể gì đến Thiên Chúa.
(6) Nhưng này có Thiên Chúa phù
trì,
thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ.
(7) Ước gì điều ác quật lại kẻ
rình hại con,
vì Ngài thành tín, xin tiêu diệt
chúng.
(8) Con tự nguyện dâng Ngài lễ
tế,
lạy CHÚA, con xưng tụng danh
Ngài,
thật danh Ngài thiện hảo,
(9) vì Chúa giải thoát con khỏi
mọi gian nguy,
và con đã dám nghênh bọn địch
thù.
Thánh Vịnh 55 (54):
Than
phiền vì địch thù hung dữ, vì bạn bất trung
(1) Phần nhạc trưởng. Theo huyền cầm.
Thi khúc. Của vua Ða-vít.
(2) Lạy Chúa Trời, xin lắng nghe
lời con cầu nguyện,
con khẩn nài, xin đừng nỡ làm
ngơ,
(3) xin để ý đến con và thương
đáp lại.
Con kêu than, thốt ra lời lảm
nhảm,
(4) lòng xao xuyến bởi địch thù
thét gào, bởi ác nhân hà hiếp.
Trên thân này, chúng gieo tai
giáng họa,
nộ khí hằm hằm, xông đến hại con.
(5) Nghe trong mình tim đau thắt
lại,
bóng tử thần khủng khiếp chụp
xuống con.
(6) Bao run sợ nhập cả vào người,
cơn kinh hãi tư bề phủ lấp.
(7) Con tự nhủ: "Phải chi
được đôi cánh bồ câu
để bay bổng tìm nơi an nghỉ!
(8) Tôi sẽ lánh đi mãi tận chốn
xa vời, vào ở trong sa mạc.
(9) Tôi sẽ vội tìm nơi ẩn trú,
tránh khỏi cơn giông tố bão bùng."
(10) Lạy Chúa, xin Ngài gây xáo
trộn
và làm cho ngôn ngữ chúng bất
đồng,
(11) vì trong thành, con chỉ thấy
bạo hành và tranh tụng
rảo quanh trên tường luỹ suốt
ngày đêm.
(12) Khắp nội thành, toàn bất
công bạo tàn xảo kế,
nơi phố phường, chẳng hề vắng
chước độc mưu thâm.
(13) Giả như tên địch thù phỉ
báng, thì tôi cũng cam lòng,
hay kẻ ghét ghen lên mày lên mặt,
tôi có thể lánh đi.
(14) Nhưng đây lại là bạn, người
đồng vai đồng vế,
chỗ thân tình tâm phúc với tôi,
(15) đã cùng tôi chia ngọt sẻ
bùi,
trong đền Thiên Chúa, giữa hội
vui cùng sánh bước.
(16) Ước chi tử thần chụp ngay
xuống chúng,
và chúng bị chôn sống dưới âm ty,
vì tội ác ở trong nhà chúng, ở
ngay trong lòng chúng!
(17) Phần tôi, tôi kêu khấn Chúa
Trời, CHÚA sẽ thương cứu độ.
(18) Sớm trưa chiều, tôi than sầu
rên rỉ, Người sẽ nghe tiếng tôi.
(19) Người sẽ cứu tôi cho tính
mạng an toàn
khỏi bọn người xông đánh, vì
nhiều kẻ chống tôi.
(20) Thiên Chúa là Ðấng hiển trị
tự muôn đời,
sẽ nghe tiếng tôi và hạ nhục
chúng,
vì chúng không cải quá tự tân,
cũng chẳng hề kính sợ Chúa Trời,
(21) tên phản phúc ra tay hại
người thân nghĩa,
lại lỗi ước quên thề;
(22) miệng nói năng ngọt xớt,
lòng chỉ muốn chiến tranh,
lời trơn tru hơn mỡ, mà bén nhọn
như gươm.
(23) Hãy trút nhẹ gánh lo vào tay
CHÚA,
Người sẽ đỡ đần cho,
chẳng để chính nhân phải nghiêng
ngửa bao giờ.
(24) Lạy Thiên Chúa, chính Ngài
sẽ đẩy chúng vào hố diệt vong.
Phường khát máu và chuyên lường
gạt
chẳng có sống được nửa đời đâu!
Phần con đây con tin tưởng nơi
Ngài.
Thánh Vịnh 56 (55):
Tin
tưởng vào Thiên Chúa
(1) Phần ca trưởng. Theo cung
"áp bức của các vương công xa lạ".
Của vua Ða-vít. Se sẽ. Khi quân
Phi-li-tinh tra tay hại ông ở Gát.
(2) Xin thương xót con cùng, lạy
Thiên Chúa,
vì người ta giày xéo thân con, và
suốt ngày tấn công chèn ép.
(3) Ðịch thù con giày xéo suốt
ngày, bè lũ tấn công nhiều vô kể.
Ôi lạy Ðấng Tối Cao,
(4) trong ngày con sợ hãi, con
tin tưởng vào Ngài.
(5) Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa
và ca tụng lời Người.
Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa và
không còn sợ hãi.
Phàm nhân làm gì nổi được tôi?
(6) Lạy Chúa, suốt ngày chúng phá
rối việc con làm
và chỉ nghĩ đến chuyện hại con.
(7) Chúng tụ tập, rình mò, theo
dõi con từng bước
để tìm hại mạng con.
(8) Vì tội ác chúng làm, xin loại
trừ chúng.
Lạy Thiên Chúa, trong cơn lôi
đình, xin quật ngã chư dân.
(9) Bước đường con lận đận, chính
Ngài đã đếm rồi.
Xin lấy vò mà đựng nước mắt con.
Nào Ngài đã chẳng ghi tất cả vào
sổ sách?
(10) Ðịch thù phải tháo lui vào
ngày tôi cầu cứu.
Tôi biết rằng : Thiên Chúa ở bên
tôi.
(11) Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa
và ca tụng lời Người;
tôi ca tụng lời CHÚA.
(12) Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa
và không còn sợ hãi;
phàm nhân làm gì nổi được tôi?
(13) Lạy Thiên Chúa, lời khấn hứa
cùng Ngài, con xin giữ,
lễ tạ ơn, nguyện sẽ dâng Ngài,
(14) vì Ngài cứu mạng con khỏi
chết,
lại ngăn ngừa kẻo phải hụt chân,
để con bước đi trước mặt Ngài
trong ánh sáng dành cho kẻ sống.
Thánh Vịnh 57 (56):
Ẩn náu
bên Thiên Chúa
(1) Phần nhạc trưởng. "Xin
đừng phá đổ".
Của vua Ða-vít. Se sẽ. Khi ông
chạy vào hang, trốn vua Sa-un.
(2) Xin thương xót con cùng, lạy
Thiên Chúa,
xin Ngài thương xót con,
này con đến ẩn náu bên Ngài;
dưới bóng Ngài, này con ẩn náu,
tới khi nào hết tai họa khổ đau.
(3) Tôi kêu cầu Chúa Tối Cao,
Chúa ban ân phúc dồi dào cho tôi.
(4) Tự trời xanh, mong Người đưa
tay giải thoát,
hạ nhục kẻ thù tấn công tôi.
Xin Chúa Trời gởi xuống
tình thương và lòng thành tín của
Người.
(5) Tôi phải nằm giữa bầy sư tử,
loài thú ăn thịt người;
nanh vuốt chúng là đầu tên mũi
giáo,
lưỡi thì sắc bén tựa gươm đao.
(6) Lạy Thiên Chúa, xin biểu thị
uy phong khắp cõi trời
và chiếu toả vinh quang đầy mặt
đất.
(7) Dưới chân con, chúng đã giăng
lưới sẵn,
cho con phải mắc vào.
Trước mặt con, chúng đào hầm đào
hố,
chính chúng lại sa chân.
(8) Con an lòng, lạy Thiên Chúa,
con vững dạ an lòng,
(9) này con xin đàn hát xướng ca.
Thức dậy đi, hồn tôi hỡi,
thức dậy đi, hỡi đàn sắt đàn cầm,
tôi còn đánh thức cả bình minh.
(10) Lạy Thiên Chúa, trước mặt
chư dân, con dâng lời cảm tạ,
giữa lòng muôn nước, con đàn hát
xướng ca.
(11) Vì tình thương của Ngài cao
ngất trời xanh,
và lòng thành tín vượt ngàn mây
thẳm.
(12) Lạy Thiên Chúa, xin biểu thị
uy phong khắp cõi trời
và chiếu toả vinh quang đầy mặt
đất.
Thánh Vịnh 58 (57):
Có thực
các người phán quyết công minh?
(1) Phần nhạc trưởng. "Xin
đừng phá đổ". Của vua Ða-vít. Se sẽ.
(2) Hỡi những kẻ quyền thế,
có thực các người phán quyết công
minh,
xét xử người ta theo đường chính
trực?
(3) Các người chủ tâm làm điều
bất chính,
ra tay bạo hành trên đất này.
(4) Bọn ác nhân lạc lối từ khi
lọt lòng mẹ,
phường gian dối lầm đường ngay
thuở mới sinh ra.
(5) Nọc của chúng khác nào nọc
rắn,
chúng như hổ mang điếc bịt tai
(6) chẳng thèm nghe tiếng người
dụ rắn,
người thạo nghề thôi miên.
(7) Lạy Thiên Chúa, xin đánh
chúng bể miệng gãy răng,
lạy CHÚA, xin bẻ nanh của bầy sư
tử.
(8) Xin cho chúng biến đi như
nước chảy
và héo tàn như cỏ đạp dưới chân,
(9) như ốc sên vừa bò vừa rữa
như trẻ sinh non không thấy ánh
mặt trời.
(10) Ước gì lửa giận của Chúa
cuốn chúng đi
nhanh hơn lửa gai bén tới nồi.
(11) Người công chính sẽ vui mừng
thấy Chúa trả oán,
họ sẽ rửa chân trong máu ác nhân.
(12) Thiên hạ sẽ nói rằng:
"Quả thật có phần thưởng
dành cho người công chính,
quả thật có Thiên Chúa xét xử
trên địa cầu."
Thánh Vịnh 59 (58):
Xin ơn
đối phó với kẻ thù
(1) Phần nhạc trưởng. "Xin
đừng phá đổ". Của vua Ða-vít.
Se sẽ. Khi vua Sa-un sai người
canh giữ nhà ông để hãm hại ông.
(2) Lạy Thiên Chúa của con,
xin cứu con khỏi lũ địch thù,
bênh đỡ con chống lại kẻ tấn
công,
(3) cứu vớt con khỏi phường gian
ác,
giải thoát con khỏi bọn giết
người.
(4) Kìa mạng con, chúng rình hãm
hại,
lũ cường quyền xúm lại chống con.
(5) Lạy CHÚA, con đâu có tội có
lỗi gì, có làm chi lầm lỡ,
mà chúng cũng xông vào dàn trận.
(6) Lạy CHÚA là Chúa Tể càn khôn,
là Thiên Chúa nhà Ít-ra-en,
xin đứng lên trừng trị chư dân,
đừng thương hại một kẻ nào dã tâm
phản phúc.
(7) Chiều đến, chúng trở lại
tru lên như chó và chạy rông khắp
thành.
(8) Này chúng ba hoa sùi bọt mép,
lưỡi kiếm ở đầu môi.
Chúng nói : "Nào ai nghe
thấy được?"
(9) Nhưng phần Ngài, lạy CHÚA,
Ngài chê cười chúng,
Ngài nhạo báng chư dân.
(10) Lạy Thiên Chúa là sức mạnh
của con,
con ngước mắt nhìn Ngài,
bởi Ngài là thành luỹ bảo vệ con.
(11) Thiên Chúa, Ðấng đầy lòng
yêu mến, sẽ đến phù hộ tôi;
Thiên Chúa sẽ cho tôi nghênh bọn
địch thù.
(12) Xin Chúa đừng giết chúng,
kẻo dân của con lãng quên đi.
Lạy Chúa là khiên mộc của chúng
con,
xin dùng sức mạnh bắt chúng phải
lang thang,
và xin quật ngã chúng.
(13) Mở miệng ra là chúng nói
điều tội lỗi,
ước gì chúng bị hại vì thói kiêu
căng của mình,
vì lộng ngôn phạm thượng, vì ăn
gian nói dối.
(14) Trong cơn thịnh nộ, xin tiêu
diệt chúng đi,
xin tiêu diệt, để chúng không còn
nữa,
cho thiên hạ biết rằng:
Thiên Chúa thống trị nhà Gia-cóp,
và khắp cõi địa cầu.
(15) Chiều đến, chúng trở lại,
tru lên như chó và chạy rông khắp
thành.
(16) Chúng lang thang tìm kiếm
của ăn,
chúng gầm gừ khi không no bụng.
(17) Lạy Chúa, sức mạnh của Ngài,
con xin mừng hát,
tình thương Ngài, sớm sớm nguyện
tung hô,
bởi con được Chúa nên đồn nên
luỹ,
chốn con nương mình trong buổi
gian truân.
(18) Lạy Chúa là sức mạnh của
con, xin đàn hát mừng Ngài,
bởi Ngài là thành luỹ bảo vệ con,
lạy Thiên Chúa, Ðấng đầy lòng yêu
mến.
Thánh Vịnh 60 (59):
Lời cầu
nguyện sau khi bại trận
(1) Phần nhạc trưởng. Theo điệu
"Bông huệ chứng tri".
Se sẽ. Của vua Ða-vít. Ðể dạy.
(2) Khi ông đánh dân A-ram
Na-ha-ra-gim và A-ram Xô-va,
và khi ông Giô-áp trở lại đánh
thắng Ê-đôm trong thung lũng Muối:
mười hai ngàn người
(3) Lạy Thiên Chúa, Ngài đã ruồng
bỏ chúng con
và làm cho tan nát;
Ngài đã từng nổi cơn thịnh nộ,
nhưng xin trở lại với chúng con!
(4) Chúa đã làm cho đất chuyển
rung và nứt nẻ,
xin hàn gắn lại cho khỏi lung lay.
(5) Dân Ngài, Ngài bắt nếm chua
cay,
ép chúng con cạn chén nồng choáng
váng.
(6) Ngài phất cờ hiệu cho kẻ kính
sợ Ngài,
để họ thoát mũi tên xạ thủ.
(7) Xin ra tay cứu độ, và đáp lời
chúng con,
để những kẻ Ngài yêu thương được
ơn giải thoát.
(8) Trong thánh điện, Chúa Trời
tuyên phán:
"Khấp khởi mừng, Ta chia cắt
Si-khem,
Ta đo đạc cả đồng bằng Xúc-cốt.
(9) Ga-la-át về Ta, Mơ-na-se cũng
về Ta,
Ta lấy Ép-ra-im làm mũ chiến đội
đầu,
lấy Giu-đa làm cây gậy chỉ huy.
(10) Mô-áp là chậu Ta tắm rửa,
Ê-đôm là chỗ Ta liệng giày,
đánh bại Phi-li-tinh, Ta reo mừng
thắng trận."
(11) Lạy Thiên Chúa, ai sẽ đưa
con vào thành kiên cố,
ai sẽ dắt con đến tận Ê-đôm?
(12) Há chẳng phải chính Ngài,
Ðấng đã từng ruồng bỏ chúng con,
chẳng còn dẫn ba quân xuất trận?
(13) Xin Ngài thương cứu viện cho
chúng con thoát khỏi quân thù,
chứ người phàm giúp đỡ chỉ bằng
không.
(14) Có Thiên Chúa, ta sẽ trổ tài
oanh liệt,
chính Người chà đạp kẻ thù ta.
Thánh Vịnh 61 (60):
Người
lưu vong cầu nguyện
(1) Phần nhạc trưởng. Theo huyền
cầm. Của vua Ða-vít.
(2) Lạy Chúa Trời, xin nghe tiếng
kêu van,
và lưu ý đến lời con thỉnh
nguyện.
(3) Từ cùng cõi địa cầu, con kêu
lên Chúa,
tâm thần này đang mòn mỏi rã rời.
Trên tảng đá kia cao vòi vọi, xin
Ngài dẫn con lên.
(4) Vì Chúa là nơi con vào trú
ẩn,
luỹ sắt thành đồng chống lại địch
quân.
(5) Ước gì con được ở mãi trong
lều thánh,
được chở che dưới cánh tay Ngài.
(6) Vâng chính Ngài, lạy Thiên
Chúa,
đã nghe lời khấn nguyện của con,
lại cho con thừa hưởng
cơ nghiệp dành cho ai kính sợ
danh Ngài.
(7) Lạy Thiên Chúa, xin gia tăng
tuổi thọ
cho đức vua sống mãi ngàn năm,
(8) hiển trị muôn đời trước Nhan
Thánh,
được ân tình tín nghĩa chở che.
(9) Bấy giờ con mãi đàn ca mừng
Danh Thánh,
ngày lại ngày, xin giữ trọn lời
nguyền.
Thánh Vịnh 62 (61):
Tin
tưởng vào Thiên Chúa
(1) Phần nhạc trưởng.
Giơ-đu-thun. Thánh vịnh. Của vua Ða-vít.
(2) Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên
hàn.
Ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến,
(3) duy Người là núi đá, là ơn
cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che : tôi chẳng hề
nao núng.
(4) Tới bao giờ các ngươi còn xúm
lại
để xông vào quật ngã một người?
Hắn đã như bức tường xiêu đổ,
như hàng rào đến lúc ngả nghiêng.
(5) Con người ấy, chúng chỉ mưu
hạ bệ,
chúng thoả lòng vì đã nói dối nói
gian.
Miệng thì chúc phúc cầu an,
mà lòng nguyền rủa chứa chan
những lời.
(6) Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
này hồn tôi hãy nghỉ ngơi yên
hàn.
Vì hy vọng của tôi bởi Người mà
đến,
(7) duy Người là núi đá, là ơn
cứu độ của tôi,
là thành luỹ chở che : tôi chẳng
hề nao núng.
(8) Nhờ Thiên Chúa, tôi được cứu
độ và vinh quang,
Người là núi đá vững vàng,
ở bên Thiên Chúa tôi hằng ẩn
thân.
(9) Hỡi dân Ta, hãy tin tưởng vào
Người luôn mãi,
trước mặt Người, hãy thổ lộ tâm
can:
Thiên Chúa là nơi ta ẩn náu.
(10) Kẻ thường dân âu chỉ là hơi
thở,
người quyền quý đều ví tựa ảo
huyền,
đứng cả lên cân cũng chẳng tày
mây khói.
(11) Ðừng tin tưởng ở trò áp bức
nữa,
chớ hoài công cậy ngón bóc lột
người!
Tiền tài dẫu sinh sôi nảy nở,
lòng chẳng nên gắn bó làm chi.
(12) Lạy Thiên Chúa, một lần Ngài
phán dạy,
con nghe được hai điều,
rằng : Ngài nắm quyền uy
(13) và giàu lòng nhân hậu;
rằng : Ngài theo tội phúc mà
thưởng phạt mỗi người
Thánh Vịnh 63 (62):
Tâm hồn
khát khao Thiên Chúa
(1) Thánh vịnh. Của vua Ða-vít.
Khi ông ở trong sa mạc Giu-đa.
(2) Lạy Thiên Chúa, Ngài là Thiên
Chúa con thờ,
ngay từ rạng đông con tìm kiếm
Chúa.
Linh hồn con đã khát khao Ngài,
tấm thân này mòn mỏi đợi trông,
như mảnh đất hoang khô cằn, không
giọt nước.
(3) Nên con đến ngắm nhìn Ngài
trong nơi thánh điện,
để thấy uy lực và vinh quang của
Ngài.
(4) Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng
sống,
miệng lưỡi này xin ca ngợi tán
dương.
(5) Suốt cả đời con, nguyện dâng
lời chúc tụng,
và giơ tay cầu khẩn danh Ngài.
(6) Lòng thoả thuê như khách vừa
dự tiệc,
môi miệng con rộn rã khúc hoan
ca.
(7) Con tưởng nhớ Chúa trên
giường ngủ,
suốt năm canh thầm thĩ với Ngài.
(8) Quả thật Ngài đã thương trợ
giúp,
nương bóng Ngài, con hớn hở reo
vui.
(9) Trót cả tâm tình, con cùng
Ngài gắn bó,
giơ tay quyền lực, Ngài che chở
phù trì.
(10) Còn những kẻ tìm hại mạng
con,
ước gì chúng phải xuống vực sâu
lòng đất,
(11) bị gươm giáo phanh thây, làm
mồi cho muông sói.
(12) Ðức Vua sẽ vui mừng trong
Thiên Chúa.
Ai lấy danh Chúa mà thề sẽ được
hiên ngang;
còn người nói dối phải câm miệng.
Thánh Vịnh 64 (63):
Cầu xin
Thiên Chúa giúp đối phó với kẻ thù
(1) Phần nhạc trưởng. Thánh vịnh.
Của vua Ða-vít.
(2) Lạy Chúa Trời, xin nghe tiếng
thở than,
gìn giữ mạng con khỏi quân thù
khủng bố,
(3) Này kẻ ác mưu đồ, chúng ồn ào
tác hại, xin giấu kỹ con đi.
(4) Chúng mài lưỡi như mài gươm
sắc,
lời thâm độc tựa tên lắp vào
cung,
(5) bắn trộm người vô tội,
bắn thình lình mà chẳng sợ chi.
(6) Chúng quyết tâm làm điều độc
dữ,
bàn luận xem gài bẫy thế nào,
rồi nhỏ to: "Ai mà thấy
được?"
(7) Bày kế lập mưu làm điều ác,
chúng hoàn thành kế hoạch đã mưu
toan.
Thâm hiểm biết bao lòng dạ người
đời!
(8) Nhưng Thiên Chúa lại bắn tên
vào chúng,
thình lình chúng đã bị trúng
thương.
(9) Tấc lưỡi mình hại mình là
thế!
Thiên hạ xem, ai cũng lắc đầu.
(10) Hết thảy mọi người đều kính
sợ,
họ sẽ loan truyền hành động của
Thiên Chúa
và hiểu ngay những việc Người
làm.
(11) Người công chính sẽ vui mừng
trong CHÚA
và ẩn náu bên Người.
Mọi tấm lòng chính trực đều lấy
thế làm vinh.
Thánh Vịnh 65 (64):
Lời tạ
ơn long trọng
(1) Phần nhạc trưởng. Thánh vịnh.
Của vua Ða-vít. Thánh ca.
(2) Lạy Thiên Chúa,
ca tụng Ngài ở Xi-on, thật là
chính đáng,
điều khấn hứa cùng Ngài, phải lo
giữ trọn.
(3) Chúa là Ðấng nghe lời cầu
khẩn,
mọi phàm nhân sẽ đến với Ngài,
(4) thân mang đầy tội lỗi;
bao tội ác đè bẹp chúng con,
nhưng phần Chúa, Chúa tha thứ cả.
(5) Phúc thay kẻ được Ngài tuyển
chọn
và cho ở tại khuôn viên đền Ngài.
Ân huệ nhà Chúa, chúng con tận
hưởng,
lộc thánh đền Ngài, lại được đầy
no.
(6) Ngài công minh đáp lại lời
chúng con
bằng những việc lạ lùng kinh hãi,
lạy Chúa Trời, Ðấng cứu độ chúng
con,
Ngài là niềm hy vọng của toàn cõi
đất
và hải đảo xa vời.
(7) Ngài dùng sức mạnh đặt núi
non vững chãi,
lấy uy dũng mà thắt ngang lưng.
(8) Biển cả gầm vang, sóng cồn
gào thét,
người muôn nước náo động xôn xao:
Ngài khiến tất cả phải im hơi
lặng tiếng.
(9) Dân cư trên khắp cùng trái
đất
thấy kỳ công của Ngài, phải khiếp
oai.
Ngài làm vang tiếng reo cười,
cửa đông sáng sớm, cửa đoài chiều
hôm.
(10) Thăm trái đất, Ngài tuôn mưa
móc,
cho ngập tràn phú túc giàu sang,
suối trời trữ nước mênh mang,
dọn đất sẵn sàng đón lúa trổ
bông.
(11) Tưới từng luống, san từng mô
đất,
khiến dầm mưa cho hạt nảy mầm,
(12) bốn mùa Chúa đổ hồng ân,
Ngài gieo màu mỡ ngập tràn lối
đi.
(13) Vùng hoang địa xanh rì ngọn
cỏ,
cảnh núi đồi hớn hở tươi xinh,
(14) chiên cừu phủ trắng đồng
xanh,
lúa vàng dưới lũng rung rinh dạt
dào,
câu hò tiếng hát trổi cao.
Thánh Vịnh 66 (65):
Ca khúc
tạ ơn
(1) Phần nhạc trưởng. Thánh ca.
Thánh vịnh.
Cả trái đất, hãy tung hô Thiên
Chúa,
(2) đàn hát lên mừng Danh Thánh
rạng ngời,
nào dâng lời ca tụng tôn vinh!
(3) Hãy thưa cùng Thiên Chúa:
"Khủng khiếp thay, sự nghiệp
của Ngài!
Trước thần lực uy hùng, địch thù
khúm núm.
(4) Toàn trái đất phải quỳ lạy
tôn thờ,
và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng
Thánh Danh."
(5) Ðến mà xem công trình của
Thiên Chúa:
hành động của Người đối với phàm
nhân
thật đáng kinh đáng sợ!
(6) Chúa làm cho biển khơi hoá
đất liền,
và dân Người đi bộ qua sông;
việc Người làm đó khiến ta hoan
hỷ.
(7) Chúa uy dũng hiển trị muôn
đời;
đôi mắt Người theo dõi chư dân,
quân làm phản chớ có hòng nổi
dậy!
(8) Nào chúc tụng Chúa Trời chúng
ta, muôn dân hỡi,
trổi vang lên lời tán dương
Người,
(9) Người là Ðấng bảo toàn mạng
sống
và giữ gìn ta khỏi lỡ bước sa
chân.
(10) Vâng lạy Chúa, Ngài đã từng
thử thách,
luyện chúng con như luyện bạc trong
lò,
(11) đã để cho rơi vào cạm bẫy,
gánh nặng nề chồng chất cả trên
vai,
(12) mặc thiên hạ cỡi lên đầu lên
cổ.
Cơn nước lửa, chúng con từng gặp
bao lần,
nhưng Ngài đã cứu thoát, đem ra
chỗ thảnh thơi.
(13) Mang lễ vật toàn thiêu, bước
vào nhà Chúa,
con xin giữ trọn điều khấn hứa
cùng Ngài,
(14) lời khấn đó, môi này đã
nguyện,
miệng thốt ra lúc gặp gian nguy.
(15) Con tiến dâng Ngài bò chiên
dê béo tốt,
làm lễ toàn thiêu nghi ngút bay
lên.
(16) Tất cả những ai kính sợ Chúa
Trời,
đến mà nghe tôi kể việc Chúa đã
làm để giúp tôi.
(17) Vừa mở miệng kêu lên cùng
Chúa,
tấc lưỡi tán dương, tôi đã sẵn
sàng.
(18) Ðiều gian ác, nếu lòng này
ấp ủ,
chắc hẳn là Chúa chẳng nghe đâu.
(19) Thế mà Thiên Chúa đã nghe
rồi, để tâm đến lời tôi cầu nguyện.
(20) Xin chúc tụng Thiên Chúa
đã chẳng bác lời thỉnh nguyện tôi
dâng,
lại cũng không dứt nghĩa đoạn
tình.
Thánh Vịnh 67 (66):
Muôn dân
nước hãy cảm tạ Thiên Chúa
(1) Phần nhạc trưởng. Theo huyền
cầm. Thánh vịnh. Thánh ca.
(2) Nguyện Chúa Trời dủ thương và
chúc phúc,
xin tỏa ánh tôn nhan rạng ngời
trên chúng con,
(3) cho cả hoàn cầu biết đường
lối Chúa,
và muôn nước biết ơn cứu độ của
Ngài.
(4) Ước gì chư dân cảm tạ Ngài,
lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ
Ngài!
(5) Ước gì muôn nước reo hò mừng
rỡ,
vì Chúa cai trị cả hoàn cầu theo
lẽ công minh,
Người cai trị muôn nước theo
đường chính trực
và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất
này.
(6) Ước gì chư dân cảm tạ Ngài,
lạy Thiên Chúa,
chư dân phải đồng thanh cảm tạ
Ngài.
(7) Ðất đã sinh ra mùa màng hoa
trái:
Chúa Trời, Chúa chúng ta, đã ban
phúc lộc.
(8) Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc
cho ta!
Ước chi toàn cõi đất kính sợ
Người!
Thánh Vịnh 68 (67):
Thiên
Chúa chiến thắng khải hoàn
(1) Phần nhạc trưởng. Của vua
Ða-vít. Thánh vịnh. Thánh ca.
(2) Thiên Chúa đứng lên, địch thù
Người tán loạn,
kẻ ghét Người phải chạy trốn
Thánh Nhan.
(3) Như làn khói cuộn, chúng bị
Chúa cuốn đi;
như sáp chảy tan khi vừa gặp lửa,
kẻ ác cũng tiêu vong khi giáp mặt
Chúa Trời.
(4) Còn những người công chính
múa nhảy mừng vui trước mặt Chúa
Trời,
niềm hoan lạc trào dâng.
(5) Hãy hát mừng Thiên Chúa, đàn
ca kính danh Người,
hãy dọn đường cho Ðấng ngự giá
đằng vân.
Danh Người là ÐỨC CHÚA;
trước Thánh Nhan, hãy vui mừng
hớn hở.
(6) Cha nuôi dưỡng cô nhi, Ðấng
đỡ bênh quả phụ,
chính là Thiên Chúa ngự trong
thánh điện Người.
(7) Kẻ cô thân, Thiên Chúa cho
nhà cửa,
hạng tù đày, Người trả lại tự do
hạnh phúc,
còn quân phản nghịch phải ở nơi
khô cằn.
(8) Lạy Thiên Chúa,
thuở Ngài lãnh đạo đoàn dân riêng
xuất trận,
thuở Ngài tiến bước trong sa mạc
hoang vu,
(9) đất đã chuyển rung, trời cũng
tan chảy,
trước mặt Thiên Chúa, Ðấng xuất
hiện tại núi Xi-nai,
trước mặt Thiên Chúa là Thiên
Chúa của Ít-ra-en.
(10) Lạy Thiên Chúa, Ngài đổ mưa
ân hậu,
gia nghiệp Ngài tiêu hao mòn mỏi,
Ngài đã bổ sức cho.
(11) Lạy Thiên Chúa, đàn chiên
của Ngài đến ở nơi đâu,
Ngài cũng luôn nâng đỡ,
bởi vì Ngài nhân hậu đối với kẻ
khó nghèo.
(12) Ðức Chúa vừa tuyên sấm,
cả một đoàn quân phụ nữ đã loan
đi:
(13) Vua quan đào tẩu, binh lính
chạy dài!
Phụ nữ ở nhà đem chia chiến lợi
phẩm.
(14) Sao các ngươi nằm yên sau
tường kín,
khi cánh bồ câu dát bạc long
lanh,
cả bộ lông mườn mượt ánh vàng,
(15) khi Ðấng Toàn Năng dẹp chư
vương tại đó,
khi tuyết rơi đầy trên đỉnh
Xan-môn?
(16) Hỡi Ba-san, non thần núi
thánh,
hỡi Ba-san, rặng núi ngất cao.
(17) Hỡi rặng núi ngất cao, cớ
sao mi lườm nguýt
ngọn núi được Chúa Trời dành làm
nơi ngự trị?
Quả thật ở nơi đó CHÚA sẽ ngự
muôn đời.
(18) Xa mã Thiên Chúa, ngàn muôn
ức triệu,
tự Xi-nai, Chúa tiến vào đền
thánh.
(19) Ngài đã lên cao, dẫn theo
một đám tù,
nhận đám người này làm lễ vật
triều cống;
cả những quân phản nghịch
cũng phải ở bên cạnh CHÚA TRỜI.
(20) Ngày lại ngày, xin chúc tụng
Chúa,
Thiên Chúa cứu độ ta, Người đỡ
nâng ta.
(21) Thiên Chúa chúng ta là Thiên
Chúa cứu độ,
lối thoát khỏi tử thần thuộc
quyền của ÐỨC CHÚA.
(22) Còn những quân thù địch,
Thiên Chúa đập bể đầu;
bọn theo đường gian ác, Người
đánh cho vỡ sọ.
(23) Chúa đã phán: "Từ
Ba-san Ta dẫn đưa về,
dẫn đưa về từ đáy biển thẳm sâu,
(24) để cho ngươi dầm chân trong
máu,
bầy chó của ngươi đưa lưỡi liếm
thây thù."
(25) Lạy Thiên Chúa con thờ, là
Vua của con,
thiên hạ đã nhìn thấy đám rước
Ngài,
đám rước Ngài vào trong thánh
điện.
(26) Ca đoàn mở lối, ban nhạc
theo sau,
giữa là thanh nữ khua trống nhịp
nhàng.
(27) Hãy họp nhau mà chúc tụng
Thiên Chúa,
chúc tụng CHÚA, hỡi dòng dõi
Ít-ra-en.
(28) Kìa Ben-gia-min phận út dẫn
đầu,
chức sắc Giu-đa với đoàn quân rộn
rã,
chức sắc Dơ-vu-lun và Náp-ta-li.
(29) Lạy Thiên Chúa, xin biểu
dương quyền lực của Ngài,
việc đã làm cho chúng con, xin
Ngài củng cố.
(30) Từ thánh điện Ngài ở
Giê-ru-sa-lem,
là nơi vua chúa về triều cống,
(31) xin Ngài hăm dọa Con Thú bãi
lau
hăm dọa đàn bò mộng, với lũ bò
con là dân của chúng,
chúng phải đem bạc nén đến quỳ
dâng;
còn những dân hiếu chiến, xin
Ngài đập tan tành.
(32) Hàng vương giả sẽ từ Ai-cập
đến,
còn xứ Cút sẽ dang tay cầu khẩn
Chúa Trời.
(33) Hỡi vương quốc trần gian,
nào hát khen Thượng Ðế, hãy đàn
ca mừng Chúa,
(34) Ðấng ngự chốn cửu trùng,
chốn cửu trùng thái cổ.
Này Người lên tiếng, tiếng thật
uy hùng.
(35) Hãy nhìn nhận sức uy hùng
của Thiên Chúa,
ánh quang huy của Người chiếu toả
trên Ít-ra-en,
sức uy hùng xuất hiện trên mây
thẳm.
(36) Từ thánh điện, Thiên Chúa tỏ
ra
Người là Ðấng khả tôn khả uý.
Chính Người là Thiên Chúa
Ít-ra-en,
Ðấng ban tặng cho dân dũng lực uy
quyền.
Xin chúc tụng Thiên Chúa.
Thánh Vịnh 69 (68):
Vì nhiệt
tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân
(1) Phần nhạc trưởng. Theo điệu:
Bông huệ� Của vua Ða-vít.
(2) Lạy Chúa Trời, xin cứu vớt
con, vì nước đã dâng lên tới cổ.
(3) Con bị lún sâu xuống chỗ sình
lầy,
chẳng biết đứng vào đâu cho vững,
thân chìm ngập trong dòng nước
thẳm,
sóng dạt dào đã cuốn trôi đi.
(4) Kêu hoài nên kiệt sức, họng
con đã ráo khô;
đôi mắt đã mỏi mòn bởi trông chờ
Thiên Chúa.
(5) Kẻ vô cớ ghét con nhiều hơn
tóc trên đầu,
bọn thù con vô lý lại mạnh thế
hơn con.
Chẳng lấy chi của người, thế mà
con phải trả!
(6) Lạy Chúa Trời, Ngài biết con
điên dại,
lỗi lầm con, làm sao giấu được
Ngài!
(7) Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn,
xin cho những người trông đợi
Chúa
đừng vì con mà phải thẹn thùng.
Lạy Chúa Trời nhà Ít-ra-en,
xin đừng để những ai tìm kiếm
Ngài
lại vì con mà mang tủi hổ.
(8) Âu cũng vì Ngài, mà con bị
người đời thoá mạ,
chịu nhuốc nhơ phủ lấp mặt mày.
(9) Anh em nhà kể con như người
dưng nước lã,
hàng máu mủxem con bằng khách lạ
mà thôi.
(10) Vì nhiệt tâm lo việc nhà
Chúa, mà con phải thiệt thân.
Lời kẻ thoá mạ Ngài, này chính
con hứng chịu.
(11) Con nhịn ăn đến tiều tuỵ
thân hình,
thì thành cớ cho người chế giễu;
(12) khoác vào mình tấm áo vải
thô,
thì lại nên trò cười cho thiên hạ.
(13) Bọn ngồi lê đôi mách cứ gièm
pha,
quân rượu chè cũng đặt vè châm
chọc.
(14) Lạy CHÚA, phần con xin dâng
Ngài lời nguyện,
lạy Chúa Trời, đây giờ phút thi
ân.
Xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày,
vì Chúa vẫn trung thành ban ơn
cứu độ.
(15) Xin Ngài kéo con lên
cho khỏi lún xuống chỗ sình lầy,
cho con thoát tay thù, thoát dòng
nước thẳm.
(16) Xin đừng để sóng cồn cuốn
con đi,
đừng để cho vực thẳm nuốt con
vào,
và miệng hố sâu ngậm lại, chôn
sống.
(17) Lạy CHÚA, xin lấy lòng nhân
hậu mà đáp lại lời con;
xin mở lượng hải hà mà đoái
thương nhìn đến.
(18) Xin đừng lánh mặt tôi tớ
Chúa đây,
này con gặp nguy khốn, xin mau
trả lời.
(19) Mong Chúa tiến lại gần và
thương cứu mạng,
ban ơn giải thoát, vì có kẻ ghét
con.
(20) Chúa biết rõ con bị người
chửi mắng,
lại mang vào thân tủi hổ với nhục
nhằn;
những kẻ thù con, Ngài nhìn thấy
cả.
(21) Lời thoá mạ làm tim này tan
vỡ, con héo hắt rã rời.
Nỗi sầu riêng, mong người chia
sớt,
luống công chờ, không được một
ai;
đợi người an ủi đôi lời,
trông mãi trông hoài mà chẳng thấy
đâu!
(22) Thay đồ ăn, chúng trao mật
đắng,
con khát nước, lại cho uống giấm
chua.
(23) Ước gì bàn tiệc chúng dọn ra
nên cạm bẫy cho chúng sa vào,
và trở thành dò lưới ngay với cả
bạn thân.
(24) Ước gì mắt chúng mù đi không
thấy nữa,
và lưng sụm xuống đến mãn đời.
(25) Xin Ngài đổ cơn thịnh nộ lên
người chúng
và cho lửa giận ập xuống đầu.
(26) Ước gì nơi chúng ở phải tan
hoang,
lều trại chúng không còn ai trú
ngụ.
(27) Vì kẻ bị Ngài đánh, chúng
ngược đãi chẳng tha;
kẻ bị Ngài đả thương, chúng lại
còn gây thêm thương tích.
(28) Xin đổ lên đầu chúng hết tội
này đến tội kia
và chẳng hề kể chúng là công
chính trước mặt Ngài.
(29) Ước gì chúng bị xoá tên
trong sổ trường sinh,
chẳng được ghi vào số những người
công chính.
(30) Phần con đây, thật khốn cùng
đau khổ,
lạy Chúa Trời, xin cứu vớt đỡ
nâng.
(31) Tôi sẽ hát bài ca chúc mừng
Danh Thánh,
sẽ dâng lời cảm tạ tán dương
Người.
(32) Làm như vậy sẽ đẹp lòng CHÚA
hơn dâng tiến bò bê đủ móng đủ
sừng.
(33) Những ai nghèo hèn, xem đấy
mà vui lên,
người tìm Thiên Chúa, hãy nức
lòng phấn khởi.
(34) Vì CHÚA nhận lời kẻ nghèo
khó,
chẳng coi khinh thân hữu bị giam
cầm.
(35) Ca tụng Chúa đi, hỡi trời
cao đất thấp,
hỡi biển sâu cùng hải vật muôn
vàn!
(36) Vì Chúa Trời sẽ giải cứu
Xi-on,
các thành thị miền Giu-đa, Người
cũng tái thiết,
cho dân đến định cư lập nghiệp.
(37) Miền đất ấy sẽ trở nên gia
tài
của giống nòi các tôi tớ Chúa,
thành quê hương xứ sở
của những người mến chuộng Thánh
Danh.
Thánh Vịnh 70 (69):
Lạy Chúa
Trời, xin đến cứu con (Tv 40, 14-18)
(1) Phần nhạc trưởng. Của vua
Ða-vít. Ðể tưởng nhớ.
(2) Lạy Chúa Trời, xin đến cứu
con,
muôn lạy CHÚA, xin mau phù trợ!
(3) Ước gì những kẻ tìm hại mạng
sống con
phải nhơ nhuốc thẹn thùng!
Ước gì bọn đắc chí vì con mắc hoạ
phải tháo lui nhục nhã!
(4) Những đứa cười ha hả nhạo con
phải quay gót thẹn thùng!
(5) Ước chi mọi kẻ tìm kiếm Chúa
đều mừng vui hoan hỷ trong Ngài!
Và những ai cảm mến ơn Ngài tế độ
luôn nói rằng : "Thiên Chúa
vĩ đại thay!"
(6) Thân phận con khốn khổ nghèo
hèn,
xin mau đến cùng con, lạy Thiên
Chúa!
Ngài là Ðấng phù trợ, là Ðấng
giải thoát con,
muôn lạy CHÚA, xin đừng trì hoãn.
Thánh Vịnh 71 (70):
Từ độ
thanh xuân, tôi trông cậy Chúa
(1) Con ẩn náu bên Ngài, lạy
CHÚA,
xin đừng để con phải tủi nhục bao
giờ.
(2) Vì Ngài công chính, xin cứu
vớt và giải thoát con,
ghé tai nghe và thương cứu độ.
(3) Xin Ngài nên như núi đá cho
con trú ẩn,
như thành trì để cứu độ con,
núi đá và thành trì bảo vệ con,
chính là Ngài.
(4) Lạy Thiên Chúa, xin giải
thoát con khỏi bàn tay kẻ dữ,
khỏi móng vuốt phường nham hiểm
và bọn dã man.
(5) Vì lạy Chúa, chính Ngài là
Ðấng con trông đợi,
lạy ÐỨC CHÚA, chính Ngài là Ðấng
con tin tưởng
ngay từ độ thanh xuân.
(6) Từ thuở sơ sinh, con nương
tựa vào Ngài,
Ngài đã kéo con ra khỏi lòng mẹ,
con ca tụng Ngài chẳng khi ngơi.
(7) Con đã gây thắc mắc cho bao
người,
nhưng Chúa là nơi vững chắc cho
con vào trú ẩn.
(8) Miệng chứa chan lời tán tụng
Chúa,
suốt ngày con chẳng ngớt tôn
vinh.
(9) Xin đừng sa thải con lúc tuổi
đà xế bóng,
chớ bỏ rơi khi sức lực suy tàn.
(10) Vì thù địch nặng lời chống
đối,
quân rình hại mạng con đã nhất
trí bày mưu,
(11) bảo nhau rằng : "Thiên
Chúa bỏ hắn rồi, cứ truy nã,
bắt hắn đi, chẳng có ai cứu hắn
đâu mà!"
(12) Lạy Thiên Chúa, xin đừng nỡ
xa con,
lạy Thiên Chúa, xin Ngài mau trợ
giúp!
(13) Ước gì những người muốn hại
mạng sống con
đều phải chết nhục nhã ê chề;
kẻ tìm cách gây hoạ cho con
phải muôn vàn nhuốc nhơ xấu hổ.
(14) Phần con đây, vẫn một bề
trông cậy,
và gia tăng lời tán tụng Ngài.
(15) Miệng con công bố Ngài chính
trực,
suốt ngày tường thuật ơn cứu độ
Ngài ban,
ơn của Ngài, nhiều khôn xiết kể!
(16) Con thuật lại bao chiến công
của CHÚA,
nhắc nhở rằng : chỉ mình Ngài
chính trực công minh.
(17) Từ độ thanh xuân, lạy Thiên
Chúa,
con đã được Ngài thương dạy dỗ.
Tới giờ này, con vẫn truyền rao
vĩ nghiệp của Ngài.
(18) Cả lúc con già nua, da mồi
tóc bạc,
lạy Thiên Chúa, xin đừng bỏ rơi
con,
để con tường thuật quyền năng của
Chúa
cho thế hệ này được rõ,
và dũng lực của Ngài
cho thế hệ mai sau.
(19) Lạy Thiên Chúa, đức chính
trực của Ngài cao vời vợi,
Ngài đã làm những việc lớn lao,
lạy Thiên Chúa, nào ai sánh tày!
(20) Ngài bắt con nếm mùi tân
khổ,
chính Ngài sẽ cho con được hoàn
sinh
và kéo ra khỏi vực sâu lòng đất.
(21) Phần vinh hoa, Ngài sẽ ban
nhiều, và trở lại vỗ về an ủi.
(22) Lạy Thiên Chúa, con dạo khúc
hạc cầm
tạ ơn Ngài thành tín.
Gảy cung tỳ bà, con ngâm vịnh
kính dâng Ngài, lạy Ðức Thánh của
Ít-ra-en.
(23) Miệng con sẽ reo hò theo
nhịp đàn mừng Chúa.
Hồn con nữa, hồn con Ngài cứu
chuộc,
cũng vui sướng hò reo.
(24) Và suốt ngày con nhẩm đi
nhắc lại:
quả thật Ngài công chính!
Vì những kẻ tìm cách gây hoạ cho
con sẽ xấu hổ thẹn thùng.
Thánh Vịnh 72 (71):
Vương
quyền của Ðức Mê-si-a Vua
(1) Của vua Sa-lô-môn.
Tâu Thượng Ðế, xin ban quyền bính
Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái
Tử,
(2) để Tân Vương xét xử dân Ngài
theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo
hèn.
(3) Núi đem lại cảnh hoà bình
trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân.
(4) Người sẽ bảo toàn quyền lợi
dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
(5) Nguyện chúc Người tuổi thọ
sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn
kiếp!
(6) Mong Người xuống tựa mưa sa
nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
(7) Triều đại Người, đua nở hoa
công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày
nao tuế nguyệt chẳng còn.
(8) Người làm bá chủ từ biển này
qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng trái đất.
(9) Dân vùng sa mạc khúm núm quy
hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn
cỏ.
(10) Từ Tác-sít và hải đảo xa
xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
(11) Mọi quân vương phủ phục
trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.
(12) Người giải thoát bần dân kêu
khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa
nương,
(13) chạnh lòng thương ai bé nhỏ
khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay
tế độ,
(14) giải thoát cho khỏi áp bức
bạo tàn,
từng giọt máu họ, Người đều coi
là quý.
(15) Tân Vương vạn vạn tuế!
Thiên hạ sẽ đem vàng Ả-rập tiến
dâng lên,
và cầu xin cho Người luôn mãi,
ngày lại ngày chúc phúc cho
Người.
(16) Mong cho xứ sở đầy dư gạo
thóc,
đỉnh non cao sóng lúa rì rào,
trổ bông vàng đẹp tựa núi
Li-băng,
thâu lượm được nhiều như cỏ dại.
(17) Danh thơm Người sẽ trường
tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt
trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ
Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen
Người có phúc.
(18) Chúc tụng ÐỨC CHÚA là Thiên
Chúa Ít-ra-en,
chỉ có Ngài làm nên những công
trình kỳ diệu.
(19) Muôn muôn đời xin chúc tụng
danh Chúa hiển vinh,
ước gì vinh quang Chúa chiếu toả
khắp hoàn cầu!
A-men. A-men.
Thánh Vịnh 73 (72):
Lạy Chúa
Trời, xin đến cứu con
(1) Thánh vịnh. Của ông A-xáp.
Thiên Chúa nhân hậu biết dường
nào với nhà Ít-ra-en,
với những kẻ có lòng trong sạch!
(2) Thế mà tôi đã gần như hụt
bước,
một chút nữa là tôi phải trượt
chân,
(3) bởi ganh tị những người lên
mặt
và thấy ác nhân thịnh đạt hoài.
(4) Quả là chúng không nếm mùi
tân khổ,
chúng có thân hình mạnh mẽ phương
phi,
(5) không hề vất vả như ai khác,
chẳng bị tai ương giống người
đời.
(6) Vì vậy, chúng lấy vẻ kiêu
căng làm vòng đeo cổ,
lấy thói bạo tàn làm áo che thân.
(7) Xác đầy mỡ tiết ra toàn gian
ác,
và tâm địa chan chứa những mưu
mô.
(8) Chúng chế giễu, buông lời
thâm độc,
lại kiêu căng bàn chuyện ức hiếp
người;
(9) miệng chẳng từ xúc phạm trời
cao,
lưỡi tự do tung hoành cõi đất.
(10) Nên dân Ta hướng về chúng
cả,
lời chúng thốt ra, hăm hở nuốt
vào.
(11) Chúng bảo : "Chúa Trời
đâu có biết,
Ðấng Tối Cao nào hiểu chuyện
chi!"
(12) Aùc nhân như vậy đó,
chúng vẫn cứ an nhàn, thu tích
của cải.
(13) Lạy Chúa, như thế là con đã
uổng công
giữ lòng trong trắng, giữ tay
thanh sạch!
(14) Suốt ngày con bị đòn bị
đánh,
mỗi sớm mai hình phạt rình chờ.
(15) Giả như con tự nhủ : mình
nói năng như chúng,
thì con đã thất trung với giống
dòng con Chúa.
(16) Nên con mới gẫm suy để hiểu
chuyện này,
nhưng đối với con thật là vất vả;
(17) cho tới ngày được vào trong
thánh điện,
con mới am tường hậu vận chúng ra
sao.
(18) Quả Ngài đặt chúng vào nơi
trơn trượt,
đẩy cho rơi vào cảnh điêu tàn.
(19) Trong nháy mắt, hỡi ôi,
chúng đã sụp đổ rồi,
nỗi kinh hoàng ập xuống, cuốn mất
cả tăm hơi!
(20) Lạy Chúa, khi tỉnh giấc,
Ngài xua đuổi hình ảnh chúng đi,
như giấc mộng phai mờ lúc người
ta thức dậy.
(21) Khi lòng con ngậm hờn cay
đắng
và nỗi đớn đau thấu tận ruột gan,
(22) con quả đã ngu si chẳng
hiểu,
trước mặt Ngài, như thú vật nào
hơn!
(23) Thật con ở với Chúa luôn,
tay con Ngài nắm chẳng buông
chẳng rời,
(24) dắt dìu khuyên nhủ bao lời,
một mai đưa tới rạng ngời quang
vinh.
(25) Con còn ai chốn trời xanh?
bên Ngài thế sự thật tình chẳng
ham.
(26) Dẫu cho hồn xác suy tàn,
thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con,
muôn đời là Chúa cao tôn.
(27) Kìa ai xa Chúa, sẽ mai một
hết,
những kẻ phụ Ngài, Ngài diệt cả
đi.
(28) Còn hạnh phúc của con là ở
kề bên Chúa,
chốn ẩn thân đặt ở Chúa Trời.
Mọi việc Ngài làm, con xin kể lại
nơi cửa vào thành thánh Xi-on.
Thánh Vịnh 74 (73):
Than vãn
vì Ðền Thờ bị tàn phá và thù địch lộng hành
(1) Thi khúc. Của ông A-xáp.
Lạy Chúa Trời, sao cứ mãi bỏ rơi,
sao bừng bừng nổi giận
với đoàn chiên Ngài hằng chăn
dắt?
(2) Xin nhớ đến đoàn dân Ngài quy
tụ thuở ban đầu,
chi tộc Ngài chuộc lấy làm sản
nghiệp riêng,
và núi Xi-on, nơi Ngài ngự trị.
(3) Xin đặt bước vào chốn điêu
tàn vạn cổ.
Trong thánh điện, quân thù đã phá
đổ tan hoang.
(4) Chính chỗ xưa từng làm nơi
hội họp,
nay đối phương ầm ĩ thét gào;
chúng trương cờ làm hiệu kỳ chiến
thắng.
(5) Chúng như những kẻ múa riù
trong rừng rậm,
(6) vồ búa vung lên, đập tan nát
cửa đền.
(7) Thánh điện Ngài, chúng châm
lửa đốt,
đền thờ Thánh Danh,
chúng xúc phạm, chúng san bằng;
(8) rồi tự nhủ: "Mình phá
hết đi !"
Trong cả xứ, chúng thiêu hủy mọi
nơi thờ phượng.
(9) Dấu lạ xưa, chúng con đâu
thấy nữa,
ngôn sứ cũng chẳng còn.
Mãi đến khi nao, ai nào có biết?
(10) Lạy Thiên Chúa, tới bao giờ
đối phương còn phỉ báng?
Ðịch thù cứ nhục mạ danh Ngài mãi
mãi sao?
(11) Cánh tay Ngài, cánh tay dũng
mãnh,
sao Ngài rút lại, chẳng can thiệp
gì?
(12) Thế mà lạy Thiên Chúa, Vua
chúng con tự muôn thuở,
Ðấng từng chiến thắng trên toàn
cõi địa cầu,
(13) chính Ngài đã ra oai xẻ đôi
lòng biển,
trên làn nước biếc, Ngài đập vỡ
sọ thuồng luồng;
(14) chính Ngài đã nghiền nát bảy
đầu con giao long,
vứt nó làm mồi cho thủy quái;
(15) chính Ngài đã khơi nguồn cho
suối tuôn thác đổ,
chính Ngài làm cạn khô sông đang
chảy dạt dào.
(16) Ngày là của Chúa, đêm cũng
là của Chúa;
chính Ngài sắp đặt tinh tú cùng
thái dương;
(17) chính Ngài vạch biên cương
cho cõi đất,
thời hạ tiết đông, cũng chính
Ngài thiết lập.
(18) Lạy CHÚA, xin nhớ cho : thù
địch phỉ báng Ngài,
lũ dân điên rồ nhục mạ Thánh
Danh.
(19) Thân phận bồ câu, xin đừng
trao cho thú dữ,
đừng mãi mãi quên đi mạng sống
dân nghèo khổ của Ngài.
(20) Giao ước thuở xưa, xin nhìn
lại,
bởi vì khằp hang cùng ngõ hẻm,
chỉ thấy sào huyệt quân bạo tàn.
(21) Xin chớ để người bị áp bức
phải ra về tủi hổ,
nhưng xin cho kẻ nghèo người khổ
được ca ngợi Thánh Danh.
(22) Lạy Thiên Chúa, xin đứng lên
biện hộ cho Ngài;
xin Chúa nhớ lại rằng:
quân điên dại ngày ngày phỉ báng
Chúa.
(23) Xin đừng quên tiếng kẻ thù
Chúa hò la,
tiếng quân địch thét gào vang lên
mãi.
Thánh Vịnh 75 (74):
Thiên
Chúa là thẩm phán công minh
(1) Phần nhạc trưởng. "Xin
đừng phá đổ." Thánh vịnh. Của ông A-xáp. Thánh ca.
(2) Lạy Thiên Chúa, chúng con xin
tạ ơn Ngài,
tạ ơn Ngài và cầu khẩn Thánh
Danh,
kỳ công Ngài, chúng con xin kể
lại.
(3) Chúa phán : "Vào thời Ta
ấn định, Ta sẽ xử công minh.
(4) Mặt đất cùng toàn thể dân cư,
dù rung chuyển,
chính Ta đã làm cho cột trụ nó
vững rồi.
(5) Ta bảo lũ kiêu căng : 'Ðừng
kiêu ngạo!'
Bảo phường tội lỗi : 'Chớ dương
oai!
(6) Này chớ dương oai ngạo với
Trời,
ăn nói ngang tàng khinh cả
Chúa'."
(7) Vì chẳng có chi tự đông đoài
hay sa mạc
làm cho ai được cất nhắc lên.
(8) Chỉ Thiên Chúa mới là thẩm
phán,
Chúa hạ bệ người này, cất nhắc kẻ
kia.
(9) Vì này tay CHÚA cầm chén
rượu,
chén rượu đầy mùi vị đắng cay,
rót cho bọn gian ác trên đời,
tất cả đều phải uống, uống không
chừa cặn.
(10) Phần tôi đây, sẽ hoan hỷ
muôn đời
và đàn ca kính Chúa nhà Gia-cóp.
(11) Tôi sẽ đập tan uy quyền kẻ
dữ,
còn uy thế người lành sẽ được
nâng cao.
Thánh Vịnh 76 (75):
Tạ ơn
sau khi chiến thắng
(1) Phần nhạc trưởng. Theo huyền
cầm. Thánh vịnh. Của ông A-xáp. Thánh ca.
(2) Miền Giu-đa nức tiếng Chúa Trời,
tại Ít-ra-en, danh Người cao cả.
(3) Chúa đã cắm lều ở Sa-lem, núi
Xi-on là nơi Chúa ngự.
(4) Chính tại đó, Người bẻ gãy
cung tên,
khiên mộc gươm đao, mọi võ khí.
(5) Lạy Chúa, Ngài quả là lẫm
liệt oai hùng,
vì chiến lợi phẩm thu về từng
núi,
(6) đoạt của lớp anh hùng mê mệt
ngủ say
và đoàn dũng sĩ cánh tay rời rã.
(7) Lạy Chúa nhà Gia-cóp, Chúa
thị uy
là ngựa xe đứng liền tại chỗ.
(8) Quả thật Ngài đáng sợ!
Trong lúc Ngài nổi trận lôi đình,
nào ai đứng vững trước Thánh
Nhan?
(9) Tự chốn trời cao, Ngài tuyên
án:
trái đất này kinh hãi lặng yên,
(10) khi Chúa Trời đứng lên xét
xử,
cứu mọi kẻ nghèo hèn chốn dương
gian.
(11) Cả cơn giận phàm nhân cũng
thành lời ca tụng,
kẻ thoát lôi đình sẽ mở hội mừng
Ngài.
(12) Hãy khấn nguyền và giữ y lời
hứa
với Chúa là Thiên Chúa các ngươi.
Kẻ hầu cận Ðấng khả tôn khả uý
hãy đem lễ vật tiến dâng Người.
(13) Người đập tan khí thế bao
thủ lãnh,
gây kinh hoàng cho vua chúa trần
gian.
Thánh Vịnh 77 (76):
Hồi
tưởng những kỳ công của Thiên Chúa
(1) Phần nhạc trưởng?
Giơ-đu-thun. Của ông A-xáp. Thánh vịnh.
(2) Tôi cất lời kêu lên cùng
Chúa,
lời tôi kêu Chúa, xin Người lắng
nghe.
(3) Ngày khốn quẫn, tôi tìm kiếm
Chúa,
tay vươn lên không biết mỏi lúc
đêm trường,
hồn tôi nào có thiết lời an ủi!
(4) Tưởng nhớ Chúa, tôi thở vắn
than dài,
suy gẫm hoài nên khí lực tiêu
hao.
(5) Lạy Chúa, Ngài không để con
khép mi chợp mắt,
lòng xao xuyến, con chẳng nói lên
lời.
(6) Hồi tưởng lại bao ngày xa cũ,
tâm hồn ấp ủ những năm xưa,
(7) suốt canh khuya, trong dạ nhủ
thầm,
và suy gẫm, trí lòng con tự hỏi:
(8) Phải chăng Chúa ruồng bỏ đến
muôn đời,
chẳng bao giờ còn dủ lòng thương
đoái?
(9) Tình yêu Chúa phải chăng nay
đã cạn hẳn
và thánh ngôn chấm dứt đời đời?
(10) Hay Thiên Chúa đã quên
thương xót,
vì giận hờn mà khép kín từ tâm?
(11) Tôi tự bảo : điều làm tôi
đau đớn
là Ðấng Tối Cao chẳng còn ra tay
nữa.
(12) Lạy CHÚA, con tưởng nhớ bao
việc Ngài làm,
tưởng nhớ những kỳ công thuở
trước.
(13) Mọi hành động của Ngài, con
nhẩm đi nhắc lại,
sự nghiệp Ngài, con sẽ gẫm suy.
(14) Lạy Thiên Chúa, đường lối
Ngài quả là thánh thiện,
có thần nào cao cả như Thiên
Chúa?
(15) Chính Ngài là vị Thần thực
hiện những kỳ công,
biểu dương sức mạnh giữa muôn vàn
dân nước.
(16) Tay Chúa đã cứu chuộc dân
Ngài
là giống nòi Gia-cóp và Giu-se.
(17) Nước đã thấy Ngài, lạy Thiên
Chúa,
thấy Ngài, nước rùng mình khiếp
sợ,
cả vực sâu cũng run rẩy kinh
hoàng.
(18) Mây tầng đổ mưa, mây tầng
vang tiếng,
ngang dọc khắp trời, tên lửa Ngài
bay.
(19) Tiếng sấm của Chúa ầm ầm
vang dội,
ánh chớp chói loà soi sáng thế
gian,
khắp địa cầu lung lay rung
chuyển.
(20) Ðường của Chúa băng qua biển
rộng,
lối của Ngài rẽ nước mênh mông,
mà chẳng ai nhận thấy vết chân
Ngài.
(21) Chúa dùng bàn tay của Mô-sê
và A-ha-ron
mà lãnh đạo dân riêng của Chúa,
như dẫn dắt đoàn chiên.
Thánh Vịnh 78 (77):
Lịch sử
Ít-ra-en cho thấy Thiên Chúa nhân từ mà dân Chúa lại bội bạc
(1) Thi khúc. Của ông A-xáp.
Dân tôi hỡi, này nghe tôi dạy bảo,
Lắng tai đón nhận lời lẽ miệng
tôi.
(2) Mở miệng ra, tôi sẽ nói đôi
lời huấn dụ,
công bố điều huyền bí thuở xa
xưa.
(3) Ðiều chúng tôi đã từng nghe
biết
do cha ông kể lại cho mình,
(4) chúng tôi chẳng giấu gì con
cháu cả,
sẽ tường thuật cho thế hệ mai
sau:
sự nghiệp lẫy lừng, quyền uy của
CHÚA,
với những kỳ công Chúa đã làm.
(5) Người đã ban huấn lệnh cho
nhà Gia-cóp,
đặt ra lề luật cho Ít-ra-en,
dạy tổ tiên chúng tôi truyền lại
cho con cháu các cụ được tường,
(6) hầu thế hệ tương lai kẻ hậu
sinh cũng biết,
rồi mai ngày đến lượt kể cho con
cháu mình.
(7) Như vậy, chúng sẽ đặt niềm
tin vào Thiên Chúa,
không lãng quên những việc Chúa
làm
và tuân giữ lệnh Người truyền
dạy:
(8) Ðứng như thể cha ông, nòi
ngoan cố phản loạn,
nòi tâm địa thất thường, dạ bất
trung cùng Chúa.
(9) Người chi tộc Ép-ra-im rành
nghề cung nỏ,
ngày giao chiến đành phải tháo
lui;
(10) họ không giữ giao ước với
Chúa Trời,
và chẳng chịu sống theo luật
Chúa;
(11) đã quên đi những việc Người
làm
những kỳ công Người đã cho chứng
kiến.
(12) Trước mắt cha ông họ, Người
đã làm bao việc lạ lùng
tại cánh đồng Xô-an bên Ai-cập.
(13) Người rẽ Biển Ðỏ cho họ vượt
qua,
dồn nước lại như tường thành sừng
sững;
(14) dùng cột mây hướng dẫn họ
ban ngày
và ban đêm lấy lửa hồng soi sáng.
(15) Người xẻ đá giữa sa mạc
hoang vu,
khiến nước tuôn tràn cho dân được
uống,
(16) từ khe đá, Người khơi dòng
suối chảy,
nước đổ dạt dào như những con
sông.
(17) Nhưng dân lại càng phạm tội
mất lòng Chúa,
phản nghịch cùng Ðấng Tối Cao tại
miền hoang địa;
(18) họ chủ tâm thử thách cả Chúa
Trời,
đòi được ăn cho vừa sở thích.
(19) Họ kêu trách Thiên Chúa rằng
trong sa mạc này,
liệu Chúa Trời có thể dọn gì cho
ta ăn?
(20) Người đập vào tảng đá làm
cho nước chảy ra
như thác lũ lan tràn,
nhưng liệu còn có thể cung cấp
cho dân Người
bánh và thịt nữa chăng?
(21) Nghe thấy thế, CHÚA liền
phẫn nộ,
bừng lửa giận với nhà Gia-cóp,
nổi trận lôi đình với Ít-ra-en,
(22) vì họ đã không tin ở Chúa
Trời,
chẳng cậy trông ơn Người cứu độ.
(23) Chúa hạ lệnh cho mây tầng
cao thẳm,
lại truyền mở rộng cánh thiên
môn;
(24) Người khiến man-na tựa hồ
mưa đổ xuống,
và ban bánh bởi trời nuôi dưỡng
họ.
(25) Kẻ phàm nhân được ăn bánh
thiên thần,
Chúa gửi đến cho họ dồi dào lương
thực.
(26) Trên trời cao, Người giục
gió đông thổi tới,
dùng sức mạnh đưa ngọn gió nam
về.
(27) Người cho mưa thịt xuống
nhiều như bụi,
chim chóc ê hề như cát đại dương;
(28) Người cho rớt vào ngay doanh
trại, chung quanh lều dân ở.
(29) Họ được ăn, ăn thật no nê,
thèm thứ gì, Người đãi cho thứ
đó.
(30) Nhưng khi họ chưa kịp đã
thèm,
khi miếng ăn còn chưa kịp nuốt,
(31) thì cơn giận Chúa Trời đã
bừng lên phạt họ.
Chúa giết ngay những người khoẻ
nhất Ít-ra-en.
Chúa giết liền bọn trai trẻ ấy.
(32) Thế mà dân cứ phạm thêm bao
tội lỗi,
chẳng buồn tin việc lạ Chúa làm,
(33) nên kiếp sống họ, Người diệt
đi trong khoảnh khắc,
tuổi đời họ, Người chấm dứt thình
lình.
(34) Khi Chúa giết họ, họ mới đi
tìm Chúa,
mới trở lại và mau mắn kiếm
Người,
(35) mới nhớ rằng: Thiên Chúa là
núi đá họ ẩn thân,
Thiên Chúa Tối Cao là Ðấng cứu
chuộc họ.
(36) Miệng họ phỉnh phờ Chúa,
lưỡi họ lừa dối Người;
(37) còn lòng dạ chẳng chút gì
gắn bó,
chẳng trung thành giữ giao ước
của Người.
(38) Nhưng Người vẫn xót thương,
thứ tha, không tiêu diệt,
nén giận đã bao lần, chẳng khơi
bùng nộ khí.
(39) Chúa nhớ rằng: thân phận
chúng: bọt bèo mỏng mảnh,
gió thoảng qua, không hẹn ngày
về.
(40) Trong sa mạc, bao lần dân
làm phản,
trêu giận Người giữa chốn hoang
vu.
(41) Khiêu khích Chúa, họ thử đi
thách lại,
làm cực lòng Ðức Thánh của
Ít-ra-en,
(42) không còn nhớ tay quyền năng
của Chúa,
quên ngày Chúa cứu khỏi ách quân
thù.
(43) Khi Người tung ra những điềm
thiêng bên Ai-cập
và bao dấu lạ trong cánh đồng
Xô-an.
(44) Kìa nước sông nước suối,
Người biến ra máu hồng,
khiến cho dân Ai-cập không thể
nào uống nổi.
(45) Người sai mòng đến cắn, ếch
nhái làm tan hoang,
(46) cào cào ăn lúa má, châu chấu
phá mùa màng;
(47) mưa đá huỷ vườn nho, sương muối
diệt cây vả,
(48) dịch tàn sát chiên dê, thời
khí hại bò lừa.
(49) Người trút lửa giận lên đầu
dân Ai-cập,
nào lôi đình, nào thịnh nộ với
gian truân,
đó là cả một đạo hung thần.
(50) Người để cho cơn giận tung
hoành mặc sức,
sinh mạng chúng, Người chẳng dung
tha,
nhưng bắt phải chết vì dịch tễ.
(51) Người giết mọi con đầu lòng
Ai-cập,
là tinh hoa của dòng giống họ
Kham.
(52) Còn dân Chúa, Người dẫn đi
như thể đàn cừu,
đem họ vào sa mạc chẳng khác bầy
chiên,
(53) đưa họ đi an toàn, chẳng có
chi phải sợ,
nhưng quân thù họ bị biển khơi
chôn vùi.
(54) Chúa đưa dân vào miền thánh
địa
là vùng núi non tay Người đã
chiếm.
(55) Trước mặt họ, Người đuổi dân
ngoại đi,
đo đất chia làm phần gia sản,
cấp cho mọi chi tộc Ít-ra-en,
để họ tới dựng lều cư ngụ.
(56) Thế mà họ thử thách, phản
lại Chúa Chí Tôn,
lệnh Người đã ban truyền, họ
chẳng tuân chẳng giữ.
(57) Họ xa lìa, phản bội, chẳng
khác gì cha ông,
luôn tráo trở thất thường như
cánh cung sai chạy.
(58) Họ lập đàn thờ quấy mà trêu
giận Chúa Trời,
lại tôn sùng ngẫu tượng khiến
Chúa phải ghen tương.
(59) Nghe thấy thế, Người nổi cơn
thịnh nộ,
quyết tình ruồng rẫy Ít-ra-en,
(60) và từ bỏ ngôi đền Si-lô là
lều Chúa ngự giữa loài người.
(61) Hòm bia thánh tượng trưng uy
quyền vinh quang Chúa,
Người cũng để tay thù chiếm đoạt
mang đi.
(62) Quá bất bình với dân được
chọn làm gia sản
Người phó mặc họ cho lưỡi gươm
hung tàn.
(63) Lửa chiến chinh huỷ diệt đời
trai tráng,
thiếu nữ chẳng còn được nghe điệu
vu quy!
(64) Hàng tư tế bị gươm đao sát
hại,
goá phụ thương chồng mà chẳng
được khóc than!
(65) Bấy giờ Chúa như người đang
ngủ,
như tướng hùng đã thấm men say,
(66) bỗng tỉnh giấc, đánh cho
quân thù quay lưng chạy,
phải thảm thê nhục nhã muôn đời.
(67) Chúa loại bỏ nhà Giu-se,
chi tộc Ép-ra-im, Người không
tuyển chọn,
(68) nhưng tuyển chọn chi tộc
Giu-đa
và núi Xi-on, nơi Người ưa thích.
(69) Chúa xây thánh điện Người
như trời xanh cao thẳm,
và cũng như trái đất Người đặt
vững muôn đời.
(70) Chúa chọn Ða-vít, người tôi
trung,
cất nhắc ông, thuở còn là mục tử,
cho vời đến, lúc đang giữ bầy
chiên,
(71) để chăn dắt dân Người là
Gia-cóp,
và Ít-ra-en sản nghiệp của Người.
(72) Ông chăn dắt họ với một lòng
liêm chính,
tay dẫn đưa khéo léo tài tình.
Thánh Vịnh 79 (78):
Lời than
vãn về thành thánh Giê-ru-sa-lem và Ðền Thờ bị phá huỷ
(1) Thánh vịnh. Của ông A-xáp.
Lạy Thiên Chúa, dân ngoại đã xâm
lăng lãnh địa Ngài;
chúng làm ô uế cả nơi thánh điện,
phá huỷ Giê-ru-sa-lem thành đống
tro tàn;
(2) tử thi những người tôi tớ
Chúa,
chúng đem liệng cho chim trời ăn;
xác những kẻ hiếu trung với Ngài,
lại quẳng làm mồi cho dã thú.
(3) Quanh khắp cả Giê-ru-sa-lem
chúng đổ máu dân Ngài như nước
chảy,
người chết chẳng ai chôn.
(4) Chúng con bị láng giềng thoá
mạ
người chung quanh phỉ báng nhạo
cười.
(5) Ðến bao giờ, lạy CHÚA, Ngài
còn nổi giận,
Ngài nổi giận mãi sao?
Ðến bao giờ lòng ghen còn cháy
bừng như lửa?
(6) Xin giáng trận lôi đình
xuống đầu các dân ngoại đã không
nhận biết Ngài,
và trên các vương quốc chẳng kêu
cầu Thánh Danh,
(7) vì chúng đã tiêu diệt nhà
Gia-cóp,
tàn phá cả đất đai.
(8) Tội tiền nhân, xin Chúa đừng
nhớ mãi
mà trừng phạt chúng con.
Xin dủ lòng thương mau đến giúp,
vì chúng con đã khổ quá nhiều.
(9) Lạy Chúa Trời, Ðấng cứu độ
chúng con,
xin Ngài thương phù trợ, để danh
Ngài rạng rỡ.
Xin giải thoát chúng con, và thứ
tha tội lỗi,
vì danh dự của Ngài.
(10) Sao Ngài để cho dân ngoại
nói:
"Thiên Chúa chúng ở
đâu?"
Ước gì chúng con thấy nhãn tiền:
Ngài làm cho chư dân nhận biết
rằng chúng phải đền nợ máu tôi tớ
Ngài,
máu chúng đã đổ ra.
(11) Ước gì tiếng tù nhân rên
siết vọng lên thấu tai Ngài.
Xin giơ tay hùng mạnh cứu sống
những người mang án tử.
(12) Lạy Chúa, kẻ láng giềng
chúng con đã lăng nhục Chúa,
xin trả báo cho bản thân chúng
gấp bảy lần.
(13) Phần chúng con là dân của
Ngài, đoàn chiên Ngài chăn dắt,
chúng con sẻ tạ ơn Ngài mãi mãi
và dâng lời ca tụng đến muôn thuở
muôn đời.
Thánh Vịnh 80 (79):
Lạy
Thiên Chúa, xin thăm nom vườn nho của Chúa
(1) Phần ca trưởng. Ðiệu: Bông
huệ chứng tri. Của ông A-xáp. Thánh vịnh.
(2) Lạy Mục Tử nhà Ít-ra-en,
Ngài là Ðấng chăn giữ nhà Giu-se
như chăn giữ chiên cừu, xin hãy lắng
tai nghe!
Ngài là Ðấng ngự trên các thần hộ
giá,
(3) xin giãi sáng hiển linh cho
dòng dõi Ép-ra-im,
Ben-gia-min và Mơ-na-se được
thấy.
Xin khơi dậy uy dũng của Ngài,
đến cùng chúng con và thương cứu
độ.
(4) Lạy Thiên Chúa, xin phục hồi
chúng con,
xin toả ánh tôn nhan rạng ngời
để chúng con được ơn cứu độ.
(5) Lạy CHÚA là Chúa Tể càn khôn,
đến khi nao Chúa còn nóng giận,
chẳng màng chi lời dân Chúa
nguyện cầu?
(6) Cơm Ngài cho ăn chỉ là châu
luỵ,
nước Ngài cho uống là suối lệ
chứa chan.
(7) Ngài đã khiến chúng con thành
cớ
cho lân bang cãi cọ tranh giành,
cho thù địch nhạo cười chế giễu.
(8) Lạy Chúa Tể càn khôn, xin
phục hồi chúng con,
xin toả ánh tôn nhan rạng ngời
để chúng con được ơn cứu độ.
(9) Gốc nho này, Chúa bứng từ Ai-cập,
đuổi chư dân, lấy chỗ mà trồng,
(10) Chúa khẩn hoang bốn bề quang
đãng,
cho bén rễ sâu và lan rộng khắp
nơi.
(11) Bóng um tùm phủ xanh đầu
núi,
cành sum sê rợp bá hương thần,
(12) nhánh vươn dài tới phía đại
dương,
chồi mọc xa đến tận miền Sông Cả.
(13) Tường rào nó, vậy sao Ngài
phá đổ?
Khách qua đường mặc sức hái mà
ăn!
(14) Heo rừng vào phá phách,
dã thú gặm tan hoang.
(15) Lạy Chúa Tể càn khôn, xin
trở lại,
từ cõi trời, xin ngó xuống mà
xem,
xin Ngài thăm nom vườn nho cũ,
(16) bảo vệ cây tay hữu Chúa đã
trồng,
và chồi non được Ngài ban sức
mạnh.
(17) Những người đã hoả thiêu
chặt phá,
Ngài nghiêm sắc mặt là chúng phải
tiêu tan
(18) Xin giơ tay bênh vực Ðấng
đang ngồi bên hữu
là con người được Chúa ban sức
mạnh.
(19) Chúng con nguyền chẳng xa
Chúa nữa đâu,
cúi xin Ngài ban cho được sống,
để chúng con xưng tụng danh Ngài
(20) Lạy CHÚA là Chúa Tể càn
khôn,
xin phục hồi chúng con,
xin toả ánh tôn nhan rạng ngời
để chúng con được ơn cứu độ.
Thánh Vịnh 81 (80):
Long
trọng nhắc lại lời giao ước
(1) Phần ca trưởng. Có họa đàn
thành Gát. Của ông A-xáp.
(2) Reo lên mừng Thiên Chúa, Ðấng
trợ lực chúng ta!
Hò vang dậy đi nào kính Chúa nhà
Gia-cóp!
(3) Ðàn hát lên nào, hoà nhịp
trống cơm,
bổng trầm gieo tiếng cầm tiếng
sắt.
(4) Rúc lên đi, hãy rúc tù và,
mồng một ngày rằm cho ta mừng lễ.
(5) Ðó là luật Ít-ra-en phải cứ,
Thiên Chúa nhà Gia-cóp đã phán
truyền.
(6) Chỉ thị này, nhà Giu-se đã
nhận khi bỏ miền Ai-cập ra đi.
Một giọng nói tôi nghe khác lạ,
(7) rằng: "Gánh nặng vai
dân, Ta đã cất cho,
tay họ thôi cầm chiếc ki người nô
lệ.
(8) Lúc ngặt nghèo, ngươi kêu
lên,
Ta liền giải thoát.
Giữa mây mù sấm chớp, Ta đã đáp
lời,
bên mạch nước Mơ-ri-va, Ta thử
lòng ngươi.
(9) "Dân Ta hỡi, nghe Ta
cảnh cáo,
Ít-ra-en này, phải chi ngươi chịu
nghe Ta,
(10) thì đừng đem thần lạ về nhà,
thần ngoại bang, chớ hề cúng bái.
(11) Chính Ta là THƯỠNG ÐẾ Chúa
ngươi,
đã đưa ngươi lên từ miền Ai-cập,
há miệng ngươi ra, Ta sẽ cho đầy
ứ.
(12) "Nhưng dân Ta đã chẳng
nghe lời,
Ít-ra-en nào đâu có chịu.
(13) Ta đành mặc họ lòng chai dạ
đá,
muốn đi đâu thì cứ việc đi!
(14) "Ôi dân Ta mà đã nghe
lời,
Ít-ra-en chịu theo đường Ta chỉ,
(15) thì hết những địch thù của
chúng,
những kẻ hà hiếp chúng xưa nay,
Ta tức khắc trở tay quật ngã;
(16) "Kẻ thù CHÚA sẽ cầu
thân nịnh bợ,
ấy là số phận chúng muôn đời;
(17) còn dân Ta, Ta sẽ nuôi bằng
lúa mì tinh hảo,
mật ong rừng, Ta cho hưởng thoả
thuê."
Thánh Vịnh 82 (81):
Tố cáo
những thẩm phán bất công
(1) Thánh vịnh. Của ông A-xáp.
Thượng Ðế chủ tọa triều đình
thiên quốc,
Người xử án giữa chư thánh chư thần:
(2) "Tới bao giờ các ngươi
còn xử án bất công,
hay còn thiên vị phường gian ác?
(3) Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi,
người hèn mọn;
minh oan cho người khốn khổ, kẻ
bần cùng,
(4) giải phóng ai hèn mọn, ai
nghèo túng,
cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân.
(5) "Vậy mà chúng chẳng hay
chẳng hiểu,
cứ bước đi, giữa tăm tối mịt mù,
khiến nền tảng địa cầu phải lung
lay nghiêng ngả.
(6) Ta đã phán: Hết thảy các
ngươi đây
đều là bậc thần thánh, là con
Ðấng Tối Cao,
(7) thế nhưng rồi phải chết không
khác kẻ phàm nhân,
và có ngày sụp đổ như mọi bậc
quan quyền."
(8) Tâu Thượng Ðế, xin Ngài đứng
dậy mà xét xử địa cầu,
vì chính Ngài làm chủ muôn dân.
Thánh Vịnh 83 (82):
Kẻ thù
của Ít-ra-en liên minh chống lại Ít-ra-en và Thiên Chúa
(1) Thánh vịnh. Thánh ca. Của ông
A-xáp.
(2) Lạy Thiên Chúa, xin đừng làm
thinh,
xin đừng nín lặng ngồi yên, lạy
Thiên Chúa.
(3) Kìa kẻ thù Chúa ồn ào náo
động,
bọn ghét Ngài đang ngóc đầu lên.
(4) Chúng lập kế chống lại dân
Ngài,
bày mưu chống những kẻ Ngài bảo
trợ.
(5) Chúng rằng: "Nào ta hây
diệt bọn đó đi,
để chúng không còn là một dân tộc
nữa
và chẳng còn ai nhắc đến tên tuổi
Ít-ra-en."
(6) Chúng đồng lòng bày mưu lập
kế,
liên minh chống lại Ngài:
(7) Nào là dân Ê-đôm cùng với
Ít-ma-ên, Mô-áp và Ha-ga.
(8) Nào là dân Gơ-van, Am-mon,
A-ma-lếch
và Phi-li-tinh cùng dân thành Tia
nữa.
(9) Cả Aùt-sua cũng vào hùa với
chúng
và tiếp tay cho dòng dõi Lót.
(10) Xin Ngài xử với chúng như đã
xử với dân Ma-đi-an,
với hai tên Xi-xơ-ra và Gia-vin
tại khe suối Ki-sôn;
(11) hai tên này đã bị tiêu diệt
tại Ên Ðo
và thành phân bón ruộng.
(12) Xin làm cho vua quan của
chúng
phải đồng số phận cùng Ô-rếp và
Dơ-ếp,
cho thủ lãnh của chúng
cùng chung vận mạng với De-vác và
Xan-mun-na;
(13) những tên này đã nói:
"Ta hãy chiếm lãnh địa Thiên
Chúa!"
(14) Lạy Thiên Chúa con thờ,
xin làm cho chúng như chiếc lá
quay cuồng,
như cọng rơm trước gió.
(15) Giống như lửa thiêu rừng,
tựa hoả hào đốt núi,
(16) Xin Ngài cho nổi cơn dông tố
đuổi chúng đi,
cho bừng lên trận bão làm chúng
hoảng sợ.
(17) Xin cho chúng phải bẽ mặt ê
chề,
để chúng kiếm tìm danh Ngài, lạy
CHÚA.
(18) Xin cho chúng phải muôn đời
nhuốc nhơ hoảng sợ,
phải xấu hổ diệt vong,
(19) để chúng nhận biết rằng chỉ
có Ngài mang danh ÐỨC CHÚA,
Ðấng Tối Cao trên khắp địa cầu.
Thánh Vịnh 84 (83):
Ước mong
về Ðền Thánh
(1) Phần nhạc trưởng. Có họa đàn
thành Gát. Của con cái ông Cô-rắc. Thánh vịnh.
(2) Lạy Chúa Tể càn khôn, cung điện
Ngài xiết bao khả ái.
(3) Mảnh hồn này khát khao mòn
mỏi
mong tới được khuôn viên đền
vàng.
Cả tấm thân con cùng là tấc dạ
những hướng lên Chúa Trời hằng sống
mà hớn hở reo mừng.
(4) Lạy Chúa Tể càn khôn là Ðức
Vua, là Thiên Chúa con thờ,
ngay chim sẻ còn tìm được mái ấm,
cánh nhạn kia cũng làm tổ đặt con
bên bàn thờ của Chúa!
(5) Phúc thay người ở trong thánh
điện
họ luôn luôn được hát mừng Ngài.
(6) Phúc thay kẻ lấy Ngài làm sức
mạnh,
ấp ủ trong lòng giấc mộng hành
hương.
(7) Lúc trẩy qua thung lũng Khô
Cằn,
họ biến nó thành nguồn suối nước,
mưa đầu mùa đổ phúc lộc chứa
chan.
(8) Càng tiến lên, họ càng mạnh
bước
đến chiêm ngưỡng Chúa Trời ngự
trên núi Xi-on.
(9) Lạy CHÚA là Chúa Tể càn khôn,
xin đoái nghe lời con cầu nguyện.
Xin lắng tai, lạy Chúa nhà
Gia-cóp.
(10) Lạy Chúa là khiên mộc chở
che,
xin thương xem nhìn đến
gương mặt đấng Ngài đã xức dầu.
(11) Một ngày tại khuôn viên
thánh điện
quý hơn cả ngàn ngày.
Thà con ở cổng đền Thiên Chúa
vẫn còn hơn sống trong trại ác
nhân!
(12) Thiên Chúa là vầng thái
dương, là thuẫn đỡ,
CHÚA tặng ban ân huệ với vinh
quang.
Ai sống đời trọn hảo, Người chẳng
nỡ từ chối ơn lành.
(13) Lạy Chúa Tể càn khôn, phúc
thay người tin tưởng vào Chúa!
Thánh Vịnh 85 (84):
Xin ơn
bình an và cứu độ
(1) Phần nhạc trưởng. Của con cái
ông Cô-rắc. Thánh vịnh.
(2) Lạy CHÚA, Ngài đã tỏ lòng thương
thánh điện,
tù nhân nhà Gia-cóp, Ngài dẫn đưa
về.
(3) Tội vạ dân Ngài, Ngài tha
thứ, mọi lỗi lầm, cũng phủ lấp đi.
(4) Ngài dẹp trận lôi đình và
nguôi cơn thịnh nộ.
(5) Lạy Chúa Trời, Ðấng cứu độ
chúng con,
xin dẫn chúng con về, đừng hận
chúng con nữa.
(6) Phải chăng Ngài giận mãi
không thôi,
đời lại đời cứ nuôi cơn thịnh nộ?
(7) Nào chẳng phải chính Ngài
sẽ lại làm cho chúng con được
sống
để dân riêng được hoan hỉ trong
Ngài?
(8) Lạy CHÚA, xin tỏ cho chúng
con thấy tình thương của Chúa,
và ban ơn cứu độ cho chúng con.
(9) Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa
phán,
điều CHÚA phán là lời chúc bình
an
cho dân Người, cho kẻ trung hiếu
và những ai hướng lòng trí về
Người.
(10) Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ
cho ai kính sợ Chúa,
để vinh quang của Người hằng
chiếu toả trên đất nước chúng ta.
(11) Tín nghĩa ân tình nay hội
ngộ,
hoà bình công lý đã giao duyên.
(12) Tín nghĩa mọc lên từ đất
thấp,
công lý nhìn xuống tự trời cao.
(13) Vâng, chính CHÚA sẽ tặng ban
phúc lộc
và đất chúng ta trổ sinh hoa
trái.
(14) Công lý đi tiền phong trước
mặt Người,
mở lối cho Người đặt bước chân.
Thánh Vịnh 86 (85):
Người
khó nghèo cầu nguyện trong cơn quẫn bách
(1) Lời cầu khẩn. Của vua Ða-vít.
Lạy CHÚA, xin lắng tai và đáp lời
con,
vì thân con nghèo hèn túng quẫn.
(2) Xin CHÚA bảo toàn sinh mạng
con, bởi vì con trung hiếu.
Xin cứu độ tôi tớ Ngài đây hằng
tin tưởng nơi Ngài.
(3) Chính Ngài là Thiên Chúa của
con,
xin rủ lòng thương con, lạy Chúa:
con kêu con gọi Chúa suốt ngày.
(4) Lạy Chúa, xin làm cho con
được vui thoả,
vì con nâng tâm hồn lên tới Chúa.
(5) Lạy Chúa, Ngài nhân hậu khoan
hồng,
giàu tình thương với mọi kẻ kêu
xin;
(6) Lạy CHÚA, xin lắng nghe lời
con cầu khẩn,
tiếng con van nài, xin để ý lưu
tâm.
(7) Lâm cảnh ngặt nghèo, con kêu
lên Chúa,
vì Chúa vẫn đáp lời.
(8) Không một thần linh sánh kịp
Ngài, lạy Chúa,
việc Ngài làm, quả thật vô song.
(9) Lạy Chúa, muôn dân chính tay
Ngài tạo dựng
sẽ về phủ phục trước Thánh Nhan,
và tôn vinh danh Ngài.
(10) Vì Ngài thật cao cả, và làm
nên những việc lạ lùng;
chỉ một mình Ngài là Thiên Chúa.
(11) Xin dạy con đường lối Ngài,
lạy CHÚA,
để con vững bước theo chân lý của
Ngài.
Xin Chúa hướng lòng con,
Ðể con biết một niềm kính tôn
Danh Thánh.
(12) Lạy Chúa là Thiên Chúa con
thờ, con hết lòng cảm tạ,
Thánh danh Ngài, con mãi mãi tôn
vinh,
(13) vì tình thương Chúa thương
con như trời như biển,
Ngài đã kéo con ra khỏi vực thẳm
âm ty.
(14) Lạy Thiên Chúa, phường kiêu
ngạo nổi lên chống đối,
bè lũ hung tàn tìm hại mạng sống
con:
chúng đâu có kể chi đến Ngài.
(15) Phần Ngài, muôn lạy Chúa,
Ngài là Thiên Chúa nhân hậu từ
bi,
Ngài chậm giận, lại giàu tình
thương và lòng thành tín.
(16) Xin đoái nhìn và xót thương
con,
ban sức mạnh của Ngài và xuống ơn
cứu độ
cho tôi tớ Ngài đây, con của nữ
tỳ Ngài.
(17) Xin ban cho con một điềm báo
phúc,
để bọn thù ghét con trông thấy mà
hổ thẹn,
vì, lạy CHÚA, chính Ngài giúp đỡ
ủi an con.
Thánh Vịnh 87 (86):
Thành
Xi-on là mẹ muôn dân
(1) Của con cái ông Cô-rắc. Thánh
vịnh. Thánh ca.
Thành Xi-on được lập trên núi
thánh.
(2) CHÚA yêu chuộng cửa thành
hơn mọi nhà của dòng họ Gia-cóp.
(3) Thành của Thiên Chúa hỡi,
thiên hạ nói bao điều hiển hách
về thành!
(4) Chúa phán: "Ta sẽ kể
Ba-by-lon và Ai-cập
vào số những dân tộc nhận biết
Ta.
Kìa xứ Phi-li-tinh, thành Tia
cùng xứ Cút:
tại đó, kẻ này người nọ đã sinh
ra."
(5) Nhưng nói về Xi-on, thiên hạ
bảo:
"Người người sinh tại
đó."
Chính Ðấng Tối Cao đã củng cố
thành.
(6) CHÚA ghi vào sổ bộ các dân:
"Kẻ này người nọ đều sinh ra
tại đó."
(7) Và ai nấy múa nhảy hát ca:
"Xi-on hỡi, mọi nguồn gốc
của tôi ở nơi thành."
Thánh Vịnh 88 (87):
Lời cầu
xin trong lúc ngặt nghèo
(1) Thánh ca. Thánh vịnh. Của con
cái ông Cô-rắc.
Phần nhạc trưởng. Lúc bệnh hoạn.
Lúc sầu muộn.
Thi khúc. Của ông Hê-man, người
Ét-ra.
(2) Lạy CHÚA là Thiên Chúa cứu độ
con,
trước Thánh Nhan, đêm ngày con
kêu cứu.
(3) Nguyện cho lời kinh vọng tới
Ngài,
xin lắng nghe tiếng lòng thổn
thức.
(4) Vì hồn con ngập tràn đau khổ,
mạng sống con âm phủ gần kề,
(5) thân kể như đã vào phần mộ,
ví tựa người kiệt sức còn chi!
(6) Con nằm đây giữa bao người
chết,
như các tử thi vùi trong mồ mả
đã bị Chúa quên đi, và không được
tay Ngài săn sóc.
(7) Chúa hạ con xuống tận đáy
huyệt sâu,
giữa chốn tối tăm, giữa lòng vực
thẳm.
(8) Cơn giận Chúa đè nặng thân
con
như sóng cồn xô đẩy dập vùi.
(9) Chúa làm cho bạn bè xa lánh
và coi con như đồ ghê tởm.
Con bị giam cầm không thể thoát
ra,
(10) mắt mờ đi vì quá nhiều đau
khổ.
Lạy CHÚA, suốt cả ngày con kêu
lên Chúa
và giơ tay hướng thẳng về Ngài.
(11) Chúa đâu làm phép lạ cho
người đã mạng vong,
âm hồn đâu trỗi dậy ca tụng Chúa
bao giờ?
(12) Trong mồ mả, ai nói về tình
thương của Chúa?
Cõi âm ty, ai kể lại lòng thành
tín của Ngài?
(13) Những kỳ công Chúa, nơi tối
tăm ai rõ?
Ðức công chính Ngài, chốn quên
lãng ai hay?
(14) Phần con đây, con kêu lên
Ngài, lạy CHÚA,
mới tinh sương đã chờ chực nguyện
xin.
(15) Lạy CHÚA, thân con đây, Chúa
nỡ nào ruồng rẫy,
ẩn mặt đi mà chẳng đoái hoài.
(16) Từ thuở bé, con khổ đã nhiều
và luôn ngắc ngoải,
Chúa làm con kinh hãi, con hoá ra
thẫn thờ.
(17) Bao cơn thịnh nộ, Ngài đổ
ngập thân con,
bấy nỗi kinh hoàng khiến con rời
rã.
(18) Bủa vây con suốt ngày ngần
ấy thứ,
dồn dập tư bề như nước bao la.
Cận thân Chúa khiến lìa xa,
chung quanh bầu bạn chỉ là bóng
đêm.
Thánh Vịnh 89 (88):
Lòng
nhân nghĩa của ÐỨC CHÚA đối với nhà Ða-vít
(1) Thi khúc. Của ông Ê-than,
người Ét-ra.
(2) Tình thương CHÚA, đời đời con
ca tụng,
qua muôn ngàn thế hệ
miệng con rao giảng lòng thành
tín của Ngài.
(3) Vâng con nói :"Tình
thương ấy được xây dựng tới thiên thu,
lòng thành tín Chúa được thiết
lập trên trời."
(4) Xưa Chúa phán :"Ta đã
giao ước với người Ta tuyển chọn,
đã thề cùng Ða-vít, nghĩa bộc Ta,
(5) rằng : dòng dõi ngươi, Ta
thiết lập cho đến ngàn đời,
ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua
muôn thế hệ."
(6) Lạy CHÚA, thiên đình xưng
tụng những kỳ công của Chúa,
cộng đoàn chư thánh ca ngợi lòng
thành tín của Ngài.
(7) Trên cõi trời cao, nào có ai
sánh tày ÐỨC CHÚA?
Trong hàng thần thánh, hỏi có ai
giống CHÚA được chăng?
(8) Thiên Chúa oai phong giữa
triều thần thánh,
vô cùng lẫm liệt trên hết cả quần
thần.
(9) Lạy CHÚA là Chúa Tể càn khôn,
nào ai được như Chúa?
Lạy CHÚA quyền năng, đức thành
tín hầu cận quanh Ngài.
(10) Chính Ngài chế ngự trùng
dương ngạo nghễ,
dẹp yên bao sóng cả sóng cồn.
(11) Chính Ngài giày xéo thủy
thần Ra-háp, như giày xéo tử thi,
tay mạnh mẽ đập tan quân thù.
(12) Trời là của Chúa, đất cũng
là của Chúa,
hoàn vũ với muôn loài, chính Chúa
dựng nên.
(13) Ngài sáng tạo phương trời Nam
Bắc;
núi Ta-bo cùng với đỉnh Khéc-môn
reo hò kính danh Ngài.
(14) Cánh tay Ngài, cánh tay hùng
dũng,
đầy quyền năng đã mạnh mẽ dương
oai.
(15) Bệ ngai vàng : này công minh
chính trực,
quân tiền phong : đây tín nghĩa
ân tình.
(16) Hạnh phúc thay dân nào biết
ca ngợi tung hô;
nhờ Thánh Nhan soi tỏ, họ tiến
lên, lạy CHÚA.
(17) Nhờ được nghe danh Ngài, họ
suốt ngày hớn hở;
bởi vì Ngài công chính, nên họ
được hiên ngang.
(18) Sức hùng cường hiển hách của
dân chính là Ngài,
hồng ân Ngài làm nổi bật uy thế
chúng con.
(19) Ðấng bảo vệ chúng con là
người của ÐỨC CHÚA,
vua chúng con thuộc quyền Ðức
Thánh của Ít-ra-en.
(20) Xưa Chúa dùng thị kiến
phán bảo những người hiếu trung
rằng:
"Ta phù trợ một trang dũng
sĩ,
cất nhắc lên một người trẻ trong
dân.
(21) Ta đã tìm ra nghĩa bộc
Ða-vít,
đã xức dầu thánh tấn phong Người;
(22) Ta sẽ không ngừng đưa tay
nâng đỡ,
tay quyền năng củng cố vững vàng.
(23) Thù địch sẽ không lừa Người
nổi,
ác nhân chẳng sao hại được Người;
(24) trước mặt Người, Ta sẽ
nghiền nát quân cừu địch,
bọn thù ghét Người, Ta sẽ đập
tan.
(25) Ta sẽ yêu thương Người và
giữ lòng thành tín,
nhờ danh Ta, Người được thêm uy
vũ.
(26) Thế lực Người, Ta cho trải
dài đến Ðại Dương,
chủ quyền Người, cho mở rộng đến
miền Sông Cả.
(27) Người sẽ thưa với Ta:
"Ngài chính là Thân Phụ,
là Thiên Chúa con thờ, là núi đá
cho con được cứu độ!"
(28) Phần Ta, Ta sẽ đặt Người làm
trưởng tử,
cao cả hơn vua chúa trần gian.
(29) Ta sẽ yêu thương Người đến
muôn thuở
và thành tín giữ giao ước với
Người.
(30) Ta cho dòng dõi Người muôn
năm tồn tại,
cho ngai vàng trường cửu tựa trời
xanh.
(31) Nếu con cái Người bỏ không
giữ luật Ta,
chẳng sống theo điều Ta quyết
định,
(32) vi phạm những thánh chỉ Ta
ban xuống,
chẳng tuân cứ mệnh lệnh Ta
truyền,
(33) thì Ta sẽ dùng roi sửa phạt
lầm lỗi,
chúng gây nên tội, Ta phải đánh
đòn.
(34) Nhưng với Người, Ta quyết
chẳng đoạn tình dứt nghĩa,
quyết không hề bội tín thất
trung.
(35) Giao ước của Ta, Ta sẽ không
vi phạm,
miệng đã nói ra, Ta chẳng nuốt
lời.
(36) Một khi đã thề với danh
nghĩa là Ðấng Thánh,
thì cùng Ða-vít, Ta chẳng thất
tín đâu.
(37) Dòng dõi Người sẽ trường tồn
vạn kỷ,
(38) trước mặt Ta, ngai báu Người
bền vững tựa thái dương
muôn đời kiên cố như vầng nguyệt
đứng giữa trời cao làm nhân chứng
trung thành."
(39) Thế mà nay Chúa lại khinh chê
ruồng bỏ,
nổi lôi đình với đấng Ngài đã xức
dầu tấn phong;
(40) Chúa tiêu hủy giao ước với
người nghĩa bộc,
quăng vương miện Người xuống đất
đen.
(41) Mọi tường lũy của Người,
Chúa đều phá đổ,
thành trì kiên cố cũng đập tan
hoang.
(42) Người bị khách qua đường
mạnh ai nấy cướp,
bị hàng xóm láng giềng thoá mạ.
(43) Chúa nâng cao quyền thế bọn
áp bức Người
và cho mọi kẻ thù được hớn hở
mừng vui.
(44) Mũi kiếm của Người, Chúa bắt
quay ngược lại,
chẳng độ trì Người trong buổi
giao tranh.
(45) Chúa chấm dứt thời vàng son
của Người,
và lật đổ ngai rồng xuống đất.
(46) Chúa rút ngắn tuổi xuân
Người lại,
trút nỗi nhục nhằn xuống toàn
thân.
(47) Ðến bao giờ, lạy CHÚA, Ngài
còn lánh mặt?
Ngài lánh mặt mãi sao?
Ðến bao giờ cơn giận còn cháy
bừng như lửa?
(48) Xin nhớ rằng : đời con là
một kiếp phù du,
loài người Chúa dựng nên thật
mỏng manh quá đỗi!
(49) Sống làm người, ai không
phải chết?
Ai cứu nổi mình thoát quyền lực
âm ty?
(50) Ðâu cả rồi, lạy Chúa, nghĩa
cũ với tình xưa
Ngài hứa cùng Ða-vít nhân danh
chữ tín thành?
(51) Lạy Chúa, xin nhớ rằng : các
tôi tớ Ngài bị thoá mạ,
những lời phỉ báng của chư dân,
con đây vẫn chất chứa trong lòng.
(52) Vâng, lạy CHÚA, kẻ thù Ngài
thoá mạ,
theo sát gót mà buông lời thoá mạ
đấng Ngài đã xức dầu tấn phong.
(53) Chúc tụng CHÚA đến muôn đời.
Amen. Amen.
Thánh Vịnh 90 (89):
Ðời sống
con người mong manh và mỏng giòn
(1) Lời cầu nguyện. Của ông
Mô-sê, người của Thiên Chúa.
Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ,
Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn.
(2) ngay cả khi đồi núi chưa được
dựng nên,
địa cầu và vũ trụ chưa được tạo
thành,
Ngài vẫn là Thiên Chúa, từ muôn
thuở cho đến muôn đời.
(3) Chúa bắt phàm nhân trở về cát
bụi,
Ngài phán bảo: "Hỡi người
trần thế, trở về cát bụi đi!"
(4) Ngàn năm Chúa kể là gì,
tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,
khác nào một trống canh thôi!
(5) Ngài cuốn đi, chúng chỉ là
giấc mộng,
như cỏ đồng trổi mọc ban mai,
(6) nở hoa vươn mạnh sớm ngày,
chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.
(7) Ngài thịnh nộ, chúng con phải
mạng vong,
nổi trận lôi đình : thấy mà khủng
khiếp!
(8) Tội chúng con, Chúa bày ra
trước mặt Ngài,
lỗi thầm kín, Thánh Nhan đều soi
tỏ.
(9) Chúa nổi xung, đời chúng con
tàn tạ,
kiếp sống thoảng qua : một tiếng
thở dài.
(10) Tính tuổi thọ, trong ngoài
bảy chục,
mạnh giỏi chăng là được tám mươi,
mà phần lớn chỉ là gian lao khốn
khổ,
cuộc đời thấm thoát, chúng con đã
khuất rồi.
(11) Cơn giận Ngài, ai lường được
sức mạnh,
trận lôi đình, ai hiểu thấu căn
nguyên?
(12) Xin dạy chúng con đếm tháng
ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.
(13) Lạy CHÚA, xin trở lại ! Ngài
đợi đến bao giờ?
Xin chạnh lòng thương xót những
tôi tớ Ngài đây.
(14) Từ buổi mai, xin cho đoàn
con được no say tình Chúa,
để ngày ngày được hớn hở vui ca.
(15) Xin ban tặng chúng con niềm
hoan hỷ,
bù lại những tháng năm
Ngài đã bắt nếm nhục nuốt sầu.
(16) Ước gì chúng con là tôi tớ
Chúa
được thấy công trình Ngài thực
hiện,
và con cháu chúng con được thấy
vinh hiển Ngài.
(17) Xin cho chúng con được vui
hưởng
lòng nhân hậu của Chúa là Thiên
Chúa chúng con.
Việc tay chúng con làm, xin Ngài
củng cố,
xin củng cố việc tay chúng con
làm.
Thánh Vịnh 91 (90):
Nương
bóng Chúa toàn năng
(1) Hỡi ai nương tựa Ðấng Tối Cao
và núp bóng Ðấng quyền năng tuyệt
đối,
(2) hãy thưa với CHÚA rằng:
"Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi
con náu ẩn,
là đồn lũy chở che, con tin tưởng
vào Ngài."
(3) Chính Chúa gìn giữ bạn
khỏi lưới kẻ thù giăng, khỏi tai
ương tàn khốc.
(4) Chúa phù trì che chở, dưới
cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân:
lòng Chúa tín trung là khiên che
thuẫn đỡ.
(5) Bạn không sợ cảnh hãi hùng
đêm vắng
hay mũi tên bay giữa ban ngày,
(6) cả dịch khí hoành hành trong
đêm tối,
cả ôn thần sát hại lúc ban trưa.
(7) Dù tả hữu có ngàn người quỵ
ngã,
dù hai bên có chết cả vạn người,
riêng phần bạn, tuyệt nhiên không
hề hấn.
(8) Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ
thế nào là số phận bọn ác nhân.
(9) Vì bạn có CHÚA làm nơi trú
ẩn,
có Ðấng Tối Cao làm chỗ nương
thân.
(10) Bạn sẽ không gặp điều ác
hại,
và tai ương không bén mảng tới
nhà,
(11) bởi chưng Người truyền cho
thiên sứ
giữ gìn bạn trên khắp nẻo đường,
(12) và thiên sứ sẽ tay đỡ tay
nâng
cho bạn khỏi vấp chân vào đá.
(13) Bạn có thể giẫm lên hùm
thiêng rắn độc,
đạp nát đầu sư tử khủng long.
(14) Chúa phán: "Kẻ gắn bó
cùng Ta sẽ được ơn giải thoát,
người nhận biết danh Ta sẽ được
sức phù trì.
(15) Khi kêu đến Ta, Ta liền đáp
lại
lúc ngặt nghèo có Ta ở kề bên.
Ta giải cứu và ban nhiều vinh dự,
(16) cho sống lâu, tuổi thọ dư
đầy
và hưởng ơn cứu độ Ta ban."
Thánh Vịnh 92 (91):
Ca tụng
ÐỨC CHÚA, Ðấng chính trực công minh
(1) Thánh vịnh. Thánh ca. Cho
ngày sa-bát.
(2) Thú vị thay được tạ ơn CHÚA,
được mừng hát danh Ngài, lạy Ðấng
Tối Cao,
(3) được tuyên xưng tình thương
của Ngài từ buổi sớm,
và lòng thành tín của Ngài suốt
canh khuya,
(4) hoà điệu sắt cầm gieo trầm
bổng,
nhè nhẹ vấn vương khúc tỳ bà.
(5) Lạy CHÚA, sự nghiệp Ngài
khiến con mừng rỡ,
thấy việc tay Ngài làm, con phải
reo lên:
(6) Lạy CHÚA, công trình Ngài
xiết bao vĩ đại,
tư tưởng Ngài thâm thuý lắm thay!
(7) Người khờ dại nào đâu có
biết,
kẻ ngu si chẳng hiểu điều này:
(8) Bọn bất nhân dầu sởn sơ như
cỏ,
phường gian ác có đua nở khoe
tươi,
cũng là để bị diệt trừ vĩnh viễn.
(9) Còn CHÚA, Ngài cao cả đến
muôn đời.
(10) Kìa những kẻ thù Ngài, lạy
CHÚA,
kìa những kẻ thù Ngài tiêu vong,
bọn gian ác đều rã tan hết thảy.
(11) Ngài cho con ngẩng đầu hãnh
diện,
tựa như trâu ngạo nghễ giương
sừng,
thân con, Ngài xức dầu thơm mát.
(12) Mắt con nghênh những kẻ địch
thù,
tai nghe biết lũ hại con mạt vận.
(13) Người công chính vươn lên
tựa cây dừa tươi tốt,
lớn mạnh như hương bá Li-băng
(14) được trồng nơi nhà CHÚA,
mơn mởn giữa khuôn viên đền thánh
Chúa ta;
(15) già cỗi rồi, vẫn sinh hoa
kết quả,
tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh
rờn,
(16) để loan truyền rằng : CHÚA
thực là ngay thẳng,
là núi đá cho tôi ẩn náu,
nơi Người chẳng có chút bất công.
Thánh Vịnh 93 (92):
ÐỨC CHÚA
là Vua vũ trụ
(1) CHÚA là Vua hiển trị, CHÚA mặc
oai phong tựa cẩm bào,
Người lấy dũng lực làm cân đai.
Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu
không lay chuyển.
(2) Ngai vàng Chúa kiên cố tự
ngàn xưa:
Ngài hiện hữu tự muôn ngàn đời.
(3) Sóng nước đã gầm lên, lạy
CHÚA,
sóng nước đã gầm lên tiếng thét
gào.
Sóng nước đã gầm lên, long trời
lở đất.
(4) Nhưng hơn hẳn tiếng nước ngàn
trùng,
hơn hẳn sóng oai hùng ngoài biển
cả,
CHÚA oai hùng ngự trị chốn cao
xanh.
(5) Lạy CHÚA, thánh chỉ Ngài thật
là bền vững,
nơi đền vàng rực lên toàn thánh
thiện
triền miên qua mọi thời.
Thánh Vịnh 94 (93):
ÐỨC CHÚA
xử công minh cho người lành
(1) Lạy CHÚA là Chúa Trời trả
báo,
lạy Chúa Trời trả báo, xin Ngài
quang lâm!
(2) Ðấng xét xử địa cầu, xin đứng
dậy,
trả cho lũ kiêu căng xứng việc
chúng làm.
(3) Ðến bao giờ, lạy CHÚA,
đến bao giờ bọn ác nhân cứ mãi hỷ
hoan?
(4) Quân làm điều ác những ba hoa
buông lời hỗn xược,
những vênh váo ngang tàng.
(5) Chúng chà đạp dân riêng Ngài,
lạy CHÚA,
hà hiếp dân Ngài chọn làm gia
sản.
(6) Chúng giết người quả phụ,
giết khách ngoại kiều,
tàn sát cả cô nhi!
(7) Chúng bảo rằng: "CHÚA
đâu có thấy,
Thiên Chúa nhà Gia-cóp chẳng lưu
tâm!"
(8) Hãy lưu tâm, này quân đần độn
nhất trên đời!
Bao giờ mới nên khôn, hỡi đồ ngu
xuẩn?
(9) Ðấng từng gắn đôi tai há lại
không nghe được?
Ðấng nặn thành cặp mắt chẳng lẽ
không thấy gì?
(10) Ðấng sửa trị muôn dân lẽ nào
không trừng phạt?
Ðấng dạy dỗ con người mà chẳng
biết gì sao?
(11) Tư tưởng phàm nhân, CHÚA đều
biết cả:
thật chỉ như cơn gió thoảng
ngoài!
(12) Lạy CHÚA, hạnh phúc thay kẻ
được Ngài giáo huấn,
được Ngài lấy luật mà dạy dỗ bảo
ban.
(13) Ngài cho họ được bình an
trong ngày hoạn nạn,
trong khi huyệt mả mở sẵn chờ kẻ
ác nhân.
(14) Vì CHÚA không ruồng rẫy dân
Người,
chẳng bỏ rơi dân Người chọn làm
gia sản;
(15) công lý rồi ra sẽ trở lại
pháp đình,
mọi tâm hồn chính trực sẽ tuân
theo.
(16) Ai đứng dậy giúp tôi chống
bọn làm điều ác?
Ai sát cánh cùng tôi cự lại lũ
gian tà?
(17) CHÚA mà đã chẳng thương phù
trợ,
thì hồn tôi đã vào chốn thinh
lặng ngàn thu.
(18) Lạy CHÚA, khi con nói:
"Này chân con lảo đảo",
tình thương Ngài đã đỡ nâng con;
(19) lúc ưu tư đầy ắp cõi lòng,
ơn Ngài an ủi khiến hồn con vui sướng.
(20) Lẽ nào Chúa liên minh với
bọn thẩm phán ác ôn,
bọn gieo tai rắc hoạ chẳng kể gì
luật pháp?
(21) Chúng tìm hại mạng sống
người lành,
lên án tử cho người vô tội.
(22) Nhưng CHÚA là thành luỹ chở
che,
Chúa tôi thờ là núi đá cho tôi
trú ẩn.
(23) Tội của chúng, Người đổ trên
đầu chúng,
Người tiêu diệt chúng vì điều dữ
chúng làm,
ÐỨC CHÚA là Thiên Chúa của ta, sẽ
tiêu diệt chúng.
Thánh Vịnh 95 (94):
Lời mời
gọi reo hò mừng ÐỨC CHÚA
(1) Hãy đến đây ta reo hò mừng
CHÚA,
tung hô Người là Núi Ðá độ trì
ta,
(2) vào trước Thánh Nhan dâng lời
cảm tạ,
cùng tung hô theo điệu hát cung
đàn.
(3) Bởi ÐỨC CHÚA là Chúa Trời cao
cả,
là Ðại Vương trổi vượt chư thần,
(4) nắm trong tay bao vực sâu
lòng đất,
giữ chủ quyền muôn ngọn núi vút
cao.
(5) Ðại dương Chúa đã tạo thành
là của Chúa,
lục địa do tay Người nhào nắn
cũng thuộc về Người.
(6) Hãy vào đây ta cúi mình phủ
phục,
quỳ trước tôn nhan CHÚA là Ðấng
dựng nên ta.
(7) Bởi chính Người là Thiên Chúa
ta thờ,
còn ta là dân Người lãnh đạo,
là đoàn chiên tay Người dẫn dắt.
(8) [Người phán] : "Các
ngươi chớ cứng lòng
như tại Mơ-ri-va, như ngày ở
Ma-xa trong sa mạc,
(9) nơi tổ phụ các ngươi đã từng
thách thức
và dám thử thách Ta, dù đã thấy
những việc Ta làm.
(10) Suốt bốn mươi năm, dòng
giống này làm Ta chán ngán,
Ta đã nói : Ðây là dân tâm hồn
lầm lạc,
(11) chúng nào biết đến đường lối
của Ta,
nên Ta mới thịnh nộ thề rằng:
Chúng sẽ không được vào chốn yên
nghỉ của Ta."
Thánh Vịnh 96 (95):
ÐỨC CHÚA
là Vua và Thẩm Phán muôn dân
(1Sb 16,23-33)
(1) Hát lên mừng CHÚA một bài ca
mới,
hát lên mừng CHÚA, hỡi toàn thể địa
cầu!
(2) Hát lên mừng CHÚA, chúc tụng
Thánh Danh!
Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn
Người cứu độ,
(3) kể cho muôn dân biết Người
thật là vinh hiển,
cho mọi nước hay những kỳ công
của Người.
(4) CHÚA thật cao cả, xứng muôn
lời ca tụng,
khả tôn khả uý hơn chư thần,
(5) vì chư thần các nước thảy đều
hư ảo,
còn ÐỨC CHÚA, Người sáng tạo trời
cao.
(6) Trước thiên nhan, toàn uy phong
rực rỡ,
trong thánh điện, đầy dũng lực
huy hoàng.
(7) Hãy dâng CHÚA, hỡi các dân
các nước,
dâng CHÚA quyền lực và vinh
quang,
(8) hãy dâng CHÚA vinh quang xứng
danh Người.
Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền
đình CHÚA,
(9) và thờ lạy CHÚA uy nghiêm
thánh thiện,
toàn thể địa cầu, hãy run sợ
trước Thánh Nhan.
(10) Hãy nói với chư dân : CHÚA
là Vua hiển trị,
Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu
chẳng chuyển lay,
Người xét xử muôn nước theo đường
ngay thẳng.
(11) Trời vui lên, đất hãy nhảy
mừng,
biển gầm vang cùng muôn hải vật,
(12) ruộng đồng cùng hoa trái,
nào hoan hỷ.
Hỡi cây cối rừng xanh,
(13) hãy reo mừng trước tôn nhan
CHÚA,
vì Người ngự đến, Người ngự đến
xét xử trần gian.
Người xét xử địa cầu theo đường
công chính,
xét xử muôn dân theo chân lý của
Người.
Thánh Vịnh 97 (96):
ÐỨC CHÚA
là Thẩm Phán sẽ vinh quang ngự đến
(1) CHÚA là Vua hiển trị, hỡi địa
cầu, hãy nhảy mừng lên,
vui đi nào, ngàn muôn hải đảo!
(2) Mây u ám bao phủ quanh Người,
bệ ngai rồng là công minh chính
trực.
(3) Ngọn lửa hồng mở lối tiên
phong,
đốt tiêu tan địch thù tứ phía.
(4) Ánh chớp của Người soi sáng
thế gian,
địa cầu trông thấy mà run sợ;
(5) núi tan chảy như sáp, khi
diện kiến Thánh Nhan
vị Chúa Tể hoàn cầu.
(6) Trời xanh tuyên bố Người là
Ðấng chính trực,
hết mọi dân được thấy vinh quang
Người.
(7) Nhục nhã thay ai thờ ngẫu
tượng,
huênh hoang vì những vật hư vô
này.
(8) Ðược biết thế, Xi-on tưng
bừng hoan hỷ;
thành thị miền Giu-đa hớn hở nhảy
mừng
vì những phán quyết của Ngài, lạy
CHÚA.
(9) Chính bởi vì Ngài, muôn lạy
CHÚA,
là Ðấng Cao Cả trên khắp địa cầu,
Ngài trổi vượt chư thần hết thảy.
(10) Kẻ yêu CHÚA, hãy ghét điều
gian ác,
Người giữ gìn tính mạng kẻ hiếu
trung,
giải thoát họ khỏi tay phường độc
dữ.
(11) Ánh sáng bừng lên chiếu rọi
người công chính,
niềm vui làm rạng rỡ kẻ lòng
ngay.
(12) Trước nhan thánh CHÚA, người
công chính hãy vui mừng
tưởng nhớ Thánh Danh mà dâng lời
cảm tạ.
Thánh Vịnh 98 (97):
ÐỨC
CHÚA, Ðấng toàn thắng và xét xử muôn dân
(1) Thánh vịnh.
Hát lên mừng CHÚA một bài ca mới,
vì Người đã thực hiện bao kỳ
công.
Người chiến thắng nhờ bàn tay
hùng mạnh,
nhờ cánh tay chí thánh của Người.
(2) CHÚA đã biểu dương ơn Người
cứu độ,
mặc khải đức công chính của Người
trước mặt chư dân;
(3) Người đã nhớ lại ân tình và
tín nghĩa dành cho nhà Ít-ra-en.
Toàn cõi đất này đã xem thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng
ta.
(4) Tung hô CHÚA, hỡi toàn thể
địa cầu,
mừng vui lên, reo hò đàn hát.
(5) Ðàn lên mừng CHÚA khúc hạc
cầm dìu dặt,
nương khúc hạc cầm réo rắt giọng
ca.
(6) Kèn thổi vang xen tiếng tù
và,
tung hô mừng CHÚA, vị Quân Vương!
(7) Gầm vang lên, hỡi biển cả
cùng muôn hải vật,
địa cầu với toàn thể dân cư!
(8) Sông lạch ơi, vỗ tay đi nào,
đồi núi hỡi, reo mừng trước tôn
nhan CHÚA.
(9) Vì Người ngự đến xét xử trần
gian,
Người xét xử địa cầu theo đường
công chính,
xét xử muôn dân theo lẽ công
bình.
Thánh Vịnh 99 (98):
ÐỨC CHÚA
là Vua cao cả và là Ðấng Thánh
(1) CHÚA là Vua hiển trị : chư
dân phải rụng rời;
Người ngự trên các thần hộ giá : địa
cầu phải chuyển rung.
(2) Ở Xi-on, CHÚA quả là vĩ đại,
Người trổi vượt trên tất cả mọi dân.
(3)
danh vĩ đại khả tôn khả uý,
danh thánh thiện dường bao!
(4) Ngài là vua uy dũng yêu
chuộng công bình,
chính Ngài ấn định đường ngay lẽ
phải;
trong nhà Gia-cóp, Ngài thực hiện
điều chính trực công minh.
(5) Hãy suy tôn ÐỨC CHÚA là Thiên
Chúa chúng ta,
phủ phục trước bệ rồng, bởi Người
là Ðấng Thánh
(6) Mô-sê cùng A-ha-ron trong
hàng tư tế Chúa,
cũng như Sa-mu-en trong số người
cầu khẩn Thánh Danh!
Các ngài cầu khẩn CHÚA, Chúa
thương đáp lại.
(7) Từ cột mây, Chúa phán dạy các
ngài,
các ngài đã tuân hành thánh ý, và
chiếu chỉ Người ban.
(8) Lạy CHÚA là Thiên Chúa chúng
con, Chúa đã thương đáp lại,
Chúa là Thiên Chúa khoan dung khi
xử với các ngài,
nhưng trừng phạt khi các ngài lầm
lỗi.
(9) Hãy suy tôn ÐỨC CHÚA là Thiên
Chúa chúng ta,
hướng về núi thánh mà phủ phục,
vì ÐỨC CHÚA, Thiên Chúa ta thờ,
quả thật là Ðấng Thánh.
Thánh Vịnh 100 (99):
Mời gọi
vào đền thánh để ca ngợi, tạ ơn ÐỨC CHÚA
(1) Thánh vịnh. Ðể tạ ơn.
Hãy tung hô CHÚA, hỡi toàn thể địa
cầu,
(2) phụng thờ CHÚA với niềm hoan
hỷ,
vào trước thánh nhan Người giữa
tiếng hò reo.
(3) Hãy nhìn nhận CHÚA là Thượng
Ðế,
chính Người dựng nên ta, ta thuộc
về Người,
ta là dân Người, là đoàn chiên
Người dẫn dắt.
(4) Hãy vào cửa thánh điện cất
tiếng tạ ơn,
tới khuôn viên đền vàng dâng lời
ca ngợi,
tạ ơn Chúa và chúc tụng danh
Người.
(5) Bởi vì CHÚA nhân hậu,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương,
qua bao thế hệ, vẫn một niềm
thành tín.
Thánh Vịnh 101-150
Thánh Vịnh 101 (100):
Chân
dung của nhà vua lý tưởng
(1) Của vua Ða-vít. Thánh vịnh.
Lạy CHÚA, con xin ca ngợi tình thương
và công lý:
con đàn hát kính Ngài.
(2) Con nguyện chủ tâm theo đường
hoàn hảo,
bao giờ Ngài mới đến cùng con?
Con sẽ sống theo lòng thuần khiết
ở trong cửa trong nhà.
(3) Việc xấu xa đê tiện, con
chẳng để mắt trông.
Con ghét kẻ làm điều tà vạy,
không để cho dính dáng đến mình.
(4) Tâm địa gian manh con hằng xa
lánh,
chẳng muốn biết gì đến chuyện xấu
xa.
(5) Ai nói chùng nói lén, là con
sẽ diệt trừ.
Con mắt khinh người, lòng dạ kiêu
căng:
những bọn đó, không khi nào con
chịu.
(6) Con để mắt kiếm người hiền
trong xứ, cho họ được ở gần.
Ai sống đời hoàn hảo, sẽ là người
được phục vụ con.
(7) Nhà con ở không hề chứa chấp
kẻ quen trò bịp bợm thói lưu
manh.
Hạng nói dối chuyên nghề, con
đuổi cho khuất mắt.
(8) Mỗi buổi mai con lại diệt trừ
cho hết phường ác nhân trong xứ
sở,
hầu quét sạch khỏi thành đô CHÚA
bọn làm điều ác, chẳng sót một
tên.
Thánh Vịnh 102 (101):
Lời than
van rên siết trong cảnh gian truân
(1) Lời cầu của kẻ gặp khốn khó.
Trong cơn cùng khốn, người này
dâng lời than vãn trước ÐỨC CHÚA.
(2) Lạy CHÚA, xin nghe lời con cầu
khẩn,
tiếng con kêu, mong được thấu tới
Ngài.
(3) Buổi con gặp gian truân, xin
Ngài đừng ẩn mặt,
trong ngày con cầu cứu, xin Ngài
lắng tai nghe
và mau mau đáp lời.
(4) Vì đời con : tháng ngày tan
thành khói,
xương tuỷ nóng ran như hoả lò.
(5) Tim héo hắt tựa hồ cỏ giập,
nên chẳng còn tưởng đến miếng ăn.
(6) Vì con những kêu gào rên rẩm
mà thân thể chỉ còn da bọc xương.
(7) Con chẳng khác bồ nông miền
sa mạc,
tựa như cú vọ chốn hoang tàn.
(8) Suốt năm canh trằn trọc,
phận như chim lạc đàn đậu mái
hiên.
(9) Quân thù địch cả ngày phỉ
báng,
giận điên lên, chúng nguyền rủa
thân này.
(10) Ăn tro trấu đã thành cơm
bữa,
nước mắt hoà nước uống thường
khi.
(11) Vì Chúa nổi trận lôi đình,
ra oai nộ khí,
nhấc con lên, rồi quẳng ra xa.
(12) Ngày tháng đời con : chiều
tà bóng ngả,
tấm thân này : cỏ úa vàng khô.
(13) Nhưng lạy CHÚA, muôn đời
Ngài ngự trị,
trải bao thế hệ, thiên hạ nhắc
đến Ngài.
(14) Chính Ngài sẽ đứng dậy và
thương xót Xi-on,
vì nay đã đến thời thi ân giáng
phúc.
(15) Bề tôi Ngài lưu luyến đá
tường thành sụp đổ,
lòng những xót xa nhìn đống tro
tàn.
(16) Bấy giờ chư dân sẽ sợ uy
danh CHÚA,
mọi đế vương hoàn cầu uý kính
Ngài vinh hiển.
(17) Vì CHÚA sẽ xây dựng lại
Xi-on,
sẽ xuất hiện quang vinh rực rỡ.
(18) Người đoái nghe dân bị bóc
lột kêu cầu,
chẳng khinh thường lời họ nguyện
xin.
(19) Ðiều này phải ghi lại cho
đời sau được biết,
dân hậu sinh phải ca tụng CHÚA
TRỜI.
(20) Vì CHÚA đưa mắt từ toà cao thánh
điện,
từ trời xanh đã nhìn xuống cõi
trần,
(21) để nghe kẻ tù đày rên xiết
thở than
và phóng thích những người mang
án tử.
(22) Rồi ra, ở Xi-on, người người
sẽ rao truyền danh thánh CHÚA,
tại Giê-ru-sa-lem, ai nấy ngợi
khen Người,
(23) khi mọi nước mọi dân
tập trung về để thờ phượng CHÚA.
(24)Chúa làm tôi kiệt lực giữa
đường đời,
tuổi thọ tôi, Người rút ngắn lại.
(25) Con nói : lạy Thiên Chúa của
con,
Ngài là Ðấng vạn đại trường tồn,
Xin đừng cất mạng con giữa cuộc
đời dang dở.
(26) Xưa Chúa đã đặt nền trái
đất,
chính tay Ngài tạo tác vòm trời.
(27) Chúng tiêu tan, Chúa còn
hoài,
chúng như áo cũ thảy rồi mòn hao.
Ngài thay chúng khác nào thay áo,
(28) nhưng chính Ngài tiền hậu y
nguyên;
tháng năm Ngài vẫn triền miên.
(29) Con cháu bề tôi sẽ an cư lạc
nghiệp,
và dòng giống tồn tại trước nhan
Ngài.
Thánh Vịnh 103 (102):
ÐỨC CHÚA
là Ðấng từ bi nhân hậu
(1) Của vua Ða-vít.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi,
toàn thân tôi, hãy chúc tụng
Thánh Danh!
(2) Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi
hỡi,
chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
(3) CHÚA tha cho ngươi muôn ngàn
tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật
ngươi.
(4) Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy
huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với
lượng hải hà,
(5) ban cho đời ngươi chứa chan
hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa
chim bằng.
(6) CHÚA phân xử công minh,
bênh quyền lợi những ai bị áp
bức,
(7) mặc khải cho Mô-sê biết đường
lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực
hiện.
(8) CHÚA là Ðấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình
thương,
(9) chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
(10) Người không cứ tội ta mà xét
xử,
không trả báo ta xứng với lỗi
lầm.
(11) Như trời xanh trổi cao hơn
mặt đất,
tình Chúa thương kẻ thờ Người
cũng trổi cao.
(12) Như đông đoài cách xa nhau
ngàn dặm,
tội ta đã phạm, Chúa cũng ném
thật xa ta.
(13) Như người cha chạnh lòng
thương con cái,
CHÚA cũng chạnh lòng thương kẻ
kính tôn.
(14) Người quá biết ta được nhồi
nắn bằng gì,
hẳn Người nhớ : ta chỉ là cát
bụi.
(15) Kiếp phù sinh, tháng ngày
vắn vỏi,
tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
(16) một cơn gió thoảng là xong,
chốn xưa mình ở cũng không biết
mình.
(17) Nhưng ân tình CHÚA thiên thu
vạn đại,
dành cho kẻ nào hết dạ kính tôn.
Người xử công minh cả với đời con
cháu,
(18) cả những ai giữ giao ước của
Người
và nhớ tuân hành mệnh lệnh Người
ban.
(19) CHÚA đặt ngai báu trên trời
cao thẳm,
quyền đế vương bá chủ muôn loài.
(20) Chúc tụng CHÚA đi, hỡi muôn
vì thiên sứ,
bậc anh hùng dũng mạnh thực hiện
lời Người,
luôn sẵn sàng phụng lệnh.
(21) Chúc tụng CHÚA đi, toàn thể
thiên binh,
hằng hầu cận và tuân hành thánh
ý.
(22) Chúc tụng CHÚA đi, muôn vật
Chúa tạo thành,
thuộc quyền Người thống trị khắp
nơi nơi.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
Thánh Vịnh 104 (103):
Ca tụng
Ðấng Tạo Hoá
(1) Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
Lạy CHÚA là Thiên Chúa con thờ,
Chúa muôn trùng cao cả!
Áo Ngài mặc : toàn oai phong lẫm
liệt,
(2) cẩm bào Ngài khoác : muôn vạn
ánh hào quang.
Tầng trời thẳm, Chúa căng như màn
trướng,
(3) điện cao vời, dựng trên khối
nước cõi thanh không.
Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay
cánh gió.
(4) Sứ giả Ngài : làn gió bốn
phương,
nô bộc Chúa : lửa hồng muôn ngọn.
(5) Chúa lập địa cầu trên nền
vững,
khôn chuyển lay muôn thuở muôn
đời!
(6) Áo vực thẳm choàng lên trái
đất,
khối nước nguồn tụ lại đỉnh non
cao.
(7) Nghe tiếng Ngài dọa nạt,
chúng đồng loạt chạy dài;
sấm Ngài mới rền vang, chúng kinh
hoàng trốn thoát,
(8) băng qua núi qua đồi, chảy
xuôi ra đồng nội
về nơi Chúa đặt cho.
(9) Ngài vạch đường ranh giới
ngăn cản chúng vượt qua,
không còn cho trở lại dâng lên
ngập địa cầu.
(10) Chúa khơi nguồn : suối tuôn
thác đổ,
giữa núi đồi, lượn khúc quanh co,
(11) đem nước uống cho loài dã
thú,
bầy ngựa hoang đang khát nước
được thoả thuê.
(12) Bên dòng suối, chim trời làm
tổ,
dưới lá cành cất giọng líu lo.
(13) Từ cao thẳm, Chúa đổ mưa xuống
núi,
đất chứa chan phước lộc của Ngài.
(14) Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi
sống đàn gia súc,
làm tốt tươi thảo mộc cho người
thế hưởng dùng.
Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm
bánh,
(15) chế rượu ngon cho phấn khởi
lòng người,
xức dầu thơm cho gương mặt sáng
tươi,
nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ.
(16) Hương bá Li-băng, những cây
CHÚA đã trồng,
được tràn trề nhựa sống.
(17) Bầy chim tước rủ nhau làm ổ,
hạc bay về xây tổ ngọn cao.
(18) Núi chon von, loài sơn dương
tìm đến,
hốc đá sâu, giống ngân thử ẩn
mình.
(19) Chúa đặt vầng trăng để đo
thời tiết,
dạy mặt trời biết lặn đúng thời
gian.
(20) Ðêm trở lại khi Chúa buông
màn tối,
chốn rừng sâu, muông thú tung
hoành.
(21) Tiếng sư tử gầm lên vang
dội,
chúng săn mồi, gào xin Chúa cho
ăn.
(22) Ánh dương lên, chúng bảo nhau
về,
tìm hang hốc, chui vào nằm nghỉ.
(23) Ðến lượt con người ra đi làm
lụng,
những mải mê tới lúc chiều tà.
(24) Công trình Ngài, lạy CHÚA,
quả thiên hình vạn trạng!
Chúa hoàn thành tất cả thật khôn
ngoan,
những loài Chúa dựng nên lan tràn
mặt đất.
(25) Này đại dương bát ngát mênh
mông,
nơi muôn vàn sinh vật to lẫn nhỏ
vẫy vùng,
(26) nơi tàu bè cỡi sóng và thủy
quái tung tăng,
là vật Chúa tạo thành để làm trò
tiêu khiển.
(27) Hết mọi loài ngửa trông lên
Chúa
đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn.
(28) Ngài ban xuống, chúng lượm
về,
Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn
phước.
(29) Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng
rời kinh hãi;
lấy sinh khí lại, là chúng tắt
thở ngay, mà trở về cát bụi.
(30) Sinh khí của Ngài, Ngài gửi
tới,
là chúng được dựng nên,
và Ngài đổi mới mặt đất này.
(31) Vinh hiển CHÚA, nguyện muôn
năm tồn tại,
công trình CHÚA làm Chúa được hân
hoan.
(32) Chúa nhìn đất thấp, đất sợ
run lẩy bẩy,
Người chạm núi cao, núi toả khói
mịt mù.
(33) Suốt cuộc đời, tôi sẽ ca
mừng CHÚA,
sống ngày nào, xin đàn hát kính
Thiên Chúa của tôi.
(34) Nguyện tiếng lòng tôi làm
cho Người vui thoả,
đối với tôi, niềm vui là chính
CHÚA.
(35) Ước gì tội nhân phải biệt
tích cõi đời,
bọn bất lương sạch bóng chẳng còn
ai.
Chúc tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
Thánh Vịnh 105 (104):
Lịch sử
kỳ diệu của Ít-ra-en (1 Sb 16,8-22) Ha-lê-luia.
(1) Hãy tạ ơn CHÚA, cầu khẩn danh
Người,
vĩ nghiệp của Người, loan báo
giữa muôn dân.
(2) Hát lên đi, đàn ca mừng Chúa,
và suy gẫm mọi kỳ công của Người.
(3) Hãy tự hào vì danh thánh
Chúa,
tâm hồn những ai tìm kiếm CHÚA,
nào hoan hỷ.
(4) Hãy tìm CHÚA và sức mạnh của
Người,
chẳng khi ngừng tìm kiếm Thánh
Nhan.
(5) Hãy nhớ lại những kỳ công
Người thực hiện,
những dấu lạ và những quyết định
Người phán ra,
(6) hỡi anh em, dòng dõi
Áp-ra-ham tôi tớ Chúa,
con cháu Gia-cóp được Người tuyển
chọn!
(7) Chính ÐỨC CHÚA là Thiên Chúa
chúng ta,
những điều Người quyết định
là luật chung cho cả địa cầu.
(8) Giao ước lập ra, muôn đời
Người nhớ mãi,
nhớ lời đã cam kết đến ngàn thế
hệ!
(9) Ðó là điều đã giao ước cùng
Áp-ra-ham,
đã đoan thề cùng I-xa-ác,
(10) và đặt thành quy luật cho
Gia-cóp,
thành giao ước muôn đời cho
Ít-ra-en,
(11) rằng : "Ta sẽ cho ngươi
đất Ca-na-an
làm kỷ phần gia nghiệp."
(12) Thuở ấy họ chỉ là một số
nhỏ,
một nhóm kiều dân nơi đất khách
quê người,
(13) lang thang hết xứ này qua xứ
khác,
phiêu bạt từ nước nọ đến nước
kia.
(14) Nhưng Chúa vẫn không để cho
ai ức hiếp họ;
vì thương họ, Người la rầy vua
chúa:
(15) "Ðừng đụng tới những kẻ
Ta xức dầu tấn phong,
chớ làm hại các ngôn sứ của
Ta."
(16) Chúa cho nạn đói hoành hành
khắp xứ,
làm cạn nguồn lương thực nuôi
dân.
(17) Chúa đã phái một người đi
trước họ
là Giu-se, kẻ bị bán làm tôi.
(18) Chân ông phải mang xiềng khổ
sở,
cổ đeo gông nặng nề,
(19) cho đến ngày ứng nghiệm điều
ông tiên đoán
và ông được lời CHÚA giải oan.
(20) Nhà vua, vị thủ lãnh các dân
thời đó,
truyền tháo cởi gông xiềng và
phóng thích ông,
(21) rồi đặt ông làm tể tướng
triều đình,
làm chủ mọi tài sản hoàng gia.
(22) Vua cho ông toàn quyền chỉ
đạo hàng khanh tướng,
dạy lẽ khôn ngoan cho bậc lão
thành.
(23) Bấy giờ Ít-ra-en trẩy sang
Ai-cập,
và Gia-cóp kiều ngụ đất Kham.
(24) Chúa cho dân Người tăng thêm
gấp bội,
cho họ mạnh hơn cả đối phương.
(25) Người khiến chúng thay lòng
đổi dạ, mà đâm ra thù ghét,
dùng mưu mô chống lại các tôi tớ
Người.
(26) Chúa phái tôi tớ Người là
Mô-sê,
phái A-ha-ron, kẻ Người tuyển
chọn,
(27) đến loan báo những điềm
thiêng dấu lạ
trong toàn cõi đất Kham.
(28) Chúa bủa màn đen, khắp nơi
đen tối,
mà chúng vẫn cưỡng lại lời Người.
(29) Chúa làm cho nước biến thành
máu đỏ, giết sạch loài tôm cá.
(30) Khắp vùng, ếch nhái bỗng
tràn lan, nhảy cả vào cung cấm.
(31) Chúa vừa phán, ruồi muỗi
từng đàn
ào tới khắp nơi trên lãnh thổ.
(32) Thay mưa mùa, Chúa đổ toàn
mưa đá,
phóng lửa hồng thiêu hủy đất đai.
(33) Người tàn phá đồi nho nương
vả,
quật đổ cây cối trong khắp cả
vùng.
(34) Chúa lại phán, bỗng đâu xuất
hiện
vô vàn vô số châu chấu cào cào;
(35) chúng ăn sạch cỏ cây trong
nước,
ăn hại hoa màu khắp mọi nơi.
(36) Người giết mọi con đầu lòng
bản xứ,
là tinh hoa của cả giống nòi.
(37) Còn dân riêng của Người,
Người đưa ra,
mang theo bạc với vàng;
(38) Thấy họ ra đi, dân Ai-cập
vui mừng,
vì họ đã làm cho chúng kinh hãi.
(39) Chúa giăng mây làm màn che
phủ họ
và cho lửa hồng soi sáng ban đêm.
(40) Họ đòi ăn, Người cho chim
cút đến,
và cho họ no nê bánh bởi trời.
(41) Người xẻ đá, nước liền vọt
ra
chảy thành sông giữa vùng sa mạc.
(42) Ấy là vì Chúa nhớ lại lời
thiêng đã hứa
cùng Áp-ra-ham, tôi tớ của Người.
(43) Chúa đưa dân Người, những kẻ
Người đã chọn,
vui vẻ ra đi giữa tiếng reo hò.
(44) Ðất ngoại bang, Người trao
tặng họ,
cho thừa hưởng công khó của chư
dân,
(45) ngõ hầu họ vâng theo thánh
chỉ, và tuân giữ luật Người.
Thánh Vịnh 106 (105):
Chúa
nhân từ đối với Ít-ra-en luôn bất trung
(1) Ha-lê-luia.
Hãy tạ ơn CHÚA vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(2) Ai sẽ tường thuật những chiến
công của CHÚA,
sẽ công bố mọi câu tán tụng
Người?
(3) Hạnh phúc thay người giữ đức
công minh
và hằng thực thi điều chính trực!
(4) Lạy CHÚA, xin Ngài nhớ đến
con bởi lòng thương dân Ngài,
xin ngự đến viếng thăm mà ban ơn
cứu độ.
(5) Xin cho con được thấy tỏ
tường
phần phúc lộc dành cho những
người được Chúa chọn,
để chúng con được vui niềm vui
dân Chúa
và cùng hiên ngang với gia nghiệp
của Ngài.
(6) Cùng các bậc tổ tiên, chúng
con đã phạm tội,
đã ở bất công, làm điều gian ác.
(7) Xưa bên Ai-cập, tổ tiên chúng
con
đã không hiểu những kỳ công của
Chúa,
đã chẳng nhớ ân huệ vô vàn,
và phản loạn ở nơi Biển Ðỏ.
(8) Nhưng vì Thánh Danh, Người
thương cứu họ,
để biểu dương uy vũ của Người.
(9) Người ngăm đe Biển Ðỏ, Biển
liền cạn khô,
đưa họ đi qua lòng vực thẳm,
khác nào đi giữa chốn hoang vu.
(10) Chúa cứu họ khỏi tay người
ghen ghét,
giải thoát họ khỏi tay địch thù:
(11) Nước dìm quân đối nghịch,
không một kẻ thoát thân.
(12) Bấy giờ họ mới tin lời Người
phán,
và hát lên bài tán tụng Người.
(13) Nhưng rồi họ chóng quên công
việc của Chúa,
chẳng đợi lệnh Người ban.
(14) Trong sa mạc, lòng buông
theo dục vọng,
chốn hoang vu, họ thách thức Chúa
Trời.
(15) Chúa liền ban điều họ đã
xin,
cho dư đầy đến độ chán ngấy.
(16) Trong doanh trại, họ ganh
với Mô-sê
và A-ha-ron, người được CHÚA
thánh hiến.
(17) Ðất bỗng rẽ ra nuốt sống
Ða-than,
chôn vùi bọn A-vi-ram cả lũ.
(18) Lửa hồng bừng lên đốt cháy
trọn bầy,
ngọn hoả hào thiêu rụi phường
gian ác.
(19) Tại Khô-rếp, họ đúc một con
bê,
rồi phủ phục tôn thờ tượng đó.
(20) Họ đổi Chúa vinh quang lấy
hình bò ăn cỏ.
(21) Họ quên Thiên Chúa là Vị Cứu
Tinh
từng làm việc lớn lao bên miền
Ai-cập,
(22) việc diệu kỳ trong cõi đất
Kham,
việc khiếp kinh giữa lòng Biển
Ðỏ.
(23) Chúa tính chuyện sẽ tiêu
diệt họ,
nếu người Chúa chọn là Mô-sê
chẳng đem thân cản lối, ở ngay
trước mặt Người,
hầu ngăn cơn thịnh nộ, kẻo Chúa
diệt trừ dân.
(24) Họ khinh thường miền đất
xanh tươi mầu mỡ,
chẳng tin tưởng chi vào lời Chúa
phán,
(25) trong lều trại, lẩm bẩm kêu
ca,
chẳng thèm nghe tiếng CHÚA.
(26) Người giơ tay trên họ mà thề
sẽ làm họ gục ngã trong miền sa
mạc,
(27) bắt giống nòi tản mác giữa
chư dân,
phân tán họ đi nhiều miền khác.
(28) Họ suy phục thần Ba-an Pơ-o,
và ăn của lễ cúng dâng người chết,
(29) trêu giận Chúa bằng hành vi
ngỗ nghịch,
khiến tai ương ập xuống trên đầu.
(30) Pin-khát liền đứng ra phân
xử, tai hoạ bỗng dứt ngay.
(31) Thế nên từ đời nọ đến đời
kia, đến thiên thu vạn đại,
việc ông làm được coi như là công
chính.
(32) Bên dòng nước Mơ-ri-va, họ
trêu giận Người,
khiến Mô-sê vì họ mà chuốc họa
vào thân,
(33) bởi họ làm ông trí lòng bực
bội,
mở miệng ra ông đã lỡ lời.
(34) Họ đã không diệt trừ những
dân
mà CHÚA đã chỉ định,
(35) họ sống chung lộn giữa chư
dân,
học đòi những hành vi của chúng.
(36) Họ lấy tượng thần chúng mà
thờ:
đó chính là cạm bẫy họ sa chân.
(37) Họ giết con mình cả trai lẫn
gái, mà hiến quỷ tế thần.
(38) Họ đổ máu vô tội, máu con
trai con gái của mình,
dâng tiến thần Ca-na-an làm tế
phẩm,
và vì máu này, đất đã ra ô uế.
(39) Họ đã thành dơ bẩn vì những
hành vi đó,
phản bội tình yêu Chúa bằng những
việc họ làm.
(40) Trên dân riêng, CHÚA đổ cơn
thịnh nộ,
Người tởm kinh gia nghiệp của
mình,
(41) phó mặc họ vào tay đám chư
dân.
Kẻ thù thống trị họ,
(42) và địch quân áp bức,
dưới bàn tay chúng, họ khom lưng
cúi đầu.
(43) Ðã bao lần Chúa thương giải
cứu,
nhưng họ vẫn cố tình phản nghịch,
đắm chìm trong tội ác của mình.
(44) Chúa thấy họ truân chuyên
ngàn nỗi,
nghe thấy lời cầu cứu van xin.
(45) Chúa nhớ lại giao ước của
Người mà giúp họ,
mở lượng hải hà, Người chạnh lòng
thương,
(46) và khiến những ai bắt họ đi
đày, cũng động lòng trắc ẩn.
(47) Lạy CHÚA là Thiên Chúa chúng
con,
xin Ngài thương cứu độ, quy tụ
chúng con về
từ giữa muôn dân nước,
để chúng con cảm tạ Thánh Danh
và được hiên ngang tán dương
Ngài.
(48) Chúc tụng ÐỨC CHÚA là Thiên
Chúa Ít-ra-en
từ muôn thuở cho đến muôn đời.
Toàn dân hãy hô lớn: A-men!
A-men!
Thánh Vịnh 107 (106):
Tạ ơn
Chúa vì được Người giải thoát
(1) Ha-lê-luia.
Hãy tạ ơn CHÚA vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(2) Họ sẽ cùng nói lên như vậy,
những người được CHÚA thương giải
thoát;
giải thoát cho khỏi tay địch thù,
(3) triệu tập về từ bao viễn xứ,
khắp miền nam bắc, khắp ngả đông
tây.
(4) Họ lạc bước trong vùng sa
mạc, nơi cằn cỗi,
không thấy đường về chốn thành
thị để định cư,
(5) vừa đói vừa khát, mạng sống
đã hầu tàn.
Khi gặp bước ngặt nghèo,
(6) họ kêu lên cùng CHÚA,
Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh
gian truân,
(7) dắt họ đi thẳng đường ngay
lối
về chốn thành thị để định cư.
(8) Ước chi họ dâng lời cảm tạ vì
tình thương của Chúa,
và vì những kỳ công Chúa đã thực
hiện cho người trần.
(9) Họng ráo khô, Chúa cho uống
phỉ tình,
bụng đói lả, Người cho ăn thoả
thích.
(10) Họ phải sống trong cảnh tối
tăm mù mịt,
kiếp lầm than xiềng xích gông
cùm;
(11) vì họ chống cưỡng lời Thiên
Chúa,
dám khinh nhờn lệnh Ðấng Tối Cao,
(12) Người bắt họ nếm mùi gian
khổ,
phải lao đao mà không kẻ đỡ nâng.
(13) Khi gặp bước ngặt nghèo, họ
kêu lên cùng CHÚA,
Người ra tay cứu họ thoát ngàn
nỗi gian truân:
(14) đưa ra khỏi cảnh tối tăm mù
mịt
và đập tan xiềng xích gông cùm.
(15) Ước chi họ dâng lời cảm tạ
vì tình thương của Chúa,
và vì những kỳ công Chúa đã thực
hiện cho người trần.
(16) Cửa đồng kia, Chúa đã phá
tung,
then sắt nọ, tay Người bẻ gãy.
(17) Họ hoá điên trong cuộc đời
lầm lỗi,
gánh tội tình đè nặng tấm thân,
(18) mọi thức ăn, họ đều chê
chán,
và tiến gần tới cửa âm ty.
(19) Khi gặp bước ngặt nghèo, họ
kêu lên cùng CHÚA,
Người ra tay cứu họ thoát ngàn
nỗi gian truân.
(20) Sai lời Người đến, chữa cho
lành mạnh,
cứu họ khỏi sa hố sâu.
(21) Ước chi họ dâng lời cảm tạ
vì tình thương của Chúa,
và vì những kỳ công Chúa đã thực
hiện cho người trần.
(22) Ước chi họ dâng lễ tế tạ ơn
Chúa,
cất tiếng hò reo, tường thuật
việc Chúa làm.
(23) Họ vượt biển ngược xuôi nghề
thương mãi,
giữa trùng dương lèo lái con tàu,
(24) mắt đã tường việc CHÚA làm
nên
và kỳ công Người thực hiện giữa
dòng nước lũ.
(25) Chúa truyền lệnh khiến bùng
lên bão táp,
lớp sóng xô cuồn cuộn dập dồn.
(26) Họ nhô lên tận trời, nhào
xuống vực sâu,
lúc nguy hiểm, hồn xiêu phách
lạc,
(27) bị quay cuồng, lảo đảo như
say,
khéo cùng khôn đã chìm đâu mất.
(28) Khi gặp bước ngặt nghèo, họ
kêu lên cùng CHÚA,
Người đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh
gian truân.
(29) Ðổi phong ba thành gió
thoảng nhẹ nhàng,
sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng,
(30) họ vui sướng, vì trời yên bể
lặng
và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong
chờ.
(31) Ước chi họ dâng lời cảm tạ
vì tình thương của Chúa,
và vì những kỳ công Chúa đã thực
hiện cho người trần.
(32) Ước chi lời họ tán dương Người
nơi nhóm họp toàn dân
và ca tụng giữa hội đồng bô lão.
(33) Chúa khiến sông ngòi cạn đi
thành sa mạc,
đổi suối nguồn ra hoang địa khô
khan,
(34) đất màu mỡ hoá đồng chua
nước mặn,
vì dân cư độc ác gian tà.
(35) Người lại biến sa mạc thành
hồ ao
và hoang địa khô khan nên nguồn
suối.
(36) Kẻ nghèo đói, Người cho đến
ở,
họ lập nên thành thị để định cư.
(37) Gieo lúa ngoài ruộng, trồng
nho trong vườn,
họ thu hoạch hoa màu lợi tức.
(38) Chúa chúc lành, họ sinh sôi
nảy nở,
bầy gia súc, Người không để giảm
đi.
(39) Nhưng rồi họ phải tiêu hao
lụn bại,
điêu đứng vì tai hoạ với khổ đau.
(40) Chúa đổ nhuốc nhơ xuống hàng
quyền thế,
bắt phiêu bạt giữa chốn hoang vu,
không đường ra lối vào.
(41) Nhưng Chúa lại cất nhắc
kẻ nghèo hèn thoát cảnh lầm than,
ban cho cả giống dòng
như chiên cừu sinh năm đẻ bảy.
(42) Người chính trực thấy thế mà
mừng rỡ,
bọn gian tà chẳng dám hé môi.
(43) Ai kẻ hiền nhân, hãy để tâm
suy nghĩ,
thì sẽ am tường lòng CHÚA thương
yêu.
Thánh Vịnh 108 (107):
Ca tụng
Thiên Chúa và xin Người thương giúp
(1) Thánh ca. Thánh vịnh. Của vua
Ða-vít.
(2) Con vững dạ an lòng, lạy
Thiên Chúa,
này con xin đàn hát xướng ca với
tất cả tâm hồn.
(3) Thức dậy đi, hỡi đàn sắt đàn
cầm,
tôi còn đánh thức cả bình minh.
(4) Lạy THIÊN CHÚA, trước mặt chư
dân, con dâng lời cảm tạ,
giữa lòng muôn nước, con đàn hát
xướng ca.
(5) Vì tình thương của Ngài cao
ngất trời xanh,
lòng thành tín vượt ngàn mây
thẳm.
(6) Lạy Thiên Chúa, xin biểu thị
uy phong khắp cõi trời
và chiếu toả vinh quang đầy mặt
đất.
(7) Xin ra tay cứu độ, và đáp lời
chúng con,
để những kẻ Ngài yêu thương được
ơn giải thoát.
(8) Trong thánh điện, Chúa Trời
tuyên phán:
Khấp khởi mừng, Ta chia cắt
Si-khem,
Ta đo đạc cả đồng bằng Xúc-cốt.
(9) Ga-la-át về Ta, Mơ-na-se cũng
về Ta,
Ta lấy Ép-ra-im làm mũ chiến đội
đầu,
lấy Giu-đa làm cây gậy chỉ huy.
(10) "Mô-áp là chậu Ta tắm
rửa, Ê-đôm là chỗ Ta liệng giày,
đánh bại Phi-li-tinh, Ta reo mừng
thắng trận."
(11) Lạy Thiên Chúa, ai sẽ đưa
con vào thành kiên cố,
ai sẽ dắt con đến tận Ê-đôm?
(12) Há chẳng phải chính Ngài,
Ðấng đã từng ruồng bỏ chúng con,
chẳng còn dẫn ba quân xuất trận?
(13) Xin Ngài thương cứu viện,
cho chúng con thoát khỏi quân thù,
chứ người phàm giúp đỡ chỉ bằng
không.
(14) Có Thiên Chúa, ta sẽ trổ tài
oanh liệt,
chính Người chà đạp kẻ thù ta.
Thánh Vịnh 109 (108):
Bị kẻ
thù nguyền rủa, xin ÐỨC CHÚA ban phúc lành
(1) Phần nhạc trưởng. Của vua
Ða-vít. Thánh vịnh.
Lạy Thiên Chúa là Ðấng con ca
ngợi,
xin Chúa đừng lặng thinh.
(2) Bởi vì kẻ gian ngoa độc dữ mở
miệng nhằm hại con,
nói với con toàn lời dối trá,
(3) buông lời hằn học bủa vây
con, tấn công con vô cớ.
(4) Con thương nó, nhưng nó lại
vu oan,
phần con, con chỉ biết cầu
nguyện.
(5) Nó lấy oán đền ơn,
lấy hận thù đáp lại lòng con
thương mến.
(6) Xin cho kẻ dữ nổi lên chống
nó,
bên phải nó, đặt một người cáo
tội đứng kèm.
(7) Ước gì nó phải mang án khi ra
khỏi cửa công,
và lời xin ân xá thành lời buộc
tội.
(8) Ước gì ngày đời nó bị rút
ngắn đi,
chức vụ nó vào tay kẻ khác,
(9) con cái nó trở thành mồ côi,
còn vợ nó ra người goá bụa!
(10) Ước gì con cái nó phải lang
thang ăn mày,
bị đuổi ra khỏi nhà, nhà đã tan
hoang,
(11) chủ nợ đến vét sạch bạc tiền
và người lạ đoạt hết của mồ hôi
nước mắt.
(12) Ước chi chẳng còn ai tình
nghĩa gì với nó,
chẳng người nào thương lũ con nó
mồ côi,
(13) dòng dõi nó bị tru di tam
tộc,
sau một đời, tên tuổi bị xoá
nhoà!
(14) Ước gì CHÚA nhớ lại tội cha
ông nó,
lỗi của mẹ nó không hề được xoá
bỏ đi!
(15) Các tội ấy cứ sờ sờ trước
mặt CHÚA,
xin Chúa xoá nhoà tên tuổi chúng
trên đời!
(16) Bởi nó đã chẳng màng điều
nhân việc nghĩa,
đã ngược đãi kẻ khó người nghèo
và giết hại cả người đã héo hắt
tâm can.
(17) Nó đã thích nguyền rủa,
thì cho lời nguyền rủa đổ lên đầu
nó;
nó chẳng ưa chúc lành,
thì cho lời chúc lành bỏ nó mà
đi!
(18) Nó đã lấy lời nguyền rủa làm
như áo mặc,
thì cho lời nguyền rủa thấm vào
thân nó:
như nước thấm ruột gan, như dầu
vào xương tủy.
(19) Ước chi lời nguyền rủa như
áo choàng quấn chặt lấy nó,
như đai lưng thắt mãi không rời!
(20) Những kẻ vu cáo tôi, những
kẻ nói xấu tôi:
ước gì CHÚA trả công như vậy!
(21) Còn Ngài, lạy CHÚA là Thiên
Chúa con thờ,
vì danh dự của Ngài, xin bênh đỡ,
vì lòng Ngài yêu thương nhân hậu,
xin giải thoát con,
(22) bởi vì con khốn khổ nghèo
hèn,
nghe trong mình con tim rướm máu.
(23) Con ra đi, như chiều tà bóng
ngả,
bị cuốn lôi đi như gió cuốn cào
cào.
(24) Gối rã rời, vì nhịn ăn nhịn
uống,
thân xác con gầy còm yếu nhược.
(25) Con bị người đời mắng chửi
dể duôi,
trông thấy con là chúng lắc đầu.
(26) Lạy CHÚA là Thiên Chúa của
con, xin thương phù hộ,
xin lấy lòng nhân hậu cứu độ con,
(27) để chúng biết rằng chính
Ngài, lạy CHÚA,
chính tay Ngài đã làm như vậy!
(28) Chúng cứ nguyền rủa đi,
nhưng phần Ngài, xin Ngài giáng
phúc.
Chúng cứ việc nổi dậy chống con,
chúng sẽ phải nhục nhằn xấu hổ.
Nhưng tôi tớ Ngài đây sẽ được vui
mừng.
(29) Ước gì những kẻ tố cáo con
bị phủ đầy nhục nhã,
bị xấu hổ trùm lên như chiếc áo
choàng.
(30) Tôi sẽ hết lời cảm tạ CHÚA,
tán dương Người giữa lòng đại
hội,
(31) vì Chúa đứng bên, bênh vực
kẻ nghèo hèn,
để cứu độ khỏi tay người kết án.
Thánh Vịnh 110 (109):
Ðấng Mê-si-a
là Vua và Thượng Tế
(1) Của vua Ða-vít. Thánh vịnh.
Sấm ngôn của ÐỨC CHÚA
Ngỏ cùng Chúa Thượng tôi:
"Bên hữu Cha đây, con lên ngự
trị,
để rồi bao địch thù, Cha sẽ đặt
làm bệ dưới chân con."
(2) Từ Xi-on, ÐỨC CHÚA sẽ mở rộng
quyền vương đế của Ngài:
Giữa lòng địch quân, xin Ngài làm
bá chủ.
(3) Ðức Chúa phán bảo rằng:
"Ngày đăng quang con nắm
quyền thủ lãnh,
vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần
linh.
Ngay trước lúc hừng đông xuất
hiện,
tự lòng Cha, Cha đã sinh ra
Con."
(4) ÐỨC CHÚA đã một lần thề ước,
Người sẽ chẳng rút lời,
rằng: "Muôn thuở, Con là
Thượng Tế
theo phẩm trật
Men-ki-xê-đê."
(5) Tâu Chúa Thượng, Ðức Chúa ở
bên hữu Ngài
sẽ đập tan vương bá ngày phẫn nộ,
(6) sẽ xét xử muôn dân, chất thây
ma thành đống,
đập tan bao thủ lãnh trên miền
đất mênh mông.
(7) Dọc đường, Chúa Thượng tôi
uống nơi mạch suối,
nên sẽ ngẩng đầu thật hiên ngang.
Thánh Vịnh 111 (110):
Sự
nghiệp ÐỨC CHÚA oai phong hiển hách
(1) Ha-lê-lui-a.
Alép
Tôi xin hết lòng cảm tạ CHÚA,
Bết
trong cộng đoàn chính nhân, giữa
lòng đại hội.
Ghi-men
(2) Việc CHÚA làm quả thật lớn
lao,
Ða-lét
người mộ mến ra công tìm hiểu.
Hê
(3) Sự nghiệp Chúa oai phong hiển
hách,
Vau
đức công chính của Người tồn tại
thiên thu.
Da-in
(4) Chúa đã truyền tưởng niệm
những kỳ công của Người.
Khết
CHÚA là Ðấng từ bi nhân hậu.
Tết
(5) Ai kính sợ Người, Người ban
phát của ăn;
Giốt
giao ước đã lập ra, muôn đời
Người nhớ mãi.
Cáp
(6) Sức mạnh việc Người làm,
Người cho dân thấy rõ,
La-mét
khi tặng ban cho họ gia sản của
chư dân.
Mêm
(7) Những công trình tay Chúa
thực hiện
quả là chân thật và công minh.
Nun
Huấn lệnh Người ban đều chắc
chắn,
Xa-méc
(8) bền vững đến muôn đời muôn
thuở,
A-in
căn cứ vào sự thật lẽ ngay.
Pê
(9) Người đem lại cho dân ơn giải
thoát,
Xa-đê
thiết lập giao ước đến muôn đời.
Cốp
Tôn danh Người thánh thiêng khả
uý.
Rết
(10) Kính sợ CHÚA là đầu mối khôn
ngoan.
Sin
Sáng suốt thay kẻ thực hành như
vậy.
Tau
Mãi đến thiên thu còn vang tiếng
ngợi khen Người.
Thánh Vịnh 112 (111):
Hạnh
phúc thay người công chính
(1) Ha-lê-lui-a.
Alép
Hạnh phúc thay, người kính sợ CHÚA,
Bết
những ưa cùng thích mệnh lệnh
Chúa truyền ban.
Ghi-men
(2) Trên mặt đất, con cháu của họ
sẽ hùng cường,
Ða-lét
dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa
thương giáng phúc.
Hê
(3) Gia đình họ phú quý giàu
sang,
Vau
đức công chính của họ tồn tại
muôn đời.
Da-in
(4) Giữa tối tăm bừng lên một ánh
sáng
chiếu rọi kẻ ngay lành:
Khết
đó là người từ bi nhân hậu và
công chính.
Tết
(5) Phúc thay người biết cảm
thương và cho vay mượn,
Giốt
biết theo lẽ phải mà thu xếp công
việc mình.
Cáp
(6) Họ sẽ không bao giờ lay
chuyển,
La-mét
thiên hạ muôn đời còn tưởng nhớ
chính nhân.
Mêm
(7) Họ không lo phải nghe tin dữ,
Nun
hằng an tâm và tin cậy CHÚA,
Xa-méc
(8) luôn vững lòng không sợ hãi
chi
A-in
và rốt cuộc coi khinh lũ địch
thù.
Pê
(9) Kẻ túng nghèo, họ rộng tay
làm phúc,
Xa-đê
đức công chính của họ tồn tại
muôn đời.
Cốp
uy thế họ vươn cao rực rỡ.
Rết
(10) Thấy cảnh này ác nhân tức
giận,
Sin
nghiến răng nghiến lợi và mòn mỏi
héo hon,
Tau
ước vọng của ác nhân sẽ chẳng
còn.
Thánh Vịnh 113 (112):
Danh
Chúa đáng ca ngợi
(1) Ha-lê-lui-a.
Hỡi tôi tớ CHÚA, hãy dâng lời ca
ngợi,
Nào ca ngợi danh thánh CHÚA đi!
(2) Chúc tụng danh thánh CHÚA,
tự giờ đây cho đến mãi muôn đời!
(3) Ca ngợi danh thánh CHÚA,
từ rạng đông tới lúc chiều tà!
(4) CHÚA siêu việt trên hết mọi
dân,
vinh quang Người vượt xa trời cao
thẳm.
(5) Ai sánh tày THƯỠNG ÐẾ Chúa
ta, Ðấng ngự chốn cao vời,
(6) cúi xuống để nhìn xem bầu
trời trái đất?
(7) Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi
nơi cát bụi,
ai nghèo túng, Người cất nhắc lên
từ đống phân tro,
(8) đặt ngồi chung với hàng quyền
quý, hàng quyền quý dân Người.
(9) Người làm cho đàn bà son sẻ
thành mẹ đông con, vui cửa vui
nhà.
Thánh Vịnh 114 (113A):
Thiên
Chúa cho Ít-ra-en vượt qua Biển Ðỏ và sông Gio-đan
(1) Ha-lê-lui-a.
Thuở Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập,
thuở nhà Gia-cóp rời bỏ ngoại bang,
(2) thì Giu-đa trở thành nơi Chúa
ngự,
Ít-ra-en nên lãnh địa của Người.
(3) Vừa thấy thế, biển liền trốn
chạy,
sông Gio-đan cũng chảy ngược
dòng.
(4) Ví tựa bầy chiên, núi đồi
nhảy nhót,
như thể đàn cừu, gò nổng tung
tăng.
(5) Biển kia ơi, việc gì mà trốn
chạy?
Gio-đan hỡi, cớ chi chảy ngược
dòng?
(6) Kìa núi đồi, sao nhảy nhót ví
tựa bầy chiên?
Này gò nổng, sao tung tăng như
thể đàn cừu?
(7) Trước thánh nhan Chúa, hỡi
địa cầu, hãy rung chuyển,
trước thánh nhan Chúa Trời nhà
Gia-cóp,
(8) Người biến đá tảng thành hồ
ao,
và sỏi đá nên mạch nước dồi dào.
Thánh Vịnh 115 (113B):
Ca tụng
ÐỨC CHÚA, Ðấng duy nhất và nhân hậu
(1) Xin đừng làm rạng rỡ chúng
con, vâng lạy CHÚA, xin đừng,
nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ,
bởi vì Ngài thành tín yêu thương.
(2) Sao chư dân lại nói:
"Thiên Chúa chúng ở đâu?"
(3) Thiên Chúa chúng ta ở trên
trời,
muốn làm gì là Chúa làm nên.
(4) Tượng thần chúng chỉ là vàng
bạc,
chỉ do tay người thế tạo thành.
(5) Có mắt có miệng, không nhìn
không nói,
(6) có mũi có tai, không ngửi
không nghe.
(7) Có hai tay, không sờ không mó
có hai chân, không bước không đi,
từ cổ họng, không thốt ra một
tiếng.
(8) Ước gì kẻ làm ra hoặc tin ở
tượng thần
cũng giống như chúng vậy.
(9) Nhà Ít-ra-en, hãy tin cậy
CHÚA,
chính Chúa độ trì, làm thuẫn đỡ
khiên che.
(10) Nhà A-ha-ron, hãy tin cậy
CHÚA,
chính Chúa độ trì, làm thuẫn đỡ
khiên che.
(11) Ai kính sợ CHÚA, hãy tin cậy
CHÚA,
chính Chúa độ trì, làm thuẫn đỡ
khiên che.
(12) CHÚA nhớ đến ta và sẽ ban
phúc cả:
sẽ ban phúc cho nhà Ít-ra-en,
sẽ ban phúc cho nhà A-ha-ron,
(13) sẽ ban phúc cho người kính
sợ CHÚA,
cho người lớn cũng như trẻ nhỏ.
(14) Nguyện xin CHÚA rộng rãi thi
ân
cho anh em và cho con cháu.
(15) Nguyện xin CHÚA, Ðấng dựng
nên đất trời,
xuống muôn phúc lành cho anh em.
(16) Trời là trời của CHÚA,
còn đất thì Chúa cho con cái loài
người.
(17) Không phải người đã chết,
hay mọi kẻ bước vào
cõi thinh lặng ngàn thu
sẽ ca tụng ÐỨC CHÚA;
(18) nhưng là chính chúng ta,
những người còn đang sống,
chúng ta chúc tụng CHÚA
từ nay đến muôn đời.
Thánh Vịnh 116 (114-115):
Lời kinh
tạ ơn
(1) Lòng tôi yêu mến Chúa, vì
CHÚA đã nghe tiếng tôi khẩn nài,
(2) Người lại lắng tai ngày tôi
kêu cứu.
(3) Dây tử thần đã bủa vây tôi
chằng chịt,
lưới âm ty chụp xuống trên mình.
(4) Gặp gian truân sầu khổ, tôi
đã kêu cầu danh CHÚA:
"Ôi lạy CHÚA, xin cứu gỡ
mạng con!"
(5) CHÚA là Ðấng nhân từ chính
trực,
Thiên Chúa chúng ta một dạ xót
thương,
(6) hằng gìn giữ những ai bé mọn,
tôi yếu đuối, Người đã cứu tôi.
(7) Hồn tôi hỡi, thôi bình tĩnh
lại,
vì trên ngươi, CHÚA đã xuống ơn
lành;
(8) Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi
chết,
giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ,
ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân.
(9) Tôi sẽ bước đi trước mặt
Người
trong cõi đất dành cho kẻ sống.
(10) Tôi đã tin cả khi mình đã
nói: "Ôi nhục nhã ê chề!"
(11) Ðã thốt ra trong cơn hốt hoảng:
"Mọi người đều giả dối!"
(12) Biết lấy chi đền đáp CHÚA
bây giờ
vì mọi ơn lành Người đã ban cho?
(13) Tôi xin nâng chén mừng ơn
cứu độ
và kêu cầu thánh danh ÐỨC CHÚA.
(14) Lời khấn nguyền với CHÚA,
tôi xin giữ trọn,
trước toàn thể dân Người.
(15) Ðối với CHÚA thật là đắt giá
cái chết của những ai trung hiếu
với Người.
(16) Vâng lạy CHÚA, thân này là
tôi tớ,
tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài,
xiềng xích trói buộc con, Ngài đã
tháo cởi.
(17) Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn, và
kêu cầu thánh danh ÐỨC CHÚA.
(18) Lời khấn nguyền với CHÚA,
tôi xin giữ trọn,
trước toàn thể dân Người,
(19) tại khuôn viên đền CHÚA,
giữa lòng ngươi, hỡi Giê-ru-sa-lem!
Ha-lê-lui-a.
Thánh Vịnh 117 (116):
Kêu gọi
mọi người ca tụng Chúa
(1) Muôn nước hỡi, nào ca ngợi
CHÚA,
ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người!
(2) Vì tình Chúa thương ta thật
là mãnh liệt,
lòng thành tín của Người bền vững
muôn năm. Ha-lê-lui-a.
Thánh Vịnh 118 (117):
Tạ ơn
sau cuộc chiến thắng
(1) Hãy tạ ơn CHÚA vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(2) Ít-ra-en hãy nói lên rằng:
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(3) Nhà A-ha-ron hãy nói lên
rằng:
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(4) Ai kính sợ CHÚA hãy nói lên
rằng:
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(5) Giữa cảnh gian truân, tôi đã
kêu cầu CHÚA,
CHÚA đáp lời và giải thoát tôi.
(6) Có CHÚA ở cùng tôi, tôi chẳng
sợ gì,
hỏi người đời làm chi tôi được?
(7) Có CHÚA ở cùng tôi mà bênh
đỡ,
tôi dám nghênh lũ địch thù tôi.
(8) Ẩn thân bên cạnh CHÚA TRỜI,
thì hơn tin cậy ở người trần
gian.
(9) Cậy vào thần thế vua quan,
chẳng bằng ẩn náu ở bên CHÚA
TRỜI.
(10)
nhờ danh CHÚA, tôi đã trừ diệt
chúng.
(11) Chúng bủa vây tôi, trùng
điệp tư bề,
nhờ danh CHÚA, tôi đã trừ diệt
chúng.
(12) Chúng bủa vây tôi như thể
bầy ong,
chúng như lửa bụi gai cháy bừng
bừng,
nhờ danh CHÚA, tôi đã diệt trừ
chúng.
(13) Chúng xô đẩy tôi, xô cho
ngã,
nhưng CHÚA đã phù trợ thân này.
(14) CHÚA là sức mạnh tôi, là
Ðấng tôi ca ngợi,
chính Người cứu độ tôi.
(15) Kìa nghe tiếng reo mừng
chiến thắng
trong doanh trại chính nhân:
(16) "
tay hữu CHÚA đã ra oai thần
lực."
(17) Tôi không phải chết, nhưng
tôi sẽ sống,
để loan báo những công việc CHÚA
làm.
(18) Sửa phạt tôi, vâng CHÚA sửa
phạt tôi,
nhưng không nỡ để tôi phải chết.
(19) Xin mở cửa công chính cho
tôi
để tôi vào tạ ơn ÐỨC CHÚA.
(20) Ðây là cửa dẫn vào nơi CHÚA
ngự,
chỉ những người công chính mới
được qua.
(21) Lạy Chúa, con xin tạ ơn Ngài
vì đã đáp lời con và thương cứu
độ.
(22) Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
lại trở nên đá tảng góc tường.
(23) Ðó chính là công trình của
CHÚA,
công trình kỳ diệu trước mắt
chúng ta.
(24) Ðây là ngày CHÚA đã làm ra,
nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.
(25) Lạy CHÚA, xin ban ơn cứu độ,
Lạy CHÚA, xin thương giúp thành
công.
(26) Nguyện xin Chúa tuôn đổ phúc
lành
cho người tiến vào đây nhân danh
CHÚA.
Từ nhà CHÚA, chúng tôi chúc lành
cho anh em.
(27) ÐỨC CHÚA là Thượng Ðế, Người
giãi sáng trên ta.
(28) Lạy Chúa, chính Ngài là Thiên
Chúa của con,
xin dâng Ngài muôn câu cảm tạ;
lạy Thiên Chúa con thờ, xin dâng
Ngài vạn tiếng tôn vinh.
(29) Hãy tạ ơn CHÚA vì Chúa nhân
từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
Thánh Vịnh 119 (118):
Ca ngợi
Lề Luật
A-lép
(1) Hạnh phúc thay ai sống đời
hoàn thiện,
biết noi theo luật pháp CHÚA
TRỜI.
(2) Hạnh phúc thay kẻ tuân hành ý
Chúa,
hết lòng hết dạ kiếm tìm Người.
(3) Họ không làm điều ác, nhưng
cứ đường lối Chúa mà đi.
(4) Vâng lạy Chúa, Ngài đã ban
huấn lệnh,
truyền chúng con vâng giữ vẹn
toàn.
(5) Ước mong sao con hằng vững
bước
theo thánh chỉ Ngài ban.
(6) Ðể con không xấu hổ
khi nhìn lại các mệnh lệnh của
Ngài.
(7) Con thành tâm dâng lời cảm tạ
vì được biết những quyết định
công minh.
(8) Thánh chỉ Ngài, con xin tuân
giữ,
xin Ngài đừng nỡ bỏ rơi con.
Bết
(9) Làm thế nào giữ được tuổi
xuân trong trắng?
Thưa phải tuân theo lời Chúa dạy.
(10) Lạy Chúa, con hết dạ kiếm
tìm Ngài,
xin chớ để con làm sai mệnh lệnh
Chúa.
(11) Lời Chúa hứa, lòng con ấp ủ,
để chẳng bao giờ bội nghĩa bất
trung.
(12) Lạy CHÚA, con dâng lời ca
tụng,
thánh chỉ Ngài, xin dạy cho con.
(13) Môi con hằng nhẩm đi nhắc
lại,
các quyết định miệng Ngài phán
ra.
(14) Tuân theo thánh ý Ngài, con
vui sướng
hơn là được tiền rừng bạc bể.
(15) Con sẽ gẫm suy huấn lệnh
Chúa truyền,
đưa mắt nhìn theo đường lối Chúa.
(16) Con vui thú với thánh chỉ
Ngài
chẳng quên lời Ngài phán.
Ghi-men
(17) Xin tỏ lòng nhân hậu cùng
tôi tớ Chúa đây
để con được sống và tuân giữ lời
Ngài.
(18) Xin mở mắt cho con nhìn thấy
luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao.
(19) Ở trên đời, con là thân lữ
khách,
mệnh lệnh Ngài, xin đừng nỡ giấu
con.
(20) Hồn con những khát khao mòn
mỏi,
hằng chờ mong quyết định của
Ngài.
(21) Chúa ngăm đe bọn người ngạo
mạn,
khốn cho kẻ làm sai mệnh lệnh
Ngài!
(22) Xin đừng để con phải nhuốc
nha tủi hổ,
vì thánh ý Ngài, con vẫn tuân
theo.
(23) Mặc quan quyền họp nhau mưu
hại,
tôi tớ Ngài đây cứ gẫm suy thánh
chỉ.
(24) Vâng, thánh ý Ngài làm con
vui sướng thoả thuê,
chỉ bảo con như những người cố
vấn.
Ða-lét
(25) Tấm thân này bị nhận xuống
bùn đen,
theo lời Ngài, xin cho con được
sống.
(26) Con kể lể đường đời, Chúa
đáp lại,
xin dạy cho con biết thánh chỉ
Ngài.
(27) Ðường lối huấn lệnh Ngài,
xin cho con hiểu rõ,
để con suy gẫm những kỳ công của
Ngài.
(28) Con đã phải buồn sầu ứa lệ,
như lời Ngài phán, xin đỡ con
lên.
(29) Xin giúp con tránh đường xảo
trá
và thương ban cho con luật pháp
Ngài.
(30) Ðường chân lý, này con đã
chọn,
quyết định của Ngài, con khao
khát đợi trông.
(31) Con thiết tha với thánh ý
Ngài, lạy CHÚA,
xin đừng để con phải nhục nhã ê
chề.
(32) Ðược Chúa thương mở lòng mở
trí,
con chạy theo đường mệnh lệnh của
Ngài.
Hê
(33) Lạy CHÚA, xin dạy con đường
lối thánh chỉ,
con nguyện đi theo mãi đến cùng.
(34) Xin cho con được trí thông
minh
để vâng theo luật Ngài và hết
lòng tuân giữ.
(35) Trên đường mệnh lệnh Chúa,
xin dẫn con đi,
vì con ưa thích đường lối đó.
(36) Xin hướng lòng con nghiêng
về thánh ý,
không ngả theo lợi lộc tiền tài.
(37) Xin giữ mắt này khỏi nhìn
theo những gì hư ảo,
và cho con được sống nhờ đường
lối của Ngài.
(38) Xin thực hiện cho tôi tớ
Ngài đây lời đã hứa,
để người người kính sợ Thánh
Danh.
(39) Xin giữ con khỏi nỗi nhục
nhằn con vẫn sợ,
vì quyết định của Ngài tốt đẹp
dường bao!
(40) Con khát khao huấn lệnh của
Ngài,
vì Ngài công chính, xin cho con
được sống.
Vau
(41) Lạy CHÚA, xin cho con được
hưởng tình thương Chúa,
và ơn cứu độ, theo lời hứa của
Ngài.
(42) Con sẽ đối đáp với người
lăng nhục,
vì con tin cậy ở lời Ngài.
(43) Xin đừng cất khỏi miệng con
lời chân lý,
vì quyết định của Ngài, con vẫn
cậy trông.
(44) Luật pháp Ngài, con nguyện
hằng tuân giữ
tới muôn thuở muôn đời.
(45) Con thảnh thơi tiến bước,
vì huấn lệnh của Ngài, con mải
miết dõi theo.
(46) Trước mặt vua quan, con giãi
bày thánh ý,
lòng không chút hỗ ngươi.
(47) Con vui thú với mệnh lệnh
của Ngài
và hết lòng yêu mến.
(48) Mệnh lệnh Ngài, con giơ tay
đón nhận,
thánh chỉ Ngài, con sẽ gẫm suy.
Da-in
(49) Xin Chúa nhớ lại lời phán
cùng tôi tớ,
lời ban niềm hy vọng cho con.
(50) Lời hứa của Ngài làm cho con
được sống,
đó là điều an ủi con trong cảnh
khốn cùng.
(51) Phường kiêu ngạo nặng lời
chế diễu,
nhưng luật Ngài, con chẳng lìa
xa.
(52) Lạy CHÚA, con nhớ lại quyết
định xưa của Ngài,
và lòng đầy an ủi.
(53) Con nổi giận với bọn ác
nhân,
vì chúng đã bỏ quên luật Chúa.
(54) Thánh chỉ Ngài là khúc nhạc
của con,
giữa cảnh đời tha hương lữ thứ.
(55) Suốt đêm trường, con nhắc
nhở Thánh Danh,
và lạy CHÚA, con sẽ tuân thủ luật
Ngài.
(56) Huấn lệnh Chúa truyền, con
lo vâng giữ,
đó chính là nhiệm vụ của con.
Khết
(57) Lạy CHÚA, con đã nói:
phần của con là tuân giữ lời Ngài.
(58) Con hết lòng xin Chúa bao
dung,
xót phận con như lời Ngài đã hứa.
(59) Con xét lại đường lối con
đi,
và quay gót trở về cùng thánh ý.
(60) Con mau lẹ chứ không trì
hoãn
tuân theo mệnh lệnh Ngài.
(61) Con bị lưới ác nhân vây bủa,
Nhưng luật Ngài, con vẫn không
quên.
(62) Nửa đêm con thức dậy tạ ơn
Chúa,
vì quyết định của Ngài thật công
minh.
(63) Con làm bạn với mọi người
kính sợ Chúa
và những ai tuân giữ huấn lệnh
Ngài.
(64) Lạy CHÚA, trái đất tràn đầy
tình thương Chúa,
thánh chỉ Ngài, xin dạy cho con.
Tết
(65) Lạy CHÚA, Chúa hậu đãi tôi
tớ Ngài đây,
như lời Ngài đã phán.
(66) Xin dạy con hiểu cho tường,
xét cho đúng,
vì con vẫn tin vào mệnh lệnh
Ngài.
(67) Con lầm lạc khi chưa bị khổ,
nhưng giờ đây chú tâm đến lời hứa
của Ngài.
(68) Chúa nhân hậu, hay làm ơn
làm phúc,
thánh chỉ Ngài, xin dạy cho con.
(69) Nhằm hại con, bọn kiêu căng
đặt điều bôi nhọ,
nhưng huấn lệnh Ngài ban, con
vâng giữ hết lòng.
(70) Như đầy ứ mỡ, lòng chúng ra
ngu muội,
phần con vẫn vui thú với luật
Ngài.
(71) Ðau khổ quả là điều hữu ích,
để giúp con học biết thánh chỉ
Ngài.
(72) Con coi trọng luật Chúa
truyền ban
hơn vàng muôn bạc triệu.
Giốt
(73) Tay Chúa đã nắn con nên hình
nên dạng,
xin mở trí cho con học biết mệnh
lệnh Ngài.
(74) Kẻ kính sợ Ngài thấy con mà
hoan hỷ,
vì con trông cậy ở lời Ngài.
(75) Lạy CHÚA, con biết: quyết
định của Ngài thật công minh,
Ngài làm con khổ nhục cũng là
đúng lý.
(76) Xin Chúa lấy tình thương mà
an ủi,
theo lời đã hứa với tôi tớ Ngài
đây.
(77) Xin chạnh lòng thương cho
con được sống,
vì luật Ngài làm con vui sướng
thoả thuê.
(78) Nhục cho bọn kiêu kỳ hành hạ
con vô cớ,
phần con vẫn gẫm suy huấn lệnh
Ngài.
(79) Kẻ kính sợ Ngài, kẻ am tường
thánh ý,
mong sao họ quay về với con.
(80) Xin cho con hết lòng tuân
theo thánh chỉ,
để con khỏi nhục nhã ê chề.
Cáp
(81) Hồn tiêu hao đợi trông Ngài
cứu độ,
con vẫn trông cậy ở lời Ngài.
(82) Mòn đôi mắt bởi mong điều
Chúa hứa,
con tự nhủ: đến bao giờ Ngài mới
ủi an?
(83) Dù có như bầu da gác bếp,
con cũng chẳng quên thánh chỉ
Ngài.
(84) Tôi tớ Ngài đây còn sống được
bao lăm?
Kẻ ngược đãi con, khi nào Ngài
mới xử?
(85) Phường kiêu ngạo đào hố để
hại con,
chẳng kể gì luật Chúa.
(86) Mệnh lệnh Chúa thảy đều chân
thật,
con bị ngược đãi vô cớ, xin cứu
giúp con cùng!
(87) Một chút nữa là chúng diệt
con trên đất này,
nhưng con chẳng bỏ huấn lệnh Ngài
ban.
(88) Xin lấy lòng nhân hậu mà cho
con được sống,
thánh ý của Ngài, con sẽ tuân
theo.
La-mét
(89) Muôn lạy CHÚA, lời Ngài bền
vững
đến ngàn đời, trên cõi trời cao.
(90) Lòng thành tín Chúa trải bao
thế hệ,
Ngài củng cố địa cầu, địa cầu tồn
tại mãi.
(91) Theo quyết định Chúa, mọi
loài tồn tại mãi đến nay,
vì muôn sự đều phục vụ Chúa.
(92) Nếu luật Ngài chẳng làm con
vui thoả,
gặp cơn khổ nhục, con đã tiêu
vong.
(93) Con nguyện chẳng hề quên
huấn lệnh Ngài,
vì nhờ đó, Ngài đã cho con được
sống.
(94) Con thuộc về Chúa, xin Ngài
cứu độ,
bởi con tìm kiếm huấn lệnh Ngài.
(95) Bọn gian ác rình hãm hại
con,
thánh ý Ngài, con chú tâm suy
gẫm.
(96) Mọi sự toàn hảo, con thấy
đều hữu hạn,
nhưng mệnh lệnh Ngài trải rộng vô
biên.
Mêm
(97) Luật pháp Ngài, lạy Chúa,
con yêu chuộng dường bao,
suốt ngày cứ suy đi gẫm lại!
(98) Mệnh lệnh Chúa làm con khôn
hơn địch thủ,
vì con hằng ấp ủ mệnh lệnh đó
trong lòng.
(99) Con được thông suốt hơn cả
thầy dạy,
vì con thường gẫm suy thánh ý;
(100) am hiểu hơn các bậc lão
thành,
bởi huấn lệnh Ngài, con đã tuân
theo.
(101) Mọi nẻo đường tà, chân con
chẳng bước,
cốt làm sao giữ được lời Ngài.
(102) Con chẳng lìa xa điều Ngài
quyết định,
bởi chính Ngài chỉ giáo cho con.
(103) Con cảm thấy lời Ngài đã
hứa
ngọt ngào hơn mật ong trong
miệng.
(104) Con thành người sáng suốt
nhờ huấn lệnh Ngài ban,
nên con ghét mọi đường nẻo gian
tà.
Nun
(105) Lời Chúa là ngọn đèn soi
cho con bước,
là ánh sáng chỉ đường con đi.
(106) Con đã thề và con xin cam
kết
giữ quyết định công minh của
Ngài.
(107) Lạy CHÚA, thân con bị muôn
phần khổ nhục,
theo lời Ngài, xin cho con được
sống.
(108) Lạy CHÚA, xin khứng nhận
lời tán tạ con dâng
và dạy con biết những quyết định
của Ngài.
(109) Mạng sống này luôn lâm vòng
nguy hiểm,
song luật Ngài, con vẫn không
quên.
(110) Nhằm hại con, bọn ác nhân
gài bẫy,
nhưng con chẳng lạc xa huấn lệnh
Ngài.
(111) Thánh ý Ngài là gia nghiệp
con mãi mãi,
vì đó là hoan lạc của lòng con.
(112) Con hướng lòng quyết thực
thi thánh chỉ,
mãi mãi cho đến cùng.
Xa-méc
(113) Kẻ hai lòng, con chê con
ghét,
nhưng luật Ngài, con chuộng con
yêu.
(114) Chúa là nơi con ẩn náu, là
thuẫn đỡ,
con vẫn trông cậy ở lời Ngài.
(115) Ði cho rảnh mắt ta, hỡi
phường tác hại,
để ta còn tuân giữ mệnh lệnh Chúa
ta.
(116) Theo lời Chúa hứa, xin cho
con được sống,
đừng để con thất vọng ê chề.
(117) Xin phù trợ để con được
cứu,
và con sẽ luôn luôn nhìn ngắm
thánh chỉ Ngài.
(118) Những ai xa lìa thánh chỉ,
Chúa đều khinh,
vì mánh lới họ là trò gạt gẫm.
(119) Mọi ác nhân trên đời, Chúa
coi như rỉ sắt,
nên con đã mến yêu thánh ý Ngài.
(120) Kinh hãi Chúa, con rùng
mình sởn ốc,
quyết định Ngài làm cho con những
sợ cùng lo.
A-in
(121) Con đã làm điều chính trực
công minh,
xin đừng bỏ mặc con cho bọn người
ức hiếp.
(122) Hạnh phúc tôi tớ Ngài đây,
xin bảo đảm,
để phường kiêu ngạo đừng ức hiếp
thân này.
(123) Con mỏi mắt trông ơn Ngài
cứu độ,
trông lời hứa công chính của
Ngài.
(124) Với tôi tớ này, xin lấy
tình thương mà đối xử,
thánh chỉ Ngài, xin dạy cho con.
(125) Con là tôi tớ Ngài, xin ban
trí thông minh,
để con được am tường thánh ý.
(126) Ðã đến thời CHÚA ra tay
hành động,
vì người ta vi phạm luật Ngài.
(127) Vì thế, mệnh lệnh Ngài, con
yêu quý,
quý hơn vàng, hơn cả vàng y.
(128) Vì thế, theo mọi huấn lệnh
Ngài, con thẳng bước,
lòng ghét mọi đường nẻo gian tà.
Pê
(129) Thánh ý Chúa kỳ diệu lắm
thay,
nên hồn con tuân giữ.
(130) Giải thích lời Ngài là đem
lại ánh sáng
cho kẻ đơn sơ thông hiểu am
tường.
(131) Con há miệng và con hớp
lấy,
vì khát khao mệnh lệnh của Ngài.
(132) Xin đoái nhìn con và động
lòng trắc ẩn,
như đã quyết định cho người mến
Thánh Danh.
(133) Theo lời hứa của Ngài, xin
cho con vững bước,
chớ để sự gian tà chế ngự được
con;
(134) cứu con khỏi ác nhân hà
hiếp,
con sẽ tuân theo huấn lệnh của
Ngài.
(135) Xin toả ánh tôn nhan rạng
ngời trên tôi tớ Chúa,
thánh chỉ Ngài, xin dạy bề tôi.
(136) Mắt này suối lệ tuôn rơi,
bởi chưng luật Chúa người đời
chẳng tuân.
Xa-đê
(137) Lạy CHÚA, Ngài quả là chính
trực,
quyết định của Ngài thật công
minh.
(138) Ngài đem thánh ý ban hành,
thảy đều một mực chí thành chí
công.
(139) Lửa nhiệt thành làm con héo
hắt,
bởi kẻ thù con đã quên lời Ngài.
(140) Lời hứa của Ngài được hoàn
toàn chứng nghiệm,
nên tôi tớ Ngài yêu chuộng thiết
tha.
(141) Dầu hèn mọn và bị người
khinh dễ
huấn lệnh Ngài, con cũng chẳng
quên.
(142) Công lý của Chúa: công lý
trường tồn,
luật Chúa truyền ban quả là chân
lý.
(143) Khốn khổ ngặt nghèo tuy ập
xuống thân con,
mệnh lệnh Ngài vẫn làm con vui
thoả.
(144) Thánh ý Ngài mãi mãi công
minh,
xin cho hiểu ngọn nguồn, để con
được sống.
Cốp
(145) Con kêu van hết lòng, lạy
CHÚA, xin đáp lại,
thánh chỉ Ngài, con sẽ vâng theo.
(146) Con kêu lên Chúa, xin Ngài
cứu chữa,
để con tuân giữ thánh ý Ngài.
(147) Hừng đông chưa xuất hiện,
con đã kêu xin,
con hằng cậy trông ở lời Chúa.
(148) Canh khuya chưa tàn, này
mắt con đã mở,
để suy niệm lời hứa của Ngài.
(149) Xin nghe tiếng con, lạy
CHÚA, bởi vì Ngài nhân hậu,
theo quyết định của Ngài, xin cho
con được sống.
(150) Bọn bất lương sống xa luật
Ngài
đã đến gần con mà bách hại.
(151) Nhưng lạy CHÚA, Chúa ở gần
bên con,
mệnh lệnh Chúa đều là chân lý.
(152) Về thánh ý, từ lâu con đã
hiểu:
Ngài đã thiết lập đến muôn đời.
Rết
(153) Con khổ cực, xin Chúa đoái
nhìn và giải thoát,
vì con chẳng quên luật pháp Ngài.
(154) Xin biện hộ và cứu chuộc
con,
theo lời hứa của Ngài, xin cho
con được sống.
(155) Ơn cứu độ ở xa kẻ dữ,
bởi chúng không tìm kiếm thánh
chỉ Ngài.
(156) Lạy CHÚA, lòng thương xót
của Ngài thật bao la,
theo quyết định của Ngài, xin cho
con được sống.
(157) Những kẻ bắt bớ hành hạ con
thật là nhiều,
nhưng thánh ý Ngài, con chẳng lìa
xa.
(158) Con nhìn quân phản phúc mà
ghê tởm,
lời hứa của Ngài, chúng chẳng
quan tâm.
(159) Chúa thấy cho: lòng con mộ
mến huấn lệnh Ngài,
lạy CHÚA, vì Ngài nhân hậu, xin
cho con được sống.
(160) Căn nguyên lời Ngài là chân
lý,
mọi quyết định công minh của Ngài
tồn tại muôn năm.
Sin
(161) Quan quyền bách hại con vô
cớ,
nhưng lòng này sợ lời Chúa mà
thôi.
(162) Con mừng vui vì lời hứa của
Ngài,
như kẻ thâu được nhiều chiến lợi
phẩm.
(163) Ðiều giả dối, con chê con
ghét,
luật pháp Ngài, những mến cùng
yêu.
(164) Con ca tụng Chúa mỗi ngày
bảy lượt,
vì những quyết định công minh của
Ngài.
(165) Kẻ yêu luật Chúa hưởng an
bình thư thái,
chẳng còn lo gặp chướng ngại nào.
(166) Lạy CHÚA, con đợi trông ơn
Ngài cứu độ,
mệnh lệnh Ngài, con vẫn thực thi,
(167) Thánh ý Chúa, trọn bề tuân
giữ,
hồn mến yêu hâm mộ chẳng rời.
(168) Ðường con Chúa rõ mười
mươi,
huấn lệnh, thánh ý, con thời vâng
theo.
Tau
(169) Tiếng con kêu, nguyện thấu
tới Ngài, lạy CHÚA,
theo lời Ngài, xin mở trí cho
con.
(170) Ước chi lời cầu khẩn của
con vọng tới Ngài,
xin giải thoát cho, như lời Ngài
đã hứa.
(171) Môi này nguyện trào dâng
câu tán tụng,
vì Ngài dạy thánh chỉ cho con.
(172) Lời hứa của Ngài, miệng con
xin mừng hát,
mệnh lệnh của Ngài thảy đều công
minh.
(173) Cầu mong Ngài ra tay phù
trợ,
vì con đã chọn theo huấn lệnh
Ngài.
(174) Lạy CHÚA, con khát mong ơn
Ngài cứu độ,
luật Ngài làm con vui sướng thoả
thuê.
(175) Ước gì con sống để dâng
Ngài lời ca tụng,
cầu mong quyết định của Ngài phù
hộ con.
(176) Con phiêu bạt tựa hồ chiên
lạc lối,
xin kiếm tìm tôi tớ Ngài đây,
vì con chẳng quên mệnh lệnh của
Ngài.
Thánh Vịnh 120 (119):
Ước mong
được sống bình an
(1) Ca khúc lên Ðền.
Lúc ngặt nghèo, tôi kêu lên cùng
CHÚA,
Chúa đã thương đáp lời.
(2) Lạy CHÚA, xin Ngài cứu mạng
con
khỏi môi miệng điêu ngoa, tấc
lưỡi phỉnh phờ.
(3) Lưỡi phỉnh phờ kia hỡi!
Chúa sẽ giáng gì xuống ngươi đây,
và còn thêm chi nữa?
(4) Giáng toàn mũi tên nhọn của
người chiến binh,
thêm những hòn than đước đỏ hồng!
(5) Thật bất hạnh cho tôi
phải trú ngụ trong miền rợ
Me-séc,
phải sống cùng dân du mục Kê-đa.
(6) Tấm thân này trải bao năm
tháng
(7) sống cùng những kẻ ghét hoà
bình.
Tôi vốn chuộng hoà bình.
Nhưng hễ tôi nói tới, thì phe họ
lại muốn chiến tranh.
Thánh Vịnh 121 (120):
ÐỨC CHÚA
là Ðấng bảo vệ Dân
(1) Ca khúc lên Ðền.
Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi,
ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?
(2) Ơn phù hộ tôi đến từ ÐỨC CHÚA
là Ðấng dựng nên cả đất trời.
(3) Xin Ðấng gìn giữ bạn đừng để
bạn lỡ chân trật bước,
xin Người chớ ngủ quên.
(4) Ðấng gìn giữ Ít-ra-en,
lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho
đành!
(5) Chính CHÚA là Ðấng canh giữ
bạn,
chính CHÚA là Ðấng vẫn chở che,
Người luôn luôn ở gần kề.
(6) Ngày sáu khắc, vầng ô không
tác hoạ,
đêm năm canh, vành nguyệt chẳng
hại chi.
(7) CHÚA giữ gìn bạn khỏi mọi
điều bất hạnh,
giữ gìn cho sinh mệnh an toàn.
(8) CHÚA giữ gìn bạn lúc ra vào
lui tới,
từ giờ đây cho đến mãi muôn đời.
Thánh Vịnh 122 (121):
Thành
Thánh Giê-ru-sa-lem
(1) Ca khúc lên Ðền. Của vua
Ða-vít.
Vui dường nào khi thiên hạ bảo
tôi:
"Ta cùng trẩy lên đền thánh
CHÚA!"
Và giờ đây, Giê-ru-sa-lem hỡi,
(2) cửa nội thành, ta đã dừng
chân.
(3) Giê-ru-sa-lem khác nào đô thị
được xây nên một khối vẹn toàn.
(4) Từng chi tộc, chi tộc của
CHÚA,
trẩy hội lên đền ở nơi đây,
để danh CHÚA, họ cùng xưng tụng,
như lệnh đã truyền cho Ít-ra-en.
(5) Cũng nơi đó, đặt ngai xét xử,
ngai vàng của vương triều Ða-vít.
(6) Hãy nguyện chúc Giê-ru-sa-lem
được thái bình,
rằng: "Chúc thân hữu của
thành luôn thịnh đạt,
(7) tường trong luỹ ngoài hằng
yên ổn,
lâu đài dinh thự mãi an
ninh."
(8) Nghĩ tới anh em cùng là bạn
hữu,
tôi nói rằng: "Chúc thành đô
an lạc."
(9) Nghĩ tới đền thánh CHÚA,
Thiên Chúa chúng ta thờ,
tôi ước mong thành được hạnh
phúc, hỡi thành đô.
Thánh Vịnh 123 (122):
Dân
Ít-ra-en bị áp bức đặt hy vọng nơi Thiên Chúa
(1) Ca khúc lên Ðền.
Con ngước mắt hướng nhìn lên
Chúa,
Ðấng đang ngự trên trời.
(2) Quả thực như mắt của gia nhân
hướng nhìn tay ông chủ,
như mắt của nữ tỳ hướng nhìn tay
bà chủ,
mắt chúng ta cũng hướng nhìn lên
CHÚA
là Thiên Chúa chúng ta,
tới khi Người xót thương chút
phận.
(3) Dủ lòng thương, lạy CHÚA, xin
dủ lòng thương,
bởi chúng con bị khinh miệt ê
chề;
(4) hồn thật quá ê chề vì hứng
chịu
lời nhạo báng của phường tự mãn,
giọng khinh người của bọn kiêu
căng.
Thánh Vịnh 124 (123):
Ít-ra-en
được phù hộ khi kêu cầu danh ÐỨC CHÚA
(1) Ca khúc lên Ðền. Của vua
Ða-vít.
Nếu mà CHÚA chẳng đỡ bênh ta,
nhà Ít-ra-en hãy nói lên rằng:
(2) Nếu mà CHÚA chẳng đỡ bênh ta,
khi thiên hạ nhằm ta xông tới,
(3) hẳn là họ đã nuốt sống ta
rồi,
lúc đùng đùng giận ta như vậy;
(4) hẳn là nước đã cuốn ta đi,
dòng thác lũ dâng lên ngập đầu
ngập cổ;
(5) hẳn là nước cuồn cuộn đã dâng
lên, ngập cổ ngập đầu.
(6) Xin chúc tụng ÐỨC CHÚA
đã không bỏ mặc ta làm mồi ngon
cho nanh vuốt họ.
(7) Hồn ta tựa cánh chim thoát
lưới người đánh bẫy;
lưới giăng đã đứt rồi, thế là ta
thoát nạn.
(8) Ta được phù hộ là nhờ danh
thánh CHÚA,
Ðấng đã dựng nên cả đất trời.
Thánh Vịnh 125 (124):
ÐỨC CHÚA
che chở Dân Người
(1) Ca khúc lên Ðền.
Ai tin tưởng vào CHÚA, khác nào
núi Xi-on
chẳng bao giờ lay chuyển, muôn
thuở vẫn trường tồn.
(2)Như núi đồi bao bọc thành
Giê-ru-sa-lem,
CHÚA bao bọc dân Người bây giờ và
mãi mãi.
(3) Chúa sẽ không cho vương
trượng ác nhân
đè nặng trên phần đất người lành,
kẻo người lành tra tay làm điều
ác.
(4) Lạy CHÚA, xin đối xử nhân hậu
với người nhân hậu
và những ai lòng dạ thẳng ngay.
(5) Nhưng kẻ ngả theo đường tà
vạy,
xin CHÚA đuổi đi cùng bọn làm
điều ác.
Nguyện chúc Ít-ra-en được thái
bình.
Thánh Vịnh 126 (125):
Niềm vui
và hy vọng đặt nơi Chúa
(1) Ca khúc lên Ðền.
Khi CHÚA dẫn tù nhân Xi-on trở về,
ta tưởng mình như giữa giấc mơ.
(2) Vang vang ngoài miệng câu
cười nói,
rộn rã trên môi khúc nhạc mừng.
Bấy giờ trong dân ngoại, người ta
bàn tán:
"Việc CHÚA làm cho họ, vĩ
đại thay!"
(3) Việc CHÚA làm cho ta, ôi vĩ
đại!
ta thấy mình chan chứa một niềm
vui.
(4) Lạy CHÚA, xin dẫn tù nhân
chúng con về,
như mưa dẫn nước về suối cạn miền
(5) Ai nghẹn ngào ra đi gieo
giống,
mùa gặt mai sau khấp khởi mừng.
(6) Họ ra đi, đi mà nức nở, mang
hạt giống vãi gieo;
lúc trở về, về reo hớn hở, vai
nặng gánh lúa vàng.
Thánh Vịnh 127 (126):
Vất vả
uổng công nếu không có Chúa giúp
(1) Ca khúc lên Ðền. Của vua
Sa-lô-môn.
Ví như CHÚA chẳng xây nhà,
thợ nề vất vả cũng là uổng công.
Thành kia mà CHÚA không phòng giữ,
uổng công người trấn thủ canh đêm.
(2) Bạn có thức khuya hay dậy
sớm,
khó nhọc làm ăn cũng hoài công.
Còn kẻ được Chúa thương dầu có
ngủ,
Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng.
(3) Này con cái là hồng ân của
CHÚA,
con mình sinh hạ là phần thưởng
Chúa ban.
(4) Bầy con sinh hạ thời son trẻ
tựa nắm tên người dũng sĩ cầm
tay.
(5) Hạnh phúc thay người nào
đeo ống đầy loại tên như thế!
Họ sẽ không nhục nhã
khi phải đến cửa công
tranh tụng với địch thù.
Thánh Vịnh 128 (127):
Hạnh
phúc thay kẻ kính sợ Chúa
(1) Ca khúc lên Ðền.
Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ
CHÚA,
ăn ở theo đường lối của Người.
(2) Công khó tay bạn làm, bạn
được an hưởng,
bạn quả là lắm phúc nhiều may.
(3) Hiền thê bạn trong cửa trong
nhà
khác nào cây nho đầy hoa trái;
và bầy con tựa những cây ô-liu
mơn mởn,
xúm xít tại bàn ăn.
(4) Ðó chính là phúc lộc CHÚA
dành cho kẻ kính sợ Người.
(5) Xin CHÚA từ Xi-on xuống cho
bạn muôn vàn ơn phúc.
Ước chi trong suốt cả cuộc đời
bạn được thấy Giê-ru-sa-lem phồn
thịnh,
(6) được sống lâu bên đàn con
cháu.
Nguyện chúc Ít-ra-en vui hưởng
thái bình.
Thánh Vịnh 129 (128):
Bị hà
hiếp dân Chúa vẫn một niềm tin tưởng
(1) Ca khúc lên Ðền.
Từ lúc tôi còn trẻ, chúng hà hiếp
tôi nhiều,
Ít-ra-en hãy nói lên điều đó.
(2) Từ lúc tôi còn trẻ, chúng hà
hiếp tôi nhiều,
nhưng đã không hề thắng được tôi.
(3) Trên lưng này, chúng cày ngang
cày dọc,
đào xới lên những luống thật dài.
(4) Nhưng mà CHÚA công minh
đã chặt đứt chão thừng quân gian
ác.
(5) Ước chi những kẻ thù Xi-on
đều nhục nhã tháo lui hết thảy,
(6) và nên như cỏ mọc mái nhà
chưa ai nhổ mà đã héo khô!
(7)
cả người bó lúa cũng chẳng ôm về.
(8) Khách qua đường không ai chào
hỏi chúng:
CHÚA ban phúc lành cho anh em.
Chúng tôi chúc lành cho anh em
nhân danh CHÚA.
Thánh Vịnh 130 (129):
Tiếng
kêu từ vực thẳm
(1) Ca khúc lên Ðền.
Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy
CHÚA,
(2) muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe
tiếng con.
Dám xin Ngài lắng tai để ý
Nghe lời con tha thiết nguyện
cầu.
(3) Ôi lạy CHÚA, nếu như Ngài
chấp tội,
nào có ai đứng vững được chăng?
(4) Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha
thứ
để chúng con biết kính sợ Ngài.
(5) Mong đợi CHÚA, tôi hết lòng
mong đợi,
cậy trông ở lời Người.
(6) Hồn tôi trông chờ Chúa,
hơn lính canh mong đợi hừng đông.
Hơn lính canh mong đợi hừng đông,
(7) trông cậy CHÚA đi, Ít-ra-en
hỡi,
bởi CHÚA luôn từ ái một niềm,
ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.
(8) Chính Người sẽ cứu chuộc
Ít-ra-en
cho thoát khỏi tội khiên muôn
vàn.
Thánh Vịnh 131 (130):
Như trẻ
thơ đặt hết niềm tin nơi Chúa
(1) Ca khúc lên Ðền. Của vua
Ða-vít.
Lòng con chẳng dám tự cao,
mắt con chẳng dám tự hào, CHÚA ơi!
Ðường cao vọng, chẳng đời nào bước,
việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu;
(2) hồn con, con vẫn trước sau
giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh
bình.
Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,
trong con, hồn lặng lẽ an vui.
(3) Cậy vào CHÚA, Ít-ra-en ơi,
từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.
Thánh Vịnh 132 (131):
Lời Chúa
hứa cùng nhà Ða-vít
(1) Ca khúc lên Ðền.
Lạy CHÚA, xin Ngài nhớ đến vua
Ða-vít
và mọi công lao vất vả của người:
(2) chính người đã đoan thệ cùng
ÐỨC CHÚA,
đã khấn hứa cùng Ðấng Toàn Năng
của Gia-cóp rằng:
(3) "Tôi quyết chẳng về nhà,
chẳng lên giường nằm nghỉ,
(4) chẳng bao giờ chợp mắt khép
mi,
(5) khi chưa tìm được một nơi cho
CHÚA ngự,
một ngôi đền cho Ðấng Toàn Năng
của Gia-cóp."
(6) Này đây khi ở Ép-ra-tha,
chúng tôi đã nghe nói đến hòm
bia,
chúng tôi tìm thấy hòm bia đó tại
cánh đồng Gia-a.
(7) Nào ta tiến vào nơi Chúa ngự,
phủ phục trước bệ rồng.
(8) Lạy CHÚA, xin đứng dậy, để
cùng với hòm bia oai linh Chúa
ngự về chốn nghỉ ngơi.
(9) Ước chi hàng tư tế của Ngài
mặc lấy sự công chính,
kẻ hiếu trung với Ngài được cất
tiếng hò reo.
(10) Vì vua Ða-vít, trung thần
của Chúa,
xin đừng xua đuổi đấng Chúa đã
xức dầu phong vương.
(11) ÐỨC CHÚA đã thề cùng vua
Ða-vít
và sẽ không thất tín bao giờ,
thề rằng: "Chính con ruột
của ngươi,
Ta sẽ đặt lên thừa kế ngai vàng.
(12) Con cái ngươi mà giữ giao
ước của Ta
và mệnh lệnh Ta truyền cho chúng.
thì con cái chúng đến muôn đời
cũng sẽ được lên kế vị
ngươi!"
(13) Vì ÐỨC CHÚA đã chọn Xi-on,
đã thích lấy chốn này làm nơi
Người ngự.
(14) Người phán: "Ðây là
chốn Ta nghỉ ngơi đến muôn đời,
Ta sẽ ngự nơi này, vì Ta ưa
thích.
(15) Ta sẽ đổ xuống muôn hồng ân,
cho Xi-on được lương thực dồi
dào,
và ban cho kẻ nghèo được no nê
cơm bánh.
(16) Ta sẽ cho hàng tư tế mặc lấy
ơn cứu độ
và kẻ hiếu trung sẽ vui sướng reo
hò.
(17) "Nơi đây, Ta sẽ cho Ða-vít
một dòng dõi hùng cường,
sẽ thắp cho người Ta đã xức dầu
phong vương
một ngọn đèn luôn luôn cháy sáng.
(18) Kẻ thù vua, Ta phủ đầy nhục
nhã,
còn trên đầu vua, rực rỡ ánh
triều thiên."
Thánh Vịnh 133 (132):
Anh em
thuận hoà thì tốt đẹp biết bao
(1) Ca khúc lên Ðền. Của vua
Ða-vít
Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
anh em được sống vui vầy bên
nhau,
(2) như dầu quý đổ trên đầu
xuống râu xuống cổ áo chầu
A-ha-ron,
(3) như sương từ đỉnh Khéc-môn
toả trên đồi núi Xi-on lan tràn,
nơi đây ân huệ CHÚA ban,
chính là sự sống chứa chan muôn
đời.
Thánh Vịnh 134 (133):
Kinh đêm
trong Ðền Thánh
(1) Ca khúc lên Ðền.
Hỡi tất cả những người tôi tớ
CHÚA
ứng trực suốt đêm trong thánh điện,
nào chúc tụng CHÚA đi!
(2) Hãy giơ tay hướng về cung
thánh
mà dâng lên lời chúc tụng Người.
(3) Cúi xin Ðấng tạo thành trời
đất
xuống cho bạn muôn vàn phúc cả
từ núi thánh Xi-on.
Thánh Vịnh 135 (134):
Ca tụng
Chúa đã thực hiện bao kỳ công
(1) Ha-lê-lui-a.
Nào ca tụng danh thánh CHÚA đi,
ca tụng Người, hỡi tôi tớ CHÚA
(2) đang ứng trực trong cung điện
Người,
tại khuôn viên đền Thiên Chúa
chúng ta!
(3) Ca tụng CHÚA đi, vì CHÚA nhân
hậu,
đàn hát mừng danh thánh, vì danh
thánh ngọt ngào.
(4) Vì CHÚA đã chọn nhà Gia-cóp,
dành Ít-ra-en làm sản nghiệp
riêng.
(5) Tôi quá rõ: CHÚA thật là cao
cả,
Chúa chúng ta vượt trên hết chư
thần.
(6) Muốn làm gì là CHÚA làm nên,
chốn trời cao cùng nơi đất thấp,
lòng biển cả và đáy vực sâu.
(7) Từ cùng tận địa cầu xa tắp,
Chúa đẩy lên từng lớp mây trời,
làm cho chớp giật mưa rơi,
mở kho thả gió khắp nơi tung
hoành.
(8) Chúa sát hại các con đầu lòng
Ai-cập,
của loài vật cũng như loài người.
(9) Ngay tại đất ngươi, Ai-cập
hỡi,
Người giáng xuống những điềm
thiêng dấu lạ,
phạt Pha-ra-ô cùng với bầy tôi.
(10) Người đập tan tành nhiều dân
nước,
tiêu diệt bao lãnh chúa hùng cường:
(11) Cả Xi-khôn, vua dân tộc
E-mô-ri,
lẫn vua Ốc cầm quyền Ba-san nữa,
cùng mọi vương quốc miền
Ca-na-an.
(12) Chúa lấy đất họ, ban làm gia
sản,
gia sản cho dân Người là
Ít-ra-en.
(13) Thánh danh Ngài, lạy CHÚA,
sẽ trường tồn vạn kỷ,
trải qua muôn thế hệ, thiên hạ
nhắc nhở Ngài.
(14) CHÚA sẽ xét xử cho thần dân
sẽ dủ lòng thương hàng tôi tớ.
(15) Tượng thần chư dân chỉ là
vàng bạc,
chỉ do tay người thế tạo thành:
(16) Có mắt có miệng, không nhìn
không nói,
(17) có hai tai, mà chẳng thể
nghe chi,
không chút hơi thở nơi mồm nơi
miệng.
(18) Ước gì kẻ làm ra hoặc tin ở
tượng thần,
cũng giống như chúng vậy!
(19) Nhà Ít-ra-en, nào chúc tụng
CHÚA,
nhà A-ha-ron, chúc tụng CHÚA đi!
(20) Nhà Lê-vi, nào chúc tụng
CHÚA,
ai kính sợ CHÚA, chúc tụng CHÚA
đi!
(21) Từ Xi-on, xin chúc tụng
CHÚA,
Ðấng ngự tại thành Giê-ru-sa-lem.
Ha-lê-lui-a.
Thánh Vịnh 136 (135):
Tạ ơn
Thiên Chúa
(1) Hãy tạ ơn CHÚA vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(2) Hãy tạ ơn Thần các thần,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(3) Hãy tạ ơn Chúa các chúa,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(4) Chỉ có Người làm nên những kỳ
công vĩ đại,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương,
(5) tầng trời cao, Chúa tạo dựng
tài tình,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương,
(6) trải mặt đất này trên làn
nước bao la,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(7) Người làm ra những đèn trời
to lớn
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương,
(8) cho thái dương điều khiển ban
ngày,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương,
(9) đặt trăng sao hướng dẫn ban
đêm,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(10) Người sát hại các con đầu
lòng Ai-cập,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương,
(11) dang cánh tay uy quyền mạnh
mẽ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương,
(12) dẫn Ít-ra-en ra khỏi xứ này,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(13) Nước Biển Ðỏ, Chúa phân làm
hai khối,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương,
(14) đưa Ít-ra-en lối giữa băng
qua,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương,
(15) xô xuống biển Pha-ra-ô cùng
binh tướng,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(16) Chúa dẫn đưa dân Người qua
sa mạc,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương,
(17) sát hại bao lãnh chúa hùng
cường,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương,
(18) tiêu diệt những quân vương
hiển hách,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương,
(19) vua Xi-khôn của dân tộc
E-mo-ri,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương,
(20) và vua Oác miền Ba-san nữa,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(21) Người chiếm đất họ, ban làm
gia sản,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương,
(22) gia sản cho tôi tớ Người là
Ít-ra-en,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(23) Chúa đã nhớ đến ta giữa cảnh
nhục nhằn,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương,
(24) gỡ ta thoát khỏi tay thù
địch,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(25) Người ban lương thực cho tất
cả chúng sinh,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
(26) Hãy tạ ơn Thiên Chúa cửu
trùng,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
Thánh Vịnh 137 (136):
Trên bờ
sông Ba-by-lon
(1) Bờ sông Ba-by-lon, ta ra ngồi
nức nở mà tưởng nhớ Xi-on;
(2) trên những cành dương liễu,
ta tạm gác cây đàn.
(3) Bọn lính canh đòi ta hát
xướng,
lũ cướp này mời gượng vui lên:
"Hát đi, hát thử đi xem
Xi-on nhạc thánh điệu quen một
bài!"
(4) Bài ca kính CHÚA TRỜI, làm
sao ta hát nổi
nơi đất khách quê người?
(5) Giê-ru-sa-lem hỡi, lòng này
nếu quên ngươi,
thì tay gãy đàn thành tê bại!
(6) Lưỡi xướng ca sẽ dính với
hàm,
nếu ta không hoài niệm, không còn
lấy Giê-ru-sa-lem
làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm
hồn.
(7) Lạy CHÚA, xin nhớ lại ngày
Giê-ru-sa-lem thất thủ,
để trừng phạt con cái Ê-đôm.
Ngày ấy chúng reo hò: "Phá
nó đi, phá cho bình địa."
(8) Gái Ba-by-lon hỡi, đồ trời
tru đất diệt!
Phúc thay người xử lại với mi,
như mi đã xử với ta!
(9) Phúc thay người bắt những con
thơ của mi
mà đem đập vào đá.
Thánh Vịnh 138 (137):
Lời cảm
tạ
(1) Của vua Ða-vít.
Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ,
Ngài đã nghe lời miệng con xin.
Giữa chư vị thiên thần, xin đàn
ca kính Chúa,
(2) hướng về đền thánh, con phủ
phục tôn thờ.
Xin cảm tạ danh Chúa,
vì Ngài vẫn thành tín yêu thương,
đã đề cao danh thánh và lời hứa
của Ngài
trên tất cả mọi sự.
(3) Ngày con kêu cứu, Chúa đã
thương đáp lại,
đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn.
(4) Lạy CHÚA, mọi đế vương dưới
trần đều cảm tạ
khi nghe những lời miệng Ngài
phán ra.
(5) Họ sẽ ca ngợi đường lối CHÚA:
"Vinh quang CHÚA vĩ đại
dường bao!"
(6) CHÚA tuy thật cao cả, nhưng
vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn;
đứa ngạo mạn ngông nghênh, từ xa
Ngài đã biết.
(7) Cho dù con gặp bước ngặt
nghèo,
Chúa vẫn bảo toàn mạng sống con.
Ðịch thù đang hằm hằm giận dữ,
Ngài ra tay chận đứng,
lấy tay uy quyền giải thoát con.
(8) Việc CHÚA làm cho con, Ngài
sẽ hoàn tất;
lạy CHÚA, muôn ngàn đời Chúa vẫn
trọn tình thương.
Công trình do tay Ngài thực hiện,
xin đừng bỏ dở dang.
Thánh Vịnh 139 (138):
ÐỨC CHÚA
ở khắp mọi nơi biết hết mọi sự
(1) Phần nhạc trưởng. Của vua
Ða-vít. Thánh vịnh.
Lạy CHÚA, Ngài dò xét con và Ngài
biết rõ,
(2) biết cả khi con đứng con
ngồi.
Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt
từ xa,
(3) đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa
đều xem xét,
mọi nẻo đường con đi, Ngài quen
thuộc cả.
(4) Miệng lưỡi con chưa thốt nên
lời,
thì lạy CHÚA, Ngài đã am tường
hết.
(5) Ngài bao bọc con cả sau lẫn
trước,
bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên
con.
(6) Kỳ diệu thay, tri thức siêu
phàm,
quá cao vời, con chẳng sao vươn
tới!
(7) Ði mãi đâu cho thoát thần trí
Ngài,
lẩn nơi nào cho khuất được Thánh
Nhan?
(8) Con có lên trời, Chúa đang
ngự đó,
nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy
Ngài.
(9) Dù chắp cánh bay từ phía hừng
đông xuất hiện,
đến ở nơi chân trời góc biển
phương tây,
(10) tại đó cũng tay Ngài đưa
dẫn,
cánh tay hùng mạnh giữ lấy con.
(11) Con tự nhủ: "Ước gì
bóng tối bao phủ tôi
và ánh sáng quanh tôi thành đêm
tối!"
(12) Nhưng đối với Ngài, tối tăm
chẳng có chi mù mịt,
và đêm đen sáng tỏ như ban ngày,
bóng tối và ánh sáng cũng như
nhau.
(13) Tạng phủ con, chính Ngài đã
cấu tạo,
dệt tấm hình hài trong dạ mẫu
thân con.
(14) Tạ ơn Chúa đã dựng nên con
cách lạ lùng,
công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!
Hồn con đây biết rõ mười mươi.
(15) Xương cốt con, Ngài không lạ
lẫm gì,
khi con được thành hình trong nơi
bí ẩn,
được thêu dệt trong lòng đất thẳm
sâu.
(16) Con mới là bào thai, mắt
Ngài đã thấy;
mọi ngày đời được dành sẵn cho
con
đều thấy ghi trong sổ sách Ngài,
trước khi ngày đầu của đời con
khởi sự.
(17) Lạy Chúa, con thấy tư tưởng
Ngài khó hiểu biết bao,
tính chung lại, ôi nhiều vô kể!
(18) Ðếm sao nổi, vì nhiều hơn
cát;
dù có đếm xong, con vẫn ở với
Ngài.
(19) Lạy Chúa, ước chi Ngài tiêu
diệt kẻ gian tà,
ước gì bọn khát máu đi cho khuất
mắt con!
(20) Chúng nói về Ngài với chủ
tâm phỉnh gạt,
nổi dậy chống Ngài nhưng uổng
công.
(21) Lạy CHÚA,
kẻ ghét Ngài, làm sao con không
ghét?
Làm sao con không tởm kẻ đứng lên
chống Ngài?
(22) Con ghét chúng, ghét cay
ghét đắng,
chúng trở thành thù địch của
chính con.
(23) Lạy Chúa, xin dò xét để biết
rõ lòng con,
xin thử con cho biết những điều
con cảm nghĩ.
(24) Xin Ngài xem con có lạc vào
đường gian ác
thì dẫn con theo chính lộ ngàn
đời.
Thánh Vịnh 140 (139):
ÐỨC CHÚA
là Ðấng bảo vệ người khốn khổ khó nghèo
(1) Phần nhạc trưởng. Thánh vịnh.
Của vua Ða-vít.
(2) Lạy CHÚA, xin cứu con khỏi người
gian ác,
giữ gìn con khỏi kẻ bạo tàn.
(3) Lòng chúng bày chước độc mưu
thâm,
cả ngày chỉ biết gây xung đột.
(4) Chúng mài lưỡi nhọn như lưỡi
rắn,
chứa đầy mồm nọc độc hổ mang.
(5) Lạy CHÚA, xin bảo vệ con khỏi
tay người tội lỗi,
giữ gìn con khỏi kẻ bạo tàn đang
tìm kế làm con ngã quỵ.
(6) Quân kiêu hãnh ngấm ngầm đánh
bẫy,
chúng bủa lưới đặt dò, bên vệ
đường gài bẫy hại con.
(7) Con thưa cùng ÐỨC CHÚA: Chính
Ngài là Thiên Chúa của con,
lạy CHÚA, xin lắng tai nghe tiếng
con cầu khẩn.
(8) Lạy CHÚA là Chúa Tể, là sức
mạnh cứu con,
là mũ chiến đội đầu trong ngày
con xuất trận.
(9) Lạy CHÚA, xin đừng để ác nhân
toại ý,
đừng để nó thực hiện mưu đồ.
(10) Xin đừng để bọn vây hãm con
ngẩng đầu lên được;
xin cho điều độc ác miệng chúng
thốt ra
bao phủ lên người chúng!
(11) Xin đổ than hồng xuống trên
chúng như mưa,
xin làm cho chúng bị xô vào lửa
đỏ,
sa xuống vực sâu, không tài nào
trỗi dậy,
(12) cho tên xấu miệng không còn
chỗ đứng trên đời,
cho kẻ bạo tàn phải tai ương dồn
dập!
(13) Con biết rằng: CHÚA bênh
người khốn khổ,
bảo vệ quyền lợi kẻ khó nghèo.
(14) Vâng, người công chính sẽ
xưng tụng danh Chúa,
kẻ ngay lành được ở trước Thánh
Nhan.
Thánh Vịnh 141 (140):
Lời cầu cho
khỏi bị lôi kéo làm điều ác
(1) Thánh vịnh. Của vua Ða-vít.
Lạy CHÚA, con kêu lên cùng Chúa,
xin Ngài mau đến phù trợ con.
Xin lắng nghe lời con, khi con
kêu lên Ngài.
(2) Ước chi lời con nguyện
như hương trầm bay toả trước
Thánh Nhan,
và tay con giơ lên
được chấp nhận như của lễ ban
chiều.
(3) Xin canh giữ miệng con, lạy
CHÚA,
và trông chừng lưỡi con.
(4) Xin đừng để lòng con nghiêng
về sự dữ,
đừng để con làm điều ác với bọn
gian tà.
Yến tiệc của chúng, con chẳng
thèm ăn.
(5) Người công chính cứ việc đánh
con
và lấy tình thương mà sửa dạy,
nhưng dầu thơm kẻ dữ
con quyết chẳng cho xức trên đầu;
khi chúng làm điều ác, con vẫn
luôn cầu nguyện.
(6) Thủ lãnh chúng giờ đây bị xô
vào tảng đá,
họ đã từng hả dạ nghe tiếng con
than rằng:
(7) "Xương chúng tôi nằm
vung vãi trước miệng âm ty,
như thửa đất ngổn ngang vì kẻ đào
người bới."
(8) Lạy CHÚA là Chúa Tể, con
ngước mắt nhìn Ngài,
bên Ngài con ẩn náu, đừng để con
thiệt mạng.
(9) Xin giữ con khỏi sa lưới
chúng giăng,
khỏi rơi vào cặm bẫy quân làm
điều ác,
(10) cho bọn ác nhân mắc bẫy
chính chúng gài,
còn con đây thì được thoát khỏi.
Thánh Vịnh 142 (141):
ÐỨC CHÚA
là nơi tôi trú ẩn
(1) Thi khúc. Của vua Ða-vít. Khi
vua Ða-vít ở trong hang. Cầu nguyện.
(2) Tôi lớn tiếng kêu gào lên
CHÚA,
tôi lớn tiếng cầu khẩn CHÚA thương,
(3) lời than vãn, xin giãi bày
lên Chúa,
nỗi ngặt nghèo, kể lể trước thiên
nhan.
(4) Lạy Chúa, khi hồn con tiêu
hao mòn mỏi,
thì chính Chúa đã am tường mọi
nẻo con đi.
Trên quãng đường con đang tiến
bước,
người ta đã gài bẫy rình chờ.
(5) Xin đưa mắt nhìn sang bên
hữu:
chẳng một ai thèm nhận biết con;
không chỗ nào cho con lánh nạn,
có ai buồn nghĩ tới mạng con đâu!
(6) Lạy CHÚA, con kêu gào lên
CHÚA,
con thưa rằng: chính Ngài là nơi
con trú ẩn,
là phần của riêng con
trong cõi đất dành cho kẻ sống.
(7) Xin Ngài để ý nghe tiếng con
kêu, vì con thật cùng khốn.
Xin cứu con khỏi những người bách
hại,
bởi chúng mạnh hơn con.
(8) Xin đưa con ra khỏi chốn ngục
tù,
để con cảm tạ danh thánh Chúa.
Bao kẻ lành xúm lại mừng con,
vì con đã được Ngài thi ân giáng
phúc.
Thánh Vịnh 143 (142):
Lời cầu
xin lúc gặp hiểm nguy
(1) Thánh vịnh. Của vua Ða-vít.
Lạy CHÚA, xin nghe lời con khẩn
nguyện,
lắng nghe con nài van, bởi Ngài
thành tín,
đáp lại lời con, vì Ngài công
minh.
(2) xin chớ đòi tôi tớ ra xét xử,
vì trước thánh nhan Ngài
chẳng có người nào là công chính.
(3) Kẻ thù bách hại con, chà đạp
con dưới đất,
đẩy vào chốn tối tăm, như những
người đã chết từ bao thuở.
(4) Hơi thở con chỉ còn thoi
thóp,
nghe con tim giá lạnh trong mình.
(5) Nhớ ngày xưa tháng cũ, con
hoài niệm mọi công trình của Chúa
và gẫm suy việc tay Chúa làm nên.
(6) Hai tay cầu Chúa giơ lên,
hồn con khát Chúa như miền đất
khô.
(7) Xin mau đáp lời con, lạy
CHÚA, hơi thở con nay đã hầu tàn.
Xin đừng ẩn mặt đi, kẻo con hoá
ra người thiên cổ.
(8) Ngay từ buổi sớm mai,
xin cho con nghiệm thấy tình
thương của Chúa,
vì con vẫn tin cậy nơi Ngài.
Xin chỉ dạy đường lối phải theo,
vì con nâng tâm hồn lên cùng
Chúa.
(9) Xin cứu con thoát khỏi địch
thù,
lạy CHÚA, bên Ngài con trú ẩn.
(10) Ðiều đẹp ý Ngài, xin dạy con
thực hiện,
bởi Ngài là Thiên Chúa của con.
Xin thần khí tốt lành của Chúa
dẫn con đi trên miền đất phẳng
phiu.
(11) Lạy CHÚA, vì danh dự của
Ngài, xin cho con được sống.
Bởi vì Ngài công chính, xin cứu
con khỏi bước ngặt nghèo.
(12) Vì Ngài vẫn một lòng thương
mến,
xin tiêu diệt những kẻ thù con.
Xin làm cho thù địch con chết
hết,
vì con là tôi tớ của Ngài.
Thánh Vịnh 144 (143):
Xin được
chiến thắng và hưởng cảnh thịnh vượng
(1) Của vua Ða-vít.
Chúc tụng CHÚA là núi đá cho tôi
nương ẩn,
là Ðấng dạy tôi nên người thiện
chiến,
luyện thành tay võ nghệ cao cường.
(2) Chúa là đồng minh, là đồn luỹ
che chở,
là thành trì bảo vệ, là Ðấng giải
thoát tôi.
Chúa là khiên mộc cho tôi ẩn núp,
Người bắt chư dân quy phục quyền
tôi.
(3) Lạy CHÚA, con người có là
chi, mà Chúa cần biết đến?
Phàm nhân đáng là gì, mà Chúa
phải lưu tâm?
(4) Ấy con người khác chi hơi
thở,
vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu.
(5) Lạy CHÚA, xin nghiêng trời
ngự xuống,
chạm núi cao cho toả khói mịt mù;
(6) xin tung chớp loà khiến địch
quân tán loạn,
phóng tên bay làm chúng phải rã
tan.
(7) Từ cao thẳm xin đưa tay giải
thoát,
cứu con lên khỏi đáy nước mênh
mông,
khỏi thế lực nước ngoài.
(8) Miệng chúng nói toàn điều xảo
trá,
giơ tay thề chỉ biết thề gian!
(9) Lạy Chúa Trời, xin dâng Chúa
một bài ca mới,
thập huyền cầm, con gảy đôi cung.
(10) Chính Ngài cho các vua thắng
trận,
cứu mạng Ða-vít, kẻ trung thần,
khỏi lưỡi gươm ác nghiệt.
(11) Xin cứu độ và giải thoát con
khỏi thế lực nước ngoài;
miệng chúng nói toàn lời xảo trá,
giơ tay thề: chỉ biết thề gian.
(12) Mong đàn con trai ta mạnh
như cây vừa lớn
đang tuổi xuân mơn mởn;
mong bầy con gái ta đẹp như hình
mỹ nữ
khắc trên cột đền đài.
(13) Mong sao kho lẫm ta đầy ứ đủ
mọi thứ hoa màu.
Số chiên cừu tăng lên ngàn vạn
tràn ngập khắp đồng quê.
(14) Mong sao giống bò bê mập
tròn béo tốt,
không chết chóc lạc đàn;
và mong sao đầu đường cuối phố
không vẳng tiếng khóc than.
(15) Hạnh phúc thay dân nào được
may mắn như vậy!
Hạnh phúc thay dân nào được CHÚA
TRỜI làm Chúa!
Thánh Vịnh 145 (144):
Ca ngợi
ÐỨC CHÚA là Vua
(1) Ngợi khen. Của vua Ða-vít.
A-lép
Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của
con,
con nguyện tán dương Chúa
và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở
muôn đời.
Bết
(2) Ngày lại ngày, con xin chúc
tụng Chúa
và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở
muôn đời.
Ghi-men
(3) CHÚA thật cao cả, xứng muôn
lời ca tụng.
Người cao cả khôn dò khôn thấu.
Ða-lét
(4) Ðời nọ tới đời kia, thiên hạ
đề cao sự nghiệp Chúa
và truyền tụng những chiến công
của Ngài,
Hê
(5) tuyên bố Ngài oai phong vinh
hiển,
kể lại rằng: Ngài thực hiện những
kỳ công,
Vau
(6) bảo cho nhau: sức mạnh Ngài
đáng sợ,
loan truyền rằng: Ngài cao cả lắm
thay!
Da-in
(7) Nhắc nhở luôn: Ngài nhân ái
vô cùng,
hoan hô Ngài công chính.
Khết
(8) CHÚA là Ðấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình
thương.
Tết
(9) CHÚA nhân ái đối với mọi
người,
tỏ lòng nhân hậu với muôn loài
Chúa đã dựng nên.
Giốt
(10) Lạy CHÚA, muôn loài Chúa
dựng nên phải dâng lời tán tạ,
kẻ hiếu trung phải chúc tụng
Ngài,
Cáp
(11) nói lên rằng: triều đại Ngài
vinh hiển,
xưng tụng Ngài là Ðấng quyền
năng,
La-mét
(12) để nhân loại được tường
những chiến công của Chúa,
và được biết triều đại Ngài rực
rỡ vinh quang.
Mêm
(13) Triều đại Ngài: thiên niên
vĩnh cửu,
vương quyền Ngài vạn đại trường
tồn.
Chúa thành tín trong mọi lời Chúa
phán,
đầy yêu thương trong mọi việc
Người làm.
Xa-méc
(14) Ai quỵ ngã, CHÚA đều nâng
dậy,
kẻ bị đè nén, Người cho đứng
thẳng lên.
A-in
(15) Lạy Chúa, muôn loài ngước
mắt trông lên Chúa,
và chính Ngài đúng bữa cho ăn.
Pê
(16) Khi Ngài rộng mở tay ban,
là bao sinh vật muôn vàn thoả
thuê.
Xa-đê
(17) CHÚA công minh trong mọi
đường lối Chúa,
đầy yêu thương trong mọi việc
Người làm.
Cốp
(18) CHÚA gần gũi tất cả những ai
cầu khẩn Chúa,
mọi kẻ thành tâm cầu khẩn Người.
Rết
(19) Kẻ kính sợ Người, Người cho
toại nguyện,
nghe tiếng họ kêu than, và ban ơn
giải cứu,
Sin
(20) CHÚA gìn giữ mọi kẻ mến yêu
Người,
nhưng lại diệt trừ hết bọn ác
nhân.
Tau
(21) Môi miệng tôi, hãy dâng lời
ca ngợi CHÚA,
chúng sinh hết thảy, nào chúc
tụng Thánh Danh
đến muôn thuở muôn đời!
Thánh Vịnh 146 (145):
Phúc
thay người trông cậy Chúa
(1) Ha-lê-lui-a!
Ca tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
(2) Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng
CHÚA,
sống bao lâu, nguyện đàn ca kính
Chúa Trời.
(3) Ðừng tin tưởng nơi hàng quyền
thế,
nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.
(4) Họ tắt hơi là trở về cát bụi,
dự định bao điều: ngày ấy tiêu
tan.
(5) Phúc thay người được Chúa
Trời nhà Gia-cóp phù hộ
và cậy trông CHÚA, Thiên Chúa họ
thờ.
(6) Người là Ðấng tạo thành trời
đất với biển khơi
cùng muôn loài trong đó.
Người là Ðấng giữ lòng trung tín
mãi muôn đời,
(7) xử công minh cho người bị áp
bức,
ban lương thực cho kẻ đói ăn.
CHÚA giải phóng những ai tù tội,
(8) CHÚA mở mắt cho kẻ mù loà.
CHÚA cho kẻ bị dìm xuống đứng
thẳng lên,
CHÚA yêu chuộng những người công
chính.
(9) CHÚA phù trợ những khách
ngoại kiều,
Người nâng đỡ cô nhi quả phụ,
nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.
(10) CHÚA nắm giữ vương quyền
muôn muôn thuở,
Xi-on hỡi, Chúa Trời ngươi hiển
trị ngàn đời.
Thánh Vịnh 147 (146):
Ca tụng
ÐỨC CHÚA là Ðấng Toàn Năng
(1) Ha-lê-lui-a!
Hãy ca tụng CHÚA đi!
Ðàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta,
thú vị dường nào!
Ðược tán tụng Người, thoả tình biết
mấy!
(2) CHÚA là Ðấng xây dựng lại
Giê-ru-sa-lem,
quy tụ dân Ít-ra-en tản lạc về.
(3) Người chữa trị bao cõi lòng
tan vỡ,
những vết thương, băng bó cho
lành.
(4) Người ấn định con số các vì
sao,
và đặt tên cho từng ngôi một.
(5) Chúa chúng ta thật là cao cả,
uy lực vô biên, trí tuệ khôn
lường!
(6) Kẻ thấp hèn, CHÚA nâng đỡ
dậy,
bọn gian ác, Người hạ xuống đất
đen.
(7) Hãy dâng CHÚA bài ca cảm tạ,
gảy khúc hạc cầm mừng Thiên Chúa
chúng ta.
(8) Chúa kéo mây bao phủ che kín
cả bầu trời,
Người chuẩn bị cho mưa rơi xuống
trên mặt đất.
Chúa khiến mọc cỏ xanh trên những
miền đồi núi,
và các loài thảo mộc cho người
thế hưởng dùng.
(9) Chúa cho loài gia súc có đầy
đủ thức ăn,
bầy quạ non kêu đói cũng luôn
được no mồi.
(10) Vó ngựa phi, Chúa không ưa
chuộng,
chẳng thích gì chân kẻ chạy nhanh,
(11) nhưng ưa chuộng những ai
kính sợ CHÚA,
và trông cậy ở tình thương của
Người.
(12) Giê-ru-sa-lem hỡi, nào tôn
vinh CHÚA!
Này Xi-on, hãy ca ngợi Thiên Chúa
của ngươi!
(13) Then cửa nhà ngươi, Chúa làm
cho thêm chắc,
con cái trong thành, Người giáng phúc
thi ân.
(14) Cõi biên cương, Người thiết
lập hoà bình,
và cho ngươi no đầy lúa mì tinh
hảo.
(15) Người tống đạt lệnh truyền
xuống đất,
lời phán ra hoả tốc chạy đi.
(16) Tuyết tựa lông chiên, Chúa
trải dài,
sương giá như tro, Người rải rắc.
(17) Làm mưa đá, Chúa tung từng
miếng nhỏ,
chịu nổi làm sao giá lạnh của
Người!
(18) Chúa phán một lời là băng
giải tuyết tan,
thổi gió lên nước liền tuôn chảy.
(19) Chúa bày tỏ lời Người cho
nhà Gia-cóp,
chiếu chỉ luật điều cho Ít-ra-en.
(20) Chúa không đối xử với dân
nào như vậy,
không cho họ biết những điều luật
của Người.
Ha-lê-lui-a!
Thánh Vịnh 148 (147):
Kêu mời
toàn thể tạo thành chúc tụng ÐỨC CHÚA
(1) Ha-lê-lui-a!
Ca tụng CHÚA đi, tự cõi trời thăm
thẳm,
ca tụng Người, trên chốn cao
xanh.
(2) Ca tụng Chúa đi, mọi sứ thần
của Chúa,
ca tụng Người, hỡi toàn thể thiên
binh!
(3) Ca tụng Chúa đi, này vầng ô
bóng nguyệt,
ca tụng Người, muôn tinh tú rạng
soi.
(4) Ca tụng Chúa đi, hỡi cửu
trùng cao vút,
cả khối nước phía trên bầu trời.
(5) Nào ca tụng thánh danh ÐỨC
CHÚA,
vì Người ra lệnh, là hết thảy
được tạo thành;
(6) Người định nơi cho tất cả đến
muôn đời muôn thuở,
ban truyền lề luật, luật đó chẳng
hề qua.
(7) Ca tụng CHÚA đi, từ mười
phương đất,
này thuỷ quái dị hình, này tất cả
vực sâu,
(8) lửa hồng mưa đá, tuyết trắng
mây mù,
ngọn cuồng phong, cấp thừa hành
lời Chúa.
(9) Núi với đồi trùng trùng điệp
điệp,
cây ăn trái và đủ loại bá hương,
(10) thú vật rừng hoang cùng là
gia súc,
loài bò sát và mọi giống chim
trời.
(11) Bậc vua chúa cũng như hàng
lê thứ,
khanh tướng công hầu, thủ lãnh
trần gian,
(12) Ai là nam thanh, ai là nữ
tú,
khắp mặt bô lão, khắp mặt nhi
đồng!
(13) Nào ca tụng thánh danh Ðức
Chúa,
vì thánh danh Người cao cả vô
song,
và oai phong vượt quá đất trời.
(14) Thế lực dân Người, Người đã
nâng cao.
Ðó là bài ca tụng của những ai
hiếu trung với Chúa,
của con cháu nhà Ít-ra-en, dân
gần gũi với Người.
Ha-lê-lui-a!
Thánh Vịnh 149 (148):
Các tín
hữu ca khúc khải hoàn
(1) Ha-lê-lui-a!
Hát lên mừng CHÚA một bài ca mới,
ngợi khen Người trong cộng đoàn
những kẻ hiếu trung!
(2) Hỡi Ít-ra-en, nào hoan hỷ,
vì có Chúa là Ðấng tạo thành
ngươi.
Con cái Xi-on, hãy nhảy mừng,
vì được Chúa làm Vua hiển trị.
(3) Mừng Thánh Danh, nào dâng
điệu vũ,
nhịp trống hoạ đàn theo khúc hoan
ca.
(4) Bởi vì CHÚA mến chuộng dân
Người,
ban cho kẻ nghèo hèn được vẻ vang
chiến thắng.
(5) Kẻ hiếu trung hảy vui mừng
rạng rỡ,
nào phủ phục mà cất tiếng reo hò,
(6) miệng vang lời tán dương
Thiên Chúa,
thanh gươm hai lưỡi, cầm chắc
trong tay.
(7) Ðể trả thù muôn nước và trừng
trị chư dân,
(8) để xiềng chân vua chúa và
xích cổ vương hầu,
(9) để thi hành án phạt Chúa đã
viết từ xưa.
Ðó là niềm vinh dự cho mọi kẻ
trung hiếu với Người.
Ha-lê-lui-a!
Thánh Vịnh 150 (149):
Ca tụng
Chúa đi
(1) Ha-lê-lui-a!
Ca tụng Chúa đi, trong đền thánh
Chúa,
ca tụng Người chốn cao thẳm uy
linh.
(2) Ca tụng Chúa vì công trình
hùng vĩ,
ca tụng Người lẫm liệt uy phong.
(3) Ca tụng Chúa đi, rập theo
tiếng tù và,
ca tụng Người, họa tiếng cầm
tiếng sắt.
(4) Ca tụng Chúa, bằng vũ điệu
trống đưa,
ca tụng Người, theo cung đàn nhịp
sáo.
(5) Ca tụng Chúa đi, với chũm
chọe vang rền,
ca tụng Người cùng thanh la inh
ỏi.
(6) Hỡi toàn thể chúng sinh, ca
tụng CHÚA đi nào!
Ha-lê-lui-a!
Châm Ngôn
Chương 01
Ðề Tựa Tổng Quát
1 Ðây là những châm ngôn của
Sa-lô-môn, ông là con vua Ða-vít và là vua Ít-ra-en;
2 Các châm ngôn này nhằm giúp con
người
biết lẽ khôn ngoan và nhận lời
nghiêm huấn,
hiểu được những lời lẽ thâm thuý
cao sâu,
3 đón nhận lời nghiêm huấn để biết
cách xử sự khôn ngoan:
biết sống công bình, công minh và
chính trực.
4 Các châm ngôn này
cũng nhằm giúp cho kẻ ngây thơ
nên sáng suốt,
cho giới trẻ thêm hiểu biết và
thận trọng.
5 Các châm ngôn này còn nhằm giúp
ta hiểu
những châm ngôn và những lời bóng
bẩy,
những ngôn từ và câu đố của các
bậc hiền nhân.
6 Người khôn ngoan hãy nghe để được
thêm kiến thức;
người hiểu biết hãy nghe, và sẽ
tìm được lời hướng dẫn.
7 Kính sợ Ðức Chúa là bước đầu của
tri thức.
Kẻ ngu si khinh thường khôn ngoan
và lời nghiêm huấn.
I. Phần Mở Ðầy Những Lời Huấn Dụ
Của Khôn Ngoan
8 Người khôn tránh bạn xấu
Này con, giáo huấn của cha, con
hãy nghe,
lời dạy của mẹ, con đừng gạt bỏ.
9 Vì những lời ấy sẽ là vòng hoa
xinh con đội lên đầu,
là vòng kiềng con đeo vào cổ.
10 Này con, nếu bọn người tội lỗi có
rủ rê con,
con chớ bao giờ ưng thuận.
11 Có thể chúng sẽ nói : "Lại
đây với bọn tao.
Ta hãy nằm chờ để ra tay hạ sát,
rình cả đứa vô tội chẳng hề làm
gì ta.
12 Như tử thần, ta hãy nuốt sống ăn
tươi bọn chúng,
cho chúng phải sa vào âm phủ
ngay lúc còn khoẻ mạnh an lành.
13 Mọi của cải quý giá, ta sẽ chiếm
hữu;
của cướp được, ta sẽ chất đầy
nhà.
14 Hãy cùng bọn tao đồng thuyền đồng
hội,
rồi ta sẽ ăn đủ chia đều."
15 Này con, nếu chúng nói như vậy,
con cũng đừng đi một đường với
chúng,
cố giữ chân con xa khỏi lối chúng
đi.
16 Chúng nhanh chân chạy theo điều
dữ,
lại vội vàng đổ máu người ta.
17 Thật hoàn toàn vô ích
khi chim nhìn thấy lưới người
giăng.
18 Chúng có ngờ đâu
chính chúng đang nằm chờ bị người
ta sát hại,
đang rình gây tai hại cho chính
mình.
19 Ai manh tâm trục lợi, số phận là
thế đó.
Của phi nghĩa cướp đi sinh mạng
người chiếm đoạt.
Ðức Khôn Ngoan kêu gọi người khờ
dại
20 Ðức Khôn Ngoan kêu to ngoài đường
phố,
cất tiếng nơi quảng trường,
21 kêu gọi chỗ ồn ào náo nhiệt,
tuyên bố nơi cổng thành :
22 "Hỡi những kẻ ngây thơ khờ
dại,
các ngươi còn chuộng sự ngu dốt
đến bao giờ?
Ðến bao giờ kẻ nhạo báng còn ưa
chế giễu,
đứa ngu si còn khinh sự hiểu
biết?
23 Hãy quay về nghe lời ta sửa dạy.
Này ta tuôn đổ thần khí ta trên
các ngươi,
khiến các ngươi hiểu rõ lời ta
dạy bảo.
24 Vì khi ta gọi, các ngươi đã khước
từ;
ta đưa tay ra, chẳng ai buồn để
ý.
25 Các ngươi đã coi thường mọi lời
ta khuyên nhủ,
đã không chấp nhận lời sửa dạy
của ta.
26 Còn ta, ta sẽ nhạo cười ngày
ngươi gặp hoạ,
sẽ chế giễu khi kinh hoàng ập
xuống trên ngươi,
27 khi kinh hoàng ập xuống như cơn
bão
và tai hoạ đến tựa cuồng phong,
khi cùng quẫn với đau thương
cứ trên ngươi mà giáng xuống.
28 Lúc ấy thiên hạ sẽ kêu đến ta,
nhưng ta chẳng đáp lời,
sẽ kiếm tìm ta, nhưng không sao
gặp được.
29 Vì hiểu biết Ðức Chúa, chúng
chẳng ưa,
kính sợ Ðức Chúa, chúng không chọn,
30 vì chúng không chấp nhận lời ta
khuyên răn,
và khinh nhờn điều ta sửa dạy,
31 nên chúng phải gánh hậu quả việc
chúng làm,
chuốc vào thân hết mọi điều chúng
toan tính.
32 Ngây thơ mà bướng bỉnh, ắt sẽ
phải thiệt thân;
ngu đần mà vô tâm, tránh sao khỏi
tự diệt.
33 Ai nghe ta sẽ sống an toàn,
được yên ổn, chẳng sợ chi tai
hoạ."
Chương 02
Những phúc lành do khôn ngoan ban
tặng
1 Này con, nếu lời thầy, con luôn
nhận lấy,
và huấn lệnh thầy, con hằng ấp ủ,
2 nếu con lắng tai nghe lẽ khôn
ngoan,
và hướng lòng theo sự hiểu biết,
3 phải, nếu con cầu xin trí thông
minh, van nài ơn hiểu biết,
4 nếu con tìm khôn ngoan như tìm
bạc,
và lùng kiếm như thể kho tàng,
5 thì lúc đó con sẽ hiểu thế nào là
kính sợ Ðức Chúa,
và sẽ khám phá ra hiểu biết Thiên
Chúa có nghĩa là gì.
6 Vì chính Ðức Chúa ban tặng khôn
ngoan;
tri thức và hiểu biết là nhờ
Người mà có.
7 Ai ngay chính được Người trợ lực,
Người thành khiên thuẫn cho kẻ
sống thanh liêm,
8 giữ gìn đường nẻo người chính
trực,
bảo vệ lối đi kẻ tín trung.
9 Bấy giờ con sẽ hiểu thế nào là
công bình,
thế nào là chính trực công minh :
đó là đường đưa tới hạnh phúc.
10 Vì khôn ngoan sẽ vào tận lòng
con,
và tri thức khiến hồn con vui
thú,
11 óc thận trọng sẽ giữ gìn con,
trí hiểu biết sẽ như người bảo
vệ,
12 để giải thoát con khỏi lối sống
xấu xa,
cứu con khỏi người nói những lời
xằng bậy,
13 khỏi những kẻ bỏ đường ngay
chính, đi vào nẻo tối tăm ;
14 chúng hả hê khi phạm điều ác,
thích thú khi làm điều tồi tệ xấu
xa.
15 Ðường chúng đầy uẩn khúc, lối
chúng thật quanh co.
16 Nhờ thế, con sẽ thoát khỏi người
đàn bà trắc nết,
khỏi người phụ nữ không quen cứ
nói ngon nói ngọt.
17 Người bạn đường thời son trẻ, ả
đã bỏ rơi,
giao ước của Thiên Chúa, ả hằng
quên lãng.
18 Nhà nó ở nghiêng về cõi chết,
lối nó đi, dẫn tới các âm hồn.
19 Kẻ theo nó rồi, không hề trở lại,
chẳng ai tìm được đường về cõi
sống.
20 Như thế con sẽ bước đi trên đường
người lương thiện,
và dõi theo lối của chính nhân.
21 Vì người ngay thẳng sẽ được an cư
trong đất nước,
người hoàn thiện sẽ lưu lại nơi
đây.
22 Còn ác nhân sẽ phải xa lìa quê
cha đất tổ,
phường bất trung sẽ bị trục xuất
khỏi quê hương.
Chương 03
Thái độ đối với Ðức Chúa
1 Này con, đừng quên lãng giáo huấn
của thầy,
huấn lệnh của thầy, lòng con lo
giữ trọn.
2 Vì nhờ đó, con sẽ được sống lâu
trăm tuổi,
và đầy tràn phúc lộc bình an.
3 Ước chi ân tình và tín nghĩa
chẳng hề lìa xa con,
nhưng nên như vòng con đeo vào
cổ,
và được con ghi khắc tận đáy
lòng.
4 Như vậy, con sẽ được cả Thiên
Chúa lẫn phàm nhân
yêu thương và quý chuộng.
5 Hãy hết lòng tin tưởng vào Ðức
Chúa,
chớ hề cậy dựa vào hiểu biết của
con.
6 Hãy nhận biết Người trong mọi
đường đi nước bước,
Người sẽ san bằng đường nẻo con
đi.
7 Ðừng tự coi mình là khôn ngoan,
hãy kính sợ Ðức Chúa và tránh xa
sự dữ.
8 Như thế, da thịt con sẽ được chữa
lành,
xương cốt con sẽ nên cứng cáp.
9 Của cải làm ra, con hãy dùng mà
tôn vinh Ðức Chúa,
và hãy dâng lên Người phần hoa
lợi đầu mùa của con.
10 Nhờ thế, kho chứa của con sẽ đầy
ắp lúa thơm
và bồn ép sẽ tràn trề rượu mới.
11 Này con, chớ khinh thường khi Ðức
Chúa sửa dạy con,
đừng chán ngán khi Người khiển
trách.
12 Vì Ðức Chúa khiển trách kẻ Người
thương,
như người cha xử với con yêu quý.
Niềm vui của người khôn ngoan
13 Hạnh phúc thay người được trí
khôn ngoan,
cũng như kẻ được tài phán đoán.
14 Vì được khôn ngoan thì hơn được
bạc,
được hưởng lợi ích của khôn ngoan
thì hơn được vàng.
15 Khôn ngoan quý hơn cả trân châu,
không bảo vật nào của con so sánh
nổi.
16 Bên hữu khôn ngoan là trường thọ,
bên tả là danh giá giàu sang.
17 Ðường khôn ngoan là đường thú vị,
nẻo khôn ngoan là nẻo bình an.
18 Khôn ngoan chính là cây sự sống
đối với người nào nắm được khôn
ngoan.
Giữ được khôn ngoan quả là hạnh
phúc.
19 Ðức Chúa dùng khôn ngoan đặt nền
cho trái đất,
dùng hiểu biết thiết lập các tầng
trời.
20 Nhờ tri thức của Người,
vực sâu được khai mở và mây trời
đổ mưa.
21 Này con, đừng xao lãng,
nhưng hãy cố gắng sống khôn ngoan
và thận trọng :
22 đó sẽ là sức sống cho tâm hồn, là
đồ trang sức đeo nơi cổ.
23 Rồi bước đường con đi sẽ an toàn,
và chân con sẽ chẳng bao giờ vấp.
24 Khi ngả lưng, con không khiếp sợ.
Nằm xuống rồi là an giấc thảnh
thơi.
25 Ðừng sợ chi khi kinh hãi bất thần
ập xuống,
hay kẻ ác xông vào tấn công.
26 Vì Ðức Chúa sẽ ở bên con,
giữ chân con khỏi sa vào cạm bẫy.
27 Khi có thể, con đừng từ chối làm
điều lành
cho ai đáng được hưởng.
28 Khi có thể cho ngay, thì con đừng
có nói:
"Ði đi, mai trở lại, rồi tôi
sẽ cho anh."
29 Ðừng mưu hại tha nhân,
hại người đang cùng con sống yên
ổn.
30 Ðừng cãi cọ với ai vô cớ,
khi họ chẳng làm gì để hại con.
31 Chớ phân bì với ai tàn bạo,
đừng chọn bất cứ con đường nào nó
đã đi.
32 Vì đối với Ðức Chúa, kẻ gian tà
là đồ ghê tởm;
còn những ai chính trực, thì
Người nhận làm bạn tâm giao.
33 Ðức Chúa giáng lời chúc dữ xuống
nhà kẻ gian ác,
nhưng tuôn đổ phúc lành
trên nơi ở của những người chính
trực công minh.
34 Chúa chế giễu đứa hay nhạo báng,
nhưng thi ân cho kẻ khiêm nhường.
35 Người khôn ngoan được hưởng phần
vinh dự,
kẻ khờ dại phải nhục nhã ê chề.
Chương 04
Ðể cho Ðức Khôn Ngoan hướng dẫn
1 Hỡi các con,
hãy lắng nghe lời nghiêm huấn của
bậc cha anh,
và chú ý để hiểu cho tường.
2 Thật vậy, thầy ban cho các con
lời khuyên quý báu;
đừng sao nhãng giáo huấn của
thầy.
3 Thuở xưa, khi thầy còn nhỏ dại
trước mặt phụ thân
và được mẫu thân yêu dấu như con
một,
4 phụ thân vẫn thường dạy thầy rằng:
"Hãy để tâm nắm chắc lời
cha,
tuân giữ lệnh cha truyền, và con
sẽ được sống.
5 Hiểu biết và khôn ngoan, con hãy
mua hãy sắm.
Ðừng bao giờ quên lãng và cũng
chớ lìa xa
lời miệng cha dạy dỗ.
6 Con chớ bao giờ lìa bỏ khôn
ngoan,
thì khôn ngoan sẽ giữ gìn con
mãi.
Hãy yêu mến khôn ngoan,
khôn ngoan sẽ chở che bảo vệ.
7 Ðây là bước đầu của khôn ngoan:
con hãy mua lấy khôn ngoan;
và dùng tất cả những gì con sở
hữu
mà sắm lấy hiểu biết.
8 Hãy kính trọng khôn ngoan,
con sẽ được khôn ngoan tán dương
ca tụng;
nếu con cùng khôn ngoan gắn bó,
khôn ngoan sẽ đem vinh dự lại cho
con.
9 Khôn ngoan sẽ đội lên đầu con
vòng hoa lộng lẫy,
sẽ tặng cho con ngọc miện huy
hoàng."
10 Này con, hãy lắng nghe và đón
nhận lời thầy dạy bảo,
để năm tháng đời con được thêm
nhiều.
11 Thầy dạy cho con biết lối khôn
ngoan,
dẫn con đi trên đường ngay nẻo
chính.
12 Khi con đi, bước chân sẽ thênh
thang,
con có chạy cũng không hề vấp
ngã.
13 Hãy bám chắc vào lời nghiêm huấn,
con chớ có lìa xa, nhưng gắng mà
tuân giữ,
vì đó là sự sống của con.
14 Nẻo ác nhân, con chớ đi vào,
đường kẻ xấu, con đừng bước tới.
15 Hãy tránh xa, đừng ngang qua lối
ấy,
quay lưng lại, tìm lối khác mà
đi.
16 Vì khi chưa làm được điều dữ, ác
nhân không tài nào chợp mắt,
khi chưa làm cho ai vấp ngã,
chúng không thể ngủ yên.
17 Vì gian ác là bánh chúng ăn
và bạo hành là rượu chúng uống.
18 Ðường người công chính tựa ánh
bình minh,
rực rỡ thêm cho đến hồi chính
ngọ.
19 Còn đường ác nhân khác nào ngõ
tối,
chúng không biết mình sẽ vấp vào
đâu.
20 Này con, lời thầy nói, con chú
tâm để ý,
lời thầy dạy, con hãy lắng tai
nghe:
21 đừng để mắt rời xa lời thầy,
nhưng hãy luôn gìn giữ ở tận đáy
lòng con.
22 Vì lời thầy là sức sống cho ai
tìm thấy
làm cho toàn thân được mạnh khoẻ
an lành.
23 Hãy gìn giữ tim con cho thật kỹ,
vì từ đó mà sự sống phát sinh.
24 Miệng lọc lừa, con đẩy cho xa,
môi thâm độc, con xua cho khuất.
25 Ðôi mắt con, hãy nhìn ngay phía
trước,
ánh mắt con, hướng thẳng trước
mặt con.
26 Ðường con đi, hãy san cho phẳng,
ước chi mọi nẻo con bước được an
toàn.
27 Ðừng quanh bên phải, chớ quẹo bên
trái,
cố giữ chân con khỏi điều xấu xa.
Chương 05
Xa lánh người đàn bà trắc nết -
Sống chung thuỷ
1 Này con, khôn ngoan của thầy, con
hãy chú tâm học hỏi,
hiểu biết của thầy, con hãy lắng
tai nghe,
2 để con cân nhắc thận trọng
và nói năng như người hiểu biết.
3 Quả thật, môi người đàn bà trắc
nết tiết ra mật ngọt,
miệng của nó trơn tru hơn dầu.
4 Nhưng cuối cùng, nó vẫn đắng như
khổ ngải,
bén như gươm hai lưỡi.
5 Ðôi chân nó đi vào cõi chết,
nó thẳng đường bước tới âm ty.
6 Ðường dẫn vào sự sống, nó không
theo,
nó lạc lối, mà không hay biết.
7 Vậy giờ đây, hỡi các con, hãy
nghe thầy,
đừng bỏ đi khi thầy lên tiếng
nói.
8 Trên đường đời, con hãy xa lánh
nó,
lối vào nhà nó, con chớ lại gần,
9 kẻo danh dự con bị trao vào tay
người khác,
và năm tháng đời con bị nộp cho
đứa bạo tàn,
10 kẻo tài sản của con, người ngoài
tha hồ hưởng,
và mồ hôi nước mắt của con lại
giúp cho thiên hạ làm giàu,
11 để cuối cùng, khi thân tàn ma
dại,
con đành phải trách phận than
thân,
12 và phải kêu lên rằng: "Than
ôi, tôi đã ghét bỏ lời nghiêm huấn,
và lời sửa dạy, lòng tôi đã coi
khinh!
13 Tôi chẳng vâng theo các bậc thầy.
Không để tai nghe những người dạy
dỗ.
14 Tôi suýt chịu bao nỗi khốn cùng
ở ngay giữa cộng đoàn và hội
nghị!"
15 Con hãy uống từ bồn nước của con,
từ giếng của con, hãy uống nước
tuôn trào.
16 Các suối nước của con, đừng để
chảy ra ngoài,
các dòng nước của con, đừng để
chảy ở nơi đường phố.
17 Con cứ giữ lấy làm của riêng
mình,
đừng để cho người khác dùng
chung.
18 Ước gì nguồn nước của con được Chúa
chúc lành.
Hãy hưởng thú vui bên người vợ
thời son trẻ.
19 Nàng là nai vàng đáng yêu, là sơn
dương kiều diễm.
Ước chi tấm thân nàng luôn làm
con vui sướng thoả thuê,
và tình yêu của nàng mãi làm con
say sưa ngây ngất.
20 Hỡi con, sao con lại mê say người
đàn bà xa lạ,
ôm ấp người phụ nữ không quen?
21 Vì Ðức Chúa thấy rõ đường nẻo của
mỗi người,
hết mọi lối đi, Người đều biết
cả.
22 Ác nhân vướng mắc trong tội ác
của mình,
nó sa vào bẫy tội lỗi nó giăng
ra.
23 Nó sẽ chết vì thiếu lời nghiêm
huấn,
vì ngu si quá đỗi, nó sẽ phải lạc
đường.
Chương 06
Sự bảo lãnh thiếu khôn ngoan
1 Hỡi con, nếu con đã bảo lãnh cho
một người bạn của mình,
hay đã bắt tay giao kèo với một
người xa lạ,
2 nếu con bị trói buộc vì những
điều con đã hứa
hay vướng mắc vì những lời con đã
nói ra,
3 thì con ơi, khi đã trót rơi vào
tay người bạn,
muốn thoát thân, con phải làm
điều này
là hãy đi lạy lục van xin nó.
4 Ðừng chớp mắt khép mi, chớ nghỉ
ngơi yên giấc.
5 Hãy tìm cách thoát thân như linh
dương thoát bẫy,
như chim thoát khỏi tay người tìm
bắt chim.
Người biếng nhác và con kiến
6 Hỡi người biếng nhác, hãy đến xem
loài kiến sống thế nào
và nhờ đó mà trở nên khôn.
7 Nó chẳng có thủ trưởng,
chẳng có giám sát, chẳng có lãnh
đạo.
8 Nhưng mùa khô đến, chúng biết
tích trữ thức ăn,
tới mùa gặt, chúng thu gom lương
thực.
9 Hỡi người biếng nhác, ngươi còn
nằm đó tới bao giờ?
Chừng nào ngươi mới ngủ dậy?
10 Ngủ một chút, chợp mắt một chút,
khoanh tay nằm một chút,
11 là cái nghèo sẽ đến như tên du
thủ du thực,
cảnh bần cùng sẽ đột nhập như người
có vũ trang.
Người xảo trá
12 Ðây tên gian ác, đây đứa xấu xa,
nó tới lui, miệng buông lời dối
trá,
13 nó nháy mắt, khều chân, dùng ngón
tay ra hiệu.
14 Nó toan tính trong lòng mọi chước
độc mưu thâm,
lúc nào cũng gieo bất hoà, xung
khắc.
15 Thế nên tai hoạ sẽ giáng xuống nó
thình lình,
bất ngờ nó bị suy sụp, vô phương
cứu chữa.
Bảy điều Thiên Chúa ghê tởm
16 Có sáu điều làm Ðức Chúa gớm
ghét,
có bảy điều khiến Người ghê tởm :
17 mắt kiêu kỳ, lưỡi điêu ngoa, tay
đổ máu người vô tội,
18 lòng mưu tính những chuyện xấu
xa,
chân mau mắn chạy đi làm điều dữ,
19 kẻ làm chứng gian thốt ra lời dối
trá,
người gieo xung khắc giữa anh em.
Cha tiếp tục nhắn nhủ con
20 Hỡi con, lệnh cha con truyền, hãy
lo tuân giữ,
lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai.
21 Những lời truyền dạy đó,
con hãy khắc trong tim, con hãy
đeo vào cổ,
để ghi nhớ đêm ngày.
22 Những lời đó sẽ hướng dẫn con lúc
con tới lui,
sẽ giữ gìn con khi con nằm xuống,
sẽ cùng con chuyện trò khi con
thức dậy.
23 Vì huấn lệnh là ngọn đèn, lời dạy
dỗ là ánh sáng,
và lời quở trách bảo ban là đường
dẫn tới sự sống,
24 nhờ đó con sẽ được giữ gìn
khỏi tay người đàn bà trắc nết,
khỏi lời đường mật của người phụ
nữ đã có chồng.
25 Ðừng để sắc đẹp nó quyến rũ lòng
con,
đừng để ánh mắt nó làm con mê
mẩn.
26 Vì gái điếm chỉ đòi một ổ bánh
thôi,
còn người phụ nữ đã có chồng
làm hỏng cả một cuộc đời cao quý.
27 Có ai dấu lửa trong người mà
không bị cháy áo?
28 Có ai đi trên than hồng mà không
bị bỏng chân?
29 Người giao du với vợ bạn mình
cũng thế,
gần gũi nàng ắt bị trừng phạt thôi.
30 Chẳng ai khinh đứa đi ăn trộm chỉ
vì đói mà muốn có ăn.
31 Tuy nhiên nếu bị bắt,
nó phải đền gấp bảy, phải giao
mọi của cải trong nhà.
32 Ðàn ông ngoại tình thì mất hết lý
trí,
người phạm tội ấy tự huỷ hoại đời
mình.
33 Nó phải ăn đòn và mang tiếng xấu,
nỗi ô nhục của nó, không làm sao
gột rửa.
34 Vì người chồng sẽ nổi cơn ghen,
lúc trả thù, anh ta sẽ không mảy
may thương xót.
35 Mọi đền bù, anh ta sẽ không thèm
nhận,
có đưa bao quà cáp, cũng một mực
chối từ.
Chương 07
1 Hỡi con, lời thầy, con hãy giữ,
huấn lệnh của thầy, hãy ấp ủ
trong tim.
2 Hãy tuân giữ huấn lệnh của thầy,
để cho con được sống,
hãy giữ lời thầy dạy như con
ngươi mắt con.
3 Lời giáo huấn của thầy, hãy đeo
vào ngón tay,
ghi khắc trong tâm khảm.
4 Hãy gọi khôn ngoan là bà chị,
xem hiểu biết như thể người thân.
5 Nhờ thế, con sẽ được bảo vệ
khỏi người phụ nữ đã có chồng,
khỏi người đàn bà trắc nết nói
lời đường mật.
6 Khi thầy ngồi trong nhà, bên cửa
sổ, nhìn qua lưới mắt cáo,
7 thầy đã trông thấy một chàng giữa
đám người ngây thơ;
trong đám thanh niên, thầy đã
nhận ra một anh ngu ngốc.
8 Chàng ta đang đi giữa phố hẹp,
gần góc đường có nhà người phụ nữ
kia;
chàng bước trên đường dẫn đến nhà
cô ấy,
9 khi hoàng hôn, lúc chiều tà, hoặc
giữa đêm tăm tối.
10 Kìa người phụ nữ ấy ra đón chàng,
ăn mặc như gái điếm, lòng ẩn chứa
mưu gian.
11 Ðó là một con người ồn ào, thích
bay nhảy,
chứ không chịu chôn chân ở nhà.
12 Lúc ở công trường, khi ngoài
đường phố,
góc nào cũng thấy cô ta rình chờ.
13 Cô ả ôm ghì lấy chàng ta mà hôn,
giơ bộ mặt trơ trẽn, ả nói:
14 "Em đã khấn dâng hy lễ tạ
ơn,
hôm nay em chu toàn lời khấn ấy,
15 vì thế em ra đây để đón anh,
em tìm kiếm anh hoài và em đã
gặp.
16 Giường em, em đã trải nệm êm,
trải hàng thêu nhiều màu và vải
Ai-cập.
17 Chỗ em nằm, em rảy dầu thơm
chế từ mộc dược, lô hội và nhục
quế.
18 Hãy đến anh ơi! Ta hãy say ngất
men tình cho đến sáng,
cùng nhau ta tận hưởng khoái lạc
của yêu đương.
19 Vì chồng em vắng nhà, anh ấy đã
lên đường đi xa,
20 mang theo mình túi bạc;
đến ngày rằm anh ấy mới trở
về."
21 Ả hết lời cám dỗ làm chàng ta
xiêu lòng,
dùng lời đường mật mà quyến rũ;
22 thế là chàng ta đi theo tức khắc,
như con bò đi vào lò sát sinh,
như con nai sa vào tròng vào bẫy,
23 cho đến khi một mũi tên đâm thủng
ruột gan;
hoặc như chim vội bay vào lưới,
đâu biết mình sẽ mất mạng như
chơi.
24 Vậy giờ đây, các con ơi, hãy lắng
nghe thầy,
và lưu tâm đến lời thầy nói.
25 Ðừng để lòng con ngả theo nàng,
chớ lạc vào những lối nàng đi.
26 Vì cô ta đã làm nhiều người ngã
gục,
ngay cả những người rắn rỏi nhất
cũng đều bị cô ta sát hại.
27 Nhà cô ở là đường dẫn tới âm ty,
xuống ngục sâu thăm thẳm của tử
thần.
Chương 08
Ðức Khôn Ngoan tiếp tục kêu gọi
1 Hỏi rằng Ðức Khôn Ngoan đã không
mời gọi,
và Hiểu Biết đã chẳng lên tiếng
đó sao?
2 Trên đỉnh cao bên đường phố,
tại các giao lộ, Ðức Khôn Ngoan
đứng đó;
3 bên cổng dẫn vào thành,
nơi lối đi tới cửa thành, Ðức
Khôn Ngoan kêu to:
4 "Phàm nhân hỡi, ta mời gọi
các ngươi đó,
ta ngỏ lời với các ngươi, hỡi con
cái loài người.
5 Hỡi những kẻ ngây thơ, hãy học
cho biết điều khôn khéo;
hỡi những người ngu xuẩn, hãy học
cho biết lẽ phải chăng.
6 Nghe đây, ta sẽ công bố những lời
cao quý,
môi ta sẽ thốt lên những điều
ngay thẳng.
7 Miệng ta nói sự thật, môi ta ghê
tởm chuyện gian tà.
8 Mọi lời ta nói ra đều ngay chính,
không có chi sai lạc, chẳng có gì
quanh co.
9 Ðối với ai am hiểu, mọi lời của
ta đều đứng đắn;
đối với người có được tri thức,
mọi lời của ta đều ngay thẳng.
10 Hãy đón nhận lời nghiêm huấn của
ta quý hơn cả bạc,
hãy đón nhận tri thức quý hơn
vàng ròng.
11 Khôn ngoan đáng quý hơn cả trân
châu,
không báu vật nào so sánh
nổi."
Ðức Khôn Ngoan tự ca ngợi
12 "Ta là Khôn Ngoan, ta làm
bạn cùng mưu trí,
ta biết đường suy tính đắn đo.
13 (Kính sợ Ðức Chúa là gớm ghét
điều dữ).
Thói kiêu căng ngạo mạn, và lối
sống bất lương
cũng như những lời gian manh,
tráo trở,
đó là những điều ta chê ghét.
14 Ta nắm mưu lược và thành công, ta
có hiểu biết và sức mạnh.
15 Chính nhờ ta, mà vua chúa biết
cầm quyền trị nước,
các thủ lãnh có những phán quyết
công bình.
16 Cũng nhờ ta, hàng lãnh đạo biết
cách điều khiển,
giới cầm quyền biết xét xử công
minh.
17 Kẻ yêu ta sẽ được ta yêu lại,
người tìm ta ắt sẽ gặp ta.
18 Bên cạnh ta là giàu sang, danh
giá,
là phú quý bền lâu và thịnh
vượng.
19 Trái trăng ta cho hưởng quý hơn
cả vàng ròng,
hoa lợi ta tặng ban tốt hơn bạc
nguyên chất.
20 Ta bước đi trên lối công bình,
đi giữa nẻo công minh chính trực,
21 để làm giàu cho những kẻ yêu ta,
khiến kho tàng của họ thêm phong
phú.
Ðức Khôn Ngoan trong công trình
sáng tạo
22 "Ðức Chúa đã dựng nên ta như
tác phẩm đầu tay của Người,
trước mọi công trình của Người từ
thời xa xưa nhất.
23 Ta đã được tấn phong từ đời đời,
từ nguyên thuỷ, trước khi có mặt
đất.
24 Khi chưa có các vực thẳm,
khi chưa có mạch nước tràn đầy,
ta đã được sinh ra.
25 Trước khi núi non được đặt nền
vững chắc,
trước khi có gò nổng, ta đã được
sinh ra,
26 khi Ðức Chúa chưa làm ra mặt đất
với khoảng không,
và những hạt bụi đầu tiên tạo nên
vũ trụ.
27 Ðã có ta hiện diện khi Người
thiết lập cõi trời,
khi Người vạch một vòng tròn trên
mặt vực thẳm,
28 khi Người làm cho mây tụ lại ở
trên cao
và cho các mạch nước vọt lên từ
vực thẳm,
29 khi Người định ranh giới cho
biển, để nước khỏi tràn bờ,
khi Người đặt nền móng cho đất.
30 Ta hiện diện bên Người như tay
thợ cả.
Ngày ngày ta là niềm vui của
Người,
trước mặt Người, ta không ngớt
vui chơi,
31 vui chơi trên mặt đất, ta đùa vui
với con cái loài người.
Lời kêu gọi khẩn thiết
32 "Giờ đây, hỡi các con, hãy
nghe ta.
Phúc thay người bước theo đường
lối ta chỉ bảo.
33 Muốn nên khôn, phải nghe lời
nghiêm huấn,
đừng bao giờ gạt bỏ.
34 Phúc thay người lắng nghe ta dạy,
ngày ngày canh thức trước cửa nhà
ta,
túc trực ở ngay lối ra vào.
35 Vì gặp được ta là gặp sự sống,
và hưởng ân lộc Ðức Chúa ban cho.
36 Còn ai phạm đến ta là làm hại
chính mình,
mọi kẻ ghét ta là yêu cái chết."
Chương 09
Ðức Khôn Ngoan mở tiệc đãi khách
1 Ðức Khôn Ngoan đã xây cất nhà
mình,
dựng lên bảy cây cột,
2 hạ thú vật, pha chế rượu, dọn bàn
ăn
3 và sai các nữ tỳ ra đi.
Ðức Khôn Ngoan còn lên các nơi
cao trong thành phố
và kêu gọi:
4 "Hỡi người ngây thơ, hãy lại
đây!"
Với người ngu si, Ðức Khôn Ngoan
bảo:
5 "Hãy đến mà ăn bánh của ta
và uống rượu do ta pha chế!
6 Ðừng ngây thơ khờ dại nữa, và các
con sẽ được sống;
hãy bước đi trên con đường hiểu
biết."
Chống hạng người ngoan cố
7 Ai sửa dạy đứa ngoan cố là chuốc
lấy khinh dể vào thân.
Ai khiển trách tên gian ác sẽ bị
nó chửi rủa.
8 Ðừng khiển trách đứa ngoan cố kẻo
nó thù ghét con.
Hãy khiển trách người khôn ngoan,
con sẽ được họ thương mến.
9 Hãy giáo huấn người khôn, họ sẽ
khôn hơn nữa.
Hãy dạy bảo người công chính, họ
sẽ hiểu biết thêm.
10 Kính sợ Ðức Chúa là bước đầu của
khôn ngoan;
biết Ðấng Chí Thánh mới là hiểu
biết thật.
11 Vì nhờ ta, con sẽ được sống lâu,
và tăng thêm tuổi thọ.
12 Nếu con khôn thì chính con được
hưởng,
còn con ngoan cố thì gánh chịu
một mình.
Mụ Khờ Dại cũng lên tiếng mời mọc
13 Mụ Khờ Dại là một mụ đàn bà ầm ĩ,
đần độn, chẳng hiểu biết chi.
14 Mụ ngồi bên cửa nhà,
trên ngai, hay tại những nơi cao
trong thành phố,
15 để mời mọc kẻ qua người lại, mời
những ai đi đường:
16 "Hỡi người ngây thơ, hãy lại
đây!"
Với người ngu si, mụ bảo:
17 "Nước uống lén mới ngọt,
bánh ăn vụng mới ngon."
18 Nhưng nào ai biết được bóng âm
hồn lảng vảng nơi đây,
và thực khách mụ mời lại phải ở
trong chốn âm ty sâu thẳm.
Chương 10
II. Bộ Sưu Tập Thứ Nhất Các Châm
Ngôn Của Vua Sa-Lô-Môn
1 Châm ngôn của vua Sa-lô-môn.
Con khôn làm cha vui sướng,
con dại làm mẹ buồn phiền.
2 Của phi nghĩa nào lợi ích chi,
sống công chính mới cứu ta khỏi
chết.
3 Ðức Chúa không để kẻ công chính
phải đói bao giờ;
Người gạt bỏ tham vọng phường
gian ác.
4 Kẻ biếng nhác phải chịu cảnh
nghèo hèn,
người siêng năng được giàu sang
phú quý.
5 Mùa hè thu hoạch là khôn,
mùa gặt ngủ vùi là nhục.
6 Ðầu người công chính được Chúa
chúc lành,
miệng kẻ gian ác chất chứa lời
độc địa.
7 Người ngay chính được tưởng nhớ
và ngợi khen,
còn tên tuổi kẻ gian tà sẽ mai
một.
8 Người có trí khôn ngoan đón nhận
các lệnh truyền,
kẻ môi miệng dại khờ sẽ bị tiêu
vong.
9 Ai sống liêm chính sẽ được an
toàn,
kẻ đi đường quanh co ắt sẽ bị
phát hiện.
10 Kẻ nháy mắt sẽ gây ra đau khổ,
người thẳng thắn rầy la sẽ đem
lại an hoà.
11 Miệng người ngay là suối nguồn sự
sống,
miệng kẻ ác ẩn giấu bạo hành.
12 Ghét ghen sinh cãi vã,
tình yêu khoả lấp mọi lỗi lầm.
13 Khôn ngoan ở trên môi người sáng
suốt,
roi vọt đập xuống lưng kẻ ngu si.
14 Người khôn giữ kỹ điều mình biết,
kẻ ngu mở miệng là tai hoạ đến
gần.
15 Của cải người giàu là thành trì
kiên vững,
cảnh nghèo khiến kẻ yếu thế phải
tiêu vong.
16 Lương bổng của người ngay dẫn đến
sự sống,
huê lợi của kẻ ác đưa đến tội
khiên.
17 Người giữ lời nghiêm huấn thì đi
trong sinh lộ,
kẻ khinh lời sửa dạy ắt sẽ bị lạc
đường.
18 Môi lọc lừa che giấu lòng thù
ghét,
kẻ buông lời vu cáo là đứa ngu
si.
19 Người năng nói năng lỗi,
ai dè giữ lời nói mới là người
khôn.
20 Lưỡi người ngay là bạc ròng hảo
hạng,
tâm kẻ dữ chẳng đáng giá bao
nhiêu.
21 Môi kẻ ngay nuôi sống nhiều
người,
còn đứa dại chết vì dốt nát.
22 Chính phúc lành của Ðức Chúa cho
ta được giàu sang,
vất vả nhọc nhằn chẳng thêm chi
vào đó.
23 Gây tội ác là trò tiêu khiển của
người ngu,
còn khôn ngoan là thú vui cho
người hiểu biết.
24 Ác nhân khiếp sợ chi là gặp ngay
điều đó,
chính nhân mong ước gì, ắt sẽ
được ban cho.
25 Cuồng phong thổi qua, ác nhân đâu
còn nữa,
nhưng người ngay chính vẫn bền
vững ngàn năm.
26 Giấm làm ghê răng, khói làm cay
mắt,
đứa lười làm bực bội người sai nó
đi.
27 Ai kính sợ Ðức Chúa sẽ được
trường thọ,
còn tuổi đời đứa ác bị rút ngắn
đi.
28 Mong ước của người ngay dẫn đến
vui mừng,
hy vọng của ác nhân sẽ tan thành
mây khói.
29 Ðường lối của Ðức Chúa là thành
luỹ chở che người liêm chính,
nhưng lại khiến kẻ làm điều ác
phải tiêu vong.
30 Muôn đời người ngay không nao
núng,
còn ác nhân sẽ chẳng được sống ở
quê hương.
31 Miệng người công chính nói điều
khôn ngoan,
lưỡi đứa gian tà sẽ bị xẻo đi
mất.
32 Môi người ngay làm kẻ nghe hả dạ,
miệng đứa ác nói toàn chuyện dối
gian.
Chương 11
1 Ðức Chúa ghê tởm bàn cân gian,
nhưng ưa thích quả cân chính xác.
2 Kiêu hãnh đi liền với ô nhục,
khôn ngoan ở với kẻ khiêm nhường.
3 Ðức liêm khiết của người chính
trực sẽ dẫn lối họ đi,
còn mưu mô của kẻ lọc lừa khiến
chúng bị tiêu diệt.
4 Trong ngày thịnh nộ, của cải ích
lợi chi,
chỉ đức công chính mới cứu khỏi
tử thần.
5 Ðức công chính của người sống vẹn
toàn
sẽ giúp họ thẳng đường tiến bước,
còn ác nhân lại sa vào chính mưu
độc của nó.
6 Ðức công chính của người ngay
thẳng sẽ cứu họ,
còn kẻ lừa đảo lại mắc bẫy vì
tham lam.
7 Khi ác nhân nằm xuống, mối hy
vọng của nó tiêu tan,
và niềm cậy trông vào của cải
cũng tan thành mây khói.
8 Người công chính được thoát cảnh
hiểm nghèo,
đứa gian tà lại rơi vào thế chỗ.
9 Quân vô đạo dùng miệng lưỡi làm
hại tha nhân,
bậc chính nhân nhờ tri thức mà
được cứu thoát.
10 Chính nhân thịnh đạt, cả thành
mừng rỡ,
kẻ ác tiêu vong, ai cũng reo hò.
11 Người ngay chúc phúc, cả thành
được thịnh vượng,
ác nhân mở miệng, cả thành phải
tiêu vong.
12 Kẻ thiếu lương tri mới khinh khi
người khác,
người giàu hiểu biết thì ngậm
miệng làm thinh.
13 Ðứa ngồi lê đôi mách sẽ tiết lộ
điều bí mật,
còn người tín cẩn giữ kín chuyện
riêng tư.
14 Thiếu lãnh đạo, dân tộc bị sụp đổ,
nhiều cố vấn, đất nước được an
ninh.
15 Ai bảo lãnh người lạ sẽ chuốc hoạ
vào thân,
kẻ ghét chuyện giao kèo được bình
yên vô sự.
16 Ðàn bà có duyên được tiếng tăm,
đàn ông gan dạ được giàu có.
17 Người nhân hậu làm ích cho bản
thân,
kẻ tàn nhẫn lại làm hại chính
mình.
18 Kẻ làm điều ác lãnh đồng lương hư
ảo,
người gieo công chính được phần
thưởng vững bền.
19 Người thực thi công chính được đi
vào cõi sống,
kẻ theo đuổi gian tà phải đến
chốn tử vong.
20 Ðức Chúa ghê tởm tâm địa quanh
co,
nhưng lối ưa thích sống vẹn toàn.
21 Hẳn ác nhân không thoát khỏi hình
phạt,
nhưng giống nòi người công chính
sẽ được cứu nguy.
22 Phụ nữ đẹp người mà không đẹp nết
khác chi khuyên vàng đem xỏ mũi
heo.
23 Khát vọng của chính nhân ắt sẽ
được thành tựu,
hy vọng của kẻ ác đáng chịu thịnh
nộ thôi.
24 Người hào phóng lại được thêm
giàu có,
kẻ hà tiện lại lâm cảnh túng
nghèo.
25 Người rộng lượng được phương phi
béo tốt,
chính kẻ cho uống lại được uống
thoả thuê.
26 Dân chúng nguyền rủa kẻ đầu cơ
lúa gạo,
nhưng chúc phúc cho người đem bán
ra.
27 Người tìm kiếm điều thiện thì gặp
được ân phúc,
kẻ chạy theo điều ác, điều ác đến
bên mình.
28 Ai cậy trông vào của cải, người
ấy sẽ quỵ ngã,
còn chính nhân sẽ vươn lên như
cành lá xanh tươi.
29 Ai gây bất thuận trong nhà sẽ
chẳng có chi làm di sản,
kẻ ngu si đần độn phải làm đầy tớ
cho người khôn.
30 Người công chính được thừa hưởng
cây sự sống,
kẻ khôn ngoan chinh phục được
lòng người.
31 Người công chính còn lãnh thưởng
phạt nơi trần thế,
huống chi là kẻ tội lỗi, đứa ác
tâm.
Chương 12
1 Yêu lời nghiêm huấn là yêu tri
thức,
ghét lời sửa dạy là dại dột ngu
si.
2 Ðức Chúa quý chuộng người lương
thiện,
nhưng Người kết án kẻ mưu mô.
3 Kẻ làm ác đâu đứng vững được
hoài,
nền móng của chính nhân chẳng bao
giờ lay chuyển.
4 Có vợ đảm đang như được mang ngọc
miện,
có vợ hư hỏng như bị bệnh mục
xương.
5 Người ngay chính chỉ nghĩ chuyện
công minh,
kẻ gian tà luôn bày mưu lường
gạt.
6 Lời kẻ ác giương bẫy giết người,
miệng chính nhân thì lo cứu sống.
7 Ác nhân đã bị lật nhào là không
còn nữa,
còn nhà người công chính vẫn đứng
nguyên.
8 Người biết điều phải trái sẽ được
khen ngợi,
kẻ phán đoán lệch lạc sẽ bị khinh
chê.
9 Thà làm dân thường mà có
một đầy tớ
còn hơn ra bộ ông lớn mà chẳng đủ
cơm ăn.
10 Người công chính chăm lo cho sự
sống đàn vật,
còn ác nhân thì thâm độc tận đáy
lòng.
11 Người canh tác đất đai được no
đầy cơm bánh,
kẻ chạy theo chuyện phù phiếm là
đứa ngu si.
12 Lưới dò của kẻ xấu lôi cuốn ác
nhân,
cội rễ của người công chính thì
bền vững.
13 Vì tội lỗi của đôi môi mà ác nhân
sa bẫy,
còn người công chính được thoát
cảnh khốn cùng.
14 Người ăn nói tử tế sẽ được bao
điều tốt đẹp,
mỗi người sẽ lãnh hậu quả việc
mình làm.
15 Kẻ ngu cứ tưởng mình đi đường
ngay chính,
ai nghe lời khuyên nhủ mới là
người khôn.
16 Kẻ ngu si không kìm được giận dữ,
người khôn khéo biết nén nhục
nuốt sầu.
17 Ai trình bày sự thật thì nói lên
công lý,
kẻ làm chứng gian toàn bịa chuyện
lọc lừa.
18 Lời nói bừa bãi khác nào mũi gươm
đâm,
miệng lưỡi khôn ngoan lại chữa
trị cho lành.
19 Lời ngay thật lưu tồn mãi mãi,
lưỡi dối gian chỉ có một thời.
20 Lòng kẻ mưu điều ác chất đầy
chuyện lừa đảo,
người cổ vũ hoà bình được chan
chứa niềm vui.
21 Người công chính không khi nào
gặp nạn,
còn ác nhân, tai hoạ cứ dập dồn.
22 Ðôi môi gian tà bị Ðức Chúa ghê
tởm,
kẻ thực thi chân lý thì được
Người mến thương.
23 Người khôn khéo chẳng khoe điều
mình biết,
kẻ dại khờ để lộ chuyện ngu si.
24 Người cần mẫn sẽ nắm quyền thống
trị,
kẻ biếng lười thì bị bắt làm phu.
25 Mối lo lắng trong lòng khiến con
người suy sụp,
nhưng những lời tử tế làm cho họ
hân hoan.
26 Người công chính dẫn lối cho bạn
bè,
nhưng đường ác nhân đi
khiến chúng bị lạc.
27 Kẻ lười biếng có thịt săn cũng
không chịu nấu,
nhưng siêng năng là vốn quý của
con người.
28 Ðường công minh đưa tới sự sống,
lối gian tà dẫn đến tử vong.
Chương 13
1 Con khôn giữ lời cha nghiêm huấn,
kẻ nhạo báng chẳng nghe lời sửa
dạy.
2 Người nói điều lành thì được
hưởng điều lành,
còn quân phản trắc chỉ thích gây
bạo động.
3 Giữ mồm giữ miệng là bảo toàn
mạng sống,
khua môi múa mép ắt sẽ phải thiệt
thân.
4 Kẻ lười biếng thèm muốn mà chẳng
được gì,
người chuyên cần muốn chi cũng
được thoả mãn.
5 Người chính trực ghét lời dối trá
lọc lừa,
kẻ gian ác làm điều xấu xa ô
nhục.
6 Ðức công chính giữ gìn người sống
thanh liêm,
còn tội lỗi đưa ác nhân đến chỗ
tiêu diệt.
7 Người chẳng có chi thì khoe mình
giàu có,
kẻ nhiều của cải lại làm bộ túng
nghèo.
8 Của cải có sức chuộc mạng người,
còn kẻ nghèo chẳng nghe ai trách
móc.
9 Ánh sáng người chính trực đem lại
niềm vui,
ngọn đèn của ác nhân sẽ bị dập
tắt.
10 Tự mãn tự kiêu chỉ gây ra cãi cọ,
nghe lời khuyên nhủ thì sẽ được
khôn ngoan.
11 Của cải mau tăng sẽ mau giảm,
ai từ từ thu góp sẽ giàu lên.
12 Giấc mộng chưa thành làm trái tim
khắc khoải,
ước mơ toại nguyện là cây ban sự
sống.
13 Coi khinh lời dạy sẽ bị tiêu vong,
tôn trọng lệnh truyền sẽ được ân
thưởng.
14 Giáo huấn của hiền nhân là suối
nguồn sự sống
giúp chúng ta tránh cạm bẫy tử
thần.
15 Biết xử sự thì người đời mộ mến,
theo đường bất tín sẽ chẳng tới
đâu.
16 Người khôn ý thức việc mình làm,
kẻ ngu để lộ điều dại dột.
17 Sứ giả gian manh chỉ gây nên tai
hoạ,
sứ giả trung tín là phương thuốc
chữa lành.
18 Coi khinh lời nghiêm huấn ắt phải
nghèo phải nhục,
tuân giữ lời sửa dạy hẳn sẽ được
hiển vinh.
19 Ước mơ thành tựu khiến tâm hồn
vui thú,
từ bỏ gian tà là điều đứa ngu ghê
tởm.
20 Ði với người khôn, ắt sẽ nên
khôn,
chơi cùng kẻ dại, sẽ mang lấy
hoạ.
21 Ðiều bất hạnh bám sát người tội
lỗi,
chuyện may lành là phần thưởng
của chính nhân.
22 Người đức độ để gia sản tới đời
con đời cháu,
của cải đứa tội lỗi lại dành cho
chính nhân.
23 Ðất người nghèo vỡ hoang thì dồi
dào lương thực,
nhưng nhiều kẻ mất mạng vì bất
công.
24 Kẻ ghét con mới không dùng roi
vọt,
người thương con sẽ lo sửa phạt
con.
25 Chính nhân được ăn no, kẻ ác phải
đói bụng.
Chương 14
1 Phụ nữ khôn ngoan xây dựng cửa
nhà,
phụ nữ dại dột tự tay phá đổ.
2 Người sống đời ngay thẳng thì
kính sợ Ðức Chúa,
kẻ lạc xa chính lộ lại khinh dể
Người.
3 Miệng kẻ dại có mầm kiêu ngạo,
môi người khôn bảo vệ người khôn.
4 Không có bò, máng ăn trống rỗng,
nhờ sức trâu, nguồn lợi dồi dào.
5 Chứng nhân ngay thật thì không hề
gian dối,
chứng nhân xảo trá toàn nói
chuyện dối gian.
6 Ðứa nhạo báng tìm khôn ngoan
chẳng thấy,
người hiểu biết gặp tri thức dễ
dàng.
7 Bạn hãy tránh xa đứa ngu si dại
dột,
vì biết rằng hắn chẳng có lời lẽ
khôn ngoan.
8 Cái khôn của kẻ sáng suốt là biết
rõ đường mình đi,
cái dại của kẻ ngu si là đi lường
gạt.
9 Kẻ ngu nhạo báng hy lễ đền tội,
và ơn Chúa ở với những người
ngay.
10 Nỗi đắng cay chỉ riêng lòng mình
biết,
niềm hân hoan đâu chia sẻ được với
người ngoài.
11 Nhà của ác nhân sẽ bị tàn phá,
lều của người ngay ngày càng phát
đạt.
12 Có con đường xem ra ngay thẳng,
nhưng rốt cuộc lại đưa đến tử
vong.
13 Cả khi cười, lòng vẫn vương sầu
muộn,
sau niềm vui lại đến nỗi buồn
phiền.
14 Kẻ bất trung lãnh hậu quả do cách
mình sống,
người tử tế hưởng hoa trái của
việc mình làm.
15 Kẻ khờ khạo ai nói gì cũng tin,
người khôn ngoan thì đắn đo từng
bước.
16 Người khôn sợ điều dữ và tìm cách
tránh xa,
kẻ dại thì hung hăng và tự tin
quá đáng.
17 Người nóng tính làm những điều
dại dột,
đứa mưu mô bị kẻ ghét người
khinh.
18 Kỷ phần của kẻ ngây thơ là dại
dột,
tri thức là triều thiên trên đầu
người khôn.
19 Kẻ xấu phải cúi mình trước mặt
người lành,
kẻ ác chầu chực nơi cửa nhà người
công chính.
20 Kẻ nghèo khó, láng giềng cũng
ghét bỏ,
người giàu sang có vô số bạn bè.
21 Khinh rẻ tha nhân thì mắc tội,
nhưng xót thương kẻ nghèo là có
phúc.
22 Kẻ mưu toan điều ác lại chẳng lầm
lạc sao?
Người toan làm điều thiện sẽ gặp
được nhân nghĩa tín thành.
23 Chịu cực là có ăn,
nói suông thì chỉ tổ đói nghèo.
24 Phú quý là triều thiên của người
khôn,
còn kẻ ngu thì dại vẫn hoàn dại.
25 Chứng nhân ngay thật cứu được bao
mạng người,
chứng nhân dối trá chỉ làm trò
bịp bợm.
26 Kính sợ Ðức Chúa sẽ được an toàn
kiên vững,
Người là nơi ẩn náu cho con cái
Người.
27 Kính sợ Ðức Chúa là nguồn sự
sống,
giúp ta tránh được cạm bẫy tử
thần.
28 Ðông dân, nhà vua được mạnh thế,
thiếu dân, lãnh tụ sẽ đổ nhào.
29 Người chậm giận thì đầy sáng
suốt,
kẻ nóng tính để lộ cái dại khờ.
30 Tâm hồn bình an là nguồn sống cho
thể xác,
nhưng lòng ghen ghét tựa chứng
bệnh mục xương.
31 Áp bức người yếu thế
là sỉ nhục Ðấng tạo thành nên họ,
thương xót kẻ khó nghèo
là tôn kính Ðấng dựng nên người
đó.
32 Ác nhân té nhào vì điều ác nó gây
ra,
chính nhân vững dạ vì đã sống vẹn
toàn.
33 Khôn ngoan ngự trị trong lòng
người hiểu biết,
nhưng chẳng ai thấy nó trong dạ
đứa ngu si.
34 Ðức công chính đem cường thịnh
cho nước,
còn tội lỗi gây nhục nhằn cho
dân.
35 Bầy tôi mưu trí được hưởng ơn
vua,
bầy tôi bất tài làm vua thịnh nộ.
Chương 15
1 Câu đáp dịu dàng khiến cơn giận
tiêu tan,
lời nói khiêu khích làm nổi cơn
thịnh nộ.
2 Lưỡi người khôn tiết ra tri thức,
miệng kẻ dại tuôn chuyện ngu si.
3 Mắt Ðức Chúa ở mọi nơi mọi chỗ
hằng dõi theo kẻ dữ người lành.
4 Lời xoa dịu tựa cây ban sự sống,
lời nham hiểm làm tan nát tâm
can.
5 Kẻ ngu khinh lời cha nghiêm huấn,
ai giữ lời sửa dạy sẽ nên khôn.
6 Nhà người ngay dư đầy của cải,
nhưng huê lợi của kẻ ác gây bối
rối âu lo.
7 Môi người khôn truyền bá kiến
thức,
lòng kẻ dại chẳng được thế đâu.
8 Ðức Chúa ghê tởm hy lễ của đứa
ác,
nhưng ưa thích lời cầu của kẻ
ngay.
9 Ðức Chúa ghê tởm lối sống của ác
nhân,
nhưng mến thương người theo đuổi
sự công chính.
10 Kẻ rời xa đường ngay chính sẽ bị
nghiêm trị,
ai khinh thường lời sửa dạy sẽ
phải mạng vong.
11 Âm phủ, âm ty còn phơi bày trước
nhan Ðức Chúa,
huống chi là lòng dạ con người!
12 Kẻ nhạo báng không thích bị khiển
trách,
cũng chẳng chịu đến với người
khôn.
13 Lòng mừng vui làm hân hoan nét
mặt,
lòng sầu muộn khiến tâm trí rã
rời.
14 Trí người minh mẫn kiếm tìm tri
thức,
miệng kẻ ngu si ham thích chuyện
điên rồ.
15 Kẻ cùng khốn thấy ngày nào cũng
xấu,
đời người vui là yến tiệc kéo
dài.
16 Ít của ít tiền mà biết kính sợ
Ðức Chúa
hơn có cả kho tàng mà cứ phải âu
lo.
17 Thà bữa rau bữa cháo mà yêu
thương nhau
còn hơn mâm cao cỗ đầy mà bất hoà
bất thuận.
18 Kẻ nóng tính gây ra cãi vã,
người chậm giận làm dịu cuộc đôi
co.
19 Ðường kẻ lười bị rào gai cản trở,
lối người ngay được bồi đắp thênh
thang.
20 Con khôn làm hài lòng cha,
đứa dại không nể mặt mẹ.
21 Kẻ ngu si lấy điều dại làm vui,
người hiểu biết cứ thẳng đường mà
tiến.
22 Thiếu bàn bạc, chương trình đổ
vỡ,
nhiều cố vấn, ắt sẽ thành công.
23 Biết đối đáp khiến con người vui
thú,
nói đúng lúc, thật tốt đẹp dường
bao!
24 Người khôn theo con đường đưa lên
sự sống,
tránh con đường dẫn xuống âm ty.
25 Nhà đứa kiêu căng, Ðức Chúa giật
cho sập,
đất kẻ goá bụa, Người giữ vững
đường ranh.
26 Ðức Chúa ghê tởm những mưu đồ xấu
xa,
còn lời lẽ nhân hậu thì thuần
khiết.
27 Kẻ hám lợi làm tan hoang nhà cửa,
người khinh chê quà hối lộ sẽ
được sống lâu.
28 Người công chính nghĩ suy rồi mới
đáp,
miệng kẻ ác tuôn trào chuyện xấu
xa.
29 Ðức Chúa ở xa phường gian ác,
nhưng nghe lời nguyện của chính
nhân.
30 Cái nhìn ngời sáng làm tâm hồn
vui sướng,
tin tức may lành khiến xương cốt
vững vàng.
31 Kẻ lắng nghe lời sửa dạy, lời ban
sự sống,
sẽ được cư ngụ với những bậc khôn
ngoan.
32 Bỏ lời nghiêm huấn là coi rẻ
chính mình,
nghe lời sửa dạy là sắm lấy hiểu
biết.
33 Lòng kính sợ Ðức Chúa là trường
dạy khôn ngoan,
khiêm nhu là đường dẫn đến vinh
dự.
Chương 16
1 Suy nghĩ lo toan là việc của con
người,
còn nói câu trả lời là do Ðức
Chúa.
2 Con người cho lối sống của mình
là trong sáng,
nhưng Ðức Chúa thấu suốt mọi tâm
can.
3 Hãy ký thác việc bạn làm cho Ðức
Chúa,
dự tính của bạn ắt sẽ thành công.
4 Mọi việc Ðức Chúa làm đều có cùng
đích riêng,
người ác được dựng nên là cho
ngày tai hoạ.
5 Ðứa kiêu căng làm Ðức Chúa ghê
tởm,
hẳn nó không thoát khỏi án phạt
đâu.
6 Nhờ nhân nghĩa tín thành mà tội
được xoá bỏ,
nhờ kính sợ Ðức Chúa mà tránh
được sự dữ.
7 Khi Ðức Chúa hài lòng về lối sống
của ai
Người khiến cả quân thù cũng làm
hoà với kẻ ấy.
8 Thà ít của cải mà sống công chính
hơn nhiều huê lợi mà thiếu công
minh.
9 Tâm trí con người nghĩ ra đường
lối,
còn Ðức Chúa hướng dẫn từng bước
đi.
10 Lời vua là lời sấm,
mở miệng ra phân xử, vua sẽ chẳng
sai lầm.
11 Cán cân và bàn cân chính xác là
của Ðức Chúa,
mọi quả cân trong túi là sản phẩm
của Người.
12 Làm điều dữ là chuyện vua ghê
tởm,
vì nhờ sống công chính mà ngai
báu vững bền.
13 Lời lẽ chân thành khiến vua quý
chuộng,
vua yêu thương kẻ ăn nói thẳng
ngay.
14 Cơn giận của vua báo tin thần
chết đến,
biết làm vua nguôi giận ấy mới là
người khôn.
15 Long nhan rạng rỡ là bầy tôi được
sống,
ơn vua ban xuống như mây đổ mưa
xuân.
16 Ðược khôn ngoan tốt hơn được
vàng,
được hiểu biết quý hơn được bạc.
17 Nẻo đường người chính trực tránh
xa điều ác;
ai để mắt nhìn lối mình đi thì
sinh mạng an toàn.
18 Kiêu căng đưa đến sụp đổ,
ngạo mạn dẫn đến té nhào.
19 Thà sống tự hạ với kẻ khiêm nhu
hơn chia chiến lợi phẩm với
phường kiêu hãnh.
20 Kẻ chú tâm vào lời Chúa dạy sẽ
gặp chuyện tốt lành,
người đặt niềm tin vào Ðức Chúa
thật hạnh phúc dường bao.
21 Người có trí khôn ngoan được coi
là sáng suốt,
lời ngọt ngào làm cho sức thuyết
phục gia tăng.
22 Kẻ có lương tri là có nguồn sự
sống,
sự dại khờ là hình phạt kẻ ngu
si.
23 Trí khôn ngoan làm miệng nên khéo
léo
và thêm sức thuyết phục cho đôi
môi.
24 Lời tử tế là tảng mật ong
làm cổ họng ngọt ngào, khiến
xương cốt lành mạnh.
25 Có con đường xem ra ngay thẳng,
nhưng rốt cuộc lại đưa đến tử
vong.
26 Miệng muốn ăn khiến con người vất
vả,
vì bụng đói nên đầu gối phải bò.
27 Quân vô lại đào hố gây tai ương,
đôi môi nó như lửa hồng cháy
bỏng.
28 Kẻ dối gian gây bất hoà tranh
chấp,
tên mách lẻo chuyên chia rẽ bạn bè.
29 Người thô bạo phỉnh phờ bằng hữu,
dẫn họ vào đường nẻo xấu xa.
30 Nháy mắt mím môi, nghĩ ra điều
dối trá
là làm sự ác rồi.
31 Mái đầu bạc là triều thiên vinh
hiển
được tặng ban cho kẻ sống công
chính.
32 Người chậm giận thì hơn trang hào
kiệt,
người tự chủ hơn kẻ chiếm được
thành.
33 Người ta gieo quẻ trong vạt áo,
nhưng mọi quyết định của phàm
nhân
đều bắt nguồn từ Ðức Chúa.
Chương 17
1 Thà ăn mẩu bánh khô mà được êm ấm
còn hơn đầy yến tiệc mà nhà cửa
bất hoà.
2 Ðầy tớ tài giỏi thì hơn cả đứa
con hư đốn,
lại được chia gia sản với anh em
trong nhà.
3 Lò thử vàng, nồi thử bạc,
còn Ðức Chúa thử lòng dạ con
người.
4 Phường gian ác để tâm đến những
lời bất chính,
quân lừa đảo lắng tai nghe những
chuyện hại người.
5 Chế giễu kẻ lâm cảnh túng nghèo
là sỉ nhục Ðấng tạo thành nên họ.
Vui mừng khi người gặp tai ương
thì sẽ không thoát khỏi án phạt.
6 Triều thiên của người già là đàn
con cháu,
vinh dự của con cái là chính
người cha.
7 Lời tao nhã đâu có hợp với kẻ ngu
dốt,
lời dối gian càng không hợp với
người thanh cao.
8 Quà hối lộ là bùa mê dưới mắt
người đem biếu,
người đó làm gì cũng thành công.
9 Ai muốn có bạn bè thì quên đi lầm
lỗi,
nhắc hoài chuyện cũ làm cho bạn
xa mình.
10 Trăm roi đánh người dại
không bằng một lời mắng người
khôn.
11 Ác nhân chỉ mưu tìm nổi loạn,
nhưng một sứ giả dữ dằn sẽ được
sai đến trừng trị nó.
12 Gặp gấu mẹ mất con
còn hơn gặp người ngu lên cơn rồ
dại.
13 Bất hạnh sẽ không chịu rời bỏ,
nhà kẻ nào lấy oan đền ơn.
14 Bắt đầu cãi cọ là như để cho nước
vỡ bờ,
hãy tránh xa trước khi cuộc tranh
cãi bùng nổ.
15 Bênh vực đứa ác, kết tội chính
nhân,
hai việc này đều làm Ðức Chúa ghê
tởm.
16 Ðể sắm được khôn ngoan, tiền bạc
trong tay đứa ngu ích lợi gì,
bởi vì nó quá ư đần độn?
17 Bè bạn thương nhau mọi thời mọi
lúc,
vào ngày hoạn nạn chỉ có anh em.
18 Ðứa ngu mới ký giao kèo,
mới đứng ra bảo lãnh cho bè bạn.
19 Ưa cãi nhau là ưa phạm tội,
tự cao tự đại là chuốc lấy suy
vong.
20 Tâm địa quanh co sao gặp được
hạnh phúc,
miệng lưỡi dối trá ắt phải chịu
tai ương.
21 Sinh ra đứa ngu là chuốc lấy phiền
muộn,
làm cha kẻ dại nào vui sướng gì
đâu !
22 Tâm trí hân hoan làm thân xác
lành mạnh,
tinh thần suy sụp khiến xương cốt
rã rời.
23 Ác nhân nhận quà được giấu trong
ngực áo,
khiến cán cân công lý bị bẻ cong.
24 Người hiểu biết chỉ nhắm đến khôn
ngoan,
còn người ngu để mắt khắp cùng
trời cuối đất.
25 Con ngu khiến cha buồn giận,
con dại làm mẹ đắng cay.
26 Phạt vạ chính nhân thì không phải
lẽ,
đánh người khả kính là ngược với
công bằng.
27 Người nói năng dè dặt là người
hiểu biết,
kẻ giữ được điềm tĩnh là kẻ khôn
ngoan.
28 Nếu biết giữ thinh lặng,
kẻ ngu cũng được kể là người khôn
ngoan ;
nếu biết ngậm môi,
kẻ đó được coi là người thông
hiểu.
Chương 18
1 Kẻ ích kỷ chạy theo dục vọng,
và nổi giận trước mọi lời khuyên.
2 Người ngu không ưa chuyện hiểu biết,
nhưng thích phô bày cảm nghĩ
riêng.
3 Ðâu có kẻ ác, đấy có khinh khi,
đâu có nhục nhã, đấy có lăng mạ.
4 Lời miệng con người là nước sâu
thăm thẳm,
là dòng suối tràn trề, là nguồn
mạch khôn ngoan.
5 Bênh vực kẻ gian ác, đè nén người
vô tội,
xét xử như thế chẳng tốt đẹp gì.
6 Môi người ngu gây ra tranh cãi,
miệng của nó khiến nó chịu đòn.
7 Miệng kẻ ngu làm cho nó tàn tạ,
môi của nó là cạm bẫy cho mình.
8 Lời kẻ mách lẻo như của ngon vật
lạ
trôi xuống tận ruột gan.
9 Người biếng nhác việc bổn phận
mình
là anh em với quân phá hoại.
10 Danh Ðức Chúa là tháp canh kiên
vững,
chính nhân chạy đến là được an
toàn.
11 Người giàu coi của cải là thành
trì kiên cố,
họ cho đó là tường cao luỹ dầy.
12 Lòng tự cao dẫn đến suy sụp,
đức khiêm tốn đem lại vinh quang.
13 Kẻ chưa nghe đã vội cãi,
sẽ chịu tiếng nhục nhã, ngu si.
14 Người đau yếu được tinh thần nâng
đỡ,
nhưng tinh thần suy sụp thì lấy
ai vực lên?
15 Trí người minh mẫn tiếp thu hiểu
biết,
tri thức là điều tai kẻ khôn kiếm
tìm.
16 Ai có quà biếu sẽ rộng đường lui
tới,
sẽ gặp được người chức trọng
quyền cao.
17 Kẻ nói trước cứ biện hộ cho mình
là đúng,
nhưng đối phương đến, sẽ lột mặt
nạ y.
18 Quẻ gieo chấm dứt các vụ tương
tranh
và phân định quyền lợi giữa những
người quyền thế.
19 Một người anh em bị xúc phạm
thì còn hơn một thành trì vững
chắc.
Các cuộc cãi vã tựa như then cài
cửa luỹ đồn.
20 Con người phải chịu hậu quả lời
mình nói
và được hưởng những gì môi miệng
họ thốt ra.
21 Sống hay chết đều do cái lưỡi,
ai yêu chuộng nó, sẽ lãnh nhận
hậu quả.
22 Tìm được vợ hiền là tìm thấy hạnh
phúc,
và nhận được ơn Ðức Chúa ban cho.
23 Người nghèo khẩn khoản nài xin,
người giàu trả lời hống hách.
24 Có thứ bạn bè gây ra tai hoạ,
có người thân hữu gắn bó hơn cả
anh em.
Chương 19
1 Thà nghèo túng mà sống vẹn toàn,
còn hơn điêu ngoa mà ngu ngốc.
2 Nhiệt tình mà thiếu suy xét nào
có ích chi,
bước vội vàng ắt có khi lầm lỡ.
3 Kẻ ngu dại làm hại đời mình,
nhưng lòng nó lại căm Ðức Chúa.
4 Người lắm của được thêm nhiều
bạn,
còn kẻ nghèo bị bạn hữu lánh xa.
5 Kẻ làm chứng gian không thoát
khỏi hình phạt,
người nói năng dối trá sẽ chẳng
được yên hàn.
6 Lắm kẻ tâng bốc người hào phóng,
ai cũng làm bạn với kẻ cho quà.
7 Kẻ nghèo túng bị mọi anh em khinh
rẻ,
bạn hữu lại càng lánh xa!
Mong được đôi lời, cũng chẳng có.
8 Ai có óc hiểu biết thì yêu bản
thân mình,
ai giữ được sáng suốt thì tìm ra
hạnh phúc.
9 Kẻ làm chứng gian không thoát
khỏi hình phạt,
người nói năng dối trá sẽ phải
mạng vong.
10 Người ngu không hợp với nếp sống
phong lưu,
người nô lệ càng không thể điều
khiển hàng thủ lãnh.
11 Hiểu biết làm con người chậm
giận,
bỏ qua lời xúc phạm khiến con
người được tôn vinh.
12 Cơn giận của vua như tiếng gầm sư
tử,
ân lộc vua ban tựa mưa móc trên
cỏ xanh.
13 Con ngu là mối hoạ cho cha,
vợ lắm điều như mái nhà dột.
14 Cửa nhà, tài sản là gia nghiệp
của cha ông,
còn người vợ khôn ngoan là do Ðức
Chúa.
15 Thói lười biếng làm con người ngủ
mê,
kẻ biếng nhác sẽ phải nhịn đói.
16 Tuân giữ lệnh truyền là giữ được
mạng sống,
khinh thường đường lối Chúa ắt
phải mạng vong.
17 Thương xót kẻ khó nghèo là cho
Ðức Chúa vay mượn,
Người sẽ đáp trả xứng việc đã
làm.
18 Hãy sửa phạt con cái bao lâu còn
hy vọng,
nhưng đừng nóng nảy khiến nó phải
chết.
19 Người giận dữ hung hăng sẽ phải
nộp phạt,
nếu cứu nó, bạn chỉ làm tăng sự
ác mà thôi.
20 Hãy lắng nghe lời khuyên, đón
nhận lời nghiêm huấn,
để sau này bạn được nên khôn.
21 Lòng con người ấp ủ bao dự tính,
duy kế hoạch của Ðức Chúa mới
trường tồn.
22 Con người ao ước lòng nhân nghĩa,
thà là kẻ nghèo khó còn hơn là
đứa dối gian.
23 Lòng kính sợ Ðức Chúa đem lại sự
sống,
cho người ta ăn no ngủ kỹ, thoát
khỏi mọi tai ương.
24 Ðứa lười biếng thò tay vào đĩa,
nhưng chẳng buồn đưa thức ăn lên
miệng.
25 Hãy đánh người ưa chế giễu,
ắt kẻ ngây thơ sẽ nên lanh lợi ;
hãy quở mắng người khôn,
người ấy sẽ thêm hiểu biết.
26 Kẻ bạc đãi cha và xua đuổi mẹ,
là đứa con đốn mạt, nhuốc nhơ.
27 Này con, nếu thôi không nghe lời
nghiêm huấn,
con sẽ lạc xa những lời lẽ khôn
ngoan.
28 Kẻ làm chứng gian nhạo cười công
lý,
miệng ác nhân ngốn ngấu chuyện
gian tà.
29 Án phạt dành sẵn cho kẻ ưa chế
giễu,
và đòn vọt kề lưng đứa ngu si.
Chương 20
1 Rượu nồng sinh nhạo báng, men say
tạo ồn ào,
kẻ nào vướng vào đó, đâu còn là
người khôn.
2 Cơn thịnh nộ của vua như tiếng
gầm sư tử,
kẻ làm vua nổi giận là làm hại
chính mình.
3 Tránh đôi co đem lại vinh dự cho
con người,
mọi kẻ ngu đều hay sinh sự.
4 Ðầu mùa đông, kẻ lười không lo
cày cấy,
đến mùa gặt, nó tìm kiếm cũng
uổng công.
5 Ý định lòng người tựa nước sâu
thăm thẳm,
người hiểu biết mới kín múc được.
6 Lắm kẻ tự hào mình nhân nghĩa,
nhưng người thành tín, nào ai
kiếm cho ra?
7 Người công chính ăn ở đức độ,
phúc cho đàn con nối dõi tông
đường!
8 Ðức vua ngự trên ngai xét xử,
đưa mắt sàng lọc mọi xấu xa.
9 Ai dám nói : "Tôi đã giữ
lòng mình thanh khiết,
và tôi đã sạch tội rồi!"
10 Cân non cân già, đấu gian đấu
dối,
Ðức Chúa ghê tởm cả hai.
11 Qua việc làm, mà người ta biết
được
tính hạnh đứa trẻ có trong sáng
thẳng ngay.
12 Tai để nghe, mắt để thấy,
Ðức Chúa làm nên cả hai.
13 Ðừng mê ngủ kẻo ra nghèo túng,
chong mắt thức, bạn sẽ được cơm
bánh no nê.
14 Khi mua thì chê "Ðồ ôi, đồ
dở!"
lúc đi khỏi, lại tự khen mua được
giá hời!
15 Vàng bạc trân châu : nhiều vô kể,
miệng lưỡi thông thái : thật hiếm
hoi!
16 Người nào dám bảo lãnh cho kẻ
không quen,
phải giữ lấy áo của người đó;
người nào muốn bảo đảm cho phụ nữ
xa lạ,
phải đòi người đó vật thế chân.
17 Bánh phi nghĩa, con người lấy làm
ngon,
nhưng sau đó, miệng nó đầy đá
sỏi.
18 Lên kế hoạch, hãy dựa vào lời
khuyên,
lúc giao tranh, hãy nghe lời cố
vấn.
19 Ðứa ngồi lê đôi mách tiết lộ điều
bí mật,
vậy đừng giao du với kẻ lắm lời.
20 Kẻ nào nguyền rủa mẹ cha,
ngay giữa đêm khuya, đèn nó bị
tắt ngúm.
21 Của cải kiếm vội được lúc đầu,
thì về sau sẽ không được chúc
phúc.
22 Bạn đừng nói : "Tôi sẽ báo
thù!"
Hãy cậy trông Ðức Chúa, Người sẽ
cứu bạn.
23 Cân non cân già làm Ðức Chúa ghê
tởm,
bàn cân gian dối, nào tốt đẹp
chi!
24 Ðức Chúa dẫn dắt từng bước chân
con người,
nẻo đời mình, phàm nhân sao hiểu
hết.
25 Nguy hiểm thay, khi vội vàng khấn
dâng của cải,
rồi sau đó lại tiếc nuối nghĩ
suy.
26 Vị minh quân sàng lọc lũ gian tà,
cho bánh xe cán lên bọn chúng.
27 Tinh thần là đèn sáng Ðức Chúa
ban cho con người,
dò xét mọi ngõ ngách tâm can.
28 Nhân nghĩa và tín thành gìn giữ
đức vua,
nhờ nhân ái, ngai vàng người bền
vững.
29 Sức mạnh là niềm tự hào của giới
thanh niên,
mái đầu bạc là vinh dự của hàng
bô lão.
30 Vết thương nhức nhối tẩy sạch
điều gian ác,
và roi vọt thấu đến tận cõi lòng.
Chương 21
1 Trong tay Ðức Chúa, lòng vua tựa
dòng nước chảy,
Người lèo lái đi đâu tuỳ ý Người.
2 Con người cho lối sống của mình
là ngay thẳng,
nhưng Ðức Chúa thấu suốt mọi tâm
can.
3 Thực thi điều công minh chính
trực
thì đẹp lòng Ðức Chúa hơn là dâng
hy lễ.
4 Mắt kiêu hãnh, lòng tự cao,
vẻ hào nhoáng của ác nhân : thảy
đều là tội lỗi.
5 Kế hoạch người siêng năng hẳn tạo
ra lợi nhuận,
ai vội vàng hấp tấp, ắt phải chịu
đói nghèo.
6 Kho tàng thu tích nhờ môi miệng
điêu ngoa
là hơi thở thoáng qua, là bẫy làm
thiệt mạng.
7 Bạo hành của kẻ ác sẽ cuốn phăng
kẻ ác,
vì chúng không chịu thực thi công
bình.
8 Ðường lối của kẻ gian ác thì
quanh co,
hành động của người trong sạch
thì ngay thẳng.
9 Thà ở một góc trên mái nhà,
còn hơn chung sống với một bà hay
gây.
10 Lòng ác nhân ước ao sự dữ,
ngay bạn bè, nó chẳng để mắt
thương.
11 Phạt đứa ưa chế giễu, kẻ khờ dại
nên khôn,
dạy bảo người khôn, người khôn
càng hiểu biết.
12 Ðấng Công Chính xem xét nhà của
ác nhân,
bắt ác nhân lâm vòng tai hoạ.
13 Kẻ bịt tai trước tiếng kêu của
người cô thế,
đến lúc nó kêu, sẽ chẳng được đáp
lời.
14 Tặng phẩm kín đáo làm tiêu tan
cơn giận,
quà giấu trong áo làm dịu trận
lôi đình.
15 Thực thi công lý là niềm vui cho
người công chính,
nhưng là nỗi kinh hoàng cho kẻ
bất lương.
16 Kẻ lạc xa con đường hiểu biết,
sẽ phải sống chung với đám âm
hồn.
17 Kẻ ham vui sẽ bần cùng đói khổ,
người mê rượu chè sẽ chẳng giàu
đâu!
18 Kẻ ác thành giá chuộc cho người
công chính,
tên phản bội bị phạt thay cho kẻ
ngay lành.
19 Thà sống nơi đìu hiu cô quạnh,
còn hơn bên người vợ hay gây gổ
nổi xung.
20 Nhà người khôn có kho báu và dầu,
còn người ngu có gì nuốt hết.
21 Người theo đuổi công chính và
nhân nghĩa,
sẽ được sống lâu và vinh dự.
22 Người khôn tấn công thành của
quân thiện chiến,
và lật nhào đồn luỹ chúng cậy
trông.
23 Kẻ giữ mồm giữ miệng,
thì giữ mình khỏi những hiểm
nguy.
24 Ðứa kiêu căng xấc xược được gọi
là quân nhạo báng,
nó cư xử ngạo ngược kiêu căng.
25 Vì ham muốn, đứa lười mất mạng,
bởi nó không chịu ra tay làm.
26 Suốt ngày nó những ham cùng muốn,
còn chính nhân cho hết, chẳng giữ
lại gì.
27 Hy lễ của ác nhân là điều ghê
tởm,
nhất là khi dâng với ý gian tà.
28 Kẻ làm chứng gian sẽ phải tiêu
vong,
còn người biết nghe có thể nói
hoài.
29 Kẻ gian ác mang bộ mặt trơ trẽn,
còn người ngay cứ vững bước trên
đường.
30 Khôn ngoan, hiểu biết, nhủ
khuyên,
tất cả chẳng là gì sánh với Ðức
Chúa.
31 Chiến mã được chuẩn bị cho ngày
giao tranh,
nhưng thắng bại thuộc quyền Ðức
Chúa.
Chương 22
1 Lắm của cải đâu quý bằng danh
thơm tiếng tốt,
vàng với bạc nào trọng bằng được
mến được thương.
2 Kẻ giàu người nghèo gặp nhau ở
điểm này :
cả hai đều được Ðức Chúa tạo
dựng.
3 Gặp nguy hiểm, người khôn ẩn
mình,
đứa khờ dại lao tới và bị thiệt
thân.
4 Giàu sang, vinh dự và sự sống là
phần thưởng
Ðức Chúa dành cho kẻ khiêm nhu và
kính sợ Người.
5 Ðường kẻ quanh co thì có gai, có
bẫy,
ai biết giữ mình ắt sẽ tránh xa.
6 Hãy dạy đứa trẻ đi con đường nó phải
đi,
để đến tuổi già, nó vẫn không lìa
bỏ.
7 Người giàu thì thống trị kẻ
nghèo,
người đi vay làm tôi cho chủ nợ.
8 Kẻ gieo tai ác sẽ gặt tai ương,
nó đã tàn phá, ắt sẽ tàn lụi.
9 Người tử tế sẽ được chúc phúc,
vì đã đem cơm bánh cho người
nghèo.
10 Ðuổi quân nhạo báng đi là hết
chuyện đôi co,
cũng chẳng còn tranh chấp với
lăng mạ.
11 Ai chuộng lòng thanh khiết và ăn
nói dễ thương
sẽ được vua nhận làm bạn hữu.
12 Ðức Chúa để mắt trông nom người
hiểu biết,
và phi bác lời lẽ kẻ bất trung.
13 Ðứa lười nói : "Có con sư tử
ở ngoài kia ;
nếu tôi ra đường, chắc sẽ bị ăn
thịt."
14 Miệng người phụ nữ trắc nết ví
tựa hố sâu,
kẻ bị Ðức Chúa ruồng bỏ sẽ sa vào
đó.
15 Tâm trí trẻ con vốn dại khờ,
lấy roi sửa phạt là giúp nó nên
khôn.
16 Bóc lột người nghèo là làm giàu
cho họ,
tặng cho kẻ giàu là khiến mình
nghèo đi.
III. Sưu Tập Những Lời Của Bậc
Khôn Ngoan
17 Con hãy lắng tai nghe lời bậc
khôn ngoan,
và chú tâm vào những hiểu biết
của thầy.
18 Vì khi con giữ những lời ấy trong
tâm khảm
và sẵn sàng nói hết ra ngoài miệng
thì thật là vui thú dường bao!
19 Hôm nay thầy muốn dạy con, cả con
nữa,
để con một niềm tin tưởng vào Ðức
Chúa.
20 Há thầy đã chẳng viết cho con ba
mươi huấn dụ
gồm những lời khuyên răn và hiểu
biết đó sao?
21 Mục đích là để giúp con am tường
những lời chân thật
và trình bày lại cho người đã sai
con
sao cho thật trung thành.
22 Ðừng bóc lột người nghèo, vì họ
đã nghèo sẵn;
cũng đừng chà đạp người yếu thế
nơi cửa công,
23 vì Ðức Chúa sẽ biện hộ cho họ,
và những ai tước đoạt họ, Người
sẽ tước mạng sống.
24 Ðừng bè bạn với người hay nóng
giận,
chớ giao du với kẻ dễ nổi xung,
25 kẻo con lại học đòi lối sống của
chúng,
khiến thân con mắc phải bẫy dò.
26 Ðừng thuộc hạng người bắt tay
giao kèo,
hay hạng người bảo lãnh cho kẻ
khác vay mượn,
27 vì nếu con không có gì để trả,
giường con đang nằm, người ta
cũng lấy đi.
28 Ðường ranh cha ông đã ấn định từ
trước,
con đừng có chuyển dời.
29 Con có thấy người giỏi giang khéo
léo?
Người ấy sẽ được vào phục vụ các
vua,
chứ không phục vụ hạng tầm
thường.
Chương 23
1 Khi con ngồi ăn với kẻ có chức
quyền,
hãy để ý kỹ người đối diện.
2 Nếu con vốn tham ăn, hãy đặt dao
kề cổ.
3 Ðừng thèm thuồng cao lương mỹ vị
của hắn,
vì đó là thứ đồ ăn phỉnh gạt.
4 Chớ nhọc công thu tích của cải,
và cũng đừng bận tâm đến nó;
5 mắt con vừa thấy, nó đã chẳng
còn,
vì nó mọc cánh bay đi mất,
tựa đại bàng bay tới trời cao.
6 Chớ ăn bánh của quân xấu bụng,
đừng thèm thuồng cao lương mỹ vị
của hắn.
7 Vì lòng hắn nghĩ sao, con người
hắn như vậy.
Hắn mời con : "Ăn uống đi
nào!"
Nhưng đâu phải hắn có lòng với
con.
8 Mẩu bánh vừa nuốt vào, con đã
phải thổ ra.
Mất công toi bao nhiêu lời tốt
đẹp,
9 con đừng nói vào tai đứa dốt,
vì nó sẽ khinh dể lời lẽ khôn
ngoan của con.
10 Con chớ chuyển dời đường ranh cũ,
cũng đừng xâm phạm cánh đồng của
trẻ mồ côi,
11 vì Ðấng cứu chuộc chúng là Ðấng
hùng mạnh,
chính Người sẽ biện hộ cho chúng
chống lại con.
12 Con hãy để tâm đón lấy lời huấn
dụ,
và lắng tai nghe điều hiểu biết.
13 Ðừng ngại gì khi phải phạt trẻ
con,
nếu con đánh nó bằng roi, nó đâu
có chết.
14 Lấy roi đánh nó là cứu nó khỏi âm
ty.
15 Hỡi con, tâm trí con khôn ngoan
thì lòng dạ thầy cũng vui sướng.
16 Môi miệng con nói những lời chính
trực
thì tâm hồn thầy sẽ mừng rỡ hân
hoan.
17 Ðừng để lòng con phân bì với quân
tội lỗi,
nhưng hãy luôn kính sợ Ðức Chúa,
18 vì chắc chắn con có một tương lai
và niềm hy vọng của con sẽ không
thành mây khói.
19 Hỡi con, hãy nghe thầy và con sẽ
nên khôn,
hãy hướng lòng con theo chính
đạo.
20 Ðừng nhập bọn với quân chè chén
say sưa,
với những kẻ chỉ mê ăn mê nhậu.
21 Bởi vì kẻ say sưa ăn nhậu ắt sẽ
phải túng nghèo;
kẻ mơ màng buồn ngủ sẽ khố rách
áo ôm.
22 Hãy lắng nghe cha con, đấng sinh
thành ra con,
đừng khinh dể mẹ con khi người
già yếu.
23 Chân lý và khôn ngoan, nghiêm
huấn và hiểu biết,
con hãy mua lấy chứ đừng bán đi.
24 Thân phụ người công chính sẽ mừng
vui,
đấng sinh thành người khôn sẽ
hoan hỷ.
25 Ước gì cha mẹ con được hỷ hoan
và người sinh ra con được mừng
rỡ.
26 Hỡi con, hãy hết lòng tin tưởng
vào thầy
và hãy để mắt noi gương thầy.
27 Vì gái điếm là hố sâu
và phụ nữ ngoại tình là giếng
hẹp.
28 Nó khác nào kẻ cướp rình chờ
hòng tăng số những kẻ bất trung
trong nhân loại.
29 Ai kêu : "Than ôi!"? Ai
kêu: "Khổ quá!"?
Ai cứ gây gổ? Ai phải thở than?
Ai chịu những vết thương vô lý?
Ai có đôi mắt đỏ ngầu?
30 Ðó là kẻ nấn ná mãi bên ly rượu,
là người đã nếm đủ thứ rượu ngon.
31 Nhìn rượu làm chi: rượu màu đỏ
hồng,
óng ánh trong ly, rồi trôi xuống
cổ.
32 Nhưng rốt cuộc, rượu như rắn cắn,
như nọc độc hổ mang.
33 Mắt con sẽ thấy những điều kỳ dị,
lòng con tuôn ra bao chuyện nhảm
nhí.
34 Con như người bồng bềnh giữa biển
khơi,
lắc lư trên cột buồm.
35 "Bị người đánh, tôi chẳng
biết đau,
bị người đập, tôi đâu cảm thấy.
Ðến bao giờ mới tỉnh rượu đây
để tôi lại kiếm thêm ly
nữa?"
Chương 24
1 Chớ phân bì với quân tội lỗi,
cũng đừng ham bè bạn với chúng,
2 vì lòng chúng chỉ nghĩ đến bạo
hành
và môi chúng toàn nói lời độc ác.
3 Có khôn ngoan mới dựng được nhà,
có sáng suốt mới biết xây cho
vững.
4 Nhờ hiểu biết, phòng ốc mới đầy
dư
mọi của cải sang trọng và quý
giá.
5 Người khôn ngoan được nên mạnh
mẽ,
kẻ hiểu biết làm sức mạnh gia
tăng.
6 Khi giao chiến, cần lời chỉ đạo,
muốn thắng trận, cần nhiều cố
vấn.
7 Ðối với kẻ ngu, đức khôn ngoan
cao vời vợi,
nơi cổng thành, nó chẳng dám hé
môi.
8 Kẻ mưu tính những chuyện gian tà
sẽ bị gọi là vua bịp bợm.
9 Kẻ ngu si chỉ mưu toan tội lỗi,
quân chế nhạo bị kẻ ghét người
khinh.
10 Ngày khốn quẫn mà để mất tinh
thần,
sức lực con ắt sẽ bị suy giảm.
11 Hãy giải thoát những người bị đem
đi giết,
cứu những ai lảo đảo bước đến
pháp trường.
12 Giả như con bảo: "Tôi đâu
biết chuyện ấy,"
thì Ðấng đo lòng người lại không
hiểu hết sao ?
Ðấng canh giữ lòng con thấu suốt
cả,
Người sẽ thưởng phạt ai nấy theo
việc họ làm.
13 Hỡi con, cứ ăn đi, mật ong ngon
lắm,
mật ong nguyên chất ngọt ngào
trong miệng con.
14 Con nên nhớ : đức khôn ngoan đối
với con cũng vậy.
Nếu con gặp được, hẳn sẽ có tương
lai,
và niềm hy vọng của con sẽ không
tan vỡ.
15 Này kẻ gian, chớ rình rập nhà
người công chính,
cũng đừng phá phách nơi họ ở.
16 Vì chính nhân có ngã bảy lần cũng
đứng lên được,
còn kẻ ác cứ lảo đảo hoài trong
cảnh tai ương.
17 Khi quân thù gục ngã, con đừng
lấy làm vui,
lúc nó bị lảo đảo, lòng con chớ
reo mừng,
18 kẻo Ðức Chúa trông thấy mà gai
mắt
và không nổi giận với nó nữa đâu.
19 Ðừng ganh ghét với bọn bất lương,
chớ ghen tương cùng phường gian
ác.
20 Vì bọn bất lương chẳng có tương
lai,
và ngọn đèn của phường gian ác sẽ
tàn lụi.
21 Hỡi con, hãy kính sợ Ðức Chúa và
nhà vua,
đừng giao du với những quân nổi
loạn.
22 Vì tai hoạ sẽ giáng xuống bất
ngờ,
cả hai sẽ tiêu diệt chúng ra sao,
nào có ai lường được?
IV. Sưu Tập Những Lời Khác Của
Bậc Khôn Ngoan
23 Những câu sau đây cũng là của bậc
khôn ngoan:
Xét xử thiên vị là điều không
tốt.
24 Ai bảo kẻ gian ác rằng: "Anh
vô tội!"
thì sẽ bị các dân nguyền rủa, các
nước cười chê.
25 Còn ai răn đe nó, ắt sẽ được mừng
vui
và phúc lành sẽ đến trên người
đó.
26 Ai trả lời thẳng thắn mới là
người bạn thật.
27 Hãy ổn định mọi chuyện bên ngoài
và thu xếp công việc đồng áng,
rồi sau đó mới lo dựng nhà.
28 Ðừng vô cớ làm chứng hại bạn bè,
cũng đừng nói ngọt nói ngon mà
lừa đảo họ.
29 Con đừng nói: "Hắn đối xử
với tôi ra sao, tôi xử lại với hắn như vậy.
Tôi trả báo từng người theo việc
họ làm."
30 Tôi đi ngang cánh đồng của người
biếng nhác,
qua vườn nho của kẻ ngu si.
31 Và này: chỗ nào cũng um tùm gai
góc,
khắp mặt đất phủ đầy cỏ dại,
tường đá bị sụp đổ hoang tàn.
32 Tôi đã nhìn và để tâm suy nghĩ,
tôi đã thấy và rút ra bài học
này:
33 Ngủ một chút, chợp mắt một chút,
khoanh tay nằm một chút,
34 là cái nghèo sẽ đến với bạn như
tên du thủ du thực,
cảnh bần cùng sẽ đột nhập như
người có vũ trang.
Chương 25
V. Bộ Sưu Tập Thứ Hai Các Châm
Ngôn Của Vua Sa-Lô-Môn
1 Ðây cũng là những châm ngôn của
vua Sa-lô-môn
được quần thần của Khít-ki-gia,
vua nước Giu-đa, ghi chép lại.
2 Thiên Chúa vinh quang khi giấu
kín việc Người làm,
đức vua vinh quang khi thấu hiểu
việc nước.
3 Như trời cao đất dày,
tâm trí bậc đế vương thật vô
phương dò thấu.
4 Lọc hết cặn bẩn ra khỏi bạc,
thợ bạc sẽ có một cái bình.
5 Loại người gian ác khỏi long
nhan,
ngai vàng sẽ kiên vững trên nền
công chính.
6 Trước long nhan, đừng lên mặt
kiêu kỳ,
chớ đứng vào chỗ của hàng vị
vọng.
7 Thà được người ta bảo: "Xin
mời ông lên trên!"
còn hơn bị hạ xuống trước mặt
người quyền cao chức trọng.
Ðiều mắt con nhìn thấy,
8 con đừng vội đem ra trước toà,
vì nếu đối phương làm cho con
phải xấu hổ,
thì rốt cuộc con sẽ ăn nói ra
sao?
9 Cứ tranh cãi với đối phương,
nhưng đừng tiết lộ chuyện riêng
của người khác,
10 kẻo có ai nghe được, họ sẽ phỉ
báng con,
và con không rút lại được những
lời nói xấu.
11 Lời nói ra đúng lúc đúng thời
khác chi táo vàng trên đĩa bạc
chạm trổ.
12 Ðối với kẻ biết nghe, lời trách
cứ của người khôn
tựa nhẫn vàng hay kiềng vàng hảo
hạng.
13 Sứ giả trung tín với kẻ sai mình
đi
thì đáng quý như tuyết mát ngày
mùa:
người đó làm vững lòng ông chủ.
14 Kẻ to miệng hứa tặng quà mà không
giữ lời hứa
chẳng khác nào có mây, có gió mà
chẳng có mưa.
15 Cứ kiên nhẫn, thủ lãnh sẽ xiêu
lòng,
lời mềm mỏng làm nát tan xương
cốt.
16 Kiếm được mật, con chỉ ăn vừa đủ,
ăn quá nhiều, ắt sẽ mửa ra thôi.
17 Ðừng năng lui tới với bạn bè,
kẻo nó chán ngấy con mà đem lòng
ghét bỏ.
18 Kẻ làm chứng gian hại bạn bè
chẳng khác nào chuỳ, gươm và tên
nhọn.
19 Trong ngày khốn quẫn,
lòng tin tưởng vào đứa bất trung
sẽ như răng lung lay, như chân
lảo đảo.
20 Ca hát khi người khác khổ đau
thì như lột áo lúc trời lạnh
hay đổ thêm giấm vào nước chanh.
21 Kẻ thù con có đói, hãy cho nó
bánh ăn,
nó có khát, hãy cho nước uống.
22 Như vậy là chất than hồng lên đầu
nó,
và Ðức Chúa sẽ thưởng cho con.
23 Như gió bấc khiến trời đổ mưa,
lời nói lén làm người ta nổi
giận.
24 Thà ở một góc trên mái nhà,
còn hơn chung sống với một bà hay
gây.
25 Tin vui từ phương xa đến
tựa nước mát khi cổ họng ráo khô.
26 Nước bị đục, suối bị dơ,
chính nhân bị kẻ gian ác làm
nghiêng ngửa.
27 Mật ong, ăn quá nhiều không tốt,
những lời ca ngợi, con chớ mải
kiếm tìm.
28 Người không biết tự chủ
ví như thành bỏ ngỏ, không tường
luỹ chở che.
Chương 26
1 Tuyết đâu rơi mùa hè, trời đâu
mưa mùa gặt,
quyền cao chức trọng đâu hợp với
kẻ ngu si.
2 Như chim sẻ bay, như chim én
lượn,
lời nguyền rủa vô cớ cũng chẳng
đi tới đâu.
3 Roi dành cho ngựa, hàm thiếc cho
lừa,
đòn vọt dành cho lưng đứa ngu
xuẩn.
4 Ðừng đáp lại đứa ngu theo cái ngu
của nó,
kẻo chính con cũng lại giống nó
thôi.
5 Hãy đáp lại đứa ngu theo cái ngu
của nó,
kẻo nó cứ tưởng là nó khôn.
6 Nhờ đứa ngu chuyển giùm sứ điệp
chẳng khác chi tự chặt chân mình
và gánh lấy biết bao tai hoạ.
7 Ðứa dốt mở miệng nói khôn nói
ngoan
thì cũng như anh què đi khập
khiễng.
8 Bày tỏ lòng kính trọng đứa ngu
chẳng khác chi cột sỏi vào ná
bắn.
9 Ðứa dốt mở miệng nói khôn nói
ngoan
chẳng khác gì kẻ say vung cành
gai mà múa.
10 Ai mướn kẻ ngu hay người say
thì cũng ví tựa kẻ bắn cung
gây thương tích cho mọi người qua
lại.
11 Con chó quay lại chỗ nó mửa,
đứa ngu lặp lại chuyện ngu đần.
12 Nếu con gặp một kẻ tự cho mình là
khôn,
thì thà hy vọng vào đứa ngu còn
hơn.
13 Tên lười nói : "Ngoài đường
có sư tử,
nơi quảng trường có chúa sơn
lâm."
14 Cánh cửa xoay trên trục,
đứa lười lăn trên giường.
15 Kẻ lười biếng thò tay vào đĩa,
nhưng chẳng buồn đưa thức ăn lên
miệng.
16 Kẻ lười biếng tự hào
mình khôn hơn bảy người có tài
đối đáp.
17 Xen vô chuyện của người
khác nào kéo tai chó chạy rông.
19 Kẻ lừa đảo bạn bè, rồi bảo:
"Ðùa đấy thôi!"
18 thì cũng như người giả vờ điên
phóng lửa, bắn tên gây chết chóc.
20 Củi tàn thì lửa tắt,
hết kẻ mách lẻo thì cũng bớt đôi
co.
21 Than nuôi bếp hồng, củi nuôi lửa
đỏ,
kẻ hay gây gổ khiến cãi cọ bùng
lên.
22 Lời đứa mách lẻo như của ngon vật
lạ
trôi xuống tận ruột gan.
23 Lời lẽ mặn nồng mà lòng dạ xấu xa
chẳng khác nào bạc cặn dát trên
đồ gốm.
24 Kẻ ghét ghen, môi miệng khéo vờ
vĩnh,
nhưng thâm tâm vẫn đặt chuyện lọc
lừa.
25 Nó dùng lời quyến rũ, con đừng có
tin,
vì lòng nó chứa đầy chuyện ghê
tởm.
26 Nó mưu mô che đậy lòng ghen ghét,
nhưng ác tâm của nó bị đại hội
vạch trần.
27 Kẻ đào hố bị sa xuống hố,
người lăn đá lại bị đá đè.
28 Lưỡi dối gian ghét người nó làm
hại,
miệng ngọt xớt gây đổ vỡ nát tan.
Chương 27
1 Chớ huênh hoang tự đắc về ngày
mai,
vì hôm nay sẽ xảy ra chuyện gì,
con đâu biết được.
2 Hãy để kẻ xa người lạ ngợi khen
con,
đừng có hé môi khen ngợi chính
mình.
3 Ðá nặng, cát cũng nặng,
đứa ngu nổi giận còn nặng nề hơn.
4 Ðứa nóng giận thì độc ác, kẻ
thịnh nộ thì bạo tàn,
nhưng trước người nổi cơn ghen,
ai nào đứng vững?
5 Thà chỉ trích công khai
còn hơn yêu thương mà không bày
tỏ.
6 Bạn bè làm thương tổn, bạn bè vẫn
chân thành,
kẻ thù có ôm hôn, kẻ thù cũng giả
dối.
7 Người no, tảng mật cũng coi
thường,
kẻ đói thấy đắng cay cũng ngọt.
8 Người xa quê như chim xa tổ.
9 Dầu và hương thơm làm phấn khởi
lòng người,
tình bạn ngọt ngào giúp tinh thần
thêm vững mạnh.
10 Bạn của con hay bạn của cha con,
đừng nỡ bỏ rơi họ.
Gặp ngày khốn quẫn, đừng đến nhà
anh em con,
vì anh em xa không bằng láng
giềng gần.
11 Này con, hãy khôn ngoan cho thầy
được thoả dạ
và có thể đối đáp với ai sỉ nhục
thầy.
12 Gặp nguy hiểm, người khôn ẩn
mình,
đứa khờ dại lao tới và bị thiệt
thân.
13 Người nào dám bảo lãnh cho kẻ
không quen,
phải giữ lấy áo của người đó;
người nào muốn bảo đảm
cho phụ nữ xa lạ,
phải đòi người đó vật thế chân.
14 Lớn tiếng chúc lành cho bạn hữu
ngay từ sáng sớm
thì chẳng khác nào nguyền rủa họ.
15 Ðàn bà lắm điều như nhà dột ngày
mưa.
16 Giữ được đàn bà như giữ được gió,
hay nắm được dầu trong tay.
17 Sắt bén nhờ sắt,
con người nên sắc bén nhờ bạn bè.
18 Giữ cây vả thì được ăn trái vả,
bảo vệ thầy ắt sẽ được kính yêu.
19 Nước phản chiếu khuôn mặt,
tâm tư phản ánh con người.
20 Âm ty, âm phủ không bao giờ đầy,
cặp mắt con người chẳng bao giờ
thoả.
21 Lò thử vàng, nồi thử bạc,
tiếng khen cho thấy giá trị con người.
22 Giã đứa ngu trong cối như lấy
chày giã gạo,
con cũng chẳng lột được cái ngu
của nó.
23 Hãy biết rõ tình trạng bầy gia
súc
và lưu tâm đến đàn vật của con,
24 vì của cải không bền lâu muôn
thuở
và danh vọng chẳng lưu truyền
muôn kiếp.
25 Khi cỏ khô đã cắt và cỏ non lại
mọc,
khi cỏ xanh trên đồi núi cũng
được gom về
26 thì chiên sẽ cho con có áo che
thân,
dê sẽ giúp con có tiền tậu ruộng,
27 và sẽ có đủ sữa dê để nuôi bản
thân con,
nuôi cả nhà và các tỳ nữ.
Chương 28
1 Ác nhân trốn chạy dù không ai đuổi
bắt,
còn chính nhân đứng vững tựa sư
tử con.
2 Khi đất nước loạn lạc
thì lắm kẻ xưng hùng xưng bá,
còn đất nước được ổn định
là nhờ một người hiểu biết khôn
ngoan.
3 Ác nhân bóc lột người thiếu thốn,
khác nào cơn mưa lũ gây nên cảnh
đói ăn.
4 Kẻ bỏ lề luật thì ca ngợi ác
nhân,
người giữ lề luật thì chống lại
bọn chúng.
5 Phường gian ác đâu hiểu lẽ công
bình,
nhưng ai kiếm tìm Ðức Chúa thì am
tường mọi sự.
6 Thà nghèo mà ăn ở vẹn toàn
còn hơn giàu mà sống quanh co.
7 Người giữ lề luật là đứa con
khôn,
kẻ bè bạn với phường bê tha làm
cho cha tủi nhục.
8 Cho vay nặng lãi để được thêm
giàu có
là gom của vào tay kẻ biết thương
người nghèo.
9 Ai bưng tai chẳng muốn nghe lề
luật,
cả lời nó nguyện cầu cũng đáng
ghê tởm.
10 Kẻ quyến rũ người ngay thẳng theo
đường xấu
thì chính nó lại sa vào hố nó
đào,
nhưng người sống vẹn toàn sẽ thừa
hưởng hạnh phúc.
11 Kẻ giàu có cứ tưởng mình khôn,
nhưng người nghèo mà sáng suốt
thì biết rõ kẻ ấy.
12 Khi chính nhân thắng trận
thì vinh quang chiếu toả nơi nơi,
khi kẻ ác đứng lên, ai cũng phải
ẩn mình.
13 Kẻ giấu tội mình sẽ không thành
đạt,
nhưng ai xưng thú và chừa tội sẽ
được xót thương.
14 Phúc cho người luôn luôn biết sợ,
còn kẻ cứng lòng sẽ gặp phải tai
ương.
15 Như sư tử rống, như gấu xông vào
mồi,
kẻ bất lương thống trị đám dân
đen cũng vậy.
16 Kẻ cầm quyền ngu dốt lo chiếm
đoạt cho nhiều,
còn ai khinh chê lợi lộc bất
chính, sẽ được trường thọ.
17 Kẻ bị giày vò vì tội sát nhân sẽ
phải trốn chạy cho đến chết
chẳng cần bắt nó làm chi!
18 Người sống thanh liêm sẽ được cứu
thoát,
kẻ ăn ở quanh co sẽ sa vào hố
bẫy.
19 Người canh tác đất đai được no
đầy cơm bánh,
kẻ chạy theo chuyện phù phiếm sẽ
phải chịu bần cùng.
20 Người trung tín được đầy dư phúc
lành,
kẻ muốn mau giàu sẽ không thoát
khỏi hình phạt.
21 Thiên vị thì chẳng tốt đẹp gì,
người ta có thể phạm tội chỉ vì
một mẩu bánh.
22 Người xấu bụng chạy theo tiền
của,
đâu biết rằng cảnh nghèo sắp ập
đến bên mình.
23 Kẻ dám khiển trách người
cuối cùng lại được người quý yêu
hơn kẻ chỉ buông lời xu nịnh.
24 Kẻ bóc lột mẹ cha, rồi bảo:
"Ðâu có tội vạ gì!",
chính hắn là bạn của quân ăn
cướp.
25 Kẻ lắm tham vọng thì gây ra cãi
vã,
còn ai cậy vào Ðức Chúa sẽ được
thịnh đạt.
26 Kẻ cậy mình tài trí, ấy là kẻ ngu
si.
Người theo lẽ khôn ngoan, ắt sẽ
được cứu thoát.
27 Ai bố thí cho người nghèo
sẽ chẳng hề túng thiếu.
Còn ai cứ nhắm mắt làm ngơ
sẽ phải chịu bao lời nguyền rủa.
28 Kẻ ác đứng lên, người người đều
lẩn trốn.
Kẻ ác sụp đổ, chính nhân lại thêm
đông.
Chương 29
1 Người được sửa dạy mà cứng đầu
cứng cổ
sẽ suy sụp bất ngờ, vô phương cứu
chữa.
2 Chính nhân cầm quyền, dân mừng
rỡ.
Ác nhân cai trị, dân oán than.
3 Người mến chuộng sự khôn ngoan
làm cho cha vui thoả.
Kẻ giao du với bọn đàng điếm
khiến sản nghiệp tiêu tan.
4 Vua công minh khiến đất nước ổn
định.
Vua đòi thuế nặng làm đất nước
suy vong.
5 Nịnh hót ai
là giăng lưới dưới chân kẻ ấy.
6 Ác nhân phạm tội là rơi vào cạm
bẫy,
còn chính nhân được vui sướng hò
reo.
7 Người công chính quan tâm đến
quyền lợi kẻ nghèo,
điều đó, ác nhân sao hiểu nổi !
8 Quân chống đối làm cả thành sôi
sục,
người khôn ngoan khiến cơn giận
nguôi ngoai.
9 Tranh tụng với kẻ dốt,
người khôn có giận hay cười,
chẳng lúc nào yên.
10 Người lương thiện bị quân khát
máu căm thù,
nhưng lại được người chính trực
tìm kiếm.
11 Kẻ ngu để cơn giận tự do bộc
phát,
còn người khôn biết dằn xuống cho
êm.
12 Lãnh đạo mà để tâm nghe lời gian
trá
thì thuộc hạ sẽ thành một lũ xấu
xa.
13 Kẻ nghèo hèn và đứa bóc lột
giống nhau ở điểm này:
cả hai đều được Ðức Chúa cho nhìn
thấy ánh sáng.
14 Vua theo sự thật mà xét xử người
nghèo
thì ngai vàng sẽ bền vững thiên
thu.
15 Có chịu đòn chịu mắng mới nên
khôn,
trẻ con thả lỏng gây tủi buồn cho
mẹ.
16 Ác nhân cầm quyền thì tội ác gia
tăng,
nhưng chính nhân sẽ thấy chúng
suy tàn.
17 Hãy sửa phạt con, nó sẽ cho bạn
được thảnh thơi
và khiến lòng bạn vui sướng.
18 Khi không còn thị kiến, dân sẽ
sống buông thả,
nhưng ai còn giữ luật, quả là
người có phúc.
19 Ðừng sửa dạy tôi tớ bằng lời nói
suông,
nó hiểu cũng chẳng tuân chẳng
giữ.
20 Gặp phải người nói năng bộp chộp,
thà trông cậy đứa dốt còn hơn.
21 Nuông chiều tôi tớ khi nó còn nhỏ
dại
thế nào cũng biến nó thành tên
cứng đầu.
22 Người hay giận thường gây tranh
cãi,
kẻ nóng tính phạm bao lỗi lầm.
23 Tính tự cao hạ đứa tự cao xuống,
người tự hạ sẽ được tôn vinh.
24 Kẻ đồng loã với tên trộm cắp
là làm hại chính bản thân mình.
Nó nghe thấy lời nguyền rủa
mà vẫn không chịu tiết lộ chi.
25 Nỗi sợ sệt khiến con người sa
bẫy,
nhưng ai cậy trông Ðức Chúa thì
được an toàn.
26 Lắm kẻ đến cầu cạnh người quyền
thế,
nhưng Ðức Chúa mới đem lại công
lý cho mỗi người.
27 Chính nhân kinh tởm kẻ sống bất
công,
ác nhân kinh tởm người theo đường
chính trực.
Chương 30
VI. Lời Của Ông A-Gua
1 Lời của ông A-gua là con ông
Gia-ke, người Ma-xa. Ông A-gua tuyên sấm như sau với ông I-thi-ên, với ông
I-thi-ên và ông U-khan:
2 Quả tôi ngu dốt hơn mọi người,
không có chút thông minh của con
người.
3 Tôi đã không được học hỏi về sự
khôn ngoan,
không hiểu biết chi về Ðấng
Thánh.
4 Ai đã lên trời rồi lại xuống?
Ai đã gom gió vào lòng bàn tay?
Ai đã dồn nước vào áo choàng?
Ai đã ấn định biên cương cho cõi
đất?
Danh Ðấng ấy là chi? Và con Ðấng
ấy tên là gì?
Hẳn con đã biết.
5 Mọi lời Thiên Chúa phán đều được
chứng nghiệm.
Người là khiên thuẫn cho ai tìm
ẩn náu nơi Người.
6 Ðừng thêm thắt chi vào lời Người
phán dạy
kẻo bị Người quở trách, và con
thành kẻ nói dối nói gian.
7 Con chỉ xin hai điều,
Ngài đừng nỡ chối từ trước khi
con nhắm mắt :
8 Xin đẩy xa con lời dối trá và
chuyện lọc lừa.
Xin đừng để con túng nghèo,
cũng đừng cho con giàu có;
chỉ xin cho con cơm bánh cần
dùng,
9 kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước
từ Ngài mà nói:
"Ðức Chúa là ai vậy?"
hay nếu phải túng nghèo, con sinh
ra trộm cắp,
làm ô danh Thiên Chúa của con.
10 Chớ đặt điều nói xấu nô lệ với
chủ nó,
kẻo nó nguyền rủa con và con phải
chịu tội.
11 Có hạng người nguyền rủa cha
và không cầu phúc cho mẹ.
12 Có hạng người cứ cho mình là
trong sạch
dù chưa được gột rửa khỏi vết
nhơ.
13 Có hạng người giương cặp mắt kiêu
kỳ,
đưa cái nhìn ngạo mạn.
14 Có hạng người răng như kiếm, hàm
như dao,
ăn sống nuốt tươi kẻ nghèo hèn
khốn khổ,
gạt họ ra khỏi đất nước, khỏi
loài người.
VII. CHÂM NGÔN CÓ SỐ
15 Ðỉa có hai đứa con gái là :
"Cho nữa đi ! Cho nữa đi !"
Có ba điều không bao giờ thoả
mãn,
và bốn chuyện không bao giờ nói :
"Ðủ rồi !"
16 Ðó là : cõi âm ty, lòng dạ son
sẻ,
đất chẳng bao giờ no nước,
và lửa không bao giờ nói :
"Ðủ rồi !"
17 Kẻ nào giương mắt chế giễu cha,
và coi thường chuyện vâng lời mẹ,
sẽ bị quạ ở lũng sâu móc mắt, và
bị loài diều hâu rỉa thịt.
18 Có ba điều quá kỳ diệu đối với
tôi,
và bốn chuyện tôi không sao hiểu
nổi,
19 đó là đường diều hâu bay lượn
trên trời,
đường rắn bò trên đá,
đường thuyền bè đi lại giữa biển
khơi,
và đường của chàng thanh niên tìm
đến cô thiếu nữ.
20 Ðường của người phụ nữ ngoại tình
cũng vậy :
cô ả ăn xong, chùi miệng và nói :
"Em có làm điều gì xấu đâu !"
21 Có ba điều khiến đất chuyển rung,
và bốn chuyện nó không sao chịu
nổi :
22 Ðầy tớ lên ngôi vua,
kẻ ngu được dư thừa cơm bánh,
23 người đàn bà dễ ghét kiếm được
tấm chồng,
đứa nữ tỳ hưởng sản nghiệp bà
chủ.
24 Trên mặt đất có bốn loài bé nhỏ,
nhưng rất mực khôn ngoan :
25 Loài kiến là đám dân yếu ớt,
nhưng mới mùa hè đã biết chuẩn bị
thức ăn.
26 Loài ngân thử là đám dân nhược
tiểu,
nhưng lại biết làm nhà nơi hốc
đá.
27 Châu chấu nào có vua đâu,
thế mà vẫn di chuyển theo hàng
ngũ.
28 Thằn lằn, ta bắt được bằng tay,
nhưng nó sống cả nơi đền đài vua
chúa.
29 Ba loài có bước đi lẫm liệt,
và bốn loài có dáng dấp oai phong
:
30 Sư tử, dũng mãnh hơn mọi loài thú
và không chịu lùi bước trước bất
cứ loài nào,
31 gà trống nghênh ngang hay dê đực,
và ông vua điều khiển quân binh.
32 Nếu con đã dại dột tự đề cao,
khi nghĩ lại, con hãy đặt tay lên
miệng.
33 Vì đánh sữa sẽ được bơ, bóp mũi
sẽ bật máu,
và chọc giận sẽ sinh chuyện đôi
co.
Chương 31
VIII. Lời Của Lơ-Mu-Ên
1 Lời của Lơ-mu-ên, vua Ma-xa,
những lời thái hậu đã dạy người.
2 Hỡi con trai ta, đứa con lòng dạ
ta đã cưu mang,
đứa con ta đã cầu khẩn được.
3 Ðừng hiến sinh lực của con cho
phụ nữ,
đừng trao cuộc đời cho những ả
làm hư hỏng các vua.
4 Hỡi Lơ-mu-ên,
đã làm vua thì đừng nên uống
rượu,
làm người lãnh đạo thì đừng thích
chất men,
5 kẻo uống vào rồi thì quên cả luật
pháp,
và coi thường quyền lợi của mọi
kẻ khốn cùng.
6 Hãy đem chất men cho kẻ đang hấp
hối,
và đem rượu cho người chịu đắng
cay,
7 để họ uống mà quên đi cảnh nghèo,
khỏi nhớ đến nỗi khổ đau phiền
muộn nữa.
8 Con hãy mở miệng nói thay cho
người câm,
và biện hộ cho mọi người bất
hạnh.
9 Hãy mở miệng xét xử thật công
minh,
biện hộ cho những kẻ nghèo nàn
khốn khổ.
IX. Người Vợ Ðảm Ðang
10 Tìm đâu ra một người vợ đảm đang?
Nàng quý giá vượt xa châu ngọc.
11 Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng,
chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc.
12 Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc
chứ không gây tai hoạ cho chồng.
13 Nàng tìm kiếm len và vải gai,
rồi vui vẻ ra tay làm việc.
14 Giống như những thương thuyền,
nàng đem lương thực về từ tận
phương xa.
15 Nàng thức dậy khi trời còn tối,
cung cấp phần ăn cho cả nhà, và
sai bảo con ăn đứa ở.
16 Nàng để mắt đến một thửa ruộng và
tậu lấy;
nàng dùng huê lợi đôi tay mình
làm ra
mà canh tác một vườn nho.
17 Nàng thắt lưng cho chặt,
luyện cánh tay cho mạnh mẽ dẻo
dai.
18 Nàng thấy công việc sinh nhiều
lợi nhuận,
đèn trong nhà thắp sáng thâu đêm.
19 Nàng tra tay vào guồng kéo sợi,
và cầm chắc suốt chỉ trong tay.
20 Nàng rộng tay giúp người nghèo
khổ
và đưa tay cứu kẻ khốn cùng.
21 Nàng không sợ người nhà bị lạnh
vì tuyết sương,
bởi cả nhà đều được mặc hai áo.
22 Nàng tự tay làm lấy chăn mền,
nàng mặc toàn vải gai, vải tía.
23 Chồng nàng được tiếng thơm nơi
cổng thành
khi ngồi chung với hàng kỳ mục
trong dân.
24 Nàng dệt vải đem bán,
cung cấp dây lưng cho nhà buôn.
25 Trang phục của nàng là quyền uy
danh giá,
nàng mỉm cười khi nghĩ đến tương
lai.
26 Nàng khôn ngoan trong lời ăn
tiếng nói
và dịu hiền khi dạy dỗ bảo ban.
27 Nàng để mắt trông nom mọi việc
trong nhà,
bánh nàng ăn là do mồ hôi nước
mắt nàng làm ra,
28 con nàng đứng lên ca tụng nàng có
phúc,
chồng nàng cũng tấm tắc ngợi
khen:
29 "Có nhiều cô đảm đang,
nhưng em còn trổi trang gấp
bội."
30 Duyên dáng là giả trá, sắc đẹp là
phù vân.
Người phụ nữ kính sợ Ðức Chúa
mới đáng cho người đời ca tụng.
31 Hãy để cho nàng hưởng những thành
quả tay nàng làm ra.
Ước chi nơi cổng thành nàng luôn
được tán dương ca tụng
do những việc nàng làm.
Giảng Viên
Chương 01
1 Ðây là lời ông Cô-he-lét, làm vua
ngự tại Giê-ru-sa-lem. Ông là con vua Ða-vít.
Phần Thứ Nhất
Lời tựa
2 Ông Cô-he-lét nói: "Phù vân,
quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. 3 Lợi
lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả dưới ánh nắng mặt
trời? 4 Thế hệ này đi, thế hệ kia đến, nhưng trái đất mãi mãi trường tồn. 5
Mặt trời mọc rồi lặn ; mặt trời vội vã ngả xuống nơi nó đã mọc lên. 6
Gió thổi xuống phía nam, rồi xoay về phía bắc : gió xoay lui xoay tới rồi
gió đi; gió trở qua trở lại lòng vòng. 7 Mọi khúc sông đều xuôi ra
biển, nhưng biển cũng chẳng đầy. Sông chảy tới đâu thì từ đó sông lại tiếp tục.
8 Chuyện gì cũng nhàm chán, chẳng thể nói gì hơn. Mắt có nhìn bao
nhiêu cũng chẳng thấy gì lạ, tai có nghe đến mấy cũng chẳng thấy gì mới.
9 Ðiều đã có, rồi ra sẽ có, chuyện
đã làm, rồi lại sẽ làm ra:
dưới ánh mặt trời, nào có chi mới
lạ?
10 Nếu có điều gì đáng cho người ta
nói: "Coi đây, cái mới đây này!", thì điều ấy đã có trước chúng ta từ
bao thế hệ rồi. 11 Chẳng ai còn nhớ đến người xưa, và đối với những
người đến sau thì cũng thế ; các thế hệ mai sau sẽ chẳng còn nhớ đến họ.
Ðời sống của vua Sa-lô-môn
12 Tôi là Cô-he-lét, tôi đã làm vua
cai trị Ít-ra-en ở Giê-ru-sa-lem. 13 Tôi đã chú tâm tìm hiểu và dùng
trí khôn ngoan mà khảo sát tất cả những gì xảy ra dưới bầu trời: đó là công
việc nhọc nhằn Thiên Chúa bắt con cái loài người phải để tâm thực hiện. 14
Sau khi nhìn thấy mọi công việc thực hiện dưới ánh mặt trời, tôi nhận ra
: tất cả chỉ là phù vân, chỉ là công dã tràng xe cát. 15 Cái gì đã
cong, uốn làm sao nổi, cái gì đã thiếu, đếm thế nào ra?
16 Tôi tự nhủ: Này tôi đã gom góp,
đã thu thập được nhiều điều khôn ngoan hơn tất cả những vị đã cai trị
Giê-ru-sa-lem trước tôi. Trí tôi đã học hỏi được nhiều điều khôn ngoan, tích
luỹ được bao nhiêu kiến thức; 17 tôi đã chú tâm phân biệt đâu là
khôn ngoan, tri thức, đâu là điên rồ, khờ dại. Ngay cả việc này nữa, tôi nhận
thấy đó cũng chỉ là công dã tràng.
18 Càng nhiều khôn ngoan, càng nhiều
phiền muộn,
càng thêm hiểu biết, càng thêm
khổ đau.
Chương 02
1 Tôi tự nhủ: "Cứ đến đây, ta
sẽ cho ngươi thử hưởng thú vui và nếm mùi hạnh phúc." Thế nhưng cả cái đó
cũng chỉ là phù vân. 2 Tôi nói: "Cười là điên rồ. Vui là vô
tích sự.” 3 Tôi rắp tâm thử để cho thân xác bê tha rượu chè, nhưng
vẫn điều khiển tâm hồn theo lẽ khôn ngoan; tôi còn lao mình vào cuộc sống điên
dại, cho đến khi thấy được điều con cái loài người nên làm dưới bầu trời, trong
những ngày sống ở trần gian. 4 Tôi đã thực hiện những công trình
lớn. Tôi đã xây nhà xây cửa cho mình, lại còn trồng vườn nho. 5 Tôi
đã làm cả hoa viên lẫn công viên, trong đó tôi trồng mọi thứ cây ăn trái. 6
Rồi tôi xây bể lấy nước tưới cả rừng cây, 7 mua tôi trai tớ
gái, mua cả đám gia nhân. Tôi có cả một đàn súc vật: bò bê, chiên cừu, nhiều
hơn hết mọi người đã sống trước tôi ở Giê-ru-sa-lem. 8 Tôi cũng đã
trích trữ bạc, vàng và vật quý do vua chúa để lại và từ các tỉnh đem về. Tôi
đem đào kép về ca hát, mời mỹ nữ cung phi đến, hưởng mọi thú vui của con cái
loài người. 9 Tôi đã trổi vượt và giàu có hơn hết mọi người đã sống
trước tôi ở Giê-ru-sa-lem. Tuy vậy, tôi vẫn giữ được sự khôn ngoan. 10 Tất
cả mọi điều mắt tôi đòi hỏi, tôi chẳng khước từ. Những niềm vui lòng tôi mơ
ước, tôi không hề ngăn cản. Trong mọi gian lao tôi phải chịu, lòng tôi đã tìm
được niềm vui, và đó chính là phần tôi được hưởng.
11 Bấy giờ nhìn vào hết mọi việc do
chính tôi làm, và bao gian lao vất vả tôi phải chịu, tôi nhận thấy: tất cả chỉ
là phù vân, chỉ là công dã tràng xe cát; dưới bầu trời, có lợi lộc gì đâu! 12
Rồi tôi đưa mắt nhìn và để tâm suy về cái khôn, cái điên và cái dại. Người nối
ngôi vua sẽ làm gì? Ðiều mà thiên hạ đã làm trước. 13 Tôi đã thấy
cái khôn lợi hơn cái dại, ánh sáng lợi hơn bóng tối.
14 Người khôn biết mở mắt nhìn,
kẻ dại bước đi trong tăm tối.
Còn tôi, tôi biết : cả hai sẽ
cùng chung một số phận.
15 Và tôi tự nhủ: "Số phận của
kẻ dại làm sao, thì số phận của tôi cũng như thế. Vậy tôi khôn cho lắm để làm
gì?" Tôi lại tự nhủ : đó cũng chỉ là phù vân. 16 Ðời đời nhớ
người dại, mãi mãi nhớ người khôn : làm gì có chuyện đó! Tại vì có việc gì xảy
ra, việc đó cũng rơi vào quên lãng ngay trong những ngày kế tiếp. Tất cả đều
chết, người khôn cũng như kẻ dại.
17 Tôi đâm ra chán ghét cuộc đời, vì
đối với tôi, dưới ánh mặt trời, mọi việc làm ra đều xấu cả: quả thế, tất cả chỉ
là phù vân, chỉ là công dã tràng xe cát.
18 Tôi đã chán ghét mọi gian lao vất
vả tôi phải chịu dưới ánh mặt trời, những gì tôi để lại cho người đến sau tôi. 19
Nào ai biết được người ấy khôn hay dại? Nhưng người ấy lại là kẻ có thẩm
quyền trên những gì tôi đã phải vất vả và khôn khéo mới làm ra dưới ánh mặt
trời. Chuyện đó cũng chỉ là phù vân! 20 Bấy giờ tôi đâm ra thất vọng về bao
gian lao vất vả tôi đã phải chịu dưới ánh mặt trời.
21 Quả thế, có người đã đem hết khôn
ngoan và hiểu biết mà làm việc vất vả mới thành công, rồi lại phải trao sự
nghiệp của mình cho một người đã không vất vả gì hết. Ðiều ấy cũng chỉ là phù
vân và lại là đại hoạ. 22 Chuyện gì xảy ra cho con người sau bao mối
bận tâm và bao gian lao vất vả nó phải chịu dưới ánh mặt trời?
23 Phải, đối với con người ấy, trọn
cuộc đời chỉ là đau khổ, bao công khó chỉ đem lại ưu phiền! Ngay cả ban đêm, nó
cũng không được yên lòng yên trí. Ðiều ấy cũng chỉ là phù vân!
24 Ðối với con người, không có gì
tốt hơn là ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra!
Nhưng chính tôi đã thấy là điều đó cũng do Thiên Chúa mà đến, 25 vì
có ai ăn uống, có ai cảm thấy vui mừng phấn khởi mà không nhờ Thiên Chúa ban
cho? 26 Ai đẹp lòng Thiên Chúa, thì Người ban cho trí khôn ngoan, sự hiểu biết
và niềm vui; ai có tội, thì Người bắt phải vất vả gom góp và tích trữ, để trao
lại cho kẻ đẹp lòng Người. Ðiều ấy cũng chỉ là phù vân, chỉ là công dã tràng xe
cát.
Chương 03
Cái chết
1 Ở dưới bầu trời này,
mọi sự đều có lúc, mọi việc đều
có thời:
2 một thời để chào đời, một thời để
lìa thế;
một thời để trồng cây, một thời
để nhổ cây;
3 một thời để giết chết, một thời
để chữa lành;
một thời để phá đổ, một thời để
xây dựng;
4 một thời để khóc lóc, một thời để
vui cười;
một thời để than van, một thời để
múa nhảy;
5 một thời để quăng đá, một thời để
lượm đá;
một thời để ôm hôn, một thời để
tránh hôn;
6 một thời để kiếm tìm, một thời để
đánh mất;
một thời để giữ lại, một thời để
vất đi;
7 một thời để xé rách, một thời để
vá khâu;
một thời để làm thinh, một thời
để lên tiếng;
8 một thời để yêu thương, một thời
để thù ghét;
một thời để gây chiến, một thời
để làm hoà.
9 Làm lụng vất vả thì được lợi lộc
gì? 10 Tôi nhìn thấy công việc mà Thiên Chúa giao cho con người phải gắng sức
làm. 11 Thiên Chúa đã làm mọi sự hợp thời đúng lúc. Thiên Chúa cũng
ban cho con người biết nhận thức về vũ trụ, tuy thế, con người cũng không thể
nào hiểu hết được ý nghĩa công trình Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử.
12 Tôi nhận ra rằng đối với con
người, không có hạnh phúc nào hơn là hưởng thú vui và sống thoải mái. 13 Ngay
cả chuyện ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra,
thì đó đã là một món quà Thiên Chúa ban tặng rồi.
14 Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên
Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi.
Không có gì để thêm, chẳng có gì
để bớt.
Thiên Chúa đã hành động như thế
để phàm nhân biết kính sợ Người.
15 Ðiều gì đang có, xưa kia đã có,
điều gì sẽ có, xưa đã có rồi.
Thiên Chúa kiếm tìm điều không
còn nữa.
16 Tôi lại còn thấy dưới ánh mặt
trời:
có sự gian ác tại chốn pháp đình,
có sự gian ác tại nơi xét xử.
17 Và tôi tự nhủ: người công chính
cũng như kẻ gian ác đều sẽ bị Thiên Chúa xét xử. Vì mọi sự, mọi việc, đều có
thời, có lúc.
18 Về con cái loài người, tôi tự
nhủ: Thiên Chúa muốn thử thách họ và cho họ thấy chính họ chỉ là thú vật mà
thôi. 19 Quả thế, con người và thú vật đều cùng chung một số phận:
bên này chết, bên kia cũng chết; đôi bên đều có sinh khí như nhau. Con người
chẳng có gì hơn thú vật, bởi vì mọi sự chỉ là phù vân.
20 Mọi sự đều đi về một nơi,
mọi sự đều đến từ bụi đất,
mọi sự đều trở về bụi đất.
21 Ai biết được là sinh khí của con
người thì đi lên cao, còn sinh khí của thú vật thì đi xuống đất?
22 Từ đó, tôi nhận thấy: đối với con
người, không có gì tốt hơn là hưởng những thú vui do công việc chính mình làm
ra, vì đó là phần nó đáng được. Vậy ai sẽ chỉ cho nó biết cái gì sẽ xảy ra sau
khi nó chết?
Chương 04
Ðời sống tập thể
1 Tôi lại nhìn thấy mọi chuyện áp
bức diễn ra dưới ánh mặt trời: kìa những người bị áp bức đang khóc than mà
không người an ủi.
Họ không được một lời an ủi khi
những người áp bức họ ra tay hành hạ.
2 Ðối với tôi những người đã chết,
những người xưa đã chết có phúc hơn những người còn sống, những người còn đang
sống.
3 Nhưng còn có phúc hơn cả hai hạng
người ấy, đó là kẻ hiện chưa chào đời, kẻ không nhìn thấy việc xấu xa dưới ánh
mặt trời.
4 Tôi nhận thấy rằng trong công
việc, con người chấp nhận mọi gian khổ và vận dụng hết tài năng chỉ vì muốn
ganh đua với nhau. Nhưng việc đó cũng chỉ là phù vân, là công dã tràng xe cát!
5 Kẻ ngu si thì tay quai miệng trễ.
6 Làm một tay mà được nhàn hạ
hơn vất vả làm cả hai tay công
việc của dã tràng xe cát.
7 Tôi lại thấy một sự phù vân khác
nữa dưới ánh mặt trời: 8 có kẻ sống đơn chiếc, không ai ở với mình,
không con cái, không anh em, thế mà cứ không ngừng chịu đựng mọi gian lao; mắt
nhìn của cải, lòng không ngớt thèm muốn: "Vì ai mà tôi phải làm việc cực
khổ và sống không thoải mái?"
Ðiều ấy cũng chỉ là phù vân, chỉ
là công việc nhọc nhằn vô bổ.
9 Hai người thì hơn một, vì hai
người làm việc cực khổ sẽ thu nhập khá hơn. 10 Người này ngã đã có
người kia nâng dậy. Nhưng khi chỉ có một mình mà bị ngã thì thật là khốn, vì
chẳng có ai nâng dậy cả!” 11 Cũng vậy, hai người nằm chung thì ấm ;
một mình làm sao mà ấm được ?"
12 Một mình dễ bị tấn công, có hai
người, ắt sẽ đương đầu nổi; dây chập ba đâu dễ gì đứt?
13 Người trẻ nghèo mà khôn thì hơn
ông vua già mà dại
vì không còn biết đón nhận lời
khuyên;
14 mặc dầu chàng trai đó có ra khỏi
nhà tù để cai trị,
hoặc đã sinh ra bần cùng trong
vương quốc.
15 Tôi đã thấy hết thảy những ai
bước đi dưới ánh mặt trời đều theo nhân vật thứ hai là chàng trai ấy, người sẽ
đứng lên thay thế vua kia. 16 Ðoàn dân gồm tất cả những người được
chàng trai cai trị, con số họ đông không kể xiết.
Tuy vậy, các thế hệ tiếp theo sẽ
chẳng thấy phấn khởi gì vì người đó. Ðiều ấy cũng chỉ là phù vân, chỉ là công
dã tràng xe cát.
17 Hãy cẩn thận khi bạn đưa chân
tiến về nhà Thiên Chúa. Ðến mà nghe hơn là dâng hy lễ theo kiểu của đứa ngu chỉ
biết làm điều xấu.
Chương 05
1 Ðừng mở miệng hấp tấp, và trước
nhan Thiên Chúa, đừng vội thốt ra những lời lòng bạn ấp ủ, vì Thiên Chúa ngự
trên trời, còn bạn ở dưới đất. Vậy hãy ít lời. 2 Quả thật, lao nhọc
quá ắt phải chiêm bao, nói năng nhiều hẳn sinh khờ dại.
3 Ðã khấn hứa với Thiên Chúa, đừng
lần lữa thi hành; vì Người chẳng thích gì kẻ ngu dại. Ðiều gì đã khấn hứa thì
hãy thi hành. 4 Không khấn hứa thì tốt hơn khấn hứa mà chẳng giữ. 5
Chớ để cho miệng lưỡi bạn làm bạn mắc tội, đừng nói trước mặt vị sứ giả:
"Ðó là tội phạm vì nhẹ dạ thôi!" Tại sao Thiên Chúa lại phẫn nộ vì
lời bạn nói mà phá huỷ công việc do tay bạn làm ra?
6 Quả thật, mơ mộng lắm thì nói
nhiều, và nói toàn chuyện phù phiếm. Vậy, hãy kính sợ Thiên Chúa.
7 Nếu trong một miền nào, bạn thấy
người nghèo bị áp bức, luật pháp và công lý bị chà đạp, thì chớ ngạc nhiên, bởi
vì một người làm lớn còn có người lớn hơn canh chừng, và cả hai lại có người
lớn hơn nữa. 8 Hoa màu do đất đai đem lại là của hết mọi người, ngay
cả ông vua cũng sống nhờ đồng ruộng.
Tiền bạc
9 Người thích tiền bạc có bao nhiêu
cũng không lấy làm đủ;
kẻ bo bo giữ của chẳng thu được
lợi lộc gì.
Ðiều ấy cũng chỉ là phù vân!
10 Của càng nhiều, người ăn càng
lắm. Người có của được lợi lộc gì, ngoài thú vui được nhìn thấy của cải? 11 Làm
việc vất vả thì ngủ ngon: ăn ít hay nhiều thì cũng vậy ; lắm bạc nhiều tiền đâu
được ngủ yên!
12 Dưới ánh mặt trời, tôi đã thấy
một sự dữ làm tôi đau đớn, đó là người giữ của lại chuốc hoạ vào thân. 13 Của
cải mất sạch khi thất bại trong công việc làm ăn, đến lúc sinh con, chỉ còn tay
trắng. 14 Lọt lòng mẹ, trần truồng làm sao, thì cũng sẽ ra đi như
vậy. Chịu đựng bao gian lao vất vả, để rồi chẳng mang theo được gì. 15 Ðó
cũng là một sự dữ làm tôi đau đớn. Ðến làm sao, ra đi làm vậy. Thật là:
"Dã tràng xe cát biển đông,
nhọc nhằn mà chẳng nên công cán
gì."
16 Ðời người trôi qua trong tối tăm
tang tóc, trong buồn phiền sầu não, trong khổ đau, trong chán chường.
17 Chính tôi đã thấy rằng : điều tốt
lành và thích hợp cho con người là ăn uống và hưởng những thành quả do công lao
khó nhọc mình làm ra dưới ánh mặt trời trong suốt cuộc sống Thiên Chúa ban cho
mình. Quả thế, đó là phần con người được hưởng. 18 Hơn nữa, bất cứ
ai được Thiên Chúa ban của cải, tài sản cũng như quyền sử dụng, mà lãnh nhận
tất cả làm của riêng mình, và vui hưởng những thành quả do công lao khó nhọc
mình làm ra, thì người đó đã nhận một món quà Thiên Chúa ban tặng rồi.
19 Bấy giờ người đó không còn quá
bận tâm về cuộc sống ngắn ngủi của mình nữa, vì Thiên Chúa đã làm cho tâm hồn
người đó được tràn ngập niềm vui.
Chương 06
1 Dưới ánh mặt trời, tôi đã nhìn
thấy một sự dữ, đó là một sự dữ lớn đối với con người. 2 Có kẻ được
Thiên Chúa ban của cải, tài sản và vinh dự. Người ấy muốn gì được nấy, chẳng
thiếu thốn chi. Nhưng Thiên Chúa không cho người ấy hưởng những thứ đó, mà lại
cho một người khác hưởng. Ðó cũng là một chuyện phù vân, một sự dữ làm tôi đau
đớn. 3 Giả như có người con đàn cháu đống, sống lâu trăm tuổi, nhưng
người ấy lại sống không mảy may hạnh phúc, chết chẳng có mồ chôn, thì tôi buộc
phải nói: người ấy kém may mắn hơn cả thai nhi chết yểu.
4 Quả thật, thai nhi chết yểu đến
không kèn, đi không trống, tên tuổi bị chôn vùi trong tối tăm.
5 Ngay ánh mặt trời, nó không hề
thấy, cũng chẳng hề biết. Nhưng chính nó mới là người được an nghỉ, chứ đâu
phải người kia.
6 Giả như người ấy có sống được hai
ngàn năm đi nữa, mà vẫn không cảm thấy hạnh phúc, thì sống để làm gì? Chẳng
phải hết mọi người đều cùng đi về một chỗ đó sao?
7 Mọi nỗi khó nhọc của con người
đều nhằm nuôi cái miệng. Nhưng sự thèm muốn của họ có bao giờ được hoàn toàn
thoả mãn đâu!
8 Người khôn được lợi gì hơn kẻ
dại?
Người nghèo mà biết xử thế, có
được lợi gì không?
9 Bắt được mồi hơn chạy theo bóng.
Nhưng đó cũng chỉ là phù vân, chỉ là công dã tràng xe cát.
10 Cái gì đang hiện hữu thì từ lâu
đã được gọi đích danh. Con người là gì thì đã quá rõ;
và họ không thể tranh cãi với ai
đó mạnh thế hơn mình.
11 Quả thật, càng lắm lời, càng
nhiều chuyện hão. Hỏi con người có được lợi chi?
12 Và nào ai biết được điều gì tốt
nhất cho con người trong cuộc sống, trong chuỗi ngày của kiếp phù du, trong
cuộc đời qua mau như chiếc bóng? Nào có ai cho con người biết điều gì sẽ xảy ra
dưới ánh mặt trời sau khi mình nhắm mắt xuôi tay?
Chương 07
Phần Thứ Hai
Lời tựa
1 Tiếng tốt danh thơm thì hơn dầu
quý,
và ngày chết hơn ngày sinh.
2 Ði đám tang thì tốt hơn đi đám
tiệc,
vì đó là điểm kết thúc của mọi
người,
người còn sống phải để tâm suy
nghĩ.
3 Phiền muộn thì tốt hơn vui cười,
vì bộ mặt rầu rĩ giúp lòng người
được cải thiện.
4 Dạ người khôn ở nơi tang tóc,
lòng kẻ dại ở chốn vui chơi.
5 Nghe người khôn trách móc thì tốt
hơn nghe kẻ dại ca khen;
6 vì tiếng cười của kẻ dại
khác nào cành gai nó lách tách
dưới nồi,
điều ấy cũng chỉ là phù vân.
7 Bị áp bức, người khôn hoá dại,
của biếu xén làm hư hỏng lòng
người.
8 Làm xong một việc thì tốt hơn mới
bắt đầu,
nhẫn nại thì tốt hơn huênh hoang
tự đắc.
9 Chớ vội để cho lòng mình nổi
giận, vì chỉ người ngu mới nuôi giận trong lòng.
10 Ðừng nói: "Làm sao thời xưa
lại hơn thời nay được?",
bởi vì hỏi như thế đâu phải là
khôn.
11 Sự khôn ngoan đáng quý như một
gia nghiệp,
và hữu ích cho những ai thấy ánh
mặt trời.
12 Quả thật, núp bóng khôn ngoan khác
nào núp bóng tiền bạc:
nhưng khôn ngoan hiểu biết thì có
lợi hơn,
vì sự khôn ngoan làm cho người
khôn được sống.
13 Hãy ngắm xem việc Thiên Chúa làm:
Người đã bẻ cong, nào ai uốn
thẳng được?
14 Ngày gặp may mắn, hãy cứ vui
hưởng.
Ngày bị rủi ro, hãy gẫm mà xem:
Ngày nào cũng do Thiên Chúa làm
nên,
vì thế con người không thể khám
phá
những gì sẽ xảy ra sau khi mình
nhắm mắt xuôi tay.
Xét lại quan điểm truyền thống về
sự thưởng phạt
15 Trong cuộc đời phù du của tôi,
tôi đã thấy hết cả:
có người công chính bị tiêu vong
dầu đã sống công chính,
có kẻ gian ác lại được sống lâu
dầu đã làm điều ác.
16 Ðừng sống quá công chính, cũng
chớ quá khôn ngoan.
Tại sao bạn lại huỷ diệt chính
mình?
17 Ðừng quá ác độc, cũng chớ dại
khờ!
Tại sao bạn lại phải chết trước
thời hạn?
18 Tốt hơn, hãy cứ nắm điều này và
đừng buông điều kia,
bởi vì người kính sợ Thiên Chúa
sẽ làm được cả hai.
19 Sự khôn ngoan làm cho người khôn
mạnh hơn cả mười thủ lãnh trong thành.
20 Trên mặt đất, chẳng có người công
chính nào làm điều thiện và không bao giờ phạm tội.
21 Ðừng quan tâm đến tất cả mọi điều
thiên hạ nói, kẻo phải nghe tôi tớ nguyền rủa bạn,
22 vì lòng bạn biết rõ: đã bao phen
chính bạn cũng nguyền rủa người khác.
23 Tôi đã lấy khôn ngoan của tôi mà
thử nghiệm tất cả những điều ấy. Tôi đã nói: "Tôi muốn nên khôn
ngoan!", nhưng chuyện đó đối với tôi thật xa vời.
24 Những gì đang hiện hữu thì xa vời
và sâu thăm thẳm, ai nào hiểu thấu!
25 Tôi chăm chú hết lòng, cố nhận
thức, khảo sát, kiếm tìm lẽ khôn ngoan cũng như cách thẩm định chính xác, và
tôi nhận biết rằng gian ác là ngu dại, là ngốc nghếch, là điên rồ.
26 Tôi thấy rằng đàn bà còn cay đắng
hơn cả cái chết
khi nó trở thành cạm bẫy, khi
lòng dạ nó là lưới dò,
và cánh tay nó là dây trói.
Người đẹp lòng Thiên Chúa mới
hòng thoát khỏi tay nó, còn kẻ tội lỗi ắt bị nó tóm bắt.
27 Ông Cô-he-lét nói:
Nhờ xem xét từng chuyện một để
tìm ra lý lẽ,
tôi đã thấy được điều trên đây.
28 Ðàn ông cho xứng đàn ông, ngàn
người còn gặp một,
đàn bà cho ra đàn bà, muôn người
chẳng thấy có ai:
đó là điều tôi vẫn tìm mà không
thấy.
29 Còn đây là điều duy nhất tôi đã
tìm thấy:
con người do Thiên Chúa làm nên,
vốn đơn sơ ngay thẳng,
nhưng chính họ lại đi tìm đủ
chuyện rắc rối quanh co.
Chương 08
1 Có ai được như người khôn ngoan,
có ai biết giải nghĩa sự đời?
Sự khôn ngoan làm cho gương mặt
con người ngời sáng,
và nét cứng cỏi nên dịu dàng.
2 Phần tôi, tôi nói : Lệnh đức vua
truyền, hãy lo tuân giữ
vì lời thề của Thiên Chúa.
3 Chớ vội vàng rời khỏi long nhan,
đừng dây mình vào chuyện vua cho
là xấu,
vì vua sẽ hành động theo sở thích
của mình.
4 Quả vậy, lời của vua là lời tuyệt
đối;
ai dám hỏi vua: "Ngài làm gì
vậy?"?
5 Kẻ tuân hành mệnh lệnh sẽ không
gặp phải việc chẳng lành,
và lòng người khôn ngoan biết
được thời được buổi,
biết được Thiên Chúa sẽ xét xử.
6 Vì bất cứ chuyện gì, cũng đều có
thời có buổi,
và đều bị Thiên Chúa xét xử.
Nhưng có một nỗi khổ đè nặng trên
con người
7 là không sao biết được điều gì sẽ
xảy ra,
và điều sẽ xảy ra, nào có ai báo
trước?
8 Chẳng ai làm chủ được sinh khí
của mình để mà cầm giữ lại;
và chẳng ai làm chủ được ngày
chết!
Chẳng ai được miễn cuộc chiến đấu
này,
và tội ác không cứu nổi ác nhân.
9 Tất cả những điều trên đây, tôi
đã thấy nhờ để tâm theo dõi mọi việc xảy ra dưới ánh mặt trời, vào lúc con
người thống trị con người, và gây cho nhau bao thảm hoạ.
10 Thế rồi tôi đã thấy ác nhân được
mồ yên mả đẹp, và từ nơi thánh đi ra, chẳng ai trong thành còn nhớ chúng đã
hành động như thế nào nữa: đó cũng là một chuyện phù vân.
11 Vì án phạt đối với hành động của
kẻ xấu không được nhanh chóng thi hành, nên lòng dạ con cái loài người đầy dẫy
những toan tính xấu xa. 12 Có người tội lỗi làm cả trăm điều ác mà
vẫn được sống lâu. Tuy nhiên, tôi biết rằng phàm ai kính sợ Thiên Chúa thì được
hạnh phúc, chính vì họ biết sợ trước Thánh Nhan. 13 Còn người gian
ác, hạnh phúc làm sao được, ngày đời của nó trôi qua như chiếc bóng, chẳng có
thể dài lâu, vì nó đâu có kính sợ trước nhan Thiên Chúa!
14 Còn một chuyện phù vân trên mặt
đất này nữa, là người công chính thì gặp phải những chuyện như thể họ đã làm điều
gian ác, trong khi người gian ác lại gặp được những chuyện như thể họ đã làm
điều ngay chính. Và tôi nói: đó cũng là một chuyện phù vân.
15 Tôi bèn ca ngợi sự vui vẻ sung
sướng: dưới ánh mặt trời, chẳng có gì tốt cho con người hơn là ăn, là uống và
vui vẻ thoải mái. Ðó là những thú vui gắn liền với công lao khó nhọc trong
chuỗi ngày Thiên Chúa ban cho con người được sống dưới ánh mặt trời.
Số phận
16 Sau khi đã chú tâm tìm hiểu lẽ
khôn ngoan, và quan sát công việc mà con người thực hiện cả ngày lẫn đêm không
chợp mắt ở trên mặt đấy này, 17 tôi nhận ra tất cả là việc Thiên
Chúa làm. Quả thật, con người không thể khám phá những gì được thực hiện dưới
ánh mặt trời: cho dù có ra công tìm kiếm cũng không khám phá nổi; cho dù người
khôn ngoan có nói là đã biết được, thì người ấy cũng không thể khám phá ra.
Chương 09
1 Thật vậy, tất cả những điều ấy,
tôi đã để ý lưu tâm, và nghiệm thấy rằng người công chính, người khôn ngoan
cùng với những công việc họ làm đều ở trong tay Thiên Chúa. Ðược yêu thương hay
bị ghét bỏ, con người đâu có biết ! Mọi sự đều có thể xảy ra.
2 Mọi người đều như nhau, cùng
chung một số phận:
người công chính cũng như đứa
gian tà,
người tốt cũng như kẻ xấu,
người thanh sạch cũng như kẻ ô
uế,
người dâng của lễ cũng như kẻ
không dâng,
người tốt lành cũng như kẻ tội
lỗi,
người thề hứa cũng như kẻ sợ
không dám thề hứa.
3 Tai hoạ thảm hại nhất trong tất
cả những gì xảy ra dưới ánh mặt trời là hết mọi người đều chịu chung một số
phận như nhau. Cũng vì thế mà lòng dạ con cái loài người đầy những điều gian
ác, tâm địa luôn ấp ủ chuyện điên rồ bao lâu còn sống trên trần gian, để rốt
cuộc rơi vào cõi chết.
4 Thế nhưng chỉ những ai còn sống
trong cõi dương gian mới có hy vọng mà thôi, vì con chó sống thì hơn con sư tử
chết.
5 Người sống ít ra cũng biết mình
sẽ chết, còn người chết chẳng biết gì cả; họ đâu còn được hưởng điều gì, vì đã
bị rơi vào quên lãng.6 Bao yêu thương, oán hờn, ganh tị của họ đã tiêu tan cả
rồi, và muôn đời họ sẽ không được dự phần vào bất cứ chuyện gì xảy ra dưới ánh
mặt trời nữa.
7 Vậy cứ ăn cho vui vẻ, uống cho
thoả thích,
vì Thiên Chúa đã vui nhận những
việc bạn làm.
8 Lúc nào cũng hãy ăn mặc cho sang,
mái tóc luôn xức dầu thơm phức.
9 Cùng với người vợ yêu thương,
bạn hãy hưởng trọn cuộc đời,
hết mọi ngày trong kiếp sống phù
du
đã được ban cho bạn dưới ánh mặt
trời,
vì đó là phần bạn đáng được hưởng
trong cuộc đời,
giữa bao nhiêu công việc khó nhọc
bạn làm
dưới ánh mặt trời, trong những
ngày của kiếp sống phù du.
10 Những gì trong tầm tay, bạn hãy
ra sức làm,
vì trong cõi âm ty, nơi bạn đang
đi tới,
không còn hoạt động, không còn dự
tính,
chẳng còn hiểu biết, chẳng còn
khôn ngoan.
11 Tôi lại thấy dưới ánh mặt trời
không phải cứ nhanh chân là chạy
giỏi, cứ mạnh là thắng,
hễ khôn ngoan là có ăn, hễ thông
thái là giàu có,
hễ hiểu biết là được ân huệ:
vì điều may điều rủi đến với hết
mọi người.
12 Quả vậy, con người đâu biết ngày
giờ của mình.
Khác nào cá chẳng may mắc lưới,
tựa như chim sa bẫy,
con cái loài người cũng mắc hoạ
như thế
khi tai hoạ thình lình ập xuống
trên họ.
Khôn ngoan và ngu dại
13 Tôi còn thấy xảy ra dưới ánh mặt
trời một chuyện liên quan đến sự khôn ngoan, và chuyện này rất quan trọng đối
với tôi.
14 Có một thành phố nhỏ và ít dân
cư. Một ông vua hùng mạnh tiến đến bao vây thành và xây dựng những công sự lớn
để tấn công. 15 Cũng trong thành đó, có một người nghèo mà khôn
ngoan. Chính ông là người đã cứu được thành nhờ sự khôn ngoan của mình ; nhưng
rồi không ai còn nhớ đến người nghèo đó nữa. 16 Vì vậy tôi nói:
Trí khôn ngoan hơn cả sức mạnh,
nhưng cái khôn của người nghèo
lại bị khinh dể,
lời người ấy nói, chẳng ai chịu
lắng nghe.
17 Lời lẽ ôn hoà của bậc khôn ngoan
được lắng nghe trong yên lặng,
mạnh hơn cả tiếng quát tháo của
kẻ chỉ huy bọn ngu xuẩn;
18 trí khôn ngoan mạnh hơn vũ khí,
nhưng một kẻ vụng dại làm hỏng
biết bao việc tốt lành.
Chương 10
1 Một con ruồi chết làm thối cả
bình dầu thơm;
một chút ngu si gây phương hại
cho cả khôn ngoan và danh giá.
2 Lòng người khôn hướng theo lẽ
phải,
tâm người dại ngả về đường trái.
3 Cả ngoài đường, đứa ngu cũng vẫn
khờ khạo, nó đi bảo với mọi người chính mình là thằng ngu.
4 Nếu người trên có đùng đùng nổi
giận, bạn cũng chớ bỏ đi, vì thái độ bình tĩnh giúp tránh được biết bao lỗi
lầm.
5 Tôi cũng thấy một mối hoạ dưới
ánh mặt trời, một sai lầm mà người lãnh đạo không nhận ra.
6 Ðó là: đứa ngu si được nâng lên
địa vị rất cao sang, còn người phú quý lại ở vị trí thấp hèn. 7 Tôi
thấy hạng đầy tớ chễm chệ trên lưng ngựa, trong khi bậc quan quyền phải đi bộ
như hạng đầy tớ.
8 Người đào hố có thể rơi xuống hố,
kẻ phá tường e bị rắn cắn cho,
9 người lấy đá có ngày bị thương
tích,
kẻ đốn cây chắc sẽ gặp hiểm nguy.
10 Lưỡi dao đã cùn mà không biết mài
cho bén, thì phải dùng sức gấp đôi; nhưng khôn ngoan hiểu biết thì thật có lợi.
11 Làm thầy dụ rắn mà không đủ cao
tay, để cho rắn cắn, thì nào được lợi lộc gì!
12 Miệng người khôn thốt ra lời đáng
mến;
môi kẻ dại làm nó phải diệt vong,
13 nó mở đầu câu chuyện với những
lời ngu xuẩn,
và kết thúc bằng những lời gian
ác ngông cuồng;
14 nó toàn nói chuyện huyên thuyên.
Con người đâu biết được điều gì
sẽ xảy đến,
và ai tỏ cho nó hay sẽ có chuyện
gì sau khi nó chết?
15 Người ngu làm việc đầu tắt mặt
tối,
đi lên thành phố, cũng chẳng biết
đường.
16 Khốn cho ngươi, hỡi đất nước
có vua cai trị là một thằng nhãi
con,
có người lãnh đạo là những đứa
mới sáng ra đã lo chè chén.
17 Phúc cho ngươi, hỡi đất nước
có vua cai trị là con nhà quyền
quý,
có người lãnh đạo là những kẻ ăn
uống có giờ có giấc,
cốt sao cho khoẻ mạnh,
chứ không nhằm chè chén say sưa.
18 Lười lĩnh biếng nhác thì cột
xiêu,
bàn tay uể oải thì nhà dột.
19 Muốn mua vui thì cứ tiệc tùng,
rượu sẽ làm cho đời thêm vui tươi
phấn khởi,
và tiền bạc đáp ứng mọi nhu cầu.
20 Dù chỉ là trong tư tưởng,
bạn cũng đừng nguyền rủa nhà vua;
dù là trong phòng ngủ, cũng chớ
nguyền rủa người giàu có,
vì chim trời có thể đưa tiếng đi
thật xa,
và loài có cánh sẽ đem lời thuật
lại.
Chương 11
1 Cơm bánh của bạn, hãy đem thả
trên mặt nước,
về lâu về dài, bạn sẽ tìm lại
được.
2 Phần của bạn, có bảy có tám người
cũng cứ chia,
vì bạn đâu biết được
tai hoạ nào sẽ xảy ra trên mặt
đất.
3 Mây ứ nước thì mưa rơi xuống đất;
cây ngả hướng bắc hay hướng nam,
ngả bên nào rồi thì nằm luôn bên
đó.
4 Người mải ngắm gió chẳng bao giờ
gieo,
người cứ nhìn mây chẳng bao giờ
gặt.
5 Gió thổi theo hướng nào,
thai nhi hình thành trong dạ mẹ
làm sao, bạn đâu có biết!
Cũng vậy, bạn không sao biết được
công trình của Thiên Chúa, Ðấng
tạo dựng muôn loài.
6 Sáng ra cứ đi gieo hạt giống,
chiều đến cũng đừng nghỉ tay,
vì bạn đâu biết được trong hai
lần đó sẽ thành công lần nào,
biết đâu hai lần đều tốt như nhau
cả!
Tuổi trẻ và tuổi già
7 Êm dịu thay ánh sáng,
hạnh phúc thay cặp mắt được thấy
ánh mặt trời!
8 Người nào được sống lâu năm, tận
hưởng đi cho sướng;
nhưng phải nhớ rằng những chuỗi
ngày đen tối sẽ dài lâu,
và những gì sẽ đến đều là phù vân
cả.
9 Này bạn thanh niên, cứ vui hưởng
tuổi xuân của bạn,
và làm cho tâm hồn được hạnh phúc
trong những ngày còn trẻ:
cứ chiều theo ước muốn của lòng
mình
và những gì mắt mình ưa thích.
Nhưng bạn phải biết rằng : về tất
cả những điều đó,
Thiên Chúa sẽ gọi bạn ra xét xử.
10 Hãy đẩy lui sầu não khỏi tâm hồn,
khử trừ đớn đau khỏi thân xác,
vì tuổi trẻ đầu xanh đều là phù
vân cả.
Chương 12
1 Giữa tuổi thanh xuân,
bạn hãy tưởng nhớ Ðấng đã dựng
nên mình.
Ðừng chờ đến ngày tai ương ập
tới,
đừng chờ cho năm tháng qua đi,
những nằm tháng mà rồi bạn sẽ
phải nói:
"Tôi chẳng có được một niềm
vui nào trong thời gian đó cả!"
2 Ðừng chờ đến khi mặt trời với ánh
sáng,
mặt trăng cùng tinh tú đều trở
thành tối tăm,
và mây đen tụ lại khi cơn mưa đã
dứt.
3 Ngày ấy, người giữ nhà sẽ run lẩy
bẩy,
chàng trai vạm vỡ phải khòm lưng,
các cô xay bột không còn xay tiếp
vì không đủ người xay,
các bà nhìn qua cửa sổ: chỉ nhìn
thấy lờ mờ.
4 Ngày ấy, cánh cửa ngó ra đường sẽ
đóng lại,
tiếng cối xay bột từ từ nhỏ đi,
người ta trỗi dậy khi vừa nghe
tiếng chim hót
và mọi cô ca sĩ sẽ phải lặng
thinh.
5 Ngày ấy, đường hơi dốc cũng làm
người ta sợ,
chân bước đi mà lòng thật kinh
hoàng.
Ngày ấy, hoa hạnh đào nở ra trắng
xoá,
loài châu chấu trở nên chậm chạp
nặng nề,
trái bạch hoa hết còn hương vị.
Bởi vì con người tiến đến nơi ở
ngàn thu,
bên đường đầy những người khóc
than ai oán.
6 Ðừng chờ đến khi chỉ bạc đứt,
bình vàng vỡ,
vò nước bể ngay tại hồ chứa nước,
ròng rọc gãy, vụt rơi xuống giếng
sâu.
7 Ðừng chờ đến khi bụi đất lại trở
về với đất,
khi phàm nhân trả lại cho Thiên
Chúa
hơi thở Người đã ban cho mình.
8 Ông Cô-he-lét nói:
"Phù vân, quả là phù vân,
mọi sự đều là phù vân cả!"
Lời kết
9 Ông Cô-he-lét không những là một
bậc thánh hiền, nhưng còn là một vị tôn sư dạy cho dân hiểu biết. Ông đã cân
nhắc, suy tư và sáng tác ra nhiều châm ngôn.
10 Ông Cô-he-lét đã sưu tầm để tìm
ra những lời hay ý đẹp, rồi trung thực viết ra những điều chân thật.
11 Thánh hiền có những lời lẽ khác
nào mũi nhọn, tác giả những tập ngạn ngữ ví như những cột mốc. Cả hai đều là
hồng ân của vị mục tử duy nhất.
12 Ngoài ra, hỡi bạn là người con
của tôi, bạn hãy coi chừng: làm nhiều sách vở có bao giờ đủ, học hỏi cho lắm
chỉ thêm mệt xác.
13 Lời kết luận cho tất cả mọi điều
bạn đã nghe ở trên đây là: hãy kính sợ Thiên Chúa và tuân giữ các mệnh lệnh
Người truyền, đó là tất cả đạo làm người, 14 vì Thiên Chúa sẽ đưa ra
xét xử tất cả mọi hành vi, kể cả những điều tiềm ẩn, tốt cũng như xấu.
Diễm Ca
Chương 01
1 Bài ca tuyệt diệu của Sa-lô-môn.
Nàng
2 Ước gì chàng hôn ta những nụ hôn
chính môi miệng chàng!
Ân ái của anh còn ngọt ngào hơn
rượu.
3 Mùi hương anh thơm ngát,
tên anh là dầu thơm man mác toả
lan,
thảo nào các thiếu nữ mê say mộ
mến!
4 Hãy kéo em theo anh, đôi ta cùng
mau bước!
Quân vương đã vời thiếp vào cung
nội,
ngài sẽ là nguồn hoan lạc vui
sướng của chúng em.
Ân ái của ngài, chúng em quý hơn
rượu.
Thương yêu ngài phải lẽ biết bao
nhiêu!
Bài Ca Thứ Nhất
5 Này các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem,
da tôi đen, nhưng nhan sắc mặn mà
như lều Kê-đa, tựa trướng Xan-ma.
6 Xin đừng để ý đến da tôi rám
nắng: mặt trời đã làm cháy da tôi.
Ðám con trai của mẹ tôi hằn học
với tôi:
họ cắt đặt tôi canh giữ các vườn
nho,
nhưng vườn nho của tôi, tôi lại
không canh giữ!
7 Hỡi người yêu, người lòng em yêu
dấu,
hãy nói em nghe anh chăn cừu ở
đâu,
đàn cừu ấy nghỉ nơi nao vào ban
trưa giờ ngọ,
để em đây khỏi lang thang thất
thểu
bên đàn vật của các bạn anh.
Ðồng ca
8 Này hỡi trang tuyệt thế giai
nhân, nếu quả nàng không biết,
thì hãy ra đi theo vết chân đàn
cừu,
mà dẫn dê con của nàng đi ăn
quanh các lều mục tử.
Chàng
9 Hỡi bạn tình của lòng anh, anh ví
nàng như con tuấn mã
ngậm dây cương xa giá Pha-ra-ô.
10 Giữa đôi khuyên, má nàng xinh đẹp
quá,
cổ nàng đeo chuỗi ngọc.
11 Khuyên vàng điểm hạt bạc long
lanh,
các anh đây sẽ làm sẵn cho nàng.
Song ca
12 - Lúc quân vương ngự giữa nội
cung,
dầu cam tùng của tôi toả hương
thơm ngát.
13 Người tôi yêu là chùm mộc dược
nằm gọn trên ngực tôi.
14 Người tôi yêu là khóm móng rồng
trong vườn nho Ên Ghe-đi.
15 - Nàng đẹp quá, bạn tình ơi, đẹp
quá!
Ðôi mắt nàng là một cặp bồ câu.
16 - Người yêu hỡi, anh đẹp, anh
tuấn tú làm sao!
Giường chúng ta là cánh đồng xanh
ngát.
17 - Rầm nhà chúng ta là gỗ bá
hương,
và ván ghép tường là trắc bá
diệp.
Chương 02
1 - Em là đoá thủy tiên của Sa-rôn
đồng bằng,
là bông huệ thắm hồng trong thung
lũng.
2 - Bạn tình tôi giữa đoàn thiếu nữ
có khác gì cánh huệ giữa bụi gai.
3 - Người tôi yêu giữa đoàn trai
tráng
như cây táo giữa muôn cây rừng.
Ðược ngồi dưới bóng chàng, tôi
thoả lòng mơ ước,
và hoa trái của chàng ngọt lịm
trong miệng tôi.
4 Chàng đã đưa tôi vào phòng tiệc,
cho tôi uống rượu nồng,
đã thắng tôi nhờ sức mạnh tình
yêu.
5 Xin cho tôi bánh nho để tôi tìm
lại sức,
cho tôi táo để tôi được bồi
dưỡng, bởi vì tôi đã ốm tương tư.
6 Chàng đưa tay trái cho tôi gối
đầu,
đưa tay phải ghì chặt lấy tôi.
7 - Này các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem,
tôi van nài các bạn:
vì đàn linh dương với bầy nai
ngoài đồng,
xin đừng lay vội, đừng đánh thức
tình yêu,
cho đến khi tình yêu ưng thuận.
Bài Ca Thứ Hai
8 Tiếng người tôi yêu văng vẳng đâu
đây, kìa chàng đang tới,
nhảy nhót trên đồi, tung tăng
trên núi.
9 Người yêu của tôi chẳng khác gì
linh dương,
tựa hồ chú nai nhỏ.
Kìa chàng đang đứng sau bức tường
nhà,
nhìn qua cửa sổ, rình qua chấn
song.
10 Người yêu của tôi lên tiếng bảo:
"Dậy đi em, bạn tình của
anh,
người đẹp của anh, hãy ra đây
nào!
11 Tiết đông giá lạnh đã qua,
mùa mưa đã dứt, đã xa lắm rồi.
12 Sơn hà nở rộ hoa tươi
và mùa ca hát vang trời về đây.
Tiếng chim gáy văng vẳng trên
khắp đồng quê ta.
13 Vả kia đã kết trái non,
vườn nho hoa nở hương thơm ngạt
ngào.
Dậy đi em, bạn tình của anh,
người đẹp của anh, hãy ra đây
nào!
14 Bồ câu của anh ơi,
em ẩn trong hốc đá, trong vách
núi cheo leo.
Nào, cho anh thấy mặt, nào, cho
anh nghe tiếng,
vì tiếng em ngọt ngào và mặt em
duyên dáng."
15 Hãy bắt giúp chúng tôi lũ chồn,
lũ chồn con phá phách vườn nho,
ngay giữa mùa hoa nở.
16 Người tôi yêu thuộc trọn về tôi
và tôi trọn vẹn thuộc về chàng.
Giữa những khóm huệ thơm, chàng
cho chiên gặm cỏ.
17 Trước khi ngày tàn và khí trời
mát dịu,
và trước khi bóng chiều buông
xuống,
hãy quay về, hỡi người yêu của
em,
hãy làm linh dương, làm nai nhỏ
trên dãy núi Be-the!
Chương 03
1 Suốt đêm, trên giường ngủ, tôi
tìm người lòng tôi yêu dấu.
Tôi đi tìm chàng mà đâu có gặp!
2 Vậy tôi sẽ đứng lên, đi rảo quanh
khắp thành,
nơi đầu đường cuối phố, để tìm
người yêu dấu của lòng tôi.
Tôi đi tìm chàng mà đâu có gặp!
3 Ðang tuần tiễu trong thành, bọn
lính gác gặp tôi.
Tôi hỏi họ: "Các anh có thấy
chăng
người lòng tôi yêu dấu?"
4 Vừa rời họ mà đi, tôi đã gặp
người lòng tôi yêu dấu.
Tôi vội níu lấy chàng
và chẳng chịu buông ra
cho đến khi đưa vào nhà thân mẫu,
tới khuê phòng người đã cưu mang
tôi.
Chàng
5 Này các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem,
tôi van nài các bạn :
vì đàn linh dương với bầy nai
ngoài đồng,
xin đừng lay vội, đừng đánh thức
tình yêu,
cho đến khi tình yêu ưng thuận.
Bài Ca Thứ Ba
6 Kìa ai đang tiến lên từ sa mạc,
tựa hồ những cột mây,
thơm ngát mùi nhũ hương mộc dược,
ngạt ngào hương phấn xứ lạ phương
xa?
7 Kìa loan giá vua Sa-lô-môn,
vây quanh hộ tống là sáu mươi
dũng sĩ
tuyển trong hàng dũng sĩ
Ít-ra-en.
8 Tất cả đều thạo phép binh đao,
đều rành nghề chinh chiến.
Ai ai cũng gươm giáo bên mình,
phòng khi gặp hãi hùng đêm tối.
9 Vua Sa-lô-môn đã truyền lấy gỗ
Li-băng
đóng cho vua một cỗ kiệu:
10 cột kiệu bằng bạc, lưng kiệu bằng
vàng,
mặt kiệu bọc vải điều quý giá,
phía trong kiệu dệt gấm thêu hoa
do đôi tay ân cần trìu mến
của những nàng thiếu nữ
Giê-ru-sa-lem.
11 Thiếu nữ Xi-on hỡi, hãy ra chiêm
ngưỡng vua Sa-lô-môn:
người đội triều thiên
hoàng thái hậu đã đội cho người
ngày hôn lễ,
ngày vui nhất của lòng người.
Chương 04
Chàng
1 Nàng đẹp quá, bạn tình ơi, đẹp
quá!
Sau tấm mạng the, đôi mắt nàng,
cặp bồ câu xinh đẹp.
Tóc nàng gợn sóng như đàn sơn
dương
tự trên ngàn Ga-la-át tủa xuống.
2 Răng nàng trắng tựa đàn vật sắp
xén lông,
đàn vật vừa lên từ suối tắm,
hai hàng sao đều đặn, không chiếc
nào lẻ đôi!
3 Môi thắm chỉ hồng, miệng duyên
dáng,
má đỏ hây hây màu thạch lựu
thấp thoáng sau tấm mạng the.
4 Cổ nàng đẹp như tháp ngà Ða-vít
xây lên để trưng bày chiến lợi
phẩm:
nơi đó treo ngàn vạn mộc khiên
toàn là của anh hùng dũng sĩ.
5 Bộ ngực khác nào cặp nai tơ,
cặp nai sinh đôi của nai mẹ,
gặm cỏ non giữa vườn huệ thắm.
6 Trước khi ngày tàn và khí trời
mát dịu,
và trước khi bóng chiều buông
xuống,
ta sẽ đi lên núi mộc dược, đi lên
đồi nhũ hương.
7 Bạn tình ơi, toàn thân nàng xinh
đẹp,
nơi nàng chẳng một chút vết nhơ.
8 Này người yêu anh sắp cưới,
hãy cùng anh rời khỏi núi
Li-băng,
rời khỏi núi Li-băng đi xuống,
rời đỉnh A-ma-na,
rời đỉnh Xơ-nia và Khéc-môn, nơi
sư tử hùm beo ngự trị.
9 Này em gái của anh, người yêu anh
sắp cưới,
trái tim anh, em đã chiếm mất
rồi!
Mắt em, chỉ một liếc nhìn thôi,
cổ em, chỉ một vòng kiềng trang
điểm,
đã đủ chiếm trọn vẹn trái tim
anh.
10 Này em gái của anh, người yêu anh
sắp cưới,
ân ái của em dịu ngọt dường nào,
ân ái của em nồng nàn biết mấy,
nồng nàn hơn cả rượu!
Em ngan ngát hương thơm, hơn muôn
loài phương thảo.
11 Người yêu sắp cưới của anh ơi,
môi em tươm mật ngọt,
lưỡi em chan chứa mật ngọt sữa
ngon.
Áo em toả hương thơm ngào ngạt
tựa hương núi Li-băng.
12 Này em gái của anh, người yêu anh
sắp cưới,
em là khu vườn cấm, là dòng suối
canh phòng nghiêm mật,
là giếng nước niêm phong,
13 là địa đàng xanh non mầm thạch
lựu
đầy hoa thơm trái tốt : nào hoa
móng, cam tùng,
14 cam tùng với huỳnh khương,
nào đinh hương, nhục quế với mọi
thứ nhũ hương,
nào mộc dược, lô hội cùng mọi thứ
kỳ hương, dị thảo.
15 Em là giếng nước giữa hoa viên,
là hồ chứa nước nguồn từ dãy núi
Li-băng chảy xuống.
Nàng
16 Gió bấc nổi lên đi, gió nam hãy
ùa tới
thổi mát vườn của tôi, cho hương
thơm lan toả!
Người tôi yêu cứ vào vườn của
chàng
mà thưởng thức hoa thơm trái tốt.
Chương 05
Chàng
1 Này em gái của anh, người yêu anh
sắp cưới,
vườn của anh, anh đã vào rồi,
đã hái mộc dược, hái cỏ thơm,
đã ăn mật, ăn cả tảng mật ngọt,
đã uống sữa, uống rượu dành cho
anh.
Thi nhân
Hãy ăn đi, này đôi bạn chí thiết,
uống cho say, hỡi những kẻ si
tình!
Bài Ca Thứ Tư
2 Tôi ngủ, nhưng lòng tôi chợt
thức;
có tiếng người tôi yêu gõ cửa:
"Mở cửa cho anh vào, hỡi em
gái, người bạn tình của anh,
hỡi bồ câu, ôi mười phân vẹn
mười!
Này đầu anh, lớp sương dày đã
phủ,
và tóc anh, đêm khuya làm đẫm
ướt."
3 - "Em đã cởi xiêm y, lại mặc
vào sao được?
Em đã rửa chân rồi, lại để lấm
hay sao?"
4 Người tôi yêu luồn tay qua khe
cửa,
và lòng tôi rạo rực biết bao
nhiêu!
5 Tôi đứng dậy mở cửa cho người
yêu;
bàn tay tôi chứa chan mộc dược.
Mộc dược đầu ngón tay nhỏ giọt
xuống then cài.
6 Tôi mở cửa cho người tôi yêu,
nhưng chàng đã quay đi khuất
dạng.
Chàng đi rồi, hồn tôi như đã mất.
Tôi đi tìm chàng mà đâu có gặp,
tôi mãi gọi chàng, không một
tiếng đáp!
7 Ðang tuần tiễu trong thành, bọn
lính gác gặp tôi.
Chúng đánh tôi đến mang thương
tích;
quân gác đồn cướp cả áo choàng
tôi.
8 Này thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, tôi
van nài các bạn:
gặp người tôi yêu dấu, các bạn sẽ
cho biết tin gì?
Xin cho nhắn rằng : tôi đang ốm
tương tư.
Ðồng ca
9 Người cô yêu có gì hơn những
chàng trai khác,
này hỡi trang tuyệt thế giai
nhân?
Người cô yêu có gì hơn những
chàng trai khác,
mà cô phải nài van như vậy?
Nàng
10 Người yêu của tôi : khuôn mặt
tươi sáng, nước da hồng hào,
nổi bật giữa muôn ngàn trai
tráng.
11 Ðầu chàng: khối vàng ròng tinh
luyện,
mái tóc chàng gợn sóng nhánh cọ
non,
đen huyền chim ô thước.
12 Mắt chàng nằm gọn giữa bờ mi,
như đôi bồ câu tắm bên dòng suối
sữa.
13 Ðôi má chàng tựa luống hoa thơm,
như vầng phương thảo.
Cặp môi chàng là đoá huệ thắm
tươi,
chứa chan tươm mộc dược.
14 Ðôi nắm tay như những trái cầu
vàng
dát kim châu, bảo thạch.
Thân mình chàng tựa ngọc ngà
nguyên khối
nạm đá quý xanh lam.
15 Ðôi chân chàng như đôi trụ bạch
ngọc
dựng trên đế vàng ròng.
Tướng mạo chàng tựa núi Li-băng,
kiêu hùng như ngàn cây hương bá.
16 Miệng chàng êm ái ngọt ngào,
cả con người những dạt dào hương
yêu.
Người tôi yêu là như thế, tình
quân tôi là như vậy,
hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem!
Chương 06
Ðồng ca
1 Người cô yêu đã đi đâu mất rồi,
này hỡi trang giai nhân tuyệt
thế?
Người cô yêu đã quay gót phương
nao,
để chúng tôi cùng với cô tìm
kiếm?
Nàng
2 Người tôi yêu đã xuống vườn nhà,
xuống nơi trồng phương thảo:
chàng để đàn vật ăn trong vườn,
còn chàng đi hái huệ.
3 Tôi thuộc trọn về người tôi yêu,
người tôi yêu thuộc về tôi trọn
vẹn.
Giữa những khóm huệ thơm, chàng
cho chiên gặm cỏ.
Bài Ca Thứ Năm
4 Bạn tình của anh hỡi, nàng đẹp
tựa Tia-xa,
duyên dáng tựa Giê-ru-sa-lem,
oai hùng như đạo binh chỉnh tề
hàng ngũ.
5 Thôi đi, nàng đừng đưa mắt nhìn
anh nữa,
đôi mắt làm anh choáng váng rồi.
Tóc nàng gợn sóng như đàn sơn
dương
tự trên miền Ga-la-át tủa xuống.
6 Răng nàng trắng muốt tựa đàn cừu
vừa mới tắm đi lên,
hai hàng sao đều đặn, không chiếc
nào lẻ đôi!
7 Má đỏ hây hây màu thạch lựu thấp
thoáng sau tấm mạng the.
8 Có đến sáu mươi hoàng hậu,
cả tám chục phi tần,
còn cung nữ thì nhiều vô kể.
9 Nhưng, bồ câu của tôi là duy
nhất,
người đẹp của tôi chỉ có một,
thật mười phân vẹn mười.
Mẹ nàng có mình nàng là gái,
và nàng được thân mẫu rất mực
cưng chiều.
Các thiếu nữ thấy nàng
ngợi khen nàng diễm phúc ;
hoàng hậu phi tần đều tán tụng:
10 "Kìa bà nào xuất hiện như
rạng đông,
diễm kiều như vầng nguyệt, lộng
lẫy tựa thái dương,
oai hùng như đạo binh chỉnh tề
hàng ngũ?"
11 Tôi xuống vườn hạnh đào ngắm chồi
non thung lũng;
xuống xem nho đã đâm chồi,
xuống xem hoa lựu nở rồi hay
chưa.
12 Ðâu ngờ tình đượm say sưa,
bước lên xa giá ngọc ngà chúa
tôi.
Chương 07
Ðồng ca
1 Trở lại, trở lại đi, này cô gái
Su-la-mi hỡi,
trở lại, trở lại đi, cho chúng
tôi nhìn ngắm dung nhan nàng!
Cô gái Su-la-mi múa nhảy giữa hai
bè xướng ca đối đáp:
các bạn nhìn ngắm mà làm chi?
Chàng
2 Ðẹp chừng nào, công nương hỡi,
gót sen thả nhẹ, đôi hài xinh
xinh!
Lưng ong uốn mềm như chiếc vòng
trang sức
bàn tay nghệ sĩ khéo tạc nên.
3 Rốn em tựa chung rượu tròn chẳng
bao giờ cạn.
Bụng em như lúa mì vun lên đầy
ắp, hoa huệ bao quanh.
4 Bộ ngực khác nào cặp nai tơ, cặp
nai sinh đôi của nai mẹ.
5 Cổ em giống như ngọn tháp ngà.
Ðôi mắt như mặt hồ Khét-bôn
bên cạnh cổng thành Bát Ráp-bim.
Mũi em tựa Li-băng ngọn tháp nhìn
về hướng Ða-mát.
6 Trên thân mình,
đầu em đỉnh núi Các-men, tóc em
một giải lụa hồng,
bềnh bồng sóng nước, xiềng xích
quân vương.
7 Em xinh đẹp biết bao, kiều diễm
biết chừng nào,
tình yêu ơi, em làm anh say đắm!
8 Dáng em, thân chà là, bộ ngực em,
chùm quả.
Anh nhủ thầm:
9 thân chà là, mình sẽ trèo lên,
trái thơm ngon, mình sẽ tận
hưởng.
Ước chi bộ ngực em là chùm nho
chín mọng,
hơi thở em thoang thoảng mùi táo
thơm,
10 và miệng em phảng phất men rượu
nồng.
Nàng
11 Tôi thuộc trọn về người tôi yêu,
cho lòng chàng cháy rực lửa thèm
muốn.
12 Này người yêu của em,
chúng mình ra cánh đồng, anh nhé,
rồi ghé thôn làng, đêm nay mình
nghỉ lại.
13 Sáng tinh mơ, mình sẽ đến vườn
nho
xem nhánh nho đã đâm chồi,
nụ nho đã hé mở, và hoa lựu đã nở
rồi hay chưa.
Bấy giờ em sẽ tặng chàng
muôn ngàn âu yếm, muôn ngàn yêu
thương.
14 Ngải yêu đã toả hương ngào ngạt;
và trước cửa nhà mình, bao quả
thơm trái tốt
từ đầu đến cuối mùa, em dành hết
cho anh,
hỡi người em yêu dấu!
Chương 08
1 Phải chi anh là anh ruột của em,
đã được mẹ em nâng niu bú mớm,
thì khi mình gặp nhau ngoài
đường,
em có thể hôn anh,
chẳng sợ ai khinh dể.
2 Em sẽ đưa anh vào nhà mẹ em,
và anh sẽ chỉ dạy cho em;
em sẽ mời anh uống rượu thơm hảo
hạng,
uống nước thạch lựu vườn nhà em.
3 Chàng đưa tay trái cho tôi gối
đầu,
đưa tay phải ghì chặt lấy tôi.
Chàng
4 Này các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem,
tôi van nài các bạn:
xin đừng lay vội, đừng đánh thức
tình yêu,
cho đến khi tình yêu ưng thuận.
Lời Bạt
5 Kìa ai đang tiến lên từ sa mạc,
nép mình vào người yêu?
Anh đã đánh thức nàng dưới gốc
cây táo.
Chính nơi đây, thân mẫu sinh ra
nàng,
chính nơi đây, nàng đã lọt lòng
mẹ.
Nàng
6 Xin đặt em như chiếc ấn trên trái
tim anh,
như chiếc ấn trên cánh tay anh.
Phải, tình yêu mãnh liệt như tử
thần,
cơn đam mê dữ dội như âm phủ.
Lửa tình là ngọn lửa bừng cháy,
một ngọn lửa thần thiêng.
7 Nước lũ không dập tắt nổi tình
yêu,
sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp.
Ai đem hết gia tài sự nghiệp mà
đổi lấy tình yêu,
ắt sẽ bị người đời khinh dể.
Phụ Trương
8 Em gái ta còn bé, ngực em chưa
nở. Ta sẽ làm gì cho em ngày người ta nói đến chuyện duyên tình của em?
9 Nếu em là bức tường thành, ta sẽ
xây lên đó một vọng lâu bằng bạc; nếu em là cổng thành, ta sẽ lắp then cài gỗ
bá hương.
10 Em đây là bức tường thành, và
ngực em như những tháp canh; nên chi em là nguồn bình an cho chàng.
11 Vua Sa-lô-môn có một vườn nho tại
Ba-an Ha-môn. Vua đã giao vườn đó cho người ta canh giữ; mỗi người phải thu huê
lợi vào cho vua: một ngàn se-ken bạc. 12 Tâu vua Sa-lô-môn, một ngàn
se-ken là của đức vua - và hai trăm là của những người canh giữ hoa mầu -, còn
vườn nho của tôi là của tôi.
Phần thêm cuối cùng
13 Em mơn mởn giữa vườn hoa,
bạn bè mong đợi thiết tha giọng
vàng;
cho anh nghe với, hỡi nàng!
14 - Chạy trốn mau, người yêu hỡi,
hãy làm linh dương, làm nai nhỏ
của em
tung tăng trên núi đồi cỏ thơm
bát ngát.
Khôn Ngoan
Chương 01
I. Ðức Khôn Ngoan Và Số Phận Con
Người
Tìm kiếm Thiên Chúa và tránh xa
tội lỗi
1 Hãy yêu chuộng đức công chính,
hỡi những người cai trị trần
gian,
hãy suy tưởng ngay lành về Ðức
Chúa
và thành tâm kiếm tìm Người.
2 Ai không thách thức Người, thì
được Người cho gặp.
Ai tin tưởng vào Người, sẽ được
Người tỏ mình cho thấy.
3 Những lý luận quanh co
khiến con người lìa xa Thiên
Chúa.
Kẻ ngu đần thử thách Ðấng Quyền
Năng
sẽ bị Người làm cho bẽ mặt.
4 Tâm hồn gian ác, Ðức Khôn Ngoan
chẳng ngự vào;
xác thịt đắm chìm trong tội lỗi,
Ðức Khôn Ngoan không cư ngụ.
5 Thần khí thánh là thầy dạy dỗ,
luôn tránh thói lọc lừa, rời xa
những lý luận ngu dốt,
và ghê tởm những chuyện bất công.
6 Ðức Khôn Ngoan là thần khí hằng
yêu mến con người,
nhưng không miễn thứ cho kẻ nói
lời phạm thượng.
Bởi vì Thiên Chúa thấu suốt tâm
can,
dò xét lòng dạ đến nơi đến chốn
và nghe thấy mọi lời miệng lưỡi
thốt ra.
7 Thần khí của Ðức Chúa ngập tràn
cõi đất,
bảo toàn mối hiệp nhất giữa muôn
vật muôn loài,
thấu hiểu hết mọi lời mọi tiếng.
8 Kẻ nói lời độc địa không thể lẩn
trốn hoài,
không thoát khỏi hình phạt đích
đáng.
9 Mưu đồ kẻ ác sẽ bị thẩm tra,
lời nó nói ra, rồi sẽ đến tai
Chúa,
và tội lỗi nó sẽ bị trừng trị.
10 Tai ghen nghe thấy mọi điều,
lẩm bẩm thì thầm cũng không giấu
nổi.
11 Vậy, hãy giữ mình, chớ kêu ca vô
ích,
giữ miệng lưỡi, đừng nói xấu gièm
pha.
Nói chùng nói lén luôn gây hậu
quả,
ăn gian nói dối giết hại linh
hồn.
12 Ðừng mãi sống lầm lạc mà lao vào
chỗ chết,
chớ có làm chuyện gì để mình phải
diệt vong.
13 Thiên Chúa không làm ra cái chết,
chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu
vong.
14 Vì Người đã sáng tạo muôn loài
cho chúng hiện hữu,
mọi loài thọ tạo trên thế giới
đều hữu ích cho sinh linh,
chẳng loài nào mang độc chất huỷ
hoại.
Âm phủ không thống trị địa cầu.
15 Quả vậy, đức công chính thì
trường sinh bất tử.
Lối sống của phường vô đạo
16 Còn quân vô đạo, chúng lên tiếng
vẫy tay mời thần chết.
Bầu bạn với nó, chúng hao mòn
kiệt quệ;
và chúng đã cùng nó kết giao,
thì đáng thuộc quyền sở hữu của
nó.
Chương 02
1 Thật vậy, suy tính sai lầm, chúng
bảo nhau:
"Ðời ta thật buồn sầu, vắn
vỏi:
không thuốc nào chữa cho con
người khỏi chết,
chẳng ai biết có kẻ nào thoát
được cõi âm ty.
2 Bởi ngẫu nhiên ta đã ra đời, rồi
lại như chưa hề có mặt.
Hơi thở của ta là làn khói,
tư tưởng loé lên từ nhịp đập trái
tim.
3 Khi nó tắt đi, thân xác sẽ trở
thành tro bụi,
sinh khí biến tan như làn gió
thoảng.
4 Theo dòng thời gian, tên tuổi ta
cũng chìm vào quên lãng,
chẳng còn ai nhớ đến việc ta làm.
Ðời ta sẽ qua như một thoáng mây
trôi,
sẽ biến đi như màn sương sớm
bị ánh nắng đẩy lùi và sức nóng
mặt trời áp đảo.
5 Cuộc đời ta vụt mất tựa bóng câu,
đã qua rồi là không còn trở lại,
ấn đã niêm, ai quay về được nữa!
6 Vậy, nào đến đây, hưởng lấy của
đời này,
tuổi còn trẻ, ta cố mà tận dụng
hết những chi đang có sẵn trên
trần.
7 Nào, ta say rượu quý, ta ngất
hương thơm,
những đoá hoa xuân, ta đừng bỏ
phí.
8 Nụ hoa hồng, ta đem kết triều
thiên trước khi hoa tàn lụi.
9 Ðừng ai vắng trong các cuộc truy
hoan,
dấu vết ăn chơi, ta để lại khắp
nơi khắp chốn,
bởi đó chính là phần, là số ta
được hưởng.
10 Ta hãy bức hiếp tên công chính
nghèo hèn,
kẻ goá bụa, ta đừng buông tha,
bọn tóc bạc già nua, cũng chẳng
nể.
11 Sức mạnh ta phải là quy luật của
công lý,
vì yếu đuối chẳng làm nên chuyện
gì.
12 Ta hãy gài bẫy hại tên công
chính,
vì nó chỉ làm vướng chân ta,
nó chống lại các việc ta làm,
trách ta vi phạm lề luật,
và tố cáo ta không tuân hành lễ
giáo.
13 Nó tự hào là mình biết Thiên
Chúa,
xưng mình là con của Ðức Chúa.
14 Nó như kẻ luôn chê trách tâm
tưởng của ta,
thấy mặt nó thôi là ta chịu không
nổi.
15 Vì nó sống thật chẳng giống ai,
lối cư xử của nó hoàn toàn lập
dị.
16 Nó coi ta như bọn lọc lừa,
tránh đường ta đi như tránh đồ dơ
bẩn.
Nó tuyên bố rằng thật lắm phúc
nhiều may,
hậu vận của người công chính.
Nó huênh hoang vì có Thiên Chúa
là Cha.
17 Ta hãy coi những lời nó nói có
thật không,
và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ
thế nào.
18 Nếu tên công chính là con Thiên
Chúa,
hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó
khỏi tay địch thù.
19 Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó,
để biết nó hiền hoà làm sao,
và thử xem nó nhẫn nhục đến mức
nào.
20 Nào ta kết án cho nó chết nhục
nhã,
vì cứ như nó nói, nó sẽ được
Thiên Chúa viếng thăm."
Sai lầm của phường vô đạo
21 Chúng suy tính như vậy thật sai
lầm,
vì ác độc mà chúng ra mù quáng.
22 Chúng không biết những bí nhiệm
của Thiên Chúa,
chẳng trông chờ người thánh thiện
sẽ được thưởng công,
cũng không tin kẻ tinh tuyền sẽ
được ân thưởng.
23 Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo
con người
cho họ được trường tồn bất diệt.
Họ được Người dựng nên làm hình
ảnh của bản tính Người.
24 Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị
mà cái chết đã xâm nhập thế gian.
Những ai về phe nó đều phải nếm
mùi cái chết.
Chương 03
Số phận của những người công
chính và của phường vô đạo
1 Linh hồn người công chính ở trong
tay Thiên Chúa
và chẳng cực hình nào động tới
được nữa.
2 Bọn ngu si coi họ như đã chết
rồi;
khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp
phải điều vô phúc.
3 Lúc họ xa rời chúng ta, chúng
tưởng là họ bị tiêu diệt,
nhưng thực ra, họ đang hưởng an
bình.
4 Người đời nghĩ rằng họ đã bị
trừng phạt,
nhưng họ vẫn chứa chan hy vọng
được trường sinh bất tử.
5 Sau khi chịu sửa dạy đôi chút,
họ sẽ được hưởng ân huệ lớn lao.
Quả thế, Thiên Chúa đã thử thách
họ
và thấy họ xứng đáng với Người.
6 Người đã tinh luyện họ
như người ta luyện vàng trong lò
lửa,
và đón nhận họ như của lễ toàn
thiêu.
7 Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng
thăm,
họ sẽ rực sáng như tia lửa bén
nhanh khắp rừng sậy.
8 Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống
trị muôn nước.
Và Ðức Chúa sẽ là vua của họ đến
muôn đời.
9 Những ai trông cậy vào Người, sẽ
am tường sự thật;
những ai trung thành, sẽ được
Người yêu thương
và cho ở gần Người, vì Người ban
ân phúc
và xót thương những ai Người
tuyển chọn.
10 Nhưng quân vô đạo sẽ chịu cực
hình
xứng với những gì chúng đã suy
tưởng,
vì chúng đã khinh miệt người công
chính, và lìa bỏ Ðức Chúa.
11 Vô phúc cho kẻ xem thường lẽ khôn
ngoan, coi khinh lễ giáo:
mong gì, rồi cũng viển vông,
nhọc nhằn cho lắm cũng công dã tràng,
chúng làm việc, được gì chăng?
12 Vợ dốt, con gian, và dòng dõi
chúng bị chúc dữ.
Thà không con còn hơn có dòng dõi
vô đạo
13 Phúc thay người son sẻ mà tinh
tuyền,
không chung chạ bất chính.
Ðến thời Thiên Chúa viếng thăm,
họ sẽ được sinh hoa kết quả.
14 Phúc cho hoạn nhân không làm điều
bất chính,
không suy tưởng nghịch cùng Ðức
Chúa.
Vì trung tín, họ sẽ được một đặc
ân
là hưởng phần rất hậu nơi Ðền Thờ
Ðức Chúa.
15 Quả vậy, cố gắng làm điều lành,
sẽ đạt tới thành quả rực rỡ,
vì lẽ trí khôn ngoan là cội rễ
không thể nào hư hoại.
16 Nhưng con cái bọn ngoại tình sẽ
chẳng ra chi,
giống nòi kẻ chung chạ bất chính
rồi sẽ lụi tàn.
17 Dầu chúng có sống lâu trăm tuổi,
thì cũng kể bằng không không vậy;
khi cuộc đời xế bóng, chúng cũng
chẳng danh giá gì.
18 Nếu chết sớm, chúng sẽ chẳng có
chi để hy vọng,
chẳng được ai an ủi trong ngày
luận án.
19 Thê thảm biết chừng nào
chung cục của giống nòi bất
chính!
Chương 04
1 Chẳng thà không con cái mà sống
đời đức hạnh!
Người đức hạnh lưu danh muôn
thuở,
vì được cả Thiên Chúa lẫn người
đời biết đến.
2 Họ còn sống, người người noi
gương,
họ khuất đi, ai ai cũng thương
tiếc.
Trong cõi đời đời, đầu đội triều
thiên, họ khải hoàn vinh hiển,
vì đã chiến thắng trong cuộc
tranh đua
giành phần thưởng tuyệt vời.
3 Con đàn cháu đống của phường vô
đạo nào có làm nên tích sự gì:
Chúng như phát xuất từ những chồi
hoang,
rễ ăn không sâu, gốc bám không
chặt!
4 Cho dầu đã mọc lá đâm cành,
chúng vẫn bị gió đánh ngả
nghiêng,
một trận cuồng phong là bật tung
gốc.
5 Nhánh còn non đã bị xoắn gẫy,
trái xanh chẳng ai thèm,
không ích lợi chi, hoàn toàn vô
dụng.
6 Trong ngày xét xử, những đứa con
hoang
sẽ là bằng chứng buộc tội những
người sinh ra chúng.
Người công chính chết yểu
7 Người công chính dù có chết non,
cũng vẫn được an nghỉ.
8 Vì tuổi thọ đáng kính
không phải bởi sống lâu, cũng
không do số tuổi.
9 Ðối với con người, sự khôn ngoan
còn quý hơn tóc bạc,
sống không tì ố đã là sống thọ.
10 Người công chính đẹp lòng Thiên
Chúa,
nên được Thiên Chúa yêu thương.
Và họ sống giữa những kẻ tội lỗi,
nên được Thiên Chúa dời đi nơi
khác.
11 Người đã cất họ đi, kẻo trí khôn
họ bị thói gian ác biến đổi,
hay tâm hồn họ bị tật xảo trá
phỉnh lừa.
12 Vì sức mê hoặc của sự ác làm lu
mờ sự thiện,
và dục vọng quay cuồng biến đổi
tâm hồn chất phác.
13 Người công chính nên hoàn thiện
chỉ trong một thời gian ngắn,
thì kể như đã hoàn tất một sự
nghiệp lâu dài.
14 Tâm hồn họ đẹp lòng Ðức Chúa,
nên Người vội đem họ ra khỏi nơi
gian ác.
Người đời thấy thế mà không hiểu;
họ không nghĩ được rằng
15 đó chính là cách Người ban ơn,
thương xót những kẻ Người tuyển
chọn,
và viếng thăm các thánh của
Người.
16 Cái chết của người công chính
là lời kết án quân vô đạo còn
sống trên đời.
Còn xuân xanh mà đã nên hoàn
thiện
đó là lời kết án người cao tuổi
mà sống bất lương.
17 Quân vô đạo thấy người khôn ngoan
chết
mà không hiểu Ðức Chúa định đoạt
về họ thế nào,
và tại sao Người đem họ đến nơi
yên ổn.
18 Thấy như thế mà chúng vẫn khinh
thường,
nhưng Ðức Chúa sẽ cười chê bọn
chúng.
19 Rồi sẽ đến lúc chúng thành thây
ma, không ai ngó ngàng tới,
và mãi mãi chúng sẽ là đồ bị lăng
mạ giữa các vong nhân.
Vì Người sẽ xô chúng bổ nhào,
không kịp kêu một tiếng.
Người đánh bật chúng đi, huỷ diệt
chúng đến cùng.
Và chúng sẽ phải chịu nhiều thống
khổ,
chẳng còn ai thèm nhớ đến chúng.
Quân vô đạo trước toà phán xét
20 Chúng sẽ phải kinh hãi ra tính sổ
tội mình.
Chương 05
1 Bấy giờ người công chính đứng dậy
thật hiên ngang
trước những kẻ từng áp bức họ,
từng khinh thường khi họ chịu vất
vả nhọc nhằn.
2 Nhìn thấy người công chính,
quân vô đạo khiếp đảm rụng rời.
Chúng sững sờ kinh ngạc
vì không ngờ họ lại được cứu
thoát.
3 Ðau đớn cả tâm can, chúng than
van rên rỉ, và ân hận bảo nhau:
4 "Người đó, ta đã từng cười
nhạo.
Ta ngu xuẩn biết bao khi coi họ
là đồ ghê tởm,
coi lối sống của họ là điên rồ,
và cái chết của họ là nhục nhã.
5 Thế sao họ lại được kể là con cái
Thiên Chúa
và được chung phần với các thánh
nhân?
6 Thực ra, chính chúng ta mới lạc
xa con đường sự thật;
đối với chúng ta, đức chính trực
đã không toả sáng
và mặt trời đã chẳng mọc lên.
7 Chúng ta đã thoả thuê trong những
nẻo đường tội lỗi,
những nẻo đường dẫn tới diệt
vong,
đã băng qua những sa mạc không
đường lối,
còn con đường Ðức Chúa vạch ra,
chúng ta không nhận biết.
8 Kiêu căng tự mãn đâu ích gì?
Giàu sang hợm hĩnh nào được chi?
9 Tất cả đã qua đi như bóng câu vụt
mất,
như mẩu tin khẩn cấp loan truyền.
10 Và cũng tựa con tàu đi trên sóng
nước
ai còn thấy dấu vết khi nó đã
băng qua?
Ai còn thấy lằn tàu trên sóng
biển?
11 Như con chim bay lượn giữa bầu
trời,
ai tìm được đường bay của nó?
Ðập đôi cánh trên làn khí nhẹ,
nó vỗ cánh lướt đi, vùn vụt băng
ngang trời,
và rồi không còn một dấu vết
đường bay.
12 Như khi mũi tên lao về đích,
trời xé ra, rồi lập tức khép lại
mà không ai biết nổi đường tên
bay.
13 Cũng thế mà thôi, bọn chúng mình:
thoạt sinh ra thì đã biến mất,
chẳng mảy may để lại dấu vết nào
cho thấy rằng mình đã sống đức
hạnh,
nhưng lại đã hoang phí đời mình
trong gian ác."
14 Quả thế, niềm hy vọng của quân vô
đạo
khác nào vỏ trấu bị gió cuốn đi,
ví như bọt nước vỡ tung trong cơn
bão.
Niềm hy vọng ấy sẽ tiêu tan
như khói tan trong gió, và nó sẽ
qua đi
như khách trọ một ngày, chẳng ai
còn nhớ nữa.
Người công chính được vinh quang,
quân vô đạo chịu hình phạt
15 Người công chính sẽ sống muôn
đời.
Họ sẽ được Ðức Chúa ân thưởng
và được Ðấng Tối Cao hằng quan
tâm săn sóc.
16 Quả vậy, họ sẽ lãnh nhận triều
thiên vinh quang
dành cho bậc vương giả,
và ngọc miện rực rỡ chói ngời từ
bàn tay Ðức Chúa.
Vì họ sẽ được tay hữu Người phù
hộ
và cánh tay Người như khiên thuẫn
chở che.
17 Người lấy ghen tuông làm binh
giáp,
dùng thụ tạo làm vũ khí đánh đuổi
quân thù.
18 Người lấy đức công chính làm áo
giáp hộ thân,
dùng phán quyết công minh làm mũ
chiến đội đầu.
19 Sự thánh thiện vô song, Người đưa
ra làm khiên thuẫn.
20 Cơn lôi đình kinh khủng, Người
mài sắc làm gươm.
Cả vũ hoàn cùng Người xuất trận
tấn công phường mê muội ngu si.
21 Như những lằn tên bắn chính xác
từ cây cung giương mạnh,
những tia chớp từ mây trời loé
lên,
phóng thẳng tới đích.
22 Máy bắn đá tung ra trận mưa đá
lôi đình;
sóng biển nổi điên lên trước quân
địch,
sông ngòi nhận chìm chúng, không
một chút xót thương.
23 Như cơn cuồng phong nổi dậy,
hơi thở Ðấng Quyền Năng chống lại
bọn chúng,
đánh bọn chúng tan tành.
Thế là, vì bọn gian ác mà cả mặt
đất sẽ ra hoang tàn,
vì những việc đồi bại mà lũ quyền
uy sẽ bị lật khỏi ngai báu.
Chương 06
II. Vua Sa-Lô-Môn Và Việc Tìm
Kiếm Ðức Khôn Ngoan
Bậc vua chúa phải tìm kiếm Ðức
Khôn Ngoan
1 Vậy, hãy lắng nghe, hãy cố hiểu,
hỡi các bậc quân vương;
hãy học cho biết, hỡi những vị
đang nắm quyền
trên khắp cõi trần gian.
2 Mở tai ra, hỡi những ai đứng đầu
trong thiên hạ,
đang tự hào vì có đông đảo chư
dân.
3 Vì chính Ðức Chúa đã ban cho chư
vị quyền bính
và chính Ðấng Tối Cao đã ban
quyền thống trị.
Cũng chính Người sẽ kiểm tra các
việc chư vị làm
và dò xét những điều chư vị toan
tính.
4 Chư vị là bề tôi phụng sự vương
quyền Người,
nếu như chư vị không xét xử công
minh,
không tuân giữ lề luật, không
theo ý Thiên Chúa,
5 thì quả là kinh khủng hãi hùng,
Người sẽ kíp đứng lên chống chư
vị,
vì một án quyết thật nghiêm minh
vẫn dành sẵn cho những kẻ có chức
có quyền.
6 Quả vậy, người phận nhỏ được
thương tình miễn thứ,
kẻ quyền thế lại bị xét xử thẳng
tay.
7 Chúa Tể muôn loài không bao giờ
vị nể,
kẻ quyền cao chức trọng, Người
cũng chẳng kiêng dè.
Sang hay hèn đều do Người tạo
tác,
đều được Người chăm sóc hệt như
nhau,
8 nhưng kẻ quyền cao sẽ bị tra vấn
nghiêm nhặt.
9 Vậy, hỡi các bậc vua chúa quan
quyền,
những lời tôi nói đây, xin gửi
tới chư vị
để chư vị học biết lẽ khôn ngoan,
mà khỏi phải sẩy chân trật bước.
10 Ai sống thánh và tuân giữ luật
thánh,
thì được kể là bậc thánh nhân.
Ai học hỏi luật thánh, thì sẽ tìm
được lời bào chữa.
11 Vậy chư vị hãy ước ao khao khát
lời tôi,
và chư vị sẽ được chỉ bảo.
Ðức Khôn Ngoan gặp gỡ con người
12 Ðức Khôn Ngoan sáng chói, và không
hề tàn tạ.
Ai mến chuộng Ðức Khôn Ngoan,
thì Ðức Khôn Ngoan dễ dàng cho
chiêm ngưỡng.
Ai tìm kiếm Ðức Khôn Ngoan,
thì Ðức Khôn Ngoan cho gặp.
13 Ai khao khát Ðức Khôn Ngoan,
thì Ðức Khôn Ngoan đi bước trước
mà tỏ mình cho biết.
14 Ai từ sáng sớm đã tìm Ðức Khôn
Ngoan,
thì không phải nhọc nhằn vất vả.
Họ sẽ thấy Ðức Khôn Ngoan ngồi
ngay trước cửa nhà.
15 Ðể tâm suy niệm về Ðức Khôn Ngoan
là đạt được sự minh mẫn toàn hảo.
Ai vì Ðức Khôn Ngoan mà thức
khuya dậy sớm,
sẽ mau trút được mọi lo âu.
16 Vì những ai xứng đáng với Ðức
Khôn Ngoan,
thì Ðức Khôn Ngoan rảo quanh tìm
kiếm.
Trên các nẻo đường họ đi,
Ðức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện.
Mỗi khi họ suy tưởng điều gì,
Ðức Khôn Ngoan đều đến với họ.
17 Vì bước đầu để đạt tới Ðức Khôn
Ngoan
là thật lòng ham muốn học hỏi.
Chăm lo học hỏi là yêu mến Ðức
Khôn Ngoan.
18 Mà yêu mến là tuân giữ lề luật.
Chú tâm tới lề luật của Ðức Khôn
Ngoan
là bảo đảm được trường sinh bất
tử.
19 Trường sinh bất tử cho ta được ở
bên Thiên Chúa.
20 Như vậy, chính lòng kháo khát Ðức
Khôn Ngoan
đưa chúng ta lên hàng vương giả.
21 Thế nên, hỡi chư vị lãnh đạo các
dân,
nếu chư vị quý chuộng ngai báu và
vương trượng,
thì hãy tôn trọng Ðức Khôn Ngoan,
để chư vị được trị vì mãi mãi.
Vua Sa-lô-môn miêu tả Ðức Khôn
Ngoan
22 Ðức Khôn Ngoan là gì, đã sinh
thành ra sao,
tôi xin giãi bày hết, không giấu
giếm chư vị một bí mật nào,
nhưng sẽ lần theo từng dấu vết từ
thuở khai thiên lập địa
mà phô bày ra ánh sáng mọi hiểu
biết về Ðức Khôn Ngoan.
Tôi sẽ không rời xa sự thật.
23 Tôi cũng chẳng chung lối chung
đường
với thói ghen tương độc hại,
bởi thói này chẳng phù hợp với
Ðức Khôn Ngoan.
24 Có nhiều người khôn ngoan, thế
giới được cứu thoát;
nhờ một vị minh quân, cả thần dân
được an cư lạc nghiệp.
25 Vậy chư vị hãy nghe tôi chỉ giáo,
mà hưởng phần ích lợi nơi lời lẽ
của tôi.
Chương 07
Vua Sa-lô-môn cũng chỉ là phàm
nhân
1 Phần tôi, tôi cũng chỉ là một con
người phải chết,
giống như mọi con người.
Tôi thuộc dòng dõi của con người
đầu tiên
đã được nắn ra từ bụi đất.
2 Suốt chín tháng trời nơi dạ mẫu
thân,
thân xác tôi đã thành hình trong
máu huyết,
kết tụ bởi tinh khí nam nhân, và
khoái lạc đi liền với giấc ngủ.
3 Ngày tôi chào đời, tôi hít thở
chung một bầu khí.
Tôi rơi trên đất, chịu chung thân
phận với mọi người.
Tôi cất tiếng khóc, tiếng đầu đời
của bất cứ một ai.
4 Tôi được quấn tã và dưỡng nuôi
chăm sóc.
5 Không vị vua nào không khởi sự
cuộc đời như thế:
6 Ai cũng như ai khi sinh ra và lúc
lìa đời.
Vua Sa-lô-môn ca ngợi Ðức Khôn
Ngoan
7 Vậy tôi nguyện xin, và Thiên Chúa
đã ban cho tôi sự hiểu biết.
Tôi kêu cầu, và thần khí Ðức Khôn
Ngoan đã đến với tôi.
8 Ðức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng
còn hơn cả vương trượng, ngai
vàng.
Tôi không coi của cải là gì so
với Ðức Khôn Ngoan.
9 Ðối với tôi, trân châu bảo ngọc
chẳng sánh được với Ðức Khôn
Ngoan,
vì vàng trên cả thế giới, so với
Ðức Khôn Ngoan,
cũng chỉ là cát bụi,
và bạc, so với Ðức Khôn Ngoan,
cũng kể như bùn đất.
10 Tôi đã ham chuộng Ðức Khôn Ngoan
hơn sức khoẻ và sắc đẹp,
đã quý Ðức Khôn Ngoan hơn ánh
sáng,
vì vẻ rực rỡ của Ðức Khôn Ngoan
chẳng bao giờ tàn lụi.
11 Nhưng cùng với Ðức Khôn Ngoan,
mọi sự tốt lành đã đến với tôi.
Nhờ tay Ðức Khôn Ngoan, của cải
quá nhiều không đếm xuể.
12 Tôi vui hưởng mọi sự tốt lành ấy,
vì chính Ðức Khôn Ngoan đem chúng
đến với tôi;
thế mà tôi lại không biết rằng
Ðức Khôn Ngoan là mẹ sinh ra
chúng.
13 Những điều tôi đã thành tâm học
hỏi được,
xin truyền đạt hết, không dè sẻn
chi.
Tôi không hề giấu giếm của cải
phong phú của Ðức Khôn Ngoan.
14 Ðức Khôn Ngoan là kho báu vô tận
cho con người.
Chiếm được Ðức Khôn Ngoan
là được nên bạn hữu với Thiên
Chúa,
và được Người tin cậy,
vì đã tiếp nhận những lời dạy dỗ
bảo ban.
Kêu xin Thiên Chúa soi sáng
15 Ước gì Thiên Chúa cho tôi nói về
Ðức Khôn Ngoan
theo như tôi được hiểu,
và cho tôi biết nghĩ biết suy
xứng với những gì tôi đã lãnh nhận;
vì chính Người là Ðấng hướng dẫn
Ðức Khôn Ngoan,
và cũng là thầy dạy của các bậc
hiền triết.
16 Bản thân chúng ta, cùng với ngôn
từ,
với toàn bộ trí tuệ và tài năng,
tất cả đều nằm trong tay Thiên
Chúa.
17 Chính Người đã khấng ban cho tôi
tri thức xác thực về những gì
đang hiện hữu
để tôi thấu hiểu cơ cấu của vũ
trụ
và năng lực của các nguyên tố tạo
thành,
18 thấu hiểu về thời gian từ khởi
thuỷ, qua các thời đại,
và cho đến tận cùng của nó,
thấu hiểu về thời tiết chuyển
vần, về các mùa thay đổi,
19 thấu hiểu về chu kỳ năm tháng, về
vị trí tinh tú trên trời,
20 thấu hiểu bản tính các sinh vật
và bản năng các loài dã thú,
thấu hiểu các mãnh lực thần
thiêng
và các tư tưởng của con người,
thấu hiểu các loài thảo mộc và
công hiệu của rễ cây.
21 Mọi sự tiềm ẩn và mọi sự trông
thấy được, tôi đều biết hết.
Vì chính người thợ làm ra muôn
vật muôn loài đã chỉ dạy cho tôi.
Người thợ ấy chính là Ðức Khôn
Ngoan.
Ca tụng Ðức Khôn Ngoan
22 Quả vậy, nơi Ðức Khôn Ngoan,
có một thần khí tinh tường và
thánh thiện,
duy nhất và đa năng, tinh tế và
mau lẹ,
minh mẫn và tinh tuyền, trong
sáng và thản nhiên,
lanh lợi và chuộng điều lành,
23 bất khuất, từ bi và nhân ái,
cương quyết, vững vàng và điềm
tĩnh,
làm được mọi sự và quan tâm đến
mọi điều,
thấu suốt mọi tâm can,
kể cả tâm can của những người
trong sạch,
thông minh, tinh tế nhất.
24 Vì chuyển động của Ðức Khôn Ngoan
thì mau lẹ hơn tất cả các chuyển động.
Do tính thuần khiết, Ðức Khôn
Ngoan thâm nhập
và xuyên thấu mọi vật mọi loài.
25 Ðức Khôn Ngoan toả ra từ quyền
năng Thiên Chúa
và rực lên trong ngần từ vinh
hiển Ðấng Toàn Năng,
nên không thể vương một tì ố.
26 Ðức Khôn Ngoan phản chiếu ánh
sáng vĩnh cửu,
là tấm gương trong phản ánh hoạt
động của Thiên Chúa,
là hình ảnh lòng nhân hậu của
Người.
27 Dầu chỉ một mình,
Ðức Khôn Ngoan vẫn có thể làm
được mọi sự;
luôn luôn bất biến,
Ðức Khôn Ngoan đổi mới được muôn
loài.
Từ thế hệ này qua thế hệ khác,
Ðức Khôn Ngoan ngự vào những tâm
hồn thánh thiện,
biến họ nên bạn hữu của Thiên
Chúa,
nên ngôn sứ của Người.
28 Thiên Chúa chỉ yêu chuộng
những người chung sống với Ðức
Khôn Ngoan.
29 Ðức Khôn Ngoan rực rỡ hơn mặt
trời, trổi vượt muôn tinh tú.
So với Ðức Khôn Ngoan, ánh sáng
còn kém xa.
30 Bởi trước màn đêm, ánh sáng đành
phải lui bước.
Còn Ðức Khôn Ngoan, chẳng gian tà
nào thắng nổi.
Chương 08
1 Từ chân trời này,
Ðức Khôn Ngoan vươn mạnh tới chân
trời kia,
cai quản mọi loài thật tốt đẹp.
Ðức Khôn Ngoan, hiền thê lý tưởng
2 Từ thời trai trẻ,
tôi đã yêu quý và kiếm tìm Ðức
Khôn Ngoan,
tôi tìm cách cưới Ðức Khôn Ngoan
làm bạn đời;
và vẻ đẹp của Ðức Khôn Ngoan làm
tôi say đắm.
3 Nguồn gốc cao sang của mình,
Ðức Khôn Ngoan làm rạng ngời vinh
hiển,
bởi Ðức Khôn Ngoan luôn sống cùng
Thiên Chúa;
và Chúa Tể muôn loài
vẫn hằng yêu quý Ðức Khôn Ngoan.
4 Ðức Khôn Ngoan đã được truyền thụ
những hiểu biết về Thiên Chúa,
và chính Ðức Khôn Ngoan
quyết định về những công
trình của Người.
5 Nếu trên đời này, giàu sang là
báu vật ai ai cũng khao khát,
thì còn có gì giàu sang hơn Ðức
Khôn Ngoan,
vì Ðức Khôn Ngoan làm nên tất cả?
6 Nếu như con người vận dụng trí
thông minh
mà làm nên việc này việc nọ,
thì hỏi có ai hơn được Ðức Khôn
Ngoan
là tay thợ đã làm nên tất cả?
7 Con người mến chuộng đức công
bình ư?
Thì chính Ðức Khôn Ngoan sản sinh
các nhân đức:
Quả vậy, Ðức Khôn Ngoan dạy cho
biết sống tiết độ,
cẩn trọng, công bình và dũng
mãnh.
Trên đời này, còn chi hữu ích cho
con người
hơn các nhân đức ấy?
8 Con người muốn học hỏi nhiều kinh
nghiệm ư?
Thì chính Ðức Khôn Ngoan biết rõ
quá khứ
và đoán đúng tương lai,
thông hiểu châm ngôn và giải được
ẩn ngữ,
biết trước các dấu lạ điềm
thiêng, cũng như các thành tựu
diễn biến trong thời gian, thời
đại này qua thời đại khác.
Vua chúa cần có Ðức Khôn Ngoan
9 Thế nên, tôi đã quyết định
cưới Ðức Khôn Ngoan làm người
chung sống suốt đời,
vì tôi biết Ðức Khôn Ngoan sẽ
khuyên bảo tôi làm điều thiện,
sẽ trợ lực cho tôi khi tôi gặp
buồn phiền lo lắng.
10 Nhờ Ðức Khôn Ngoan, tôi sẽ được
vẻ vang giữa muôn người,
và dẫu còn trẻ tuổi,
tôi vẫn chiếm được sự nể vì của
các vị bô lão.
11 Thiên hạ sẽ thấy tôi xét xử thật
sáng suốt,
và những người quyền thế sẽ nhìn
tôi,
bằng cặp mắt thán phục.
12 Khi tôi lặng thinh, họ chờ tôi
lên tiếng,
khi tôi lên tiếng, họ chăm chú
lắng nghe,
và khi tôi thao thao bất tuyệt,
họ tỏ lòng cung kính.
13 "Nhờ Ðức Khôn Ngoan, tôi sẽ
được trường sinh bất tử,
và muôn đời lưu danh hậu thế.
14 Tôi sẽ thống trị chư dân, và các
nước sẽ phải thần phục.
15 Nghe danh tôi, các bạo chúa sẽ
phải khiếp kinh.
Tôi tỏ ra nhân hậu với dân chúng,
và quả cảm nơi trận địa.
16 Trở về nhà, tôi nghỉ ngơi bên
cạnh Ðức Khôn Ngoan,
vì làm bạn với Ðức Khôn Ngoan,
không bao giờ cay đắng,
và chung sống với Ðức Khôn Ngoan,
chẳng khi nào đau khổ,
mà luôn luôn thích thú, hân
hoan."
Vua Sa-lô-môn xin cho được Ðức
Khôn Ngoan
17 Tôi gẫm suy những điều ấy và thầm
nghĩ trong lòng rằng:
thân thiết với Ðức Khôn Ngoan là
được trường sinh bất tử;
18 làm bạn với Ðức Khôn Ngoan là một
thú vui tuyệt diệu;
bàn tay Ðức Khôn Ngoan làm ra của
cải ê hề;
thường xuyên tiếp xúc với Ðức
Khôn Ngoan,
sẽ được nên sáng suốt;
bàn luận với Ðức Khôn Ngoan,
tiếng tăm sẽ lẫy lừng.
Bởi thế tôi đi khắp ngả
tìm cách lấy được Ðức Khôn Ngoan
cho riêng mình.
19 Tôi đã là một đứa trẻ nhiều may
mắn từ lúc sinh ra,
đã nhận được một linh hồn lương
hảo;
20 hay đúng hơn, vì là lương hảo,
tôi đã được nhập vào một thể xác
không vết nhơ.
21 Nhưng tôi vẫn hiểu rằng:
Ðức Khôn Ngoan, tôi không thể có
được,
nếu Thiên Chúa chẳng ban cho tôi,
- biết được ơn này do ai ban
tặng,
thì cũng đã khôn ngoan phần nào
rồi
nên tôi hướng về Ðức Chúa và cầu
nguyện, tôi hết lòng thưa lên:
Chương 09
Lời cầu xin cho được Ðức Khôn
Ngoan
1 "Lạy Thượng Ðế của bậc tổ
tiên,
lạy Ðức Chúa từ bi lân tuất,
Chúa dùng lời Chúa mà tác thành
vạn vật,
2 dùng sự khôn ngoan Chúa mà cấu
tạo con người,
để con người làm chủ mọi loài
Chúa dựng nên,
3 và sống sao cho thánh thiện công
chính
mà chỉ huy cả vũ trụ này,
cùng được một tâm hồn ngay thẳng
mà phân biệt phải trái.
4 Xin rộng ban cho con
Ðức Khôn Ngoan hằng ngự bên toà
Chúa.
Xin đừng đuổi con đi mà chẳng
nhận làm con.
5 Vì thân này là tôi tớ, con của nữ
tỳ Ngài,
số phận mỏng manh, cuộc đời vắn
vỏi,
việc pháp đình lề luật, con bé
bỏng hiểu chi!
6 Quả thế, con người ta dẫu thập
toàn đi nữa
mà chẳng có Ðức Khôn Ngoan của
Ngài,
thì cũng kể bằng không không vậy.
7 Nhưng chính Chúa lại tuyển chọn
con
làm vua của dân Ngài,
và làm người xét xử con trai con
gái của Ngài.
8 Cũng chính Chúa dạy con
xây một đền thờ trên núi thánh
của Ngài,
và xây một bàn thờ trong thành
Ngài ngự
theo như mẫu lều thánh
Ngài chỉ vẽ cho từ thuở ban đầu.
9 Ðức Khôn Ngoan ở kề bên Chúa,
biết những việc Chúa làm,
hiện diện khi Ngài tạo thành vũ
trụ,
biết rõ những gì đẹp mắt Chúa
và phù hợp với huấn lệnh của
Ngài.
10 Tự cõi trời thánh thiêng Chúa
ngự,
xin gửi Ðức Khôn Ngoan Ngài tới,
xin phái đến từ toà cao vinh
hiển,
để phù trì và đồng lao cộng khổ
với con,
cho con biết điều đẹp ý Chúa.
11 Vì Ðức Khôn Ngoan hiểu biết tất
cả,
sẽ khôn khéo hướng dẫn con trong
việc con làm,
lấy quyền năng vinh hiển mà gìn
giữ con.
12 Nhờ thế, những gì con thực hiện
sẽ làm vui lòng Chúa,
và con sẽ công minh xét xử dân
Ngài
hầu xứng đáng với ngai vàng của
thân phụ con.
13 Lạy Chúa, nào có ai biết được ý
định của Thiên Chúa?
Nào có ai hiểu được Ðức Chúa muốn
điều chi?
14 Chúng con vốn là loài phải chết,
tư tưởng không sâu, lý luận không
vững.
15 Quả vậy, thân xác dễ hư nát này
khiến linh hồn ra nặng,
cái vỏ bằng đất này làm tinh thần
trĩu xuống
vì lo nghĩ trăm bề.
16 Những gì thuộc hạ giới,
chúng con đã khó mà hình dung
nổi,
những điều vừa tầm tay,
đã phải nhọc công mới khám phá
được,
thì những gì thuộc thượng giới,
có ai dò thấu nổi hay chăng?
17 Ý định của Chúa, nào ai biết
được, nếu tự chốn cao vời,
chính Ngài chẳng ban Ðức Khôn
Ngoan,
chẳng gửi thần khí thánh?
18 Chính vì thế mà đường lối người
phàm
được sửa lại cho thẳng,
cũng vì thế mà con người được dạy
cho biết
những điều đẹp lòng Ngài,
và nhờ Ðức Khôn Ngoan mà được cứu
độ."
Chương 10
III. Ðức Khôn Ngoan Hoạt Ðộng
Trong Lịch Sử
Từ ông A-đam tới ông Mô-sê
1 Chính Ðức Khôn Ngoan đã giữ gìn
tổ phụ của thế giới,
đó là con người được hình thành
đầu tiên,
và lúc được tạo dựng, mới chỉ có
một mình.
Rồi khi ông sa ngã, cũng chính
Ðức Khôn Ngoan đã giải cứu ông,
2 ban cho ông sức mạnh mà thống trị
muôn vật muôn loài.
3 Nhưng trong cơn giận, đứa ác nhân
lìa xa Ðức Khôn Ngoan,
nó đã tự hại mình khi bừng bừng
sát khí giết em.
4 Vì tên sát nhân này, cả mặt đất
đã phải ngập lụt,
nhưng Ðức Khôn Ngoan lại ra tay
cứu thoát.
Và chỉ bằng một bè gỗ tầm thường,
Ðức Khôn Ngoan đã hướng dẫn chính
nhân.
5 Trong cảnh hỗn loạn, khi thiên hạ
nhất tề làm điều ác,
thì cũng Ðức Khôn Ngoan nhận ra
ai là người chính trực
và gìn giữ ông được vẹn toàn
trước mặt Thiên Chúa,
ban cho ông sức mạnh giúp ông
vượt cả tình cha con.
6 Rồi đến khi những kẻ gian tà bị
tiêu diệt,
lại chính Ðức Khôn Ngoan giải cứu
người công chính
thoát trận mưa lửa trút xuống Ngũ
Thành.
7 Ðất đai khô cằn, khói lên nghi
ngút,
cây sinh trái, nhưng trái không
chín nổi.
Ðó là chứng cớ tội lỗi chúng gây
nên.
Và cột muối kia còn đứng sững,
cho đời nhớ mãi một kẻ cứng lòng
tin.
8 Bởi vì, những kẻ lạc xa đường lối
Ðức Khôn Ngoan
không những bị thiệt thòi là không
được biết đến điều thiện,
mà còn lưu lại cho hậu thế cái
chứng tích ngu xuẩn của mình,
và do vậy, những lỗi lầm đã mắc
sẽ không sao giấu nổi.
9 Nhưng những ai phụng sự Ðức Khôn
Ngoan
sẽ được Ðức Khôn Ngoan giải cứu
khỏi mọi nỗi nhục nhằn.
10 Ðức Khôn Ngoan hướng dẫn chính
nhân
đi đúng đường đúng lối, thoát
khỏi cơn giận của anh mình,
cho chính nhân được thấy nước
Thiên Chúa,
được biết những điều thánh,
giúp cho ông thành đạt trong công
việc nặng nề,
và cho những khó nhọc của ông đem
lại nhiều kết quả.
11 Ðức Khôn Ngoan đã giúp cho ông
chống những kẻ tham lam bóc lột,
và làm cho ông trở nên giàu có,
12 giữ gìn ông thoát khỏi tay kẻ
thù,
che chở ông khỏi những người
giăng bẫy,
tuyên bố ông là người chiến thắng
trong trận đấu gay go,
để ông biết được rằng lòng đạo
đức mạnh hơn tất cả.
13 Ðức Khôn Ngoan không hề bỏ mặc
người công chính bị bán làm tôi,
nhưng đã cứu ông khỏi tội lỗi.
14 Ðức Khôn Ngoan đã cùng ông xuống
giếng,
chẳng bỏ rơi khi ông phải mang
xiềng,
rồi sau đó, ban cho ông vương
trượng
để ông cai trị bọn quyền thế.
Ðức Khôn Ngoan vạch trần sự gian
xảo
của những kẻ đã vu khống cho ông,
và thế là ông được hiển vinh mãi
mãi.
Cuộc xuất hành
15 Ðức Khôn Ngoan đã giải thoát dân
thánh,
đã giải thoát dòng giống vẹn
toàn, khỏi một dân bách hại.
16 Ðức Khôn Ngoan nhập vào hồn tôi
trung Ðức Chúa,
dùng điềm thiêng dấu lạ chống bạo
quyền.
17 Ðức Khôn Ngoan trả công
cho dân thánh đã từng chịu gian
khó,
dẫn họ trên những nẻo đường kỳ
diệu,
thành bóng mát che họ ban ngày,
thành ánh sáng soi họ ban đêm,
18 đưa họ qua Biển Ðỏ, dẫn họ qua
làn nước mênh mông.
19 Nhưng địch thù của họ, Ðức Khôn
Ngoan nhận chìm
rồi từ vực thẳm hất tung chúng
lên.
20 Thế là quân ngoại giáo bị những
người công chính tước đoạt.
Và, lạy Ðức Chúa, những người
công chính đó
đã tán tụng Thánh Danh,
đồng thanh ca ngợi Ngài ra tay
phù trợ.
21 Vì Ðức Khôn Ngoan mở miệng người
câm,
và cho lưỡi trẻ thơ nói năng dễ
dàng.
Chương 11
1 Nhờ tay ngôn sứ thánh,
Ðức Khôn Ngoan giúp dân đạt kết
quả thuận lợi
trong mọi việc họ làm.
2 Họ băng qua sa mạc hoang vu,
dựng lều trại giữa nơi thanh
vắng.
3 Họ đương đầu với quân thù, và đẩy
lui địch thủ.
Ví dụ thứ nhất: nước
4 Họ khát nước, họ đã kêu cầu:
từ vách đá, Ngài cho nước chảy
tuôn;
từ đá cứng, nước trào ra cứu mọi
người khỏi khát.
5 Vậy là sự vật Chúa dùng để trừng
phạt quân thù
lại mang điều lành tới cho dân
khi họ gặp khó khăn cùng quẫn.
6 Thay vì nguồn nước sông không cạn
cuồn cuộn máu lẫn bùn
7 được dùng để trị tội ra lệnh giết
trẻ thơ,
Chúa ban cho dân nguồn nước dồi
dào
khi họ đã đến hồi tuyệt vọng.
8 Chịu khát như vậy, họ mới thấy
Chúa đã trị tội kẻ thù họ đến mức
nào.
9 Quả vậy, khi dân chịu thử thách,
- dầu việc Chúa sửa dạy chỉ là
bởi tình thương
họ mới thấy rõ, quân vô đạo đã
khốn khổ dường nào
khi bị phán xét theo cơn thịnh
nộ.
10 Bởi vì dân thánh Ngài,
Ngài chỉ thử thách họ như người
cha cảnh cáo.
Còn lũ ác nhân thì Ngài hạch hỏi
như ông vua nghiêm khắc kết án
tội nhân.
11 Bất luận ở xa hay ở gần dân
thánh,
chúng đều bị tiêu diệt như nhau.
12 Khi nhớ về dĩ vãng, chúng than
khóc và phiền muộn gấp đôi.
13 Quả vậy, khi chúng hay rằng :
chính sự vật Chúa dùng để trừng
phạt chúng,
lại nên ân huệ cho dân Ngài,
thì chúng đã nhận ra Ðức Chúa.
14 Vì người mà chúng hất hủi và nhạo
báng xưa kia,
cuối cùng lại làm chúng phải ngạc
nhiên thán phục,
sau khi chúng đã chịu một cơn
khát
không giống như cơn khát của
chính nhân.
Chúa nhẹ tay với dân Ai-cập
15 Chúng đã ra lầm lạc
khi nuôi những tâm tưởng bất
chính ngu si,
mà tôn thờ rắn rết vô tri và sâu
bọ hèn kém,
nên Ngài đã gửi đến nhiều sinh
vật vô tri
để trừng phạt bọn chúng.
16 Như thế chúng hiểu rằng phạm tội
làm sao thì bị phạt làm vậy.
17 Quả vậy, Chúa toàn năng, từ chất
thể không hình không dạng,
đã ra tay tạo dựng vũ hoàn, thì
để chống lại chúng,
Ngài cũng không ngần ngại gửi đến
vô số gấu và sư tử dữ dằn
18 cũng như nhiều ác thú mới được
tạo dựng, và chưa ai biết đến,
những ác thú vô cùng hung tợn,
khạc ra lửa và phun khói phì phò,
mắt tung ra những làn chớp kinh
khủng.
19 Bọn ác nhân đó có thể bị diệt trừ
khi những thú dữ này ra sức tàn
hại.
Không những thế,
chỉ cần nhìn thấy những con vật
khủng khiếp này,
chúng đã có thể bị tận diệt.
20 Nhưng chẳng cần những con vật đó,
mà một hơi thở thôi
cũng đủ làm cho quân vô đạo phải
té nhào.
Chúng bị công lý đeo đuổi,
và hơi thở quyền năng của Ngài
cuốn đi.
Nhưng Chúa đã sắp xếp có chừng có
mực,
đã tính toán và cân nhắc cả rồi.
Lý do khiến Chúa nương tay
21 Quyền năng Chúa luôn luôn vĩ đại,
ai chống nổi cánh tay dũng mãnh
của Ngài?
22 Trước Thánh Nhan, toàn thể vũ trụ
ví tựa hạt cát trên bàn cân, tựa
giọt sương mai rơi trên mặt đất.
23 Nhưng Chúa xót thương hết mọi
người,
vì Chúa làm được hết mọi sự.
Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn
đến tội lỗi loài người,
để họ còn ăn năn hối cải.
24 Quả thế, Chúa yêu thương mọi loài
hiện hữu,
không ghê tởm bất cứ loài nào
Chúa đã làm ra,
vì giả như Chúa ghét loài nào,
thì đã chẳng dựng nên.
25 Nếu như Ngài không muốn, làm sao
một vật tồn tại nổi?
Nếu như Ngài không cho hiện hữu,
làm sao nó có thể được duy trì?
26 Lạy Chúa Tể là Ðấng yêu sự sống,
Chúa xử khoan dung với mọi loài,
vì mọi loài đều là của Chúa.
Chương 12
1 Quả vậy, lạy Ðức Chúa, sinh khí
bất diệt của Ngài
ở trong muôn loài muôn vật.
2 Vì thế, những ai sa ngã, Chúa sửa
dạy từ từ.
Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ
họ đã phạm tội gì,
để họ bỏ điều ác mà tin vào Chúa.
Chúa nhẹ tay với Ca-na-an
3 Những ai xưa kia cư ngụ trên đất
thánh của Ngài,
4 Ngài chê ghét những hành vi đáng
trách của họ:
những việc phù phép, những lễ bái
vô luân.
5 Bọn độc ác sát hại trẻ thơ,
bọn bày tiệc uống máu ăn thịt
người, ăn cả gan cả ruột,
bọn gia nhập những hội tế thần,
6 bọn cha mẹ sát nhân giết cả những
con người chưa thể tự vệ;
hết thảy những bọn đó,
Ngài đã muốn dùng tay cha ông
chúng con mà tiêu diệt,
7 để cho vùng đất Ngài quý chuộng
hơn hết
tiếp nhận được đoàn lũ con cái
Ngài,
những người xứng đáng tới chiếm
ngụ.
8 Nhưng ngay cả với bọn đó, Ngài
cũng nhẹ tay,
vì chúng chỉ là những con người:
Ngài đã sai ong bầu làm tiền đạo
cho đoàn quân của Ngài,
để bọn chúng chỉ bị giết từ từ
thôi.
9 Không phải là Ngài không thể cho
dàn binh bố trận
mà trao quân vô đạo vào tay các
chính nhân;
cũng không phải là Ngài không thể
dùng thú dữ hay một lời nghiêm
khắc
tiêu diệt chúng một lần là xong.
10 Nhưng Ngài trừng phạt chúng từ từ
cho chúng có cơ may hối cải.
Tuy nhiên không phải Ngài không
biết
rằng chúng là dòng dõi gian tà,
bẩm sinh vốn xấu xa,
tâm trí chẳng bao giờ thay đổi.
11 Ðó là dòng giống bị chúc dữ ngay
từ đầu.
Lý do khiến Chúa nương tay
Cũng không phải sợ hãi gì ai
mà Chúa không trừng phạt lỗi lầm
của chúng.
12 Vì nào ai dám hỏi: "Chúa làm
chi vậy?"
Ai dám chống lại phán quyết của
Ngài?
Và ai dám cáo tội Ngài huỷ diệt
dân nước Ngài đã lập nên?
Ai dám đứng lên chống lại Ngài
và bênh vực bọn người gian ác?
13 Vì Chúa chăm sóc mọi loài.
Ngoài Ngài ra, chẳng còn thần nào
khác
để Ngài phải chứng tỏ
rằng các phán quyết của Ngài
không bất công.
14 Cũng chẳng có vua quan nào
có khả năng chống lại Chúa
mà bênh đỡ cho những kẻ Ngài
trừng phạt.
15 Nhưng Ngài là Ðấng công chính,
cai trị muôn loài thật công minh.
Và kết án kẻ không đáng trừng
phạt
là điều xa lạ đối với Chúa quyền
năng.
16 Chính do sức mạnh của Chúa
mà Chúa hành động công minh,
và vì Chúa làm bá chủ vạn vật,
nên Chúa nương tay với muôn loài.
17 Khi không có ai tin rằng Chúa nắm
trọn quyền năng,
thì Ngài tỏ sức mạnh;
còn ai đã biết mà vẫn to gan, thì
Ngài trị tội.
18 Nhưng Chúa xử khoan hồng vì Ngài
làm chủ được sức mạnh.
Ngài lấy lượng từ bi cao cả mà
cai quản chúng con,
nhưng có thể sử dụng quyền năng
bất cứ khi nào Ngài muốn.
Những bài học Chúa dạy cho
Ít-ra-en
19 Làm như thế Chúa đã dạy dân rằng:
người công chính phải có lòng
nhân ái.
Ngài đã cho con cái niềm hy vọng
tràn trề
là người có tội được Ngài ban ơn
sám hối.
20 Vì nếu thù địch của con cái Ngài
là những kẻ đáng chết,
mà khi trừng phạt, Ngài còn quan
tâm và khoan hồng,
ban cho chúng có thời gian và cơ
hội để dứt bỏ đường lối gian tà,
21 thì khi xét xử con cái, Ngài lại
càng thận trọng biết bao,
bởi Ngài đã thề nguyền và kết ước
với cha ông họ,
mà hứa ban những sự tốt lành.
22 Như thế, khi nương tay với thù
địch của chúng con,
Chúa dạy dỗ chúng con là khi đứng
xét xử,
chúng con phải nhớ lại lòng từ ái
của Ngài;
còn khi bị Ngài xét xử,
chúng con biết tin tưởng vào tình
thương của Ngài.
Lại nói về hình phạt Ai-cập
23 Như thế, những kẻ sống cuộc đời
ngu si bất chính,
Ngài bắt chúng phải chịu cực hình
bằng chính những đồ ghê tởm chúng
bày ra.
24 Bởi chúng đã quá lầm đường lạc
lối
khi những con vật hèn kém và đáng
khinh hơn cả,
chúng lại coi như là thần minh.
Chúng để cho mình bị lường gạt
như đám trẻ nhỏ chưa đủ trí khôn.
25 Thế nên, như đối với trẻ con chưa
biết suy nghĩ,
Ngài đã xử phạt chúng bằng cách
biến chúng nên trò cười.
26 Nhưng những ai không thèm đếm xỉa
đến những hình phạt như dành cho
trẻ nhỏ kia,
thì sẽ bị Thiên Chúa xét xử đích
đáng.
27 Khốn đốn vì bị thú vật làm khổ,
và thấy mình bị trừng phạt
do chính những con vật mình vốn
coi là thần minh,
chúng mới thấy rõ, chúng mới nhìn
nhận
rằng Ðấng xưa kia chúng đã khước
từ,
chính là Thiên Chúa thật.
Và vì thế, án quyết cuối cùng ập
xuống trên chúng.
Chương 13
Kết án tội thờ ngẫu tượng
1 Hết những ai không chịu nhìn nhận
Thiên Chúa,
tự bản chất là những kẻ ngu si.
Từ những vật hữu hình tốt đẹp,
chúng không đủ khả năng nhận ra
Ðấng hiện hữu,
và khi chiêm ngắm bao công trình,
chúng cũng không nhận biết Ðấng
Hoá Công.
2 Thế mà, lửa với gió, hay làn khí
thoảng qua,
hay tinh tú bầu trời, hay nước
chảy cuồn cuộn,
hay đèn trời thắp sáng, chúng lại
coi là thần,
là những bậc quản cai hoàn vũ.
3 Nếu chúng say mê những vẻ đẹp đó
mà coi là thần minh, thì cũng phải biết rằng
Chúa Tể của những vật đó còn đẹp
hơn biết mấy,
vì chính Ðấng sáng tạo mọi loài
là tác giả của muôn vẻ đẹp.
4 Nếu quyền năng và sức mạnh của
những vật kia
làm cho chúng kinh ngạc
thì chúng phải hiểu rằng Ðấng làm
nên những vật đó
còn mạnh mẽ hơn biết chừng nào.
5 Vì các thọ tạo càng lớn lao đẹp
đẽ
thì càng giúp nhận ra Ðấng tạo
thành.
6 Tuy vậy, chúng cũng chỉ đáng
trách phần nào thôi
vì đã cố tìm và mong thấy Thiên
Chúa,
nhưng có thể chúng bị lầm lạc.
7 Bị chìm ngập giữa bao nhiêu công
trình của Chúa,
chúng ra sức tìm tòi,
nhưng đã để cho cái vỏ bên ngoài
mê hoặc
vì vẻ đẹp mà chúng nhìn thấy.
8 Tuy nhiên, không vì thế mà chúng
được thứ tha.
9 Vì nếu chúng có đủ khả năng hiểu
biết
để có thể nghiên cứu các sự vật
trên đời,
thì sao lại không sớm nhận ra
Ðấng Chủ Tể của những sự vật đó?
Tôn thờ ngẫu tượng
10 Khốn thay ai đặt hy vọng vào
những vật không hồn,
ai tôn làm thần minh những sản
phẩm tay con người chế tạo:
đó là những con thú bằng bạc bằng
vàng
do những người tài nghệ làm ra,
hay những khối đá vô tích sự,
sản phẩm của những bàn tay khéo
léo thuở nào.
11 Kìa anh thợ mộc cưa một khúc cây
dễ chế biến.
Anh ta lẹ làng tước hết vỏ, rồi
làm thật khéo tay,
chế ra đồ dùng ích lợi cho
cuộc sống.
12 Xong việc, anh lấy những mẩu thừa
đem nấu nướng thức ăn, rồi anh ăn
thoả thích.
13 Nhưng còn lại một mẩu chẳng dùng
được việc gì,
vì cong queo và đầy mấu đầy mắt,
anh đem ra khắc khắc chạm chạm
cho qua giờ.
Anh chạm trổ vào những lúc rảnh
rỗi
khéo léo tạc ra một hình người,
14 hoặc làm cho giống một loài vật
hèn kém,
sơn đỏ phết hồng lên mặt mũi, che
lấp những vết dơ.
15 Rồi anh dọn một nơi thích hợp
trên tường,
đặt nó lên, đóng đinh cho chắc.
16 Anh làm sao cho nó khỏi đổ,
vì vốn biết nó không thể tự lo
cho mình,
bởi nó chỉ là pho tượng cần chống
đỡ.
17 Thế mà, anh lại chẳng ngượng
ngùng
lên tiếng khẩn cầu trước vật
không hồn ấy
trong những chuyện liên quan tới
của cải, vợ con.
Với vật yếu đuối, anh xin sức
khoẻ;
18 với vật không hồn, anh xin sự
sống;
với vật không kinh nghiệm, anh
xin sự giúp đỡ;
với vật không đi được nửa bước,
anh xin ơn thượng lộ bình an;
19 với vật không nhích nổi đôi tay,
anh xin cho mình nhiều sức lực,
cho việc tay mình làm được mỹ mãn
thành công.
Chương 14
1 Một người khác chuẩn bị ra khơi,
vượt sóng to gió lớn,
lại đi khẩn cầu với khúc gỗ
mong manh hơn cả con thuyền chở
anh ta.
2 Con thuyền này, anh ta đã nghĩ ra
vì ham lợi,
đã chế ra với trí khôn ngoan của
tay thợ lành nghề.
3 Thế nhưng lạy Cha, chính Cha mới
quan phòng hướng dẫn
vì Cha đã vạch đường giữa biển,
rẽ lối an toàn trên sóng nước.
4 Ðiều đó cho thấy rằng Cha có thể
cứu khỏi mọi hiểm nguy,
để người ta có thể xuống thuyền,
dầu chưa có kinh nghiệm.
5 Cha muốn rằng những việc do đức
khôn ngoan của Cha làm ra
không được trở thành vô giá trị.
Vì thế, người ta mới dám phó mạng
sống mình
cho một miếng ván bé tẻo teo,
mới vượt sóng trên một chiếc bè
mà vẫn được bình an vô sự.
6 Quả vậy, ngay từ buổi đầu,
khi những người khổng lồ kiêu
ngạo bị diệt vong,
thì niềm hy vọng của thế gian
lại tìm nương náu trên một chiếc
bè,
để lại dòng giống cho thế hệ mai
sau
nhờ có Cha ra tay hướng dẫn.
7 Phúc thay mảnh gỗ đã trở thành
phương tiện
đem lại ơn công chính.
8 Nhưng tượng thần do tay người làm
ra
thì khốn cho nó và kẻ làm ra nó:
một bên đã chế tạo,
bên kia vốn là đồ mục nát, mà lại
được xưng tụng là thần.
9 Vì đối với Thiên Chúa
đứa vô đạo và tội vô đạo, cả hai
đều đáng ghét.
10 Ðồ làm ra cùng với kẻ làm ra đều
sẽ bị gia hình.
11 Bởi thế, Thiên Chúa sẽ trừng trị
hết mọi tượng thần của chư dân,
vì giữa muôn loài thụ tạo của
Thiên Chúa
tượng thần đã nên đồ ghê tởm,
nên cớ vấp ngã cho con người,
nên cạm bẫy cho kẻ ngu dốt trượt
chân.
Nguồn gốc việc tôn thờ ngẫu tượng
12 Ý định làm ra các tượng thần là
đầu mối của tội bất trung.
Sáng chế ra tượng thần là làm cho
cuộc đời hư hỏng.
13 Vì thuở ban đầu, tượng thần không
hề có,
và rồi cũng chẳng tồn tại mãi đâu.
14 Chúng đi vào thế giới là do con
người ham muốn hư vinh.
Vì thế số phận của chúng là sớm
bị tiêu diệt.
15 Một người cha phiền muộn khóc
thương con chết yểu
đã làm nên hình tượng đứa trẻ sớm
mất đi;
và con người hôm qua chỉ là một
người chết,
hôm nay ông tôn kính như một vị
thần.
Ông còn truyền lại cho những kẻ
thuộc quyền ông
bao điều huyền nhiệm cùng lễ bái.
16 Ngày tháng trôi qua, thói vô đạo
này càng được củng cố,
được tuân hành giống như luật
buộc.
Theo lệnh vua chúa truyền,
phải tôn thờ hình tượng chạm trổ:
17 Những người vì ở xa
không thể diện kiến long nhan để
thờ kính,
thì từ xa đã hoạ lại dung nhan,
làm ra ảnh tượng vua chúa mình
thờ kính,
rồi xum xoe tâng bốc ông vua vắng
mặt,
như thể ông có mặt ở đó.
18 Còn những người chẳng quen biết
vua,
thì đã có những nghệ sĩ đầy tham
vọng
ra công cổ võ việc thờ kính ông.
19 Hẳn nghệ nhân muốn vừa ý kẻ cầm
quyền, nên đem hết tài ba
làm cho tác phẩm mình đẹp hơn
nguyên mẫu.
20 Còn quần chúng bị vẻ đẹp của tác
phẩm lôi cuốn,
thì nghĩ rằng giờ đây mình phải thờ
lạy
con người mới trước đây mình chỉ
kính tôn.
21 Ðó là cạm bẫy trong cuộc sống,
vì những ai phải chịu cảnh khốn
cùng,
hay phải luỵ phục quyền bính,
thường gán cho đá cho gỗ
danh hiệu chỉ dành cho một Ðấng
duy nhất thôi.
Hậu quả của việc tôn thờ ngẫu tượng
22 Ngoài ra, không những họ chỉ hiểu
biết sai lầm về Thiên Chúa
mà đang khi phải sống trong cuộc
chiến khốc liệt vì u mê,
họ gọi những tai hoạ đó là hoà
bình.
23 Họ giết trẻ thơ mà tế lễ,
họ làm những nghi thức bí truyền,
lại tổ chức những cuộc lễ man rợ,
theo những tập tục lố lăng.
24 Họ quả không coi trọng mạng sống
và xem thường cuộc hôn nhân trong
sạch.
Người này giăng bẫy sát hại người
kia,
người ta giết nhau bằng thủ đoạn
hoặc làm khổ nhau vì chuyện ngoại
tình.
25 Nơi đâu cũng hỗn loạn:
đổ máu và giết người, cướp giật
và lừa đảo,
nhũng lạm, bất tín, bạo loạn, bội
thề.
26 Vàng thau lẫn lộn, bội nghĩa vô
ân,
tâm hồn nhơ nhuốc, dục tình đồi
bại,
rồi hôn nhân hỗn loạn, ngoại tình
và phóng đãng.
27 Vì khởi đầu, nguyên nhân và tột
đỉnh của bất cứ một sự dữ nào,
ấy là việc thờ ngẫu tượng không
tên.
28 Vì họ hưởng lạc thú đến thác loạn
hoặc tuyên những lời sấm dối
gian,
sống bất trung bất chính, bội ước
cách dễ dàng.
29 Vì tin các ngẫu tượng vô hồn
nên họ chẳng hề lo bị phạt khi
thề gian thề dối.
30 Nhưng chúng sẽ lãnh hai bản án,
vì đã nghĩ sai về Thiên Chúa mà
chạy theo tà thần,
và đã thề gian thề dối mà coi
thường sự thánh thiện.
31 Chính án phạt dành cho tội nhân
sẽ luôn săn đuổi lỗi phạm của
phường vô đạo,
chứ không phải quyền năng của các
thần
dù họ đã nhân danh các thần mà
thề hứa.
Chương 15
Ít-ra-en không thờ ngẫu tượng
1 Nhưng phần Ngài, lạy Thiên Chúa
chúng con,
Ngài tốt lành, chân thật và kiên
nhẫn,
lấy lòng thương xót mà cai quản
muôn loài.
2 Ngay cả khi chúng con phạm tội,
thì chúng con vẫn thuộc về Ngài
và nhìn nhận Ngài là Ðấng quyền
năng.
Nhưng chúng con quyết không phạm
tội nữa,
vì nhìn nhận : chúng con thuộc về
Ngài.
3 Quả vậy biết Ngài tường tận là
đạt được công chính hoàn hảo,
nhìn nhận quyền năng Ngài là đạt
được nguồn ơn bất tử.
4 Những sản phẩm của một thứ nghệ
thuật đồi bại
do con người phàm tục chế ra,
những công trình vô bổ của các
nhà hoạ sĩ,
những hình ảnh lem luốc với màu
sắc loè loẹt,
những thứ đó không thể mê hoặc
chúng con.
5 Thấy những hình ảnh lem luốc kia
đứa ngu si nổi lòng ham muốn,
ham thích những chân dung bất
động, những hình ảnh vô hồn.
6 Những ai làm ra, những ai ưa
thích,
những ai thờ lạy các ngẫu tượng
kia,
đều là người say mê sự dữ, hy
vọng chuyện hão huyền.
Ðiên rồ thay ai làm ra ngẫu tượng
7 Này anh thợ gốm vất vả nhồi đất
cho nhuyễn,
nặn ra từng vật cho chúng ta
dùng.
Cũng từ một khối đất,
anh nặn những chiếc bình dùng vào
việc cao quý,
cũng có những chiếc bình dùng vào
việc hoàn toàn khác hẳn,
nhưng tất cả được nhào nặn như
nhau.
Trong hai loại bình đó, mỗi cái
dùng cho việc nào,
chính anh thợ là người ấn định.
8 Thế rồi cũng từ khối đất ấy,
anh vất vả phí công nặn ra một
thứ thần hư ảo.
Cũng chính anh ta mới ngày nào
sinh ra từ bụi đất,
và chẳng bao lâu nữa sẽ trở về
nơi anh ta đã được lấy ra,
khi anh phải hoàn trả sự sống
người ta cho anh vay.
9 Nhưng anh không bận tâm về số
phận phải chết
hay về cuộc đời vắn vỏi của anh,
mà lại đi bon chen với thợ vàng
thợ bạc,
đi bắt chước thợ đồng, vênh vang
vì nặn ra đồ mã.
10 Con tim của anh là tro bụi, hy
vọng của anh hèn hơn đất,
cuộc đời của anh tệ hơn bùn.
11 Chỉ vì anh không biết Ðấng đã nặn
ra mình,
Ðấng thổi vào anh một linh hồn
hoạt động,
phú cho anh một làn sinh khí.
12 Nhưng anh coi cuộc sống như trò
tiêu khiển,
coi đời người như phiên chợ để
kiếm lời.
Anh nói : "Ta phải kiếm lời
bằng mọi cách,
cách xấu cũng chẳng sao."
13 Thực ra, hơn bất cứ một người nào
khác,
anh ta biết rõ mình phạm tội
khi dùng đất cát làm ra cả bình
dễ vỡ lẫn tượng thần.
Người Ai-cập điên rồ khi thờ ngẫu
tượng khắp nơi
14 Những kẻ thù đã áp bức dân Chúa,
tất cả đều ngu xuẩn, tâm trí kém
cỏi hơn đứa trẻ con,
15 vì mọi thứ ngẫu tượng của dân
ngoại, chúng coi là thần minh.
Các ngẫu tượng đó không dùng được
mắt mà nhìn,
không có lỗ mũi để thở, không có
đôi tai để nghe,
không có ngón tay để sờ, có hai chân
mà không thể đi lại.
16 Vì kẻ làm ra chúng là một con
người,
kẻ nặn ra chúng chỉ là người vay
mượn sinh khí.
Quả vậy, chẳng ai có thể nặn ra
một thần minh giống như mình.
17 Là loài phải chết, hắn chỉ dùng
bàn tay vô đạo
để làm ra vật không có sự sống.
Nhưng hắn còn trổi vượt hơn các
vật hắn thờ:
vì ít ra hắn cũng đã sống,
còn những vật kia thì chẳng bao
giờ.
18 Người ta còn thờ những con vật
ghê tởm,
những loài ngu si hơn so với các
loài khác.
19 Những vật đó trông chẳng đẹp đẽ
gì,
chẳng hấp dẫn như những loài thú
khác.
Chúng cũng không được hưởng lời
khen
hay phúc lành của Thiên Chúa.
Chương 16
Ví dụ thứ hai: cóc nhái
1 Bởi thế, những kẻ thù kia đã chịu
hình phạt thích đáng
do những con vật giống như thế
gây ra.
Và côn trùng từng đoàn từng lũ
cũng đã hành hạ chúng.
2 Thay vì hình phạt đó, Chúa đã thi
ân cho dân Ngài.
Họ thèm thuồng khao khát, Ngài
cho được thoả mãn,
dọn cho món chim cút lạ lùng làm
lương thực nuôi thân.
3 Khi những kẻ thù kia đang thèm
khát lương thực,
Ngài lại gởi ngay cho những con vật
trông thật gớm ghiếc,
khiến chúng chẳng còn muốn ăn chi
nữa.
Cùng lúc đó, dân Ngài vừa mới
thiếu ăn thôi,
thì đã được Ngài ban cho một món
kỳ diệu.
4 Vì đối với bọn người đàn áp kia,
cần bắt chúng chịu cơn đói kém
ngặt nghèo,
còn đối với dân Chúa thì chỉ cần
cho thấy
thù địch của mình bị hành hạ ra
sao.
Ví dụ thứ ba : châu chấu và rắn
đồng
5 Ngay cả khi dân Chúa bị thú dữ
hung hăng xông vào,
và rắn trườn ra cắn chết,
thì cơn thịnh nộ của Ngài cũng
không kéo dài vô tận.
6 Họ phải chịu hành hạ ít lâu như là
chịu một lời cảnh cáo;
rồi họ được một dấu hiệu cứu
thoát
nhắc họ nhớ đến luật Ngài truyền.
7 Vì bất cứ ai ngước trông lên đều
được cứu,
không phải do bởi vật họ nhìn,
nhưng là do chính Ngài,
Ðấng cứu độ muôn người hết thảy.
8 Như thế, Ngài cho thù địch chúng
con biết rằng:
chính Ngài là Ðấng cứu khỏi mọi
sự dữ.
9 Chúng chết vì châu chấu cắn, vì
mòng đốt,
mà không tìm được thuốc để cứu
mạng sống mình,
bởi chúng đáng chịu phạt do những
con vật ấy.
10 Nhưng con dân Ngài,
nanh rắn độc cũng không làm hại
được,
vì có Ngài xót thương và ra tay
cứu chữa.
11 Họ bị cắn bị đốt để nhớ lại lời
Ngài,
nhưng chẳng bao lâu họ liền được
cứu,
để khỏi bị hoàn toàn quên lãng
mà không được thừa hưởng những ân
huệ của Ngài.
12 Quả vậy, không phải lá cây, chẳng
phải thuốc đắp
đã chữa họ lành, nhưng lạy Ðức
Chúa,
chính lời Ngài chữa lành tất cả.
13 Ngài thật là Ðấng cầm quyền sinh
tử,
đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên.
14 Vì người phàm có thể dùng mưu
gian mà giết chết,
nhưng sinh khí đã ra đi, hắn
không sao đưa về;
linh hồn mà âm phủ đã nhận, hắn
không tài nào giải thoát.
Ví dụ thứ bốn : mưa đá và man-na
15 Không một ai thoát nổi tay Ngài.
16 Quả thế, quân gian ác không chịu
nhìn nhận Ngài,
thì bị tay uy dũng Ngài trừng
trị:
nào mưa lũ khác thường, nào mưa
đá, mưa rào liên tục,
chúng bị những thứ đó săn đuổi,
lại còn bị lửa hồng thiêu đốt.
17 Ngược đời thay, tuy nước có thể
dập tắt mọi sự,
nhưng lửa lại cháy mạnh hơn trong
đó.
Quả vậy, trời đất cũng bênh đỡ
người chính trực.
18 Vì có lúc ngọn lửa dịu đi, không
thiêu huỷ
những con vật được sai đến sát
hại quân gian ác,
để khi thấy vậy, chúng hiểu ngay
rằng:
chúng đã bị án phạt của Chúa săn
đuổi.
19 Cũng có lúc ngay giữa dòng nước,
lửa bừng lên mạnh mẽ khác thường,
thiêu huỷ mọi hoa màu trên miền
đất vô đạo.
20 Ngược lại, Chúa đã lấy lương thực
thiên thần
mà dưỡng nuôi dân Chúa, dọn sẵn
cho họ bánh bởi trời,
bánh họ không nhọc nhằn tìm kiếm,
bánh có muôn hương vị, thoả mãn
mọi sở thích.
21 Quả thế, lương thực Chúa ban
vừa biểu lộ tình thương mến ngọt
ngào
Ngài dành cho con cái,
vừa có thể đáp ứng những khao
khát của người sử dụng,
vì nó biến đổi theo ước muốn của
từng người.
22 Man-na như băng tuyết,
chịu được lửa hồng mà không tan
chảy.
Nhờ vậy mà dân Chúa hiểu rằng
lửa cháy bừng giữa mưa đá, sáng
rực giữa mưa giông,
là nhằm phá huỷ hoa màu của thù
địch.
23 Ngược lại, lửa đã quên đi sức
mạnh của mình
để người công chính còn có thức
ăn.
24 Quả thế, loài thọ tạo tuân phục
Ngài là Tạo Hoá
khi thẳng tay trừng phạt bọn bất
lương,
nhưng lại nương tay nhằm mưu ích
cho những ai tin tưởng vào Ngài.
25 Vì vậy, cũng lúc đó, thọ tạo sẵn
sàng biến đổi
để phục vụ ân huệ của Chúa, ân
huệ nuôi dưỡng mọi người,
đáp ứng ước mong của những ai cần
đến.
26 Như vậy, lạy Ðức Chúa,
con cái Ngài yêu thương sẽ học
biết điều này:
không phải hoa trái nuôi dưỡng
người ta,
nhưng lời Ngài mới giữ gìn chăm
sóc
những ai hằng tin tưởng vào Ngài.
27 Vì thức ăn không bị lửa đốt cháy
tiêu tan
lại tan chảy trước vài tia nắng
ấm,
28 để ai nấy biết rằng phải tạ ơn
Ngài trước khi mặt trời lên,
phải gặp gỡ Ngài khi bình minh ló
rạng.
29 Vì hy vọng của đứa vô ơn bạc
nghĩa
tan chảy như sương giá mùa đông,
trôi đi như dòng nước vô dụng.
Chương 17
Ví dụ thứ năm: bóng tối và cột
lửa
1 Vĩ đại thay phán quyết của Ngài,
thật khó mà giải thích.
Thế nên hết những ai không có
người chỉ bảo
đều lầm lạc mà thôi.
2 Thật vậy, quân vô đạo tưởng thống
trị được dân thánh,
nhưng chính chúng bị bóng tối
giam cầm,
bị đêm dài xiềng xích, bị giữ
chặt trong nhà,
bị loại khỏi tình thương vĩnh
cửu.
3 Chúng tưởng sẽ có thể giấu mình
cùng với bao tội lỗi thầm kín
sau bức màn dày đặc của lãng
quên.
Nhưng giữa bao sợ hãi kinh hoàng,
chúng vẫn bị tản mác, táng đởm
kinh hồn vì ảo ảnh.
4 Chúng không hết sợ khi núp trong
xó tối,
bao tiếng động rợn người văng
vẳng chung quanh,
rồi những bóng ma ghê hồn xuất
hiện, dung mạo thảm sầu.
5 Không lửa nào đủ mạnh có khả năng
chiếu sáng;
không một tia sáng nào của các vì
sao
có thể chiếu soi đêm khủng khiếp
này.
6 Chúng chỉ thấy xuất hiện một khối
lửa
tự dưng bừng cháy, rắc gieo kinh
hoàng;
lúc không nhìn thấy nữa,
chúng còn khiếp đảm hơn cả khi
nhìn thấy.
7 Những trò bùa phép tỏ ra bất lực,
niềm tự hào vì hiểu biết chỉ đưa
đến nhục nhằn.
8 Vì những người hứa với bệnh nhân
sẽ xua trừ sợ hãi và bối rối, lại
lâm bệnh sợ đến độ nực cười.
9 Dù chẳng có chi phải lo sợ,
chúng cũng kinh hoàng vì sâu bọ
đi ngang,
vì tiếng rít của loài bò sát.
10 Chúng chết vì sợ hãi; ngay đến
bầu trời không một ai trốn khỏi,
chúng cũng chẳng dám nhìn.
11 Kẻ gian ác tự đưa ra bằng chứng
để lên án chính mình là hèn hạ:
bị lương tâm dày vò nó luôn cảm
thấy mình khổ sở.
12 Chính vì không để cho lý trí trợ
giúp, nó đâm ra sợ hãi.
13 Trong thâm tâm,
càng không mong lý trí đến giúp
đỡ chừng nào,
nó càng không hiểu tại sao mình
khổ sở chừng ấy.
14 Trong đêm thực sự bất lực này,
đêm phát xuất từ âm phủ thẳm sâu
và bất lực,
trong cùng một giấc ngủ,
15 quân vô đạo vừa bị bao ảo ảnh hãi
hùng theo sát,
vừa ra tê liệt bởi hồn vía không
còn,
vì cơn sợ hãi chúng không chờ đợi
thình lình ập trên chúng.
16 Bấy giờ ai đang ở đó cũng ngã,
cũng bị giam, bị trói
trong nhà tù không có chấn song.
17 Bất luận là nông dân hay mục tử,
hoặc thợ thuyền lao nhọc nơi hẻo
lánh,
hết thảy đều bị chộp bất ngờ, đều
lâm cơn quẫn bách,
bị cùng một xiềng xích đêm đen
trói buộc.
18 Tiếng gió rít, tiếng chim thánh
thót trên cành cây rậm,
tiếng nước chảy vừa mạnh vừa đều,
19 tiếng đá ầm ầm đổ,
tiếng chân con vật chạy nhanh đến
không ai thấy,
tiếng rống của loài thú hết sức
dữ dằn,
tiếng vang giữa núi đồi,
tất cả đều làm chúng khiếp kinh,
làm chúng ra tê bại;
20 khi khắp vũ trụ bừng sáng huy
hoàng,
ai nấy thảnh thơi tiếp tục công
việc,
21 thì chỉ trên bọn ấy, đêm đen mới
đè nặng,
đó là hình ảnh của bóng tối sẽ
đón nhận chúng.
Nhưng chính chúng còn nặng nề hơn
cả bóng tối nữa.
Chương 18
1 Trong khi đó, một ánh sáng vĩ đại
chiếu toả trên dân thánh của Ngài.
Dân Ai-cập nghe tiếng nhưng không
thấy mặt.
Chúng vừa khen họ có phúc vì họ
không phải khổ,
2 lại vừa cám ơn, vì tuy trước đây
họ bị ngược đãi,
nhưng nay họ vẫn không hại chúng.
Chúng xin họ thứ tha vì trước đây
chúng đã có thái độ thù hằn.
3 Thay cho bóng tối, Ngài đã ban
cột lửa
làm hướng đạo trên con đường họ
chưa hề biết,
làm vầng ô dịu hiền trong cuộc di
dân hiển hách vinh quang.
4 Quân vô đạo đáng phải thiếu ánh
sáng,
đáng bị giam cầm trong cảnh tối
tăm
bởi chúng từng giam hãm con cái
Chúa,
những người Chúa dùng mà ban cho
thế gian
ánh sáng không hề tắt của lề
luật.
Ví dụ thứ sáu : đêm thảm sầu và
đêm giải thoát
5 Khi chúng quyết định sát hại các
trẻ sơ sinh của dân thánh,
nhưng một trẻ nhỏ bị bỏ rơi đã
được cứu thoát.
Ðể trừng phạt chúng, Ngài đã lấy
đi
vô vàn vô số trẻ thơ của chúng
và tiêu diệt bọn chúng hết thảy
trong nước lũ hung tàn.
6 Ðêm ấy đã được báo trước cho cha
ông chúng con,
để khi biết chắc lời hứa mình tin
là lời hứa nào
các ngài thêm can đảm.
7 Dân Chúa đã trông đợi đêm ấy
như đêm cứu thoát người chính
trực và tiêu diệt kẻ địch thù.
8 Quả vậy, Chúa dùng hình phạt
giáng xuống đối phương
để làm cho chúng con được rạng rỡ
và kêu gọi chúng con đến với
Ngài.
9 Con lành cháu thánh của những
người lương thiện
âm thầm dâng lễ tế trong nhà.
Họ đồng tâm nhất trí về luật sau
đây của Thiên Chúa,
là trong dân thánh, có phúc cùng
hưởng, có hoạ cùng chia.
Và ngay từ bấy giờ,
họ đã xướng lên những bài ca do
cha ông truyền lại.
10 Ðối lại là tiếng quân thù kêu la
ầm ĩ, mạnh ai nấy hét,
và tiếng kêu ai oán vang vọng
khắp nơi
của những người khóc thương con
đã chết.
11 Nô lệ hay chủ nhân đều chung một
hình phạt,
thứ dân hay vua chúa đều khổ sở
như nhau,
12 con chúng đã chết cùng một kiểu.
Vô vàn người đã chết, mà không
còn đủ người sống để chôn.
Trong chốc lát, những đứa con
chúng yêu thương nhất
đều đã bị tiêu diệt.
13 Những kẻ vốn không tin vì ỷ vào
phù phép,
khi chứng kiến cái chết của những
đứa con đầu lòng,
liền tuyên xưng rằng dân này là
con Thiên Chúa.
14 Khi vạn vật chìm sâu trong thinh
lặng,
lúc đêm trường chừng như điểm
canh ba,
15 thì từ trời cao thẳm, lời toàn
năng của Ngài
đã rời bỏ ngôi báu, ví tựa người
chiến sĩ can trường
xông vào giữa miền đất bị tru
diệt,
mang theo bản án không thể huỷ
của Ngài
như lưỡi gươm sắc bén.
16 Nó đứng và làm cho vũ trụ đầy
chết chóc,
đầu đụng trời chân đạp đất.
17 Thình lình lúc đó bao nhiêu hình
ảnh
của những giấc mộng khủng khiếp
khiến chúng phải kinh hoàng.
Những nỗi sợ hãi bất thần ập trên
chúng.
18 Chúng bị quăng nửa sống nửa chết,
đứa chỗ này đứa chỗ kia.
Chúng cho hiểu tại sao chúng
chết.
19 Quả vậy, những giấc mộng từng làm
chúng hoang mang
lại nên điều tiên báo kẻo chúng
bị tiêu diệt
mà không hiểu nguyên nhân các
hình khổ của mình.
Ðe doạ bị tận diệt trong sa mạc
20 Tuy nhiên, thử thách của cái chết
không buông tha ngay cả những
người công chính:
vô số người gục ngã nơi hoang
địa.
Nhưng cơn thịnh nộ của Chúa đã
không kéo dài.
21 Vì có một người không ai chê
trách nổi
vội vàng đứng ra bênh vực họ,
mang theo khí giới của sứ vụ được
giao cho
là lời cầu xin với hương trầm xá
tội.
Ðương đầu với cơn thịnh nộ của
Ngài,
ông chấm dứt hoạ tai khi chứng tỏ
mình là tôi tớ Chúa.
22 Ông thắng được cơn giận của Ngài,
không phải nhờ thân thể cường
tráng,
cũng chẳng nhờ vũ khí oai hùng,
nhưng chính nhờ lời nói
mà ông khuất phục Ðấng đang trừng
phạt
khi nhắc lại lời thề của cha ông,
nhắc lại các giao ước.
23 Khi thây ma chất thành từng đống,
ông đứng ra giữa chận đường, ngăn
cản cơn thịnh nộ,
không cho đến với những người còn
sống.
24 Vì toàn thể vũ trụ ở trên áo
choàng của ông,
vinh quang của tiên tổ được khắc
ghi trên bốn hàng ngọc quý,
và uy dũng của Ngài ở trên vương
miện ông đang đội trên đầu.
25 Thần Tru Diệt thấy thế liền run
sợ tháo lui,
vì cho nếm cơn thịnh nộ một chút
thôi là đủ.
Chương 19
Ví dụ thứ bảy: Biển Ðỏ
1 Cơn giận trút hết xuống phường vô
đạo,
không một chút xót thương,
bởi Chúa biết trước những gì
chúng sẽ thực hiện:
2 là sau khi cho phép họ lên đường,
thúc ép họ vội vã ra đi, chúng
lại đổi ý mà truy nã.
3 Quả vậy, đang bận tâm lo việc ma
chay,
đang than khóc bên mộ người đã
chết,
chúng lại nghĩ thêm một trò ngu
xuẩn:
là những người chúng vừa trục
xuất,
vừa năn nỉ xin họ ra đi, thì nay
chúng lại truy nã họ
như truy nã những người tù chạy
trốn.
4 Âu cũng do số phận mà chúng mới
ra nông nỗi này
và quên chuyện đã qua: thế là
chúng tăng lên cho đủ
những hình phạt còn thiếu trong
số các cực hình.
5 Trong khi dân Ngài trải qua cuộc
hành trình tuyệt diệu,
thì chúng lại phải chết một cách
thật lạ thường.
6 Vì toàn thể vũ trụ lại thay đổi
từ bản chất như thuở ban đầu,
tuân phục các mệnh lệnh của Chúa,
để gìn giữ con cái Ngài bình an.
7 Người ta thấy mây che phủ doanh
trại;
nơi trước kia là nước, đất khô
ráo nổi lên,
một lối đi thênh thang lộ ra từ
Biển Ðỏ
và từ nước lũ xuất hiện cánh đồng
xanh.
8 Có tay Ngài che chở, toàn dân đã
đi qua
và chứng kiến bao điềm thiêng dấu
lạ.
9 Như ngựa chăn ngoài đồng, như
chiên nhảy tung tăng,
lạy Ðức Chúa, dân Chúa ca tụng
tán dương Ngài
là Ðấng giải thoát họ.
10 Họ còn nhớ lại những việc đã xảy
ra
khi sống nơi xứ lạ quê người:
nào đất đai chứ không phải thú
vật
đã sản sinh ra muỗi làm sao,
nào dòng sông chứ không phải sinh
vật dưới nước
đã mửa ra từng bầy ếch nhái làm
sao!
11 Sau đó, khi thèm ăn, khi đòi có
cao lương mĩ vị,
họ liền thấy một loài chim mới.
12 Ðể làm họ thoả lòng, chim cút từ
ngoài biển bay lên chỗ họ.
Ai-cập đắc tội hơn Xơ-đôm
13 Nhưng hình phạt giáng xuống
phường tội lỗi,
không phải là đã không được báo
trước
bằng những trận sấm sét vang
trời.
Chúng chịu khổ quả là đích đáng
vì bao tội ác chúng đã phạm
và vì đối với những ngoại kiều
chúng còn tỏ ra kỳ thị độc ác
hơn.
14 Quả vậy, một đàng không chịu tiếp
khách đến trọ nhà mình,
còn một đàng biến thành tôi mọi
những người khách lạ làm ơn cho
mình.
15 Chính vì thế, những người kia sẽ
phải chịu hình phạt
vì đã xử tệ với người ngoại bang,
16 còn những người này, sau khi đã
linh đình đón tiếp
những kẻ từng chia sẻ quyền lợi
với mình,
lại cưỡng ép họ phải lao động vất
vả.
17 Vì thế, chúng sẽ phải chịu cảnh
mù loà
- như những người kia trước cửa
nhà người công chính
khi ai nấy bị tối tăm dày đặc bao
phủ,
phải mò mẫm tìm kiếm cửa ra lối
vào.
Hoà điệu mới
18 Như thế, các nguyên tố khác biệt
lại hoà hợp với nhau
cũng như trên phím đàn,
mỗi dấu tuy vẫn giữ âm thanh
riêng của nó,
lại tạo thành những giai điệu
khác nhau.
Ta thấy rõ điều này khi quan sát
những gì đã xảy ra:
19 Quả vậy, loài sống trên cạn lại
thành loài sống dưới nước,
loài bơi dưới nước lại lên trên
cạn,
20 lửa ở trong nước lại cháy mạnh
hơn,
nước lại quên đi khả năng dập
tắt;
21 nhưng lửa lại không thiêu rụi
những con vật nhỏ bé lang thang,
cũng không làm tan chảy thứ lương
thực thần linh
trông tựa băng tuyết và rất dễ
tan chảy.
Kết luận
22 Vâng, lạy Ðức Chúa, Ngài đã làm
tất cả
cho dân Ngài được vĩ đại, vinh
quang.
Và mọi nơi mọi thời, Ngài đã
không ngừng nâng đỡ họ.
Huấn Ca
Chương 01
I. Tuyển Tập Các Châm Ngôn
Nguồn gốc khôn ngoan
1 Tất cả sự khôn ngoan đều phát
xuất từ Ðức Chúa,
và khôn ngoan vẫn ở với Người đến
muôn đời.
2 Cát biển, giọt mưa và tháng ngày
của vĩnh cửu,
ai đếm được cho hết?
3 Trời cao, đất rộng, vực sâu và sự
khôn ngoan, ai dò cho thấu?
4 Khôn ngoan đã được tác thành
trước vạn vật,
sự hiểu biết anh minh đã có tự
muôn đời.
6 Gốc rễ của khôn ngoan đã được mặc
khải cho ai?
Và những công trình kỳ diệu của
khôn ngoan, ai nào biết rõ?
8 Chỉ có một Ðấng khôn ngoan rất
đáng sợ,
ngự trên ngai của Người.
9 Ðó chính là Ðức Chúa.
Người đã tạo dựng, đã thấy, đã
đếm
và làm cho khôn ngoan nổi bật
trên mọi công trình,
10 nơi mọi phàm nhân,
theo lòng quảng đại của Người,
và Người đã rộng ban khôn ngoan
cho những ai yêu mến Người.
Lòng kính sợ Thiên Chúa
11 Kính sợ Ðức Chúa đem lại vinh
quang và tự hào
hân hoan và phấn khởi.
12 Kính sợ Ðức Chúa khiến tâm hồn
sung sướng,
cho con người được hoan hỷ mừng
vui
và an khang trường thọ.
13 Ai kính sợ Ðức Chúa sẽ thấy cuộc
đời kết thúc tốt đẹp,
ngày lâm chung họ sẽ được hưởng
phúc lành.
14 Bước đầu của khôn ngoan là kính
sợ Ðức Chúa,
ngay từ lúc thành hình trong lòng
mẹ,
các tín hữu đã được ơn khôn
ngoan.
15 Giữa nhân gian, khôn ngoan xây tổ
làm nền móng vĩnh cửu,
và tin tưởng vào con cái loài
người.
16 Sự viên mãn của khôn ngoan là
kính sợ Ðức Chúa.
Khôn ngoan lấy hoa trái của mình
làm cho họ say sưa,
17 lấy bảo vật của mình chất đầy nhà
cửa họ,
đem sản phẩm của mình đổ đầy kho
lẫm.
18 Lòng kính sợ Ðức Chúa là tuyệt
đỉnh của khôn ngoan,
mang lại bình an và sức khoẻ dồi
dào.
19 Ðức Chúa đã thấy và đã đếm khôn
ngoan,
Người đổ mưa am tường và hiểu
biết của trí tuệ,
nâng cao vinh dự của những kẻ gắn
bó với khôn ngoan.
20 Gốc rễ của khôn ngoan là kính sợ
Ðức Chúa,
cành lá của khôn ngoan là cuộc
đời trường thọ.
Kiên nhẫn và tự chủ
22 Giận dữ vô lý không thể coi là
phải lẽ được,
vì giận dữ kéo theo sự sụp đổ của
con người.
23 Ai kiên trì chịu đựng một thời
gian,
thì cuối cùng niềm vui sẽ bừng
lên cho người ấy.
24 Ai làm thinh không nói một thời
gian,
thì thiên hạ sẽ mở miệng khen là
sáng suốt.
Khôn ngoan và ngay thẳng
25 Trong các kho tàng của khôn
ngoan,
có nhiều ẩn dụ thâm thuý,
nhưng đối với người tội lỗi,
tôn thờ Thiên Chúa lại là điều
ghê tởm.
26 Nếu con mộ mến khôn ngoan,
thì hãy tuân giữ các điều răn,
và Ðức Chúa sẽ ban cho con ơn ấy.
27 Vì lòng kính sợ Ðức Chúa là
trường dạy khôn ngoan,
và điều Người ưa thích là tín
thành và nhân hậu.
28 Ðừng ngang bướng không kính sợ
Ðức Chúa,
cũng đừng đem lòng chim dạ cá mà
đến với Người.
29 Ðừng giả hình trước mặt người ta
và hãy giữ gìn trong lời ăn tiếng
nói.
30 Ðừng tự cao tự đại, kẻo ngã
mà chuốc lấy tủi hổ vào thân.
Ðức Chúa sẽ phơi bày những bí ẩn
của con,
và hạ bệ con giữa nơi công hội,
vì con không bước đi trên đường
kính sợ Ðức Chúa,
và lòng con đầy những mưu gian.
Chương 02
Kính sợ Ðức Chúa trong thử thách
gian truân
1 Con ơi, nếu con muốn dấn thân
phụng sự Ðức Chúa,
thì con hãy chuẩn bị tâm hồn để
đón chịu thử thách.
2 Hãy giữ lòng cho ngay thẳng và cứ
kiên trì,
đừng bấn loạn khi con gặp khốn
khổ.
3 Hãy bám lấy Người chứ đừng lìa
bỏ,
để cuối đời, con được cất nhắc
lên.
4 Mọi chuyện xảy đến cho con, con
hãy chấp nhận,
và trải qua bao thăng trầm, con
hãy cứ kiên nhẫn.
5 Vì vàng phải được tôi luyện trong
lửa,
còn những người sáng giá
thì phải được thử trong lò ô
nhục.
6 Hãy tin vào Người, thì Người sẽ
nâng đỡ con.
Ðường con đi, hãy giữ cho ngay
thẳng và trông cậy vào Người.
7 Hỡi ai kính sợ Ðức Chúa,
hãy trông đợi lòng lân tuất của
Người,
đừng lìa xa Người kẻo ngã.
8 Hỡi ai kính sợ Ðức Chúa, hãy tin
vào Người,
và các bạn sẽ không mất phần
thưởng đâu.
9 Hỡi ai kính sợ Ðức Chúa, hãy đợi
trông ơn lành,
niềm vui không cùng và lòng
thương xót.
10 Hãy nhìn lại các thế hệ ban đầu
mà xem:
nào có ai tin vào Ðức Chúa mà bị
hổ thẹn bao giờ?
Hay có ai bền tâm kính sợ Người
mà bị bỏ rơi?
Hoặc có ai kêu cầu Người mà bị
Người khinh dể?
11 Vì Ðức Chúa là Ðấng nhân từ và
hay thương xót:
Người thứ tha tội lỗi và cứu vớt
trong lúc gian truân.
12 Khốn thay những tâm hồn hèn nhát,
những bàn tay rã rời,
và người tội lỗi lập lờ nước đôi.
13 Khốn thay quả tim nao núng vì
không tin tưởng:
chính vì vậy nó không được chở
che.
14 Khốn cho các ngươi, những kẻ mất
kiên nhẫn,
các ngươi sẽ làm gì khi Ðức Chúa
đến thăm?
15 Những ai kính sợ Ðức Chúa
thì không ngang bướng bất tuân lời
Người dạy,
và những ai kính mến Người
thì giữ vững đường lối của Người.
16 Những ai kính sợ Ðức Chúa thì tìm
điều Người ưa thích,
và những ai kính mến Người thì no
thoả Lề Luật.
17 Những ai kính sợ Ðức Chúa thì
chuẩn bị tâm hồn,
và hạ mình xuống trước mặt Người.
18 Chúng ta hãy phó mình trong tay
Ðức Chúa,
chứ đừng phó mình trong tay phàm
nhân,
bởi vì Người cao cả thế nào
thì cũng lân tuất như vậy.
Chương 03
Nghĩa vụ đối với cha mẹ
1 Hỡi các con, hãy nghe cha đây,
và làm thế nào để các con được
cứu độ.
2 Ðức Chúa làm cho người cha được
vẻ vang vì con cái,
cho người mẹ thêm uy quyền đối
với các con.
3 Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm,
4 ai kính mẹ thì tích trữ kho báu.
5 Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì
con cái,
khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng
nghe.
6 Ai tôn vinh cha sẽ được trường
thọ,
ai vâng lệnh Ðức Chúa sẽ làm cho
mẹ an lòng.
7 Người đó phục vụ các bậc sinh
thành
như phục vụ chủ nhân.
8 Hãy thảo kính cha con bằng lời
nói việc làm,
để nhờ người mà con được chúc
phúc.
9 Vì phúc lành của người cha
làm cho cửa nhà con cái bền vững,
lời nguyền rủa của người mẹ
làm cho trốc rễ bật nền.
10 Chớ vênh vang khi cha con phải
tủi nhục,
vì nỗi tủi nhục đó chẳng vinh dự
gì cho con.
11 Quả thật, người ta chỉ được vẻ
vang
lúc cha mình được tôn kính;
và con cái phải ô nhục khi mẹ
mình bị khinh chê.
12 Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi
người đến tuổi già;
bao lâu người còn sống, chớ làm
người buồn tủi.
13 Người có lú lẫn, con cũng phải
cảm thông,
chớ cậy mình sung sức mà khinh dể
người.
14 Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ
không bị quên lãng,
và sẽ đền bù tội lỗi cho con.
15 Thiên Chúa sẽ nhớ đến con, ngày
con gặp khốn khó,
và các tội con sẽ biến tan
như sương muối biến tan lúc đẹp
trời.
16 Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào
kẻ lộng ngôn,
ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị Ðức
Chúa nguyền rủa.
Khiêm tốn
17 Con ơi, hãy hoàn thành việc của
con một cách nhũn nhặn,
thì con sẽ được mến yêu hơn người
hào phóng.
18 Càng làm lớn, con càng phải tự
hạ,
như thế, con sẽ được đẹp lòng Ðức
Chúa.
20 Vì quyền năng Ðức Chúa thì lớn
lao:
Người được tôn vinh nơi các kẻ
khiêm nhường.
21 Ðừng tìm những điều khó quá đối
với con,
những điều vượt sức con, con đừng
xét tới.
22 Những gì đã ấn định cho con, con
hãy suy cho kỹ,
cần chi phải hiếu kỳ!
23 Ðừng dây mình vào những việc quá
sức con,
vì những điều con trông thấy
đã vượt quá trí hiểu của loài
người.
24 Nhiều người mắc sai lầm vì ý kiến
riêng của họ,
ý nghĩ xấu làm cho suy nghĩ của
họ đảo điên.
Kiêu ngạo
26 Kẻ lòng chai dạ đá cuối đời sẽ
gặp bất hạnh,
người thích nguy hiểm sẽ phải
chết vì hiểm nguy.
27 Kẻ lòng chai dạ đá sẽ bị ngàn nỗi
ưu phiền đè nặng,
người tội lỗi cứ chồng chất tội
này lên tội kia.
28 Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng
thì vô phương cứu chữa,
vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ
trong nó.
29 Người sáng trí để tâm nghiên cứu
các ẩn dụ,
kẻ khôn ngoan ao ước có tai thính
để nghe.
Bác ái đối với người nghèo
30 Nước dập tắt lửa hồng, bố thí đền
bù tội lỗi.
31 Ai đền ơn đáp nghĩa là biết lo
xa,
lúc sa cơ, người ấy sẽ tìm được
nơi nương tựa.
Chương 04
1 Con ơi,
đừng tước đoạt miếng cơm manh áo
của người nghèo,
đừng để kẻ khốn cùng luống công
chờ đợi.
2 Ðừng làm cho kẻ đói phải buồn
tủi,
đừng chọc tức ai khi họ phải ngặt
nghèo.
3 Một tâm hồn đang bực bội, con
đừng làm khổ thêm,
đừng bắt kẻ túng thiếu đợi lâu
mới được con giúp đỡ.
4 Kẻ khốn khổ nài xin, con đừng từ
chối,
gặp người nghèo, con đừng ngoảnh
mặt đi.
5 Ðừng làm ngơ không nhìn đến kẻ
thiếu thốn,
kẻo nên cớ cho người ta nguyền
rủa con.
6 Ai cay đắng trong lòng mà nguyền
rủa con,
thì Ðấng tạo thành ra nó sẽ nghe
lời nó thỉnh nguyện.
7 Hãy làm cho công hội mến thương
con,
và tỏ lòng kính trọng người làm
lớn.
8 Hãy lắng nghe kẻ nghèo, và nhã
nhặn chào lại họ.
9 Hãy giải thoát người bị áp bức
khỏi tay phường áp bức,
đừng hèn nhát khi con phải xét
xử.
10 Ðối với trẻ mồ côi, con hãy xử
như một người cha,
và với mẹ của chúng, hãy xử như
một người chồng;
được vậy, con sẽ nên như người
con của Ðấng Tối Cao,
và Người sẽ thương con hơn cả mẹ
của con nữa.
Khôn ngoan là nhà giáo dục
11 Khôn ngoan làm cho con cái mình
nên cao trọng,
và săn sóc những ai kiếm tìm
mình.
12 Ai yêu khôn ngoan là yêu sự sống,
ai sớm tìm kiếm khôn ngoan sẽ
tràn trề hoan lạc.
13 Người nắm được khôn ngoan
sẽ được vinh quang làm gia
nghiệp,
đi tới đâu, họ cũng được Ðức Chúa
ban phúc lành.
14 Ai phụng sự khôn ngoan thì cũng
phụng thờ Ðấng Thánh,
và ai yêu mến khôn ngoan thì được
Ðức Chúa mến yêu.
15 Người nghe theo khôn ngoan, thì
xét xử chư dân,
ai gắn bó với khôn ngoan sẽ định
cư yên hàn.
16 Ai tin tưởng vào khôn ngoan,
sẽ được khôn ngoan làm gia nghiệp
và dòng dõi họ cũng sẽ được thừa
hưởng.
17 Vì ban đầu, khôn ngoan sẽ đồng
hành với họ
qua nẻo đường quanh co,
giáng xuống trên họ hãi hùng run
rẩy,
và dùng kỷ luật của mình mà tôi
luyện
bao lâu chưa tin tưởng họ được;
rồi lại thử thách họ qua những
phán quyết của mình.
18 Sau đó, khôn ngoan sẽ trở lại với
họ trên con đường thẳng,
khiến họ được mừng vui,
và khôn ngoan mặc khải cho họ
những bí nhiệm của mình.
19 Nếu người ấy lầm lạc thì khôn
ngoan sẽ bỏ rơi họ,
và để mặc cho họ sụp đổ.
E lệ và cả nể
20 Hãy để ý tới thời cuộc và lo
tránh điều xấu,
và đừng chuốc lấy nhục vào thân.
21 Vì có cái nhục đưa đến tội lỗi,
và cũng có cái nhục là vinh quang
và ân sủng.
22 Ðừng vị nể ai đến phải thiệt
thân,
cũng đừng vì bị nhục mà để cho
mình sụp đổ.
23 Ðừng ngại lên tiếng khi cần
thiết,
24 vì nhờ lời nói mà người ta biết
được ai khôn ngoan,
do phát biểu mà biết được trình
độ học vấn.
25 Ðừng nói trái sự thật,
và phải biết xấu hổ vì sự thiếu
học của con.
26 Ðừng hổ thẹn xưng thú tội lỗi
mình,
đừng ngăn chặn dòng sông đang
chảy.
27 Ðừng cúi rạp trước kẻ ngu đần,
cũng đừng thiên vị người quyền
thế.
28 Dù phải chết, con hãy phấn đấu
cho sự thật,
và Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ bênh
vực con.
29 Ðừng ăn càn nói bậy,
chớ nhu nhược trễ nải trong công
việc của con.
30 Ðừng như sư tử trong gia đình,
mà lại nhút nhát giữa gia nhân.
31 Ðừng xoè tay ra nhận, rồi nắm lại
khi phải cho đi.
Chương 05
Giàu sang và tự đắc
1 Ðừng cậy vào tài sản của con, và
đừng nói: "Tôi có đủ cả rồi!"
2 Ðừng chiều theo ước muốn và sức
lực của con,
mà thoả mãn những đam mê của lòng
mình.
3 Ðừng nói: "Ai làm gì được
tôi?"
Vì Ðức Chúa là Ðấng công minh sẽ
trừng phạt.
4 Ðừng nói: "Tôi đã phạm tội
nhưng nào có sao?"
Bởi vì Ðức Chúa nhẫn nại đó!
5 Ðừng ỷ được tha thứ mà khinh
nhờn,
rồi cứ chồng chất tội này lên tội
khác.
6 Ðừng nói: "Người rất mực cảm
thương,
tôi có phạm tội nhiều, Người cũng
tha thứ cả!"
Vì Người thương xót, Người cũng
nổi lôi đình,
và cơn lôi đình của Người ập
xuống quân tội lỗi.
7 Ðừng trì hoãn, hãy trở về với Ðức
Chúa đi;
đừng lần lữa hết ngày này qua
ngày khác,
vì thình lình Ðức Chúa sẽ nổi cơn
thịnh nộ,
và trong thời trừng phạt, con sẽ
phải tiêu vong.
8 Ðừng cậy dựa vào của cải bất
chính,
vì điều đó chẳng ích gì cho con
ngày con gặp bất hạnh.
Cương quyết và tự chủ
9 Ðừng có gió nào cũng theo, đường
nào cũng bước,
như một tên tội lỗi lật lọng.
10 Hãy giữ vững xác tín của mình,
và lời con phải trước sau như
một.
11 Hãy mau mắn nghe,
nhưng thong thả rồi hãy trả lời.
12 Nếu biết thì trả lời cho người
ta,
bằng không, thì hãy đặt tay lên
miệng.
13 Vinh hay nhục đều ở lời nói cả,
và cái lưỡi chính là mối hoạ cho
con người.
14 Ðừng để bị mang tiếng là người
bép xép,
cũng đừng ăn nói quanh co.
Vì nếu ăn trộm là điều nhục nhã,
thì nói lời hai ý càng đáng lên
án gắt gao.
15 Trong mọi chuyện lớn nhỏ, đừng tỏ
ra vô ý thức;
đang là bạn, chớ trở nên thù.
Chương 06
1 Quả vậy, bị mang tiếng thì thật
là nhục nhã và ô danh,
cũng như mắc tội hay nói lời hai
ý.
2 Ðừng dương dương tự đắc khi con
quyết định điều gì,
kẻo con bị nát thân như bò tót.
3 Kẻo lá cành của con, con ngốn
sạch,
hoa trái của con, con phá hết,
và con sẽ chỉ còn như một khúc
củi khô.
4 Một con người xấu xa làm băng
hoại chính mình,
tự biến thành trò cười cho kẻ thù
nghịch.
Tình bạn
5 Ăn nói dịu dàng thì tăng thêm bạn
hữu,
phát biểu dễ thương thì tăng thêm
lời thân ái.
6 Ước chi có nhiều người sống hoà
nhã với con;
nhưng cố vấn cho con, thì trong
muôn ngàn chỉ nên chọn một.
7 Nếu con muốn làm bạn với ai thì
hãy thử người ấy trước,
nhưng đừng vội tin tưởng ngay.
8 Vì có kẻ chỉ là bạn nhất thời,
ngày con gặp nạn, nó chẳng còn là
bạn nữa.
9 Có người là bạn lại trở nên thù,
và tiết lộ chuyện cãi nhau, khiến
con phải xấu hổ.
10 Có người là bạn khi đồng hành với
con,
nhưng ngày con gặp nạn, nó chẳng
còn là bạn nữa.
11 Khi con gặp may, thì nó chẳng
khác nào chính con:
gia nhân con, nó tự do sai bảo.
12 Nhưng lúc con sa cơ, nó liền
chống lại và lánh mặt con luôn.
13 Với quân thù, con hãy tránh xa,
còn với bè bạn, con phải coi
chừng.
14 Người bạn trung thành là một nơi
nương tựa vững chắc,
ai gặp được người bạn như thế, là
gặp được kho tàng.
15 Không gì đổi lấy được một người
bạn trung thành,
và giá trị của người bạn ấy,
không cân nào lường được.
16 Người bạn trung thành là phương
thuốc xoa dịu cuộc đời,
những ai kính sợ Ðức Chúa sẽ gặp
được người như vậy.
17 Người kính sợ Ðức Chúa thì điều
khiển được tình bạn của mình
vì bản thân mình thế nào, thì cận
thân mình cũng thế.
Học tập khôn ngoan
18 Con ơi, từ thiếu thời, hãy hấp
thụ giáo huấn,
thì tới khi tóc bạc, con sẽ được
khôn ngoan.
19 Như người cày và kẻ gieo, con hãy
vun trồng khôn ngoan,
và đợi chờ hoa thơm trái tốt của
đức ấy;
vì con phải khó nhọc vun trồng
một thời gian thôi,
rồi chẳng bao lâu sẽ được ăn hoa
trái.
20 Giáo huấn quả thật là gay go đối
với những kẻ vô học,
và kẻ vô tâm vô trí thì không
kiên trì trong việc thụ giáo.
21 Giáo huấn, như đá tảng thử sức,
đè nặng trên người ấy,
rồi chẳng mấy chốc nó sẽ vứt bỏ
đi.
22 Quả thật, khôn ngoan xứng với tên
mình:
không phải nhiều người biết rõ
đâu!
23 Con ơi, hãy lắng nghe và đón nhận
điều ta dạy bảo,
và đừng vứt bỏ ý kiến của ta.
24 Hãy đưa chân cho khôn ngoan xích
lại,
và cúi đầu cho khôn ngoan đặt dây
cương.
25 Hãy ghé vai mang lấy,
và đừng bất mãn vì bị khôn ngoan
ràng buộc.
26 Với tất cả tâm tình, hãy trau dồi
khôn ngoan,
và đường lối của khôn ngoan, hãy
gắng công tuân giữ.
27 Cứ theo dõi và kiếm tìm,
thì khôn ngoan sẽ tỏ mình ra cho
con biết,
và một khi đã nắm được rồi, con
chớ buông ra.
28 Vì cuối cùng, khôn ngoan sẽ cho
con được nghỉ ngơi yên hàn,
và sẽ trở thành niềm hoan lạc của
con.
29 Xiềng xích của khôn ngoan sẽ là
nơi nương tựa vững chắc,
và dây cương của khôn ngoan
sẽ như trang phục huy hoàng của
con.
30 Ách của khôn ngoan là đồ trang
sức bằng vàng,
và dây buộc của khôn ngoan là dải
điều quý giá.
31 Con sẽ mặc lấy khôn ngoan như áo
choàng rực rỡ,
đội lên đầu như triều thiên biểu
lộ niềm vui.
32 Con ơi, nếu muốn, con sẽ là người
có học,
nếu để tâm, con sẽ thành người
khôn khéo.
33 Nếu thích nghe, con sẽ học được
nhiều,
nếu biết lắng tai để ý, con sẽ
trở nên khôn.
34 Hãy có mặt khi các bậc lão thành
hội họp,
thấy vị nào khôn ngoan, hãy hết
lòng gắn bó.
35 Mọi lời lẽ về Thiên Chúa, con hãy
thích nghe,
những châm ngôn ý nhị, con đừng
bỏ uổng.
36 Thấy người học thức uyên thâm,
con hãy năng lui tới,
chân đi mòn ngưỡng cửa nhà họ.
37 Hãy suy gẫm các mệnh lệnh Ðức
Chúa đã truyền,
các điều răn của Người, hãy luôn
luôn để ý.
Chính Người làm cho tâm hồn con
kiên vững,
và cho con được khôn ngoan như
lòng sở nguyện.
Chương 07
Một số lời khuyên
1 Ðừng làm điều xấu, thì cái xấu sẽ
không thắng được con.
2 Ðiều bất công, con hãy xa tránh,
thì nó sẽ lánh xa con.
3 Con ơi, đừng gieo trên những
luống bất công,
kẻo phải gặt bất công gấp bảy
lần.
4 Ðừng xin Ðức Chúa cho con quyền
cao,
cũng đừng xin vua cho con chức
trọng.
5 Ðừng tưởng mình là công chính
trước mặt Ðức Chúa,
cũng đừng ra vẻ khôn ngoan bên
cạnh đức vua.
6 Ðừng tìm cách để được làm thẩm
phán,
nếu con không có khả năng nhổ rễ
bất công;
kẻo rồi vì nể mặt kẻ quyền thế,
mà con làm tổn thương đức liêm
khiết của con.
7 Ðừng làm thiệt hại cho dân chúng
trong thành,
cũng đừng khúm núm trước đám
đông.
8 Ðừng để tội nào trói buộc con đến
hai lần,
vì một lần thôi cũng đủ để bị
phạt.
9 Ðừng nói: "Thiên Chúa Tối
Cao
sẽ nhìn vào số lượng lớn lễ phẩm
tôi dâng,
nên khi tôi mang tới, Người sẽ
chấp nhận."
10 Con đừng nhút nhát khi cầu
nguyện,
và đừng coi thường việc làm phúc
bố thí.
11 Ðừng cười nhạo ai đang cay đắng
trong lòng,
vì có Ðấng vừa hạ xuống vừa cất
nhắc lên.
12 Ðừng dùng lời gian dối mà hại anh
em,
đối với một người bạn cũng không
nên làm như thế.
13 Ðừng chủ ý bịa đặt điều gian dối
nào,
vì cứ như thế sẽ chẳng đưa tới gì
tốt đẹp.
14 Giữa đông đảo các bậc lão thành,
con chớ ba hoa,
và khi cầu nguyện thì đừng lải
nhải.
15 Ðừng chán ghét những công việc
vất vả nhọc nhằn,
cũng như việc đồng áng Ðấng Tối
Cao đã định.
16 Ðừng nhập bọn với phường tội lỗi,
hãy nhớ rằng cơn thịnh nộ không
chậm trễ đâu!
17 Hãy khiêm nhường hạ mình xuống,
vì lửa và giòi bọ là hình phạt
dành cho kẻ vô đạo.
18 Ðừng đem bạn hữu đổi lấy lợi lộc,
cũng đừng đổi người anh em chân
chính lấy vàng Ô-phia.
19 Ðừng rời bỏ người vợ khôn ngoan
đức hạnh,
vì duyên dáng của nàng quý hơn cả
vàng nữa.
20 Ðừng ngược đãi người ở biết làm
việc hết mình,
cũng như người làm công biết xả
thân.
21 Hãy hết lòng yêu thương người ở
nào sáng trí,
và đừng từ chối không cho nó tự
do.
Con cái
22 Con có súc vật ư? Hãy săn sóc
chúng.
Nếu chúng làm lợi cho con, thì
giữ chúng lại.
23 Có con cái ư? Hãy giáo dục
và uốn nắn chúng ngay từ thuở còn
thơ.
24 Có con gái ư? Hãy lo giữ gìn tấm
thân của chúng,
nhưng đừng ra mặt vui vẻ xuề xoà.
25 Gả chồng cho con gái, là con đã
làm xong một việc lớn,
nhưng phải gả cho người thông
minh.
26 Con có người vợ hợp với con ư?
Thì chớ ruồng bỏ,
nhưng đừng tin tưởng người vợ con
không thích.
Cha mẹ
27 Cha con, con hãy hết lòng tôn
kính,
và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng
đẻ đau.
28 Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục
sinh thành,
công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp
đền cho cân xứng?
Các tư tế
29 Hãy hết lòng kính tôn Ðức Chúa
và kính trọng các tư tế của
Người.
30 Hãy hết sức yêu mến Ðấng tạo
thành nên con,
đừng bỏ rơi các thừa tác viên của
Người.
31 Hãy kính sợ Ðức Chúa và tôn trọng
vị tư tế,
hãy trao cho ngài phần thuộc về
ngài, như luật truyền cho con:
của đầu mùa, của lễ tạ tội, bả
vai phải biếu,
rồi của lễ thánh hoá và phần tinh
hoa trích từ của thánh.
Những kẻ nghèo và người đau khổ
32 Hãy rộng tay cứu giúp người nghèo
khó,
để con được hưởng trọn vẹn phúc
lành.
33 Hãy làm ơn cho mọi người còn
sống,
ngay cả với người đã chết, cũng
đừng từ chối làm ơn.
34 Ðừng ngoảnh mặt không nhìn những
ai đang than khóc,
với những người sầu khổ, con hãy
biết chia buồn.
35 Ðừng ngại thăm nom người đau ốm,
vì nhờ những việc như thế mà con
sẽ được mến yêu.
36 Trong mọi lời ăn tiếng nói,
hãy nghĩ đến đời con chung cuộc
thế nào,
thì mãi mãi con sẽ không phạm
tội.
Chương 08
Thận trọng thì suy đi nghĩ lại
1 Con đừng chống chọi với người
quyền thế, kẻo rơi vào tay họ.
2 Ðừng tranh chấp với người giàu,
kẻo họ lấy thế mạnh mà chống lại
con;
vì vàng bạc làm cho bao người hư
hỏng
và lòng dạ vua chúa ngả nghiêng.
3 Ðừng chống chọi với kẻ lắm mồm,
cũng đừng chất củi thêm vào lửa.
4 Ðừng đùa giỡn với kẻ vô giáo dục,
kẻo tổ tiên con bị khinh chê.
5 Một người đã biết hối lỗi, con
đừng la rầy,
hãy nhớ rằng tất cả chúng ta đều
đáng phạt.
6 Ðừng khinh dể người đã cao niên,
vì đến lượt chúng ta rồi cũng già
hết cả.
7 Khi có người nào chết, con chớ
vui mừng,
hãy nhớ rằng tất cả chúng ta đều
phải chết.
Truyền thống
8 Chớ khinh thường chuyện các bậc
khôn ngoan kể lại,
hãy nghiền ngẫm phương ngôn của
các ngài;
vì nhờ học với các ngài mà con có
được kiến thức,
và biết cách phục vụ các bậc
quyền cao.
9 Ðừng bỏ qua chuyện các vị cao
niên kể lại,
vì chính các ngài đã học hỏi nơi
tổ tiên mình;
nhờ học với các ngài mà con có
được sự hiểu biết,
và khi cần, con biết đưa ra câu
trả lời thích hợp.
Cẩn thận
10 Ðừng khơi dậy lửa đam mê của
người tội lỗi,
kẻo chính con bị đốt cháy trong
ngọn lửa của y.
11 Con chớ đương đầu với kẻ vũ phu,
kẻo nó nên như cái bẫy cho con lỡ
lời.
12 Ðừng cho kẻ mạnh thế hơn con vay
mượn,
cho họ mượn là kể như mất đứt
rồi.
13 Ðừng đứng ra bảo đảm điều gì vượt
quá sức con,
nếu đã bảo đảm, thì lo mà thanh
toán.
14 Ðừng tranh kiện với quan toà,
toà sẽ vì danh dự của ông mà xử
cho ông thắng.
15 Ðừng đồng hành với quân bạt mạng,
kẻo nó ăn hiếp con;
vì chính nó chỉ làm theo sở
thích:
sự điên rồ của nó làm cho cả hai
phải tiêu vong.
16 Ðừng đánh nhau với kẻ hung dữ,
cũng đừng đi qua nơi vắng vẻ với
y;
vì y coi chuyện đổ máu như không
vậy,
và y sẽ tấn công con nơi chẳng có
ai cứu giúp.
17 Ðừng bàn hỏi người ngu, vì nó
không giữ kín được.
18 Trước mặt người lạ, chớ làm điều
phải giữ kín,
vì con chẳng biết chuyện gì sẽ
xảy ra.
19 Ðừng tâm sự với bất cứ người nào,
đừng tưởng làm như vậy là người
ta thích.
Chương 09
Ðàn bà con gái
1 Ðừng ghen với người vợ mà con
đang ôm ấp,
kẻo con dạy cho nàng nghĩ xấu về
con.
2 Ðừng phó mặc hồn con cho một
người đàn bà,
kẻo bị nó đè đầu đè cổ.
3 Ðừng đón đường một gái làng chơi,
kẻo con rơi vào bẫy của nó.
4 Ðừng đi lại với một ả đào,
kẻo con mắc phải mưu mô của nó.
5 Ðừng chòng chọc nhìn nàng trinh
nữ,
kẻo con sa ngã mà bị phạt với
nàng.
6 Ðừng trao thân cho đĩ điếm,
kẻo con phải khuynh gia bại sản.
7 Ngoài đường phố, mắt đừng láo
liên,
trong ngõ hẻm, chớ có la cà.
8 Hãy tránh đừng nhìn người phụ nữ
nhan sắc,
cũng đừng ngắm nghía một giai
nhân xa lạ.
Vì sắc đẹp đàn bà mà bao kẻ đảo
điên,
cũng vì thế mà ái tình bừng lên
như lửa.
9 Chớ ngồi bên người phụ nữ có
chồng,
đừng uống rượu với nàng trong các
bữa tiệc,
kẻo vì nàng mà lòng con nghiêng
ngửa,
và tâm thần chao đảo tiêu vong.
Ðối xử với người ta
10 Ðừng bỏ rơi người bạn cố tri:
người mới đâu có giá bằng người
cũ.
Rượu mới thế nào, thì bạn mới
cũng vậy;
để lâu rồi uống, mới thấy ngon.
11 Chớ ghen với người tội lỗi được
vinh dự,
vì con chẳng biết hậu vận nó thế
nào.
12 Ðừng vui niềm vui của quân vô
đạo;
hãy nhớ rằng: chúng sẽ phải đền
tội trước khi xuống âm ty.
13 Hãy đứng xa người nắm quyền sinh
sát,
thì con sẽ không còn cảm thấy sợ
tử thần.
Nếu đến gần nó, thì đừng bất cẩn,
kẻo nó lại cướp mất mạng con.
Hãy nhớ rằng con đang bước qua
giữa bao cạm bẫy,
và đi lại trên tường thành đầy lỗ
châu mai.
14 Hãy giao tiếp với người chung
quanh khi có thể,
và năng bàn hỏi với người khôn
ngoan.
15 Hãy tìm người hiểu biết mà trò
chuyện,
và mọi điều con nói phải quy về
Luật của Ðấng Tối Cao.
16 Ðồng bàn với con phải là những
người công chính,
và lòng kính sợ Ðức Chúa sẽ là
niềm hãnh diện của con.
17 Một tác phẩm được ca tụng là nhờ
tay nghệ sĩ,
ai lãnh đạo dân thì phải khôn
ngoan trong lời ăn tiếng nói.
18 Kẻ lắm mồm lắm miệng, trong thành
ai cũng ngán cũng sợ,
người nói năng láu táu, ai cũng
ghét cũng chê.
Chương 10
Việc cai trị
1 Thủ lãnh khôn ngoan thì giáo dục
dân mình,
và uy thế của người thông minh
thật là vững chắc.
2 Thủ lãnh dân thế nào,
các viên chức thừa hành cũng thế,
người đứng đầu một thành làm sao,
toàn thể dân cư cũng vậy.
3 Một ông vua dốt nát làm cho dân
nước phải suy vong,
một thành hưng thịnh
là nhờ trí thông minh của các nhà
cầm quyền.
4 Quyền bính trên địa cầu nằm trong
tay Ðức Chúa,
khi đến thời đến buổi, Người sẽ
cho xuất hiện kẻ hiền tài.
5 Sự nghiệp của con người nằm trong
tay Ðức Chúa,
vì chính Người làm cho kẻ sĩ được
nở mặt nở mày.
Chống tính kiêu ngạo
6 Khi gặp những chuyện bất công,
con đừng oán hờn người thân cận,
cũng đừng làm bất cứ điều gì
trong cơn giận dữ.
7 Ðức Chúa và người phàm đều chê
ghét tính kiêu căng,
đều coi gian tà là khả ố.
8 Quyền bá chủ chuyển từ dân này sang
dân nọ,
do bất công, bạo lực và tiền tài.
9 Làm sao tro bụi lại dám kiêu
căng,
vì ngay khi còn sống, nó đã bị xổ
ruột?
10 Cơn bệnh kéo dài, giễu cợt cả
thầy thuốc,
kẻ nay xưng hùng xưng bá, mai đã
theo tử thần.
11 Khi chết, gia tài người ta thừa
hưởng
là côn trùng, sâu bọ và rắn rết.
12 Con người bắt đầu kiêu căng khi
lìa xa Ðức Chúa,
khi lòng nó lìa xa Ðấng Tạo
Thành.
13 Vì đầu mối của kiêu căng là tội
lỗi,
và kẻ quen thói kiêu căng thì rắc
gieo ghê tởm;
vì thế Ðức Chúa đã gửi đến những
gian truân,
và tiêu diệt chúng hoàn toàn.
14 Ðức Chúa hạ bệ những ai quyền
thế,
và đặt kẻ hiền lành ngồi lên
thay.
15 Ðức Chúa đã bứng rễ các dân
ngoại,
và đem trồng vào đó kẻ khiêm
nhường.
16 Lãnh thổ của chư dân, Ðức Chúa đã
đảo lộn,
và phá huỷ đến tận nền trái đất.
17 Người đã loại chúng ra khỏi cõi
đời và huỷ diệt chúng,
đã xoá sạch chúng khỏi ký ức
người đời.
18 Con người được dựng nên không
phải để kiêu ngạo,
con cái của đàn bà được sinh ra
không phải để giận dữ.
Những người đáng trọng
19 Nòi giống nào đáng trọng?
Thưa nòi giống con người.
Nòi giống nào đáng trọng?
Thưa những người kính sợ Ðức
Chúa.
Nòi giống nào đáng khinh?
Thưa nòi giống con người.
Nòi giống nào đáng khinh?
Thưa những kẻ vi phạm các điều
răn.
20 Thủ lãnh thì đáng trọng giữa anh
em,
còn những ai kính sợ Ðức Chúa
thì đáng trọng trước mặt Người.
22 Kẻ giàu, người sang cũng như kẻ
nghèo:
niềm hãnh diện của tất cả là kính
sợ Ðức Chúa.
23 Khinh dể một người nghèo thông
minh là không phải lẽ,
tôn vinh một người tội lỗi là
điều chẳng nên.
24 Người làm lớn, nhà lãnh đạo, vị
nắm quyền đều được tôn vinh,
nhưng không ai trong các vị đó
lớn hơn người kính sợ Ðức Chúa.
25 Nô bộc mà khôn ngoan thì được cả
người tự do (cũng) phục vụ,
người hiểu biết thì không lẩm bẩm
kêu ca.
Ðức khiêm nhường và lòng chân
thật
26 Ðừng khôn xảo, khi làm công việc
của con,
cũng đừng sĩ diện, khi con phải
nghèo túng.
27 Làm việc và được đầy đủ dư dật,
thì vẫn hơn lang thang khoác lác
mà đói ăn.
28 Con ơi, hãy tự hào một cách khiêm
tốn,
và tự trọng đúng với giá trị của
con.
29 Người phạm tội hại đến bản thân,
ai bảo nó là công chính được?
Nào ai tôn trọng được kẻ khinh
chính mình?
30 Kẻ nghèo được tôn trọng là nhờ sự
hiểu biết,
người giàu được tôn trọng là vì
tài sản của họ.
31 Còn nghèo mà đã được trọng,
thì khi giàu sẽ được trọng biết bao?
Ðang giàu mà đã bị khinh,
thì khi nghèo còn bị khinh biết
mấy?
Chương 11
Ðừng xem mặt bắt hình dong
1 Người hèn mọn mà khôn ngoan vẫn
có thể ngẩng đầu,
và được ngồi giữa những người làm
lớn.
2 Ðừng khen một người đàn ông vì
người ấy đẹp,
và đừng gớm ghét ai vì vẻ bên
ngoài.
3 Trong các loài có cánh, ong là bé
hơn cả,
thế mà nó làm ra chất ngọt hảo
hạng.
4 Chớ khoe khoang vì bộ áo bên
ngoài,
cũng đừng tự cao trong ngày được
vinh dự.
Công trình của Ðức Chúa thật lạ
lùng,
nhưng vẫn là bí ẩn đối với phàm
nhân.
5 Nhiều bậc đế vương phải ngồi
xuống đất,
còn kẻ không ai ngờ lại được mang
vương miện.
6 Lắm người quyền thế bị nhục nhã ê
chề,
và nhiều kẻ cao sang bị nộp vào
tay người khác.
Cân nhắc và đắn đo
7 Chưa tra xét thì đừng buộc tội,
suy nghĩ trước rồi hãy trách móc
sau.
8 Chớ trả lời khi chưa nghe rõ,
người ta đang nói thì chớ ngắt
lời.
9 Về chuyện không can gì tới con,
con đừng cãi cọ,
chớ dây mình vào cuộc tranh chấp
của quân tội lỗi.
10 Con ơi, chớ lo toan nhiều công
việc,
có tăng thêm nhiều vẫn chẳng được
yên;
có hối hả mấy cũng chẳng tới đâu,
có chạy đàng nào cũng không thoát
nổi.
11 Có người càng vất vả, nhọc nhằn
và hấp tấp,
thì lại càng không đạt được gì.
Tin cậy vào một mình Thiên Chúa
12 Có người yếu đuối cần được nâng
đỡ,
sức lực thua kém, túng thiếu trăm
bề,
mà Ðức Chúa lại ghé mắt nhìn xem,
để thi ân cho họ,
và cất nhắc họ lên khỏi cảnh khốn
cùng.
13 Người làm cho họ ngẩng đầu hiên
ngang,
khiến nhiều kẻ phải ngạc nhiên về
họ.
14 Lành dữ, sống chết, giàu nghèo,
tất cả đều do Ðức Chúa.
17 Phúc lộc của Ðức Chúa còn mãi cho
những người đạo hạnh,
và tình thương của Người hướng
dẫn họ đến muôn đời.
18 Có kẻ giàu vì vun quén và keo
kiệt,
và đây là phần thưởng của nó:
19 Khi nó nói: "Tôi đã tìm được
an nhàn,
của tôi làm ra, bây giờ tôi
hưởng",
thì nó đâu biết thời gian mình
sống còn bao lâu;
nó sẽ bỏ lại của cải cho người
khác và sẽ chết.
20 Hãy cứ bổn phận của con mà làm
cho chu đáo,
và chăm lo công việc cho đến già.
21 Ðừng phục người tội lỗi vì các
công việc của nó,
nhưng hãy tin vào Ðức Chúa,
và công việc của con, hãy chịu
khó mà làm,
vì làm cho kẻ nghèo bỗng nhiên
nên giàu có,
đối với Ðức Chúa, là chuyện thật
dễ dàng.
22 Phúc lành của Ðức Chúa là phần
thưởng cho người đạo hạnh,
trong giây lát Người làm cho phúc
lành nở rộ như hoa.
23 Con đừng nói: "Tôi cần gì
đây?
Rồi ra tôi còn phải có những của
nào nữa?"
24 Ðừng nói: "Tôi đầy đủ cả
rồi,
từ đây tôi còn gặp bất hạnh nào
nữa đâu?"
25 Ngày gặp vận may, người ta quên
nỗi bất hạnh,
và ngày gặp bất hạnh, người ta
chẳng nhớ đến vận may.
26 Trong ngày mệnh chung,
trả cho con người theo lối họ đã
sống,
đối với Ðức Chúa, là chuyện thật
dễ dàng.
27 Khổ cực một giờ làm quên lạc thú,
đến cuối đời, công việc của con
người mới lộ ra.
28 Ðừng khen ai có phúc trước khi họ
lìa đời,
vì nhìn vào con cái, người
ta sẽ biết họ.
Coi chừng người gian ác
29 Ðừng bạ ai cũng đưa về nhà,
vì kẻ xảo quyệt có trăm mưu ngàn
kế.
30 Chim mồi nhốt trong lồng làm sao,
thì tâm địa kẻ kiêu căng cũng
thế;
nó như thám tử rình chờ con ngã
quỵ.
31 Nó mưu toan đổi tốt thành xấu,
trong những cái hay nhất, nó cũng
thấy tỳ ố đáng chê.
32 Một tia lửa làm cả đống than cháy
bừng,
con người tội lỗi mưu toan chuyện
đổ máu.
33 Hãy đề phòng kẻ gian ác, vì nó
mưu đồ chuyện xấu xa;
đừng để nó làm cho con ô danh đến
muôn đời.
34 Ðưa người lạ về nhà, nó sẽ làm cho
con điên đảo,
khiến con thành xa lạ với thân
quyến của con.
Chương 12
Làm ơn làm phúc
1 Nếu con làm việc thiện, thì hãy
biết con làm cho ai,
và con ở hiền thì sẽ gặp lành.
2 Hãy làm việc thiện cho người đạo
hạnh,
con sẽ được đền đáp,
nếu không do người ấy, thì cũng
do Ðấng Tối Cao.
3 Sẽ chẳng có chi may lành cho kẻ
ngoan cố trong điều ác,
cho kẻ không thích làm việc từ
thiện.
4 Hãy cho người đạo hạnh, nhưng
đừng giúp kẻ tội lỗi.
5 Hãy xử tốt với người khiêm tốn,
và đừng ủng hộ quân vô đạo,
hãy khước từ, đừng cung cấp bánh
ăn cho nó,
kẻo nó được đàng chân lân đàng
đầu;
con sẽ gặp hoạn nạn gấp đôi
đối lại tất cả những việc lành
con đã làm cho nó.
6 Vì chính Ðấng Tối Cao cũng gớm
ghét phường tội lỗi,
Người sẽ trừng phạt để trả oán
quân vô đạo.
7 Hãy cho người tốt, nhưng đừng
giúp kẻ tội lỗi.
Bạn thật bạn giả
8 Lúc gặp may, không nhận ra được
ai là bạn,
khi lâm nạn, chẳng giấu nổi ai là
thù.
9 Khi con người gặp may thì kẻ thù
nó buồn khổ,
lúc nó lâm nạn thì bạn hữu cũng
tránh xa.
10 Ðừng bao giờ tin vào thù địch;
vì như đồng ten sét thế nào,
thì sự độc ác của nó cũng vậy.
11 Nếu nó tự hạ và đi đứng khúm núm,
thì con phải cảnh giác và coi
chừng;
hãy đối xử với nó như người lau
gương,
và biết rằng rốt cuộc nó sẽ bị
lật tẩy.
12 Ðừng để nó đứng cạnh con,
kẻo nó lật nhào con rồi chiếm lấy
chỗ;
đừng đặt nó ngồi bên phải con,
kẻo ghế của con, nó sẽ tìm cách
chiếm đoạt.
Cuối cùng con sẽ hiểu lời ta,
và sẽ nuối tiếc những điều ta đã
nói.
13 Ai nào thương kẻ dụ rắn mà bị rắn
cắn,
ai nào xót mọi kẻ đến gần thú dữ
đâu?
14 Kẻ đồng hành với người tội lỗi,
và tham gia vào các tội của nó
cũng vậy.
15 Nó ở với con một giờ,
nhưng khi con chao đảo, nó sẽ
không nán lại với con.
16 Kẻ thù, ngoài miệng thì ngọt xớt,
nhưng trong lòng lại tính xô con
xuống vực sâu.
Mắt kẻ thù cũng rưng rưng đẫm lệ,
nhưng nếu gặp cơ hội, nó không
thôi khát máu.
17 Lúc lâm nạn, con sẽ thấy nó ở sẵn
đó trước con rồi,
làm như giúp đỡ, nhưng kỳ thực
lại hất cẳng con.
18 Nó sẽ lắc đầu vỗ tay,
nói về con đủ điều mà để lộ chân
tướng nó.
Chương 13
Với đồng trang đồng lứa
1 Ðụng vào nhựa thì sẽ dính,
chơi với người kiêu ngạo thì sẽ
giống như y.
2 Gánh nặng quá sức con, con đừng
mang lấy,
đừng đi lại với kẻ quyền thế và
giàu có hơn con.
Lọ sành để chung với bình đồng
sao được?
Chạm nhau là lọ sành tan vỡ.
3 Người giàu vừa ăn cướp vừa la
làng,
còn người nghèo bị thiệt thì lại
phải năn nỉ.
4 Nếu con có ích cho nó, nó sẽ dùng
con,
nhưng sẽ bỏ rơi con, nếu con sa
cơ thất thế.
5 Con có của, nó sẽ sống với con,
và bóc lột con không chút quản
ngại.
6 Khi cần, nó sẽ dỗ ngọt con,
nó tươi cười với con để làm con
hy vọng,
nó nói ngon nói ngọt và bảo:
"Anh cần gì không?"
7 Nó bày tiệc làm con xấu hổ để bóc
lột con đến cùng kiệt,
rốt cuộc nó sẽ chế nhạo con;
rồi sau đó, hễ thấy con là nó làm
ngơ, và lắc đầu khinh dể.
8 Coi chừng chớ để người ta dụ dỗ
con,
kẻo vì dại khờ mà con bị nhục.
9 Khi người quyền thế mời gọi con,
con hãy lẩn đi,
như thế, người ta càng mời mọc
con hơn nữa.
10 Ðừng vồ vập, kẻo bị tống cổ ra,
cũng đừng đứng xa, kẻo bị quên
mất.
11 Ðừng hòng ăn nói với họ như kẻ
ngang hàng,
cũng đừng tin những lời lẽ ba hoa
của họ;
vì họ nói nhiều là có ý thử con,
và giả bộ tươi cười với con là để
dò xét.
12 Ai không giữ kín lời tâm sự của
người khác, đó là kẻ tàn nhẫn,
có ai bị hành hạ hay xiềng xích,
nó cũng chẳng quan tâm.
13 Hãy cẩn thận, hãy hết sức coi
chừng,
vì con đang đồng hành với sự suy
vong rồi đó.
15 Sinh vật nào cũng ưa thích đồng
loại của mình,
và người nào cũng ưa thích người
thân cận.
16 Xác thịt nào thì kết hợp theo
giống đó,
và con người thì gắn bó với đồng
loại của mình.
17 Sói sống chung với chiên sao
được?
Kẻ tội lỗi với người đạo hạnh
cũng thế.
18 Hoà bình sao được giữa chó rừng
và chó nhà?
Và hoà bình sao được giữa kẻ giàu
sang với người lam lũ?
19 Lừa hoang trong sa mạc là mồi cho
sư tử,
cũng vậy, kẻ nghèo túng là mồi
cho bọn giàu sang.
20 Ðối với kẻ kiêu ngạo thì thấp hèn
là điều ghê tởm,
cũng vậy, đối với người giàu có
thì kẻ nghèo là đồ gớm ghê.
21 Người giàu trượt chân thì được
bạn bè nâng đỡ,
còn kẻ nghèo mà ngã thì bị bạn
hữu bỏ rơi.
22 Người giàu mà có lỡ, thì nhiều
người cứu gỡ cho,
có nói bậy, người ta cũng cho là
phải.
Kẻ nghèo có lỡ, thì người ta chê
trách,
có nói hay, thiên hạ cũng chẳng
kể vào đâu.
23 Người giàu lên tiếng thì mọi
người im lặng,
người ta đưa lời của nó lên tận
chín tầng mây;
khi kẻ nghèo lên tiếng thì họ
bảo: "Ai vậy?"
Nếu nó vấp, họ sẽ xô cho té nhào.
24 Giàu là tốt nếu không mắc tội,
nhưng theo lời kẻ vô đạo thì
nghèo là xấu.
25 Lòng người làm thay đổi nét mặt,
để lộ ra cái tốt hay cái xấu.
26 Nét mặt vui tươi là dấu chỉ một
tâm hồn hạnh phúc.
Phải lao tâm khổ tứ lắm mới làm
được các dụ ngôn.
Chương 14
Hạnh phúc thật
1 Phúc thay kẻ không ăn nói lỡ lầm,
và không phải khổ vì hối hận.
2 Phúc thay ai không bị lương tâm
cắn rứt,
và kẻ không rơi vào thất vọng.
Ðố kỵ và hà tiện
3 Của cải không lợi gì cho kẻ tiểu
nhân,
đối với con người đố kỵ, thì tài
sản để làm gì?
4 Tích luỹ mà vong thân là tích luỹ
cho kẻ khác,
người khác sẽ hưởng dùng của cải
nó thu gom.
5 Xấu với bản thân thì tốt với ai
được?
Ngay cả với tài sản của mình, nó
cũng không được hưởng.
6 Không ai tệ hơn kẻ làm hại chính
mình,
và đó là công trả cho sự gian ác
của nó.
7 Nó có làm điều tốt, thì chẳng qua
vì vô tình,
cuối cùng nó cũng để lộ ra sự
gian ác của nó.
8 Ai nhìn với con mắt đố kỵ là
người xấu,
nó ngoảnh mặt đi và khinh dể
thiên hạ.
9 Kẻ có mắt tham lam thì không bằng
lòng với phận mình,
và keo kiệt làm cho tâm hồn ra
cằn cỗi.
10 Kẻ có mắt xấu xa thì keo kiệt về
miếng ăn,
và trên bàn ăn, trông thật sơ
sài.
11 Con ơi, nếu có của, hãy làm cho
đời con được tốt đẹp,
và tiến dâng lễ vật lên Ðức Chúa
sao cho xứng.
12 Hãy nhớ rằng cái chết không trì
hoãn đâu,
và ngày hẹn của âm phủ, con nào
có biết!
13 Trước khi chết, hãy làm ơn cho
thân hữu,
và rộng rãi với họ theo khả năng
của con.
14 Ðừng từ chối không hưởng một ngày
vui,
hoài bão của con, đừng để cho
phần nào trôi đi mất.
15 Nào con không để lại công khó của
con cho người khác,
và mồ hôi nước mắt của con
cho người ta bắt thăm chia chác
đó sao?
16 Hãy cho và nhận, hãy làm cho tâm
hồn mình khuây khoả,
vì trong âm phủ, còn tìm đâu ra
khoái lạc!
17 Mọi xác phàm như chiếc áo, thảy
đều mòn hao,
vì quy luật muôn đời là: chắc
chắn con sẽ phải chết.
18 Như cành lá trên cây rậm rạp:
lá rụng xuống, lá lại mọc ra,
thì các thế hệ người phàm cũng
vậy:
lớp kết thúc, lớp lại sinh ra.
19 Mọi công trình phải hư nát đều
tiêu tan hết thảy,
và tác giả của chúng cũng theo
chúng ra đi.
Hạnh phúc của người khôn ngoan
20 Phúc thay kẻ nghiền ngẫm khôn
ngoan,
và biết dùng trí khôn mà suy
luận.
21 Phúc thay kẻ để tâm suy nghĩ về
đường lối của khôn ngoan,
và hiểu được các bí nhiệm của đức
ấy.
22 Như một thợ săn, người ấy theo
vết của khôn ngoan,
và trên đường của khôn ngoan, nó
rình chờ.
23 Nó nhìn vào cửa sổ của khôn
ngoan,
và lắng nghe bên cửa ra vào.
24 Nó ở sát nhà của khôn ngoan,
và đóng đinh vào tường.
25 Nó dựng lều dưới cánh tay của
khôn ngoan,
và sẽ được ở nơi hạnh phúc.
26 Nó sẽ đặt con cái dưới sự che chở
của khôn ngoan,
và dưới tán lá của khôn ngoan, nó
sẽ trú ẩn.
27 Dưới bóng của khôn ngoan, nó
không bị nóng bức,
và trong vinh quang của khôn ngoan,
nó sẽ cư ngụ.
Chương 15
1 Ðiều đó, kẻ kính sợ Ðức Chúa sẽ
thi hành,
và người tuân giữ Lề Luật sẽ đạt
được khôn ngoan.
2 Như mẹ hiền, khôn ngoan sẽ ra gặp
người ấy,
và như tân nương trinh khiết,
khôn ngoan sẽ đón chào,
3 sẽ lấy hiểu biết làm bánh cho người
ấy ăn,
lấy khôn ngoan làm nước cho người
ấy uống.
4 Người ấy sẽ dựa vào khôn ngoan và
không chao đảo,
sẽ gắn bó với khôn ngoan và không
thẹn thùng.
5 Khôn ngoan sẽ làm cho người ấy
trổi vượt trên các đồng liêu,
và ở nơi đại hội, sẽ giúp người
ấy lên tiếng.
6 Người ấy sẽ được sung sướng,
được vui mừng như đội triều
thiên,
và thừa hưởng danh thơm đến muôn
đời.
7 Những kẻ ngu đốt sẽ không chiếm
được khôn ngoan,
và những người tội lỗi sẽ chẳng
được thấy bao giờ.
8 Khôn ngoan xa cách kiêu ngạo,
và vắng bóng trong tâm tưởng
những người gian dối.
9 Lời ca tụng trên môi miệng tội
lỗi là vô nghĩa,
vì không phải từ Ðức Chúa mà đến.
10 Vì lời ca tụng phải được nói ra
trong khôn ngoan,
và phải được Ðức Chúa hướng dẫn.
Tự do của con người
11 Con đừng nói: "Tại Ðức Chúa
mà tôi phạm tội",
vì điều Người gớm ghét, thì Người
không làm.
12 Ðừng nói: "Chính Người làm
tôi lầm đường lạc lối",
vì Người không cần kẻ tội lỗi.
13 Mọi điều kinh tởm, Ðức Chúa đều
gớm ghê,
và những kẻ kính sợ Người cũng
không ưa chuộng.
14 Từ nguyên thuỷ, chính Chúa đã làm
nên con người,
và để nó tự quyết định lấy.
15 Nếu con muốn thì hãy giữ các điều
răn
mà trung tín làm điều đẹp ý
Người.
16 Trước mặt con, Người đã đặt lửa
và nước,
con muốn gì, hãy đưa tay ra mà
lấy.
17 Trước mặt con người là cửa sinh
cửa tử,
ai thích gì, sẽ được cái đó.
18 Vì trí khôn ngoan của Ðức Chúa
thật lớn lao,
Người mạnh mẽ uy quyền và trông
thấy tất cả.
19 Người để mắt nhìn xem những ai
kính sợ Người,
và biết rõ tất cả những gì người
ta thực hiện.
20 Người không truyền cho ai ăn ở
thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội.
Chương 16
Kẻ gian ác bị nguyền rủa
1 Con đàn cháu đống mà vô dụng, con
đừng ham,
cũng đừng vui vì lũ con bất nhân
bất nghĩa.
2 Chúng có đông đảo mấy, con cũng
đừng vui,
nếu chúng không có lòng kính sợ
Ðức Chúa.
3 Chúng có làm nên sự nghiệp ở đời,
con đừng tin tưởng,
có đông con nhiều cháu, con cũng
chớ trông nhờ;
vì cả ngàn cũng không bằng một
và chết mà không con còn hơn có
những người con bất nghĩa.
4 Nhờ một người thông minh sáng
suốt
mà một thành đông đúc dân cư,
còn giống nòi chẳng kể chi luân
thường đạo lý sẽ bị tuyệt diệt.
5 Mắt tôi đã thấy nhiều điều như
thế,
và tai tôi còn nghe những điều dữ
dội hơn.
6 Lửa bừng cháy thiêu đốt đám hội
quân tội lỗi,
cơn Thịnh Nộ bốc lên trừng phạt
nòi bất tuân;
7 vì Người đã không tha cho bọn
khổng lồ thuở trước,
những kẻ cậy sức mình mà phản
loạn.
8 Người đã chẳng buông tha những kẻ
cho ông Lót ở nhờ,
những kẻ Người gớm ghét vì chúng
kiêu ngạo.
9 Người không xót thương giống nòi
mang án diệt vong,
những kẻ bị loại trừ vì tội lỗi
của chúng,
10 cũng như sáu trăm ngàn bộ binh,
những kẻ cứng lòng cùng nhau cấu
kết.
11 Dầu chỉ có một người cứng cổ
không bị phạt,
thì đó cũng là điều lạ lùng;
vì Người thương xót, Người cũng
nổi cơn thịnh nộ,
rộng lòng tha thứ, nhưng cũng
trút cơn lôi đình.
12 Người thương xót bao nhiêu, thì
cũng hạch tội bấy nhiêu: Người xét xử ai nấy tuỳ theo việc họ làm.
13 Kẻ tội lỗi không thoát nổi với
của gian đã cướp,
và người đạo hạnh kiên nhẫn đợi
chờ sẽ chẳng luống công.
14 Việc bố thí nào cũng được Chúa ân
thưởng,
và mỗi người cứ theo việc mình
làm mà lãnh nhận.
Chắc chắn có thưởng phạt
17 Ðừng nói: "Tôi sẽ núp ẩn
không cho Ðức Chúa thấy!
Từ chốn cao xanh, ai nào nhớ đến
tôi?
Giữa đám đông dân chúng, chẳng ai
nhận ra tôi,
vì tôi là gì giữa cõi tạo thành
bao la bát ngát?"
18 Kìa, trời cao thẳm trùng trùng
điệp điệp,
vực sâu và trái đất rung chuyển
khi Người đến viếng thăm;
19 đồng thời khi Người nhìn núi non
và nền trái đất,
chúng đều run rẩy kinh hoàng.
20 Vậy mà người ta chẳng để tâm nghĩ
tới những điều ấy,
ai nào suy tưởng về đường lối của
Người?
21 Bão táp, con người không nhìn
thấy,
đa số các việc Người làm đều bí
ẩn.
22 "Việc xét xử công minh, có
ai công bố đâu?
Ai chờ đợi việc ấy? Vì còn lâu
mới đến ngày hẹn."
23 Người thiếu hiểu biết thì nghĩ
những điều như thế,
kẻ điên dại và lầm lạc nghĩ toàn
chuyện ngu si.
Con người trong công trình tạo
dựng
24 Con ơi, hãy nghe ta, hãy học cho
biết,
và để tâm suy nghĩ lời ta.
25 Ta sẽ tuần tự trình bày kiến
thức,
và công bố sự hiểu biết một cách
tinh tường.
26 Theo quyết định của Ðức Chúa,
các công trình của Người đã có từ
nguyên thuỷ,
và khi làm ra chúng, Người phân
thành từng loại.
27 Những công trình ấy, Người xếp
đặt theo trật tự muôn đời,
từ thuở ban đầu cho đến các thế
hệ về sau.
Chúng không phải đói cũng không
biết mệt,
và chẳng bao giờ bỏ lơ công việc
chúng phải làm.
28 Vật này không đụng vào vật khác,
và cho đến vạn đại, chúng không
cưỡng lời Người.
29 Sau đó, Ðức Chúa nhìn xem trái
đất,
và ban cho nó đầy dẫy mọi ơn
lành.
30 Người làm cho sinh vật lan tràn
mặt đất,
và chúng sẽ phải trở về đất.
Chương 17
1 Ðức Chúa lấy đất mà tạo ra con
người,
rồi lại đưa con người trở về đất.
2 Người đã ban cho nó một số ngày
và một khoảng thời gian,
cho nó quyền thống trị vạn vật
trên mặt đất.
3 Người mặc cho nó sức mạnh tương
xứng với mình,
và theo hình ảnh mình mà làm ra
nó.
4 Người phú bẩm cho mọi xác phàm
lòng kính sợ Người,
để chúng thống trị muông chim cầm
thú.
6 Người ban cho chúng trí khôn,
lưỡi, mắt, tai,
và trái tim để chúng suy nghĩ.
7 Người làm cho chúng được đầy kiến
thức thông minh,
tỏ cho chúng biết điều tốt điều
xấu.
8 Người đặt con mắt mình vào tâm
hồn chúng,
để chúng nhận ra các công trình
vĩ đại của Người.
10 Danh thánh Người, chúng sẽ ca
ngợi,
những công trình vĩ đại của
Người, chúng sẽ kể ra.
11 Người còn ban kiến thức cho
chúng,
và cho thừa hưởng luật đem lại sự
sống.
12 Người đã lập với chúng một giao
ước muôn đời,
và tỏ cho thấy những điều Người
phán quyết.
13 Mắt chúng đã nhìn thấy vinh quang
rực rỡ của Người,
tai chúng đã nghe tiếng uy hùng
Người phán.
14 Người phán bảo: "Các ngươi
hãy tránh xa mọi điều bất chính."
Bổn phận đối với tha nhân,
Người truyền cho ai nấy phải thi
hành.
Thiên Chúa là thẩm phán
15 Ðường lối của chúng luôn luôn ở
trước mặt Người,
và không bao giờ giấu mắt Người
được.
17 Người đặt cho mỗi dân một thủ
lãnh,
còn phần riêng của Ðức Chúa là
Ít-ra-en.
19 Trước mặt Người, mọi công việc
của chúng đều rõ như ban ngày,
và mọi nẻo đường của chúng,
mắt Người chăm chú dõi theo.
20 Những điều bất chính chúng làm
không giấu Người được,
mọi tội lỗi chúng phạm đều lộ ra
trước mặt Ðức Chúa.
22 Việc từ thiện ai làm thì tựa như
dấu ấn đối với Người,
ân đức của người ta, Người giữ
mãi như con ngươi trong mắt.
23 Cuối cùng, Người sẽ đứng lên và
ban thưởng,
và phần thưởng ấy, Người sẽ đặt
trên đầu chúng.
24 Có điều là ai sám hối thì Người
ban cho ơn trở về,
và những kẻ sờn lòng nản chí,
Người cũng sẽ ủi an.
Kêu gọi sám hối
25 Hãy trở về với Ðức Chúa và từ bỏ
tội lỗi,
hãy cầu khẩn trước nhan Người và
giảm bớt dịp tội.
26 Hãy đoạn tuyệt với gian ác, trở
về cùng Ðấng Tối Cao,
và cực lực gớm ghét mọi điều ghê
tởm.
27 Trong âm phủ, ai nào ca ngợi Ðấng
Tối Cao,
nếu những kẻ đang sống không dâng
lời cảm tạ?
28 Người đã chết thì hết xưng tụng,
vì nó không còn nữa;
chỉ người đang sống và khoẻ mạnh
mới ca ngợi Ðức Chúa.
29 Lòng lân tuất của Ðức Chúa cao cả
dường bao,
ơn tha thứ dành cho kẻ trở lại
với Người lớn lao biết mấy!
30 Vì người ta không nắm được tất cả
mọi sự,
và con người đâu phải là bất tử!
31 Có chi chói lọi hơn mặt trời? Thế
mà nó cũng phải lặn đi.
Huống chi nòi huyết nhục chỉ nghĩ
những điều xấu.
32 Chính Người mới giám sát sức mạnh
trời cao thẳm,
còn nhân loại hết thảy chỉ là đất
là tro.
Chương 18
Thiên Chúa cao cả
1 Ðấng hằng hữu muôn đời đã tạo
thành vạn vật hết thảy.
2 Chỉ mình Ðức Chúa được tuyên xưng
là công chính.
4 Không ai được quyền loan báo các
công trình của Người.
Ai sẽ khám phá những việc lớn lao
Người thực hiện?
5 Ai đo lường được Người mạnh mẽ
quyền năng đến đâu?
Ai dám kể ra lòng thương xót của
Người?
6 Chẳng thêm chẳng bớt, cũng không
khám phá nổi
những sự lạ lùng của Ðức Chúa.
7 Làm xong mới chỉ là bắt đầu,
ngưng lại mà vẫn còn bỡ ngỡ.
Con người chẳng là gì
8 Con người là chi? Nó có ích lợi
gì? Ðâu là cái hay cái dở của nó?
9 Số ngày đời của con người nhiều
lắm là một trăm năm.
10 Một giọt nước biển, một hạt cát:
đó là số năm ngắn ngủi của nó
sánh với cái đời đời.
11 Bởi thế Ðức Chúa kiên nhẫn với
chúng,
và đổ tràn xuống trên chúng lòng
thương xót của Người.
12 Người nhìn thấy và biết rằng
vận cùng của chúng thật là khốn
khổ,
bởi thế Người gia tăng ơn tha thứ
của Người.
13 Con người thì thương xót cận
thân,
còn Ðức Chúa xót thương mọi xác
phàm.
Người trách cứ, sửa sai, dạy dỗ,
và dẫn đưa, như mục tử dẫn đàn
chiên.
14 Người xót thương những ai đón
nhận lời giáo huấn
và ân cần tìm phán quyết của
Người.
Cách thức trao tặng
15 Con ơi, khi làm ơn, còn đừng
trách móc;
khi tặng quà, chớ kèm theo những
lời rầu rĩ.
16 Hạt sương lại không giảm bớt cái
nóng sao?
Cũng vậy, lời nói còn quý hơn quà
tặng.
17 Này, lời nói lại không hơn món
quà quý sao?
Người giàu ân đức thì tặng cả
hai.
18 Kẻ ngu đần chửi thẳng vào mặt;
quà tặng của con người tham lam
làm rơi nước mắt.
Suy nghĩ và tiên liệu
19 Học trước đã rồi hãy nói sau;
để ngừa bệnh, con hãy uống thuốc.
20 Trước khi xét đoán, hãy tự kiểm
điểm,
thì trong giờ Chúa đến viếng
thăm, con sẽ được khoan hồng.
21 Ðể khỏi mang bệnh, con hãy hạ
mình xuống,
trong lúc ốm đau vì tội lỗi, con
hãy tỏ lòng ăn năn.
22 Hãy giữ lời khấn hứa đúng thời,
đừng chậm trễ,
chớ đợi đến giờ lâm chung mới ăn
ở liêm chính.
23 Trước khi khấn hứa, con hãy lo
dọn mình;
đừng làm như người thử thách Ðức
Chúa.
24 Hãy nhớ đến cơn thịnh nộ trong
những ngày cuối cùng,
đến giờ báo oán, khi Người ngoảnh
mặt đi.
25 Hãy nhớ đến thời đói kém, khi con
dư dật;
khi giàu có, hãy nhớ đến cơn
nghèo khổ và nỗi khốn cùng.
26 Từ sáng sớm tới chiều tà, thời
gian thay đổi;
trước mặt Ðức Chúa, tất cả đều
mau qua.
27 Người khôn ngoan thì thận trọng
trong mọi sự,
và giữ mình khỏi lầm lỡ trong
ngày tội lỗi hoành hành.
28 Ai thông minh thì biết khôn
ngoan,
và ca tụng kẻ tìm được khôn
ngoan.
29 Những người thạo ăn nói, chính họ
cũng trau dồi khôn ngoan,
và nhả ngọc phun châu thành những
câu ngạn ngữ tuyệt vời.
Tự chủ
30 Con đừng buông theo các tham vọng
của con,
nhưng hãy kiềm chế các dục vọng.
31 Nếu con thoả mãn các tham vọng
của mình,
thì con làm cho kẻ thù con thích
thú.
32 Ðừng tìm vui trong khoái lạc xa
hoa,
đừng cấu kết với bọn nào như thế.
33 Ðừng vay mượn để tiệc tùng mà hoá
ra nghèo,
và không còn đồng xu dính túi.
Chương 19
1 Một người thợ say sưa sẽ không
giàu có được,
kẻ coi thường lợi nhỏ sẽ rơi vào
nghèo túng.
2 Rượu và đàn bà làm hư hỏng những
kẻ thông minh;
ai mê gái điếm sẽ thành vô liêm
sỉ,
3 Con người ấy sẽ thành cơ nghiệp
cho giòi bọ,
và cuối cùng, con người vô liêm
sỉ sẽ bị diệt vong.
Chống thói ba hoa
4 Kẻ dễ tin là người nhẹ dạ.
Ai phạm tội thì gây hại cho chính
mình.
5 Kẻ lấy sự dữ làm vui sẽ bị lên
án.
6 Người ghét thói ba hoa sẽ tránh
được sự dữ.
7 Quân tử thì phải nhất ngôn,
như thế, con sẽ không bị hại.
8 Ðừng nói về bạn cũng như về thù,
đừng tiết lộ gì cả, trừ phi không
nói là con có lỗi;
9 vì người nghe con nói sẽ dè
chừng,
và tới lúc nào đó, sẽ ghét con.
10 Con nghe được chuyện gì ư? Hãy
chôn nó trong lòng.
Can đảm lên! Ðiều đó sẽ không làm
con nổ tung đâu.
11 Vừa nghe một lời là kẻ ngu đần
quằn quại,
như người phụ nữ lúc lâm bồn.
12 Như mũi tên cắm vào đùi người ta
thế nào,
thì trong bụng kẻ ngu đần, chuyện
đã nghe cũng thế.
Kiểm chứng điều nghe nói
13 Hãy điều tra người bạn, có khi nó
đã chẳng làm gì;
mà nếu có làm, thì nó sẽ không
làm lại nữa.
14 Hãy điều tra người bên cạnh, có
khi nó đã không nói gì,
mà nếu có nói, thì nó sẽ không
nói lại nữa.
15 Hãy điều tra người bạn, vì thường
hay có chuyện vu khống;
nhưng đừng tin mọi lời của người
ta.
16 Có kẻ ngã mà đâu cố ý,
và ai lại không lầm lỗi trong lời
nói của mình?
17 Hãy điều tra người bên cạnh con
trước khi hăm doạ nó,
và dành chỗ cho Luật của Ðấng Tối
Cao.
Khôn ngoan thật, khôn ngoan giả
20 Khôn ngoan nào cũng là kính sợ
Ðức Chúa,
trong mọi khôn ngoan đều có việc
thi hành Lề Luật.
22 Nhưng biết điều dữ đâu phải khôn
ngoan,
và mưu toan của quân tội lỗi đâu
phải là lanh trí.
23 Có cái khôn khéo đáng ghê tởm,
người thiếu khôn ngoan là kẻ ngu
đần.
24 Thà trí hiểu kém mà biết kính sợ,
còn hơn khôn khéo mà vi phạm Lề
Luật.
25 Có cái khôn khéo tinh vi mà lại
bất công,
có kẻ tráo trở nhân nghĩa để đem
lẽ phải về mình.
26 Có kẻ xấu, (bên ngoài) thì lom
khom, rầu rĩ,
mà (trong) lòng lại đầy xảo trá
mưu mô.
27 Nó giấu mặt và giả điếc,
khi không bị nhận diện thì nó lấn
át con.
28 Nếu vì yếu sức mà không phạm tội
được,
thì khi gặp dịp, nó sẽ làm điều
xấu.
29 Xem mặt, bắt hình dong,
giáp mặt, mới nhận ra ai là người
có suy nghĩ.
30 Áo của một người, nụ cười nhe
răng,
và dáng đi bộc lộ con người ấy.
Chương 20
Nên nói hay làm thinh
1 Có lời trách mắng không đúng lúc,
có kẻ thinh lặng mà lại biết
điều.
2 Thà trách mắng còn hơn giận dữ.
3 Người thú tội thì tránh được bao
hệ luỵ.
4 Kẻ dùng bạo lực mà thi hành lẽ
phải,
chẳng khác nào hoạn quan muốn hại
đời con gái.
5 Có kẻ thinh lặng mà được kể là
khôn ngoan,
còn kẻ ba hoa thì đáng ghét.
6 Có kẻ thinh lặng vì chẳng biết
nói chi,
có kẻ thinh lặng để chờ thời.
7 Người khôn ngoan biết thinh lặng
chờ dịp tốt,
còn kẻ bép xép, dại khờ lại bỏ lỡ
cơ may.
8 Kẻ nhiều lời sẽ bị chán ghét,
người hiếu thắng thì bị khinh chê.
Những điều nghịch lý
9 Có khi lâm nạn lại thành công,
gặp may mà hoá thiệt thòi.
10 Có lúc cho đi mà con không được
lợi,
có lúc cho đi lại được trả gấp
đôi.
11 Ðôi khi vinh quang đem lại nhục
nhã,
kẻ thấp hèn lại được ngẩng đầu
hiên ngang.
12 Có kẻ sắm nhiều mà tốn ít,
nhưng thực ra phải trả gấp bảy
lần.
13 Người khôn ngoan nói ít cũng
gây được thiện cảm,
lời hoa mỹ của kẻ ngu đần chỉ là
thứ đổ đi.
14 Ích gì cho con quà biếu của đứa
khờ dại:
nó biếu một mà trông được mười.
15 Nó cho thì ít, trách mắng thì
nhiều,
miệng oang oang như thằng mõ,
hôm nay cho mượn, ngày mai đã
đòi.
Người như vậy thật đáng ghét.
16 Kẻ ngu đần nói: "Chẳng có ai
thân thiết với tôi,
việc nghĩa tôi làm, chẳng ai biết
đến! "
17 Chịu ơn nó toàn những quân mạt
hạng,
biết bao lần chúng cười nhạo nó!
Tránh ăn nói vụng về
18 Sẩy chân còn hơn lỡ miệng,
những kẻ gian ác cũng sụp đổ
nhanh như thế.
19 Người thô lỗ thì giống như câu
chuyện không hợp thời,
kẻ dốt nát cứ kể đi kể lại.
20 Kẻ ngu đần không nói được dụ
ngôn,
vì lúc phải nói, nó lại chẳng
nói.
21 Do túng thiếu, có kẻ tránh được
tội,
và không bị ray rứt lúc nghỉ
ngơi.
22 Có người tiêu vong vì xấu hổ,
nó tiêu vong vì nể mặt đứa khờ.
23 Có kẻ vì xấu hổ mà hứa hẹn với
bạn hữu,
bỗng dưng biến người ấy thành kẻ
thù.
Gian dối
24 Nơi con người, nói dối là điều đê
tiện xấu xa,
kẻ dốt nát cứ luôn mồm nói dối.
25 Trộm cắp còn đỡ hơn nói dối,
nhưng cả hai đều chuốc lấy hư
vong.
26 Kẻ quen nói dối là kẻ vô liêm sỉ,
nỗi nhục không bao giờ rời xa nó.
Về sự khôn ngoan
27 Kẻ ăn nói khôn ngoan được người
khác kính nể,
người cư xử chín chắn được bậc
quyền cao trọng dụng.
28 Người làm ruộng thu lúa đầy bồ,
kẻ đẹp lòng các bậc quyền cao, dù
có lỗi lầm, cũng được tha thứ.
29 Bổng lộc và quà cáp làm mờ mắt
bậc khôn ngoan,
khiến miệng họ mắc quai, không
còn dám khiển trách.
30 Khôn ngoan bị che giấu, kho tàng
bị chôn vùi:
cả hai nào có ích chi?
31 Người che giấu sự đần độn
vẫn hơn kẻ che giấu sự khôn
ngoan.
Chương 21
Các thứ tội
1 Con ơi, đã trót phạm tội thì đừng
phạm nữa!
Hãy xin ơn tha thứ những tội con
đã phạm.
2 Con hãy tránh tội như tránh
rắn,vì nếu con tới gần, nó sẽ cắn con.
Răng nó khác nào răng sư tử
cướp mạng sống con người.
3 Vi phạm Lề Luật bao giờ cũng là
gươm hai lưỡi,
gây ra vết thương không tài nào
chữa trị.
4 Kinh hoàng và bạo lực làm tài sản
tiêu tan,
nhà cửa đứa kiêu căng cũng bị
tiêu tan như thế.
5 Kẻ nghèo vừa mở miệng cầu khẩn là
Chúa lắng tai nghe:
Người xét xử ngay, không trì
hoãn.
6 Ai ghét bỏ lời khiển trách là
bước theo đường quân tội lỗi,
ai kính sợ Ðức Chúa thì thật lòng
trở lại.
7 Người khéo ăn khéo nói thì nổi
tiếng khắp nơi,
nhưng ai tinh ý sẽ biết ngay hắn
sơ hở chỗ nào.
8 Kẻ lấy tiền người khác xây nhà
mình ở,
cũng giống như người chất đá làm
mộ chôn mình.
9 Ðám hội lũ phi pháp tựa như đống
sợi vụn,
rốt cuộc chỉ làm mồi cho lửa mà
thôi.
10 Ðường nẻo quân tội lỗi thì phẳng
phiu, không sỏi đá,
nhưng cuối đường là hố sâu âm
phủ.
Người khôn kẻ dại
11 Ai tuân giữ Lề Luật sẽ điều khiển
được tâm tư,
khôn ngoan là hết lòng kính sợ
Ðức Chúa.
12 Người không lanh lợi chẳng học
hành gì được,
nhưng có thứ lanh lợi gây nhiều
đắng cay.
13 Kiến thức của bậc khôn ngoan tràn
trề như nước lũ
và lời khuyên của họ như nguồn
suối tuôn trào.
14 Lòng dạ kẻ ngu đần như chiếc bình
rạn nứt
chẳng giữ được một kiến thức nào.
15 Nghe một lời lẽ khôn ngoan,
người am hiểu tán thưởng và góp
thêm ý kiến,
còn kẻ sa đoạ thì bực mình và bỏ
lại sau lưng.
16 Lời lẽ kẻ ngu tựa hành lý nặng
nề, còn miệng người thông minh nói ra lời duyên dáng.
17 Trong đại hội, người sáng suốt
được yêu cầu phát biểu,
lời họ nói được người ta để tâm
suy nghĩ.
18 Khôn ngoan đối với đứa ngu tựa
ngôi nhà đổ nát,
kiến thức của kẻ dốt là một mớ ý
tưởng lộn xộn.
19 Với người ngốc, giáo dục ví như
xiềng cùm chân,
như còng khoá tay phải.
20 Người ngu cười hô hố,
còn người sáng trí hoạ mới mỉm
cười.
21 Với người khôn, giáo dục ví như
vàng trang sức,
như xuyến trên tay phải.
22 Tới nhà ai, kẻ ngu xồng xộc bước
vào,
còn người từng trải thì ngập
ngừng e ngại.
23 Kẻ khờ đứng nhìn qua cửa,
còn người có giáo dục đứng lại
bên ngoài.
24 Ðứng nghe ngoài cửa là kẻ thiếu
giáo dục,
còn người khôn coi đó là điều
nhục nhã ê chề.
25 Ðứa bẻm mép nói năng bừa bãi,
còn người khôn ăn nói chừng mực.
26 Kẻ ngu đần nói trước nghĩ sau,
người khôn ngoan nghĩ rồi mới
nói.
27 Kẻ vô đạo nguyền rủa Xa-tan,
thực ra là nguyền rủa chính mình.
28 Ðứa hay mách lẻo bôi nhọ chính
bản thân,
và bị hàng xóm láng giềng ghét
bỏ.
Chương 22
Kẻ lười biếng
1 Kẻ lười biếng giống như hòn đá
dính phân,
ai ai cũng chê cười khinh bỉ.
2 Kẻ lười biếng ví tựa đống phân,
ai đụng vào là phủi tay lập tức.
Những đứa con hư
3 Nhục nhã thay người cha sinh phải
đứa con trai mất dạy,
nhưng quả là thiệt thòi nếu sinh
ra con gái.
4 Gái khôn sẽ được chồng làm gia
nghiệp,
gái trơ trẽn là nỗi buồn cho
người sinh ra nó.
5 Gái táo tợn làm xấu hổ cả cha lẫn
chồng,
nó sẽ bị cả hai khinh miệt.
6 Bảo ban không đúng lúc tựa như
hoà nhạc giữa đám tang,
nhưng roi vọt và lời răn đe là
khôn ngoan mọi lúc.
Khôn ngoan và ngu dại
9 Dạy đứa ngu ví như gắn lại những
mảnh sành,
như đánh thức kẻ đang ngủ mê mệt.
10 Nói chuyện với đứa ngu ví như nói
chuyện với đứa đang ngủ gật,
mình vừa nói xong, nó đã hỏi:
"Cái gì thế?"
11 Hãy khóc thương kẻ ly trần, vì nó
đã mất ánh sáng;
hãy khóc thương đứa ngu đần, vì
nó đã mất trí khôn.
Khóc người chết thì khóc ít thôi,
vì nó đã được yên nghỉ;
còn đứa ngu đần, tuy sống mà tệ
hơn là chết.
12 Khóc than người chết chỉ có bảy
ngày,
còn đứa ngu đần và đứa vô đạo,
thì phải khóc than chúng bao lâu
chúng còn sống.
13 Ðừng nói nhiều với người khờ dại,
chớ đồng hành với đứa ngu si.
Hãy đề phòng nó để con khỏi buồn
phiền,
và khỏi ra ô uế vì đụng chạm đến
nó.
Hãy tránh xa nó, con sẽ được yên
ổn,
và khỏi chán nản vì sự ngu đần
của nó.
14 Có chi mà nặng hơn chì, tên nó là
gì nếu chẳng là "ngu"?
15 Vác cát, muối hay khối sắt, còn
dễ hơn chịu đựng một đứa ngu.
16 Như cột kèo chắc chắn trong toà
nhà,
dù động đất cũng chẳng lung lay;
một tâm hồn cương quyết theo kế
hoạch đã định,
gặp thời vận hạn cũng không nao
núng.
17 Một tâm hồn xác tín vào những suy
nghĩ khôn ngoan
khác nào bức tranh khảm trên
tường bóng.
18 Như những viên đá nhỏ trên bờ
tường,
khi gió thổi đến, không thể nằm
yên,
một tâm hồn hèn nhát chiều theo
những suy nghĩ dại dột,
gặp nỗi lo sợ nào cũng không đứng
vững.
Tình bạn
19 Chạm vào mắt làm tuôn rơi nước
mắt,
chạm vào lòng khiến lộ ra nỗi
lòng.
20 Liệng đá vào bầy chim làm chim
bay tán loạn,
mắng nhiếc bạn bè khiến tình bạn
tiêu tan.
21 Nếu con lỡ rút gươm đe bạn,
đừng thất vọng: vẫn có
thể hàn gắn.
22 Nếu con lỡ nặng lời với bạn, đừng
lo sợ: con có thể giải hoà.
Nhưng lăng nhục, kiêu căng, tiết
lộ bí mật và trò bội phản
làm bạn hữu nào cũng phải trốn
xa.
23 Hãy giữ chữ tín với người bạn lâm
cảnh cơ hàn,
để khi nó thịnh vượng, con cũng
được no thoả.
Hãy ở lại với nó trong cơn quẫn
bách,
để khi nó hưởng gia tài, con cũng
được hưởng chung.
24 Khói và hơi nóng cho biết có lửa
trong lò,
lời lăng nhục mở đường cho máu
đổ.
25 Che chở một người bạn, tôi không
chút hổ ngươi,
chẳng việc gì mà phải lánh mặt.
26 Và nếu hắn có gây hoạ cho tôi,
thì ai biết chuyện cũng đều coi
chừng hắn.
Cảnh giác
27 Miệng tôi, ai sẽ đặt người canh
giữ,
và môi tôi, ai sẽ lấy thận trọng
mà niêm phong,
để nhờ đó tôi không vấp ngã
và lưỡi tôi không làm tôi vong
mạng?
Chương 23
1 Lạy Ðức Chúa là Cha và là Chúa Tể
đời con,
xin đừng để mặc con chiều theo sở
thích của môi miệng,
đừng để nó làm con vấp ngã.
2 Tư tưởng con, ai sẽ lấy roi sửa
trị,
tâm can con, ai sẽ dùng khôn
ngoan dạy dỗ,
để đừng dung thứ những lầm lỗi
của con,
cũng đừng làm ngơ trước tội con
đã phạm?
3 Bằng không, lỗi lầm của con cứ
gia tăng mãi,
tội lỗi của con chồng chất thêm
nhiều,
con sẽ quỵ ngã trước mặt đối
phương
và kẻ thù con đắc chí nhạo cười.
4 Lạy Ðức Chúa là Cha và là Thiên
Chúa của đời con,
xin đừng để mắt con trâng tráo,
5 xin đẩy dục vọng xa khỏi con,
6 xin chớ để thói ăn chơi truỵ lạc
thống trị con,
đừng để con đắm chìm trong những
dục vọng trơ trẽn.
Thề thốt
7 Hỡi các con, hãy nghe dạy bảo về
lời ăn tiếng nói,
vì ai tuân giữ, không bị bắt lỗi
bao giờ.
8 Chính do môi miệng mà tội nhân bị
bắt bẻ,
cũng do đó, đứa lăng mạ và kẻ tự
cao phải vấp phạm.
9 Ðừng để mình quen miệng thề bồi,
cũng đừng quen thói kêu tên Ðấng
Thánh.
10 Như một gia nhân luôn bị theo
dõi,
hẳn trên mình luôn có vết đòn,
người quen thề bồi và lúc nào
cũng kêu Danh Thánh,
hẳn sẽ không tránh được tội đâu!
11 Ai thề thốt lắm thì gian ác nhiều
và tai ương sẽ không xa nhà nó ở.
Nếu nó phạm vì sơ suất, nó vẫn
mắc tội,
nếu vì khinh thường, nó mắc tội
gấp đôi,
nếu thề vô cớ, nó hết đường chạy
tội,
nhà nó ở sẽ đầy tai ương.
Những lời nói khiếm nhã
12 Có một kiểu nói ví được như tử
thần,
chớ gì không ai nghe thấy trong
sản nghiệp Gia-cóp!
Kiểu ăn nói đó, người đạo đức
phải tránh cho xa
để khỏi ngụp lặn trong tội lỗi.
13 Con chớ quen miệng nói những lời
thô lỗ tục tằn,
vì như thế là có tội.
14 Hãy nhớ đến cha mẹ con
khi con ngồi giữa bậc quyền cao
chức trọng,
kẻo con quên mình đang ở trước
mặt các vị ấy
mà cư xử như một kẻ ngu đần;
rồi con lại mơ ước phải chi mình
đừng sinh ra
và nguyền rủa ngày con chào đời.
15 Người đã quen nói những lời nhục
mạ
thì suốt đời không ai sửa dạy
nổi.
16 Có hai loại người làm gia tăng tội
lỗi
và loại thứ ba kéo xuống cơn
thịnh nộ.
17 Ðam mê bốc cháy tựa như lửa bừng
bừng,
sẽ chẳng tắt cho đến khi được
thoả mãn.
Người mê đắm xác thịt
sẽ chẳng ngưng cho đến khi bị lửa
thiêu huỷ.
Ðối với kẻ mê đắm, bánh nào cũng
ngon,
nó sẽ chẳng yên cho đến khi lìa
đời.
18 Người không chung thủy với vợ tự
nhủ rằng: "Nào ai thấy nổi?
Bóng tối bao quanh ta, tường nhà
che khuất ta!
Chẳng ai nhìn thấy, việc gì ta
phải sợ?
Ðấng Tối Cao chẳng chấp tội ta
đâu!"
19 Ấy mắt người đời thì nó sợ,
mà nào biết rằng mắt của Ðức Chúa
sáng hơn mặt trời gấp vạn lần.
Người thấy rõ mọi đường nẻo phàm
nhân
và thấu suốt cả những nơi kín ẩn.
20 Trước khi vạn vật được tạo thành,
Người đã biết tất cả.
Sau khi chúng được hoàn thành,
Người cũng biết.
21 Con người như thế sẽ bị trừng phạt
giữa phố phường,
vào chính lúc không ngờ, nó bị
bắt.
Người đàn bà ngoại tình
22 Người đàn bà bỏ chồng cũng thế:
thị sinh ra đứa con thừa tự bởi
người khác.
23 Trước hết, thị không tuân giữ
luật của Ðấng Tối Cao,
tiếp đến, thị mắc lỗi với chồng;
sau nữa, thị ngoại tình vì thói
dâm đãng
và sinh ra những đứa con bởi
người đàn ông khác.
24 Thị sẽ bị đưa ra trước cộng đoàn,
con cái thị cũng bị trừng phạt.
25 Chúng sẽ như cây không đâm rễ,
như cành không sinh hoa kết trái,
26 nhớ đến thị là người ta nguyền rủa,
nỗi nhục của thị không thể xoá
nhoà.
27 Người đời sau sẽ biết rằng:
Không gì cao quý bằng kính sợ Ðức
Chúa
và chẳng có chi ngọt ngào bằng
tuân giữ những lệnh Ðức Chúa
truyền.
Chương 24
Diễn từ của Ðức Khôn Ngoan
1 Ðức Khôn Ngoan tự biểu dương
và hãnh diện ở giữa dân mình.
2 Khôn ngoan lên tiếng trong đại
hội của Ðấng Tối Cao
và hãnh diện trước quyền uy của
Người.
3 "Ta phát xuất từ miệng Ðấng
Tối Cao
và như mây mù, Ta bao phủ cõi
đất.
4 Ta cắm lều trên nơi cao thẳm
và đặt ngai Ta trên cột mây.
5 Duy có mình Ta đi vòng cả bầu
trời
và rảo bước khắp vực sâu thăm
thẳm.
6 Trên sóng biển, trên toàn cõi
đất,
trên mọi nước mọi dân, Ta nắm
trọn chủ quyền.
7 Giữa chúng hết thảy, Ta tìm chốn
nghỉ ngơi,
xem có gia nghiệp của ai để Ta cư
ngụ.
8 Bấy giờ, Ðấng tác thành vạn vật
truyền lệnh cho Ta,
Ðấng tạo thành Ta dựng lều cho Ta
ở.
Người phán: "Hãy cắm lều ở
Gia-cóp,
hãy hưởng phần sản nghiệp ở
Ít-ra-en."
9 Người đã dựng nên Ta trước muôn
đời, từ khởi thuỷ,
và Ta sẽ tồn tại mãi đến muôn
đời.
10 Trong lều thánh, trước nhan
Người, Ta thi hành thánh vụ
và như thế, Ta định cư tại Xi-on.
11 Ta cũng nghỉ ngơi trong thành đô
yêu dấu,
tại Giê-ru-sa-lem, Ta nắm chủ
quyền.
12 Ta đâm rễ sâu giữa một dân hiển
hách,
trong phần riêng của Ðức Chúa,
cũng là sản nghiệp của Người.
13 Ta đã vươn lên tựa cây bá hương
vùng Li-băng,
tựa cây trắc bá núi Khéc-môn.
14 Ta đã vươn lên như cây chà là ở
Ên Ghe-đi,
như những khóm hồng ở Giê-ri-khô,
như cây ô-liu xanh tốt giữa cánh
đồng.
Như cây tiêu huyền, Ta đã vươn
lên.
15 Như cây quế, như tước sàng, Ta
nức hương ngào ngạt,
Ta toả hương thơm ngát như mộc
dược quý,
như phong tử hương, mã não, an
tức hương,
như khói hương nghi ngút trong
lều,
16 Ta vươn nhánh ra như cây nhựa
điều,
nhánh của Ta là nhánh vinh quang
tươi đẹp.
17 Tựa cây nho, Ta nẩy mầm xinh tốt,
hoa của Ta sẽ kết trái phú túc
vinh quang.
18 Ta là mẹ sinh ra yêu mến tốt đẹp,
sự kính sợ, sự hiểu biết, sự
trông cậy lành thánh.
Hằng có, Ta ban mình Ta cho mọi
con cái Ta,
cho mọi kẻ được Người nêu danh.
19 Hỡi những kẻ khao khát Ta, nào
hãy đến,
hãy ăn cho no thoả hoa trái của
Ta.
20 Vì nhớ đến Ta thì ngọt ngào hơn
mật
và được Ta làm gia sản thì ngọt
hơn tảng mật ong.
21 Ai ăn Ta sẽ còn đói, ai uống Ta
sẽ còn khát.
22 Ai nghe lời Ta sẽ không phải thẹn
thùng,
ai hoạt động trong Ta sẽ không hề
phạm tội.
Ðức Khôn Ngoan và Lề Luật
23 Tất cả những điều ấy
đều có trong sách Giao ước của
Thiên Chúa Tối Cao,
trong Lề Luật ông Mô-sê đã
truyền,
để các cộng đồng Gia-cóp nhận làm
gia nghiệp.
25 Lề Luật làm cho khôn ngoan dâng
trào như sông Pi-sôn,
như sông Tích-ra vào mùa hái quả,
26 cho hiểu biết đầy tràn như sông
Êu-phơ-rát,
như sông Gio-đan vào mùa gặt;
27 cho lời dạy bảo chan hoà như sông
Nin,
như suối Ghê-khôn vào mùa nho
chín.
28 Người đầu tiên chẳng biết hết
khôn ngoan,
kẻ cuối cùng cũng không hiểu thấu
được.
29 Vì tư tưởng của khôn ngoan rộng
hơn đại dương,
ý định của khôn ngoan sâu hơn vực
thẳm.
30 Phần tôi, tôi như kênh đào chảy
từ sông lớn,
như con lạch dẫn nước tới địa
đàng.
31 Tôi tự nhủ: "Tôi sẽ tưới
mảnh vườn của tôi",
cho luống hoa đẫm nước.
Và này, kênh đào của tôi đã biến
thành sông cả,
và sông cả biến thành đại dương.
32 Tôi sẽ làm cho lời dạy bảo rực
sáng tựa bình minh,
cho nó chiếu toả mãi tận chốn xa
vời.
33 Tôi sẽ tung gieo giáo huấn như
lời của ngôn sứ,
sẽ lưu truyền cho các thế hệ mai sau.
34 Hãy xem: tôi vất vả đâu phải cho
riêng mình,
nhưng còn vì mọi người muốn tìm
kiếm khôn ngoan.
Chương 25
Châm ngôn
1 Có ba điều tôi hết lòng ao ước,
cả ba đều đẹp lòng Ðức Chúa và
người ta:
anh em hoà thuận, láng giềng thân
thiết,
vợ chồng ý hợp tâm đầu.
2 Nhưng cũng có ba hạng người tôi
gớm ghét,
và không chịu nổi lối sống của
họ:
nghèo mà kiêu, giàu mà gian trá,
già đầu mà ngu, còn đi ngoại
tình.
Người già
3 Còn trẻ con không lo dành dụm,
về già lấy đâu ra mà có?
4 Người cao niên phán đoán, bậc lão
thành chỉ bảo,
thật đẹp đẽ biết bao!
5 Sự khôn ngoan của các vị bô lão,
tư tưởng và ý kiến của các bậc
danh nhân
thật đẹp đẽ chừng nào!
6 Giàu kinh nghiệm là triều thiên
cho hàng bô lão,
lòng kính sợ Ðức Chúa là niềm
hãnh diện của các ngài.
Những điều hạnh phúc
7 Trong trí tôi nảy ra chín điều,
mà lòng tôi cho là hạnh phúc.
Và điều thứ mười, tôi cũng sẽ nói
ra:
Ðó là người tìm được niềm vui nơi
con cái,
người ngay khi còn sống đã nhìn
thấy kẻ thù ngã quỵ.
8 Phúc thay kẻ được chung sống với
người vợ thông minh,
kẻ không lỗi lầm trong lời ăn
tiếng nói
và kẻ không phải làm tôi người
chẳng xứng với mình.
9 Phúc thay kẻ biết xử sự khôn
khéo,
kẻ nói mà người ta lắng tai nghe.
10 Người tìm được khôn ngoan cao cả
biết chừng nào
nhưng vẫn chưa bằng người kính sợ
Ðức Chúa.
11 Lòng kính sợ Ðức Chúa thì vượt
trên tất cả,
ai sánh được với kẻ biết kính sợ
Người?
12 Lòng kính sự Ðức Chúa, đầu mối
của lòng mến Người,
nhưng chính bởi tin mà bắt đầu
kết hợp với Người.
Ðàn bà
13 Không vết thương nào sánh nổi vết
thương lòng,
(không sự dữ nào bằng sự dữ do
đàn bà gây nên)
không độc ác nào bằng độc ác của
người phụ nữ.
14 Không cái khổ nào bằng cái khổ do
kẻ ghét ta gây nên.
Không sự báo thù nào như sự báo
thù của kẻ địch.
15 Không nọc độc nào như nọc độc của
loài rắn.
Không cơn giận nào bằng cơn giận
của kẻ thù.
16 Tôi thà ở chung với sư tử hay rắn
rết
còn hơn chung sống với người đàn
bà xấu xa.
17 Lòng độc ác biến đổi nét mặt
người đàn bà:
mặt y thị tối sầm như mặt gấu.
18 Chồng thị ngồi ăn với hàng xóm
láng giềng
cứ buộc lòng phải thở than cay
đắng.
19 Mọi gian ác đều chẳng thấm vào
đâu
so với gian ác của người đàn bà;
thị sẽ phải chịu số phận của
phường tội lỗi.
20 Ðàn ông trầm lặng sống với đàn bà
lắm điều
chẳng khác chi đôi chân cụ già
phải leo lên đồi cát.
21 Ðừng để nhan sắc người đàn bà lôi
cuốn con,
và cũng đừng ham muốn phụ nữ.
22 Vợ mà phải nuôi chồng
ắt sẽ nổi xung, hỗn láo và làm
cho chồng mất mặt.
23 Con tim suy nhược, nét mặt buồn
rầu,
tâm hồn tan nát: tất cả đều do
người đàn bà độc dữ.
Tay chân rã rời, đầu gối bủn rủn:
cũng tại người vợ không biết tạo
hạnh phúc cho chồng.
24 Tội bắt đầu có là do đàn bà,
và cũng tại đàn bà mà tất cả
chúng ta phải chết.
25 Ðừng khai mương cho nước chảy,
cũng đừng để cho đàn bà độc dữ tự
do ăn nói.
26 Nếu con đưa tay làm hiệu mà nó
chẳng theo
thì con hãy đoạn tuyệt với nó.
Chương 26
1 Phúc thay ai cưới được vợ hiền,
tuổi thọ sẽ tăng lên gấp đôi.
2 Vợ đảm đang khiến chồng được sung
sướng,
được an vui suốt cả cuộc đời.
3 Vợ hiền là số tốt phận may
dành cho những người kính sợ Ðức
Chúa:
4 Giàu hay nghèo, lòng vẫn cứ an
vui,
lúc nào nét mặt cũng tươi cười.
5 Có ba điều làm tôi sợ hãi,
và điều thứ bốn làm tôi phải kinh
hồn:
dân thành chia rẽ, quần chúng tụ
tập,
người ta cáo gian nhau: tất cả
đều đáng sợ hơn cái chết.
6 Nhưng khi bà này nổi ghen với bà
kia
thì thật mới nát gan nát ruột,
và trong mọi chuyện đó, chính cái
lưỡi đã gieo tai rắc hoạ.
7 Người đàn bà xấu thì như cái ách
lỏng lẻo,
chế ngự được thứ đó như nắm được
bọ cạp.
8 Ðàn bà say sưa khiến người ta nổi
giận,
cái nhục của thị, thị cũng không
che.
9 Mắt lẳng lơ của người đàn bà để
lộ thói dâm đãng:
cách liếc mắt đưa tình khiến ai
cũng nhận ra.
10 Trước một đứa con gái trơ
trẽn,con hãy giữ mình cho cẩn tắc:
thấy con sơ hở là nó lợi dụng
ngay.
11 Trước cái nhìn táo bạo của nó,
con hãy giữ gìn cho cẩn thận,
và đừng bỡ ngỡ nếu nó không để ý
đến con.
12 Như người lữ khách khát nước há
miệng ra, gặp đâu uống đó,
cô ả cũng ngồi lê khắp đầu đường
xó chợ, khách nào cũng đi.
13 Vợ có duyên thì chồng hạnh phúc,
vợ khôn khéo thì chồng được nở
mặt nở mày.
14 Phụ nữ ít nói là quà Ðức Chúa
ban,
không chi sánh bằng người có giáo
dục.
15 Phụ nữ nết na là ân phúc tuyệt
vời;
không chi quý giá bằng người tiết
hạnh.
16 Người vợ hiền trong cửa nhà ngăn
nắp
đẹp như vầng hồng trên chốn cao
xanh của Ðức Chúa.
17 Khuôn mặt diễm kiều với thân hình
cân đối
ví như ngọn đèn toả sáng trên giá
đền thờ.
18 Ðôi chân thon thả với gót chân
vững chắc
khác chi trụ vàng trên đế bạc.
Những chuyện đáng buồn
28 Có hai chuyện khiến tôi buồn lòng
và chuyện thứ ba làm tôi nổi
giận:
chiến sĩ sa cơ vì nghèo túng, trí
thức bị coi như rác rưởi,
chính nhân lại đeo đuổi việc gian
tà:
Ðức Chúa sẽ để cho nó chết vì
gươm.
Việc buôn bán
29 Làm thương mại khó tránh khỏi
tham lam,
đi buôn bán không thoát được tội
lỗi.
Chương 27
1 Vì ham lợi mà nhiều người mắc
lỗi,
mải làm giàu, người ta cứ ngoảnh
mặt làm ngơ.
2 Chiếc cọc cắm sâu vào kẽ đá,
tội lỗi cũng ăn sâu vào việc mua
đi bán lại.
3 Ai không bền lòng kính sợ Ðức
Chúa,
cửa nhà người đó sẽ sớm bị sụp
đổ.
Lời nói
4 Sàng rồi, trấu ở lại sàng,
nói ra, cái dở rõ ràng thấy ngay.
5 Có thử lửa mới biết bình thợ gốm,
nghe chuyện trò, biết ai rởm ai
hay.
6 Xem quả thì biết vườn cây,
nghe lời miệng nói biết ngay lòng
người.
7 Chớ vội khen, khi người chưa lên
tiếng:
muốn biết người, phải nghe miệng
nói năng.
Sự công chính
8 Theo đuổi sự công chính, rồi ra
con sẽ đạt,
con sẽ mặc lấy nó như tấm áo huy
hoàng.
9 Chim cùng loại tìm đậu chung một
chỗ,
sự thật tìm về với những kẻ chân
thật.
10 Sư tử rình mồi,
tội lỗi cũng rình rập những kẻ
làm điều bất chính.
11 Người đạo hạnh luôn ăn nói khôn
ngoan,
kẻ dại khờ thì như mặt trăng hay
thay đổi.
12 Với kẻ ngu si, con đừng mất thì
giờ,
với người hiểu biết, con hãy rán
ngồi lại.
13 Bọn đần độn nói ra là gây bực
tức,
chúng phá lên cười giữa thú vui
tội lỗi.
14 Kẻ hay thề mở miệng là người ta
dựng tóc gáy,
nghe chúng cãi cọ là phải bịt
tai.
15 Bọn kiêu ngạo cãi nhau là đổ máu,
chẳng ai nghe nổi lời chúng nhục
mạ nhau.
Những điều bí mật
16 Tiết lộ bí mật thì chẳng còn ai
tin,
và không kiếm được bạn tâm tình
nữa.
17 Hãy tha thiết với bạn bè và hết
lòng trung tín,
nhưng nếu đã tiết lộ bí mật của
ai,
thì đừng chạy theo họ nữa.
18 Vì, như ai đó mất đi kẻ mình để
cho chết,
con cũng đánh mất tình bạn của
người thân.
19 Chim trong tay, con để bay vụt
mất,
để mất người thân, con chẳng gặp
lại đâu.
20 Ðừng chạy theo họ: họ xa quá rồi,
họ thoát được con như sơn dương
thoát bẫy.
21 Vết thương có thể băng bó, lăng
nhục có thể bỏ qua,
chứ tiết lộ bí mật rồi thì chẳng
còn chi hy vọng.
Giả hình
22 Kẻ nháy mắt thì mưu đồ điều xấu
xa,
và không ai làm cho nó bỏ được.
23 Trước mắt con, nó nói năng ngọt
xớt,
sững sờ kinh ngạc trước từng lời
của con,
nhưng sau lưng, nó đổi cung đổi
giọng,
biến lời con thành những điều gai
chướng.
24 Tôi vốn ghét nhiều điều,
nhưng chẳng ghét chi bằng hạng
người đó
và Ðức Chúa cũng sẽ ghét nữa.
25 Tung đá lên cao, đá sẽ rớt xuống
đầu mình.
Ðánh lén người, sẽ bị người đánh
lại đau hơn.
26 Ai đào hố sẽ sa xuống hố,
kẻ gài bẫy sẽ mắc vào bẫy.
27 Ai làm điều xấu sẽ bị cái xấu đè
bẹp
mà chẳng biết cái xấu đến từ đâu.
28 Kẻ kiêu căng chuyên nhục mạ, châm
biếm,
nhưng luôn có nguy cơ bị báo thù
như con mồi luôn bị sư tử rình
rập.
29 Ai thấy kẻ lành vấp ngã mà vui
mừng,
người đó sẽ sa bẫy,
sẽ bị đau khổ dày vò ngay khi còn
sống.
Thù hận
30 Oán hờn và giận dữ là những điều
ghê tởm,
về chuyện đó kẻ tội lỗi có biệt
tài.
Chương 28
1 Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù
của Ðức Chúa,
tội lỗi nó, Người xem xét từng
ly.
2 Hãy bỏ qua điều sai trái cho kẻ
khác,
thì khi bạn cầu khẩn, tội lỗi bạn
sẽ được tha.
3 Người với người cứ nuôi lòng hờn giận,
thế mà lại xin Ðức Chúa chữa
lành!
4 Nó chẳng biết thương người đồng
loại,
mà lại dám xin tha tội cho mình!
5 Nó chỉ là người phàm mà để tâm
thù hận,
thì ai sẽ xin tha tội cho nó?
6 Hãy nhớ đến ngày tận số
mà chấm dứt hận thù,
nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải
chết
mà trung thành giữ các điều răn.
7 Hãy nhớ đến các điều răn
mà đừng oán hờn kẻ khác,
nhớ đến giao ước của Ðấng Tối Cao
mà không chấp nhất điều lầm lỗi.
Cãi cọ
8 Tránh đôi co, con sẽ bớt phạm
tội,
vì người hung hăng thì hay gây
gổ.
9 Người tội lỗi làm cho bè bạn nên
bất hoà,
gây chia rẽ giữa những người hoà
thuận.
10 Củi khô thì lửa bốc, càng nóng
càng cãi hăng,
càng khoẻ càng nóng tính, càng
giàu càng dễ giận.
11 Tự nhiên gây gổ là châm mồi cho
lửa,
khi không giành giật là gây
chuyện đổ máu.
12 Thổi vào tàn lửa, lửa sẽ bùng
lên,
nhổ lên nó, nó sẽ tắt ngúm.
Tất cả đều do miệng của con.
Cái lưỡi
13 Ðáng nguyền rủa thay kẻ nói xấu,
nói hành, kẻ nói lời hai ý,
gây chia rẽ giữa bao người đang
hoà thuận.
14 Còn có kẻ nói một lời ba bốn ý:
chính vì nó mà bao nhiêu người
phải chao đảo,
lưu lạc từ nước nọ tới nước kia.
Cũng vì nó mà các thành trì kiên
cố phải sụp đổ,
nhà cửa những người quyền quý
phải tan hoang.
15 Kẻ nói một lời ba bốn ý
còn làm bao nhiêu người vợ đảm
đang bị chồng bỏ,
không được hưởng công lao khó
nhọc của mình.
16 Ai nghe theo nó sẽ không được
nghỉ ngơi,
không được sống yên hàn.
17 Ðòn vọt làm thân thể bầm tím,
nhưng cái lưỡi làm dập gẫy cả
xương.
18 Có nhiều kẻ gục ngã vì lưỡi kiếm,
nhưng làm sao sánh được
với những kẻ gục ngã vì lưỡi
người?
19 Phúc thay ai ẩn mình xa cái lưỡi,
không gặp phải lúc nó nổi lôi
đình,
không phải kéo lê cái ách của nó,
không bị nó trói buộc bằng xiềng
xích gông cùm.
20 Vì ách của cái lưỡi là ách sắt,
và xiềng của nó là xiềng đồng.
21 Thật là thê thảm, cái chết nó gây
ra,
nhưng vào âm phủ còn hơn chịu
đựng nó.
22 Chỉ có người đạo đức là nó chẳng
làm chi được,
nó cũng không thiêu đốt được họ
trong lửa của nó.
23 Còn những kẻ xa lìa Ðức Chúa sẽ
bị nó nuốt chửng
và thiêu đốt không ngơi.
Như con sư tử, nó nhảy chồm lên
họ,
như con báo, nó xé họ nát thây.
24 Này, nhà cửa ruộng vườn, hãy lấy
gai rào lại,
bạc vàng của con, hãy cột cho
thật chắc.
25 Ăn nói thì phải cân nhắc đắn đo,
miệng con phải như là cửa có
khoá.
26 Hãy ý tứ, đừng để lỡ lời,
kẻo vấp ngã trước kẻ rình rập
con.
Chương 29
Cho vay mượn
1 Kẻ thương người thì biết cho vay
mượn,
tiếp tay với người là tuân giữ
điều răn.
2 Khi người ta cần, con hãy cho vay
mượn,
khi con vay mượn, hãy trả đúng
hạn kỳ.
3 Hãy giữ lời và trung tín luôn
luôn,
thì bất cứ lúc nào cần điều chi,
con cũng sẽ được.
4 Nhiều người coi của vay mượn như
của nhặt ngoài đường,
khiến ai giúp họ cũng buồn phiền
chán nản.
5 Trước khi nhận, họ hôn tay chủ
nợ,
nói ngon nói ngọt về của cải
người ta,
nhưng đến hạn trả thì lại khất
lần,
thay vì trả, chỉ buông lời than
tiếc
và còn đổ thừa cho hoàn cảnh.
6 Họ có sức trả phân nửa đã là may,
và chủ nợ coi như đã nhặt được
của ngoài đường.
Còn không thì chủ nợ mất toi tiền
bạc,
và vô cớ lại có thêm một kẻ thù,
chỉ lăng mạ chửi bới thay vì trả
nợ,
chỉ khinh khi thay vì tôn kính.
7 Nhiều người không cho vay
chẳng phải vì ác độc, nhưng chỉ
vì sợ bị bóc lột vô cớ.
Bố thí
8 Tuy nhiên, hãy rộng lượng với kẻ
nghèo hèn,
đừng chần chừ khi phải bố thí.
9 Theo luật dạy, con hãy đón tiếp
kẻ khó nghèo,
vì họ túng quẫn, đừng để họ ra về
tay trắng.
10 Hãy bỏ tiền ra giúp người anh em
bạn hữu,
đừng đem chôn dưới đá kẻo nó hư
đi.
11 Hãy theo lệnh Ðấng Tối Cao mà sử
dụng của cải,
việc đó còn ích lợi cho con hơn
cả vàng.
12 Rộng tay bố thí là con chất đầy
kho lẫm,
và con sẽ thoát mọi nỗi gian
nguy.
13 Của bố thí sẽ nên vũ khí giúp con
chống địch thù
lợi hại hơn cả khiên dầy giáo
nhọn.
Bảo lãnh
14 Người tốt bụng đứng ra bảo lãnh
cho kẻ khác,
kẻ mất liêm sỉ mới bỏ mặc người
ta.
15 Ðừng quên ơn người bảo lãnh cho
con
bởi người ấy đã vì con mà thí
mạng.
16 Ân huệ người bảo lãnh, kẻ tội lỗi
không đếm xỉa gì;
người đã cứu mạng mình, đứa vô ơn
không buồn nghĩ tới.
17 Vì đứng ra bảo lãnh, nhiều người
giàu có mất hết gia tài,
và chao đảo như gặp sóng lớn
ngoài biển khơi.
18 Cũng vì đứng ra bảo lãnh
mà nhiều người quyền thế phải lưu
vong
và phiêu bạt giữa những dân xa
lạ.
19 Kẻ tội lỗi đánh liều bảo lãnh
mong kiếm chác lợi lộc ít nhiều
là liều mình lãnh lấy án phạt.
20 Hãy nâng đỡ kẻ khác tuỳ sức con,
nhưng cẩn thận giữ mình kẻo ngã.
Ăn nhờ ở đậu
21 Cuộc sống đòi tối thiểu phải có
nước uống, cơm ăn, áo mặc
và một căn nhà để nương thân.
22 Sống nghèo dưới mái tranh của
mình
còn hơn ăn sang mà đi ở nhờ người
khác.
23 Có nhiều có ít, con cũng hãy bằng
lòng,
để khỏi phải nghe người ta trách
là đồ ăn bám.
24 Ở nhờ hết người này đến người nọ,
cuộc sống của con sẽ thật đáng
buồn,
vì ở đậu nhà người ta, con chẳng
dám hé miệng.
25 Con phải hầu bàn và tiếp rượu cho
khách
mà chẳng ai thèm cám ơn.
Và chua chát nhất là phải nghe
những lời này:
"Lại đây sắp bàn đi, đồ ăn
bám!
Cầm gì vậy, đưa ta một miếng
coi!"
27 - "Ði đi, đồ ăn bám,
để cho khách quý ghé thăm.
Anh của ta sắp đến, ta cần một
căn phòng."
28 Người hiểu biết đau lòng, vì bị
phiền trách là đồ ở đậu,
hoặc bị mắng nhiếc là đứa nợ nần.
Chương 30
Giáo dục
1 Thương con thì cho roi cho vọt,
sau này sẽ vui sướng vì con.
2 Ai biết giáo dục con sẽ được thoả
lòng về con,
và được hãnh diện với những người
quen biết.
3 Ai biết dạy con mình sẽ khiến kẻ
thù phải phát ghen,
và sẽ được sung sướng trước mặt
bạn bè.
4 Người cha có chết thì cũng như
chưa chết,
vì đã để lại đứa con giống như
mình.
5 Khi còn sống, ông nhìn con mà vui
sướng,
giờ chết đến, sẽ không phải buồn
phiền,
6 Trước kẻ thù, ông để lại một
người biết bênh quyền lợi,
với bạn hữu, một người biết thi
ân.
7 Ai nuông chiều con, ắt phải băng
thương tích cho nó,
nó mà kêu la, là ruột gan người
ấy rối bời.
8 Ngựa không thuần sẽ thành ngựa
bất kham,
con buông thả sẽ nên con mất dạy.
9 Cưng con đi, nó sẽ làm bạn hoảng
hốt,
giỡn với nó, nó sẽ làm bạn buồn
phiền.
10 Ðừng đùa cợt với nó, kẻo phải đau
khổ với nó,
và cuối cùng bạn sẽ phải cắn răng
mà chịu.
11 Khi nó còn niên thiếu,
đừng để nó tự quyền.
12 Khi nó còn bé nhỏ, cứ thẳng tay
trừng phạt,
kẻo nó ra bất trị, thì chẳng vâng
lời nữa đâu.
13 Hãy giáo dục và rèn luyện con
bạn,
để khỏi phải chịu cảnh hỗn hào.
Sức khoẻ
14 Nghèo mà cơ thể lành mạnh cường
tráng,
còn hơn giàu mà thân xác ốm o xo
bại.
15 Khoẻ mạnh và tráng kiện thì hơn
mọi thứ bạc vàng,
một thân hình vạm vỡ thì hơn cả
gia tài vô tận.
16 Không của cải nào bằng sức khoẻ
của thân xác,
chẳng vui sướng nào hơn niềm vui
của con tim.
17 Chết còn hơn là sống cay cực,
yên giấc ngàn thu còn hơn bị bệnh
suốt đời.
18 Cao lương mỹ vị đặt trước kẻ đắng
miệng lười ăn,
chẳng khác chi thức ăn cúng trên
mồ mả.
19 Của cúng ích gì cho tượng thần,
vì nó không thể ăn cũng chẳng
ngửi được gì?
Kẻ bị Ðức Chúa phạt cho mắc bệnh
thì cũng vậy:
20 Vị hoạn quan ôm cô trinh nữ mà
thở dài thế nào,
thì nó cũng trố mắt nhìn rồi thở
dài như thế.
Niềm vui
21 Chớ để (tâm) hồn con chìm đắm
trong phiền muộn,
cũng đừng để mình nặng trĩu những
ưu tư.
22 Tâm hồn sướng vui thì con người
giàu sức sống,
niềm vui sẽ kéo dài tuổi thọ.
23 Hãy ru ngủ hồn con và trấn an cõi
lòng,
nỗi buồn chán, hãy đẩy xa con,
vì nó đã làm cho nhiều kẻ vong
mạng,
chứ không hề đem lại lợi ích chi.
24 Nóng nảy, bực bội khiến ngày đời
bị rút ngắn,
và lo lắng làm cho già trước
tuổi.
25 Lòng thơ thới thì miệng thấy
ngon,
thưởng thức được đồ ăn thức uống.
Chương 31
Của cải
1 Thức đêm vì của cải làm hao mòn
thân xác,
bận tâm về nó sẽ mất giấc ngủ
ngon.
2 Bận tâm vì sinh kế cũng không sao
chợp mắt,
lâm cơn bệnh nặng là mất giấc ngủ
ngon.
3 Người giàu vất vả thì của cải gia
tăng,
ngưng làm việc là đi tìm lạc thú.
4 Người nghèo vất vả vẫn thiếu hụt
miếng ăn,
ngưng làm việc là bần cùng thiếu
thốn.
5 Ðã ham tiền không sao công chính
được,
chạy theo lợi lộc ắt sẽ lỗi lầm.
6 Bạc tiền khiến cho bao người sa
ngã,
thế nào cũng đưa họ đến hư vong.
7 Nó là cái bẫy cho ai say mê nó,
hết mọi kẻ ngu si sẽ sa vào.
8 Phúc thay ai giàu có mà vô tội,
không chạy theo của cải, tiền
tài.
9 Người đó là ai để chúng ta khen
là có phúc,
vì trong dân mình người đó khiến
cho bao người thán phục?
10 Ai đã trải qua thử thách đó và
nên hoàn hảo?
Người ấy có lý do để tự hào.
Ai có thể phạm lỗi mà không phạm
lỗi
có thể làm điều ác mà đã không
làm?
11 Của cải người ấy sẽ tồn tại,
công đức người ấy sẽ được cộng
đoàn tán dương.
Tiệc tùng
12 Khi ngồi trước mâm cao cỗ đầy,
đừng hả họng thốt lên:
"Chà! Thịnh soạn quá!"
13 Hãy nhớ rằng: mắt hau háu là điều
chẳng hay.
Có thụ tạo nào tệ hơn con mắt?
Gặp chi nó cũng phát khóc (vì
thèm).
14 Miếng người khác đã nhằm, con
đừng đưa tay tới,
đừng giành với họ trên cùng một
đĩa.
15 Hãy suy bụng ta mà nghĩ ra bụng
người,
làm việc gì cũng phải đắn đo cân
nhắc.
16 Những món đã dọn ra,
hãy ăn làm sao cho xứng một con
người,
đừng nhai nhồm nhoàm kẻo bị khinh
chê.
17 Hãy tỏ ra có giáo dục mà buông
đũa trước.
Ðừng háu ăn kẻo người ta bực
mình.
18 Chung mâm với nhiều người, con
đừng cầm đũa trước.
19 Người có giáo dục thì chút ít
cũng vừa,
trên giường nằm sẽ không tức
bụng.
20 Ăn chừng mực sẽ ngủ thoải mái,
thức dậy sớm, tâm hồn được thảnh
thơi;
kẻ ăn uống quá độ thì mất ngủ đã
đành,
mà còn bị thượng thổ hạ tả.
21 Nếu đã bị ép phải ăn,
hãy đứng lên ra ngoài mà ói, con
sẽ thấy dễ chịu.
22 Con ơi, hãy nghe ta, chớ có khinh
thường,
sau này con sẽ thấy là ta nói
đúng:
Trong mọi việc con làm, hãy giữ
chừng giữ mực,
thì chẳng bệnh tật nào chạm tới
con.
23 Chủ nhà hào hoa, người người ca
tụng,
thiên hạ còn kể mãi về lòng tốt
của ông.
24 Chủ nhà sẻn so, cả làng đàm tiếu,
thiên hạ có kể về sự hẹp hòi đó
thì cũng phải thôi.
Rượu
25 Khi uống rượu, đừng lên mặt anh
hùng,
vì rượu đã làm cho lắm kẻ ra thân
tàn ma dại.
26 Như lửa thử độ bền của thép,
rượu cũng thử lòng người
trong cuộc đọ sức anh hùng lưu
linh.
27 Rượu đem lại cho con người sức
sống,
nếu biết uống có chừng có mực.
Sống không có rượu thì sống làm
chi?
Rượu đã được tạo thành cho người
ta phấn khởi.
28 Tâm hồn sung sướng, lòng dạ hân
hoan,
nếu uống rượu đúng thời đúng mức.
29 Thật cay đắng cho tâm hồn
khi quá chén vì bị nói khích và
ngã quỵ.
30 Ma men khiến đứa ngu nổi khùng mà
chuốc hoạ vào thân:
sức lực tiêu hao, mình mang
thương tích.
31 Trong tiệc rượu, đừng khiêu khích
kẻ đồng bàn,
đừng hạ nhục nó lúc nó đang vui
nhộn,
đừng buông lời trách móc,
cũng đừng đòi nợ nó kẻo nó nổi
sùng.
Chương 32
Tiệc tùng
1 Ðược đặt làm chủ toạ ư? Con đừng
có lên mặt:
giữa thực khách, hãy xử sự như
một người đồng bàn;
lo cho người ta, rồi mới ngồi vào
chỗ.
2 Chu toàn mọi bổn phận xong,
con hãy yên vị và chung vui với
mọi người,
rồi lãnh triều thiên thưởng tài
tổ chức.
3 Nếu là bô lão, xin cứ phát biểu,
đó là điều hợp lý hợp tình.
Xin cứ nói như ngài hiểu biết,
nhưng xin đừng cản trở việc đàn
ca.
4 Nhạc đang tấu thì xin đừng thao
thao bất tuyệt,
vì như vậy là dạy khôn không đúng
lúc.
5 Tiệc rượu có tiếng hát cung đàn
ví như nhẫn vàng đính ấn hồng
ngọc.
6 Rượu hảo hạng, nhạc du dương,
như khung vàng ghép triện ngọc
bích.
7 Nếu còn trai trẻ, hãy nói lúc
cần.
Và khi được mời, cũng chỉ nói hai
lần là tối đa.
8 Hãy nói cho gọn, ít lời, nhiều ý,
làm như kẻ vừa quán triệt vấn đề,
vừa biết nín thinh.
9 Giữa hàng quyền chức, con đừng
làm như kẻ bằng vai;
và khi người khác nói, con chớ có
bô bô cái miệng.
10 Như chớp loè lên trước khi sấm nổ
rền,
mối thiện cảm cũng đón chờ con
người khiêm tốn.
11 Tan tiệc thì đứng lên, đừng ngồi
nán lại.
Về nhà ngay, chớ có la cà.
12 Tại nhà, hãy giải trí vui chơi và
làm chi tuỳ thích,
nhưng đừng ăn nói kiêu căng mà
mang tội.
13 Về mọi chuyện trên đây, hãy ca
ngợi Ðấng tạo thành con,
Ðấng ban cho con dồi dào ân phúc.
Kính sợ Thiên Chúa
14 Kẻ kính sợ Ðức Chúa thì đón nhận
lời giáo huấn.
Ai từ sáng sớm đã kiếm tìm Người,
sẽ được đoái thương.
15 Ai tìm hiểu Lề Luật sẽ thấm nhuần
Lề Luật,
còn với kẻ giả hình, Lề Luật trở
thành cớ vấp ngã.
16 Ai kính sợ Ðức Chúa sẽ nhận ra lẽ
phải;
việc tốt họ làm sẽ rực rỡ như ánh
quang.
17 Người tội lỗi khước từ lời khiển
trách,
tìm đủ lẽ để làm theo ý mình.
18 Người biết suy nghĩ không coi
thường ý kiến kẻ khác.
Quân ngoại bang và phường tự đắc
thì chẳng biết sợ hãi là gì.
19 Ðừng hành động mà không suy nghĩ,
để không phải hối hận về việc
mình làm.
20 Ðường gồ ghề, con chớ đặt chân,
kẻo vấp phải đá.
21 Ðường bằng phẳng, con đừng ỷ y.
22 Cả con cái, cũng phải dè chừng.
23 Trong mọi việc làm, hãy biết tự
tin,
đó cũng là tuân giữ mệnh lệnh.
24 Ai tin tưởng Lề Luật thì gắn bó
với lệnh truyền.
Kẻ cậy trông Ðức Chúa sẽ chẳng hề
thua thiệt.
Chương 33
1 Ai kính sợ Ðức Chúa sẽ không gặp
tai ương,
có bị thử thách, họ cũng thoát
khỏi.
2 Người khôn thì không ghét bỏ Lề
Luật,
còn kẻ giả hình giữ Lề Luật
thì cũng như con tàu giữa phong
ba.
3 Người hiểu biết đặt trọn niềm tin
nơi Lề Luật.
Ðối với họ, Lề Luật đáng tin
như lời sấm đối với người thỉnh
vấn.
4 Phải nói gì, hãy chuẩn bị sẵn,
như thế, con sẽ được lắng nghe.
Hãy tổng hợp kiến thức của con
trước khi ứng đáp.
5 Lòng dạ kẻ ngu đần ví tựa bánh
xe.
Lý luận của nó như trục xe quay
tít.
6 Kẻ ưa thích châm chọc bạn bè
khác nào con ngựa giống, nó vẫn
hí..., dù người cỡi là ai.
Hoàn cảnh chênh lệch
7 Tại sao lại có ngày này trọng hơn
ngày khác,
ánh sáng ngày nào mà chẳng do mặt
trời?
8 Ấy là vì chúng đã được phân biệt
ngay trong tư tưởng của Ðức Chúa.
Người đã ấn định thời tiết và các
ngày lễ khác nhau.
9 Có những ngày Người đề cao và
thánh hoá,
cũng có những ngày Người kể vào
số ngày thường.
10 Mọi người đều bởi đất,
cả A-đam cũng bởi đất mà được tạo
thành.
11 Do thượng trí, Ðức Chúa đã phân
biệt kẻ này người nọ,
đã ấn định đường đời họ khác
nhau.
12 Kẻ thì được Người nâng cao và
giáng phúc,
kẻ thì được Người thánh hoá và
cho ở bên,
còn kẻ khác bị Người nguyền rủa
và hạ xuống thấp,
lật nhào họ khỏi chỗ đứng của họ.
13 Như nắm đất thó anh thợ gốm cầm
trong tay,
đàng nào nó cũng phải theo như
anh muốn,
cũng vậy, con người ở trong tay
Ðấng tạo thành,
Người sẽ trả cho ai nấy theo như
Người thẩm định.
14 Có dữ thì cũng có lành, có chết
thì cũng có sống.
Cũng thế, có người đạo hạnh thì
cũng có kẻ tội lỗi.
15 Vậy hãy nhìn ngắm mọi công trình
của Ðấng Tối Cao,
từng đôi một, công trình đối lại
công trình.
16 Phần tôi, kẻ đến sau cùng, tôi
cũng đã thức khuya,
như người đi mót đến sau thợ hái
trái.
17 Nhờ phúc lộc Ðức Chúa, tôi đã
theo kịp,
và, như mọi tay thợ, tôi đã chất
nho đầy bồn.
18 Hãy hiểu cho rằng tôi vất vả đâu
phải cho mình tôi,
nhưng còn cho tất cả những ai
muốn thu thập kiến thức.
19 Xin hãy nghe tôi, thưa quý vị
quan chức trong dân;
xin lắng tai để ý, thưa quý vị
lãnh đạo cộng đoàn.
Sống tự lập
20 Bao lâu con còn sống,
đừng để vợ con, anh em, bạn bè
điều khiển con.
Ðừng trao của cải cho người khác,
kẻo rồi lại tiếc xót mà phải xin
lại.
21 Bao lâu còn sống, còn chút hơi
tàn,
đừng phó mặc thân con cho người
nào bất cứ.
22 Vì thà để con cái nài xin con,
còn hơn con phải ngóng trông bàn
tay chúng.
23 Trong mọi việc con làm, hãy nắm
quyền điều khiển,
đừng để thanh danh con bị lu mờ.
24 Ðến ngày kết thúc cuộc đời, lúc
con phải chết,
khi ấy hãy phân chia gia tài.
Nô lệ
25 Cỏ rơm, roi đòn và đồ nặng phải
chở, đó là phần của lừa.
Bánh mì, kỷ luật và công việc
phải làm là phần của gia nhân.
26 Dùng kỷ luật ép nó làm lụng, con
sẽ được nghỉ ngơi.
Nếu nới tay với nó, nó sẽ tìm tự
do.
27 Ách và dây cương mới ghì được cổ
lừa,
cực hình và những cuộc tra khảo
mới gò được đứa ở bất lương.
28 Phải thúc nó làm việc kẻo nó ra
lười biếng,
vì, "nhàn cư vi bất
thiện."
29 Hãy bắt nó làm những việc nó phải
làm;
nó không tuân lệnh thì cùm chân
nó lại.
30 Nhưng đừng nghiệt ngã với bất cứ
người nào,
và đừng làm gì trái lẽ phải.
31 Nếu con chỉ có một gia nhân, hãy
coi nó như bản thân mình,
vì giá sở hữu nó là xương máu.
32 Nếu con chỉ có một gia nhân, hãy
lấy tình anh em mà đối xử,
vì con cần nó như cần chính sự
sống mình.
33 Nếu vì con xử tệ mà nó bỏ trốn,
thì biết đường nào mà kiếm cho
ra?
Chương 34
Mộng mơ
1 Kẻ ngu muội hy vọng hão huyền giả
dối,
đứa dại bay cao nhờ đôi cánh mộng
mơ.
2 Tin vào mộng mị thì khác nào bắt
bóng và đuổi theo gió.
3 Mộng mị chỉ phản ánh những cái
bên ngoài
như gương soi cho thấy khuôn mặt.
4 Từ dơ bẩn, có gì sạch được sao?
Từ giả dối, có chi thật được nào?
5 Bói toán, rút quẻ, chiêm bao cũng
đều hão huyền cả,
như những tưởng tượng của phụ nữ
sắp sinh con.
6 Nếu đó không phải do Ðấng Tối Cao
muốn viếng thăm con mà gửi tới,
thì con đừng để tâm đến làm gì.
7 Bởi chưng mộng mị đã khiến cho
bao người lầm lạc;
họ gục ngã vì hy vọng vào đó.
8 Không có gian dối, Lề Luật mới
được chu toàn;
lời nói có chân thành, khôn ngoan
mới trọn vẹn.
Một ngày đàng, một sàng khôn
9 Người bôn ba hiểu rộng biết
nhiều.
Kẻ giàu kinh nghiệm phát biểu
thật thông minh.
10 Ai không từng trải thì hiểu biết
nông cạn,
còn người bôn ba thì lanh lợi,
tháo vát.
11 Trong những chuyến du hành, tôi
đã được thấy nhiều chuyện,
đã hiểu nhiều mà không thể nói
hết.
12 Ðã nhiều lần tính mạng tôi lâm
nguy,
nhưng nhờ kinh nghiệm, tôi đã
thoát chết.
13 Những người kính sợ Ðức Chúa sẽ
được sống lâu dài,
vì họ cậy trông vào Ðấng cứu
thoát họ.
14 Ai kính sợ Ðức Chúa thì không sợ
hãi gì,
họ không run rẩy, vì chính nơi
Người, họ hằng cậy trông.
15 Phúc thay tâm hồn kẻ kính sợ Ðức
Chúa!
Họ nương tựa vào ai? Và ai nâng
đỡ họ?
16 Ðức Chúa để mắt trông nom những
ai yêu mến Người.
Người là khiên mộc vững chắc, là
sức mạnh đỡ nâng,
là tàn che gió nóng, là bóng mát
giữa trưa.
Người giữ gìn cho khỏi vấp ngã,
và bảo vệ cho khỏi té nhào.
17 Người nâng cao tâm hồn, sáng soi
con mắt,
Người ban sức khoẻ, sự sống và
phúc lành.
Các hy lễ
18 Dâng của bất chính làm hy lễ là
trò nhạo báng;
lễ phẩm của đứa bất lương sẽ
không được chấp nhận.
19 Lễ vật kẻ gian ác dâng lên
chẳng được Ðấng Tối Cao chấp
nhận.
Không vì nhiều hy lễ mà tội lỗi
được Người thứ tha.
20 Lấy của người nghèo mà dâng làm
hy lễ
thì cũng như sát tế đứa con trước
mặt cha nó.
21 Người túng nghèo còn chút bánh độ
thân,
ai lấy đi là kẻ hút máu.
22 Cướp phương tiện sống của kẻ khác
là giết người;
đoạt lương của người làm thuê là
gây đổ máu.
23 Kẻ dựng xây, người phá đổ,
chỉ toàn khổ cực, chứ ích lợi gì?
24 Kẻ cầu xin, người nguyền rủa:
Vị Chúa Tể sẽ nghe tiếng ai?
25 Kẻ đụng vào người chết, được tẩy
uế rồi, lại đụng vào nữa,
thanh tẩy kiểu đó, nào được ích
lợi gì?
26 Cũng thế, kẻ ăn chay đền tội,
rồi đi phạm lại vẫn những tội ấy,
hỏi ai sẽ nghe lời nó cầu xin?
Hạ mình kiểu đó, nào được ích lợi
gì?
Chương 35
Lề Luật và hy lễ
1 Tuân giữ Lề Luật là làm cho lễ
phẩm thêm phong phú.
Gắn bó với lệnh truyền là dâng lễ
kỳ an.
2 Tỏ lòng biết ơn là dâng bột tinh
hảo,
làm việc bố thí là dâng lễ ngợi
khen.
3 Từ bỏ gian tà thì đẹp lòng Ðức
Chúa,
chấm dứt bất công là dâng lễ đền
tội.
4 Tuy vậy, đừng đến trước nhan Ðức
Chúa tay không,
vì tất cả những gì phải dâng đều
do lệnh truyền.
5 Lễ phẩm của người công chính như
mỡ đổ trên bàn thờ
xông mùi thơm ngào ngạt trước
Ðấng Tối Cao.
6 Hy lễ của người công chính được
chấp nhận,
và phần kỷ vật sẽ không bị lãng
quên.
7 Hãy tôn vinh Ðức Chúa với tấm
lòng quảng đại,
đừng bớt xén của đầu mùa tay con
làm ra.
8 Dâng cúng chi, cũng phải giữ nét
mặt tươi cười;
dâng hiến của thập phân, hãy hân
hoan vui vẻ.
9 Với tấm lòng quảng đại, hãy dâng
hiến Ðấng Tối Cao
tuỳ theo những gì Người ban tặng
và tuỳ theo khả năng con có.
10 Vì Ðức Chúa là Ðấng thưởng công,
sẽ trả lại cho con gấp bảy lần.
Thiên Chúa công minh
11 Ðừng hối lộ, Người chẳng nhận đâu.
Ðừng ỷ vào hy lễ bất chính.
12 Vì Ðức Chúa là Ðấng xét xử,
Người chẳng thiên vị ai.
13 Người không vị nể mà làm hại kẻ
nghèo hèn,
nhưng nghe lời kêu xin của người
bị áp bức.
14 Người không coi thường lời khấn
nguyện của kẻ mồ côi,
hay tiếng than van của người goá
bụa.
15 Nước mắt quả phụ lại không giàn
giụa trên gò má,
và tiếng bà kêu lại chẳng cáo tội
kẻ làm bà phải khóc sao?
16 Kẻ phục vụ Ðức Chúa theo ý Người
sẽ được Người chấp nhận,
lời họ kêu xin sẽ vọng tới các
tầng mây.
17 Lời nguyện của người nghèo vượt
ngàn mây thẳm.
Lời nguyện chưa tới đích, họ chưa
an lòng.
18 Họ sẽ không rời đi bao lâu Ðấng
Tối Cao chưa đoái nhìn,
chưa xét xử cho người chính trực
và thi hành công lý.
19 Ðức Chúa không trì hoãn,
không bắt họ đợi lâu.
20 Sẽ đến lúc Người đập gãy lưng bọn
tàn ác,
và báo oán chư dân.
21 Sẽ đến lúc Người tiễu trừ lũ ngạo
ngược,
đập tan vương trượng bọn ác nhân.
22 Sẽ đến lúc Người trả cho ai nấy
theo việc họ làm,
và xét xử hành động của người ta
theo ý hướng của họ.
23 Sẽ đến lúc Người phân xử cho dân
Người,
khiến họ vui mừng vì được Người
thương xót.
24 Ðẹp thay lòng thương xót của
Người giữa buổi gian truân,
khác chi mây trời đổ mưa thời
nắng hạn!
Chương 36
Cầu cho Ít-ra-en được giải thoát
và phục hưng
1 Lạy Thiên Chúa là Chúa Tể muôn
loài,
xin dủ lòng thương và nhìn đến
chúng con.
Xin làm cho muôn dân sợ hãi Chúa.
2 Xin giơ tay đè xuống dân ngoại,
để chúng thấy rõ: Ngài thật uy
quyền.
3 Ngài đã cho chúng thấy: Ngài quả
thật là thánh
trong cách đối xử với chúng con,
thì xin cho chúng con cũng thấy:
Ngài thật là cao cả trong cách
đối xử với chư dân,
4 để chúng nhận biết Ngài,
như chúng con từng nhận biết xưa
nay:
ngoài Ngài ra, lạy Ðức Chúa,
chẳng còn Thiên Chúa nào khác
nữa.
5 Xin cho tái diễn những điềm
thiêng
và lại làm những dấu lạ khác.
Xin cho cánh tay hùng mạnh Ngài
được vẻ vang hiển hách.
6 Xin nổi giận và trút cơn lôi
đình,
tiêu diệt đối phương và đập tan
quân địch.
7 Xin rút ngắn hạn kỳ và nhớ lời
thề hứa,
để thiên hạ truyền rao vĩ nghiệp
của Ngài.
8 Ước gì kẻ thoát thân cũng bị lửa
giận nuốt sống
và bọn hà hiếp dân Ngài bị diệt
vong.
9 Xin đập bể đầu bọn thủ lãnh cừu
địch
những kẻ vẫn huênh hoang:
"Ta đây, ai sánh bằng!"
10 Các chi tộc Gia-cóp, nguyện Chúa
thương quy tụ cả về.
Xin thương trả lại phần gia sản
như Chúa đã cho họ thuở ban đầu.
11 Lạy Ðức Chúa, xin dủ lòng thương
Ít-ra-en
là đoàn dân đã từng mang danh
Chúa,
và được Ngài kể như con đầu lòng.
12 Xin thương thành Giê-ru-sa-lem
của Chúa,
là thánh đô, là nơi Ngài nghỉ.
13 Xin làm cho khắp cả Xi-on
vang lời tường thuật những kỳ
công của Chúa,
và làm cho thánh điện
được rực rỡ ánh vinh quang của
Ngài.
14 Xin làm chứng bênh vực
những gì Ngài đã tạo dựng thuở
ban đầu,
những lời sấm đã tuyên nhân danh
Ngài, xin thực hiện.
15 Xin ân thưởng những ai vững chí
trông đợi Ngài,
để các ngôn sứ của Ngài được mọi
người tin tưởng.
16 Lạy Ðức Chúa, xin nghe lời những
kẻ (chạy đến) kêu van
như lời ông A-ha-ron cầu phúc cho
dân Ngài.
17 Và mọi người trên mặt đất sẽ nhìn
nhận
Ngài là Ðức Chúa, là Thiên Chúa
muôn thuở muôn đời.
Biện phân hay dở
18 Thức ăn nào mà bụng chẳng chứa,
nhưng cũng có món này ngon hơn
món kia.
19 Cổ họng biết được món thịt săn,
con tim thông minh cũng nhận ra
những lời dối trá.
20 Con tim lắt léo những gây ra buồn
phiền,
nhưng người từng trải sẽ ứng phó
được.
Kén vợ
21 Một phụ nữ sẽ nhận bất cứ ai làm
chồng,
nhưng giữa các cô lại có kẻ hơn
người kém.
22 Nhan sắc phụ nữ làm mát mắt người
nhìn,
và đó là điều khiến đàn ông khoái
nhất.
23 Nếu nàng còn ăn nói dịu dàng yêu
thương,
thì trong thiên hạ chẳng có ai
được như chồng nàng.
24 Cưới vợ là khởi đầu sự nghiệp,
là có một trợ lực tương xứng, và
một cột trụ để tựa nương.
25 Không có hàng rào, trang trại bị
cướp phá,
vắng bóng đàn bà, đàn ông sẽ lang
thang, rên rỉ.
26 Ai dám tin một tên trộm chuyên
nghề,
làm ăn hết thành này sang thành
khác.
27 Ðàn ông không tổ ấm cũng vậy
thôi: tối đến thì bạ đâu trú đấy.
Chương 37
Bạn bè giả dối
1 Bạn bè nào chẳng nói: "Ðây
cũng chỗ thân thiết mà!"
Nhưng có người chỉ mang danh là
bạn.
2 Không buồn chết được sao
khi bạn bè thân hữu lại hoá nên
thù địch?
3 Ôi, xu hướng xấu xa,
ngươi được hình thành theo khuôn
mẫu nào
mà gieo rắc lừa bịp khắp dương
gian như thế?
4 Có kẻ mừng rỡ khi thấy bạn vui,
nhưng lúc bạn gặp khó khăn thì
liền trở mặt.
5 Có người thấy miếng ăn thì cùng
bạn chịu khó,
nhưng khi phải chiến đấu thì chỉ
biết phòng thân.
6 Tự thâm tâm, chớ quên bạn hữu,
lúc giàu có, cũng đừng làm ngơ.
Cố vấn
7 Cố vấn nào cũng đưa ra ý kiến,
nhưng có người góp ý vì lợi ích
riêng tư.
8 Hãy thận trọng với người chuyên
góp ý:
trước tiên cần biết hắn muốn gì,
- hắn góp ý chẳng qua vì tư lợi
đừng để cho hắn lợi dụng con.
9 Hắn bảo: "Anh đi đúng đường
rồi đó!"
rồi chỉ đứng xa xa mà nhìn,
xem chuyện gì xảy đến cho con.
10 Ðừng hỏi ý kẻ nhìn con bằng đôi
mắt ngờ vực,
chớ tiết lộ dự tính cho kẻ ganh
đua với con.
11 Ðừng hỏi ý phụ nữ về tình địch
của họ,
người nhát đảm về việc chinh
chiến,
nhà buôn về việc mua, người mua
về việc bán.
Chớ hỏi ý kẻ hay phân bì về việc
cám ơn,
đứa bất nhân về việc làm phúc,
tên biếng nhác về bất cứ việc gì,
người làm thuê theo hạn kỳ về
ngày hết hạn,
một đứa ở ươn lười về một công
việc lớn.
Ðừng hỏi ý những hạng người như
trên về bất cứ chuyện gì.
12 Nhưng hãy năng đến với một người
đạo đức,
người con biết là vẫn tuân giữ
lệnh truyền,
người tâm đầu ý hợp với con, biết
cảm thông khi con lầm lỡ.
13 Rồi con cứ bụng bảo dạ mà làm,
vì chẳng còn ai đáng tin hơn.
14 Nhiều khi tâm hồn báo cho con
người biết rõ,
hơn cả bảy người đứng gác trên
trạm cao.
15 Nhưng quan trọng hơn hết:
con hãy cầu xin Ðấng Tối Cao dẫn
con đi theo đường chân lý.
Khôn ngoan thật, khôn ngoan giả
16 Bắt đầu làm việc là phải suy
nghĩ,
trước khi thi hành thì phải đắn
đo.
17 Từ tâm não mà tư tưởng phát sinh
hướng về bốn lãnh vực:
18 thiện với ác, sinh với tử,
nhưng cả bốn luôn bị cái lưỡi chi
phối.
19 Có người dạy thiên hạ thì thông
minh,
nhưng vô tích sự đối với chính
mình.
20 Kẻ hay lý sự thì bị chê ghét,
người như thế chỉ chết đói mà
thôi.
21 Quả thật, nó không được Ðức Chúa
ban ân sủng,
vì nó chẳng khôn ngoan chút nào.
22 Có kẻ khôn, nhưng chỉ để tìm lợi
cho mình,
vì hiểu biết của nó chỉ mang lại
lợi ích cho bản thân.
23 Người khôn thật chỉ vẽ cho dân,
hoa quả kiến thức của người đó
rất là đáng tin cậy.
24 Người khôn ngoan hưởng phúc lộc
đầy tràn,
ai thấy họ cũng khen là có phúc.
25 Ngày đời của mỗi người đều có số,
có hạn,
chỉ ngày của Ít-ra-en mới vô số,
vô cùng.
26 Người khôn ngoan thì được dân tín
nhiệm,
và danh thơm tồn tại đến muôn
đời.
Sống tiết độ
27 Con ơi, trong cuộc sống, hãy
lượng lấy sức mình,
thấy gì có hại, con chớ chiều
theo.
28 Vì không phải mọi sự đều hợp với
mọi người,
đâu phải cái gì ai ai cũng thích.
29 Khi dự tiệc vui, chớ ăn uống vô
độ,
đừng hễ thấy miếng ăn là sấn vào,
30 vì tham thực cực thân,
ăn quá nhiều sinh bội thực.
31 Lắm người thiệt mạng vì mê ăn mê
uống,
còn ai cẩn thận thì được sống
lâu.
Chương 38
Nghề thuốc và bệnh tật
1 Hãy tôn trọng thầy thuốc vì mọi
người đều cần đến ông,
và vì thiên chức lương y là do
Ðức Chúa thiết lập.
2 Quả vậy, tài chữa bệnh là do Ðấng
Tối Cao,
ấy là ân tứ Vua Trời ban tặng.
3 Thầy thuốc hiên ngang vì giàu
kinh nghiệm,
khiến người có địa vị cũng phải
nể nang.
4 Thiên Chúa làm cho đất trổ sinh
dược liệu;
những thứ đó, người khôn chẳng
dám coi thường.
5 Chẳng phải nhờ khúc gỗ mà xưa
nước ra ngọt
khiến cho người ta thấy hiệu năng
của khúc gỗ hay sao?
6 Cũng chính Thiên Chúa cho con người
được hiểu biết
để tôn vinh Người vì những việc
lạ Người làm.
7 Nhờ đó, Người chữa lành và chấm
dứt cơn đau,
còn dược sĩ chỉ làm việc pha chế.
8 Như thế công việc của Người vẫn
tiếp tục
cho đến khi thiên hạ được an
lành.
9 Con ơi, khi đau ốm, con chớ coi
thường,
nhưng hãy cầu xin Ðức Chúa, Người
sẽ chữa lành cho.
10 Hãy từ bỏ lỗi lầm, hành động cho
đúng đắn,
thanh tẩy tâm hồn sạch mọi tội
khiên.
11 Hãy dâng hương thơm và tinh bột
làm kỷ vật,
rưới mỡ lên lễ phẩm ít nhiều tuỳ
khả năng.
12 Bấy giờ con sẽ mời thầy thuốc
đến,
vì cả ông nữa cũng đã được Ðức
Chúa dựng nên.
Ðừng để ông ra đi, phải có ông
mới được.
13 Có lúc sức khoẻ con ở trong tay
các thầy thuốc,
14 vì chính họ cũng cầu xin Ðức Chúa
ban cho họ tìm ra phương dược
giúp giảm đau, chữa lành nhằm cứu
sống người ta.
15 Ai đắc tội với Ðấng tạo thành,
cầu cho nó mắc bệnh!
Tang chế
16 Con ơi, hãy khóc thương người
chết,
xướng khúc ai ca như người bị đau
khổ dày vò.
Hãy chôn cất thế nào cho phải
phép, đừng bỏ bê nấm mộ.
17 Hãy vật mình khóc lóc thảm thương,
tổ chức ma chay sao cho xứng đáng
trong một hai ngày, kẻo người ta
dị nghị,
sau đó cố sao đừng buồn nữa.
18 Vì nỗi buồn đưa tới cái chết,
lòng buồn bã khiến sức lực tiêu
hao.
19 Ðưa người chết đi chôn, nỗi buồn
còn đó,
nhưng lòng nào lại muốn suốt đời buồn
bã?
Chớ để lòng con chìm đắm trong
phiền muộn,
20 đừng để lòng con buông theo nỗi
buồn,
hãy nghĩ tới cái chết mà gạt bỏ
tâm trạng ấy đi.
21 Con đừng quên: đã ra đi thì không
trở lại;
con chẳng làm được chi cho người
chết,
mà chỉ chuốc lấy hoạ vào thân.
22 Con hãy nhớ: mệnh ta thế nào,
mệnh con cũng vậy,
hôm qua là phiên ta, hôm nay đến
lượt con.
23 Khi người chết đã yên nghỉ rồi,
hãy để tâm trí con nghỉ yên, thôi
tưởng nhớ đến họ.
Khi linh hồn người chết đã ra đi,
con hãy gắng khuây khoả.
Công việc tay chân
24 Nhờ biết lợi dụng thời giờ rảnh
rỗi
mà kinh sư đạt được khôn ngoan,
ai ít bận việc tay chân, việc
đồng áng, thì dễ nên khôn ngoan.
25 Sao có thể nên khôn người nông
dân cầm cày cầm cuốc
chỉ biết hãnh diện với cây thúc
bò,
biết điều khiển bò và bắt làm
việc,
và chỉ biết nói chuyện bò bê?
26 Nó chỉ lo cày sâu cuốc bẫm,
thức khuya dậy sớm vỗ béo bò tơ.
27 Cũng thế, mọi thợ mộc, thợ nề,
những kẻ đêm ngày chỉ biết lao
công,
những người thợ khắc dấu
cố gắng thay đổi những hình ảnh
khác nhau
để tâm hoạ lại sao cho thật
giống,
rồi thức khuya để hoàn tất công
việc.
28 Anh thợ rèn ngồi bên đe cũng thế:
chăm chăm chú chú vào thỏi sắt
đang gò,
hơi lửa bốc lên làm bỏng da cháy
thịt,
anh làm hùng hục trong sức nóng
hoả lò.
Tiếng búa chan chát đập vào tai
anh,
mắt anh vẫn không rời mẫu mã.
Anh chăm chú làm công việc cho
xong,
không ngại thức khuya để trau
chuốt cho hoàn hảo.
29 Anh thợ gốm ngồi làm việc cũng
thế, luôn chân đạp bàn xoay,
lúc nào cũng lo lắng về công việc
mình làm,
vì công việc đòi anh tính toán
kỹ.
30 Anh lấy tay nhào nặn đất thó,
dùng chân đạp cho đất mềm ra,
anh chú tâm làm sao cho thật
bóng,
và thức khuya để dọn sạch lò.
31 Tất cả những người ấy tin tưởng
vào đôi tay của họ,
người nào cũng khéo léo trong
công việc của mình.
32 Không có những người đó,
chẳng có thành nào được xây dựng,
không có người cư trú, không có
kẻ tới lui.
33 Nhưng họ chẳng được mời dự hội
nghị nhân dân,
không có địa vị gì trong xã hội,
họ chẳng được ngồi ghế quan toà,
cũng không hiểu nổi điều toà phán
quyết.
34 Họ thiếu văn hoá, thiếu óc phê
bình,
không biết nói văn hoa bóng bẩy.
Tuy nhiên, họ giữ cho thế giới
được trường tồn,
dù họ chỉ quan tâm đến công việc
trong ngành nghề của họ.
Chương 39
Kinh sư
1 Kẻ để hết tâm hồn suy gẫm luật
Ðấng Tối Cao
thì không phải vậy.
Người ấy truy tầm lẽ khôn ngoan
nơi mọi bậc lão thành, không
ngừng nghiên cứu các sấm ngôn,
2 giữ gìn cẩn thận điều danh nhân
đã nói,
đi sâu vào các dụ ngôn phức tạp.
3 Người ấy còn tìm hiểu ý nghĩa
tiềm tàng của châm ngôn
và miệt mài với những dụ ngôn bí
ẩn.
4 Người ấy luôn thi hành nhiệm vụ
giữa những người chức trọng quyền
cao
và thường xuyên xuất hiện bên
cạnh những vị cầm quyền.
Người ấy được đi ra nước ngoài,
vì đã từng biết rõ điều hãy điều
dở của người ta.
5 Từ sáng sớm, người ấy đã hăm hở
đến cầu nguyện cùng Ðức Chúa là
Ðấng Tối Cao,
Ðấng tạo dựng nên mình.
Người ấy mở miệng nài van Chúa,
cầu xin Người thứ tha tội lỗi.
6 Nếu đẹp lòng Ðức Chúa cao cả,
người ấy sẽ dư đầy trí thông
minh,
ban phát lời khôn ngoan như mưa
móc tràn trề,
dùng lời kinh mà chúc tụng Ðức
Chúa.
7 Người ấy sẽ sử dụng các nhận định
và hiểu biết của mình
sao cho đúng đắn, sẽ suy gẫm
những điều huyền bí cao siêu.
8 Người ấy sẽ làm sáng tỏ giáo huấn
đã hấp thụ,
sẽ tự hào về luật giao ước của
Thiên Chúa.
9 Nhiều người sẽ khen ngợi người ấy
thông minh,
trí thông minh đó sẽ không bao
giờ bị quên lãng,
hình ảnh người ấy sẽ không phai
mờ
và danh thơm sẽ trường tồn qua
muôn thế hệ.
10 Muôn dân sẽ truyền tụng đức khôn
ngoan của người ấy,
và cộng đoàn sẽ lớn tiếng ngợi
khen.
11 Nếu người ấy sống lâu,
sẽ để lại danh thơm hơn cả ngàn
người khác,
và sẽ thoả lòng khi an giấc ngàn
thu.
Lời mời gọi ngợi khen Thiên Chúa
12 Lòng tôi đầy ắp những suy tư như
trăng rằm đầy đặn,
đó là những điều tôi còn muốn nói
ra.
13 Hỡi những người con trung hiếu,
hãy lắng nghe lời ta:
hãy nên như cây hồng lớn lên bên
dòng nước,
14 như cây hương toả mùi thơm ngào
ngạt,
như cây huệ trổ bông,
hãy đồng thanh cất tiếng hát lên
một bài ca.
Hãy ngợi khen Ðức Chúa vì mọi
việc Người làm.
15 Hãy tán dương danh Chúa, ngợi
khen chúc tụng Người,
hãy đàn ca mà dâng lời cảm tạ:
16 Mọi việc Ðức Chúa làm đều hoàn
toàn tốt đẹp,
mỗi mệnh lệnh Người ban sẽ được
thi hành đúng thời đúng lúc.
Không có lý do gì để hỏi:
"Chuyện gì thế? " và "Sao lại xảy ra?"
Vì đến thời đến buổi mọi chuyện
sẽ có lời giải đáp.
17 Người chỉ phán một lời là nước
dồn thành khối,
Người chỉ nói một câu là nước trữ
vào bồn.
18 Người vừa ra lệnh, mọi sự tiến
hành như Người muốn;
cũng không ai cản nổi công trình
cứu độ của Người.
19 Công việc của phàm nhân
tất cả đều diễn ra trước mặt
Người,
lẩn tránh sao cho Người khỏi thấy
là chuyện không thể được.
20 Từ muôn thuở cho đến muôn đời
Người nhìn thấy tất cả.
Chẳng có chi kỳ lạ trước mặt
Người.
21 Không có lý do gì để hỏi:
"Chuyện gì thế?" và
"Sao lại xảy ra?"
Bất cứ cái gì được dựng nên cũng
đều có công dụng.
22 Phúc lành của Chúa trào ra như
dòng sông,
chan hoà mặt đất như nước lũ.
23 Gia nghiệp Chúa dành cho chư dân
là cơn giận của Người,
như xưa Người biến nước thành
muối mặn.
24 Ðường lối Chúa quả là ngay thẳng
đối với kẻ hiếu trung,
nhưng lại đầy chướng ngại đối với
bọn gian tà.
25 Ngay từ thuở ban đầu Thiên Chúa
đã tạo dựng
điều lành cho người lành, còn
điều dữ dành cho kẻ dữ.
26 Những gì cần thiết cho cuộc sống
con người
là nước, lửa, sắt và muối, tinh
bột lúa miến, sữa và mật,
nước nho, dầu và áo quần.
27 Tất cả những thứ ấy
sẽ trở nên của tốt của lành cho
những người lành thánh,
nhưng lại gây phương hại cho
những người tội lỗi.
28 Có những luồng gió được Chúa tạo
nên để trừng phạt:
khi nổi trận lôi đình,
Người làm cho sức tàn phá của
chúng gia tăng,
và trước khi lụi tàn,
chúng trở nên vô cùng khủng
khiếp:
thế là Ðấng tạo thành nguôi giận.
29 Lửa hồng, mưa đá, đói khát, tử
thần,
tất cả được tạo nên để trừng
phạt.
30 Răng thú dữ, bò cạp, rắn hổ mang
cùng với lưỡi gươm để trừng phạt
và để tiêu huỷ phường gian ác:
31 tất cả những thứ đó đều mừng vui
thi hành lệnh Người truyền.
Trên mặt đất này, mỗi khi cần
thiết,
chúng sẵn sàng thực thi lời Chúa
đúng lúc đúng thời.
32 Vì vậy, ngay từ đầu, tôi đã xác
tín,
đã suy đi nghĩ lại rồi viết ra:
33 "Mọi công trình của Ðức Chúa
thảy đều tốt đẹp,
đúng thời đúng buổi, Người đáp
ứng hết mọi nhu cầu.
34 Không có lý do gì để nói: ÀCái
này tệ hơn cái kia",
vì đến lúc bất cứ cái gì cũng sẽ
được nhìn nhận là tốt."
35 Vậy giờ đây, hãy hết lòng và lớn
tiếng hát ca
mà chúc tụng thánh danh Ðức Chúa.
Chương 40
Kiếp người khốn khổ
1 Kể từ khi từ lòng mẹ sinh ra
cho đến lúc trở về lòng đất mẹ,
mang thân phận con người,
ai cũng canh cánh bên lòng một
nỗi lo,
là con cháu A-đam, nợ phong trần
đương nhiên phải trả.
2 Ðiều không ngừng ám ảnh khiến
lòng người sợ hãi âu lo
là cứ phải nghĩ rằng mình đang
chờ chết.
3 Từ bậc vua chúa trên ngai vinh
hiển
đến kẻ cùng đinh chân lấm tay
bùn,
4 từ người cân đai áo mão đến kẻ
khố rách áo ôm,
ai cũng đều giận dữ, ghen tương,
đều băn khoăn, lo lắng, rồi sợ
chết, rồi hận thù cãi cọ.
5 Lúc nghỉ ngơi trên giường,
giấc ngủ ban đêm lại khơi lên
những ý nghĩ khác.
6 Vừa mới nghỉ - có nghỉ cũng như
không -,
mà trong giấc mộng, y như giữa
ban ngày,
người ta hốt hoảng trước cảnh
mình nhìn thấy,
chẳng khác chi kẻ trốn khỏi chiến
trường.
7 Ðến lúc thoát thân, người ta thức
dậy,
và ngạc nhiên vì đã sợ hãi không
đâu.
8 Mọi xác phàm, từ người đến vật,
- nhưng quân tội lỗi thì gấp bảy
lần -, không làm sao tránh khỏi:
9 chết chóc và đổ máu, cãi cọ và
đâm chém,
hoạn nạn, đói kém, đổ nát, tai
ương.
10 Tất cả nhứng thứ đó đã được tạo
nên cho quân vô đạo,
chỉ vì tội chúng mà nạn hồng thủy
đã xảy ra.
11 Tất cả những gì từ đất mà ra sẽ
trở về đất,
còn những gì từ nước mà có lại
quay về biển.
Một số ngạn ngữ
12 Hối lộ và bất công rồi ra sẽ biến
mất,
nhưng lòng trung tín sẽ tồn tại
muôn đời.
13 Tài sản quân bất chính sẽ như
dòng suối cạn,
sẽ như sấm nổ giữa cơn mưa.
14 Người rộng tay làm phúc ắt sẽ
được vui mừng;
kẻ ngoảnh mặt làm ngơ sẽ tiêu
vong vì bị người bỏ mặc.
15 Con cháu bọn bất lương sẽ như cây
không chồi,
như rễ không sạch bám trên đá
cứng.
16 Cây lau mọc nhan nhản bên mọi
dòng nước và bờ sông
sẽ bị bứng đầu tiên trước mọi cây
cỏ khác.
17 Lòng nhân nghĩa như địa đàng đầy
dư phúc lộc,
việc bố thí sẽ tồn tại muôn đời.
18 Sống không lệ thuộc và có được
việc làm thì quả là dễ chịu,
nhưng tìm được kho tàng còn may
mắn hơn nữa.
19 Người sinh con cũng như kẻ xây
thành
đều để lại danh thơm cho hậu thế,
nhưng người vợ hiền còn đáng quý
hơn.
20 Rượu và nhạc khiến lòng người
phấn khởi,
nhưng lòng mến đức khôn ngoan vẫn
đáng quý hơn.
21 Tiếng sáo, tiếng đàn khiến giọng
hát du dương,
nhưng lời nói dịu dàng còn êm tai
hơn nữa.
22 Vẻ đẹp và duyên dáng làm người ta
thích nhìn,
nhưng cánh đồng xanh mướt còn
đáng nhìn hơn.
23 Bạn bè thân hữu gặp nhau có lúc,
sao như vợ chồng chung sống bên
nhau.
24 Có anh có em là để giúp nhau khi
hoạn nạn,
nhưng của bố thí còn trợ giúp đắc
lực hơn.
25 Có bạc, có vàng là an tâm vững
chí,
nhưng được người góp ý còn quý
giá hơn.
26 Giàu sang và sức mạnh khiến người
ta tin tưởng,
nhưng lòng kính sợ Ðức Chúa còn
trổi vượt hơn.
Có lòng kính sợ Ðức Chúa thì
chẳng thiếu gì.
Kính sợ Chúa rồi, không cần phải
cầu cứu ai nữa.
27 Lòng kính sợ Ðức Chúa như địa
đàng đầy dư phúc lộc,
che chở phù trì hơn mọi thứ vinh
quang.
Ăn xin
28 Con ơi, đừng đi ăn xin để sống:
thà chết còn hơn!
29 Kẻ nhìn trộm mâm người khác,
có sống cũng kể như chẳng sống ra
người.
Vì đứa ăn bám làm mình ra nhơ
nhớp;
còn người hiểu biết và có giáo
dục
thì sẽ không xử sự như thế.
30 Miệng đứa ăn xin ngọt như mía
lùi,
nhưng tâm địa hắn thì như lò lửa.
Chương 41
Chết
1 Hỡi tử thần, nhớ đến ngươi thật
là cay đắng
đối với ai đang an hưởng tài sản
của mình,
đối với người không phải âu lo,
người thành công trong hết mọi
việc,
người còn khoẻ mạnh để hưởng thú
vui.
2 Hỡi tử thần, phán quyết của ngươi
hay thật
đối với kẻ bần cùng, với người
thiếu sức khoẻ,
với người già nua tuổi tác, lo
lắng trăm chiều,
với người tuyệt vọng, không còn
kiên nhẫn nữa.
3 Con đừng sợ án chết.
Hãy nhớ rằng: có những kẻ đã đi
trước con,
và sẽ có những người theo sau.
4 Ðó là điều Ðức Chúa quyết định
cho hết mọi người phàm.
Tại sao cưỡng lại điều Ðấng Tối
Cao đã muốn?
Dù người ta sống được mười năm,
trăm năm,
hay cả ngàn đi nữa,
thì trong âm phủ, chẳng ai trách
móc đâu.
Số phận phường gian ác
5 Con cái phường tội lỗi thành đám
con ghê tởm,
thường đi lại với lũ ác nhân.
6 Gia nghiệp con cái phường tội lỗi
thế nào cũng tiêu tan.
Nỗi ô nhục của chúng sẽ kéo dài
qua đời con đời cháu.
7 Cha bất nhân bị con trách móc,
vì con chịu nhục là lỗi tại cha.
8 Khốn cho các ngươi, hỡi phường
gian ác,
vì đã bỏ luật Thiên Chúa Tối Cao.
9 Các ngươi có sinh ra, thì chỉ
sinh ra để bị nguyền rủa;
đến khi các ngươi chết, thì phần
của các ngươi
chỉ là lời nguyền rủa.
10 Tất cả những gì từ đất mà ra sẽ
lại về với đất.
Số phận bọn ác nhân cũng vậy:
hết bị nguyền rủa sẽ bị diệt
vong.
11 Thân xác con người chỉ là phù
vân,
nhưng danh thơm tiếng tốt chẳng
bao giờ mai một.
12 Hãy lo sao cho con được danh thơm
tiếng tốt,
vì hơn cả ngàn vạn kho vàng, tiếng
tăm sẽ còn mãi.
13 Hạnh phúc đến đâu, đời người cũng
có hạn,
nhưng danh thơm tiếng tốt sẽ tồn
tại muôn đời.
Hổ thẹn
14 Các con ơi, cứ an tâm mà giữ lời
giáo huấn.
Khôn ngoan bị che giấu, kho tàng
bị chôn vùi,
cả hai nào có ích chi?
15 Người che giấu sự đần độn
vẫn hơn kẻ che giấu sự khôn
ngoan.
16 Vậy ta nói con nghe điều gì đáng
xấu hổ:
e thẹn vì bất cứ chuyện chi, quả
là điều không tốt.
Có phải hết mọi người đánh giá
đúng hết mọi chuyện đâu!
17 Con phải biết thẹn thùng xấu hổ
trước mặt cha mẹ, vì chuyện dâm
ô,
trước mặt người quyền cao chức
trọng vì những lời dối trá,
18 trước mặt những ai cầm quyền
xét xử vì hành vi phạm pháp,
trước mặt cộng đồng, trước mặt
toàn dân vì lối sống vô đạo,
19 trước mặt các bạn bè thân hữu
vì những chuyện bất nghĩa, bất nhân,
trước những người cùng xóm cùng
làng
vì những chuyện trộm cắp.
20 Con phải biết thẹn thùng xấu hổ
vì không giữ lời thề nguyền cam
kết,
hay đã giơ tay xin bánh mà ăn,
21 vì lăng nhục khi nhận hoặc cho,
hay làm thinh trước những ai chào
hỏi,
22 vì gặp gái bán dâm mà nhìn chòng
chọc,
hay gặp họ hàng thân thích mà
ngoảnh mặt đi,
23 vì chiếm của, chiếm quà người ta,
hay mải mê nhìn phụ nữ có chồng,
24 vì săn đón đầy tớ gái người ta
- tới gần giường cô ấy làm gì!
25 Con phải biết thẹn thùng xấu hổ
vì làm nhục bạn bè
- đã cho người ta thì đừng làm
nhục!
26 vì học lại cho người khác điều đã
nghe,
hay tiết lộ những điều bí mật.
27 Có vậy con mới biết
thế nào là xấu hổ thật
và sẽ gây được thiện cảm với mọi
người.
Chương 42
1 Còn về những chuyện sau đây, con
đừng xấu hổ,
cũng đừng vì nể ai mà phạm tội:
2 Con đừng xấu hổ vì lề luật của
Ðấng Tối Cao
và giao ước của Người,
hay vì phán quyết công minh dành
cho người ngoại giáo,
3 vì sòng phẳng với bè bạn và kẻ
đồng hành,
hay phân chia gia tài cho bè bạn,
4 vì cân đong sao cho chính xác
hay vì thu lợi ít hay nhiều,
5 vì lợi lộc do nghề buôn bán,
vì phải nghiêm khắc khi giáo dục
con
hay trừng phạt nặng nề tên đầy tớ
hư hỏng.
6 Gặp đàn bà tọc mạch, cần đóng ấn
niêm phong,
ở đâu có lắm người tắt mắt, phải
khoá sao cho chặt.
7 Trao cái gì, phải cân phải đếm,
xuất hay nhập, đều phải có giấy
tờ.
8 Con đừng xấu hổ khi phải dạy dỗ
đứa ngu, đứa ngốc,
và ông già mà còn cãi lộn với
thanh niên.
Ðược vậy con mới là người có giáo
dục tử tế,
và sẽ tỏ ra từng trải trước mặt
mọi người.
Những nỗi lo của người cha đối
với con gái
9 Ðối với một người cha,
con gái là kho tàng không bảo
đảm,
ông mất ăn mất ngủ vì lo lắng:
con còn thiếu nữ thì lo con lỡ
thì,
con lấy chồng rồi thì lo con bị
ghét,
10 con còn con gái thì sợ người dụ
dỗ,
phải mang bầu khi còn ở nhà cha,
con về với chồng thì lo con lầm
lỗi,
chung sống với chồng mà lại hiếm
hoi.
11 Có con gái hư thân, phải canh
chừng nghiêm khắc,
kẻo vì con mà cha nên trò cười
cho thù địch,
nên câu chuyện cho dân thành đàm
tiếu,
nên cớ tụ họp cho những người
ngồi lê mách lẻo,
khiến vì con mà cha xấu hổ trước
đám đông.
Ðàn bà
12 Trước bất cứ ai, đừng chăm chú
nhìn vào sắc đẹp,
cũng đừng ngồi chung với bọn đàn
bà.
13 Vì cũng như áo quần có rận,
đàn bà có thứ gian ác của đàn bà.
14 Ðàn ông gian ác hơn đàn bà tốt
bụng,
vì đàn bà trơ trẽn đưa đến nhục
nhằn.
II. Vinh Quang Của Thiên Chúa
1. Trong Thiên Nhiên
15 Tôi sẽ nhắc lại những công trình
của Ðức Chúa,
những điều mắt thấy, tôi sẽ kể
lại.
Do lời Ðức Chúa mà có những công
trình của Người.
16 Mặt trời toả sáng nhìn xuống muôn
loài,
vinh quang Ðức Chúa bao phủ công
trình Người sáng tạo,
17 các thánh của Ðức Chúa
không tài nào kể lại mọi kỳ công
của Người.
Ðó là những kỳ công Ðức Chúa toàn
năng đã thực hiện
cho vũ trụ được bền vững
(trước tôn nhan) vinh hiển của
Người.
18 Người dò thấu vực thẳm và cõi
lòng nhân thế,
hiểu rõ toan tính của con người,
vì Ðấng Tối Cao am tường tất cả
và đưa mắt nhìn các dấu hiệu thời
gian.
19 Người công bố dĩ vãng và tương
lai
và mặc khải dấu vết của những
điều bí ẩn.
20 Không một ý nghĩ nào Người không
thấu suốt,
chẳng một lời nào là bí ẩn đối
với Người.
21 Người khôn ngoan sắp xếp những
công trình vĩ đại,
vì Người hằng có từ đời đời đến
muôn muôn thuở,
không cần thêm hay bớt điều gì
và cũng chẳng cần ai làm cố vấn.
22 Mọi công trình của Người kỳ diệu
biết bao!
Những gì thấy được chỉ như một
ánh lửa.
23 Mọi vật ấy đều sống và tồn tại
muôn đời
để đáp ứng mọi nhu cầu cần thiết
và tất cả đều vâng phục Người.
24 Tất cả đều có đôi, cái này đối
cái kia;
Người không làm gì dang dở.
25 Vật này làm tôn vẻ đẹp của vật
kia,
nhìn ngắm vinh quang của Người,
ai mà chán được?
Chương 43
Mặt trời
1 Lộng lẫy chốn cao vời, một khung
trời trong vắt.
Nhìn ngắm cả bầu trời: cảnh tượng
xán lạn thay!
2 Vừa ló dạng lúc hừng đông, mặt
trời liền công bố:
"Công trình của Ðấng Tối Cao
kỳ diệu dường nào!"
3 Vào chính ngọ, mặt đất cháy khô,
dưới sức nóng mặt trời, ai nào
chịu nổi?
4 Người ta kéo bễ thổi lò để tạo ra
sức nóng,
nhưng mặt trời còn nóng gấp ba,
đốt cháy cả núi đồi, toả hơi nóng
bỏng,
chiếu rọi những ánh nắng chói
chang, làm loá con mắt.
5 Cao cả thay Ðức Chúa, Ðấng làm ra
mặt trời!
Theo lệnh Người, nó lên đường mau
lẹ.
Mặt trăng
6 Cả vầng trăng cũng luôn đúng hẹn,
làm dấu hiệu muôn đời chỉ rõ thời
gian.
7 Trăng đánh dấu các thời kỳ đại
lễ,
có khi khuyết, có lúc lại tròn.
8 Người ta lấy chữ nguyệt mà đặt
tên cho tháng,
theo chu kỳ tuyệt diệu, trăng cứ
mãi tròn thêm,
làm đèn hiệu cho đạo binh trên
chốn cao vời.
Khắp bầu trời, vầng trăng toả
sáng.
Các ngôi sao
9 Các vì sao lấp lánh là vẻ đẹp của
bầu trời,
là đồ trang sức lộng lẫy
trên chốn cao vời của Ðức Chúa.
10 Vâng lời Ðấng Thánh, các vì sao
sẵn sàng chờ lệnh,
không chểnh mảng trong lúc canh
đêm.
Cầu vồng
11 Hãy ngắm cầu vồng mà chúc tụng
Ðấng làm ra nó,
nó thật là xán lạn huy hoàng,
uốn quanh bầu trời thành vòng
cung rực rỡ;
12 chính tay Ðấng Tối Cao đã giăng
lên.
Những điều kỳ diệu trong thiên
nhiên
13 Người ra lệnh truyền, tuyết liền
sa xuống.
Người phóng những tia chớp làm
phán quyết của Người.
14 Nhờ vậy, các kho lẫm được mở ra
và mây tựa chim chóc bay đi.
15 Người dùng quyền năng làm cho mây
đen đặc
rồi tan thành mưa đá.
Cõi đất quằn quại vì tiếng sấm
của Người.
16 Người nhìn, núi non liền rung
chuyển,
Người muốn là gió nam,
17 bão táp phương bắc và gió xoáy
liền thổi tới.
18 Người rải tuyết như chim sa,
tuyết rơi xuống như cào cào
vẻ đẹp trắng ngần khiến mắt kinh
ngạc.
Thấy tuyết rơi, lòng trí sững sờ.
19 Người còn đổ sương giá xuống đất
như đổ muối,
sương giá đông lại thành những
mũi kim.
20 Gió lạnh từ phương bắc thổi xuống
làm cho mặt nước đóng thành băng;
băng tụ lại trên khắp mặt nước,
nước như thể mặc lấy chiến bào.
21 Gió nóng ngốn sạch núi non, đốt
cháy vùng hoang địa,
nó như ngọn lửa thiêu rụi cỏ
xanh.
22 Bỗng mây bay đến chữa lành tất
cả,
và sau cơn nồng nực, sương xuống
làm cho cảnh vật vui tươi.
23 Theo kế hoạch của Người, Người
chế ngự vực thẳm
và trồng những hòn đảo lên trên.
24 Những người vượt biển thuật lại
các hiểm nguy,
chuyện tai nghe khiến chúng ta
kinh ngạc.
25 Ở đó có bao điều kỳ diệu, lạ
lùng,
đủ loại thú vật và những loài
thủy quái.
26 Nhờ Người, sứ giả của Người thuận
buồm xuôi gió
cũng nhờ lời Người, muôn vật được
xếp đặt lớp lang.
27 Kể sao cho xiết những gì muốn
nói;
tắt một lời: "Người là tất
cả!"
28 Làm sao đủ sức để tôn vinh Người?
Vì chính Người là Ðấng Cao Cả,
vượt trên mọi công trình Người
thực hiện.
29 Ðức Chúa khả uý và rất mực cao
cả,
kỳ diệu thay quyền năng của
Người!
30 Anh em hãy hết sức ca tụng và tôn
vinh Ðức Chúa,
nhưng Người vẫn còn hơn thế
nhiều.
Ðể tôn vinh Người, anh em hãy dốc
toàn lực.
Ðừng sờn lòng nản chí, dù anh em
chẳng đi tới cùng.
31 Ai đã từng thấy Người để mà thuật
lại?
Ai có thể ngợi khen Người cho cân
xứng?
32 Nhiều điều bí ẩn còn lớn lao hơn
những điều kể trên,
và ta chỉ thấy một số ít trong
những việc Người làm.
33 Quả thật, chính Ðức Chúa đã làm
nên tất cả,
và ban tặng khôn ngoan cho người
đạo hạnh.
Chương 44
2. Trong Lịch Sử
Ca ngợi các bậc tổ tiên
1 Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi
những vị danh nhân,
cũng là cha ông của chúng ta qua
các thế hệ.
2 Ðức Chúa đã sáng tạo nên nhiều
con người hiển hách
là các vĩ nhân từ những thuở xa
xưa:
3 Có những người cai trị đất nước
mình
và là những con người nổi danh về
quyền lực;
có những người cố vấn nhờ trí
thông minh;
có những người loan báo bằng các
lời sấm.
4 Có những người lãnh đạo dân bằng
các lời chỉ dẫn,
bằng tài dạy dỗ dân chúng và
những lời giáo huấn khôn ngoan;
5 có những người sáng tác những
điệu nhạc du dương,
viết ra những bài thơ bài phú;
6 có những người giàu sang, lắm
quyền nhiều thế
sống bình an hoà thuận trong nhà.
7 Hết thảy đều được người đương
thời khen ngợi,
được vẻ vang trong lúc sinh thời.
8 Trong các vị, có những người lưu
danh hậu thế
cho người đời ca ngợi tán dương.
9 Có những người không còn ai nhớ
nữa,
họ qua đi như chẳng bao giờ có,
họ sinh ra mà như chẳng chào đời
con cháu của họ cũng thế thôi!
10 Nhưng các vị sau đây là những
người đạo hạnh,
công đức của các ngài không chìm
vào quên lãng.
11 Dòng dõi các ngài luôn được hưởng
một gia tài quý báu
đó là lũ cháu đàn con.
12 Dòng dõi các ngài giữ vững các
điều giao ước;
nhờ các ngài, con cháu cũng một
mực trung thành.
13 Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn
tại,
vinh quang các ngài sẽ chẳng phai
mờ.
14 Các ngài được mồ yên mả đẹp
và danh thơm mãi lưu truyền hậu
thế.
15 Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan
của các ngài
và cộng đoàn vang tiếng ngợi
khen.
Ông Kha-nốc
16 Ông Kha-nốc đẹp lòng Ðức Chúa và
đã được đưa đi.
Ông là tấm gương cho các thế hệ
quay về với Thiên Chúa.
Ông Nô-ê
17 Ông Nô-ê được xem là người công
chính vẹn toàn;
trong thời thịnh nộ, ông đã trở
thành một chồi non:
nhờ có ông, mặt đất còn lại một
số sót,
khi hồng thủy xảy ra.
18 Các giao ước vĩnh cửu đã được lập
với ông
để không xác phàm nào còn bị hồng
thủy tiêu diệt.
Ông Áp-ra-ham
19 Ông Áp-ra-ham là người cha vĩ đại
của muôn dân tộc,
vinh quang của ông chẳng ai sánh
tày.
20 Lề Luật của Ðấng Tối Cao, ông
hằng tuân giữ
và ông được giao ước với Người.
Nơi thân xác mình, ông đã lập
giao ước,
trong cơn thử thách, ông được
nhìn nhận là trung thành.
21 Vì thế, Người thề hứa với ông:
nhờ dòng dõi ông, các dân tộc
được chúc lành.
Người gia tăng dòng dõi ấy nhiều
như bụi đất,
tôn hậu duệ ông lên như những vì
sao,
cho họ được hưởng phần gia nghiệp
từ biển này cho tới biển kia,
từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Ông I-xa-ác và ông Gia-cóp
22 Với ông I-xa-ác, Người cũng bảo
đảm như thế,
vì ông Áp-ra-ham, thân phụ của
ông.
23 Phúc lành của mọi người cũng như
giao ước,
Người đặt lên đầu ông Gia-cóp.
Người cho ông cũng được hưởng phúc lành
và ban cho ông xứ sở làm gia
nghiệp.
Người chia thành nhiều phần
và phân phát cho mười hai chi
tộc.
Chương 45
Ông Mô-sê
1 Rồi từ ông Gia-cóp
xuất phát một con người phúc hậu,
đẹp lòng mọi người,
được Thiên Chúa và người đời
thương mến,
đó là ông Mô-sê.
Nhớ đến ông là phải dâng lời chúc
tụng.
2 Người cho ông vinh quang ngang
hàng các thánh,
cho ông nên vĩ đại khiến quân thù
kinh hãi.
3 Vì lời ông nói, Người khiến các
dấu lạ phải ngưng;
Người làm cho ông được vẻ vang
trước mặt các vua,
ban cho ông các điều răn để
truyền lại cho dân chúng
và tỏ cho ông một chút vinh quang
của Người.
4 Người thánh hoá ông vì ông tín thành
và nhân hậu,
Người chọn lựa ông trong số mọi
phàm nhân.
5 Người cho ông nghe thấy tiếng
Người,
dẫn ông vào trong đám mây dày
đặc,
và, diện đối diện, ban cho ông
các điều răn,
đó là luật ban sự sống và thông
hiểu,
để dạy cho Gia-cóp biết giao ước,
cho Ít-ra-en biết các quyết định
của Người.
Ông A-ha-ron
6 Người cất nhắc anh của ông Mô-sê
là ông A-ha-ron
thuộc chi tộc Lê-vi,
một con người thánh giống như em
mình.
7 Người đặt ông làm giao ước vĩnh
cửu
và ban cho ông chức tư tế ở giữa
dân,
cho ông diễm phúc được mang lễ
phục huy hoàng
và khoác cho ông áo choàng lộng
lẫy.
8 Người mặc cho ông vẻ oai phong
lẫm liệt,
trang bị cho ông vững chãi, gọn
gàng:
quần đùi, áo dài và ê-phốt.
9 Người đeo quanh ông những quả
lựu,
và vô số lục lạc bằng vàng khắp
châu thân
kêu leng keng theo nhịp chân ông
bước,
âm thanh vang vọng khắp đền thờ,
cho con cái dân Người làm kỷ vật
tưởng nhớ.
10 Người mặc cho ông áo thánh kim
tuyến,
vải đỏ tía, vải điều, công trình
của thợ thêu,
khăn ngực đựng thẻ xăm phán
quyết, u-rim và tu-mim,
bằng vải gai đỏ thẫm, công trình
của nghệ nhân,
11 đính những viên ngọc khắc như
những con dấu
gắn trên khung vàng, công trình
của thợ bạc,
có khắc chữ theo số các chi tộc
Ít-ra-en
để làm kỷ vật tưởng nhớ;
12 trên mũ tế có gắn một huy hiệu
bằng vàng
khắc hàng chữ Thánh Hiến;
đó là huy hiệu vẻ vang, công
trình tuyệt vời,
được trau chuốt công phu, làm vui
con mắt.
13 Trước ông, không có gì đẹp như
vậy
và cũng không hề có người ngoại
bang nào
được ăn mặc như thế,
chỉ trừ các con ông và dòng dõi
ông đến muôn đời.
14 Các hy lễ ông dâng được thiêu đốt
hết,
mỗi ngày hai lần và cứ như thế
mãi.
15 Chính ông Mô-sê đã tấn phong ông
và xức cho ông dầu thánh.
Ðó là giao ước vĩnh cửu dành cho
ông
và cho dòng dõi ông, bao lâu trời
còn tồn tại,
để ông làm việc phụng thờ và tế
lễ
cùng nhân danh Thiên Chúa mà chúc
phúc cho dân.
16 Người đã chọn ông trong mọi người
phàm
để dâng lễ phẩm lên Ðức Chúa,
dâng nhũ hương, cũng như hương
thơm làm kỷ vật,
để xá tội cho dân.
17 Về những gì liên quan đến các
điều răn,
Người ban cho ông quyền phán
quyết,
để dạy cho Gia-cóp biết các thánh
chỉ
và giải thích Lề Luật cho
Ít-ra-en.
18 Những người ngoài hùa nhau chống
đối ông
và ghen tị với ông trong hoang
địa,
những người về phe Ða-than và
A-vi-ram
cùng bè lũ Cô-rắc bừng bừng nộ
khí.
19 Ðức Chúa nhìn thấy và Người chẳng
ưng,
nên cả lũ bị tiêu diệt trong cơn
lôi đình.
Người đã làm những việc lạ lùng
kinh khiếp
để thiêu huỷ chúng trong ngọn lửa
bừng bừng.
20 Người còn cho ông A-ha-ron được
thêm vinh hiển
và ban cho ông phần gia nghiệp:
Người chia cho ông hoa lợi đầu
mùa,
và nhất là dọn cho ông bánh ăn no
thoả.
21 Quả vậy, Ðức Chúa đã cho ông và
dòng dõi ông
được ăn các lễ phẩm dâng tiến
Người.
22 Nhưng trong đất dân ở, ông không
có phần gia nghiệp,
cũng chẳng được chia phần ở trong
dân,
vì "Chính Ta là phần, là gia
nghiệp của ngươi".
Ông Pin-khát
23 Còn ông Pin-khát, con ông E-la-da
là người thứ ba được vinh hiển,
vì ông nhiệt tình kính sợ Ðức
Chúa
và với tâm hồn can đảm tuyệt vời,
ông đã đứng vững khi dân nổi
loạn.
Như vậy, ông đã làm cho Ít-ra-en
được tha thứ.
24 Chính vì thế, Người đã lập với
ông một giao ước bình an
để ông đứng đầu coi sóc thánh
điện và lãnh đạo dân,
ngõ hầu ông và dòng dõi ông
được giữ chức tư tế cao cả đến
muôn đời.
25 Theo giao ước đã lập với vua
Ða-vít,
con ông Gie-sê, thuộc chi tộc
Giu-đa,
thì quyền thừa kế ngai vàng
chỉ một người con được hưởng;
còn quyền thừa kế phẩm chức của
ông A-ha-ron,
thì cả dòng họ của ông đều được
hưởng.
26 Xin Thiên Chúa ban cho anh em tâm
trí khôn ngoan,
để xét xử dân Người theo đường
công chính,
ngõ hầu những gì tốt đẹp cha ông
để lại
không mai một bao giờ
và vinh quang của các ngài được
lưu truyền cho con cháu.
Chương 46
Ông Giô-suê
1 Ông Giô-suê, con ông Nun là một
chiến sĩ dũng cảm,
là ngôn sứ kế vị ông Mô-sê.
Ông thật vĩ đại xứng với tên
mình,
vì ông đã cứu thoát những người
được chọn,
đã trừng phạt những thù địch nổi
dậy chống ông,
để cho Ít-ra-en được hưởng phần
gia nghiệp.
2 Ông hiển hách dường nào, khi vung
tay lên
và tuốt gươm ra để đánh các
thành.
3 Trước ông, nào có ai đã được như
vậy?
Chính ông đã chỉ huy các trận
chiến của Ðức Chúa.
4 Há chẳng phải nhờ tay ông mà mặt
trời đứng lại
và một ngày lại hoá thành hai?
5 Ông kêu cầu Ðấng Tối Cao, Ðấng
quyền năng
khi ông bị quân thù bao vây tứ
phía.
Ðức Chúa vĩ đại đã lắng nghe ông,
Người cho mưa đá ào ào đổ xuống.
6 Ông xông vào đoàn quân thù địch
và trên triền dốc, ông diệt hết
đối phương,
để chư dân biết quân đội ông được
trang bị thế nào,
vì ông chiến đấu trước mặt Ðức
Chúa.
Ông Ca-lếp
7 Quả thật, ông Giô-suê hằng gắn bó
với Ðấng quyền năng
và trong thời ông Mô-sê, ông đã
tỏ ra trung tín,
khi chính ông cũng như ông
Ca-lếp, con ông Giơ-phun-ne,
đứng ra đương đầu với cộng đồng,
ngăn cản không để dân phạm tội,
làm im bặt những tiếng xì xầm
không hay.
8 Vì thế, trong số sáu trăm ngàn bộ
binh,
chỉ có hai ông là được cứu thoát
để đưa dân vào phần gia sản,
vào đất tràn trề sữa và mật.
9 Ðức Chúa đã ban cho ông Ca-lếp
sức mạnh,
cường tráng mãi trong suốt tuổi
già.
Người cho ông trèo lên nơi cao
trong xứ
và cho dòng dõi ông được giữ làm
gia sản.
10 Như thế, mọi con cái Ít-ra-en
thấy được rằng
đi theo Ðức Chúa là điều tốt.
Các thủ lãnh
11 Các thủ lãnh, mỗi vị theo danh
nghĩa của mình,
là những người không đem lòng tôn
thờ ngẫu tượng,
không quay lưng phản bội Ðức
Chúa.
Nhớ đến các ngài là phải dâng lời
chúc tụng!
12 Ước chi từ nơi an nghỉ,
xương cốt các ngài lại nở hoa!
Ước chi tên tuổi của những con
người hiển hách này
được lưu truyền nơi con cháu!
Ông Sa-mu-en
13 Ông Sa-mu-en là người
được Ðức Chúa của mình yêu
thương,
ông là ngôn sứ của Ðức Chúa, đã
thiết lập nền quân chủ
và đã xức dầu tấn phong những
người lãnh đạo dân.
14 Theo luật của Ðức Chúa, ông xét
xử cộng đồng
và Ðức Chúa đã viếng thăm nhà
Gia-cóp.
15 Ông được nhìn nhận là ngôn sứ vì
ông trung thành;
qua những lời ông nói,
ông được coi là thấy thị kiến
đích thực.
16 Khi bị quân thù bao vây tứ phía,
ông đã kêu cầu Ðức Chúa là Ðấng
quyền năng
và dâng tiến một con chiên sữa.
17 Lúc ấy, từ trời cao, Ðức Chúa cho
sấm sét ầm ầm,
và trong tiếng rền vang dữ dội,
Người đã cho nghe thấy tiếng
Người phán,
18 Người nghiền nát các thủ lãnh
thành Tia
và mọi kẻ cầm đầu quân
Phi-li-tinh.
19 Trước khi an giấc ngàn thu,
ông đã chứng minh trước mặt Ðức
Chúa và đấng được xức dầu:
"Của cải, thậm chí cả giày
dép, tôi đã không lấy của một ai!"
Cũng chẳng người nào cáo tội ông.
20 Ngay cả khi đã an nghỉ, ông vẫn
còn tuyên sấm,
báo cho vua biết hậu vận của vua;
từ lòng đất, ông vẫn còn lên
tiếng
nói lời sấm để xoá đi sự gian ác
của dân.
Chương 47
Ngôn sứ Na-than
1 Sau ông Sa-mu-en, ông Na-than
xuất hiện
làm ngôn sứ trong thời vua
Ða-vít.
Vua Ða-vít
2 Như mỡ được tách ra từ hy lễ kỳ
an,
vua Ða-vít cũng được chọn giữa
hàng con cái Ít-ra-en.
3 Ông chơi với sư tử như giỡn với
dê tơ,
nô với gấu như đùa với chiên nhỏ.
4 Thời niên thiếu, ông đã chẳng
giết một tên khổng lồ
mà rửa nhục cho dân, khi vung dây
phóng đá
hạ tên Go-li-át ngạo mạn đó sao?
5 Vì ông đã kêu cầu Ðức Chúa Tối
Cao,
Ðấng ban cho ông sức mạnh
để loại trừ một kẻ thạo nghề binh
đao
và nâng cao uy thế của dân tộc.
6 Bởi thế, ông được tôn vinh vì đã
giết mười ngàn tên địch;
thiên hạ ca tụng ông, trao tặng
ông triều thiên vinh hiển
vì Thiên Chúa đã giáng phúc cho
ông.
7 Ông đã đánh tan địch thù tứ phía,
tận diệt các đối thủ Phi-li-tinh;
ông đập tan sức mạnh chúng mãi
mãi.
8 Trong hết mọi việc làm,
ông dùng lời tôn vinh chúc tụng
mà ngợi khen Ðấng Thánh Tối Cao;
với trọn cả tâm tình ông hát lên
những khúc thánh thi
và yêu mến Ðấng tạo thành ông.
9 Ông cắt đặt ca viên,
để trước bàn thờ, họ hát những
bài ca thánh thót.
10 Ông tổ chức cho các ngày lễ tăng
thêm vẻ huy hoàng,
và sắp xếp cho lễ lạt được hoàn
hảo,
để trong những ngày ấy Danh Thánh
được ca khen
và từ sáng sớm lời chúc tụng vang
lên trong đền thánh.
11 Ðức Chúa đã xoá bỏ tội lỗi của
ông
và nâng cao uy thế ông luôn mãi.
Thiên Chúa đã thiết lập với ông
một giao ước:
(cho) vương quyền (ông muôn năm
tồn tại),
và ban cho ông ngai vinh hiển
trong Ít-ra-en.
Vua Sa-lô-môn
12 Sau vua Ða-vít, xuất hiện một
người con thông thái,
và nhờ vua, người con ấy được an
nhàn thịnh vượng.
13 Vua Sa-lô-môn nắm quyền trị nước
trong thời bình,
Thiên Chúa đã cho ông được bốn bề
yên ổn
để ông dựng một ngôi nhà dâng
kính Thánh Danh,
và chuẩn bị xây một đền thánh bền
vững muôn đời.
14 Ngài khôn ngoan biết bao ngay từ
thời niên thiếu,
ngài thông minh dường nào tựa
dòng sông đầy ngập!
15 Sự hiểu biết của ngài bao trùm
mặt đất,
dụ ngôn và ẩn ngữ của ngài lan
truyền khắp mọi nơi.
16 Danh tiếng ngài vang đến tận các
đảo xa vời,
vì hiếu hoà, ngài được người
người mến chuộng.
17 Các bài ca, châm ngôn và dụ ngôn
cũng như các lời giải thích của
ngài
khiến mọi xứ phải trầm trồ khen
ngợi.
18 Nhân danh Ðức Chúa là Thiên Chúa,
Ðấng được gọi là Thiên Chúa của
Ít-ra-en,
ngài đã gom vàng như đống sắt,
đã chất bạc như đống chì.
19 Thế mà ngài đã trao thân cho bọn
đàn bà con gái,
biến thân xác ngài thành nô lệ.
20 Ngài đã bôi nhọ vinh quang, làm ô
danh dòng dõi
khiến cơn thịnh nộ giáng xuống
trên con cháu
và họ phải khổ đau vì sự điên dại
của ngài.
21 Vương quyền bị chia đôi,
từ Ép-ra-im nổi lên một vương
quốc phản loạn.
22 Nhưng Ðức Chúa đã không dứt nghĩa
đoạn tình,
cũng không huỷ bỏ lời nào đã hứa.
Người không loại trừ con cháu kẻ
Người đã tuyển chọn,
không tận diệt dòng dõi kẻ yêu
mến Người.
Người đã cho nhà Gia-cóp một số
còn sót lại,
và từ vua Ða-vít, Người cho đâm
ra một nhánh rễ.
Vua Rơ-kháp-am
23 Rồi vua Sa-lô-môn an nghỉ với cha
ông,
để lại một người nối ngôi thuộc
dòng dõi mình,
một kẻ điên khùng nhất trong dân,
chẳng một chút thông minh hiểu
biết: đó là vua Rơ-kháp-am,
kẻ đã thúc đẩy dân nổi loạn.
Vua Gia-róp-am
24 Vua Gia-róp-am, con ông Nơ-vát,
đã xúi Ít-ra-en phạm tội,
đã đưa Ép-ra-im vào con đường tội
lỗi.
Tội lỗi của họ mỗi ngày một gia
tăng,
khiến họ bị đưa ra khỏi xứ.
25 Họ đã tìm cách làm mọi điều xấu
xa,
cho đến khi hình phạt giáng xuống
trên họ.
Chương 48
Ngôn sứ Ê-li-a
1 Rồi ông Ê-li-a xuất hiện,
ông là vị ngôn sứ chẳng khác nào
ngọn lửa,
lời của ông tựa đuốc cháy bừng
bừng.
2 Ông khiến cho nạn đói hoành hành
trong dân,
và do lòng nhiệt thành, ông làm
cho số dân giảm bớt.
3 Ông dùng lời Thiên Chúa mà đóng
cửa trời,
và ba lần cũng cho lửa đổ xuống.
4 Thưa ông Ê-li-a, ông đã làm bao
việc lạ lùng,
ông thật là vinh quang hiển hách!
Ai có thể tự hào được nên giống
như ông?
5 Ông dùng lời của Ðấng Tối Cao
mà làm cho một kẻ chết chỗi dậy,
thoát khỏi tay tử thần và cõi âm
ty.
6 Ông đã đẩy các vua vào cõi chết,
và xô người quyền thế xuống khỏi
giường.
7 Tại núi Xi-nai, ông đã nghe lời
khiển trách,
trên núi Khô-rếp, ông đã nghe án
trừng phạt.
8 Ông đã xức dầu tấn phong các vua
để họ cầm quyền xét xử,
và xức dầu cho các ngôn sứ để họ
nối nghiệp ông.
9 Ông đã được cất lên giữa đám lửa
xoáy như cơn lốc,
trên chiếc xe do ngựa đỏ như lửa
kéo đi.
10 Trong những lời khiển trách vào
thời sẽ đến,
ông đã được nêu danh,
để làm nguôi cơn giận của Thiên
Chúa
trước khi cơn thịnh nộ bùng lên,
để đưa tâm hồn cha ông trở lại
với con cháu,
và tái lập các chi tộc Gia-cóp.
11 Phúc cho ai được nhìn thấy ông,
và cho kẻ được an nghỉ trong tình
yêu Thiên Chúa,
vì cả chúng tôi, chắc chắn cũng
sẽ được sống.
Ngôn sứ Ê-li-sa
12 Khi ông Ê-li-a được ẩn trong cơn
lốc,
thì ông Ê-li-sa được đầy thần khí
của người.
Suốt đời ông Ê-li-sa,
không thủ lãnh nào có thể làm ông
lung lạc,
cũng chẳng ai khuất phục được
ông.
13 Ðối với ông, chẳng có gì là quá
sức,
ngay cả khi ông đã qua đời,
thân xác ông vẫn còn giữ năng lực
của một ngôn sứ.
14 Lúc sinh thời, ông đã làm nhiều
dấu lạ,
sau khi chết, ông vẫn còn thực
hiện những điềm thiêng.
Bất trung và hình phạt
15 Dù đã xảy ra những điều ấy,
dân vẫn không chịu sám hối ăn
năn,
cũng chẳng màng lìa xa tội lỗi,
đến nỗi phải đi lưu đày biệt xứ,
phải tản mác khắp nơi.
16 Cả đám dân chỉ còn sót lại một số
nhỏ
và một thủ lãnh thuộc nhà Ða-vít.
Trong đám họ, một số người làm
những việc lành,
những việc đẹp lòng Chúa,
một số khác lại tăng thêm tội
lỗi.
Vua Khít-ki-gia
17 Vua Khít-ki-gia đã củng cố thành
đô,
và dẫn nước vào bên trong thành.
Vua dùng sắt đục đá tảng, để làm
hồ chứa nước.
18 Thời vua Khít-ki-gia trị vì,
vua Xan-khê-ríp đem quân tiến
đánh,
và cử ông Ráp-xa-kê làm tướng chỉ
huy.
Ông này đã kiêu căng ngạo mạn
giơ tay chống lại Xi-on.
19 Bấy giờ dân thành Giê-ru-sa-lem
bồi hồi run sợ,
tay chân lẩy bẩy rụng rời,
họ quằn quại đau đớn như phụ nữ
lúc sinh con.
20 Họ giơ tay hướng về Ðức Chúa,
cầu khẩn Người là Ðấng nhân hậu.
Từ trời cao, Ðấng Thánh liền nghe
lời họ kêu xin,
Người dùng ông I-sai-a mà giải
thoát họ.
21 Người đã phá tan doanh trại quân
Át-sua:
thiên sứ của Người đã tiêu diệt
chúng.
Ngôn sứ I-sai-a
22 Quả thật, vua Khít-ki-gia đã làm
Ðức Chúa vui lòng,
và kiên vững theo đường lối của
tổ phụ Ða-vít,
như ông I-sai-a đã truyền; ông là
vị ngôn sứ cao cả,
luôn trung thành thuật lại các
thị kiến.
23 Thời ấy, nhờ ông, mặt trời đã lùi
lại,
và nhà vua được sống lâu hơn.
24 Ông được đầy thần khí,
nên đã nhìn thấy trước những sự
việc thời cuối cùng,
và đã ủi an những người sầu khổ
tại Xi-on.
25 Ông đã tỏ bày những việc sẽ đến
và những điều bí ẩn trước khi
chúng xảy ra,
mãi cho tới muôn đời.
Chương 49
Vua Giô-si-gia
1 Người ta vẫn nhớ đến vua
Giô-si-gia
như một tổng hợp các thứ hương
thơm ngát
được nhà chuyên môn pha chế cách
tinh vi.
Nhớ đến vua, chẳng khác nào mật
ong trong miệng,
hay khúc nhạc du dương giữa tiệc
rượu linh đình.
2 Vua đã theo đường ngay nẻo chính,
làm cho dân sám hối ăn năn,
và triệt hạ các đồ ghê tởm của
phường vô đạo.
3 Vua đã hướng lòng về Ðức Chúa,
và chấn hưng đời sống đạo của dân
trong thời buổi Lề Luật bị coi
thường.
Các vua và các ngôn sứ cuối cùng
4 Ngoài các vua Ða-vít, Khít-ki-gia
và Giô-si-gia,
tất cả các vua đều phạm hết tội
này đến tội khác;
các vua Giu-đa đều đã bị loại bỏ
vì đã bỏ Lề Luật của Ðấng Tối
Cao.
5 Quả thật, họ đã trao quyền lực của
mình cho kẻ khác,
và vinh quang của mình cho một
dân ngoại bang.
6 Chúng thiêu huỷ thành được tuyển
chọn, nơi có Ðền Thờ,
và phá tan hoang mọi đường phố,
7 như lời tiên báo của ông
Giê-rê-mi-a, người đã bị ngược đãi.
Ngay trong dạ mẫu thân, ông đã
được thánh hiến làm ngôn sứ,
để nhổ, để phá và để huỷ, nhưng
cũng để xây và để trồng.
8 Ông Ê-dê-ki-en đã nhìn thấy một
thị kiến
về vinh quang Thiên Chúa được tỏ
ra cho ông
trên chiếc xe có các thần hộ giá.
9 Ông nhớ đến quân thù bị mưa lũ
vùi dập,
và ủng hộ những ai theo nẻo chính
đường ngay.
10 Phần mười hai ngôn sứ khác,
ước chi từ nơi an nghỉ, xương cốt
các ông lại nở hoa.
Quả vậy, các ông đã ủi an và giải
thoát nhà Gia-cóp,
vì các ông luôn vững lòng trông
cậy.
Ông Dơ-rúp-ba-ven và ông Giê-su-a
11 Ca tụng ông Dơ-rúp-ba-ven thế nào
đây?
Ông như chiếc ấn trên tay phải.
12 Và cũng làm thế nào
để ca tụng ông Giê-su-a, con ông
Giô-xa-đắc?
Trong cuộc đời, các ông đã tái
thiết Ðền Thờ,
để xây cất Thánh Ðiện dâng kính
Ðức Chúa
và mãi mãi tôn vinh Người.
Ông Nơ-khe-mi-a
13 Ông Nơ-khe-mi-a cũng để lại những
kỷ niệm đậm đà:
chính ông đã dựng lại tường
thành đổ nát,
đã sửa sang các cổng và then cài,
đã tái thiết nhà cửa cho chúng
ta.
Ông Kha-nốc
14 Trong số những người được dựng
nên ở trần gian,
chẳng có ai giống như ông
Kha-nốc,
vì ông được cất lên khỏi cõi đất
này.
Ông Giu-se
15 Trong số những người đã sinh ra
trên đời,
chẳng có ai sánh được như ông
Giu-se:
với anh em, ông là người lãnh
đạo,
với dân tộc, ông là người nâng
đỡ.
Hài cốt của ông được quý trọng,
được giữ gìn.
Các tổ phụ đầu tiên
16 Các ông Sêm và Sết được người đời
ca tụng;
nhưng trong số sinh linh được tạo
thành,
ông A-đam chiếm chỗ ưu việt.
Chương 50
Thượng tế Si-môn
1 Ông Si-môn là thượng tế, con ông
Ô-ni-a.
Trong cuộc đời, chính ông đã
trùng tu ngôi nhà Thiên Chúa,
lúc sinh thời, đã củng cố Ðền
Thờ.
2 Ông đã cho xây nền móng cao gấp
đôi,
và xây cao chân tường bọc quanh
Thánh Ðiện.
3 Vào thời ông, người ta đào bể
chứa nước,
là cái hồ có kích thước bằng bể
đồng thời xưa.
4 Vì lo lắng muốn bảo vệ dân khỏi
bị tàn phá,
ông đã củng cố thành phòng khi bị
vây hãm.
5 Ông uy nghi biết mấy giữa đám
dân,
6 Ông tựa sao mai ngời sáng giữa
tầng mây,
như vầng nguyệt vào những đêm
rằm,
7 như thái dương chói lọi trên Ðền
Thờ Ðấng Tối Cao,
như cầu vồng rực rỡ giữa đám mây
huy hoàng.
8 Ông ví như đoá hồng tươi nở giữa
mùa xuân,
như cây huệ mọc bên bờ nước, tựa
chồi non Li-băng giữa mùa hè.
9 Ông khác nào hương trầm nghi ngút
cháy trong lư,
tựa bình vàng nguyên khối cẩn đá
quý đủ loại.
10 Ông tựa cây ô-liu nặng trĩu quả
ngon,
như cây bách vươn cao đến tận
ngàn mây thẳm.
11 Khi ông nhận lấy lễ phục huy
hoàng,
và khoác áo choàng lộng lẫy,
khi ông tiến lên bàn thánh,
thì ông làm cho Nơi Thánh được
rạng ngời vinh quang.
12 Khi ông đứng cạnh lò thiêu để bên
trên bàn thờ,
và nhận từ tay hàng tư tế các
phần lễ vật,
thì anh em tư tế đứng vòng quanh
ông
theo hình một triều thiên vinh
hiển,
như đám cây hương bá núi Li-băng.
Ðứng quanh ông như những thân cây
thiên tuế
13 là toàn thể con cái A-ha-ron với
lễ phục huy hoàng,
tay mang các lễ phẩm tiến dâng
lên Ðức Chúa,
trước mặt toàn thể cộng đồng
Ít-ra-en.
14 Trong lúc cử hành các nghi lễ tại
bàn thờ,
ông sắp xếp các lễ phẩm dâng kính
Ðấng Tối Cao Toàn Năng.
15 Ông giơ tay trên chén,
rồi làm lễ rưới rượu nho và đổ
xuống chân bàn thờ,
như hương thơm làm vui lòng Ðấng
Tối Cao, Vua vũ trụ.
16 Bấy giờ con cái A-ha-ron cất
tiếng tung hô,
thổi kèn đồng, tạo nên một âm
thanh vang dội,
để mời gọi dân tưởng nhớ Ðấng Tối
Cao.
17 Tức khắc toàn dân cùng phủ phục
sát đất
mà thờ lạy Ðức Chúa của họ,
là Ðấng Toàn Năng và là Thiên
Chúa Tối Cao.
18 Ðoàn ca viên hát bài ca ngơi,
tiếng hát vang lừng, cung điệu du
dương.
19 Dân chúng dâng lời van xin và cầu
khẩn
lên Ðức Chúa Tối Cao là Ðấng nhân
từ,
cho đến khi nghi lễ kính Ðức Chúa
và buổi cử hành phụng tự đã hoàn thành.
20 Bấy giờ ông Si-môn bước xuống,
giơ tay trên toàn thể cộng đồng
con cái Ít-ra-en,
và đọc lời chúc lành của Ðức
Chúa;
như thế ông được vinh dự xướng
lên Thánh Danh Người.
21 Một lần nữa dân chúng lại phủ
phục,
để đón nhận phúc lành từ Ðấng Tối
Cao.
Lời cầu chúc
22 Giờ đây hãy chúc tụng Thiên Chúa
muôn loài,
Ðấng đã làm những điều vĩ đại ở
khắp nơi,
Ðấng đã làm cho đời sống chúng ta
nên cao quý
ngay từ thuở ta còn trong lòng
mẹ,
và đối xử với chúng ta theo lòng
lân tuất của Người.
23 Xin Thiên Chúa ban cho tâm hồn
chúng ta niềm hoan hỷ,
và cho đời chúng ta được hưởng
phúc bình an,
tại đất Ít-ra-en đến muôn thuở
muôn đời!
24 Xin Thiên Chúa hằng tỏ lòng lân
tuất với chúng ta,
và giải cứu chúng ta trong những
ngày chúng ta đang sống!
Chống lại ba dân tộc
25 Hồn tôi giận ghét hai dân tộc,
còn dân thứ ba chẳng phải là một
dân:
26 Ðó là bọn người sống trên núi
Xê-ia,
rồi người Phi-li-tinh,
và đám dân ngu xuẩn ở vùng
Si-khem.
Kết luận
27 Cuốn sách này ghi lại
một giáo huấn đầy khôn ngoan và
hiểu biết
của ông Giê-su, con ông Xi-ra,
cháu ông E-la-da,
người thành Giê-ru-sa-lem.
Sự khôn ngoan chất chứa trong tâm
hồn,
ông đã đem truyền bá chẳng khác
nào mưa tuôn.
28 Phúc cho ai nghiền ngẫm những lời
này!
Ai ghi vào tâm khảm, ắt sẽ được
khôn ngoan.
29 Quả thật, nếu đem ra thực hành,
họ sẽ nên kiên cường trong hết
mọi hoàn cảnh.
Bởi vì ánh sáng của Ðức Chúa
sẽ chiếu soi đường nẻo họ đi.
Chương 51
Thánh thi tạ ơn
1 Lạy Ðức Chúa là Vua, con xin cảm
tạ Ngài,
ca ngợi Ngài là Thiên Chúa, Ðấng
cứu độ con.
Con cảm tạ danh Ngài.
2 Ngài quả là Ðấng bảo vệ và trợ
giúp con,
Ngài đã cứu thân con khỏi hư mất,
xin cứu con thoát khỏi lưới dò
của kẻ chuyên đặt điều vu khống,
và kẻ ưa nói lời điêu ngoa.
Khi con gặp kẻ thù chống đối,
Ngài đã thương trợ giúp và giải
thoát con.
3 Nhờ uy danh cao cả, và chiếu theo
lòng lân tuất vô biên của Ngài,
Ngài đã giải thoát con
khỏi những kẻ rình cắn xé con,
chực nuốt trửng,
khỏi tay những kẻ tìm hại mạng
sống con,
khỏi bao khốn quẫn con hứng chịu,
4 khỏi đám lửa vây quanh làm con
ngạt thở,
khỏi ngọn lửa không do con đốt
lên,
5 khỏi lòng vực sâu âm phủ,
khỏi lưỡi nhơ bẩn, khỏi lời điêu
ngoa,
6 khỏi hoạ vu oan do kẻ gian tà sàm
tấu.
Mạng con đã kề sát tử thần, đời
con đã gần đáy âm ty.
7 Con đã bị tư bề vây hãm mà chẳng
có người trợ giúp con.
Con đưa mắt tìm người cứu giúp,
nhưng chẳng thấy một ai.
8 Bấy giờ, lạy Ðức Chúa, con nhớ
lại lòng lân tuất của Ngài,
và tưởng nhớ bao việc Ngài làm từ
muôn thuở:
Ngài đã giải thoát những ai cậy
trông Ngài,
và cứu họ khỏi tay thù địch.
9 Từ cõi đất, tôi dâng lời cầu
khẩn,
xin Chúa cứu tôi thoát khỏi tử
thần.
10 Tôi kêu cầu Ðức Chúa là Cha của
Chúa tôi:
"Xin đừng bỏ rơi con trong
những ngày khốn quẫn,
khi bè lũ kiêu căng hoành hành
mà chẳng có người nào trợ giúp.
Con sẽ không ngừng ca ngợi Thánh
Danh
và hát lên bài ca cảm tạ."
11 Ngài đã đoái nghe lời con cầu
khẩn,
vì đã cứu con khỏi diệt vong,
và giải thoát con khỏi thời tai
hoạ.
12 Bởi thế, con xin cảm tạ và ca
ngợi Ngài,
và xin chúc tụng danh Ðức Chúa.
Thánh thi: Tìm đức khôn ngoan
13 Thời còn trẻ, trước khi bôn ba
đây đó,
tôi đã công nhiên tìm kiếm đức
khôn ngoan
khi dâng lời cầu nguyện.
14 Nơi Thánh Ðiện, tôi hằng cầu xin,
và cho đến mãn đời, tôi vẫn tìm
kiếm đức khôn ngoan.
15 Như hoa tươi nở, tựa chùm nho
chín,
đức khôn ngoan làm hoan hỷ lòng
tôi.
Chân tiến bước trên đường ngay
nẻo chính,
tôi dõi theo đức khôn ngoan từ
thuở còn thanh xuân.
16 Chỉ lắng tai một chút mà tôi đã
hấp thụ được,
và tìm thấy cho bản thân một giáo
huấn dồi dào.
17 Trong đức khôn ngoan, tôi tiến
lên mãi,
và tôi sẽ tôn vinh Thiên Chúa,
Ðấng đã cho tôi được khôn ngoan.
18 Vì tôi đã cương quyết sống theo
đức khôn ngoan,
tôi hăng say tìm điều thiện và sẽ
không xấu hổ thẹn thùng.
19 Trong đức khôn ngoan, hồn tôi đã
phấn đấu,
và chuyên cần tuân giữ Lề Luật.
Tôi đã giơ tay lên trời, tôi khóc
than vì thiếu hiểu biết.
20 Tôi đã hướng lòng về đức khôn
ngoan,
và khi giữ mình trong sạch, tôi
tìm được đức khôn ngoan.
Tôi đã để tâm tìm hiểu ngay từ
đầu, nên tôi sẽ không bị ruồng bỏ.
21 Tâm can tôi những bồn chồn tìm
kiếm đức khôn ngoan,
vì thế, tôi đạt được kho tàng quý
giá.
22 Ðức Chúa đã ban thưởng cho tôi
tài lợi khẩu,
và tôi đem sử dụng để ca tụng
Người.
23 Hỡi những người không được giáo
huấn,
hãy đến gần tôi và thụ huấn với
tôi.
24 Sao các bạn nói mình còn thiếu
những điều ấy,
và tâm hồn các bạn còn khát khao
nhiều như vậy?
25 Tôi đã mở miệng và lên tiếng:
Hãy thu nhận những điều ấy, không
phải trả đồng nào.
26 Hãy tra cổ vào ách, và đón nhận
giáo huấn vào tâm hồn;
giáo huấn này, các bạn có thể tìm
thấy ngay ở bên cạnh mình.
27 Hãy đưa mắt nhìn: tôi đâu có vất
vả bao nhiêu,
và chính tôi đã được nghỉ ngơi an
nhàn.
28 Hãy đón nhận giáo huấn, dù phải
mất nhiều bạc,
nhưng nhờ đó bạn sẽ thu được lắm
vàng.
29 Ước chi tâm hồn các bạn được hoan
hỷ,
vì Ðức Chúa đầy lòng thương xót
từ bi,
và các bạn đừng xấu hổ khi ca
tụng Người.
30 Việc phải làm, các bạn hãy hoàn
tất trước thời hạn,
và Ðức Chúa sẽ ban cho các bạn
phần thưởng
vào thời buổi của Người.
Ðó là lời khôn ngoan của ông
Giê-su, con ông Xi-ra.
Ngôn Sứ
I-sai-a
Chương 01
I. Phần Thứ Nhất Sách I-Sai-A
1. Sấm Ngôn Trước Thời Chiến
Tranh
Giữa Giu-Ða Với A-Ram Và Ít-Ra-En
Nhan đề
1 Thị kiến ông I-sai-a, con ông
A-mốc, đã được thấy, liên quan đến Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, thời các vua
Út-di-gia-hu, Giô-tham, A-khát, Khít-ki-gia cai trị Giu-đa.
Hạch tội dân bội bạc
2 Trời hãy nghe đây, đất lắng tai
nào, vì Ðức Chúa phán:
"Ta đã nuôi nấng đàn con,
cho chúng nên khôn lớn,
nhưng chúng đã phản nghịch cùng
Ta.
3 Con bò còn biết chủ, con lừa còn
biết cái máng cỏ nhà chủ nó.
Nhưng Ít-ra-en thì không biết,
dân Ta chẳng hiểu gì.
4 Khốn thay dân tộc phạm tội, dân
chồng chất lỗi lầm,
giống nòi gian ác, lũ con hư
hỏng!
Chúng đã bỏ Ðức Chúa,
đã khinh Ðức Thánh của Ít-ra-en,
mà quay lưng đi.
5 Biết đánh các ngươi vào chỗ nào
nữa,
hỡi những kẻ cứ khăng khăng phản
loạn!
Ðầu chỗ nào cũng đau, tim tan nát
cả rồi!
6 Từ bàn chân cho đến đỉnh đầu,
chẳng còn nơi lành lặn:
vết bầm, vết đánh, vết thương còn
mới,
chưa có ai lau chùi, chưa có ai
băng bó, chưa có ai thoa dầu.
7 Xứ sở các ngươi hoang tàn,
thành thị các ngươi bị lửa thiêu.
Ðất đai các ngươi, kẻ ngoại bang
thôn tính ngay trước mặt,
khiến trở nên hoang tàn như bị
quân ngoại bang giày xéo.
8 Chỉ còn sót lại cô gái Xi-on, như
túp lều trong vườn nho,
như cái chòi trong vườn dưa, như
thành bị vây hãm.
9 Nếu Ðức Chúa các đạo binh
chẳng để lại cho chúng ta một ít
người sống sót,
thì chúng ta đã ra như Xơ-đôm, đã
giống Gô-mô-ra.
Hạch tội quân giả hình
10 Hỡi những kẻ làm đầu Xơ-đôm,
hãy nghe lời Ðức Chúa phán.
Hỡi dân Gô-mô-ra,
hãy lắng tai nghe Thiên Chúa
chúng ta dạy bảo.
11 Ðức Chúa phán: "Ngần ấy hy
lễ của các ngươi,
đối với Ta, nào nghĩa lý gì?
Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê
mập, Ta đã ngấy.
Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng
thèm!
12 Khi các ngươi đến trình diện Ta,
ai khiến các ngươi phải giẫm lên
khuôn viên của Ta?
13 Thôi, đừng đem những lễ vật vô
ích đến nữa.
Ta ghê tởm khói hương; Ta không
chịu nổi ngày đầu tháng,
ngày sa-bát, ngày đại hội,
không chịu nổi những người cứ
phạm tội ác
rồi lại cứ lễ lạt linh đình.
14 Ta chán ghét những ngày đầu
tháng,
những đại lễ của các ngươi.
Những thứ đó đã trở thành gánh
nặng cho Ta,
Ta không chịu nổi nữa.
15 Khi các ngươi dang tay cầu
nguyện, Ta bịt mắt không nhìn;
các ngươi có đọc kinh cho nhiều,
Ta cũng chẳng thèm nghe.
Vì tay các ngươi đầy những máu.
16 Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết,
và vứt bỏ tội ác của các ngươi
cho khỏi chướng mắt Ta.
Ðừng làm điều ác nữa.
17 Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm
lẽ công bình,
sửa phạt người áp bức, xử công
minh cho cô nhi,
biện hộ cho quả phụ.
18 Ðức Chúa phán: "Hãy đến đây,
ta cùng nhau tranh luận!
Tội các ngươi, dầu có đỏ như son,
cũng ra trắng như tuyết;
có thẫm tựa vải điều, cũng hoá
trắng như bông.
19 Nếu các ngươi chịu nghe lời Ta,
các ngươi sẽ được hưởng dùng hoa
mầu trong xứ.
20 Còn nếu các ngươi từ chối mà phản
nghịch,
các ngươi sẽ phải ăn gươm ăn
giáo."
Miệng Ðức Chúa đã phán như vậy.
Than vãn về Giê-ru-sa-lem
21 Ðô thị vốn trung tín xưa kia
sao nay lại trở thành con điếm?
Ðô thị xưa kia vốn chính trực,
vốn là nơi ngự trị của đức công
minh,
sao nay lại đầy lũ giết người?
22 Bạc của ngươi đã biến thành gỉ
sét,
rượu ngon thì bị pha nước vào.
23 Các thủ lãnh của ngươi là những
kẻ phản nghịch,
đồng loã cùng trộm cướp.
Tất cả bọn chúng đều thích ăn hối
lộ, và chạy theo quà cáp.
Chúng không phân xử công minh cho
cô nhi,
cũng chẳng quan tâm đến quyền lợi
quả phụ.
24 Vì thế, đây là sấm ngôn của Chúa
Thượng,
Ðức Chúa các đạo binh, Ðấng vạn
năng của Ít-ra-en:
"Nào! Ta sẽ phạt quân đối
nghịch Ta, cho hả dạ,
sẽ báo oán những kẻ thù của Ta.
25 Ta sẽ trở tay chống lại ngươi.
Gỉ sét của ngươi, Ta sẽ tẩy sạch,
như người ta lấy muối luyện kim.
Mọi cặn bã của ngươi, Ta sẽ loại
bỏ.
26 Ta sẽ cho các thủ lãnh của ngươi
nên giống như hồi trước,
và các cố vấn của ngươi tựa thuở
ban đầu.
Sau đó, ngươi sẽ được gọi
là "Thành phố của đức công
minh", là "Ðô thị trung tín".
27 Xi-on sẽ được giải thoát nhờ lẽ
chính trực,
và dân thành hối cải trở về sẽ
được giải thoát nhờ đức công minh.
28 Quân phản loạn và phường tội lỗi
sẽ cùng bị đập tan,
những kẻ bỏ Ðức Chúa đều phải
tiêu vong.
Hạch bọn thờ cây thánh vườn
thiêng
29 Các ngươi sẽ phải xấu hổ
vì những cây vân hương mà các
ngươi ưa thích,
sẽ phải nhục nhã vì những khu
vườn các ngươi đã chọn,
30 vì các ngươi sẽ như cây vân hương
lá héo tàn
tựa khu vườn không còn nước.
31 Người mạnh thế sẽ trở nên cái bùi
nhùi,
và việc nó làm sẽ thành một tia
lửa,
khiến cả hai cùng cháy mà không
ai dập đi."
Chương 02
Hoà bình vĩnh cửu
1 Ðây là điều mà ông I-sai-a, con
ông A-mốc, đã được thấy về Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
2 Trong tương lai, núi Nhà Ðức Chúa
đứng kiên cường vượt đỉnh các non
cao,
vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.
Dân dân lũ lượt đưa nhau tới,
3 nước nước dập dìu kéo nhau đi.
Rằng: "Ðến đây, ta cùng lên
núi Ðức Chúa,
lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp,
để Người dạy ta biết lối của
Người,
và để ta bước theo đường Người
chỉ vẽ.
Vì từ Xi-on, thánh luật ban xuống,
từ Giê-ru-sa-lem, lời ÐỨC CHÚA
phán truyền.
4 Người sẽ đứng làm trọng tài giữa
các quốc gia
và phân xử cho muôn dân tộc.
Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc
thành cày,
rèn giáo mác nên liềm nên hái.
Dân này nước nọ sẽ không còn vung
kiếm đánh nhau,
và thiên hạ thôi học nghề chinh
chiến.
5 Hãy đến đây, nhà Gia-cóp hỡi,
ta cùng đi, nhờ ánh sáng Ðức Chúa
soi đường!
Oai phong của Ðức Chúa
6 Vâng, Chúa đã bỏ rơi dân Ngài là
nhà Gia-cóp,
vì họ chứa đầy thầy bói phương
Ðông và thầy chiêm
như những người Phi-li-tinh;
họ thoả hiệp với người ngoại
quốc.
7 Ðất nước họ đầy bạc đầy vàng, kho
tàng thì vô hạn;
đất nước họ đầy ngựa, chiến xa
thì vô số.
8 Ðất nước họ đầy những tà thần.
Họ phủ phục trước những thứ bàn
tay họ tạo tác,
trước những vật ngón tay họ làm
thành.
9 Thế là phàm nhân đã bị hạ, con
người đã bị đè sát đất,
xin Chúa cũng đừng dung tha.
10 Hãy chui vào hốc đá, ẩn mình
trong bụi đất,
để tránh nỗi kinh hoàng Ðức Chúa
gây ra,
tránh oai phong lẫm liệt của
Người.
11 Người phàm tự kiêu sẽ cúi mặt
nhìn xuống,
con người ngạo nghễ rồi sẽ bị
khuất phục;
trong ngày đó, chỉ một mình Ðức
Chúa được suy tôn.
12 Vì Ðức Chúa các đạo binh đã dành
sẵn một ngày
để trị tất cả những gì kiêu căng
ngạo nghễ,
trị tất cả những gì tự cao tự
đại: chúng sẽ bị hạ xuống,
13 trị mọi cây hương bá Li-băng ngạo
nghễ vươn cao,
và mọi cây sồi xứ Ba-san,
14 mọi quả núi ngạo nghễ, và mọi
ngọn đồi vươn cao,
15 mọi cây tháp cao vời, và mọi
tường luỹ kiên cố,
16 mọi tàu bè Tác-sít và mọi du
thuyền lộng lẫy.
17 Người phàm tự kiêu sẽ bị khuất
phục,
và con người ngạo nghễ rồi sẽ bị
hạ xuống;
ngày đó, chỉ một mình Ðức Chúa
được suy tôn.
18 Các tà thần sẽ đồng loạt biến đi.
19 Người ta sẽ chui vào hốc đá, vào
khe đất,
để tránh nỗi kinh hoàng Ðức Chúa
gây ra,
tránh oai phong lẫm liệt của
Người,
khi Người đứng lên làm cho đất
hãi hùng.
20 Ngày đó, con người sẽ ném cho
chuột chù, cho dơi
những tà thần bằng bạc, tà thần
bằng vàng của họ
mà họ đã làm ra để thờ.
21 Họ sẽ chui vào hang đá, vào kẽ
núi,
để tránh nỗi kinh hoàng Ðức Chúa
gây ra,
tránh oai phong lẫm liệt của
Người,
khi Người đứng lên làm cho đất
hãi hùng.
22 Hãy tránh xa người đời,
họ chỉ có hơi thở trong lỗ mũi,
có gì đáng giá đâu!
Chương 03
Cảnh hỗn loạn tại Giê-ru-sa-lem
1 Này đây Chúa là Ðức Chúa các đạo
binh, cất khỏi Giê-ru-sa-lem và Giu-đa mọi chỗ nương chỗ tựa:
chỗ tựa chỗ nương là bánh và
nước,
2 người hùng và chiến sĩ, quan toà
và ngôn sứ, thầy bói và kỳ mục,
3 sĩ quan và thân hào, cố vấn với
phù thủy cao tay
và những kẻ thạo nghề bùa ngải.
4 Ta sẽ đặt bọn nhãi con làm người
chỉ huy chúng,
và lũ trẻ ranh làm người cai trị
chúng.
5 Dân chúng sẽ ức hiếp lẫn nhau,
người thân cận ức hiếp người thân
cận;
nhãi con hỗn láo với ông già,
đứa vô loại hỗn láo với người
quyền quý.
6 Người ta sẽ níu lấy người anh em
trong nhà cha mình mà nói:
"Anh còn áo choàng, hãy làm
đầu chúng tôi,
và đống hoang tàn này sẽ ở dưới
quyền anh."
7 Ngày đó, người kia sẽ lên tiếng
nói:
"Tôi không muốn làm thầy
thuốc đâu,
và trong nhà tôi chẳng có bánh,
cũng chẳng có áo choàng,
xin đừng đặt tôi làm đầu
dân."
8 Giê-ru-sa-lem sẩy chân, Giu-đa té
nhào,
vì chúng đã nói và hành động
chống lại Ðức Chúa,
phản loạn trước tôn nhan vinh
hiển của Người.
9 Vẻ mặt của chúng là bằng chứng
cáo tội chúng;
chúng khoe tội mình như Xơ-đôm,
chứ không giấu giếm.
Thật khốn cho chúng, vì chúng tự
chuốc hoạ vào thân.
10 Hãy nói: người công chính thật có
phúc,
vì kết quả việc họ làm, họ sẽ
được dùng được hưởng.
11 Khốn thay kẻ gian ác, thật khốn
thay,
vì hậu quả việc tay nó làm, nó sẽ
phải chuốc lấy.
12 Kẻ ức hiếp dân Ta là một đứa trẻ
con,
những kẻ cai trị nó lại là đàn
bà.
Ôi dân Ta, những kẻ dẫn dắt ngươi
làm ngươi lạc hướng,
đường lối ngươi đi, chúng làm cho
rối loạn!
13 Ðức Chúa đứng lên cáo tội, Người
đứng đó xét xử chư dân.
14 Ðức Chúa đưa ra toà xét xử
hàng kỳ mục và những kẻ lãnh đạo
dân Người:
"Chính các ngươi đã ăn hại
vườn nho.
Của cải người nghèo các ngươi đã
bóc lột
còn đang ở trong nhà các ngươi.
15 Cớ sao các ngươi lại chà đạp dân
Ta,
làm tan nát mặt mày những kẻ
nghèo khó?"
Sấm ngôn của Chúa Thượng, Ðức
Chúa các đạo binh!
Phụ nữ Giê-ru-sa-lem
16 Ðức Chúa phán: Vì các con gái
Xi-on kiêu kỳ,
chúng vừa đi vừa vênh mặt, liếc
mắt,
chúng bước đi nhún nhẩy, khua
kiềng đeo chân,
17 nên Chúa Thượng sẽ làm cho con
gái Xi-on ghẻ chốc đầy đầu,
và Ðức Chúa sẽ lột trần chúng.
18 Ngày đó, Chúa Thượng sẽ lấy đi đồ
trang sức: kiềng, hình mặt trời, hình trăng khuyết, 19 vòng cổ,
xuyến, khăn trùm, 20 khăn chít, xà tích, thắt lưng, hộp phấn son,
bùa phép, 21 nhẫn, khuyên mũi, 22 áo ngày lễ, áo khoác,
áo choàng, túi cầm tay, 23 gương soi, áo vải mịn, dải cột tóc, khăn
trùm dài.
24 Thay vì hương thơm sẽ là mùi
thối,
thay vì thắt lưng là sợi dây
thừng,
thay vì bím tóc là đầu cạo trọc,
thay vì áo đẹp là khố vải thô,
thay vì nhan sắc là vết sắt nung.
Nỗi khốn khổ của Giê-ru-sa-lem
25
anh hùng của ngươi sẽ tử trận.
26 Các cửa thành than vãn, để tang,
nó sẽ ngồi dưới đất trơ trọi một
mình.
Chương 04
1 Ngày đó, bảy bà sẽ níu lấy một
ông mà nói: "Bánh ăn áo mặc, chúng em sẽ liệu lấy; chỉ xin được mang tên
chàng, xin chàng cất đi cho nỗi khổ nhục của chúng em."
Chồi non của Ðức Chúa
2 Ngày đó, chồi non Ðức Chúa cho
mọc lên
sẽ là vinh quang và danh dự,
và hoa màu từ ruộng đất trổ sinh
sẽ là niềm hãnh diện và tự hào
cho những người Ít-ra-en thoát
nạn.
3 Những người sống sót ở Xi-on
và những kẻ còn sót lại ở
Giê-ru-sa-lem sẽ được gọi là thánh.
Tất cả được ghi tên vào sổ để
sống tại Giê-ru-sa-lem.
4 Khi Chúa Thượng đã dùng thần khí
thông minh
và thần khí có sức thiêu huỷ
mà tẩy sạch các thiếu nữ Xi-on
khỏi những gì ô uế,
và gột rửa Giê-ru-sa-lem khỏi máu
đã đổ ra trong thành,
5 thì trên khắp núi Xi-on, và trên
những người hội họp ở đó,
Ðức Chúa sẽ tạo ra một đám mây
ban ngày,
một đám khói và một ngọn lửa rực
sáng ban đêm.
Thật vậy, trên tất cả,
6 là mái lều
làm bóng râm ban ngày cho khỏi
nóng,
làm nơi nương ẩn khi bão táp mưa
sa.
Chương 05
Bài ca vườn nho
1 Tôi xin hát tặng bạn thân tôi,
bài ca của bạn tôi về vườn nho
của mình.
Bạn thân tôi có một vườn nho trên
sườn đồi mầu mỡ.
2 Anh ra tay cuốc đất nhặt đá,
giống nho quý đem trồng,
giữa vườn anh xây một vọng gác,
rồi khoét bồn đạp nho.
Anh những mong nó sinh trái tốt,
nó lại sinh nho dại.
3 Vậy bây giờ,
dân Giê-ru-sa-lem và người Giu-đa
hỡi,
xin phân xử đôi đàng giữa tôi với
vườn nho.
4 Có gì làm hơn được cho vườn nho
của tôi,
mà tôi đã chẳng làm?
Tôi những mong trái tốt, sao nó
sinh nho dại?
5 Vậy bây giờ tôi cho các người
biết
tôi đối xử thế nào với vườn nho
của tôi:
hàng giậu thì chặt phá cho vườn
bị tan hoang,
bờ tường thì đập đổ cho vườn bị
giày xéo.
6 Tôi sẽ biến thửa vườn thành mảnh
đất hoang vu,
không tỉa cành nhổ cỏ, gai góc
mọc um tùm;
sẽ truyền lệnh cho mây đừng đổ
mưa tưới xuống.
7 Vườn nho của Ðức Chúa các đạo
binh,
chính là nhà Ít-ra-en đó;
cây nho Chúa mến yêu quý chuộng,
ấy chính là người xứ Giu-đa.
Người những mong họ sống công
bình,
mà chỉ thấy toàn là đổ máu;
đợi chờ họ làm điều chính trực,
mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than.
Các lời nguyền rủa
8 Khốn thay những kẻ tậu hết nhà nọ
đến nhà kia
nối thêm ruộng này đến ruộng
khác,
tới mức không còn chỗ trống nào
và chỉ còn một mình các người ở
lại trong xứ!
9 Tai tôi nghe tiếng Ðức Chúa các
đạo binh thề rằng:
nhà cửa có nhiều cũng sẽ tan
hoang,
có lớn và đẹp cũng không người ở.
10 Mười sào nho chỉ cho một thùng
rượu,
một tạ hạt giống chỉ cho một giạ
lúa.
11 Khốn thay những người dậy sớm để
chạy theo ma men,
những kẻ kề cà mãi tới khuya, cho
rượu nung đốt chúng.
12 Giữa tiếng đàn sắt, đàn cầm,
tiếng trống con và tiếng sáo,
chúng chè chén say sưa;
còn hành động của Ðức Chúa, chúng
không ngó ngàng,
việc tay Người làm, chúng chẳng
nhìn xem.
13 Bởi thế, dân Ta bị lưu đày vì
thiếu hiểu biết;
hàng quyền quý chết đói, quần
chúng phải khát khô.
14 Bởi thế, âm ty mở họng lớn, há
mồm to quá chừng,
hàng quý tộc và quần chúng của
thành xuống đó
cùng với tiếng reo vui ồn ào.
15 Phàm nhân đã bị hạ, con người đã
bị đè sát đất,
bọn kiêu căng đã phải cúi mặt
chẳng dám nhìn lên.
16 Ðức Chúa các đạo binh sẽ được suy
tôn,
khi Người phán quyết,
và Thiên Chúa chí thánh
sẽ biểu dương sự thánh thiện của
Người,
khi Người bày tỏ đức công minh.
17 Chiên con sẽ gặm cỏ ở đó, như
trong đồng cỏ của chúng,
ngoại kiều sẽ kiếm ăn trong chốn
hoang tàn xưa đầy súc vật béo.
18 Khốn thay những kẻ lấy dây gian
tà kéo lầm lỗi,
và dùng thừng kéo xe mà lôi theo
tội ác.
19 Chúng nói: "Ước chi Người
vội vàng, mau mắn
thực hiện công việc của Người, để
chúng tôi trông thấy.
Ước chi kế hoạch của Ðức Thánh
Ít-ra-en
được đem ra thi hành, cho chúng
tôi hay biết."
20 Khốn thay những kẻ bảo cái tốt là
xấu, cái xấu là tốt,
những kẻ biến tối thành sáng,
sáng thành tối,
biến cay đắng thành ngọt ngào, ngọt
ngào thành cay đắng.
21 Khốn thay những kẻ coi mình là
khôn ngoan,
và cho mình là thông minh,
22 khốn thay những anh hùng tửu
lượng,
những tay vô địch nghề pha chế
rượu nồng,
23 những kẻ vì nhận quà hối lộ
mà tuyên bố kẻ có tội là công
chính,
và phủ nhận sự công chính của
người công chính.
24 Vì thế, như lưỡi lửa thiêu rơm,
và cỏ khô tiêu tan trong ngọn
lửa,
rễ chúng sẽ ra như mục nát,
và nụ hoa của chúng sẽ bay lên
như bụi,
vì chúng đã khinh thường luật của
Ðức Chúa các đạo binh,
và coi nhẹ lời của Ðức Thánh
Ít-ra-en.
Cơn thịnh nộ của Ðức Chúa
25 Vì thế, Ðức Chúa đã nổi cơn thịnh
nộ với dân Người,
Người đã giơ tay phạt chúng,
Người đánh chúng, khiến núi non
chấn động,
và thây chúng như rác rưởi giữa
phố phường.
Dầu thế, Người vẫn chưa nguôi cơn
thịnh nộ,
và tay Người vẫn còn giơ lên.
Kêu gọi kẻ xâm lăng
26 Người sẽ phất cờ hiệu cho một dân
tộc từ phương xa,
huýt nó từ tận cùng cõi đất
và kìa, nó đang đến vội vàng,
nhanh nhẹn.
27 Trong hàng ngũ nó, không ai mệt
lả, không kẻ lao đao,
không ai chợp mắt, không kẻ ngủ
mê,
không ai cởi thắt lưng, không ai
đứt quai dép.
28 Tên của chúng mài nhọn, cung của
chúng đều giương,
vó ngựa chúng khác nào đá lửa,
bánh xe chúng dường như gió lốc.
29 Tiếng chúng rống như sư tử cái,
chúng rống lên như sư tử con,
chúng gầm lên, bắt mồi, tha đi mà
không có ai giật lại.
30 Nhưng trong ngày đó,
sẽ có tiếng gầm lên chống lại
chúng, như tiếng gầm của biển.
Người ta sẽ nhìn mặt đất, thì
này: bóng tối và ngặt nghèo,
và ánh sáng bị mây mù làm cho tối
tăm.
Chương 06
2. Sách Ðức Em-Ma-Nu-En
Ðức Chúa kêu gọi ông I-sai-a
1 Năm vua Út-di-gia-hu băng hà, tôi
thấy Chúa Thượng ngự trên ngai rất cao; tà áo của Người bao phủ Ðền Thờ.
2 Phía bên trên Người, có các thần
Xê-ra-phim đứng chầu. Mỗi vị có sáu cánh: hai cánh để che mặt, hai cánh để che
chân và hai cánh để bay.
3 Các vị ấy đối đáp tung hô:
"Thánh! Thánh! Chí Thánh!
Ðức Chúa các đạo binh là Ðấng
Thánh!
Cả mặt đất rạng ngời vinh quang
Chúa!"
4 Tiếng tung hô đó làm cho các trụ
cửa rung chuyển; khắp Ðền Thờ khói toả mịt mù. 5 Bấy giờ tôi thốt
lên:
"Khốn thân tôi, tôi chết
mất!
Vì tôi là một người môi miệng ô
uế,
tôi ở giữa một dân môi miệng ô
uế,
thế mà mắt tôi đã thấy Ðức Vua là
Ðức Chúa các đạo binh!"
6 Một trong các thần Xê-ra-phim bay
về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ.
7 Người đưa hòn than ấy chạm vào miệng tôi và nói:
"Ðây, cái này đã chạm đến
môi ngươi,
ngươi đã được tha lỗi và xá
tội."
8 Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa
Thượng phán:
"Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi
cho chúng ta?"
Tôi thưa: "Dạ, con đây, xin
sai con đi."
9 Chúa phán: "Hãy đi nói với
dân này rằng:
Cứ nghe cho rõ, nhưng đừng hiểu,
cứ nhìn thật kỹ, nhưng đừng nhận
ra.
10 Hãy làm cho lòng dân này ra đần
độn,
cho tai nó điếc, cho mắt nó mù;
kẻo mắt nó thấy, tai nó nghe và
lòng nó hiểu,
mà nó trở lại và được chữa
lành."
11 Tôi thưa: "Cho đến bao giờ,
lạy Chúa Thượng?" Chúa phán: "Cho đến khi nào các thành bị tàn phá
không còn dân cư, nhà cửa không còn người ở, đất đai bị tàn phá trở nên chốn
hoang vu.” 12 Ðức Chúa sẽ đuổi người ta đi xa, và trong xứ sẽ có
nhiều chỗ bỏ hoang. 13 Và nếu ở đó còn sót lại một phần mười, thì
đến lượt phần đó cũng sẽ bị lửa thiêu, như một cây vân hương, một cây sồi bị
đốn, chỉ còn sót lại cái gốc thôi. Gốc ấy là một mầm giống thánh."
Chương 07
Ngôn sứ I-sai-a can thiệp lần đầu
tiên
1 Thời vua A-khát, con vua
Giô-tham, cháu vua Út-di-gia-hu, trị vì Giu-đa, thì vua A-ram là Rơ-xin, và vua
Ít-ra-en là Pe-các, con ông Rơ-man-gia-hu, lên đánh Giê-ru-sa-lem, nhưng không
thể tấn công được. 2 Người ta báo tin cho nhà Ða-vít rằng:
"A-ram đã đóng quân ở Ép-ra-im." Bấy giờ lòng vua cũng như lòng dân
đều rung động như cây rừng rung rinh trước gió.
3 Ðức Chúa phán với ông I-sai-a:
"Ngươi hãy cùng với Sơ-a Gia-súp, con ngươi, ra đón vua A-khát ở cuối kênh
dẫn nước của hồ trên, phía đường dẫn tới cánh đồng Thợ Nện Dạ. 4 Ngươi
hãy nói với nhà vua: "Ngài hãy coi chừng, cứ bình tĩnh, đừng sợ, chớ sờn
lòng trước hai cái đầu que củi chỉ còn khói đó, trước cơn giận sôi sục của
Rơ-xin, vua A-ram, và của người con Rơ-man-gia-hu. 5 Vì A-ram cùng
với Ép-ra-im và người con Rơ-man-gia-hu đã mưu tính hại ngài và nói: 6 "Ta
hãy lên đánh Giu-đa, làm cho nó khiếp sợ ta, và đặt con ông Táp-ên làm vua ở
đó."
7 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này:
Chuyện đó sẽ không xảy ra, sẽ
không có,
8 vì đầu của A-ram là Ða-mát, đầu
của Ða-mát là Rơ-xin.
Sáu mươi lăm năm nữa
Ép-ra-im sẽ tan tành, không còn
là một dân.
9 Ðầu của Ép-ra-im là Sa-ma-ri,
đầu của Sa-ma-ri là con của
Rơ-man-gia-hu.
Nếu các ngươi không vững tin,
thì các ngươi sẽ không đứng vững.
Can thiệp lần thứ hai
10 Một lần nữa Ðức Chúa phán với vua
A-khát rằng:
11 "Ngươi cứ xin Ðức Chúa là
Thiên Chúa của ngươi
ban cho ngươi một dấu
dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn
cao xanh."
12 Vua A-khát trả lời:
"Tôi sẽ không xin, tôi không
dám thử thách Ðức Chúa."
13 Ông I-sai-a bèn nói: "Nghe
đây, hỡi nhà Ða-vít!
Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa
đủ sao,
mà còn muốn làm phiền cả Thiên
Chúa của tôi nữa?
14 Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban
cho các ngươi một dấu:
Này đây người thiếu nữ mang thai,
sinh hạ con trai,
và đặt tên là Em-ma-nu-en.
15 Con trẻ sẽ ăn sữa chua và mật ong
cho tới khi biết bỏ cái xấu mà
chọn cái tốt.
16 Vì trước khi con trẻ biết bỏ cái
xấu mà chọn cái tốt,
thì đất đai của hai vua mà ngài
khiếp sợ đã bị bỏ hoang.
17 Ðức Chúa sẽ đem lại cho ngài, cho
dân ngài, cho thân phụ ngài
những ngày như chưa từng có,
kể từ khi Ép-ra-im tách khỏi
Giu-đa (vua nước Át-sua)."
Báo trước cuộc xâm lăng
18 Ðến ngày đó, Ðức Chúa sẽ huýt
ruồi
ở tận cùng các kinh rạch Ai-cập,
và huýt ong ở đất Át-sua.
19 Chúng sẽ đến và tất cả sẽ đậu
trong các thung lũng sâu, các kẽ
đá
trong mọi bụi gai và mọi đồng cỏ.
20 Ngày đó, Chúa Thượng sẽ dùng dao
cạo
thuê bên kia Sông Cả - vua nước
Át-sua
mà cạo đầu và lông chân;
cả râu, Người cũng xén.
21 Ðến ngày đó,
mỗi người sẽ nuôi một con bò cái
tơ và hai con chiên;
22 vì chúng cho quá nhiều sữa, nên
người ta sẽ ăn sữa chua;
vì mọi kẻ còn lại trong xứ sẽ ăn
sữa chua và mật ong.
23 Ðến ngày đó, mọi nơi có ngàn gốc
nho đáng giá ngàn bạc,
sẽ chỉ có gai góc và bụi rậm.
24 Vào đó, người ta sẽ phải mang cung
và tên,
vì toàn xứ sẽ chỉ có gai góc và
bụi rậm.
25 Tất cả mọi núi đồi mà người ta
vẫn thường cuốc xới,
bạn sẽ không đến đó nữa, vì sợ
gai góc và bụi rậm:
đó sẽ là nơi thả bò và nơi chiên
cừu giẫm nát.
Chương 08
Ông I-sai-a sinh một con trai
1 Ðức Chúa phán với tôi: "Hãy
lấy một tấm bảng lớn và viết trên đó bằng kiểu chữ thường: Ma-he Sa-lan Khát
Bát.” 2 Tôi đã lấy những nhân chứng đáng tin làm chứng cho tôi: tư
tế U-ri-gia, ông Dơ-khác-gia-hu, con ông Giơ-ve-réc-gia-hu.
3 Tôi đã gần gũi nữ ngôn sứ. Bà thụ
thai và sinh một con trai. Ðức Chúa bảo tôi: "Hãy gọi tên nó là Ma-he
Sa-lan Khát Bát, 4 vì trước khi đứa trẻ biết gọi "cha",
gọi "mẹ", thì người ta sẽ đem tài sản của Ða-mát và chiến lợi phẩm
lấy ở Sa-ma-ri đến trước mặt vua Át-sua."
Suối Si-lô-ác và sông Êu-phơ-rát
5 Ðức Chúa lại phán với tôi lần nữa
rằng:
6 "Bởi vì dân này khinh dể
nước mương Si-lô-ác chảy lững lờ, và rụng rời vì sợ Rơ-xin và con của
Rơ-man-gia-hu, 7 cho nên, này, để hại chúng, Chúa Thượng sẽ làm cho
dâng lên, dòng nước lũ Sông Cả chảy cuồn cuộn - vua Át-sua và tất cả vinh quang
của vua ấy. Ở đâu, nó cũng sẽ dâng lên khỏi lòng sông, chỗ nào cũng tràn bờ. 8
Nó sẽ ùa vào Giu-đa, sẽ phủ, sẽ ngập, sẽ dâng lên tới cổ. Cánh nó dang ra
sẽ bao trùm khắp chiều rộng của đất ngươi, hỡi Em-ma-nu-en! 9 Liên kết lại, hỡi
các dân, các ngươi sẽ bị đập tan!
Hãy lắng tai, hỡi các miền đất xa
xăm! Hãy nai nịt sẵn sàng, các ngươi sẽ bị đập tan! Hãy nai nịt sẵn sàng, các
ngươi sẽ bị đập tan!
10 Hãy bày mưu lập kế, mưu kế đó sẽ
bị phá vỡ,
hãy ra lệnh, lệnh đó sẽ không
được thi hành,
vì Thiên Chúa ở cùng chúng
tôi."
Sứ mạng ông I-sai-a
11 Thật vậy Ðức Chúa đã phán với tôi
thế này,
khi tay Người nắm lấy tôi,
khi Người dạy tôi đừng đi theo
đường lối dân này:
12 "Các ngươi đừng gọi là âm
mưu
tất cả những gì dân này gọi là âm
mưu;
điều chúng sợ, các ngươi đừng sợ,
và đừng kinh hãi.
13 Chính Ðức Chúa các đạo binh là
Ðấng các ngươi
phải nhìn nhận là thánh.
Chính Người là Ðấng các ngươi
phải sợ,
chính Người là Ðấng các ngươi
phải kinh hãi.
14 Người sẽ là một thánh điện, và
một hòn đá làm cho vấp,
một tảng đá làm cho sẩy chân đối
với hai nhà Ít-ra-en,
một dò lưới và một cạm bẫy đối
với người dân Giê-ru-sa-lem.
15 Nhiều người sẽ vì đó mà sẩy chân,
té ngã, nát tan,
sẽ mắc bẫy và bị bắt.
16 Hãy giữ lời chứng cho kỹ, hãy niêm
phong lời giáo huấn
ở giữa các môn đệ của Ta."
17 Tôi mong đợi Ðức Chúa, Ðấng ẩn
mặt không nhìn nhà Gia-cóp,
tôi trông cậy vào Người.
18 Này tôi và những đứa con mà Ðức
Chúa đã ban cho tôi,
trong Ít-ra-en, chúng tôi là
những dấu chỉ điềm báo,
do Ðức Chúa các đạo binh, Ðấng
ngự trên núi Xi-on gửi đến.
19 Và nếu người ta nói với anh em:
"Hãy thỉnh ý các đồng bóng
và thầy bói
là những kẻ thì thào và lẩm nhẩm;
dân lại chẳng phải thỉnh ý thần
của mình,
thỉnh ý kẻ chết cho người sống
sao?",
20 thì anh em cứ trở về với lời giáo
huấn, với lời chứng!
Nếu họ không nói theo như lời
này,
thì sẽ chẳng thấy rạng đông.
Ði trong đêm tối
21 Họ lang thang trong xứ, khổ cực
và đói,
khi đói, họ sẽ nổi giận,
sẽ nguyền rủa vua và Thiên Chúa
của mình.
Họ sẽ ngước lên cao,
22 rồi nhìn xuống đất,
và kìa: ngặt nghèo và tối tăm,
bóng đêm đè nặng, và tứ phía mịt
mù.
23 Nhưng sẽ không còn bóng đêm ở nơi
đang bị ngặt nghèo. Thời đầu, Người đã hạ nhục đất Dơ-vu-lun và đất Náp-ta-li,
nhưng thời sau, Người sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông
Gio-đan, vùng đất của dân ngoại.
Chương 09
Ơn giải thoát
1 Dân đang lần bước giữa tối tăm
đã thấy một ánh sáng huy hoàng;
đám người sống trong vùng bóng
tối,
nay được ánh sáng bừng lên chiếu
rọi.
2 Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ,
đã tăng thêm nỗi vui mừng.
Họ mừng vui trước nhan Ngài
như thiên hạ mừng vui trong mùa
gặt,
như người ta hỷ hoan khi chia
nhau chiến lợi phẩm.
3 Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy
đập xuống vai họ,
và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài
đều bẻ gãy
như trong ngày chiến thắng quân
Ma-đi-an.
4 Vì mọi giầy lính nện xuống rần
rần
và mọi áo choàng đẫm máu
sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa.
5 Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu
ta,
một người con đã được ban tặng
cho ta.
Người gánh vác quyền bính trên
vai,
danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ
diệu, Thần Linh dũng mãnh,
người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà
bình.
6 Người sẽ mở rộng quyền bính, và
lập nền hoà bình vô tận
cho ngai vàng và vương quốc của
vua Ða-vít.
Người sẽ làm cho vương quốc được
kiên cố vững bền
trên nền tảng chính trực công
minh,
từ nay cho đến mãi muôn đời.
Vì yêu thương nồng nhiệt,
Ðức Chúa các đạo binh sẽ thực
hiện điều đó.
Các thử thách của vương quốc miền
Bắc
7 Chúa Thượng đã gửi một lời đến
Gia-cóp,
lời ấy rơi xuống Ít-ra-en.
8 Toàn dân, tức là Ép-ra-im và người
ở Sa-ma-ri, sẽ biết lời ấy,
lòng đầy kiêu căng ngạo mạn, họ
nói:
9 "Gạch đổ xuống, ta sẽ dùng
đá tảng xây lại,
sung bị chặt, ta sẽ lấy bá hương
thế vào."
10 Ðức Chúa khiến đối phương là
Rơ-xin
chống lại dân và kích động kẻ thù
của họ:
11 phía Ðông thì có A-ram, phía Tây
thì có Phi-li-tinh,
chúng tha hồ thôn tính Ít-ra-en.
Dầu thế, Người vẫn chưa nguôi cơn
thịnh nộ,
và tay Người vẫn còn giơ lên.
12 Thế mà dân vẫn không quay về với
Ðấng đánh phạt chúng,
và chẳng tìm kiếm Chúa các đạo
binh,
13 Ðức Chúa đã chặt đầu chặt đuôi
Ít-ra-en,
chặt cả cây chà là lẫn cây sậy,
trong cùng một ngày.
14 Kỳ mục và thân hào là cái đầu,
ngôn sứ dạy điều dối trá là cái
đuôi.
15 Những kẻ lãnh đạo dân này đã làm
cho nó lạc hướng,
và những kẻ được lãnh đạo đã phải
diệt vong.
16 Vì thế, Chúa Thượng chẳng tìm
được niềm vui
nơi bọn trai tráng,
chẳng xót thương kẻ mồ côi goá
bụa của dân,
bởi vì bọn chúng tất cả đều vô
luân và gian ác,
miệng lưỡi chúng đều nói lời ngu
xuẩn.
Dầu thế, Người vẫn chưa nguôi cơn
thịnh nộ,
và tay Người vẫn còn giơ lên.
17 Vì sự gian ác cháy như lửa, nó
thiêu huỷ bụi rậm và gai góc,
đốt cháy các bụi cây trong rừng,
làm cho khói cuồn cuộn bốc lên.
18 Bởi Ðức Chúa các đạo binh nổi
giận,
mà đất nước cháy bừng và dân nên
như mồi cho lửa,
anh em chẳng còn xót thương nhau.
19 Người ta xẻo bên phải mà vẫn còn
đói,
ngoạm bên trái mà vẫn chưa no,
mỗi người ăn thịt cánh tay mình.
20 Mơ-na-se ăn thịt Ép-ra-im, và
Ép-ra-im ăn thịt Mơ-na-se,
cả hai cùng nhau đánh Giu-đa.
Dầu thế, Người vẫn chưa nguôi cơn
thịnh nộ,
và tay Người vẫn còn giơ lên.
Chương 10
1 Khốn thay những kẻ đặt ra các
luật lệ bất công,
những kẻ viết nên các chỉ thị áp
bức,
2 để cản người yếu hèn hưởng công
lý,
tước đoạt quyền lợi người nghèo
khó trong dân tôi,
để biến bà goá thành mồi ngon cho
chúng, và bóc lột kẻ mồ côi.
3 Các người sẽ làm chi khi đến ngày
trừng phạt,
khi bão tố từ xa ập tới?
Các người sẽ chạt đến với ai mà
xin giúp đỡ?
Các người sẽ để vinh hoa phú quý
nơi đâu?
4 Chỉ còn có việc khom lưng giữa
đám tù
và ngã gục giữa những người bị
giết.
Dầu thế, Người vẫn chưa nguôi cơn
thịnh nộ,
và tay Người vẫn còn giơ lên.
Hạch tội Át-sua
5 Khốn thay Át-sua, ngọn roi Ta
dùng trong cơn thịnh nộ,
trận lôi đình của Ta là cây gậy
trong tay nó.
6 Ta sai nó đến với một dân chọc
giận Ta,
để tha hồ cướp bóc, tha hồ tước
đoạt,
để giày đạp dân ấy như bùn đất
ngoài đường.
7 Nhưng nó lại chẳng hiểu như thế,
và lòng chẳng nghĩ như vậy.
Vì nó chỉ để tâm diệt trừ và loại
bỏ thật nhiều dân tộc.
8 Quả vậy, nó nói: "Tướng lãnh
của ta chẳng toàn là vua sao?
9 Can-nô đã chẳng ra như
Các-cơ-mít,
Kha-mát như Ác-pát, Sa-ma-ri như
Ða-mát sao?
10 Như tay ta đã nắm gọn những vương
quốc của tà thần,
- tượng thần của chúng
còn nhiều hơn ở Giê-ru-sa-lem và
Sa-ma-ri,
11 như ta đã xử với Sa-ma-ri và các
tà thần của nó,
há ta lại chẳng xử như vậy
với Giê-ru-sa-lem và các thần của
nó sao?"
12 Nhưng đến khi Chúa Thượng đã hoàn
thành mọi việc Người làm trên núi Xi-on và tại Giê-ru-sa-lem, Người phán: Ta sẽ
trừng phạt hậu quả lòng tự đại của vua Át-sua và con mắt kiêu căng ngạo nghễ
của nó.
13 Vì nó đã nói: "Nhờ sức mạnh
tay ta, ta đã hành động,
và nhờ sự khôn ngoan của ta nữa,
vì ta thông minh.
Ta đã xóa bỏ ranh giới các dân
tộc
và chiến đoạt những kho tàng của
chúng.
Như một đấng anh hùng, ta đã
khuất phục dân cư.
14
như người ta lượm trứng rơi, ta
đây đã lượm cả mặt đất
mà chẳng ai vẫy cánh, há mỏ, kêu
chim chíp."
15 Cái rìu lại lên mặt với kẻ cầm
rìu mà chặt
hay cái cưa tự đại với người kéo
cưa sao?
Như thể ngọn roi kéo được kẻ giơ
nó lên,
cây gậy nhấc được kẻ không phải
là gỗ vậy!
16 Bởi thế, Ðức Chúa các đạo binh là
Chúa Thượng
sẽ làm cho những kẻ lực lưỡng của
nó gầy đi;
từ dưới cảnh vinh hoa phú quý của
nó,
một ngọn lửa sẽ bốc lên như ngọn
lửa một đám cháy.
17 Ánh sáng của Ít-ra-en sẽ thành
lửa
và Ðức Thánh của nó sẽ thành ngọn
lửa,
sẽ đốt và thiêu rụi bụi rậm và
gai góc của nó
trong cùng một ngày.
18 Vinh quang của rừng cây và vườn
quả của nó,
Người sẽ tận diệt từ ngọn tới
gốc,
nó sẽ như một con bệnh hao mòn.
19 Cây sót lại trong rừng của nó sẽ
chẳng còn bao nhiêu,
một đứa trẻ cũng kiểm kê được.
Phần sống sót của Ít-ra-en
20 Ðến ngày đó, những người Ít-ra-en
sống sót
và những kẻ trong nhà Gia-cóp
thoát nạn,
sẽ không còn dựa vào người đánh
nó nữa,
nhưng sẽ dựa vào Ðức Chúa, Ðức
Thánh của Ít-ra-en,
với lòng thành tín.
21 Phần sống sót sẽ trở về - phần
sống sót của Gia-cóp
với Thần Linh dũng mãnh.
22 Hỡi Ít-ra-en, cho dù dân ngươi có
nhiều như cát biển,
thì chỉ phần sống sót sẽ trở về:
đã có quyết định hủy diệt, công
lý sẽ tràn lan.
23 Quả thế, quyết định tận diệt này,
Chúa Thượng là Ðức Chúa các đạo
binh
sẽ thi hành trên toàn cõi đất.
Tin tưởng vào Thiên Chúa
24 Vì vậy, Ðức Chúa các đạo binh là
Chúa Thượng phán thế này:
"Hỡi dân Ta đang sống ở
Xi-on,
đừng sợ Át-sua, kẻ đánh ngươi
bằng roi
và giờ gậy đập ngươi như người
Ai-cập thuở trước;
25 vì chỉ còn chút ít, chút ít nữa
thôi,
Ta sẽ hết giận ngươi, nhưng cơn
thịnh nộ của Ta sẽ tiêu diệt nó.
26 Ðức Chúa các đạo binh sẽ quất
roi,
Người đánh nó như đã đánh
Ma-đi-an tại tảng đá Ô-rếp;
Người sẽ vung gậy trên biển cả
như đã giơ lên ở Ai-cập ngày xưa.
27 Ðến ngày đó, gánh nặng của nó sẽ
rời khỏi vai ngươi,
ách của nó sẽ rời khỏi cổ ngươi.
Cái ách sẽ bị bẻ gãy vì cảnh phì
nhiêu."
Cuộc xâm lăng
28 Nó đến đánh Ai-giát, đi qua
Mích-rôn, gửi hành lý ở Mích-mát.
29 Chúng đi qua ải: "Tại
Ghe-va, chúng ta sẽ nghĩ đêm."
Ra-ma run sợ, Ghíp-a, thành của
vua Sa-un, chạy trốn.
30 Bát Ga-lim, hãy cất tiếng kêu la!
Lai-sa, hãy lắng nghe! A-na-thốt,
hãy trả lời!
31 Mát-mê-na đi trốn, dân cư Ghê-vim
tìm nơi trú ẩn.
32 Hôm nay, nó còn dừng lại ở Nốp,
nó sẽ vẫy tay đe dọa núi của
thiếu nữ Xi-on,
đồi của Giê-ru-sa-lem.
33 Này dân Chúa Thượng là Ðức Chúa
các đạo binh
dùng uy vũ chặt lá cành:
ngọn cao sẽ bị đốn, đỉnh kiêu kỳ
bị hạ.
34 Các bụi rậm trong rừng sẽ bị chặt
bằng đồ sắt,
và núi Li-băng gụi ngã bởi một
Ðấng oai hùng.
Chương 11
Vị minh quân dòng dõi vua Ða-vít
1 Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một
nhánh nhỏ,
từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm
non.
2 Thần khí Ðức Chúa sẽ ngự trên vị
này:
thần khí khôn ngoan và minh mẫn,
thần khí mưu lược và dũng mãnh,
thần khí hiểu biết và kính sợ Ðức
Chúa.
3 Lòng kính sợ Ðức Chúa làm cho
Người hứng thú,
Người sẽ không xét xử theo dáng
vẻ bên ngoài,
cũng không phán quyết theo lời kẻ
khác nói,
4 nhưng xét xử công minh cho người
thấp cổ bé miệng,
và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo
trong xứ sở.
Lời Người nói là cây roi đánh vào
xứ sở,
hơi miệng thở ra giết chết kẻ
gian tà.
5 Ðai thắt ngang lưng là đức công
chính,
giải buộc bên sườn là đức tín
thành.
6 Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con,
beo nằm bên dê nhỏ.
Bò tơ và sư tử non được nuôi
chung với nhau,
một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.
7 Bò cái kết thân cùng gấu cái,
con của chúng nằm chung một chỗ,
sư tử cũng ăn rơm như bò.
8 Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên
hang rắn lục,
trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào
ổ rắn hổ mang.
9 Sẽ không còn ai tác hại và tàn
phá
trên khắp núi thánh của Ta,
vì sự hiểu biết Ðức Chúa sẽ tràn
ngập đất này,
cũng như nước lấp đầy lòng biển.
Những người bị phân tán trở về
10 Ðến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ
đứng lên làm cờ hiệu cho các dân.
Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người,
và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh
quang.
11 Ðến ngày đó, Chúa Thượng sẽ lại
giơ tay ra một lần nữa,
để chuộc lấy phần sống sót của
dân Người,
phần sống sót ở Át-sua và Ai-cập,
ở Pát-rốt và Cút,
ở Ê-lam và Sin-a, ở Kha-mát và
các hải đảo.
12 Người sẽ phất cờ hiệu cho các dân
tộc,
và từ bốn phương thiên hạ,
sẽ quy tụ những người Ít-ra-en
biệt xứ,
sẽ tập họp những người Giu-đa bị
phân tán.
13 Lòng ghen tị của Ép-ra-im sẽ
không còn,
và những kẻ thù nghịch của Giu-đa
sẽ bị tiêu diệt.
Ép-ra-im sẽ không còn ghen tị
Giu-đa,
và Giu-đa sẽ không còn thù nghịch
với Ép-ra-im.
14 Nhưng họ sẽ bổ xuống vai người
Phi-li-tinh ở phía Tây,
và cùng nhau cướp phá những người
ở Phương Ðông.
Ê-đôm và Mô-áp sẽ ở dưới bàn tay
họ,
con cái Am-mon sẽ phục tùng họ.
15 Ðức Chúa sẽ làm cho vịnh của biển
Ai-cập ra khô cạn.
Người vung tay trên sông Cả;
và do hơi thở nóng hừng hực của
Người,
Người chẻ nó ra làm bảy nhánh,
khiến thiên hạ có thể đi dép băng
qua.
16 Và sẽ có một con lộ cho phần sống
sót của dân Người,
phần sống sót ở Át-sua,
như xưa đã có một con lộ cho
Ít-ra-en,
ngày họ từ đất Ai-cập đi lên.
Chương 12
Thánh vịnh
1 Ngày đó, bạn sẽ nói: Lạy Ðức
Chúa, con dâng lời cảm tạ:
Ngài đã từng thịnh nộ với con,
nhưng giờ đây cơn giận đã nguôi
rồi, và Ngài lại ban niềm an ủi.
2 Ðây chính là Thiên Chúa cứu độ
tôi,
tôi tin tưởng và không còn sợ
hãi,
bởi vì Ðức Chúa là sức mạnh tôi,
là Ðấng tôi ca ngợi, chính Người
cứu độ tôi.
3 Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận
nguồn ơn cứu độ.
4 Các bạn sẽ nói lên trong ngày đó:
Hãy tạ ơn Ðức Chúa, cầu khẩn danh
Người,
vĩ nghiệp của Người, loan báo
giữa muôn dân,
và nhắc nhở: danh Người siêu
việt.
5 Ðàn ca lên mừng Ðức Chúa,
vì Người đã thực hiện bao kỳ
công;
điều đó, phải cho toàn cõi đất
được tường.
6 Dân Xi-on, hãy reo hò mừng rỡ,
vì giữa ngươi, Ðức Thánh của
Ít-ra-en quả thật là vĩ đại!
Chương 13
3. Sấm Ngôn Về Các Dân Ngoại
Về Ba-by-lon (Ba-ben)
1 Lời sấm về Ba-by-lon. Ðiều ông
I-sai-a, con ông A-mốc, đã thấy.
2 Trên một ngọn núi trọc, hãy phất
hiệu kỳ,
hãy lên tiếng nói với chúng,
hãy vẫy tay gọi chúng đến cửa nhà
quyền thế.
3 Chính Ta đã truyền cho đạo binh
thánh của Ta, Ta cũng đã triệu tập các dũng sĩ,
những kẻ chiến thắng kiêu hùng
của Ta,
để chúng cho thấy cơn thịnh nộ
của Ta.
4 Trên núi non có tiếng ồn ào nhộn
nhịp
như tiếng một đoàn dân đông đảo.
Có tiếng náo động xôn xao của các
vương quốc,
của các dân tộc họp lại cùng
nhau:
Ðức Chúa các đạo binh duyệt binh
ra trận.
5 Từ miền đất xa xăm, từ chân trời,
Ðức Chúa và những công cụ thực
hiện cơn lôi đình của Người,
đến phá tan toàn cõi đất.
6 Hãy rên siết, vì ngày của Ðức
Chúa đã gần kề;
ngày đó đến như cuộc tàn phá của
Ðấng Toàn Năng.
7 Vì thế ai nấy đều rụng rời tay
chân, đều sờn lòng nản chí.
8 Chúng kinh hoàng, lên cơn đau,
quằn quại,
đau thắt như sản phụ.
Chúng sửng sốt nhìn nhau, mặt đỏ
bừng như lửa.
9 Kìa, ngày của Ðức Chúa đến, ngày
khắc nghiệt,
ngày của phẫn nộ và lôi đình,
ngày làm cho đất tan hoang
và tiêu diệt phường tội lỗi,
không còn một tên nào ở đó.
10 Quả vậy, tinh tú bầu trời và các
chòm sao
sẽ không chiếu sáng nữa,
mặt trời vừa mọc lên đã tối sầm,
mặt trăng sẽ không còn toả sáng.
11 Ta sẽ phạt thế giới vì sự gian
tà, phạt kẻ dữ vì tội lỗi của chúng.
Ta sẽ chấm dứt sự kiêu căng của
phường ngạo mạn,
vẻ tự đắc của quân cường bạo, Ta
sẽ hạ xuống.
12 Ta sẽ làm cho phàm nhân hiếm hơn
vàng ròng,
cho con người hiếm hơn vàng
Ô-phia.
13 Vì thế, Ta sẽ làm cho trời chấn
động, đất chuyển rung dời chỗ
trong cơn giận của Ðức Chúa các
đạo binh,
vào ngày Người nổi cơn lôi đình.
14 Bấy giờ, như sơn dương bị săn
đuổi,
như đàn chiên không người quy tụ,
ai nấy sẽ quay về dân mình, ai
nấy sẽ trốn về đất mình.
15 Mọi kẻ người ta tìm thấy sẽ bị
đâm,
mọi người bị bắt đều ngã gục dưới
lưỡi gươm.
16 Con thơ của chúng sẽ bị nghiền
nát ngay trước mắt,
nhà bị cướp phá, vợ bị hãm hiếp.
17 Này Ta cho quân Mê-đi nổi lên
đánh chúng.
Bạc, quân ấy chẳng coi ra gì,
vàng, cũng chẳng ham thích.
18 Quân ấy sẽ dùng cung nỏ nghiền
nát các thiếu niên,
không thương xót con cái của lòng
dạ người ta,
không nhìn những đứa trẻ mà
thương hại.
19 Ba-by-lon, hòn ngọc các vương
quốc,
niềm tự hào kiêu hãnh của người
Can-đê,
sẽ bị Thiên Chúa phá đổ như
Xơ-đôm và Gô-mô-ra.
20 Thành ấy sẽ mãi mãi không có
người ở,
từ đời này qua đời khác sẽ chẳng
ai cư ngụ.
Tại đó, người Ả-rập sẽ không cắm
lều,
người chăn chiên sẽ không cho súc
vật nằm nghỉ.
21 Tại đó, dã thú đến nằm nghỉ, cú
vọ ở đầy nhà, đà điểu tới trú ngụ,
và bầy dê ma quái nhảy nhót tung
tăng,
22 linh cẩu gọi nhau trong các cung
điện,
chó rừng trong các lâu đài giải
trí của thành.
Thời của nó đã gần đến, ngày của
nó sẽ chẳng kéo dài.
Chương 14
Chấm dứt thời lưu đày
1 Thật vậy, Ðức Chúa sẽ chạnh
thương Gia-cóp và sẽ lại chọn Ít-ra-en, Người sẽ cho họ định cư trên đất của
họ. Người ngoại bang sẽ gắn bó với họ và sẽ kết nghĩa với nhà Gia-cóp. 2 Các
dân sẽ đón nhận và dẫn đưa họ về quê cha đất tổ. Trên đất của Ðức Chúa, nhà
Ít-ra-en sẽ làm chủ các dân ấy và bắt chúng làm tôi trai tớ gái. Họ sẽ bắt
những người đã bắt họ, sẽ thống trị những kẻ đã hà hiếp họ trước kia.
Cái chết của vua Ba-by-lon
(Ba-ben)
3 Tới ngày Ðức Chúa cho ngươi được
an cư lạc nghiệp, hết phải khổ đau, thoát cảnh ba đào và không còn phải gánh
chịu cảnh lao động nặng nhọc nữa, 4 lúc đó ngươi sẽ cất lên lời ví
von châm chọc vua Ba-by-lon như sau:
Chẳng lẽ kẻ hà hiếp đã tàn đời,
trò khủng bố của y đã chấm dứt
rồi sao?
5 Ðức Chúa đã bẻ gãy ngọn roi của
phường gian ác
và cây gậy của những kẻ thống
trị,
6 kẻ nổi lôi đình đánh đập các dân,
đánh đập không ngừng,
kẻ nổi cơn thịnh nộ thống trị các
nước,
rượt đuổi hoài không chút xót
thương.
7 Toàn cõi đất nghỉ ngơi yên hàn,
người người reo vui hớn hở.
8 Cả những cây trắc, những cây bá
hương núi Li-băng
cũng hoan hỷ vì ngươi: "Từ
khi ngươi nằm xuống,
thợ xẻ cây không còn lên đốn
chúng tôi! "
9 Vì ngươi, âm phủ dưới vực sâu
cũng rung động
để ra đón ngươi vào:
vì ngươi, nó đánh thức những
người đã chết,
tất cả những kẻ quyền uy trên
đời,
và bắt mọi vua các dân nước đứng
dậy khỏi ngai vàng.
10 Tất cả những người ấy đều lên
tiếng nói với ngươi:
"Như chúng tôi, cả ngài nữa,
ngài cũng yếu nhược,
ngài cũng nên giống như chúng tôi
rồi!"
11 Vẻ oai hùng của ngươi đã nhào
xuống âm phủ
cùng với tiếng hạc cầm của ngươi:
nệm của ngươi là giòi, mền của
ngươi là bọ.
12 Hỡi tinh tú rạng ngời, con của
bình minh,
chẳng lẽ ngươi đã từ trời sa
xuống rồi sao?
Này, kẻ chế ngự các dân tộc,
ngươi đã bị hạ xuống đất rồi ư?
13 Chính ngươi đã tự nhủ: "Ta
sẽ lên trời:
ta sẽ dựng ngai vàng của ta trên
cả các vì sao của Thiên Chúa;
ta sẽ ngự trên núi Hội Ngộ, chốn
bồng lai cực bắc.
14 Ta sẽ vượt ngàn mây thẳm, sẽ nên
như Ðấng Tối Cao."
15 Nhưng ngươi lại phải nhào xuống
âm phủ,
xuống tận đáy vực sâu.
16 Những kẻ thấy ngươi đều quan sát
kỹ;
họ nhìn thẳng vào ngươi:
"Phải chăng đây là con người
đã từng làm chuyển rung cõi đất,
từng làm cho các nước đảo điên,
17 từng biến thế giới nên như sa
mạc,
làm cho các thành thị tan hoang,
không mở cửa ngục cho kẻ bị giam
cầm?
18 Mọi vua chúa các dân tộc
đều an nghỉ trong vinh quang, ai
có mồ người nấy.
19 Còn ngươi, ngươi đã bị liệng ra
khỏi mồ,
như một mầm non ghê tởm,
nằm trong đám người chết vì gươm
đâm,
trên những phiến đá dưới vực
thẳm,
tựa thây ma bị người ta giày xéo.
20 Ngươi sẽ chẳng được sum họp với
chúng nơi phần mộ,
vì ngươi đã tàn phá xứ sở và giết
hại dân ngươi.
Dòng dõi phường gian ác muôn đời
sẽ chẳng còn ai nhắc nhở.
21 Vì tội lỗi cha ông, hãy chuẩn bị
tàn sát con cái chúng,
kẻo chúng đứng lên chiếm hữu đất
đai
và xây dựng phố phường trên khắp
mặt đất."
22 Ta sẽ đứng lên chống lại chúng,
sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo binh; Ta sẽ loại trừ khỏi Ba-by-lon tên tuổi và
những người sống sót, con cái và cháu chắt, sấm ngôn của Ðức Chúa. 23 Ta
sẽ biến đất ấy thành hang ổ của loài nhím, thành ao tù, và sẽ dùng cây chổi huỷ
diệt mà quét sạch đất ấy. Sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo binh.
Hạch tội Át-sua
24 Ðức Chúa các đạo binh đã thề
rằng:
"Quả thật, Ta định làm sao,
sẽ nên như thế;
Ta quyết thế nào, sẽ thành như
vậy.
25 Ta sẽ đập tan Át-sua trên đất của
Ta,
và trên các núi đồi của Ta, Ta sẽ
chà đạp nó;
Ta sẽ gỡ ách của nó khỏi cổ dân
Ta
và cất gánh nặng của nó khỏi vai
chúng."
26 Ðó là quyết định ban hành cho
toàn cõi đất;
đó là cánh tay giơ ra trừng trị
hết mọi dân.
27 Vì khi Ðức Chúa các đạo binh đã
quyết định, ai có thể cản ngăn,
cánh tay Người đã giơ ra, ai có
thể làm cho rút lại?
Hạch tội người Phi-li-tinh
28 Năm vua A-khát băng hà, có lời
sấm sau đây:
29 Hỡi toàn cõi Phi-li-tinh, chớ vội
vui mừng,
vì cây gậy đánh ngươi đã bị bẻ
gãy;
bởi chưng từ dòng dõi rắn sẽ vọt
ra một con rắn hổ mang,
và con của nó sẽ là một con rồng
bay.
30 Những kẻ hèn mọn nhất sẽ được
nuôi dưỡng
và những kẻ nghèo khó sẽ được
nghỉ ngơi an toàn.
Còn cội rễ ngươi, Ta sẽ làm cho
chết đói,
và giết hại phần sống sót của
ngươi.
31 Hãy rên siết, hỡi cổng; hãy kêu
lên, hỡi thành!
Toàn cõi Phi-li-tinh, hãy rụng
rời hốt hoảng!
Vì từ phương Bắc khói đen kéo
đến,
và chẳng tên địch nào rời bỏ hàng
ngũ mình.
32 Trả lời sao đây cho sứ giả của
dân ấy?
Hãy trả lời rằng: Ðức Chúa đã
củng cố Xi-on,
và kẻ nghèo khó trong dân Người
vào đó náu ẩn.
Chương 15
Hạch tội Mô-áp
1 Lời sấm hạch tội Mô-áp.
Phải, giữa đêm khuya, thành A của
Mô-áp
bị tàn phá và phải tiêu vong.
Phải, giữa đêm khuya, thành Kia
Mô-áp
bị tàn phá và phải tiêu vong.
2 Dân Ði-vôn lên những nơi cao mà
khóc lóc;
Mô-áp rên siết tại Nơ-vô và
Mê-đơ-va. Người nào cũng để đầu trọc và râu cạo nhẵn.
3 Ngoài phố phường, người ta mặc áo
vải thô;
trên mái nhà và tại các quảng
trường,
mọi người đều rên siết và khóc
lóc thảm thương.
4 Khét-bôn và En-a-lê kêu la, tiếng
chúng thấu đến tận Gia-hát.
Vì thế, lòng dạ Mô-áp run rẩy,
hồn Mô-áp cũng run rẩy cho số
phận mình.
5 Lòng tôi kêu gào bênh vực Mô-áp;
những người dân tị nạn đã đến tận
Xô-a và Éc-lát Sơ-li-si-gia.
Thật vậy, tại dốc Lu-khít, họ vừa
trèo vừa khóc;
quả thế, trên đường
Khô-rô-na-gim,
họ thốt lên những tiếng kêu than
thảm bại.
6 Thật vậy, dòng nước Nim-rim thành
nơi hoang tàn;
thật vậy, cỏ úa khô, cây chết
héo, màu xanh cũng chẳng còn.
7 Vì thế, những gì đã kiếm được hay
để dành,
họ đều phải chuyển qua bên kia
Thác Liễu.
8 Thật vậy, tiếng kêu la vọng khắp
lãnh thổ Mô-áp,
tiếng rên siết vang đến tận
Éc-la-gim,
tiếng rên siết thấu đến tận Bơ-e
Ê-lim.
9 Thật vậy, dòng nước Ði-môn đầy
những máu!
Ta sẽ giáng thêm cho Ði-môn những
tai hoạ khác nữa
là cho sư tử đuổi theo những
người Mô-áp thoát nạn
và những kẻ còn sót lại trên đất.
Chương 16
Lời thỉnh cầu của người Mô-áp
1 Hãy gửi con chiên của người cầm đầu
xứ sở
từ Xe-la qua sa mạc đến núi của
thiếu nữ Xi-on.
2 Bấy giờ, tại khúc cạn Ác-nôn,
thiếu nữ Mô-áp sẽ chạy trốn như
đàn chim vỡ tổ.
3 Chúng kêu cầu: "Xin cho ý
kiến, xin lấy quyết định:
giữa ban trưa, xin toả bóng như
màn đêm bao phủ,
xin che giấu những kẻ lưu đày,
và đừng tố giác những người chạy
trốn.
4 Xin cho những người Mô-áp bị xua
đuổi
được trú ngụ bên quý quốc,
xin nên chỗ cho họ ẩn thân tránh
người tàn phá,
vì khi kẻ áp bức lìa đời, lúc cơn
tàn phá chấm dứt
và kẻ giày xéo xứ sở biến đi,
5 thì ngai báu sẽ được vững bền nhờ
lòng nhân nghĩa.
Trong lều vua Ða-vít,
một vị thẩm phán sẽ ngự trên ngai
nhờ đức tín thành.
Vị ấy lo tìm kiếm điều chính
trực,
và mau mắn thực hiện lẽ công
minh.
6 Chúng ta đã biết tính kiêu căng
của Mô-áp,
một dân rất kiêu căng.
Thói ngạo mạn, tính kiêu căng, vẻ
điên khùng
cùng những lời ngu ngốc của nó,
chúng ta đều biết cả.
Mô-áp than vãn
7 Vì thế, Mô-áp rên siết về chính
thân phận mình,
toàn dân cùng rên siết, ai nấy
đều phủ phục khóc than,
tiếc những cái bánh nho ở Kia Kha-re-xét,
8 vì những vườn nho Khét-bôn,
cũng như cây nho Xíp-ma đã héo
tàn.
Những chùm nho quý của nó
đã làm cho những người thống trị
các dân phải ngã gục.
Cây nho ấy từng vươn tới Gia-de,
lan mãi vào sa mạc;
nhánh của nó toả ra vượt qua biển
cả.
9 Vì thế, cùng với tiếng dân Gia-de
nức nở,
ta khóc thương cây nho Xíp-ma.
Vì ngươi, nước mắt ta chan hoà,
hỡi Khét-bôn và En-a-lê,
vào thời ngươi hái nho và gặt
lúa, tiếng hát câu hò đâu còn nữa!
10 Niềm hân hoan vui sướng đã bị cất
đi khỏi vườn cây;
trong vườn nho không còn tiếng
reo mừng
chẳng nghe tiếng hò la;
không còn ai đạp nho trong các
bồn;
câu hò tiếng hát cũng im bặt.
11 Bởi thế, lòng ta như cây đàn rung
lên vì Mô-áp;
và vì Kia Khe-rét, ruột gan ta
bồi hồi.
12 Bấy giờ dù Mô-áp có ra mặt, có
vất vả lên tận nơi cao,
có vào Thánh Ðiện để nguyện cầu,
cũng chỉ luống công thôi.
13 Ðó là lời Ðức Chúa phán từ xưa về
Mô-áp. 14 Và giờ đây Ðức Chúa lại phán: Theo cách tính của người làm
thuê thì còn đúng ba năm nữa, vinh quang của Mô-áp sẽ tàn tạ; dù có đông vô số,
dân nó cũng sẽ chỉ còn một số ít, rất ít, hầu như không đáng kể.
Chương 17
Hạch tội Ða-mát và Ít-ra-en
1 Lời sấm hạch tội Ða-mát.
Này đây Ða-mát bị gạch sổ, không
còn phải là thành,
mà chỉ là hoang tàn đổ nát.
2 Các thành miền A-rô-e bị bỏ hoang
dành cho các đàn vật;
chúng đến nằm nghỉ mà không sợ
hãi chi.
3 Ép-ra-im không còn tuyến phòng
thủ,
Ða-mát mất vương quyền, số người
của A-ram còn sót lại
cũng sẽ giống như vinh quang của
con cái Ít-ra-en.
Sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo
binh.
4 Trong ngày đó, vinh quang của
Gia-cóp sẽ suy giảm,
thân xác béo mập của nó sẽ gầy
đi.
5 Ví như khi người ta gặt lúa ngày
mùa
và đưa tay cắt những bông lúa,
như khi người ta mót lúa ở thung
lũng người Ra-pha,
6 thì chỉ thấy mấy bông còn sót
lại;
hoặc như khi người ta hái ô-liu,
thì chỉ còn vài ba trái chín trên
ngọn
và bốn năm trái nơi đầu cành.
Ðó là sấm ngôn của Ðức Chúa,
Thiên Chúa của Ít-ra-en.
7 Ngày ấy, con người sẽ ngước trông
lên Ðấng làm ra họ, và đưa mắt nhìn về Ðức Thánh của Ít-ra-en. 8 Họ
sẽ không còn ngước trông lên những bàn thờ tay họ làm ra, không nhìn về những
cột thờ và hương án ngón tay họ làm thành.
9 Ngày ấy, các thành thị Ít-ra-en
trú ẩn sẽ bị bỏ hoang.
như đã từng là nơi rừng hoang
đồng vắng
trước mặt con cái Ít-ra-en.
Ðó sẽ là cảnh hoang tàn đổ nát.
10 Vì ngươi đã quên Thiên Chúa cứu
độ ngươi;
núi đá ngươi trú ẩn, ngươi không
còn nhớ nữa.
Vì vậy ngươi trồng những vườn cây
vui thú, ngươi ươm những mầm giống ngoại bang.
11 Ngày ngươi trồng, ngươi trông
thấy chúng lớn;
ngay buổi sáng, hạt giống ngươi
gieo đã trổ bông.
Nhưng trong ngày thu hoạch, chẳng
gặt hái được gì,
và tai hoạ thật vô phương cứu
chữa.
12 Nguy khốn thay, tiếng gầm thét
của đám dân đông đảo:
chúng gầm vang như biển cả thét
gào!
13 Chúng náo động như sóng nước ồn
ào.
Ðức Chúa doạ, chúng liền xa chạy
cao bay;
chúng bị rượt đuổi như vỏ trấu
trên núi gặp cơn gió,
như cơn lốc trong trận cuồng
phong.
14 Lúc chiều tà, thật là kinh khủng;
trước rạng đông, chẳng còn lại
chút gì.
Ðó là phần của những kẻ cướp phá,
là số mạng dành cho kẻ bóc lột
chúng ta.
Chương 18
Hạch tội dân Cút
1 Khốn thay xứ sở của loài côn
trùng vo ve
ở mãi bên kia sông ngòi xứ Cút,
2 ngươi phái các sứ giả vượt biển
khơi
trong những chiếc thuyền nan bồng
bềnh trên mặt nước.
Hãy lên đường, hỡi những sứ giả
nhanh nhẹn,
tới một dân tộc có thân hình to
lớn và nước da bóng nhẫy,
đến với một dân xa gần ai cũng
sợ,
đến một dân tộc hùng cường nắm
quyền bá chủ,
một miền đất sông ngòi chảy dọc
ngang.
3 Hỡi tất cả dân cư trên thế giới,
hỡi những ai cư ngụ trên địa cầu,
hãy đưa mắt nhìn, khi thấy cờ
hiệu phất trên núi;
hãy lắng tai nghe, khi vẳng tiếng
tù và.
4 Vì Ðức Chúa phán cùng tôi:
Từ nơi Ta đang ngự, Ta sẽ ở yên
và quan sát,
như ánh nắng chói chang lúc mặt
trời chính ngọ,
như màn sương lan toả trong ánh
nắng ngày mùa.
5 Vì trước kỳ thu hoạch, khi hết
mùa hoa nở
và khi hoa thành chùm nho chín,
bấy giờ người ta lấy dao quắm
chặt cành, rồi loại nhánh, tỉa cây.
6 Tất cả đều bỏ mặc cho mãnh cầm
trên núi và thú vật ngoài đồng;
mùa hè mãnh cầm đến ở, mùa đông
mọi thú vật đến trú.
7 Bấy giờ, lễ phẩm kính dâng Ðức
Chúa các đạo binh sẽ do một dân có thân hình to lớn và nước da bóng nhẫy, một
dân xa gần ai cũng sợ, một dân hùng cường nắm quyền bá chủ, một miền đất sông
ngòi chảy dọc ngang, đem đến nơi danh Ðức Chúa các đạo binh ngự, tức là núi
Xi-on.
Chương 19
Hạch tội Ai-cập
1 Lời sấm hạch tội Ai-cập.
Này, Ðức Chúa ngự trên đám mây
bay, Người đến Ai-cập.
Các tà thần Ai-cập rúng động
trước nhan Người,
và tự đáy lòng Ai-cập rụng rời
kinh khiếp.
2 Ta sẽ kích động người Ai-cập
chống lại nhau;
người người gây chiến: anh với
em, bạn với bạn,
thành với thành, nước với nước.
3 Ai-cập sẽ mất hết nhuệ khí trong
lòng.
Ta sẽ làm rối loạn mưu đồ của nó.
Chúng sẽ thỉnh ý các tà thần,
những tay phù thuỷ,
những kẻ lên đồng và những tên
bói toán.
4 Ta sẽ nộp Ai-cập vào tay các bạo
chúa;
chúng sẽ bị một vua độc ác cai
trị.
Sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo
binh là Chúa Thượng.
5 Biển sẽ không còn nước, sông cũng
cạn khô;
6 kênh rạch xông mùi hôi thối.
Nước sông Ai-cập xuống thấp, lòng
sông cạn khô,
cây sậy, cây lau rũ xuống.
7 Cỏ xanh dọc đôi bờ, ở cửa sông
Nin,
tất cả những gì mọc bên bờ sông
đều khô cháy, bị cuốn lôi đi,
không còn nữa.
8 Ngư phủ khóc than, mọi kẻ thả câu
ở sông Nin rên rỉ,
những người quăng chài trên mặt
nước đều ủ rũ.
9 Người dệt vải gai thất vọng,
thợ chải len, thợ dệt vải xanh
xao võ vàng.
10 Dân thợ dệt trong xứ lả đi,
mọi kẻ làm thuê tâm hồn sầu thảm.
11 Các thủ lãnh Xô-an ngu si đần
độn,
những mưu sĩ khôn ngoan nhất của
Pha-ra-ô
bày mưu kế điên rồ.
Sao các ngươi lại nói với
Pha-ra-ô:
"Tôi là con của bậc hiền
nhân, thuộc dòng dõi tiên đế"?
12 Bậc hiền nhân của ngươi nay đâu
rồi?
Ước chi chúng cứ thông báo cho
ngươi
và ước chi mọi người được biết
điều Ðức Chúa các đạo binh đã
quyết định về Ai-cập!
13 Các thủ lãnh Xô-an đã ra ngớ
ngẩn,
các thủ lãnh Nốp đã sai lầm;
những người đứng đầu các chi tộc
của chúng
đã làm cho Ai-cập ngả nghiêng.
14 Ðức Chúa đã đổ tràn xuống giữa
chúng
một thần khí hoang mang,
khiến chúng làm cho Ai-cập ngả
nghiêng
trong mọi công trình của nó,
giống như chàng say rượu ngả
nghiêng đang nôn mửa.
15 Chẳng còn ai làm gì nữa bên
Ai-cập,
đầu cũng như đuôi, cây chà là
cũng như cây sậy.
Ai-cập hối cải
16 Ngày ấy, Ai-cập sẽ giống như đàn
bà run rẩy sợ hãi, khi thấy tay Ðức Chúa các đạo binh vung lên, giơ ra đánh nó.
17 Ðất Giu-đa sẽ trở thành nỗi kinh hoàng cho Ai-cập. Mỗi lần nghe
nhắc tới Giu-đa là nó run sợ, vì kế hoạch mà Ðức Chúa các đạo binh đã quyết
định để hại nó. 18 Ngày ấy, trong xứ Ai-cập sẽ có năm thành nói
tiếng Ca-na-an và thề ước với Ðức Chúa các đạo binh; một trong năm thành ấy sẽ
được gọi là Thành Mặt Trời. 19 Ngày ấy, sẽ có một bàn thờ kính Ðức
Chúa ngay giữa đất Ai-cập, và một trụ đá kính Ðức Chúa ở gần biên giới. 20
Ðối với Ðức Chúa các đạo binh, tại đất Ai-cập, bàn thờ và trụ đá đó sẽ là
dấu hiệu và bằng chứng nói lên rằng: mỗi khi gặp kẻ áp bức mà họ kêu lên Ðức
Chúa, thì Người sẽ phái một Ðấng cứu tinh đến bảo vệ và giải thoát họ. 21 Ðức
Chúa sẽ làm cho người Ai-cập được nhận biết Người, và ngày ấy người Ai-cập sẽ
nhận biết Ðức Chúa. Họ sẽ dâng hy lễ và lễ phẩm mà phụng thờ Người; họ sẽ khấn
hứa với Ðức Chúa và giữ trọn những lời khấn ấy. 22 Nếu Ðức Chúa có
đánh phạt Ai-cập, thì Người đánh rồi lại chữa lành, và họ sẽ trở về cùng Ðức
Chúa; Người sẽ nhận lời họ cầu xin và chữa họ lành. 23 Ngày ấy, sẽ
có một con đường đi từ Ai-cập đến Át-sua; Át-sua sẽ sang Ai-cập và Ai-cập sang
Át-sua. Ai-cập sẽ cùng với Át-sua phụng thờ Ðức Chúa. 24 Ngày ấy,
Ít-ra-en sẽ cùng với Ai-cập và Át-sua làm thành bộ ba. Ðó là phúc lành ngay
giữa cõi đất, 25 mà Ðức Chúa các đạo binh sẽ ban cho khi Người phán:
"Ta giáng phúc cho Ai-cập, dân của Ta, cho Át-sua, công trình tay Ta làm
ra, và cho Ít-ra-en, cơ nghiệp của Ta."
Chương 20
Hạ thành Át-đốt
1 Vào năm vua Át-sua là Xác-gôn
biệt phái tướng tổng tư lệnh đến giao chiến và hạ thành Át-đốt, 2 thì
chính lúc ấy, Ðức Chúa phán qua trung gian của ông I-sai-a, con ông A-mốc,
rằng: "Hãy bỏ miếng vải thô ngang thắt lưng ngươi đi, và cởi dép khỏi
chân." Theo lời dạy, ông đã ở trần và đi chân không. 3 Ðức Chúa
lại phán: "Cũng như tôi tớ Ta là I-sai-a suốt ba năm trường đã ở trần và
đi chân không để nên dấu chỉ điềm báo cho người Ai-cập và người Cút thế nào, 4
thì cũng vậy, vua Át-sua sẽ dẫn người Ai-cập đi tù và người Cút đi đày,
trẻ cũng như già, mình trần, chân không, mông hở. Thật là nhục nhã cho người
Ai-cập. 5 Những ai xem Cút như mối hy vọng và Ai-cập như niềm tự hào
sẽ phải sợ hãi và xấu hổ. 6 Ngày ấy, dân cư miền duyên hải này sẽ
nói: "Ðâu rồi niềm hy vọng của chúng ta, nơi chúng ta đến ẩn náu để được
giúp đỡ hầu thoát khỏi tay vua Át-sua? Phần chúng ta, trốn ở đâu bây giờ?"
Chương 21
Ba-by-lon (Ba-ben) sụp đổ
1 Lời sấm về sa mạc vùng biển.
Như cuồng phong thổi qua Ne-ghép,
một người xông đến từ sa mạc, từ
giải đất kinh hoàng
2 - ghê sợ biết bao, thị kiến tôi đang
gặp -:
đó là tên phản bội đang phản bội,
là tay tàn phá đang tàn phá.
"Ê-lam, tiến lên, Mê-đi,
siết chặt vòng vây!"
Ta sẽ làm im bặt mọi tiếng khóc.
3 Vì thế, tâm can tôi lo lắng bồi
hồi,
tôi phải đớn đau quằn quại như
người phụ nữ lúc sinh con,
tôi rụng rời không còn nghe được
nữa,
tôi kinh hãi chẳng còn thấy được
gì.
4 Lòng tôi dao động, nỗi kinh hãi
khiến tôi bàng hoàng.
Cảnh chiều tà xưa tôi ưa thích
nay trở thành mối lo sợ cho tôi.
5 Người ta dọn bữa tiệc, trải khăn
trải thảm, rồi bắt đầu ăn uống.
Hỡi các tướng lãnh, hãy đứng lên!
Hãy thoa dầu vào khiên, vào
thuẫn!
6 Quả thật, Chúa Thượng phán với
tôi thế này:
"Hãy đi đặt người đứng canh,
thấy gì thì nó phải báo.
7 Khi thấy một cỗ xe song mã, một
người cỡi lừa hay cỡi lạc đà,
thì nó phải quan sát cho kỹ, quan
sát cho thật kỹ."
8 Người lính canh hô lớn:
"Lạy Chúa Thượng, suốt ngày
con đứng ở chòi canh,
đêm đêm con trực nơi vọng gác.
9 Và kìa, con thấy một người đang
tới trên cỗ xe song mã."
Người này lên tiếng:
"Ba-by-lon đã sụp đổ, sụp đổ rồi!
Tất cả các tượng thần của nó đều
rơi xuống đất vỡ tan tành."
10 Hỡi dân tôi là những kẻ bị chà
đạp
như lúa bị người ta đập trên sân,
tôi xin báo lại cho các người
điều tôi đã được nghe nói,
do Ðức Chúa các đạo binh, Thiên
Chúa của Ít-ra-en.
Lời sấm về Ê-đôm
11 Lời sấm về Ðu-ma.
Từ Xê-ia, người ta gọi tôi:
"Này người canh gác, đêm đến
đâu rồi?
Này người canh gác, đêm đến đâu
rồi?"
12 Người canh gác trả lời:
"Sáng đến rồi và cả đêm cũng đến!
Còn muốn hỏi gì, cứ việc hỏi.
Nhưng hãy trở lại đây, hãy đến
đây!"
Hạch tội người Ả-rập
13 Lời sấm về Ả-rập.
Các ngươi hãy nghỉ đêm trong rừng
Ả-rập,
hỡi đoàn lữ hành xứ Ðơ-đan!
14 Hãy đi gặp người đang khát và
mang nước cho nó,
hỡi dân cư xứ Tê-ma,
hãy vượt lên trước người chạy
trốn và mang bánh cho nó,
15 bởi vì chúng chạy trốn để thoát
khỏi lưỡi gươm,
lưỡi gươm tuốt trần,
thoát cung tên giương sẵn, và
cuộc chiến cam go.
16 Chúa Thượng phán với tôi như sau:
17 Sẽ còn rất ít kẻ sót lại trong số
những dũng sĩ bắn cung tên của con cái Kê-đa. Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, đã
phán như vậy.
Chương 22
Chống những trò vui nhộn tại
Giê-ru-sa-lem
1 Lời sấm về thung lũng Thị Kiến:
Chuyện gì mà leo hết cả lên sân
thượng vậy,
2 hỡi thành phố đầy tiếng ồn ào
huyên náo,
hỡi đô thị vui cười ầm ĩ?
Trong các ngươi, những người đã
bị đâm
đâu phải bị gươm đâm, đâu có chết
vì giao chiến?
3 Các thủ lãnh của ngươi đều vứt bỏ
cung tên mà tháo chạy
và bị bắt hết làm tù binh.
Người của ngươi bị phát hiện thì
đều bị bắt, dù đã trốn đi xa.
4 Vì vậy tôi đã nói: "Hãy
ngoảnh mặt đi, đừng nhìn tôi nữa,
để cho tôi khóc nỗi đắng cay.
Ðừng cố tìm cách ủi an tôi
trước cảnh điêu tàn con gái dân
tôi phải chịu."
5 Quả thế, đó là ngày Ðức Chúa các
đạo binh là Chúa Thượng
khiến cho thung lũng Thị Kiến đâm
rối loạn,
người người hốt hoảng giày xéo
lên nhau.
Tường thành sụp đổ, tiếng kêu cứu
vang lên đỉnh núi.
6 Ê-lam khoác bao tên, dàn hàng
chiến xa, binh mã,
còn Kia thì khiên thuẫn sẵn sàng.
7 Và bấy giờ, chiến xa chen chúc
trong những thung lũng đẹp nhất
của ngươi,
còn kỵ binh thì túc trực trước
cổng thành.
8 Xứ Giu-đa bỏ ngỏ.
Ngày ấy các ngươi đã nhìn vào
binh khí trong Cung Rừng,
9 và thấy thành Ða-vít có nhiều lỗ
hổng.
Các ngươi trữ nước ở hồ dưới.
10 Các ngươi đếm từng ngôi nhà ở
Giê-ru-sa-lem,
rồi phá đi một số để củng cố
tường thành.
11 Các ngươi xây bể để chứa nước hồ
cũ giữa hai lớp tường thành.
Nhưng Ðấng tác tạo cả thành đô,
các ngươi lại không nhìn,
Ðấng từ lâu làm nên mọi sự, các
ngươi lại chẳng thấy.
12 Ngày ấy, Ðức Chúa các đạo binh là
Chúa Thượng
đã kêu gọi các ngươi than van
khóc lóc,
cạo đầu và quấn áo vải thô.
13 Thế mà chỉ thấy hoan hỷ vui mừng:
mổ bò, giết chiên, ăn thịt, uống
rượu:
"Ăn đi, uống đi, vì ngày mai
chúng ta sẽ chết!"
14 Ðức Chúa các đạo binh đã cho tôi
nghe lời mặc khải này:
"Tội này sẽ chẳng bao giờ
được tha
cho đến khi các ngươi chết",
Ðức Chúa các đạo binh là Chúa
Thượng phán như vậy.
Chống Sép-na
15 Ðức Chúa các đạo binh là Chúa
Thượng phán:
Hãy đi gặp viên quan ấy là
Sép-na, tể tướng triều đình, và nói:
16 "Ông có gì ở đây, bà con ông
là ai ở đây,
mà đào mộ cho ông ở nơi này, đào
mộ cho ông ở nơi cao,
khoét nhà mồ cho ông trong vách
đá?
17 Người hùng ơi, này đây Ðức Chúa
sắp thẳng tay quăng ông đi,
sắp túm chặt lấy ông,
18 sắp cuốn, sắp cuộn tròn ông lại,
như một quả bóng lăn vào vùng đất
mênh mông.
Ông sẽ chết tại đó,
và chiến xa từng làm cho ông vẻ
vang rạng rỡ cũng sẽ nằm tại đó.
Ông ơi, ông là mối nhục cho nhà
của chủ ông."
19 Ðức Chúa phán: "Ta sẽ tống
ngươi khỏi chức vụ,
Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị.
20 Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta
là En-gia-kim, con của
Khin-ki-gia-hu.
21 Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc
cho nó,
cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt
cho nó,
quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao
vào tay nó,
nó sẽ là cha đối với cư dân
Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa.
22 Chìa khoá nhà Ða-vít, Ta sẽ đặt
trên vai nó.
Nó mở ra thì không ai đóng được,
nó đóng lại thì không ai mở được.
23 Ta sẽ làm cho nó vững chắc như
đinh đóng cột,
nó sẽ nên như ngai vinh hiển cho
nhà cha nó."
24 Tất cả niềm vinh dự của gia đình,
dòng dõi, cháu chắt nó, tất cả các bình lớn nhỏ, từ chén cốc đến chum vò đủ
loại, đều treo vào đó. 25 Lời sấm của Ðức Chúa các đạo binh: ngày ấy
đinh đóng cột sẽ oằn, sẽ gãy, sẽ rơi xuống; bấy giờ, khối nặng treo ở đó sẽ tan
tành. Ðức Chúa phán như vậy.
Chương 23
Chống lại Tia
1 Lời sấm về Tia.
Khóc rú lên đi, hỡi những con tàu
xứ Tác-sít:
thành đã bị tàn phá, chẳng còn
nhà cửa, đã hết lối vào!
Từ đất Kít-tim, người ta đã báo
tin này cho họ.
2 Nín lặng đi, hỡi cư dân miền
duyên hải,
hỡi thương gia thành Xi-đôn,
những kẻ ngươi sai đi đã vượt
biển
3 trên mặt nước mênh mông.
Hạt gieo ở Si-kho, lúa gặt vùng
sông Nin là nguồn lợi của nó.
Nó là nơi buôn bán của chư dân.
4 Hãy hổ thẹn, hỡi Xi-đôn, thành
trì trên bờ biển,
vì biển lên tiếng nói: "Tôi
chẳng quặn đau cũng không sinh nở.
Tôi đã chẳng nuôi nấng thanh
niên,
không dưỡng dục thanh nữ."
5 Tin vừa đến Ai-cập, người người
run rẩy khi nghe nói về Tia.
6 Ðến Tác-sít khóc rú lên nào, hỡi
cư dân miền duyên hải.
7 Phải chăng thành đó chính là nơi
các ngươi đã vui cười ầm ĩ,
là thành đã có từ thuở xa xưa,
đã từng đi chiếm ngụ tận những
miền viễn xứ?
8 Ai đã quyết định điều ấy chống
lại Tia?
Xưa nó đã từng phân phát vương
miện,
các thương gia của nó từng là
những ông hoàng,
và con buôn của nó là những kẻ
hiển danh trên mặt đất.
9 Ðức Chúa các đạo binh đã quyết
định điều ấy
để làm nhục mọi đứa cao sang ngạo
mạn
và hạ bệ mọi kẻ hiển danh trên
mặt đất.
10 Con gái Tác-sít hỡi, hãy canh tác
đất đai của mình
như canh tác lưu vực sông Nin:
bến cảng đâu còn nữa.
11 Ðức Chúa đã giơ tay trên biển
làm cho các vương quốc phải
chuyển lay.
Chống lại Ca-na-an, Người truyền
lệnh
phải triệt phá các pháo đài của
nó.
12 Người phán: "Ðừng mãi vui
chơi nữa, hỡi con gái Xi-đôn,
người trinh nữ từng bị hãm hiếp
bạo tàn.
Hãy trỗi dậy, qua Kít-tim đi!
Nhưng ngay tại đó nữa, ngươi chớ
hòng sẽ được yên thân.
13 Kìa xứ Can-đê: đâu còn dân nữa.
Át-sua đã dành xứ đó cho dã thú
sa mạc mất rồi.
Xưa kia họ đã từng dựng nhiều
tháp canh,
tàn phá bao lâu đài dinh thự,
nhưng nay đất nước họ đã ra chốn
hoang tàn.
14 Khóc rú lên đi, hỡi những con tàu
xứ Tác-sít,
vì chỗ các ngươi ẩn núp đã bị tàn
phá rồi.
15 Bấy giờ, Tia sẽ bị rơi vào quên
lãng
suốt bảy mươi năm trời - bằng một
đời vua.
Sau bảy mươi năm ấy, số phận của
Tia
sẽ đúng với lời ca của người kỹ
nữ:
16 "Hỡi người kỹ nữ bị lãng
quên, hãy ôm đàn rảo quanh thành phố
gảy cho thật hay, hát cho thật
nhiều,
để thiên hạ lại nhớ đến
ngươi."
17 Sau bảy mươi năm, Ðức Chúa sẽ
viếng thăm Tia. Nó sẽ trở lại nghề đi khách kiếm tiền, làm điếm với mọi vương
quốc trên thế giới, trên mặt đất này. 18 Nhưng tiền lời và tiền đi
khách, nó sẽ hiến dâng Ðức Chúa thay vì gom góp để dành. Tiền lời kiếm được sẽ
dành cho những ai ở trước nhan Ðức Chúa, để họ ăn no mặc đẹp.
Chương 24
4. Khải Huyền
Ðức Chúa phán xét
1 Này đây Ðức Chúa sắp phá tan cõi
đất,
khiến nó phải hoang tàn.
Người sẽ đảo lộn mặt đất, sẽ phân
tán cư dân.
2 Bấy giờ tư tế sẽ chung số phận
với dân thường,
ông chủ với tớ trai, bà chủ với
tớ gái,
kẻ bán với người mua, kẻ cho mượn
với người đi mượn,
chủ nợ với con nợ.
3 Cõi đất sẽ bị phá tan hoang, bị
cướp bóc hết sạch,
vì Ðức Chúa đã phán truyền như
thế.
4 Cõi đất hoang tàn tang tóc,
địa cầu héo hắt điêu linh, đất
trời đều ủ rũ.
5 Ðất đã ra ô uế dưới bàn chân cư
dân,
vì chúng đã bỏ qua các điều luật,
vi phạm các thánh chỉ, và phá vỡ
giao ước muôn đời.
6 Vì thế, lời nguyền rủa làm cõi
đất tiêu tan, cư dân phải đền tội.
Cũng vì thế, cư dân trên cõi đất
bị thiêu huỷ,
chỉ còn một ít người sống sót.
Bài ca về thành bị phá
7 Rượu mới đượm màu tang, cây nho
héo tàn,
kẻ vui chơi giờ đây rên rỉ.
8 Ðã ngưng rồi tiếng trống vui xưa,
đã im bặt tiếng cười đùa phè
phỡn,
đã dứt hẳn những cung đàn hoan
lạc.
9 Chẳng còn ai vừa uống rượu vừa
ca,
men nồng nên đắng cay cho kẻ
uống.
10 Thành phố hỗn loạn đã tan hoang,
nhà nào cũng cửa đóng then cài,
không sao vào được.
11 Ðường phố vang tiếng gào đòi
rượu.
Mọi cuộc vui đã tàn, niềm hoan
lạc trong xứ đã biến tan.
12 Thành phố chỉ còn là đổ nát, cửa
thành bị phá banh từng mảnh.
13 Bấy giờ trong xứ và khắp chư dân,
tình cảnh sẽ giống như khi hái
ô-liu,
như khi mót nho lúc mùa đã hết.
14 Những người sống sót này
sẽ cất tiếng vui mừng tôn vinh
Ðức Chúa.
Từ phương Tây, họ sung sướng reo
hò.
15 "Vậy, người phương Ðông hỡi,
nào tôn vinh Ðức Chúa,
dân hải đảo ơi, hãy tôn vinh danh
Người,
Người là Thiên Chúa của
Ít-ra-en."
16 Chúng tôi đã nghe lời ca hát vang
lên từ cùng cõi địa cầu:
"Người công chính vinh hạnh
dường bao!"
Những trận chiến cuối cùng
Nhưng tôi nói: "Tôi kiệt
sức, tôi đã kiệt sức, khốn thân tôi!"
Quân phản bội đã phản bội.
Quân phản bội đã phản bội thật
rồi!
17 Nào kinh hoàng, nào hố sâu, nào
dò lưới
đang chờ đợi ngươi, hỡi cư dân
trái đất!
18 Kẻ chạy trốn khi nghe tiếng kinh
hoàng sẽ sa xuống hố;
kẻ dưới hố có ngoi lên được cũng
mắc vào dò lưới;
các cống nước trên trời đã mở
toang, nền trái đất rung chuyển.
19 Ðất vỡ ra từng miếng, đất nổ tung
từng mảnh,
đất chuyển động rung rinh.
20 Khác chi người say rượu,
đất lảo đảo ngả nghiêng, lung lay
tựa túp lều.
Tội của nó đè nặng trên nó, nó
ngã quỵ không sao dậy nổi.
21 Ngày ấy, trên trời, Ðức Chúa sẽ
trừng trị đạo binh thiên quốc,
dưới đất, Người trừng trị vua
chúa trần gian.
22 Chúng sẽ bị gom lại và nhốt dưới
hầm sâu.
Chúng sẽ bị giam trong ngục.
Và sau một thời gian lâu dài,
chúng sẽ bị trừng trị.
23 Vầng ô thẹn mặt, bóng nguyệt hổ
mày,
vì Ðức Chúa các đạo binh hiển trị
trên núi Xi-on và tại Giê-ru-sa-lem;
và vinh quang Chúa tỏ rạng trước
mặt các kỳ mục của Người.
Chương 25
Thánh thi tạ ơn
1 Lạy Ðức Chúa, Ngài là Thiên Chúa
của con,
con suy tôn Ngài, con xưng tụng
danh Ngài,
vì Ngài thực hiện những kỳ công,
những chương trình tự ngàn xưa
thật là bền vững.
2 Ngài đã làm cho đô thị hoá ra
đống đá,
cho thành trì kiên cố nên chốn
hoang tàn.
Thành trì của bọn ngoại bang
không còn là đô thị nữa, và chẳng
ai xây lại bao giờ.
3 Vì thế, một dân hùng mạnh sẽ tôn
vinh Ngài,
và thành trì của những dân hung
hãn sẽ kính sợ Ngài.
4 Quả thật, Ngài là chốn dung thân
cho người hèn yếu,
là nơi nương náu cho kẻ khó nghèo
khi gặp bước gian truân.
Ngài là nơi trú ẩn trong cơn bão
táp,
là bóng mát giữa buổi nắng thiêu,
vì sát khí của quân cường bạo
chẳng khác nào mưa bão đập vào
tường.
5 Như nắng thiêu trên đất khô cằn,
Ngài chế ngự tiếng ồn ào náo động
của lũ ngoại bang.
Như bóng mây ngăn sức nắng thiêu,
Ngài dập tắt những lời ca tiếng
hát của quân bạo cường.
Tiệc cánh chung
6 Ngày ấy, trên núi này,
Ðức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn
dân một bữa tiệc:
tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon,
thịt béo ngậy, rượu ngon tinh
chế.
7 Trên núi này, Người sẽ xé bỏ
chiếc khăn che phủ mọi dân,
và tấm màn trùm lên muôn nước.
8 Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử
thần.
Ðức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau
khô dòng lệ
trên khuôn mặt mọi người,
và trên toàn cõi đất, Người sẽ
xoá sạch
nỗi ô nhục của dân Người. Ðức
Chúa phán như vậy.
9 Ngày ấy, người ta sẽ nói:
"Ðây là Thiên Chúa chúng ta,
chúng ta từng trông đợi Người, và
đã được Người thương cứu độ.
Chính Người là Ðức Chúa chúng ta
từng đợi trông.
Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi
được Người cứu độ."
10 Bàn tay Ðức Chúa sẽ đặt trên núi
này mà nghỉ.
Còn Mô-áp sẽ bị giày đạp ngay tại
chỗ,
như rơm bị nghiền nát trong hố
phân.
11 Nó sẽ dang tay ra ở giữa hố, như
người ta dang tay để bơi;
nhưng Ðức Chúa sẽ triệt hạ tính
kiêu căng của nó,
mặc dù tay nó cố vẫy vùng.
12 Tường thành cao vững của ngươi
Người đã phá nhào, đã triệt hạ,
phá cho bình địa, chỉ còn là bụi
đất.
Chương 26
Thánh thi tạ ơn
1 Ngày ấy, trong xứ Giu-đa, người
ta sẽ hát bài ca này:
Chúng ta có thành trì vững chắc:
Chúa đã đặt tường trong luỹ ngoài
để chở che.
2 Mở cửa ra cho dân tộc công chính
bước vào,
một dân tộc trọn niềm trung
nghĩa.
3 Lạy Chúa, Ngài quyết giữ cho dân
được an cư lạc nghiệp, vì họ tin
vào Ngài.
4 Ðến muôn đời, hãy tin vào Ðức
Chúa:
chính Ðức Chúa là Núi Ðá bền vững
ngàn năm,
5 vì Người đã lật nhào dân sống ở
núi cao,
thành trì kiên cố, Người đã triệt
hạ,
triệt hạ cho bình địa chỉ còn là
bụi đất.
6 Nó sẽ bị chà đạp dưới chân,
dưới chân người cùng khổ, dưới
gót kẻ yếu hèn.
Thánh vịnh
7 Ðường kẻ lành đi là đường ngay
thẳng,
lối kẻ hiền theo là lối Chúa san
bằng.
8 Vâng, lạy Ðức Chúa, trên con
đường thánh ý vạch ra,
chúng con chờ đợi Chúa.
Hồn chúng con khát vọng Thánh
Danh
và ước mong tưởng nhớ đến Ngài.
9 Suốt đêm trường, hồn con khao
khát Chúa,
trong thâm tâm, những kiếm tìm
khắc khoải.
Khi Chúa thực thi quyết định của
mình khắp năm châu,
người bốn bể học biết đường công
chính.
10 Kẻ ác dù có được dung tha
cũng không học biết đường công
chính;
trong xứ người lương thiện, nó
vẫn làm những chuyện gian tà,
chẳng thấy được oai phong của Ðức
Chúa.
11 Lạy Ðức Chúa, tay Ngài giơ lên,
chúng chẳng thấy,
nhưng sẽ thấy Ngài yêu thương
nồng nhiệt dân này,
khiến chúng phải thẹn thùng xấu
hổ;
lửa dành cho thù địch của Ngài sẽ
thiêu đốt chúng.
12 Lạy Ðức Chúa, Ngài cho chúng con
được an cư lạc nghiệp,
vì hết mọi việc chúng con làm
đều do Ngài thực hiện cho chúng
con.
13 Lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng
con,
những người đã thống trị chúng
con,
là những ông chủ khác chứ không
phải Ngài,
nhưng chúng con chỉ xưng tụng
danh Ngài mà thôi.
14 Những kẻ chết đâu còn sống lại,
những âm hồn có chỗi dậy đâu!
Bởi thế, Chúa đã trừng phạt, đã
tiêu diệt chúng,
khiến chẳng còn ai nhớ đến chúng
bao giờ.
15 Lạy Ðức Chúa, Ngài đã làm cho dân
này thêm lớn mạnh,
đã làm cho dân này thêm lớn mạnh;
Ngài đã biểu dương vinh quang của
Ngài,
và mở rộng mọi biên cương xứ sở.
16 Lạy Ðức Chúa, gặp cảnh gian
truân, thiên hạ đã kiếm tìm Ngài.
Họ thầm thĩ với Ngài khi Ngài sửa
trị họ.
17 Như người đàn bà mang thai, lúc
gần sinh nở,
phải quằn quại, kêu la vì đau
đớn, thì lạy Ðức Chúa,
chúng con cũng như vậy trước nhan
Ngài.
18 Chúng con đã mang thai, đã quằn
quại, nhưng chỉ sinh ra gió:
chúng con chẳng giải thoát được
thế gian,
cũng chẳng sinh sản thêm dân cư
cho mặt đất.
19 Các vong nhân của Ngài sẽ sống
lại, xác họ sẽ đứng lên.
Này những kẻ nằm trong bụi đất,
hãy trỗi dậy, hãy reo mừng!
Vì lạy Chúa, sương Ngài ban là
sương ánh sáng,
và đất sẽ cho các âm hồn được hồi
sinh.
Ðức Chúa đi ngang qua
20 Hỡi dân Ta, hãy đi vào phòng,
đóng cửa lại,
hãy ẩn mình trong giây lát, cho
tới lúc trận lôi đình qua đi.
21 Vì kìa, Ðức Chúa ra khỏi nơi
Người ngự,
để trừng trị tội ác của dân cư
trên mặt đất.
Ðất sẽ để lộ máu ra
và không còn che giấu thây những
người bị sát hại.
Chương 27
1 Ngày ấy, Ðức Chúa sẽ dùng thanh
gươm
vừa cứng, vừa dài, vừa mạnh
mà trừng trị con giao long, con
rắn chui nhủi,
con giao long, con rắn ngoằn
ngoèo,
và Người sẽ giết chết con thuồng
luồng ngoài biển.
Vườn nho của Ðức Chúa
2 Ngày ấy, các ngươi hãy ca ngợi
vườn nho tuyệt diệu.
3 Chính Ta, Ðức Chúa, Ta là người
canh giữ vườn nho,
vẫn đều đặn tưới nước;
Ta canh giữ ngày đêm, không cho
ai phá hoại.
4 Ta không giận nữa đâu: có gai góc
hay bụi rậm,
là Ta mở cuộc chiến, Ta sẽ đốt
hết một trật.
5 Kẻ nào bám lấy Ta để được che
chở,
thì hãy làm lành với Ta; với Ta,
nó hãy làm lành.
Gia ân và trừng phạt
6 Trong tương lai, Gia-cóp sẽ bén
rễ,
Ít-ra-en sẽ trổ nụ đơm bông,
và mặt đất sẽ đầy tràn hoa trái.
7 Phải chăng Người đã đánh nó, như
đánh những ai đã đánh nó?
Phải chăng Người đã giết nó, như
giết những ai đã giết nó?
8 Người đã thi hành công lý
khi trục xuất bọn chúng, xua đuổi
chúng đi.
Người đã thổi làn hơi mãnh liệt
của Người,
đánh bật chúng trong ngày gió
đông.
9 Chính nhờ vậy mà tội tình Gia-cóp
được tẩy xoá,
và việc xoá bỏ tội lỗi đưa đến
hậu quả này:
họ đập những viên đá bàn thờ tan
tành như đá vôi tán vụn;
cột thờ với bàn thiên cũng chẳng
còn.
10 Vì thành trì kiên cố nay điêu tàn
vắng vẻ,
làng xóm tan hoang tựa sa mạc
tiêu điều,
chỉ còn bò bê đến gặm cỏ, đến nằm
đó mà nhá những cành cây.
11 Cành héo khô thì bị bẻ gãy, và
các bà đến châm lửa đốt đi.
Vì bọn dân này không chịu hiểu,
nên Ðấng tác thành chẳng thương
xót,
Ðấng nặn ra chúng chẳng dung tha.
Người Ít-ra-en trở về
12 Rồi ngày kia Ðức Chúa sẽ đập lúa
từ sông Cả cho tới suối Ai-cập.
Và anh em, hỡi con cái Ít-ra-en,
từng người một, anh em sẽ được
Chúa mót nhặt về.
13 Ðến ngày ấy, tù và sẽ rúc lớn,
những kẻ đang mỏi mòn tại đất
Át-sua
và những kẻ đã bị xua đuổi sang
Ai-cập
sẽ đến và thờ lạy Ðức Chúa trên
núi thánh tại Giê-ru-sa-lem.
Chương 28
5. Thi Ca Về Ít-Ra-En Và Giu-Ða
Chống Sa-ma-ri
1 Vô phúc cho vương miện kiêu hùng
của bọn Ép-ra-im say sưa,
cho bông hoa héo tàn, là đồ trang
điểm xa hoa của nó
trên đỉnh cao chế ngự cả thung
lũng phì nhiêu,
cho những kẻ bị ma men quật ngã.
2 Này một kẻ dũng mãnh và quyền thế
được Chúa dùng
như mưa đá, như cuồng phong khốc
hại,
như mưa trút nước, như lũ lụt
tràn lan,
Người thẳng tay giáng trên mặt
đất.
3 Người sẽ chà đạp vương miện kiêu
hùng
của bọn Ép-ra-im say sưa,
4 và vòng hoa héo tàn là đồ trang
điểm xa hoa của nó
trên đỉnh cao chế ngự cả thung
lũng phì nhiêu;
nó sẽ như trái vả chín sớm, trước
mùa hè:
ai thấy và hái được là nuốt ngay
tức khắc.
5 Trong ngày ấy, Ðức Chúa các đạo
binh
sẽ nên vương miện trang điểm và
vòng hoa diễm lệ
cho số còn sót lại của dân Người,
6 nên thần khí công minh cho kẻ
ngồi xét xử,
nên sức hùng cho người đẩy lui
chiến tranh xa cổng thành.
Chống ngôn sứ giả
7 Cả bọn này nữa cũng chếnh choáng
vì rượu, lảo đảo vì men:
tư tế và ngôn sứ đều chếnh choáng
vì men,
chúng đã say mèm, chúng đã vì men
mà lảo đảo,
chếnh choáng trong thị kiến,
loạng quạng khi xét xử.
8 Quả thật, chúng nôn mửa đầy bàn,
không còn chỗ nào sạch.
9 "Liệu nó dạy được ai, giải
thích được cho ai am hiểu?
Có chăng là cho trẻ thơ cai sữa
vừa thôi bú!"
10 Thôi thì: "Xáp la-xáp, xáp
la-xáp,
cáp la-cáp, cáp la-cáp, dơ-e sam,
dơ-e sam!"
11 Phải, Người sẽ dùng môi miệng cà
lăm
và tiếng nói xa lạ mà nói với dân
này.
12 Người bảo chúng: "Ðây là
chốn nghỉ ngơi!
Hãy để cho người kiệt sức được
nghỉ! Ðây là nơi yên tĩnh."
Nhưng chúng chẳng thèm nghe.
13 Cho nên có lời Ðức Chúa phán bảo
chúng:
"Xáp la-xáp, xáp la-xáp, cáp
la-cáp, cáp la-cáp,
dơ-e sam, dơ-e sam",
khiến chúng vừa đưa chân đã ngã
ngửa:
chúng sẽ bị tan nát, sẽ sa vào
bẫy, và sẽ bị bắt giam.
Chống cố vấn sai lầm
14 Bởi thế, hãy nghe lời của Ðức
Chúa,
hỡi những kẻ kiêu căng ngạo
ngược,
những kẻ đang cai trị dân này ở
Giê-ru-sa-lem.
15 Quả thật, các ngươi nói: "Ta
đã kết ước với tử thần,
thoả hiệp cùng âm phủ.
Tai ương khốc liệt có tràn qua,
ta cũng không hề hấn,
vì hầm trú của ta là dối trá, nơi
ẩn núp của ta là xảo quyệt."
16 Bởi thế, Ðức Chúa là Thiên Chúa
phán như sau:
"Này đây Ta sẽ đặt ở Xi-on
một phiến đá, phiến đá hoa cương,
phiến đá góc vô giá làm nền móng
vững bền,
ai tin tưởng sẽ không hề nao
núng.
17 Giây đo của Ta là công minh, mực
thước của Ta là chính trực.
Nhưng mưa đá sẽ phá tan hầm dối
trá,
nước lũ sẽ cuốn trôi nơi trú ẩn.
18 Giao ước các ngươi ký với tử thần
sẽ bị huỷ,
hợp đồng các ngươi lập cùng âm
phủ sẽ chẳng bền.
Khi tai ương khốc liệt tràn qua,
các ngươi sẽ bị chà đạp.
19 Mỗi khi nó tràn tới, các ngươi sẽ
bị cuốn đi.
Quả thế, sáng sáng nó sẽ tràn
qua, bất luận đêm ngày;
nghe tin và hiểu được rồi, thì
chỉ còn biết run lên cầm cập.
20 Vì giường sẽ quá ngắn, không thể
nào duỗi thẳng,
chăn sẽ quá hẹp, nằm co cũng
không kín.
21 Chắc chắn, như trên núi
Pơ-ra-xim, Ðức Chúa sẽ trỗi dậy,
như tại thung lũng Ghíp-ôn, Người
sẽ giận run lên
để thi hành công việc của Người,
công việc kỳ diệu,
để thực hiện công trình của
Người, công trình tuyệt tác.
22 Vậy giờ đây, các ngươi đừng nhạo
báng nữa,
kẻo dây thừng trói các ngươi sẽ
siết chặt thêm,
vì tôi đã được nghe: Ðức Chúa các
đạo binh là Chúa Thượng
đã quyết thi hành án tận diệt
trên khắp mọi miền.
Dụ ngôn
23 Hãy lắng tai nghe tiếng của tôi,
hãy để tâm nghe lời tôi nói.
24 Phải chăng người cày ruộng ngày
nào cũng cày để mà gieo,
cứ cuốc sâu bừa kỹ ruộng của
mình?
25 Một khi đã san bằng thửa đất,
lại không gieo tảo vĩ, không rắc
thì là hay sao?
Rồi trồng miến trồng kê, trồng
lúa mạch một phần,
và lúa mì nâu ở ven bờ ruộng.
26 Anh đã quen với lề lối ấy,
chính Thiên Chúa của anh dạy bảo
anh.
27 Không ai chà tảo vĩ bằng trục
lăn,
cũng chẳng dùng bánh xe cán thì
là,
nhưng lấy gậy đập tảo vĩ, lấy đòn
xóc đập thì là.
28 Xay lúa thì không xay hoài cho
nát bấy;
cho bánh xe cán lúa là để trấu
bong ra,
chứ không phải là để nghiền nát.
29 Những điều này cũng là do Ðức
Chúa các đạo binh.
Kế hoạch sao nhiệm mầu, sự khôn
ngoan thật là cao cả!
Chương 29
Nói về Giê-ru-sa-lem
1 Khốn cho ngươi, A-ri-ên, A-ri-ên,
thành đã từng bị vua Ða-vít vây
hãm!
Năm này qua năm khác, cứ tổ chức
chu kỳ lễ lạt.
2 Ta sẽ siết chặt A-ri-ên, nó sẽ
phải than thân trách phận.
Ðối với Ta, nó sẽ đúng là
A-ri-ên.
3 Ta sẽ bao vây ngươi tứ phía, sẽ
đắp luỹ chung quanh ngươi,
sẽ dựng công sự đánh ngươi.
4 Ngươi sẽ bị hạ xuống; từ lòng
đất, ngươi sẽ cất tiếng lên;
từ cát bụi, lời ngươi sẽ thều
thào yếu ớt;
từ lòng đất, tiếng ngươi sẽ vọng
lên
tựa như tiếng vong hồn: lời ngươi
sẽ thì thào từ cát bụi.
5 Bọn ngoại bang từng lũ sẽ như
những hạt bụi li ti,
quân cường bạo từng đoàn sẽ bay
đi như trấu.
Trong khoảnh khắc, thình lình,
6 Ðức Chúa các đạo binh sẽ đến
viếng thăm ngươi
giữa tiếng sấm rền vang,
tiếng đất chuyển động, tiếng nổ
rầm trời,
trong gió gào, bão táp, lửa
thiêu.
7 Bấy giờ, đoàn lũ các dân tộc đang
tiến đánh A-ri-ên,
mọi kẻ đang tiến đánh, công hãm
và siết chặt thành
sẽ tan biến như chiêm bao, như
giấc mộng đêm trường.
8 Như người đói mơ thấy mình đang
ăn,
khi tỉnh dậy thấy dạ dày trống
rỗng;
hoặc như một người khát nằm mơ
thấy mình đang uống,
khi tỉnh dậy thấy mình mệt lử,
họng khát khô;
đoàn lũ các dân tộc đang tiến
đánh núi Xi-on cũng sẽ y như vậy.
9 Ðã ngớ ngẩn thì cho ngẩn ngơ
luôn, đã muốn đui thì cho mù tịt!
Hãy say đi, mà không vì rượu, cứ
lảo đảo, mà chẳng tại ma men!
10 Vì trên các ngươi, Ðức Chúa đã đổ
xuống một làn khí hôn mê.
Là ngôn sứ, các ngươi đã bị Người
bịt mắt,
là thầy chiêm, các ngươi đã bị
Chúa trùm đầu.
11 Ðối với các ngươi,
thị kiến toàn là những lời ghi
trong sách niêm phong.
Người ta trao sách cho kẻ biết
đọc mà bảo: "Ðọc đi!"
Nhưng hắn nói: "Ðọc sao
được, sách đã niêm phong rồi!"
12 Lại đưa sách cho kẻ không biết
đọc và nói: "Ðọc đi!"
Hắn liền bảo: "Tôi nào đâu
biết chữ!"
Lời sấm
13 Chúa Thượng phán: "Dân này
chỉ đến gần Ta bằng miệng,
tôn vinh Ta bằng môi, còn lòng chúng
thì xa Ta lắm;
chúng chỉ kính sợ Ta theo lệnh
của người phàm,
nhưng đó chỉ là sáo ngữ.
14 Vì thế, Ta sẽ tiếp tục làm cho
dân này phải sững sờ kinh ngạc
vì bao nhiêu dấu lạ điềm thiêng.
Bấy giờ sự khôn ngoan của kẻ khôn
ngoan sẽ chuốc lấy thất bại,
và trí thông minh của người thông
minh sẽ tan thành mây khói.
Công lý chiến thắng
15 Khốn thay kẻ nào đào sâu giấu kỹ,
không để cho Ðức Chúa thấy ý định
của mình.
Khốn thay ai hành động trong bóng
tối
và tự nhủ: "Ai thấy được, ai
biết được ta?"
16 Chuyện các ngươi làm thật là quái
gở:
Thợ gốm lại ngang hàng với đất
sét sao?
Há sản phẩm lại nói về người sản
xuất:
"Hắn đâu làm ra tôi"?
Há bình gốm lại nói về người thợ
gốm:
"Hắn chẳng biết điều
gì"?
17 Chỉ còn chút nữa, chút ít nữa
thôi,
núi Li-băng sẽ lại thành vườn cây
ăn trái,
và vườn cây ăn trái sẽ sum sê như
một cánh rừng,
chẳng phải thế sao?
18 Ngày ấy, kẻ điếc sẽ được nghe
những lời trong sách,
mắt người mù sẽ thoát cảnh mù mịt
tối tăm
và sẽ được nhìn thấy.
19 Nhờ Ðức Chúa, những kẻ hèn mọn sẽ
ngày thêm phấn khởi,
và vì Ðức Thánh của Ít-ra-en,
những người nghèo túng sẽ nhảy
múa tưng bừng.
20 Thật vậy, loài bạo chúa đã không
còn nữa,
quân ngạo mạn sẽ phải tiêu vong,
và mọi kẻ rắp tâm làm điều ác ắt
sẽ bị diệt trừ:
21 đó là những kẻ dùng lời nói làm
cho người ta bị kết tội,
và cho người xử án tại cửa công
phải mắc bẫy;
chúng dùng những lời lẽ vô căn cứ
mà làm cho người công chính bị
gạt ra ngoài.
22 Vì thế, Ðức Chúa, Thiên Chúa nhà
Gia-cóp,
Ðấng đã cứu chuộc Áp-ra-ham, phán
thế này:
"Từ nay Gia-cóp sẽ không còn
phải xấu hổ,
từ nay nó sẽ không còn bẽ mặt
thẹn thùng,
23 vì khi Gia-cóp nhìn thấy nơi nó
những công trình tay Ta đã làm,
nó sẽ tuyên xưng danh Ta là
thánh,
sẽ tuyên xưng Ðấng Thánh của
Gia-cóp là thánh,
và sẽ kính uý Thiên Chúa của
Ít-ra-en.
24 Những người tâm trí lầm lạc sẽ có
được sự hiểu biết,
và những kẻ ương ngạnh sẽ chấp
nhận lời răn dạy.
Chương 30
Chống đoàn sứ giả được phái qua
Ai-cập
1 Khốn thay những đứa con phản
nghịch
- sấm ngôn của Ðức Chúa!
Chúng thực hiện kế hoạch, nhưng
không phải của Ta,
chúng ký kết thoả hiệp, nhưng
không theo thần khí của Ta,
cứ chồng chất tội này lên tội
khác.
2 Chúng đâu thỉnh ý Ta khi lên
đường đi xuống Ai-cập
tìm sự che chở của Pha-ra-ô, và
núp bóng Ai-cập.
3 Nhưng sự che chở của Pha-ra-ô
sẽ khiến các ngươi phải thẹn
thùng,
và việc ẩn núp dưới bóng Ai-cập
sẽ làm cho các ngươi phải nhuốc
hổ.
4 Dù thủ lãnh của nó đã ở Xô-an,
và sứ giả của nó đã tới Kha-nết,
5 tất cả sẽ thất vọng ê chề vì một
dân vô tích sự,
chẳng giúp đỡ, chẳng làm ích gì
cho ai,
chỉ đem lại thẹn thùng với ô
nhục.
Lời sấm khác chống lại phái đoàn
6 Lời sấm về các thú vật miền
Ne-ghép.
Trong miền đất hiểm nghèo và khốn
quẫn,
miền đất của sư tử đực và sư tử
cái, của rắn độc và rồng bay,
chúng mang của cải trên lưng lừa,
và trên bướu lạc đà, chúng chở
kho báu
để hiến cho một dân vô tích sự:
7 Sự tiếp viện của Ai-cập chỉ là hư
ảo và rỗng tuếch,
vì thế Ta đã gọi Ai-cập là con
thủy quái Ra-háp sa cơ.
Di chúc
8 Bây giờ trước mặt chúng,
ngươi hãy viết điều ấy trên một
tấm bảng, và ghi vào hồ sơ,
để lưu lại mai sau làm bằng chứng
đến muôn đời.
9 Vì chúng là một dân phản nghịch,
là những đứa con gian dối,
những đứa con không muốn nghe
luật của Ðức Chúa.
10 Chúng bảo các thầy chiêm:
"Ðừng chiêm ngưỡng nữa",
bảo các thầy thị kiến: "Ðừng
nói cho chúng tôi
những điều chân thật thấy trong
thị kiến;
hãy nói cho chúng tôi những
chuyện bùi tai,
hãy kể cho chúng tôi
những điều huyền hoặc thấy trong
thị kiến.
11 Hãy bỏ lối rời đường, đừng nói
đến Ðức Thánh của Ít-ra-en
trước mặt chúng tôi nữa."
12 Vì vậy, Ðức Thánh của Ít-ra-en
phán thế này:
"Bởi các ngươi khinh thường
lời Ta đã nói
mà tin tưởng vào trò áp bức gian
giảo, và cậy dựa vào đó,
13 nên đối với các ngươi,
tội ấy sẽ như một vết nứt lộ ra
trên một tường thành cao:
thình lình, trong nháy mắt, tường
sụp đổ.
14 Nó sẽ đổ vỡ như cái lu của thợ
gốm bị vỡ,
bị đập nát không chút xót thương,
đến nỗi trong đống vụn, không tìm
được một mảnh sành
để lấy lửa trong bếp hoặc múc
nước ngoài ao.
15 Vì Chúa Thượng là Ðức Chúa,
là Ðức Thánh của Ít-ra-en, phán
thế này:
Giả như các ngươi trở lại và ở
yên,
hẳn các ngươi đã được cứu thoát;
giả như các ngươi bình tĩnh và
tin tưởng,
ắt các ngươi đã nên hùng mạnh;
thế nhưng các ngươi đã không
muốn!
16 Các ngươi đã nói: "Không,
chúng tôi sẽ cỡi ngựa chạy trốn!"
- Ðược! Các ngươi sẽ chạy trốn.
"Chúng tôi sẽ phóng
nhanh!"
- Ðược! Quân đuổi bắt các ngươi
cũng sẽ phóng nhanh.
17 Chỉ một người ngăm đe, cả ngàn
người run sợ;
chỉ dăm người đe doạ, các ngươi
chạy trốn hết,
cho đến lúc các ngươi
chỉ còn như cây cột trên đỉnh
núi, như cờ hiệu trên đồi.
Thiên Chúa sẽ thứ tha
18 Vì vậy Ðức Chúa đợi chờ để thi ân
cho anh em,
Người sẽ đứng lên để tỏ lòng
thương xót,
vì Ðức Chúa là Thiên Chúa công
minh,
hạnh phúc thay mọi kẻ đợi chờ
Người!
19 Phải, hỡi dân Xi-on đang ở
Giê-ru-sa-lem,
ngươi sẽ không còn phải khóc nữa.
Khi ngươi kêu cứu, Người sẽ thi
ân giáng phúc cho ngươi;
nghe tiếng ngươi kêu là Người đáp
lại.
20 Chúa Thượng sẽ ban cho ngươi bánh
ăn trong lúc ngặt nghèo
và nước uống trong cơn khốn quẫn.
Ðấng dạy dỗ ngươi sẽ không còn
lánh mặt,
và mắt ngươi sẽ thấy Ðấng dạy dỗ
ngươi.
21 Khi ngươi lưỡng lự không biết
quẹo phải hay trái,
tai ngươi sẽ được nghe một tiếng
nói từ phía sau:
"Ðây là đường, cứ đi theo
đó!"
22 Những tượng chạm dát bạc,
tượng đúc bọc vàng của ngươi,
ngươi sẽ coi là ô uế,
sẽ vất chúng đi như đồ dơ bẩn
và nói: "Cút đi!"
23 Chúa sẽ làm mưa trên hạt giống
ngươi gieo trồng,
cho lương thực, sản phẩm của đất
đai,
thật dồi dào béo bổ.
Ngày đó, súc vật ngươi chăn nuôi
sẽ ăn trên những đồng cỏ xanh bát
ngát.
24 Bò lừa cày ruộng sẽ được ăn cỏ
khô trộn muối,
cỏ người ta đã lấy xẻng và chĩa
mà rải ra.
25 Trong ngày đại tàn sát,
khi các ngọn tháp đổ nhào,
trên mọi núi và mọi đồi cao,
sẽ có những khe suối và dòng nước
chảy.
26 Vào ngày Ðức Chúa băng bó vết
thương cho dân Người,
và chữa lành những chỗ nó bị đánh,
ánh sáng mặt trăng sẽ nên như ánh
sáng mặt trời,
và ánh sáng mặt trời sẽ tăng gấp
bảy
- ánh sáng của bảy ngày.
Chống Át-sua
27 Này Ðức Chúa từ xa đang thân hành
ngự đến,
cơn giận của Người cháy bừng như
lửa,
nộ khí của Người đè nặng sinh
linh.
Môi Người trào phẫn nộ,
lưỡi Người như lửa thiêu.
28 Hơi thở của Người mạnh như thác,
như nước dâng tới cổ.
Người sẽ lấy sàng mà sàng chư dân
cho chúng bị tiêu diệt,
sẽ đặt hàm thiết vào hàm các nước
cho chúng phải lạc đường.
29 Các ngươi sẽ ca hát
như trong đêm cử hành đại lễ,
lòng chan chứa niềm vui
như người bước đi theo nhịp sáo,
tiến về núi Ðức Chúa, về núi đá
của Ít-ra-en.
30 Ðức Chúa sẽ cho nghe tiếng oai
nghiêm của Người,
và cho thấy cánh tay Người đè
nặng
trong cơn thịnh nộ, trong ngọn
lửa thiêu,
trong sấm chớp bão bùng, trong
mưa rào mưa đá.
31 Vì khi nghe tiếng Ðức Chúa,
Át-sua sẽ run sợ hãi hùng,
Người sẽ dùng trượng mà đánh nó.
32 Mỗi lần Ðức Chúa vung gậy lên
trừng phạt,
đều có tiếng đàn tiếng trống hoạ
theo;
Người sẽ ra tay giao chiến với
nó.
33 Từ lâu rồi, lò thiêu Tô-phét đã
được chuẩn bị - ngay cho cả vua -,
lò đã sẵn sàng, vừa sâu vừa rộng,
củi lửa thật nhiều.
Hơi thở của Ðức Chúa như dòng
thác diêm sinh,
sẽ khiến lò bốc cháy.
Chương 31
Chống liên minh với Ai-cập
1 Khốn thay những kẻ xuống Ai-cập
cầu viện,
những kẻ cậy dựa vào chiến mã,
tin tưởng vì có lắm chiến xa,
vì kỵ binh hùng mạnh,
mà không chịu ngước nhìn Ðức
Thánh của Ít-ra-en,
không kiếm tìm Ðức Chúa.
2 Nhưng chính Người cũng lại khôn
ngoan,
Người có thể giáng hoạ, không rút
lại lời đã phán ra;
Người sẽ đứng lên chống cự phường
gian ác,
chống cự những kẻ làm điều dữ
được mời đến tiếp viện.
3 Ai-cập là phàm nhân, chứ đâu phải
là thần!
Chiến mã của chúng là súc vật,
chứ đâu phải thần khí!
Khi Ðức Chúa vung tay, kẻ tiếp
viện sẽ lảo đảo,
người được tiếp viện cũng té
nhào,
chúng sẽ cùng tiêu vong hết thảy.
Lại chống Át-sua
4 Ðức Chúa phán với tôi thế này:
Khi sư tử hoặc sư tử con gầm gừ
để giữ mồi của nó,
dù cả đám mục đồng được gọi đến
tấn công,
nó cũng không run sợ vì tiếng hét
tiếng hò,
chẳng kinh hoàng vì tiếng ồn ào
náo động.
Cũng vậy, Ðức Chúa các đạo binh
sẽ ngự xuống chiến đấu
trên núi Xi-on, trên đồi của
thành.
5 Như cánh chim bay đi lượn lại,
Ðức Chúa các đạo binh sẽ bảo vệ
Giê-ru-sa-lem,
Người sẽ bảo vệ và giải thoát, sẽ
dung tha và cứu độ.
6 Hỡi con cái Ít-ra-en, hãy trở lại
với Ðấng anh em đã phản bội nặng
nề.
7 Phải, trong ngày đó, mỗi người sẽ
vứt bỏ
các tượng thần bằng bạc bằng vàng
do tay tội lỗi của anh em làm ra.
8 Át-sua sẽ ngã gục dưới một lưỡi
gươm không phải của con người.
Nó sẽ bị tiêu diệt do một lưỡi
gươm không phải của người phàm.
Nó sẽ phải trốn chạy trước lưỡi
gươm,
trai tráng của nó sẽ phải làm lao
dịch.
9 Ðá tảng của nó sẽ bỏ đi vì sợ
hãi,
khi thấy cờ hiệu, các tướng lãnh
của nó sẽ kinh hoàng.
Ðó là sấm ngôn của Ðức Chúa, Ðấng
có lửa tại Xi-on,
và có lò tại Giê-ru-sa-lem.
Chương 32
Vua công chính
1 Này đây, một vua sẽ trị vì theo
lẽ công minh,
các thủ lãnh sẽ cầm quyền theo
đường chính trực.
2 Mỗi vị sẽ như một nơi tránh gió,
một chốn trú mưa,
như suối nước ở chỗ khô cằn,
như tảng đá to rợp bóng trên đất
bị hạn hán.
3 Bấy giờ mắt những người thấy sẽ
không còn bị mờ,
tai những người nghe sẽ trở nên
chăm chú;
4 lòng những người nhẹ dạ sẽ gẫm
suy để am tường,
lưỡi những kẻ ngọng sẽ nói năng
hoạt bát.
5 Kẻ ngu xuẩn sẽ không được gọi là
cao quý,
người quỷ quyệt không được coi là
kẻ cả.
Kẻ ngu xuẩn và người cao thượng
6 Quả thế, kẻ ngu xuẩn nói điều ngu
xuẩn,
và lòng dạ mưu đồ chuyện xấu xa:
nó làm chuyện vô luân, nói điều
sai lạc phạm đến Ðức Chúa;
người đói thì nó để bụng không,
còn kẻ khát thì chẳng cho nước
uống.
7 Người quỷ quyệt dùng trò quỷ
quyệt xấu xa,
nó bày ra mưu thâm chước độc,
dùng những lời giả dối
hại kẻ nghèo hèn, hại người cùng
khổ
ngay khi họ đòi quyền lợi của
mình.
8 Còn người cao thượng thì suy tính
những điều cao thượng
và vì những điều cao thượng mà
đứng ra lên tiếng.
Chống đàn bà Giê-ru-sa-lem
9 Bọn đàn bà ngạo mạn, hãy trỗi dậy
mà nghe tiếng Ta!
Lũ con gái khinh đời, hãy lắng
tai nghe lời Ta nói!
10 Chỉ còn một năm mấy ngày nữa,
hỡi đám phụ nữ khinh đời, các
ngươi sẽ run rẩy,
bởi vì mùa nho sắp lụi tàn, không
còn thu hoạch chi nữa hết!
11 Run rẩy đi, bọn đàn bà ngạo mạn,
sợ quýnh lên, lũ con gái khinh
đời!
Hãy bỏ áo, cởi trần, quấn bao bị
vào lưng.
12 Hãy đấm ngực khóc than cho những
cánh đồng tươi mát,
cho vườn nho sai quả,
13 cho đất màu của dân Ta
đã mọc đầy bụi rậm và gai góc,
cho mọi nhà đang truy hoan trong
thành phố vui nhộn.
14 Quả thật lâu đài bị bỏ hoang,
thành thị đông dân nên hiu quạnh,
Ô-phen với vọng lâu thành trơ
trụi muôn đời
cho lừa hoang tha hồ đùa giỡn,
cho súc vật gặm cỏ no nê.
Ðổ tràn thần khí
15 Cho đến ngày, từ trên cao
thần khí sẽ được đổ xuống trên
chúng ta.
Bấy giờ sa mạc sẽ trở nên vườn
cây ăn trái,
và vườn cây ăn trái sẽ được coi
như một cánh rừng.
16 Lẽ chính trực sẽ ở trong sa mạc,
và đức công minh trong vườn cây
ăn trái.
17 Sự nghiệp của đức công minh sẽ là
hoà bình.
Thành quả của đức công minh
18 Dân Ta sẽ ở trong cảnh thái bình,
trong nơi ở an toàn, trong chốn
nghỉ thảnh thơi.
19 Nhưng rừng sẽ bị đốn tận gốc, và
thành sẽ bị triệt hạ.
20 Anh em có phúc vì sẽ được gieo
khắp những nơi có nước,
và thả rong bò lừa.
Chương 33
Ơn cứu độ người người mong đợi
1 Khốn cho ngươi là kẻ tàn phá mà
không bị tàn phá,
kẻ phản bội mà không bị phản bội!
Khi ngươi tàn phá xong, ngươi sẽ
bị tàn phá,
khi ngươi phản bội rồi, ngươi sẽ
bị phản bội.
2 Lạy Ðức Chúa, xin thương xót
chúng con,
chúng con trông cậy vào Ngài.
Mỗi buổi sáng, xin Ngài nên cánh
tay nâng đỡ chúng con;
xin cứu độ chúng con trong lúc
ngặt nghèo.
3 Nghe tiếng sấm vang rền, các dân
chạy trốn,
Ngài đứng lên, các nước tán loạn.
4 Người ta thu chiến lợi phẩm về,
như cào cào thu lượm
người ta xông vào lấy, như châu
chấu xông vào.
5 Ðức Chúa được suy tôn, vì Người
ngự trên chốn cao vời.
Người làm cho Xi-on được đầy
chính trực công minh.
6 Người sẽ làm cho thời ngươi được
ổn định.
Sự khôn ngoan và hiểu biết đem
lại ơn cứu độ dồi dào,
sự kính sợ Ðức Chúa, đó chính là
kho tàng Người ban.
7 Này đây dân thành A-ri-ên kêu la
ngoài đường phố,
các sứ giả hoà bình than khóc
đắng cay.
8 Các con lộ hoang vắng, đường sá
chẳng bóng người qua.
Người ta đã phá vỡ giao ước,
khinh dể các chứng nhân,
chẳng coi ai ra gì nữa.
9 Cõi đất sẽ nhuốm màu tang tóc
điêu linh,
núi Li-băng héo tàn nhục nhã,
đồng bằng Sa-rôn nên hoang địa
khô cằn,
còn miền Ba-san và núi Các-men
hoá ra trơ trụi.
10 Ðức Chúa phán: "Giờ đây Ta
trỗi dậy,
giờ đây Ta đứng thẳng, giờ đây Ta
vươn mình lên.
11 Các ngươi đã cưu mang cỏ khô, ắt
sẽ sinh rơm rạ.
Hơi thở của Ta sẽ như lửa thiêu
rụi các ngươi.
12 Các dân sẽ bị cháy thành vôi,
chúng như gai bị chặt và thiêu
trong lửa.
13 Người ở xa, hãy nghe biết việc Ta
làm,
kẻ ở gần, khá nhận rằng sức Ta
hùng mạnh."
14 Tại Xi-on, quân tội lỗi khiếp sợ
rụng rời,
bọn bất lương kinh hoàng run rẩy.
Chúng rằng: "Ai trong chúng
ta ở gần được lửa thiêu?
Ai trong chúng ta ở gần được hoả
hào muôn kiếp?"
15 Kẻ theo đường chính trực, hằng ăn
nói thẳng ngay,
của chiếm đoạt không màng, tay
xua quà hối lộ.
Lời độc địa, bưng tai chẳng muốn
nghe,
việc xấu xa, bịt mắt chẳng thèm
nhìn.
16 Người như thế sẽ được ở non cao,
có đồn trên núi đá làm nơi trú
ẩn.
Bánh ăn sẽ được luôn cung cấp,
nước uống chẳng lo thiếu bao giờ.
Trở về Giê-ru-sa-lem
17 Mắt bạn sẽ chiêm ngưỡng một đức
vua
trong vẻ đẹp của người, sẽ thấy
một miền đất trải rộng.
18 Lòng bạn sẽ hồi tưởng lại nỗi
kinh hoàng:
"Ðâu rồi viên ký lục? Ðâu
rồi người thu thuế?
Ðâu rồi người thanh tra các tháp
canh?"
19 Bạn sẽ không còn thấy giống dân
kênh kiệu,
một dân có ngôn ngữ xa lạ, khó
nghe,
giọng nói líu lo, không ai hiểu.
20 Hãy nhìn ngắm thành Xi-on, nơi
chúng ta cử hành các đại lễ,
mắt bạn sẽ thấy Giê-ru-sa-lem,
một nơi ở thảnh thơi,
một cái lều sẽ không bị tháo gỡ;
cọc lều sẽ không bao giờ bị nhổ
đi,
không một giây lều nào sẽ bị đứt.
21 Vì tại đó, Ðức Chúa sẽ cho chúng
ta thấy
Người là Ðấng oai hùng.
Người sẽ như một miền có sông
ngòi rộng lớn,
nhưng không có thuyền bè tới lui,
và tàu to đẹp cũng không qua lại.
22 Phải, Ðức Chúa là vị thẩm phán
của chúng ta,
Ðức Chúa là nhà lập pháp của
chúng ta,
Ðức Chúa là vua của chúng ta,
chính Người sẽ cứu độ chúng ta.
23 Các dây của bạn đã chùng rồi,
không sao giữ được cho cột đứng,
không giương được cờ hiệu nữa.
Bấy giờ người ta sẽ chia nhau vô
vàn chiến lợi phẩm;
kẻ què cũng tha hồ hôi của.
24 Không ai cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem
sẽ nói: "Tôi ốm đau."
Dân ở đó sẽ được tha tội.
Chương 34
Xử tội Ê-đôm
1 Chư dân hỡi, hãy lại mà nghe, các
sắc tộc, nào cùng lưu ý.
Hãy nghe đây, hỡi trái đất và mọi
loài trên đó,
hỡi địa cầu cùng muôn vật từ đất
nảy sinh:
2 Này, Ðức Chúa nổi giận với chư
dân hết thảy,
Người thịnh nộ với toàn thể đạo
binh của chúng,
cho chúng bị tru diệt và tiêu
vong.
3 Những kẻ bị đâm chết sẽ bị quẳng
đi xa.
Tử thi xông mùi hôi thối, núi non
máu chảy dầm dề.
4 Toàn thể đạo binh trên trời tan
rã.
Các tầng trời cuộn lại như cuốn
sách.
Cả đạo binh của chúng lụi tàn
như lá nho rơi rụng, tựa lá vả
lìa cành.
5 Vì trên trời gươm Ta say máu: sắp
giáng xuống Ê-đôm,
xuống một dân Ta đã tuyên án tru
diệt.
6 Gươm của Ðức Chúa, máu nhuộm đỏ,
mỡ dính bầy nhầy,
máu chiên máu dê, mỡ của trái cật
loài cừu.
Vì một hy lễ đã được dâng kính
Ðức Chúa tại Bót-ra,
chính là cuộc tàn sát lớn trong
xứ Ê-đôm.
7 Cùng với chúng, nào trâu, nào bê,
nào bò tót đều bị hạ.
Ðất đai của chúng máu tràn lênh
láng,
cát bụi của chúng mỡ dính bầy
nhầy.
8 Quả thế, đó là ngày Ðức Chúa báo
phục,
là năm Người trả oán mà biện hộ
cho Xi-on.
9 Và suối nước biến thành nhựa
chai,
cát bụi hoá lưu huỳnh, đất đai
thành nhựa cháy,
10 ngày đêm bốc lửa không ngừng, đời
đời nghi ngút khói;
thế hệ này qua thế hệ kia, vẫn
một cảnh hoang tàn,
không bóng người lai vãng.
11 Ðó sẽ là lãnh địa của nhím và kền
kền,
là nơi ở cho loài cú, loài quạ.
Ðức Chúa sẽ giăng dây đo biến nó
thành hỗn mang,
Người sẽ thả hòn chì cho nó nên
trống rỗng.
12 Giới quý tộc của nó không còn,
ở đó người ta chẳng tôn vương
nữa,
mọi thủ lãnh đều sẽ kể bằng
không.
13 Trong các lâu đài của nó, gai góc
mọc um tùm,
các đồn luỹ kiên cố đầy những tầm
ma và cỏ dại.
Nó sẽ là hang ổ sói rừng, là sân
chim đà điểu.
14 Mèo rừng gặp chó rừng, loài dê ma
quái hú gọi nhau.
Ðó cũng là nơi dung thân cho quỷ
Li-lít, là chốn hắn nghỉ ngơi.
15 Ðó còn là nơi rắn làm ổ đẻ trứng,
ấp cho nở và ủ ấm đàn con.
Cũng tại đó, lũ diều hâu tụ tập,
con nào cũng có bạn có đôi.
16 Hãy tìm trong sách của Ðức Chúa
và đọc:
sẽ không thiếu một con nào trong
chúng,
con nào cũng có bạn có đôi.
Bởi vì chính miệng Chúa đã phán
truyền,
chính thần khí Người quy tụ lại.
17 Chính Người đã bốc thăm,
và tay Người đã dùng dây đo mà
chia phần cho chúng.
Ðến muôn đời, chúng sẽ được thừa
hưởng phần này,
chúng sẽ ở lại đây hết đời này
qua đời nọ.
Chương 35
Giê-ru-sa-lem toàn thắng
1 Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng
khô cỏ cháy,
vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ
bông,
2 hãy tưng bừng nở hoa như khóm
huệ,
và hân hoan múa nhảy reo hò.
Sa mạc được tặng ban ánh huy
hoàng của núi Li-băng,
vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng
bằng Sa-ron.
Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy
hoàng của Ðức Chúa,
và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng
ta.
3 Hãy làm cho những bàn tay rã rời
nên mạnh mẽ,
cho những đầu gối bủn rủn được
vững vàng.
4 Hãy nói với những kẻ nhát gan:
"Can đảm lên, đừng sợ!
Thiên Chúa của anh em đây rồi;
sắp tới ngày báo phục,
ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt
tội.
Chính Người sẽ đến cứu anh
em."
5 Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai
người điếc nghe được.
6 Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như
nai,
miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.
Vì có nước vọt lên trong sa mạc,
khe suối tuôn ra giữa vùng đất
hoang vu.
7 Miền nóng bỏng biến thành ao hồ,
đất khô cằn có mạch nước trào ra.
Trong hang chó rừng ở sậy, cói sẽ
mọc lên.
8 Ở đó sẽ có một đường đi mang tên
là thánh lộ.
Kẻ ô uế sẽ chẳng được qua. Ðó sẽ
là con đường cho họ đi,
những kẻ điên dại sẽ không được
lang thang trên đó.
9 Ở đó sẽ không có sư tử, thú dữ ăn
thịt cũng chẳng vãng lai,
không thấy bóng dáng một con nào,
những ai được Chúa cứu chuộc sẽ
bước đi trên đó.
10 Những người được Ðức Chúa giải
thoát sẽ trở về,
tiến đến Xi-on giữa tiếng hò reo,
mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu.
Họ sẽ được hớn hở tươi cười,
đau khổ và khóc than sẽ biến mất.
Chương 36
Phụ Trương
Cuộc xâm lăng của vua Xan-khê-ríp
(2 V 18:13-37; 2 Sb 32:1-19)
1 Năm thứ mười bốn triều vua
Khít-ki-gia, vua Át-sua là Xan-khê-ríp tiến lên đánh mọi thành kiên cố của
Giu-đa và đã chiếm được. 2 Từ La-khít, vua Át-sua sai quan chánh
chước tửu cùng với một đạo binh hùng hậu đến gặp vua Khít-ki-gia ở
Giê-ru-sa-lem. Viên chánh chước tửu đứng gần kênh dẫn nước vào hồ trên phía
đường dẫn tới cánh đồng Thợ Nện Dạ. 3 Ra tiếp họ có ông En-gia-kim
con ông Khin-ki-gia-hu, đại nội thị thần, cùng với viên ký lục Sép-na và viên
quản lý văn khố Giô-ác, con ông A-xáp. 4 Viên chánh chước tửu bảo
họ: "Hãy nói với vua Khít-ki-gia: đại đế là vua Át-sua phán thế này: Dựa
vào niềm tin nào mà ông tin tưởng như thế? 5 Ông tưởng rằng trong cuộc chiến,
lời nói suông ngoài miệng thay thế được cho mưu kế và sức mạnh sao? Giờ đây ông
tin tưởng vào ai mà dám nổi loạn chống ta? 6 Hoá ra ông tin tưởng vào cây gậy
sậy dập nát là Ai-cập, nó sẽ đâm thủng bàn tay kẻ vịn vào nó! Pha-ra-ô vua
Ai-cập là vậy đó đối với mọi kẻ tin tưởng vào ông ta. 7 Có thể ông
sẽ nói với tôi: "Chúng tôi tin tưởng vào Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng
tôi." Thế chẳng phải Khít-ki-gia đã dẹp bỏ các nơi cao và các bàn thờ của
Người đó sao? Ông ta đã chẳng nói với Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: "Các
ngươi sẽ sụp lạy trước bàn thờ này.” 8 Bây giờ, ông hãy đánh cuộc
với vua Át-sua chúa thượng tôi: tôi sẽ cho ông hai ngàn con ngựa nếu ông tìm
được người cỡi. 9 Liệu ông có thể đẩy lui được một người thuộc hạng
dở nhất trong nhóm bộ hạ của chúa thượng tôi không? Thế mà ông lại cậy vào
Ai-cập để có xe có ngựa! 10 Bây giờ có phải ngoài ý muốn của Ðức Chúa mà ta đã
tiến đánh để tàn phá xứ này không? Chính Ðức Chúa đã phán với ta: "Hãy
tiến đánh và tàn phá xứ này."
11 Ông En-gia-kim, ông Sép-na và ông
Giô-ác nói với viên chánh chước tửu: "Xin ngài dùng tiếng A-ram mà nói, vì
các tôi tớ ngài đây hiểu được. Ngài đừng nói tiếng Giu-đa với chúng tôi kẻo
12 Viên chánh chước tửu nói:
"Chẳng lẽ chúa thượng tôi sai tôi đến nói những lời như thế với chúa
thượng của ông hay với ông sao? Chẳng phải là để nói với những người đang ngồi
trên tường thành kia đang phải ăn phân và uống nước tiểu của mình cùng với các
ông sao?"
13 Bấy giờ viên chánh chước tửu đứng
thẳng và hô lớn bằng tiếng Giu-đa rằng: "Hãy nghe lời đại đế, vua Át-sua: 14
Ðức vua phán thế này: Ðừng để Khít-ki-gia lừa dối các ngươi. Vì ông ta
không thể nào giải thoát các ngươi được. 15 Cũng đừng để Khít-ki-gia
dụ dỗ các ngươi tin tưởng vào Ðức Chúa khi ông ta nói: Chắc chắn Ðức Chúa sẽ
giải thoát chúng ta, và thành này sẽ không bị nộp vào tay vua Át-sua. 16 Ðừng
nghe lời Khít-ki-gia, vì vua Át-sua phán thế này: Hãy làm hoà với ta và ra đây,
ai nấy trong các ngươi vẫn được ăn hoa trái trong vườn nho, vườn vả của mình,
vẫn được uống nước bể nhà mình, 17 cho tới khi ta đến đem các ngươi
tới một xứ giống như xứ các ngươi, một xứ có lúa mì và rượu, xứ có bánh và vườn
nho. 18 Ðừng để Khít-ki-gia phỉnh gạt các ngươi rằng: "Ðức Chúa
sẽ giải thoát chúng ta." Hỏi rằng trong các thần của chư dân, đã có vị nào
thực sự giải thoát xứ mình khỏi tay vua Át-sua chưa? 19 Các thần của Kha-mát và
Ác-pát ở đâu? Các thần của Xơ-phác-va-gim ở đâu? Họ có giải thoát được Sa-ma-ri
khỏi tay ta chăng? 20 Trong tất cả các thần của các xứ, hỏi đã có thần nào cứu
được xứ của họ thoát khỏi tay ta chưa? Vậy Ðức Chúa cứu nổi Giê-ru-sa-lem khỏi
tay ta sao?"
21 Họ làm thinh, không đáp một lời,
vì vua đã ra lệnh: "Các ngươi đừng đáp lại hắn.” 22 Ông
En-gia-kim, đại nội thị thần, con ông Khin-ki-gia-hu, vào yết kiến vua
Khít-ki-gia cùng với ông Sép-na, ký lục, và ông Giô-ác, quản lý văn khố, con
ông A-xáp. Họ xé áo mình ra, kể lại cho vua nghe những lời viên chánh chước tửu
đã nói.
Chương 37
Cầu cứu ngôn sứ I-sai-a (2 V
19:1-7)
1 Nghe thế, vua Khít-ki-gia liền xé
áo mình ra, khoác áo vải thô, vào nhà Ðức Chúa. 2 Vua sai ông
En-gia-kim, đại nội thị thần, ông Sép-na ký lục, và các kỳ mục trong hàng tư
tế, tất cả đều khoác áo vải thô, đến gặp ngôn sứ I-sai-a, con ông A-mốc. 3
Họ thưa: "Vua Khít-ki-gia phán thế này: Hôm nay là một ngày khốn
quẫn, ngày trừng phạt, ngày ô nhục, vì đã đến lúc con lọt lòng, mà mẹ lại không
có sức sinh! 4 Ước chi Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, nghe thấy lời lẽ của viên
chánh chước tửu là người đã được vua Át-sua, chúa thượng hắn, sai đến thoá mạ
Thiên Chúa hằng sống; ước gì Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, trừng phạt vì những
lời Người đã nghe thấy. Xin ông dâng lời cầu nguyện cho số sót còn lại."
5 Khi các thuộc hạ của vua
Khít-ki-gia đến gặp ông I-sai-a, 6 ông I-sai-a bảo họ: "Các vị
sẽ thưa với chúa thượng của các vị như sau: Ðức Chúa phán thế này: Ðừng sợ
những lời ngươi đã nghe, những lời mà các tên hầu của vua Át-sua đã xúc phạm
đến Ta. 7 Này Ta sẽ đặt nơi nó một thần khí, khiến nó vừa nghe một
tin đồn, liền rút lui về nước. Ta sẽ làm cho nó bị gươm đâm gục ngã ngay tại xứ
sở nó."
Viên chánh chước tửu trở về (2 V
19:8-9a)
8 Viên chánh chước tửu trở về gặp
lúc vua Át-sua đang giao chiến với Líp-na. Quả thật, ông nghe biết vua đã rời
La-khít 9 vì vua nhận được tin nói về vua Cút là Tia-ha-ca: "Vua ấy đã ra
quân để giao chiến với ngài."
Trình thuật thứ hai về việc
Xan-khê-ríp can thiệp (2V 19 :9b-19)
Ðược tin ấy, vua Xan-khê-ríp liền
sai sứ đến với vua Khít-ki-gia. Vua nói: 10 "Các ngươi sẽ nói
với Khít-ki-gia vua Giu-đa thế này: Ðừng để Thiên Chúa của ông là Ðấng ông tin
tưởng, lừa dối ông rằng: Giê-ru-sa-lem sẽ không bị nộp vào tay vua Át-sua. 11
Này, ông thừa biết các vua Át-sua đã xử thế nào với tất cả các nước: các
vị ấy đã tru hiến chúng; còn ông, ông thoát sao được! 12 Thế các thần của chư
dân mà cha ông ta đã tiêu diệt, tức là các dân Gô-dan, Kha-ran, Re-xép, và con
cái ông E-đen ở Tơ-la-xa, có giải thoát được các dân ấy không? 13 Các vua của
Kha-mát, của Ác-pát, của La-ia, Xơ-phác-va-gim, Hê-na và I-va đâu cả rồi?” 14
Vua Khít-ki-gia cầm lấy thư từ tay các sứ giả trao cho mà đọc, rồi lên
nhà Ðức Chúa, mở thư ra trước nhan Ðức Chúa. 15 Vua Khít-ki-gia cầu
nguyện với Ðức Chúa rằng: 16 "Lạy Ðức Chúa các đạo binh, Thiên
Chúa Ít-ra-en, Ðấng ngự trên các kê-ru-bim, chính Ngài, và chỉ mình Ngài, mới
là Thiên Chúa thống trị mọi vương quốc trần gian. Chính Ngài đã làm nên trời
đất.
17 Lạy Ðức Chúa, xin lắng tai nghe,
lạy Ðức Chúa, xin đưa mắt nhìn.
Xin nghe rõ mọi lời Xan-khê-ríp
là kẻ đã sai người
đến thoá mạ Thiên Chúa hằng sống.
18 Quả thật, lạy Ðức Chúa, các vua
Át-sua đã tàn phá tất cả các dân và xứ sở của họ, 19 quăng các tượng
thần của họ vào lửa vì chúng không phải là thần, mà chỉ là tác phẩm bằng gỗ đá
do tay người phàm làm ra, cho nên các vua ấy đã phá huỷ được. 20 Nhưng
giờ đây, lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng con, xin cứu chúng con khỏi tay vua ấy,
để mọi vương quốc trần gian nhận biết rằng chính Ngài, và chỉ một mình Ngài,
mới là Thiên Chúa, lạy Ðức Chúa."
Ông I-sai-a can thiệp (2 V
19:20-28)
21 Ông I-sai-a con ông A-mốc sai
người đến tâu vua Khít-ki-gia rằng: "Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en phán
thế này về lời ngươi cầu xin Ta liên quan đến Xan-khê-ríp, vua Át-sua. 22 Ðây
lời Ðức Chúa kết tội nó:
Trinh nữ, cô gái Xi-on, khinh dể
nhạo báng ngươi;
sau lưng ngươi, cô gái
Giê-ru-sa-lem lắc đầu.
23 Ngươi đã thoá mạ, lăng nhục ai,
đã lớn tiếng, vênh mặt khinh khi
ai,
nếu không phải là chính Ðấng
Thánh của Ít-ra-en?
24 Ngươi đã dùng bầy tôi mà phỉ báng
Chúa Thượng,
và ngươi đã nói rằng: "Với
vô vàn chiến xa, ta trèo lên đỉnh núi,
lên những ngọn cao chót vót của
Li-băng.
Ta đốn những cây bá hương cao
vút,
những ngọn tùng bách đẹp tuyệt.
Ta đạt tới đỉnh cao ngút trời,
tới rừng cây thăm thẳm.
25 Chính ta đã đào giếng, đã uống nước
của ngoại bang;
ta đã làm cạn khô mọi sông ngòi
Ai-cập dưới đôi bàn chân ta."
26 Phải chăng ngươi không hề nghe
biết
Ta đã làm những điều ấy từ lâu?
Những điều Ta dự tính từ những
ngày xa xưa,
giờ đây Ta thực hiện: là phá tan
những thành trì kiên cố,
khiến chúng trở nên đống đá vụn
hoang tàn.
27 Cư dân của chúng đành bó tay, và
thẹn thùng khiếp đảm
khác nào cỏ đồng nội, tựa đám cỏ
xanh tươi,
đám cỏ mọc mái nhà, hoặc như cây
lúa héo chưa kịp vươn lên cao.
28 Khi ngươi ngồi, ngươi đứng, lúc
ngươi ra, ngươi vào,
Ta đều biết rõ cả;
ngay lúc ngươi nổi giận với Ta,
Ta cũng biết.
29 Bởi vì ngươi nổi giận với Ta
và những lời ngạo mạn đã thấu tận
tai Ta,
nên Ta sẽ xỏ vòng vào mũi, tra
hàm thiếc vào môi ngươi.
Trên chính con đường ngươi đã
tới,
Ta sẽ bắt ngươi phải lui về.
Dấu hiệu cho vua Khít-ki-gia (2V
19 :29-31)
30 Ðây sẽ là dấu hiệu cho ngươi:
Năm nay ăn lúa chét, năm tới có
lúa trời;
đến năm thứ ba, hãy gieo, hãy
gặt, hãy trồng nho mà ăn trái.
31 Trong nhà Giu-đa, những gì đã
thoát chết,
những gì còn sót lại sẽ cứ tiếp
tục đâm rễ sâu,
và trên cao trổ sinh hoa trái.
32 Vì từ Giê-ru-sa-lem, sẽ nảy sinh
số còn sót lại,
và từ núi Xi-on, sẽ xuất hiện
những người thoát chết.
Vì yêu thương cuồng nhiệt,
Ðức Chúa các đạo binh sẽ thực
hiện điều đó.
Lời sấm liên quan tới Át-sua (2 V
19:32 -34 )
33 Về vua Át-sua, Ðức Chúa phán như
sau:
Nó sẽ không vào được thành này,
không bắn được mũi tên nào tới
đó,
không núp sau thuẫn mà xông lên,
cũng chẳng đắp ụ để công phá.
34 Nó sẽ phải quay về theo chính con
đường nó đã đến,
chứ thành này thì nó không vào
được, sấm ngôn của Ðức Chúa.
35 Vì Ta và vì Ða-vít, tôi tớ của
Ta,
chính Ta sẽ che chở, và sẽ cứu
thành này.
Vua Xan-khê-ríp bị trừng phạt (2V
19 :35-37)
36 Thiên sứ của Ðức Chúa ra đánh
chết một trăm tám mươi lăm ngàn người trong trại quân Át-sua. Ban sáng, khi
người ta thức dậy, thì kìa, toàn là thây ma xác chết.
37 Vua Át-sua là Xan-khê-ríp nhổ
trại và lên đường. Ông rút về Ni-ni-vê và ở lại đó. 38 Nhưng rồi khi
ông đang sụp lạy thần Nít-rốc của ông trong đền thờ thì các hoàng tử Át-ram-me-léc
và Xa-re-xe dùng gươm đâm ông chết rồi trốn sang xứ A-ra-rát. Con vua là
Ê-xa-khát-đôn lên ngôi kế vị.
Chương 38
Vua Khít-ki-gia lâm bệnh và được
khỏi (2 Sb 32:24-26; 2 V 20:1-11)
1 Trong những ngày ấy, vua
Khít-ki-gia lâm bệnh nguy tử. Ngôn sứ I-sai-a con ông A-mốc đến gặp vua và nói:
"Ðức Chúa phán thế này: Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết chứ không
sống nổi đâu.” 2 Vua Khít-ki-gia quay mặt vào tường và cầu nguyện
với Ðức Chúa như sau: 3 "Ôi lạy Ðức Chúa, xin Ngài nhớ cho, con
đã trung tín và thành tâm bước đi trước nhan Ngài, đã thi hành điều đẹp mắt
Ngài." Rồi vua Khít-ki-gia khóc, khóc thật to.
4 Bấy giờ có lời Ðức Chúa phán với
ông I-sai-a rằng: 5 "Hãy đi nói với Khít-ki-gia: Ðức Chúa,
Thiên Chúa của Ða-vít tổ tiên ngươi, phán thế này: Ta đã nghe lời ngươi cầu
nguyện, Ta đã thấy nước mắt của ngươi. Này, Ta sẽ cho ngươi sống thêm mười lăm
năm nữa. 6 Ta sẽ giải thoát ngươi cùng với thành này khỏi tay vua
Át-sua, sẽ che chở thành này."
21 Ông I-sai-a nói: "Lấy một
cái bánh vả cà vào chỗ ung nhọt thì vua sẽ sống.” 22 Vua Khít-ki-gia
nói: "Cứ dấu nào mà biết tôi sẽ lên được nhà Ðức Chúa?” 7 Ông
I-sai-a trả lời: "Ðây là dấu Ðức Chúa ban cho ngài, chứng tỏ Ðức Chúa sẽ
thực hiện điều Người đã phán: 8 Này, bóng mặt trời đã ngả trên các
bậc thang vua A-khát đã xây, Ta sẽ cho lui lại mười bậc." Quả vậy, bóng
mặt trời đã lui lại mười bậc trong số các bậc thang nó đã chiếu xuống.
Bài ca của vua Khít-ki-gia
9 Bài ca Khít-ki-gia, vua Giu-đa,
đã sáng tác khi ông lâm bệnh và sau đó khi ông được qua khỏi:
10 Tôi có nói: nửa cuộc đời dang dở
mà đã phải ra đi,
bao tháng năm còn lại, giam tại
cửa âm ty.
11 Tôi có nói: chẳng còn được thấy
Ðức Chúa
ở trên cõi dương gian,
hết nhìn thấy con người đang sống
nơi trần thế.
12 Nhà tôi ở đã bị giật tung, và đem
đi như lều mục tử.
Lạy Chúa, con như người thợ dệt,
đang mải dệt đời mình,
bỗng nhiên bị tay Chúa cắt đứt
ngay hàng chỉ.
Từ sáng tới khuya, Chúa làm con
hao mòn sinh lực.
13 Tới lúc bình minh, con vẫn kêu
gào,
như bị sư tử nghiền nát thịt
xương.
Từ sớm tới khuya, Chúa làm con
hao mòn sinh lực.
14 Con thở than như nhạn kêu chim
chíp,
con rầm rì chẳng khác bồ câu;
nhìn lên Chúa mãi, mắt con đã
hoen mờ.
Lạy Chúa, sức con nay đã kiệt,
xin Ngài thương cứu giúp.
15 Tôi sẽ ngỏ lời, sẽ nói sao đây?
Vì điều đó, chính Người đã thực
hiện.
Suốt đời tôi lê bước, tâm hồn đầy
những nỗi đắng cay.
16 Lạy Chúa, ngày tháng đời con là
của Chúa,
sự sống linh hồn con thuộc về
Ngài.
Xin chữa lành và cho con được
sống.
17 Nay muôn vàn cay đắng đã hoá nên
an bình,
vì chính Ngài đã cứu con khỏi hố
diệt vong,
vất bỏ sau lưng mọi lỗi lầm con
phạm.
18 Vì ở chốn tử vong, không người ca
tụng Chúa,
và trong nơi âm phủ, chẳng ai
ngợi khen Ngài.
Kẻ xuống mồ cũng dứt niềm trông
cậy vào lòng Chúa tín trung.
19 Chỉ người sống, vâng chỉ người
sống
mới ca tụng Ngài như thể con nay.
Người cha sẽ dạy cho con cái rõ
Ngài là Ðấng tín trung.
20 Lạy Ðức Chúa, xin Ngài thương cứu
độ.
Rồi chúng con sẽ ngày ngày xướng
hoạ đàn ca
trong nhà Ðức Chúa, suốt cả cuộc
đời.
Chương 39
Phái đoàn Ba-by-lon (Ba-ben) (2 V
20:12-19)
1 Khi ấy vua Ba-by-lon là Mơ-rô-đác
Ba-la-đan, con ông Ba-la-đan, sai người đem thư và quà tặng cho vua
Khít-ki-gia, vì nghe tin vua bị bệnh và đã bình phục. 2 Vua
Khít-ki-gia vui mừng tiếp đón họ và cho xem kho tàng của vua: vàng bạc, hương
liệu, dầu quý, kho vũ khí và tất cả những gì có trong các nơi dự trữ của vua;
không có gì trong cung điện và trong toàn lãnh thổ mà vua Khít-ki-gia không cho
họ xem.
3 Ngôn sứ I-sai-a vào gặp vua
Khít-ki-gia và nói: "Những người ấy đã nói gì với vua, và họ từ đâu
tới?" Vua Khít-ki-gia đáp: "Họ từ một xứ xa xôi, mãi tận Ba-by-lon
đến đây.” 4 Ông hỏi: "Họ thấy gì trong cung điện của
ngài?" Vua đáp: "Trong cung điện của tôi có gì, họ thấy hết cả. Không
có gì trong các kho dự trữ mà tôi không cho họ xem."
5 Bấy giờ ông I-sai-a nói với vua
Khít-ki-gia: "Xin vua nghe lời Ðức Chúa các đạo binh phán: 6 Này,
sẽ đến những ngày mọi sự trong cung điện ngươi, tất cả những gì xưa nay tổ tiên
ngươi đã tích trữ, đều bị đem đi Ba-by-lon, không còn lại một thứ gì - Ðức Chúa
phán. 7 Một số con cái ngươi, xuất thân từ ngươi, do chính ngươi
sinh ra, sẽ bị bắt đi làm thái giám trong hoàng cung của vua Ba-by-lon.” 8
Vua Khít-ki-gia nói với ông I-sai-a: "Lời Ðức Chúa ông vừa truyền
lại quả là tốt." Vua tự nhủ: "Miễn sao có hoà bình và yên ổn bao lâu
ta còn sống!"
Chương 40
II. Sách An Ủi Dân Ít-Ra-En
Loan báo ngày giải thoát
1 Thiên Chúa anh em phán: "Hãy
an ủi, an ủi dân Ta:
2 Hãy ngọt ngào khuyên bảo
Giê-ru-sa-lem, và hô lên cho Thành:
thời phục dịch của Thành đã mãn,
tội của Thành đã đền xong,
vì Thành đã bị tay Ðức Chúa giáng
phạt gấp hai lần tội phạm."
3 Có tiếng hô:
"Trong sa mạc, hãy mở một
con đường cho Ðức Chúa,
giữa đồng hoang, hãy vạch một con
lộ thẳng băng
cho Thiên Chúa chúng ta.
4 Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy,
mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống,
nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng
bằng,
chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng
phiu.
5 Bấy giờ vinh quang Ðức Chúa sẽ tỏ
hiện,
và mọi người phàm sẽ cùng được
thấy
rằng miệng Ðức Chúa đã tuyên
phán."
6 Có tiếng nói: "Hãy hô
lên!"
Tôi thưa: "Phải hô lên điều
gì?"
- "Người phàm nào cũng đều
là cỏ,
mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng
nội.
7 Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Ðức
Chúa thổi qua.
Phải, dân là cỏ:
8 cỏ héo, hoa tàn,
nhưng lời của Thiên Chúa chúng ta
đời đời bền vững."
9 Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy
trèo lên núi cao.
Hỡi kẻ loan tin mừng cho
Giê-ru-sa-lem,
hãy cất tiếng lên cho thật mạnh.
Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo
các thành miền Giu-đa rằng:
"Kìa Thiên Chúa các
ngươi!"
10 Kìa Ðức Chúa quang lâm hùng dũng,
tay nắm trọn chủ quyền.
Bên cạnh Người, này công lao lập
được,
trước mặt Người, đây sự nghiệp
làm nên.
11 Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn
chiên của Chúa,
tập trung cả đoàn dưới cánh tay.
Lũ chiên con, Người ấp ủ vào
lòng,
bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn
dắt.
Thiên Chúa cao cả
12 Ai dùng lòng bàn tay đong nước
biển,
lấy gang tay đo chín tầng trời,
dùng cái thưng mà lường xem bụi
đất,
lấy cân bàn cân móc mà cân thử
núi đồi?
13 Thần khí Ðức Chúa, ai đo cho nổi?
Ai làm quân sư chỉ vẽ cho Người?
14 Người đã thỉnh ý ai để giúp Người
thông hiểu,
bảo cho Người biết lối công minh,
dạy cho Người mở mang kiến thức,
chỉ cho Người con đường trí tuệ?
15 Này các quốc gia như thể giọt
nước bám miệng thùng,
khác nào hạt cát dính bàn cân,
kìa muôn hải đảo nặng tày chút
bụi.
16 Cây rừng Li-băng không đủ đốt của
lễ,
thú rừng Li-băng chẳng đủ làm lễ
vật toàn thiêu.
17 Mọi nước chỉ là không không trước
mặt Người,
Người coi chúng là hư vô trống
rỗng.
18 Các ngươi đem Thiên Chúa sánh với
ai?
Ðặt hình ảnh nào bên cạnh Người
cho tương xứng?
19 Ðặt tượng thần ư? Tượng thần chỉ
do tay thợ đúc làm ra,
thợ kim hoàn thếp vàng một lớp,
rồi đúc dây chuyền bạc mà tô điểm
thêm lên.
20 Người ít của muốn dâng lễ vật
sẽ chọn khúc gỗ không mục nát,
rồi tìm đến tay thợ lành nghề
đặt làm một tượng thần không lay
không chuyển.
21 Chẳng lẽ các ngươi lại không
biết?
Chẳng lẽ các ngươi chưa được
nghe?
Chẳng lẽ chưa ai báo cho các
ngươi tự ban đầu?
Chẳng lẽ các ngươi lại không hiểu
trái đất được xây nền đặt móng
làm sao?
22 Ðấng ngự trên vòm che trái đất
nhìn xuống cư dân như châu chấu
cào cào.
Cả bầu trời, Người dăng như bức
trướng,
và căng ra như căng lều để ở.
23 Vương hầu khanh tướng, Người cho
hoá ra không,
thẩm phán trần gian, Người biến
thành hư ảo.
24 Chúng vừa được trồng, chúng mới
được gieo,
thân chưa kịp đâm rễ xuống đất,
thì Người đã thổi hơi, và chúng
liền khô héo,
rồi cơn lốc cuốn chúng đi như rơm
rạ.
25 Các ngươi so sánh Ta với ai, để
Ta phải ngang hàng với nó?
26 Hãy đưa mắt lên cao mà nhìn: Ai
đã sáng tạo những vật đó?
Ðấng tung ra toàn bộ đạo binh các
tinh tú,
Người gọi đích danh từng ngôi
một,
khiến không thiếu vắng một ngôi
nào.
27 Hỡi Gia-cóp, sao ngươi nói, hỡi
Ít-ra-en, sao ngươi bảo:
"Ðường tôi đi, Ðức Chúa
không nhìn thấy,
quyền lợi của tôi, Thiên Chúa
chẳng đoái hoài?"
28 Ngươi chẳng biết, chẳng nghe thấy
sao?
Ðức Chúa là Thiên Chúa vĩnh cửu,
là Ðấng sáng tạo toàn cõi đất.
Người không mệt mỏi, chẳng nhọc
nhằn,
trí thông minh của Người khôn dò
thấu.
29 Người ban sức mạnh cho ai mệt
mỏi,
kẻ kiệt lực, Người làm cho nên
cường tráng.
30 Thanh niên thì mệt mỏi, nhọc
nhằn,
trai tráng cũng ngả nghiêng, lảo
đảo.
31 Nhưng những người cậy trông Ðức
Chúa
thì được thêm sức mạnh.
Như thể chim bằng, họ tung cánh.
Họ chạy hoài mà không mỏi mệt,
và đi mãi mà chẳng chùn chân.
Chương 41
Vua Ky-rô, khí cụ của Ðức Chúa
1 Hỡi các đảo, hãy lắng nghe tôi,
mong các dân được thêm sức mạnh
tiến lại gần và lên tiếng nói!
Ta hãy cùng nhau ra toà nào!
2 Từ phương Ðông, ai đã cho xuất
hiện người hùng
đi mở đường cho nền công chính?
Ai trao vào tay ông các dân các
nước,
bắt mọi vua chúa phải phục quyền?
Ðao kiếm của ông làm chúng hoá ra
như tro bụi,
cung nỏ của ông khiến chúng tán
loạn tựa cọng rơm.
3 Ông đuổi bắt thù địch, ông tiến
bước an toàn.
Trên đường đi, chân ông không
chấm đất.
4 Ðiều đó, ai đã thực hiện, ai đã
làm nên?
- Chính là Ðấng từ nguyên thuỷ
đã an bài cho các thời đại nối
tiếp nhau.
Chính là Ta. Ta là Ðức Chúa, Ta
là khởi nguyên,
và giữa những người của thời sau
hết, Ta vẫn là Ta.
5 Các đảo nhìn thấy và hoảng sợ,
chân trời góc biển cũng chuyển
rung, dõi theo sự việc và tiến tới.
6 Người nào cũng giúp đỡ đồng bạn
và nói với anh em mình: "Can
đảm lên!"
7 Thợ điêu khắc động viên thợ bạc,
kẻ dùng búa để mài khích lệ người
đập đe, khen mối hàn là tốt,
rồi lấy đinh đóng chặt tượng thần
cho khỏi chuyển khỏi lay.
Thiên Chúa tuyển chọn và phù hộ
Ít-ra-en
8 Nhưng phần ngươi, hỡi Ít-ra-en,
tôi tớ của Ta,
hỡi Gia-cóp, kẻ Ta tuyển chọn,
dòng dõi Áp-ra-ham, bạn của Ta,
9 Ta đã nắm chặt lấy ngươi, đưa
ngươi về từ tận cùng cõi đất,
kêu gọi ngươi từ những miền xa
thẳm.
Ta đã nói với ngươi: "Ngươi
là tôi tớ Ta,
Ta đã chọn ngươi, Ta đâu ruồng
bỏ.
10 Ðừng sợ hãi: có Ta ở với ngươi.
Ðừng nhớn nhác: Ta là Thiên Chúa
của ngươi.
Ta cho ngươi vững mạnh,
Ta lại còn trợ giúp với tay hữu
toàn thắng của Ta.
11 Quả vậy, hết thảy những ai giận
ghét ngươi
sẽ thẹn thùng xấu hổ,
và mọi kẻ gây hấn với ngươi
đều kể như không có và bị tiêu
diệt.
12 Thù địch ngươi, ngươi sẽ tìm mà
không thấy.
Những kẻ giao chiến với ngươi
sẽ kể như không có, như hết sạch
cả rồi.
13 Vì Ta, Ðức Chúa, là Thiên Chúa
của ngươi,
Ðấng cầm lấy tay phải ngươi và
phán bảo:
"Ðừng sợ, chính Ta phù trợ
ngươi.
14 Ðừng sợ, hỡi Gia-cóp, loài sâu
bọ,
hỡi Ít-ra-en, kẻ mọn hèn.
Chính Ta phù trợ ngươi - sấm ngôn
của Ðức Chúa -,
Ðấng cứu chuộc ngươi là Ðức Thánh
của Ít-ra-en."
15 Này đây Ta sẽ biến ngươi thành
một cái bừa
vừa sắc vừa mới và đầy mũi nhọn.
Ngươi sẽ dày đạp và nghiền nát
núi non,
sẽ làm cho các đồi nên như trấu.
16 Ngươi sẽ rê chúng, gió sẽ cuốn đi
và bão táp sẽ phân tán chúng.
Còn ngươi, vì Ðức Chúa, sẽ mừng
vui hoan hỷ,
vì Ðức Thánh của Ít-ra-en, sẽ
hãnh diện, tự hào.
17 Những ai nghèo hèn, khốn khổ,
tìm nước không ra, lưỡi khô vì
khát,
Ta, Ðức Chúa, Ta sẽ đáp lời, Ta,
Thiên Chúa của Ít-ra-en,
Ta sẽ không bỏ rơi chúng.
18 Ta sẽ khai mở sông ngòi trên các
đồi trọc,
và khe suối dưới các lũng sâu.
Ta sẽ biến hoang địa thành hồ ao,
biến đất khô nên mạch nước dồi
dào.
19 Và trong vùng hoang địa,
Ta sẽ trồng bá hương, keo, sim
với ô-liu;
trên những dải đất hoang, Ta sẽ
cho mọc lên một trật
nào trắc bá, nào du, nào hoàng
dương,
20 để cùng một lúc, thiên hạ đều nhìn
ra và nhận biết,
nghiền ngẫm và hiểu rằng:
điều ấy, bàn tay Ðức Chúa đã làm
nên,
điều ấy, Ðức Thánh của Ít-ra-en
đã tạo thành.
Tượng thần là hư vô
21 Ðức Chúa phán: Hãy trình bày vụ
kiện của các ngươi!
Ðức Vua nhà Gia-cóp truyền: Hãy
đưa ra luận chứng!
22 Chúng cứ đưa ra, và báo cho chúng
tôi rõ những gì sẽ xảy đến!
Ðã có những điềm nào báo trước,
cứ nói đi, rồi chúng tôi sẽ quan
tâm, và biết rõ hậu vận thế nào;
hay là cứ kể cho chúng tôi nghe
những gì sẽ xảy đến.
23 Nói lên đi những gì sẽ xảy đến
sau này,
cho chúng tôi nhận ra quý vị là
thần, là chúa!
Bất kể quý vị làm điều lành hay
điều dữ,
chúng tôi cũng sẽ táng đởm kinh
hồn.
24 Quả thật các ngươi toàn là hư vô,
việc làm của các ngươi chẳng là
gì hết.
Ai chọn các ngươi mà thờ, thật
đáng kinh tởm.
25 Ta đã cho Ky-rô xuất hiện từ
phương Bắc và nó đã tới;
từ phía mặt trời mọc, Ta đã gọi
nó đích danh;
nó giẫm đạp lên hàng quyền quý
như người ta giẫm đạp bùn lầy,
như thợ gốm lấy chân nhào đất
sét.
26 Ai đã loan tin từ thuở ban đầu
cho chúng tôi được biết?
Ai đã loan tin từ thuở xa xưa để
chúng tôi nói: "Ðúng vậy"?
nhưng không, chẳng ai cho biết,
chẳng ai nói cho ai nghe,
chẳng ai được nghe các ngươi nói
một lời!
27 Ðây rồi, người đầu tiên lên tiếng
với Xi-on,
và Ta sẽ gửi đến cho
Giê-ru-sa-lem kẻ loan báo tin mừng.
28 Ta đã nhìn xem: chẳng có một ai!
Trong bọn chúng, không một người
cố vấn
để cho Ta hỏi ý, để đáp lại lời
Ta!
29 Thế đó: tất cả bọn chúng là hư
vô, công việc chúng làm là hư ảo,
tượng thần vàng bạc của chúng là
hơi gió hư không!
Chương 42
Bài ca người Tôi Trung - Bài thứ
nhất
1 Ðây là người tôi trung Ta nâng
đỡ,
là người Ta tuyển chọn và quý mến
hết lòng,
Ta cho thần khí Ta ngự trên nó;
nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước
muôn dân.
2 Nó sẽ không kêu to, không nói
lớn,
không để ai nghe tiếng giữa phố
phường.
3 Cây lau bị giập, nó không đành bẻ
gẫy,
tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ
tắt đi.
Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ
công lý.
4 Nó không yếu hèn, không chịu
phục,
cho đến khi thiết lập công lý
trên địa cầu.
Dân các hải đảo xa xăm đều mong
được nó chỉ bảo.
5 Ðây là lời Thiên Chúa, lời Ðức
Chúa,
Ðấng sáng tạo và căng vòm trời,
Ðấng trải rộng mặt đất với hoa
màu tràn lan,
Ðấng ban hơi thở cho dân trên mặt
đất,
ban sinh khí cho toàn thể cư dân.
6 Người phán thế này: "Ta là
Ðức Chúa, Ta đã gọi ngươi,
vì muốn làm sáng tỏ đức công
chính của Ta.
Ta đã nắm tay ngươi,
đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao
ước với dân,
làm ánh sáng chiếu soi muôn nước,
7 để mở mắt cho những ai mù loà,
đưa ra khỏi tù những người bị
giam giữ,
dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi
trong chốn tối tăm."
8 Ta là Ðức Chúa, đó là danh Ta.
Vinh quang của Ta, Ta không
nhường cho ai khác;
lời tán tụng dành cho Ta, Ta
không để các tượng thần tước đoạt.
9 Chuyện cũ đã qua rồi, nay Ta loan
báo những điều mới,
và trước khi những điều này xảy
ra,
Ta đã cho các ngươi nghe biết.
Bài ca chiến thắng
10 Hát lên mừng Ðức Chúa một bài ca
mới,
tán tụng Người đi, từ cùng cõi
địa cầu!
Gầm thét lên, hỡi đại dương với
muôn ngàn hải vật,
hỡi các đảo và toàn thể dân cư!
11 Nào đồng thanh, hỡi sa mạc cùng
với thị thành,
và bao thôn ấp người Kê-đa du
mục!
Hò reo lên, hỡi dân miền Núi Ðá,
từ đỉnh cao vời, hãy cất tiếng
hoan hô!
12 Nào tất cả cùng tôn vinh Ðức
Chúa,
phổ biến cho các đảo bài tán
dương Người!
13 Ðức Chúa như vị anh hùng xuất
trận,
trang chiến binh, nhiệt khí bừng
bừng,
tiếng thét gào, tiếng hét xung
phong,
chống thù địch, vung cánh tay
dũng tướng.
14 "Từ lâu Ta đã từng nín lặng,
Ta làm thinh, Ta đã dằn lòng,
như sản phụ lâm bồn, Ta rên siết,
Ta hổn hển, Ta thở chẳng ra hơi.
15 Ta sẽ phá tan hoang đồi cùng núi,
làm cho héo tàn mọi cây cỏ xanh
tươi,
Ta sẽ khiến sông ngòi thành hoang
đảo,
biến hồ ao thành chỗ khô cằn.
16 Ta dẫn người mù tối qua những lối
chưa tường,
trên nẻo đường mới lạ, sẽ dìu họ
bước đi.
Ta biến đổi bóng tối thành ánh
sáng soi họ,
và uốn khúc gập ghềnh thành quan
lộ thẳng băng.
Những điều ấy, Ta sẽ thực hiện,
không bỏ sót điều nào.
17 Ai tin vào ngẫu tượng, ai thưa
cùng tượng đúc:
"Các ngài là thần của chúng
tôi",
những người ấy sẽ tháo lui ê chề
nhục nhã."
Ít-ra-en mù quáng
18 Người điếc, hãy nghe! Kẻ mù, hãy
nhìn cho thấy!
19 Ai mù, nếu không phải là tôi tớ
Ta?
Ai điếc như người được Ta sai đi
làm sứ giả?
Ai mù như người được Ta quý
chuộng?
Ai điếc như người tôi tớ của Ðức
Chúa?
20 Ngươi đã thấy nhiều mà vẫn chẳng
lưu tâm,
đã mở tai mà vẫn không nghe gì.
21 Vì đức công chính của Người, Ðức
Chúa đã vui thích
khi làm cho luật pháp Người nên
vẻ vang cao cả.
22 Thế nhưng dân này lại bị cướp phá
bóc lột,
mọi người bị nhốt dưới hố sâu,
tất cả bị giam trong ngục tối.
Họ bị cướp mà không người cứu
nguy,
bị bóc lột mà không ai lên tiếng
đòi: "Trả lại!
23 Ai trong các ngươi để tai nghe
điều đó?
Trong tương lai, ai gắng hiểu cho
tường?
24 Ai đã để cho Gia-cóp chịu cảnh
bóc lột,
đã trao Ít-ra-en vào tay bọn
cướp?
Há chẳng phải là Ðức Chúa hay
sao?
Quả thật, chúng ta đã đắc tội với
Người:
đường lối Người, không ai chịu
bước theo,
luật pháp Người, chẳng ai buồn
tuân giữ.
25 Chính vì thế, Người trút cơn
thịnh nộ xuống dân Người,
cho lan tràn cảnh chiến tranh
khốc liệt.
Khắp xung quanh, lửa bừng bừng
cháy, mà dân chẳng hiểu gì,
lửa thiêu huỷ nó, mà nó chẳng
quan tâm.
Chương 43
Ðức Chúa phù trợ và giải thoát
Ít-ra-en
1 Nhưng bây giờ, đây là lời Ðức
Chúa phán,
lời của Ðấng tạo thành ngươi, hỡi
Gia-cóp,
lời của Ðấng nắn ra ngươi, hỡi
Ít-ra-en:
Ðừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về,
đã gọi ngươi bằng chính tên
ngươi: ngươi là của riêng Ta!
2 Ngươi có băng qua nước, Ta sẽ ở
cùng ngươi,
ngươi có vượt qua sông, cũng
không bị nước cuốn;
ngươi có đi trong lửa, cũng chẳng
hề hấn gì,
ngọn lửa không thiêu rụi ngươi
đâu.
3 Vì chính Ta là Ðức Chúa, Thiên
Chúa ngươi thờ,
là Ðức Thánh của Ít-ra-en, Ðấng
cứu độ ngươi.
Ta đã thí Ai-cập làm giá chuộc
ngươi về,
nộp Cút và Xơ-va để đổi lấy
ngươi.
4 Vì trước mắt Ta, ngươi thật quý
giá,
vốn được Ta trân trọng và mến
thương,
nên Ta đã thí bao người đổi lấy
ngươi,
nộp bao dân nước thế mạng ngươi.
5 Ðừng sợ, có Ta ở với ngươi!
Từ phương Ðông, Ta sẽ đưa con cái
ngươi về,
và từ phương Tây, Ta sẽ cho con
cháu ngươi đoàn tụ.
6 Ta sẽ nói với phương Bắc: Ðưa cho
Ta!
Và nói với phương Nam: Ðừng giữ
lại!
Hãy đưa con trai Ta về từ viễn
xứ,
và con gái Ta từ góc biển chân
trời.
7 Ðó là tất cả những người mang
danh Ta, đã được Ta tạo dựng,
nắn thành hình và làm nên, cho
danh Ta rạng ngời vinh hiển.
Ðức Chúa là Thiên Chúa độc nhất
8 Hãy để cho dân này ra đi, dân có
mắt mà mù, có tai mà điếc!
9 Chư dân hãy cùng nhau tập họp,
liệt quốc nào tề tựu bên nhau!
Ai trong chúng đã cho hay những
điều đó,
đã cho chúng ta nghe những chuyện
ngày xưa?
Cứ đưa ra nhân chứng và bào chữa
cho mình,
để mọi người được nghe và nói
rằng: Ðúng thế!
10 Chính các ngươi là nhân chứng của
Ta
- sấm ngôn của Ðức Chúa -, là bề
tôi Ta đã tuyển chọn,
để các ngươi nhận biết và tin Ta,
và hiểu rõ Ta vẫn là Ta:
trước Ta, chẳng có thần nào khác
được hình thành,
và sau Ta cũng vậy.
11 Chính Ta, chính Ta đây là Ðức
Chúa,
ngoài Ta ra, chẳng có ai cứu độ.
12 Chính Ta đã báo cho biết, đã cứu
độ và nói cho nghe,
chứ giữa các ngươi, chẳng có thần
lạ nào.
Vậy chính các ngươi là nhân chứng
của Ta
- sấm ngôn của Ðức Chúa -, và
chính Ta là Thiên Chúa,
13 tự muôn đời, Ta vẫn là Ta: không
ai cứu thoát khỏi tay Ta,
Ta đã làm, ai dám làm ngược lại?
Chống lại Ba-by-lon (Ba-ben)
14 Ðây là lời Ðức Chúa, Ðấng cứu
chuộc các ngươi,
Ðức Thánh của Ít-ra-en, Người
phán thế này:
Vì các ngươi, Ta đã sai người đến
Ba-by-lon;
mọi thanh cửa thành, Ta quăng
xuống đất,
làm cho tiếng reo hò của dân
Can-đê trở thành lời ai oán.
15 Chính Ta là Ðức Chúa, Ðức Thánh
các ngươi thờ,
Ðấng tạo thành Ít-ra-en, Ðấng làm
vua cai trị các ngươi.
Những điềm thiêng dấu lạ trong
cuộc xuất hành mới
16 Ðây là lời Ðức Chúa,
Ðấng đã vạch một con đường giữa
đại dương,
một lối đi giữa sóng nước oai
hùng,
17 Ðấng đã cho xuất trận
nào chiến xa chiến mã, nào tướng
mạnh binh hùng:
- tất cả đã nằm xuống, và không
còn trỗi dậy,
đã bị dập đi, tắt ngấm như tim
đèn.
18 Người phán như sau:
"Các ngươi đừng nhớ lại
những chuyện ngày xưa,
chớ quan tâm về những việc thuở
trước.
19 Này Ta sắp làm một việc mới,
việc đó manh nha rồi, các ngươi
không nhận thấy hay sao?
Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa
sa mạc,
khơi những dòng sông tại vùng đất
khô cằn.
20 Loài dã thú, chó rừng và đà điểu,
đều sẽ tôn vinh Ta;
vì Ta cho nước chảy ngay giữa sa
mạc,
khơi những dòng sông tại vùng đất
khô cằn,
cho dân Ta tuyển chọn được giải
khát.
21 Ta đã gầy dựng cho Ta dân này,
chúng sẽ lên tiếng ngợi khen Ta.
Ít-ra-en bội nghĩa vong ân
22 Vậy mà, hỡi Gia-cóp, ngươi đã
chẳng kêu cầu Ta;
phải, hỡi Ít-ra-en, ngươi đã chán
Ta rồi.
23 Ngươi đã không đem chiên đến làm
lễ toàn thiêu dâng Ta,
làm hy lễ cho Ta được vinh hiển.
Ta đâu có làm ngươi khổ cực vì
phải dâng lễ phẩm cho Ta,
cũng chẳng làm cho ngươi chán
chường
vì chuyện hương với khói.
24 Ngươi đã không bỏ tiền mua hương
liệu dâng Ta,
cũng không dâng mỡ béo cho Ta
được thoả dạ no lòng.
Ngươi lại còn làm cho Ta cực khổ
vì lầm lỗi của ngươi,
làm cho Ta chán chường vì tội ác
ngươi phạm.
25 Nhưng chính Ta đây, vì danh dự
của Ta,
Ta sẽ xoá bỏ các tội phản nghịch
của ngươi,
và không còn nhớ đến lỗi lầm của
ngươi nữa.
26 Nhắc lại cho Ta điều ngươi phiền
trách,
rồi chúng ta sẽ cùng nhau xét xử;
có gì, ngươi cứ kể ra đi mà bào
chữa cho mình.
27 Tổ phụ đầu tiên của ngươi đã phạm
tội,
và những người lãnh đạo ngươi đã
phản nghịch cùng Ta.
28 Vì vậy, Ta đã phế bỏ các vị chức
trách đền thờ,
đã lên án tru diệt Gia-cóp
và bỏ mặc Ít-ra-en cho người đời
thoá mạ.
Chương 44
Thiên Chúa giáng phúc cho
Ít-ra-en
1 Nhưng giờ đây, hãy lắng nghe,
hỡi Gia-cóp, tôi tớ của Ta, hỡi
Ít-ra-en, kẻ Ta tuyển chọn!
2 Ðức Chúa, Ðấng tạo thành ngươi,
Ðấng nắn ra ngươi từ khi ngươi
còn trong lòng mẹ,
Ðấng phù trợ ngươi, Người phán
thế này:
Ðừng sợ, hỡi Gia-cóp, tôi tớ của
Ta,
hỡi Giơ-su-run, kẻ Ta tuyển chọn!
3 Vì Ta sắp đổ mưa xuống những vùng
hạn hán
và cho suối chảy trên mảnh đất
khô cằn;
trên dòng dõi ngươi, Ta sẽ đổ
thần khí,
trên con cháu ngươi, Ta ban muôn
phúc lành.
4 Chúng sẽ mọc lên giữa đồng cỏ,
như dương liễu bên dòng nước.
5 Người này sẽ nói: tôi thuộc về
Ðức Chúa,
người kia sẽ lấy tên Gia-cóp đặt
cho mình,
kẻ nọ lại viết lên tay:
"thuộc về Ðức Chúa"
và lấy tên Ít-ra-en đặt cho mình.
Chỉ có một Thiên Chúa
6 Ðức Chúa là Vua, là Ðấng cứu
chuộc Ít-ra-en,
và là Ðức Chúa các đạo binh,
Người phán thế này:
Ta là khởi nguyên, Ta là cùng
tận;
chẳng có thần nào hết, ngoại trừ
Ta.
7 Ai được như Ta, người ấy cứ lên
tiếng,
cứ kể ra và trình bày cho Ta xem
những gì đã xảy ra từ thời cổ
đại, khi Ta tạo dựng loài người.
Và những gì sẽ xảy đến, cứ kể ra
đi.
8 Ðừng run, đừng sợ.
Ta đã chẳng cho ngươi nghe từ
thuở nào,
đã chẳng báo cho ngươi biết đó
sao?
Chính các ngươi là nhân chứng của
Ta.
Hỏi có thần nào khác, hỏi có núi
đá nào khác, ngoại trừ Ta?
Ta biết chắc là không.
Tượng thần là hư vô
9 Thợ nắn ra tượng thần, tất cả bọn
họ chẳng là gì hết. Các kiệt tác của họ đều vô dụng. Chúng là nhân chứng của
họ, nhưng là những nhân chứng chẳng thấy, chẳng hiểu gì, nên chỉ làm xấu mặt họ
mà thôi. 10 Ai lại nắn ra một ông thần, đúc ra một pho tượng để
chẳng được gì cả! 11 Ðúng vậy, tất cả những ai sùng bái tượng thần đều phải xấu
hổ, và những kẻ tạo ra chúng cũng chỉ là phàm nhân. Họ cứ tụ tập lại hết đi,
bước cả ra xem nào! Họ sẽ khiếp run và xấu hổ cả đám.
12 Trên than hồng, anh thợ rèn làm
một cái rìu, lấy búa đập thành hình, dùng cả sức mạnh cánh tay mà làm việc. Anh
đói đến kiệt sức, khát đến mệt lả. 13 Anh thợ chạm lấy dây chăng,
lấy phấn vẽ hình trên gỗ, lấy đục mà chạm trổ theo đường nét com-pa. Anh làm
cho nó ra hình người, có vẻ đẹp của con người, để nó ngự trong nhà. 14 Anh
đốn bá hương, chọn cây dẻ cây sồi mà anh đã để cho lớn cho chắc giữa bao nhiêu
cây cối trong rừng. Anh đã trồng một cây thông, mưa làm cho nó lớn lên. 15
Người ta lấy gỗ làm củi: phần để sưởi, phần để nhóm lửa nướng bánh, rồi
phần nữa để tạc tượng thần mà lạy, làm một ông thần mà thờ, 16 Người
ta lấy một phần đem chụm lửa, đặt lên đó miếng thịt sắp ăn, nướng cho chín mà
ăn cho no; rồi dùng để sưởi, vừa sưởi vừa nói: "A ấm quá! Lại được xem ánh
lửa bập bùng.” 17 Phần còn dư thì lấy mà làm ra tượng ra thần, rồi
thờ rồi lạy, rồi cầu khẩn rằng: "Xin cứu tôi, vì ngài là chúa của
tôi!"
18 Chúng đâu biết, đâu hiểu gì, vì
mắt chúng không thấy, lòng chúng không hiểu được. 19 Không ai nghĩ
lại trong lòng, không ai có chút hiểu biết, chút trí khôn để nói rằng:
"Mình đã cho một nửa vào lửa, làm than hồng để nướng bánh, quay thịt mà
ăn; phần còn lại, mình đã làm ra thứ đồ ghê tởm, rồi lại đi thờ khúc gỗ như thế
sao!” 20 Nó bầu bạn với bụi, với tro, lòng mê muội đã làm nó lạc
hướng. Nó không cứu nổi mình mà cũng không biết nói: "Không phải là đồ giả
trong tay tôi sao?"
Trung thành với Ðức Chúa
21 Hỡi Gia-cóp, hỡi Ít-ra-en,
hãy nhớ rằng ngươi là tôi tớ của
Ta,
Ta đã nắn ra ngươi để ngươi nên
tôi tớ của Ta;
và ngươi, hỡi Ít-ra en, ngươi sẽ
không làm Ta thất vọng.
22 Ta sẽ làm cho tội của ngươi tan
ra như làn khói,
lỗi của ngươi biến mất tựa áng
mây.
Hãy trở lại cùng Ta, vì Ta là
Ðấng cứu chuộc ngươi.
23 Hò reo lên, hỡi các tầng trời,
Ðức Chúa đã ra tay.
Tung hô đi nào, hỡi vực sâu lòng
đất;
vang tiếng hò reo, hỡi núi đồi,
hỡi rừng sâu với mọi thứ thảo
mộc!
Vì Ðức Chúa đã chuộc Gia-cóp,
đã tỏ vinh quang Người tại
Ít-ra-en.
Thiên Chúa tạo thành thế giới và
làm chủ lịch sử
24 Ðức Chúa, Ðấng cứu chuộc ngươi,
Ðấng đã nắn ra ngươi từ khi ngươi
còn trong lòng mẹ,
Người phán thế này:
Chính Ta là Ðức Chúa đã dựng nên
vạn vật,
một tay Ta đã căng vòm trời,
đã trải rộng trái đất, chẳng cần
ai giúp đỡ.
25 Ta làm rối loạn những điềm báo
của bọn thầy chiêm,
Ta khiến bọn thầy bói nói điên
nói dại.
Ta hạ uy tín kẻ khôn ngoan,
biến những kẻ hiểu biết này thành
ngu xuẩn.
26 Ta làm cho ứng nghiệm lời của tôi
tớ Ta,
cho dự định của các sứ giả Ta
được thành tựu.
Ta nói về Giê-ru-sa-lem:
"Cho nó có dân cư!",
và về thành thị Giu-đa: "Cho
nó được tái thiết!",
những nơi điêu tàn, Ta sẽ xây
dựng lại.
27 Ta nói với biển khơi: "Hãy
khô cạn;
sông ngòi của ngươi, Ta làm cho
khô ráo."
28 Về Ky-rô Ta nói: "Ðó là mục
tử của Ta";
nó sẽ làm cho mọi điều Ta muốn
được thành tựu
khi Ta nói về Giê-ru-sa-lem:
"Cho nó được tái thiết!"
và với đền thờ: "Hãy được
dựng lên!"
Chương 45
Vua Ky-rô, khí cụ của Thiên Chúa
1 Ðức Chúa phán với kẻ Người đã xức
dầu, với vua Ky-rô
- Ta đã cầm lấy tay phải nó,
để bắt các dân tộc suy phục nó,
Ta tước khí giới của các vua,
mở toang các cửa thành trước mặt
nó,
khiến các cổng không còn đóng kín
nữa.
2 Ðức Chúa phán thế này:
Chính Ta sẽ đi trước mặt ngươi,
nơi gồ ghề, Ta sẽ san phẳng,
cửa đồng, Ta đập phá, then sắt,
Ta bẻ tung.
3 Ta sẽ ban tặng ngươi những kho
tàng bí ẩn,
những bảo vật giấu kín, để ngươi
biết rằng Ta là Ðức Chúa,
Thiên Chúa của Ít-ra-en, Ðấng đã
gọi ngươi đích danh.
4 Vì lợi ích của tôi tớ Ta là
Gia-cóp,
và của người Ta đã chọn là
Ít-ra-en,
Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban
cho ngươi một tước hiệu,
dù ngươi không biết Ta.
5 Ta là Ðức Chúa, không còn chúa
nào khác;
chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại
trừ Ta.
Dù ngươi không biết Ta, Ta đã
trang bị cho ngươi đầy đủ,
6 để từ Ðông sang Tây, thiên hạ
biết rằng
chẳng có thần nào khác, ngoại trừ
Ta.
Ta là Ðức Chúa, không còn chúa
nào khác.
7 Ta tạo ra ánh sáng và dựng nên
tối tăm,
làm ra bình an và dựng nên tai
hoạ.
Ta là Ðức Chúa, Ta làm nên tất
cả.
Cầu nguyện
8 Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương,
mây hãy đổ mưa, mưa đức công
chính;
đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu
độ,
đồng thời chính trực sẽ vươn lên.
Ta là Ðức Chúa, Ta đã làm điều
ấy.
Quyền tối thượng của Ðức Chúa
9 Khốn thay kẻ chỉ là mảnh sành
giữa đồ sành đồ gốm
mà lại muốn tranh cãi với Ðấng
nặn ra mình!
Ðất sét mà dám nói với thợ nhào
nặn mình:
"Ông làm cái gì vậy? Tác phẩm
của ông làm không khéo tay!"
10 Khốn thay kẻ nói với một người
cha: "Ông sinh ra giống gì thế?"
hoặc nói với một người đàn bà:
"Bà đẻ ra cái gì vậy?"
11 Ðức Chúa là Ðức Thánh của
Ít-ra-en là Ðấng nắn ra nó,
Người phán thế này: Ngươi dám
chất vấn Ta
về những gì xảy đến cho con cái
Ta,
ngươi dám truyền cho Ta
phải làm gì cho tác phẩm của Ta!
12 Chính Ta đã làm ra trái đất
và trên trái đất, đã dựng nên con
người;
chính tay Ta đã dăng vòm trời và
nạm lên đó ức triệu vì sao.
13 Ta là Ðấng Công Chính, Ta đã cho
người này xuất hiện,
Ta sẽ uốn cho thẳng mọi đường nẻo
nó đi.
Thành trì của Ta, nó sẽ xây dựng
lại,
dân Ta bị lưu đày, nó sẽ phóng
thích
mà không đòi quà cáp hay tiền
chuộc
- Ðức Chúa các đạo binh phán như
thế.
Dân ngoại trở lại
14 Ðức Chúa phán thế này: Tài sản
của Ai-cập, lợi tức của Cút,
cùng với những người Xơ-va cao
lớn
đều sẽ về tay ngươi, ngươi sẽ
được sở hữu.
Chúng sẽ theo sau ngươi, mang
gông xiềng lũ lượt về với ngươi,
chúng sẽ bái lạy ngươi và khẩn
khoản:
"Thiên Chúa chỉ ở với ngài,
không còn Thiên Chúa nào khác,
chẳng có thần minh nào nữa."
15 Lạy Thiên Chúa của Ít-ra-en, lạy
Ðấng Cứu Ðộ,
Ngài quả thật là Thiên Chúa ẩn
mình.
16 Những kẻ nào làm ra ngẫu tượng
phải nhục nhã thẹn thùng cả đám,
phải nhục nhã tháo lui.
17 Còn Ít-ra-en sẽ được Ðức Chúa
cứu, được cứu độ muôn đời,
và cho đến vạn kiếp ngàn thu,
anh em sẽ không phải thẹn thùng
nhục nhã.
18 Ðây là lời của Ðức Chúa, Ðấng tạo
dựng trời cao
- chính Người là Thiên Chúa nặn
quả đất thành hình,
củng cố cho bền vững;
Người dựng nên quả đất mà không
để hoang vu,
nặn ra nó cho muôn loài cư ngụ -,
Người phán thế này: Ta là Ðức
Chúa, chẳng còn chúa nào khác.
19 Khi Ta phán, Ta đâu có ẩn mình
ở nơi nào trong vùng đất tối tăm.
Ta không bảo giống nòi Gia-cóp:
Hãy tìm Ta trong cảnh hoang vu.
Chính Ta là Ðức Chúa
phán dạy lẽ công minh, loan báo
điều chính trực.
Thiên Chúa làm chủ toàn thể vũ
trụ
20 Hỡi những người sống sót giữa chư
dân,
tập trung mà kéo đến, cùng nhau
lại gần đây.
Những người kiệu tượng gỗ,
khấn vái thứ thần chẳng cứu được
ai,
bọn đó thật không hiểu biết gì!
21 Hãy phát biểu và đưa ra lý lẽ,
bàn luận với nhau xem:
Ðiều ấy, ai đã nói cho nghe từ
thuở trước,
ai đã tiên báo tự ngàn xưa?
Há chẳng phải Ta, chẳng phải Ðức
Chúa?
Ngoài Ta ra, không có thần nào
nữa,
chẳng có thần công minh cứu độ,
ngoại trừ Ta.
22 Nào muôn dân khắp cõi địa cầu,
hãy hướng về Ta, thì các ngươi sẽ
được cứu độ,
vì Ta là Thiên Chúa, chẳng còn
chúa nào khác.
23 Ta lấy chính danh Ta mà thề,
lời chân thật này thốt ra khỏi
miệng Ta,
Ta quyết chẳng bao giờ rút lại:
Trước mặt Ta, mọi người sẽ quỳ
gối, và mở miệng thề rằng:
24 Chỉ mình Ðức Chúa mới cứu độ và
làm cho mạnh sức.
Hết thảy những ai giận ghét Người
sẽ phải đến với Người và thẹn
thùng xấu hổ.
25 Còn tất cả giống nòi Ít-ra-en
sẽ nhờ Ðức Chúa mà vẻ vang toàn
thắng.
Chương 46
Ba-by-lon (Ba-ben) thất thủ
1 Thần Ben đã quỵ, thần Nơ-vô sụp
đổ,
tượng của chúng bị tải đi trên
lưng thú vật, trên lưng gia súc.
Những gì xưa kia các ngươi nâng
lên vai mà kiệu,
giờ đây thành gánh nặng trên
những con vật mệt nhoài.
2 Tượng thần đã sụp, đã quỵ cả đám,
không tài nào cứu những con vật
tải chúng đi,
và chính chúng cũng phải đi lưu
đày.
3 Hãy nghe Ta, hỡi nhà Gia-cóp,
và tất cả số sót của nhà
Ít-ra-en!
Ta đã nâng các ngươi từ trong
lòng mẹ,
đã hứng các ngươi từ lúc chưa
chào đời.
4 Cho đến khi các ngươi già nua
tuổi tác,
trước sau gì Ta vẫn là Ta;
cho đến khi các ngươi da mồi tóc
bạc,
Ta vẫn còn gánh vác các ngươi.
Như xưa nay Ta vẫn từng đối xử:
Ta sẽ nâng niu, gánh vác các
ngươi, và ban ơn cứu thoát.
5 Các ngươi so sánh Ta với ai, đặt
Ta đồng hạng với ai nào?
Ðối chiếu Ta với ai, để cả hai
bên cùng tương xứng?
6 Có kẻ mở hầu bao đổ vàng, móc cán
cân cân bạc,
mướn thợ bạc làm ra một ông thần,
rồi sụp lạy, rồi bái thờ nữa.
7 Chính chúng nâng tượng thần lên
vai,
mang nó đi, đặt nó vào vị trí của
nó.
Tượng đứng yên, không rời chỗ.
Thế nhưng giả như có ai kêu, nó
chẳng đáp lời,
cũng chẳng cứu ai khỏi cơn khốn
quẫn.
8 Những chuyện này, các ngươi hãy
nhớ mà sống cho ra người!
Hỡi quân phản trắc, hãy ghi lòng
tạc dạ!
9 Hãy nhớ lại những chuyện thuở ban
đầu,
những chuyện thời xa xưa,
nhớ rằng Ta là Thần, không có
thần nào khác,
Ta là Thiên Chúa, và chẳng có
thần nào như Ta.
10 Những chuyện xảy ra sau, Ta báo
trước từ đầu,
những gì chưa thể hiện, Ta đã báo
từ lâu.
Ta phán: Ðiều Ta dự tính sẽ thành
tựu,
Ta sẽ thi hành điều Ta ưa thích.
11 Từ phương Ðông, Ta đã gọi một con
chim săn mồi,
từ miền đất xa xăm,
Ta đã cho vời người thực thi kế
hoạch của Ta.
Quả thật, Ta đã nói thì sẽ thi
hành, đã nghĩ tới thì sẽ thực hiện.
12 Hãy nghe Ta, hỡi kẻ cứng lòng, kẻ
xa đường công chính!
13 Ngày Ta thể hiện đức công chính
của Ta đã đến gần,
chẳng còn xa nữa đâu;
ơn cứu độ của Ta, Ta sẽ không trì
hoãn.
Ta sẽ ban ơn cứu độ tại Xi-on,
và sẽ cho Ít-ra-en được vinh
quang rạng rỡ.
Chương 47
Ai ca khóc Ba-by-lon (Ba-ben)
1 Hỡi trinh nữ, con gái Ba-by-lon,
xuống đi, ngồi trên cát bụi;
hỡi con gái Can-đê, ngồi phệt
xuống đất, không ngai không bệ,
vì người ta sẽ không bao giờ gọi
ngươi
là cô gái yêu kiều đài các nữa.
2 Hãy lấy cối xay bột, phơi trần
bím tóc,
vén vạt áo dài, phơi đùi lội qua
sông,
3 để chỗ kín ngươi bị lột trần, cho
nỗi nhục ngươi bị lộ ra!
Ta sẽ phục thù, không ai ngăn cản
được.
4 Ðấng cứu chuộc chúng ta,
Ðấng mang danh hiệu là Ðức Chúa
các đạo binh,
là Ðức Thánh của Ít-ra-en, Người
phán thế này:
5 Hỡi con gái Can-đê, hãy ngồi lặng
lẽ, lùi vào bóng tối,
vì thiên hạ sẽ không bao giờ gọi
ngươi
là nữ hoàng muôn nước nữa.
6 Ta đã nổi cơn thịnh nộ với dân
Ta,
đã hạ nhục cơ nghiệp của Ta, trao
nó vào tay ngươi.
Nhưng ngươi chẳng hề đem lòng
thương xót chúng;
cả trên người già nua, ngươi đã
đặt một cái ách thật nặng.
7 Ngươi đã nói: "Mãi mãi ta sẽ
là nữ hoàng."
Những điều ấy, có bao giờ ngươi
để lòng nghiền ngẫm,
suy nghĩ xem kết cục sẽ ra sao!
8 Hỡi kẻ ham lạc thú,
ngươi ngồi trên ngai, bình chân
như vại và tự nhủ:
"Chỉ có ta, đâu còn ai khác!
Ta sẽ chẳng bao giờ mang thân goá
bụa,
không bao giờ là người mẹ mất
con."
Giờ đây, hãy nghe điều này:
9 Thình lình cả hai tai hoạ đó
trong một ngày sẽ ập xuống trên
ngươi:
vừa mất con lại vừa goá buạ.
Chưa hết tai hoạ này đã đến tai
hoạ khác,
chúng ập xuống trên ngươi,
dù ngươi cao tay phù chú và lắm
trò ma thuật.
10 Ngươi cậy vào lòng độc dữ của
ngươi mà nói:
"Chẳng ai thấy ta đâu."
Chính cái khôn cái giỏi của ngươi
đã mê hoặc ngươi rồi,
và ngươi lại tự nhủ: "Chỉ có
ta, đâu còn ai khác."
11 Ðiều dữ sẽ ập xuống trên ngươi
mà ngươi không làm sao đề phòng;
hoạn nạn sẽ giáng xuống trên
ngươi
mà ngươi không tài nào ngăn cản;
tai ương sẽ thình lình ập xuống
trên ngươi
mà ngươi đã không hề lường trước.
12 Có giỏi thì đứng vững đi,
cứ tiếp tục những phù phép và
những trò ma thuật vô số kể
mà ngươi đã tốn công luyện tập từ
thời niên thiếu:
biết đâu ngươi lại không thể giúp
ích cho chính mình,
biết đâu ngươi lại chẳng làm cho
người ta khiếp sợ?
13 Ngươi đã kiệt quệ vì trăm mưu
nghìn kế.
Ðâu cả rồi, mấy ông xem số tử vi,
mấy thầy chiêm tinh,
mấy kẻ cứ đến kỳ tân nguyệt
lại báo cho ngươi rõ những gì sẽ
xảy đến?
Tất cả hãy đứng lên nào, hãy cứu
chữa ngươi đi!
14 Này chúng sẽ như cọng rơm bị lửa
đốt cháy,
không sao cứu mạng khỏi hoả hào.
Ðó không phải là than hồng để
sưởi ấm,
cũng chẳng là ánh lửa để ngồi
bên.
15 Ðối với ngươi, chúng là thế đó,
những kẻ đã làm ngươi hao sức tốn
công,
những kẻ nuốt tiền của ngươi từ
khi ngươi còn niên thiếu;
chúng sẽ lang thang mỗi người một
ngả,
chẳng có ai cứu được ngươi đâu.
Chương 48
Ðức Chúa đã tiên báo tất cả
1 Hãy nghe đây, hỡi nhà Gia-cóp,
hỡi những người mệnh danh là
Ít-ra-en,
xuất thân từ nguồn gốc Giu-đa,
vẫn thề nguyền nhân danh Ðức Chúa
và cầu khẩn Thiên Chúa của
Ít-ra-en,
dầu không có lòng thành thật và
ngay thẳng!
2 Quả thế, chúng tự xưng là dân
thành thánh
và đặt niềm tin vào Thiên Chúa
của Ít-ra-en,
Ðấng mang danh hiệu là Ðức Chúa
các đạo binh.
3 Những chuyện cũ, Ta đã báo từ
xưa,
đã cho phát xuất từ miệng Ta, và
đã cho nghe biết;
thình lình Ta đã ra tay, và chúng
đã ập tới.
4 Ta biết ngươi vốn là kẻ cứng đầu,
cổ ngươi là thanh sắt, trán ngươi
làm bằng đồng,
5 nên Ta đã báo cho ngươi từ lâu,
và nói cho ngươi nghe, trước khi
sự việc xảy đến,
kẻo ngươi nói: ngẫu tượng của tôi
đã làm những điều ấy,
tượng chạm tượng đúc của tôi đã
ra lệnh như vậy.
6 Các ngươi đã nghe, đã thấy tất
cả,
chẳng lẽ đến lượt mình, các ngươi
không báo lại sao?
Ngay từ bây giờ, Ta cho ngươi
biết những điều mới,
những điều còn giữ kín mà ngươi
chưa rõ.
7 Mãi bây giờ, những điều đó mới
được tạo nên,
chứ trước ngày đó, ngươi chưa hề
nghe biết bao giờ,
kẻo ngươi nói: tôi biết tất cả!
8 Ðúng vậy, ngươi đâu đã nghe, đúng
vậy, ngươi đâu đã hiểu,
đúng vậy, trước đây ngươi đâu đã
mở tai nghe!
Vì Ta biết ngươi là tên phản bội
đáng gọi là phản phúc tự bẩm
sinh.
9 Trước đây, vì danh Ta, Ta đã nén
cơn giận,
vì danh dự Ta, Ta đã dằn lòng
chịu đựng ngươi
cho ngươi khỏi bị Ta tiêu diệt.
10 Này Ta đã tinh luyện ngươi,
không phải như người ta luyện
bạc,
nhưng trong lò khổ nhục khốn
cùng, Ta đã thử lòng ngươi.
11 Vì Ta, chính vì Ta mà Ta đã ra
tay hành động
- thật vậy, Ta để cho danh Ta bị
lăng nhục sao? -,
vinh quang của Ta, Ta không
nhường cho ai khác.
Ðức Chúa đã chọn vua Ky-rô
12 Hãy nghe Ta, hỡi Gia-cóp, hỡi
Ít-ra-en, kẻ Ta đã gọi!
Ta vẫn là Ta, Ta là khởi nguyên,
Ta cũng là cùng tận.
13 Chính tay Ta đã thiết lập địa
cầu,
tay hữu Ta đã trải rộng trời cao.
Ta gọi chúng, chúng cùng nhau
trình diện.
14 Tất cả các ngươi hãy tập họp và
lắng nghe!
Có tà thần nào đã báo trước những
điều ấy?
Kẻ được Ðức Chúa mến thương
sẽ thực hiện điều đẹp lòng Người,
là chinh phạt Ba-by-lon và giống
nòi Can-đê.
15 Ta đây, chính Ta đã tuyên phán,
cho vời kẻ ấy và đưa nó đến đây,
cho nó thành công trên đường sự
nghiệp.
Vận mệnh Ít-ra-en
16 Hãy đến bên tôi mà nghe điều này:
Tự thuở đầu, tôi đâu có ẩn mình
khi lên tiếng,
từ lúc sự việc xảy ra, tôi đã có
mặt.
Và giờ đây, Ðức Chúa là Chúa
Thượng sai tôi
cùng với thần khí của Người.
17 Ðức Chúa, Ðấng cứu chuộc ngươi,
Ðức Thánh của Ít-ra-en, phán thế
này:
Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
Ðấng dạy ngươi những điều bổ ích,
Ðấng hướng dẫn ngươi trên đường
ngươi đi.
18 Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh
của Ta,
thì sự bình an của ngươi sẽ chan
chứa như dòng sông,
sự công chính của ngươi sẽ dạt
dào như sóng biển.
19 Dòng dõi ngươi sẽ đông như cát,
con cái ngươi sinh ra sẽ hằng hà
sa số;
tên tuổi ngươi sẽ chẳng bao giờ
bị huỷ diệt,
chẳng bao giờ bị xoá bỏ khỏi mắt
Ta.
Thời lưu đày chấm dứt
20 Hãy ra khỏi Ba-by-lon, trốn khỏi
dân Can-đê!
Hãy cất tiếng reo hò, loan tin ấy
cho mọi người nghe,
đồn ra đến tận cùng cõi đất!
Hãy nói: Ðức Chúa đã chuộc
Gia-cóp tôi tớ Người.
21 Họ đã không phải khát trong hoang
địa, nơi Người dẫn họ đi:
từ tảng đá, Người khiến nước chảy
ra cho họ dùng,
Người chẻ đá, và nước đã trào ra.
22 Ðức Chúa phán:
phường độc ác gian tà không được
hưởng bình an.
Chương 49
Bài ca người Tôi Trung - Bài thứ
hai
1 Hỡi các đảo, hãy nghe tôi đây,
hỡi các dân tộc miền xa xăm, hãy
chú ý:
Ðức Chúa đã gọi tôi
từ khi tôi còn trong lòng mẹ,
lúc tôi chưa chào đời, Người đã
nhắc đến tên tôi.
2 Người đã làm cho miệng lưỡi tôi
nên như gươm sắc bén,
giấu tôi dưới bàn tay của Người.
Người đã biến tôi thành mũi tên
nhọn,
cất tôi trong ống tên của Người.
3 Người đã phán cùng tôi: "Hỡi
Ít-ra-en, ngươi là tôi trung của Ta.
Ta sẽ dùng ngươi để biểu lộ vinh
quang."
4 Phần tôi, tôi đã nói:
"Tôi vất vả luống công, phí
sức mà chẳng được gì."
Nhưng sự thật, đã có Ðức Chúa
minh xét cho tôi,
Người dành sẵn cho tôi phần
thưởng.
5 Giờ đây Ðức Chúa lại lên tiếng.
Người là Ðấng nhào nặn ra tôi
từ khi tôi còn trong lòng mẹ
để tôi trở thành người tôi trung,
đem nhà Gia-cóp về cho Người
và quy tụ dân Ít-ra-en chung
quanh Người.
Thế nên tôi được Ðức Chúa trân
trọng,
và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh
của tôi.
6 Người phán: "Nếu ngươi chỉ
là tôi trung của Ta
để tái lập các chi tộc Gia-cóp,
để dẫn đưa các người Ít-ra-en
sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít.
Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh
sáng muôn dân,
để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến
tận cùng cõi đất."
7 Với người bị thiên hạ khinh chê,
bị dân mình kinh tởm,
với người làm tôi mọi cho bạo
chúa,
Ðức Chúa là Ðấng Cứu Chuộc và là
Ðức Thánh của Ít-ra-en,
Người phán thế này:
Vua chúa sẽ thấy và đứng lên, chư
hầu sẽ thấy và bái lạy
vì uy quyền của Ðức Chúa là Ðấng
trung thành,
là Ðức Thánh của Ít-ra-en, Ðấng
đã tuyển chọn ngươi.
Vui ngày trở về
8 Ðức Chúa phán thế này:
Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta
thi ân,
phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu
độ.
Ta đã gìn giữ ngươi, đặt ngươi
làm giao ước giữa Ta với dân,
để phục hồi xứ sở, để chia lại
những gia sản đã bị tàn phá,
9 để nói với người tù: "Hãy đi
ra",
với những kẻ ngồi trong bóng tối:
"Hãy ra ngoài."
Như bầy chiên, chúng sẽ được nuôi
ăn trên các nẻo đường,
sẽ gặp được đồng cỏ trên mọi đồi
hoang.
10 Chúng sẽ không phải đói phải
khát,
không bị khí nóng và mặt trời
hành hạ,
vì Ðấng thương xót chúng sẽ hướng
dẫn
và đưa chúng đến những suối nước
tuôn trào.
11 Mọi núi non của Ta, Ta sẽ biến
thành đường sá,
những con lộ của Ta, Ta sẽ đắp
cao.
12 Kìa chúng đang từ xa đến,
người từ phía bắc, phía tây, kẻ
từ miền đất Xi-nim.
13 Trời hãy hò reo, đất hãy nhảy
múa,
núi non hãy bật tiếng hò reo,
vì Ðức Chúa ủi an dân Người đã
chọn
và chạnh lòng thương những kẻ
nghèo khổ của Người.
14 Xi-on từng nói: "Ðức Chúa đã
bỏ tôi,
Chúa Thượng tôi đã quên tôi
rồi!"
15 Có phụ nữ nào quên được đứa con
thơ của mình,
hay chẳng thương đứa con mình đã
mang nặng đẻ đau?
Cho dù nó có quên đi nữa,
thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi
bao giờ.
16 Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi
trong lòng bàn tay Ta,
thành luỹ ngươi, Ta luôn thấy
trước mặt.
17 Những người tái thiết ngươi thì
vội vàng chạy tới,
còn kẻ huỷ diệt tàn phá ngươi thì
đành phải tháo lui.
18 Hãy rảo mắt chung quanh mà nhìn:
Kìa, hết thảy chúng tụ tập, kéo
nhau đến với ngươi!
Ta lấy mạng sống Ta mà thề, sấm
ngôn của Ðức Chúa:
Chúng sẽ như món đồ quý giá cho
ngươi dùng trang điểm,
sẽ như đai lưng cho ngươi thắt
tựa cô dâu.
19 Vì những chốn điêu tàn, những nơi
hoang phế,
những vùng bị phá bình địa của
ngươi
từ đây sẽ quá chật hẹp cho cư dân
ở đó,
trong khi những bọn từng nuốt
sống ngươi đã cao bay xa chạy.
20 Những đứa con ngươi tưởng đã mất
sẽ ghé tai nói nhỏ với ngươi:
"Con ở đây chật quá, nhường
chỗ cho con ở với đi!"
21 Và ngươi sẽ nói thầm:
"Ai đã sinh cho tôi những
đứa con này đây?
Tôi vốn là kẻ đã mất con, là
người son sẻ,
thân phận lưu đày, số kiếp lẻ
loi:
những đứa con này, ai đã dưỡng
dục chúng?
Tôi đã bị bỏ lại một mình, vậy
chúng từ đâu ra?"
22 Ðức Chúa, Chúa Thượng tôi, phán
thế này:
Này Ta giơ tay về phía chư dân,
phất cờ ra hiệu cho muôn nước:
con trai ngươi sẽ được ẵm trên
tay đưa về,
con gái ngươi thì được vác trên
vai.
23 Bậc vua chúa sẽ làm dưỡng phụ cho
ngươi,
hàng công nương sẽ làm nhũ mẫu.
Trước mặt ngươi, chúng sẽ sấp
mình xuống đất mà bái lạy,
sẽ liếm bụi dưới gót chân ngươi.
Ngươi sẽ rõ Ta là Ðức Chúa,
và ai trông cậy Ta sẽ không phải
hổ thẹn bao giờ.
24 Chiến lợi phẩm của người hùng,
đâu dễ gì lấy lại?
Tù nhân của kiêu binh, làm sao mà
cứu gỡ?
25 Thế mà, Ðức Chúa phán như sau:
Tù nhân của người hùng sẽ được
trả về,
chiến lợi phẩm của kiêu binh sẽ
được gỡ lại.
Ðứa gây chiến với ngươi, chính Ta
sẽ gây chiến với nó,
con cái ngươi, chính Ta sẽ cứu
mạng cho.
26 Những kẻ áp bức ngươi, Ta sẽ bắt
chúng ăn thịt chính mình,
uống máu chính mình như uống rượu
mới cất.
Như vậy mọi phàm nhân sẽ biết
rằng:
Chính Ta, Ðức Chúa, là Ðấng cứu
độ ngươi,
Ðấng cứu chuộc ngươi về chính là
Ðấng Toàn Năng của Gia-cóp.
Chương 50
Trừng phạt Ít-ra-en
1 Ðức Chúa phán thế này:
Ðâu là tờ ly hôn mà Ta đã viết để
rẫy mẹ các ngươi,
hoặc trong số chủ nợ của Ta,
Ta đã bán đứt các ngươi cho ai
nào?
Này đây: chính vì lầm lỗi của các
ngươi
mà các ngươi đã bị đem đi bán,
chính bởi tội lỗi của các ngươi
mà mẹ các ngươi đã bị rẫy.
2 Tại sao khi Ta đến, không có một
người nào,
khi Ta kêu, chẳng có ai đáp lại?
Chẳng lẽ tay Ta quá ngắn, không
chuộc nổi?
Hoặc Ta không đủ sức để cứu thoát
chăng?
Xem đây: Ta chỉ đe một tiếng là
biển cạn khô,
sông ngòi thành hoang địa,
cá mắc cạn nặng mùi và chết khát.
3 Ta khoác lên bầu trời một màu đen
ảm đạm
và phủ lên đó tấm vải thô.
Bài ca người Tôi Trung - Bài thứ
ba
4 Ðức Chúa là Chúa Thượng
đã cho tôi nói năng như một người
môn đệ,
để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã
rời kiệt sức.
Sáng sáng Người đánh thức, Người
đánh thức tôi
để tôi lắng tai nghe như một
người môn đệ.
5 Ðức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai
tôi,
còn tôi, tôi không cưỡng lại,
cũng chẳng tháo lui.
6 Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh
đòn,
giơ má cho người ta giật râu.
Tôi đã không che mặt khi bị mắng
nhiếc phỉ nhổ.
7 Có Ðức Chúa là Chúa Thượng phù
trợ tôi,
vì thế, tôi đã không hổ thẹn,
vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.
Tôi biết mình sẽ không phải thẹn
thùng.
8 Ðấng tuyên bố rằng tôi công
chính, Người ở kề bên.
Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau
ta hầu toà!
Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến
đây coi!
9 Này, có Ðức Chúa là Chúa Thượng
phù trợ tôi,
ai còn dám kết tội?
Này, tất cả chúng sẽ mục đi như
chiếc áo, và sẽ bị mối ăn.
10 Ai trong các ngươi kính sợ Ðức
Chúa,
nghe theo tiếng tôi tớ của Người,
ai đi trong bóng tối, không một
tia sáng nào chiếu rọi,
hãy tin tưởng vào danh Ðức Chúa
và tìm nương tựa nơi Thiên Chúa
mình thờ.
11 Phần tất cả các ngươi, những ai
đã phóng hoả,
dùng mũi tên lửa làm vũ khí, hãy
đâm đầu vào đống lửa
chính các ngươi đã đốt lên, vào
làn tên các ngươi đã châm lửa.
Những gì các ngươi đang phải chịu
đều là do chính tay Ta:
các ngươi sẽ nằm xuống trong đớn
đau cùng cực.
Chương 51
Ít-ra-en được tuyển chọn và giáng
phúc
1 Hỡi ai theo đuổi sự công chính,
hỡi kẻ đi tìm Ðức Chúa, hãy nghe
Ta!
Hãy đưa mắt nhìn lên tảng đá:
từ tảng đá này, các ngươi đã được
đẽo ra;
hãy đưa mắt nhìn vào hầm đá:
từ hầm đá này, các ngươi đã được
lấy ra.
2 Hãy ngước mắt nhìn tổ phụ
Áp-ra-ham
và Xa-ra, người đã sinh ra các
ngươi;
vì khi được Ta gọi, Áp-ra-ham chỉ
có một mình,
nhưng Ta đã ban phúc lành cho nó,
và cho nó trở nên đông đảo.
3 Ðúng vậy, Ðức Chúa an ủi Xi-on,
an ủi những nơi hoang tàn của nó,
làm cho hoang địa nên như vườn
Ê-đen,
cho nơi khô cằn nên như thượng
uyển của Ðức Chúa.
Tại Xi-on sẽ vang tiếng reo mừng
hoan hỷ,
vang lời cảm tạ và khúc vịnh ca.
Ðức công chính của Thiên Chúa ngự
trị
4 Hỡi dân Ta, hãy chăm chú nghe Ta!
Hỡi nước Ta, hãy lắng tai nghe
Ta!
Vì luật pháp sẽ do Ta ban truyền,
và quyết định của Ta, Ta sẽ công
bố là ánh sáng muôn dân.
5 Ðức công chính của Ta đã gần kề,
ơn cứu độ của Ta sắp xuất hiện,
cánh tay Ta sẽ lãnh đạo muôn dân
muôn nước,
muôn đảo đặt hy vọng nơi Ta
và mong chờ Ta ra tay hành động.
6 Hãy ngước mắt lên trời, rồi cúi
nhìn xuống đất:
Này, trời sẽ tan ra như làn khói,
đất sẽ rách tươm như manh áo cũ,
và dân cư trên đó sẽ chết như
ruồi;
nhưng ơn cứu độ của Ta sẽ trường
tồn vạn kỷ
và đức công chính của Ta sẽ không
suy suyển bao giờ.
7 Hãy nghe Ta, hỡi những ai biết
sống đời công chính,
hỡi dân hằng tâm niệm luật pháp
của Ta,
đừng sợ chi miệng đời nhạo báng,
chớ vì lời sỉ nhục của ai mà
khiếp đảm.
8 Vì chúng sẽ như chiếc áo bị mối
ăn,
như tấm vải len bị rận cắn;
còn đức công chính của Ta sẽ trường
tồn mãi mãi
và ơn cứu độ của Ta sẽ vạn đại
thiên thu.
Ðức Chúa thức dậy
9 Xin thức dậy, xin Ngài thức dậy
đi, lạy Ðức Chúa,
xin vung mạnh cánh tay của Ngài!
Xin thức dậy như những thời
trước, như những ngày xưa.
Chẳng phải chính Ngài đã phanh
thây thủy thần Ra-háp,
đã xé xác thuồng luồng đó sao?
10 Chẳng phải chính Ngài đã làm khô
biển cả,
tát cạn nước đại dương, vạch dưới
lòng biển sâu một con đường
cho đoàn người được chuộc về có
lối băng qua đó sao?
11 Vâng, những người được Ðức Chúa
giải thoát sẽ trở về,
họ sẽ tiến đến Xi-on giữa tiếng
hò reo,
mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu.
Họ sẽ được hớn hở tươi cười,
đau khổ và khóc than sẽ biến mất.
Ðức Chúa an ủi dân Người
12 Chính Ta, chính Ta đây là Ðấng an
ủi các ngươi,
làm sao ngươi lại sợ những người
mang thân phận phải chết,
sợ con cái A-đam mỏng manh như cỏ
nội hoa đồng?
13 Chẳng lẽ ngươi lại quên Ðức Chúa,
Ðấng đã dựng nên ngươi,
Ðấng căng bầu trời và đắp nền
trái đất,
để suốt ngày ngươi không ngừng
run sợ
trước những kẻ áp bức đang hằm
hằm giận dữ,
mưu tính huỷ diệt ngươi?
Nhưng đâu rồi, cơn giận của những
kẻ áp bức?
14 Tù nhân sẽ sớm được tháo gỡ xích
xiềng,
sẽ không phải chết dưới đáy
huyệt, cũng không thiếu bánh ăn.
15 Chính Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa
ngươi,
Ðấng khuấy động biển khơi cho
sóng gào gió thét,
Ðấng mệnh danh là Ðức Chúa các
đạo binh.
16 Ta đã đặt lời Ta vào miệng ngươi,
đã cho ngươi núp bóng bàn tay Ta
khi dựng nên bầu trời và đắp nền
trái đất,
và nói với Xi-on: "Ngươi là
dân Ta tuyển chọn."
Giê-ru-sa-lem thức dậy
17 Thức dậy, thức dậy đi, đứng lên
nào, Giê-ru-sa-lem hỡi!
Từ tay Ðức Chúa, ngươi đã nhận,
đã uống chén lôi đình,
ngươi đã cạn chén nồng choáng
váng.
18 Trong số con cái nó đã sinh ra,
chẳng đứa nào dắt nó;
trong số con cái nó đã sinh thành
dưỡng dục,
không đứa nào cầm tay nó.
19 Ngươi đã lâm cảnh hoạ vô đơn chí,
nhưng nào có ai đã cảm thương?
Tan hoang và điêu tàn, đói khổ và
gươm giáo: nào có ai an ủi?
20 Con cái ngươi bất tỉnh hôn mê,
nằm đầu đường xó chợ như sơn
dương mắc bẫy;
chúng ngất ngư vì cơn lôi đình
của Ðức Chúa,
vì lời đe doạ của Thiên Chúa
ngươi thờ.
21 Vậy hãy nghe đây, hỡi người khốn
khổ,
hỡi kẻ say li bì mà không phải là
say rượu.
22 Ðây là lời Chúa Thượng của ngươi,
lời Ðức Chúa và Thiên Chúa của
ngươi,
Ðấng biện hộ cho dân Người, Người
phán như sau:
Này Ta cất khỏi tay ngươi chén
nồng choáng váng;
chén lôi đình của Ta, ngươi sẽ
không còn phải uống nữa.
23 Chén lôi đình đó, Ta sẽ đặt vào
tay những kẻ đã hành hạ ngươi,
những kẻ đã nói với ngươi:
"Nằm xuống cho chúng tao
bước qua!"
- và ngươi quả đã phải đưa lưng
làm nền đất,
làm đường đi cho kẻ qua người
lại.
Chương 52
Giê-ru-sa-lem được giải thoát
1 Hỡi Xi-on, thức dậy, thức dậy đi,
hãy biểu dương sức mạnh!
Hỡi thành thánh Giê-ru-sa-lem,
hãy mặc lễ phục huy hoàng!
Vì từ nay, kẻ không cắt bì cũng
như người ô uế
sẽ không còn bước vào thành thánh
nữa.
2 Hỡi Giê-ru-sa-lem bị tù đày, hãy
giũ bụi, đứng lên!
Nào thiếu nữ Xi-on bị tù đày, hãy
mở tung xích xiềng buộc cổ!
3 Quả thật, Ðức Chúa phán như sau:
các ngươi đã bị bán đi mà không
được một đồng,
thì sẽ được chuộc về cũng không
mất một xu.
4 Quả thật, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này:
Lúc đầu, dân Ta xuống Ai-cập cư
trú,
rồi bị Át-sua đàn áp bất công.
5 Bây giờ Ta ở đây để được gì? -
sấm ngôn của Ðức Chúa.
Vì dân Ta đã bị đem đi mà không
được một đồng,
còn bọn người thống trị chúng thì
reo cười hể hả,
- sấm ngôn của Ðức Chúa -,
và suốt ngày danh Ta không ngớt
bị cười chê!
6 Vì vậy, trong ngày ấy, dân Ta sẽ
nhận biết danh Ta,
nhận biết rằng: chính Ta là Ðấng
đã phán: "Này Ta đây!"
Tiên báo ơn cứu độ
7 Ðẹp thay trên đồi núi
bước chân người loan báo tin
mừng, công bố bình an,
người loan tin hạnh phúc, công bố
ơn cứu độ
và nói với Xi-on rằng:
"Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị."
8 Kìa nghe chăng quân canh gác của
ngươi
cùng cất tiếng reo hò vang dậy;
họ sẽ được thấy tận mắt Ðức Chúa
đang trở về Xi-on.
9 Hỡi Giê-ru-sa-lem điêu tàn hoang
phế,
hãy đồng thanh bật tiếng reo
mừng,
vì Ðức Chúa an ủi dân Người, và
cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
10 Trước mặt muôn dân,
Ðức Chúa đã vung cánh tay thần
thánh của Người:
ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng
ta,
người bốn bể rồi ra nhìn thấy.
11 Lui ra, lui ra, ra khỏi nơi đây,
đừng đụng tới những gì ô uế!
Ra khỏi Ba-by-lon mà thanh tẩy
đi,
hỡi những ai mang đồ thờ phượng
Ðức Chúa!
12 Các ngươi sẽ được ra, nhưng không
vội vã,
sẽ không phải đi như là trốn chạy,
vì Ðấng tiền phong của các ngươi
sẽ là Ðức Chúa,
và Ðấng hậu vệ sẽ là Thiên Chúa
của Ít-ra-en.
Bài ca người Tôi Trung - Bài thứ
tư
13 Này đây, người tôi trung của Ta
sẽ thành đạt,
sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy
tôn đến tột cùng.
14 Cũng như bao kẻ đã sửng sốt khi
thấy tôi trung của Ta
mặt mày tan nát chẳng ra người,
không còn dáng vẻ người ta nữa,
15 cũng vậy, nó sẽ làm cho muôn dân
phải sững sờ,
vua chúa phải câm miệng, vì được
thấy điều chưa ai kể lại,
được hiểu điều chưa nghe nói bao
giờ.
Chương 53
1 Ðiều chúng ta đã nghe, ai mà tin
được?
Cánh tay uy quyền của Ðức Chúa đã
được tỏ cho ai?
2 Người tôi trung đã lớn lên tựa
chồi cây trước Nhan Thánh,
như khúc rễ trên đất khô cằn.
Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng
còn oai phong
đáng chúng ta ngắm nhìn,
dung mạo chẳng còn gì khiến chúng
ta ưa thích.
3 Người bị đời khinh khi ruồng rẫy,
phải đau khổ triền miên và nếm
mùi bệnh tật.
Người như kẻ ai thấy cũng che mặt
không nhìn,
bị chúng ta khinh khi, không đếm
xỉa tới.
4 Sự thật, chính người đã mang lấy
những bệnh tật của chúng ta,
đã gánh chịu những đau khổ của
chúng ta,
còn chúng ta, chúng ta lại tưởng
người bị phạt,
bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải
nhục nhã ê chề.
5 Chính người đã bị đâm vì chúng ta
phạm tội,
bị nghiền nát vì chúng ta lỗi
lầm;
người đã chịu sửa trị để chúng ta
được bình an,
đã phải mang thương tích cho
chúng ta được chữa lành.
6 Tất cả chúng ta lạc lõng như
chiên cừu,
lang thang mỗi người một ngả.
Nhưng Ðức Chúa đã đổ trên đầu
người
tội lỗi của tất cả chúng ta.
7 Bị ngược đãi, người cam chịu
nhục, chẳng mở miệng kêu ca;
như chiên bị đem đi làm thịt, như
cừu câm nín khi bị xén lông,
người chẳng hề mở miệng.
8 Người đã bị ức hiếp, buộc tội,
rồi bị thủ tiêu.
Dòng dõi của người, ai nào nghĩ
tới?
Người đã bị khai trừ khỏi cõi
nhân sinh,
vì tội lỗi của dân, người bị đánh
phạt.
9 Người đã bị chôn cất giữa bọn ác
ôn,
bị mai táng với người giàu có, dù
đã chẳng làm chi tàn bạo
và miệng không hề nói chuyện điêu
ngoa.
10 Ðức Chúa đã muốn người phải bị
nghiền nát vì đau khổ.
Nếu người hiến thân làm lễ vật
đền tội,
người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ
được trường tồn,
và nhờ người, ý muốn của Ðức Chúa
sẽ thành tựu.
11 Nhờ nỗi thống khổ của mình,
người sẽ nhìn thấy ánh sáng và
được mãn nguyện.
Vì đã nếm mùi đau khổ, người công
chính, tôi trung của Ta,
sẽ làm cho muôn người nên công
chính
và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ.
12 Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn
người làm gia sản,
và cùng với những bậc anh hùng
hào kiệt,
nó sẽ được chia chiến lợi phẩm,
bởi vì nó đã hiến thân chịu chết,
đã bị liệt vào hàng tội nhân;
nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội
muôn người
và can thiệp cho những kẻ tội
lỗi.
Chương 54
Giê-ru-sa-lem được phục hồi
1 Reo mừng lên, hỡi người phụ nữ
son sẻ, không sinh con;
hãy bật tiếng reo hò mừng vui,
hỡi ai chưa một lần chuyển dạ,
vì con của phụ nữ bị bỏ rơi
thì đông hơn con của phụ nữ có
chồng - Ðức Chúa phán.
2 Hãy nới rộng lều ngươi đang ở,
căng các tấm bạt ra, đừng hẹp
lòng hẹp dạ.
Nối dây thừng dài thêm, đóng cọc
lều cho chắc,
3 vì ngươi sẽ tràn ra hai bên tả
hữu,
dòng dõi ngươi sẽ thừa kế các dân
tộc
và đến ở trong các thành bỏ
hoang.
4 Ðừng sợ chi: ngươi sẽ không phải
xấu hổ,
chớ e thẹn: ngươi sẽ không phải
nhục nhằn.
Thật vậy, ngươi sẽ quên hết nỗi
hổ thẹn tuổi thanh xuân
và không còn nhớ bao nhục nhằn
thời goá bụa.
5 Quả thế, Ðấng cùng ngươi sánh
duyên cầm sắt
chính là Ðấng đã tác thành ngươi,
tôn danh Người là Ðức Chúa các
đạo binh;
Ðấng chuộc ngươi về, chính là Ðức
Thánh của Ít-ra-en,
tước hiệu Người là Thiên Chúa
toàn cõi đất.
6 Phải, Ðức Chúa đã gọi ngươi về,
như người đàn bà bị ruồng bỏ, tâm
thần sầu muộn.
"Người vợ cưới lúc thanh
xuân, ai mà rẫy cho đành?",
Thiên Chúa ngươi phán như vậy.
7 Trong một thời gian ngắn, Ta đã
ruồng bỏ ngươi,
nhưng vì lòng thương xót vô bờ,
Ta sẽ đón ngươi về tái hợp.
8 Lúc lửa giận bừng bừng,
Ta đã một thời ngoảnh mặt chẳng nhìn
ngươi,
nhưng vì tình nghĩa ngàn đời, Ta
lại chạnh lòng thương xót,
Ðức Chúa, Ðấng cứu chuộc ngươi,
phán như vậy.
9 Ta cũng sẽ làm như thời Nô-ê: lúc
đó, Ta đã thề rằng
hồng thủy sẽ không tràn ngập mặt
đất nữa,
cũng vậy, nay Ta thề
sẽ không còn nổi giận và hăm doạ
ngươi đâu.
10 Núi có dời có đổi, đồi có chuyển
có lay,
tình nghĩa của Ta đối với ngươi
vẫn không thay đổi,
giao ước hoà bình của Ta cũng
chẳng chuyển lay,
Ðức Chúa là Ðấng thương xót ngươi
phán như vậy.
Giê-ru-sa-lem mới
11 Hỡi thành đô khốn đốn, ba chìm
bảy nổi, không người ủi an!
Này, đá của ngươi, Ta lấy phẩm
màu tô điểm,
nền móng ngươi, Ta đặt trên lam
ngọc,
12 lỗ châu mai tường thành, Ta xây
bằng hồng ngọc,
các cửa thành ngươi, bằng pha lê,
tường trong luỹ ngoài, toàn đá
quý.
13 Con cái ngươi, Ðức Chúa đều dạy
dỗ,
chúng sẽ được vui hưởng thái
bình.
14 Nền tảng vững bền của ngươi sẽ là
đức công chính;
ngươi sẽ thoát khỏi áp bức, không
còn phải sợ chi,
sẽ thoát khỏi kinh hoàng,
vì kinh hoàng sẽ không đến gần
ngươi nữa.
15 Vậy, nếu có âm mưu nào, Ta sẽ
không dự phần vào đó;
có ai mưu tính chuyện hại ngươi,
trước mặt ngươi, nó sẽ té nhào.
16 Này chính Ta đã dựng nên thợ rèn
biết đốt than thổi lửa
và tạo ra dụng cụ cho công việc
phải làm;
cũng chính Ta dựng nên bọn người
phá hoại
để gây thiệt hại mất mát.
17 Mọi khí cụ được chế ra nhằm chống
lại ngươi
đều chẳng lợi hại gì;
bất cứ ai uốn lưỡi tố cáo ngươi,
ngươi sẽ đem ra kết tội.
Ðó là phần sản nghiệp của những
tôi trung Ðức Chúa,
đó là sự công chính Ta dành sẵn
cho những người này
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
Chương 55
Lời mời gọi cuối cùng
1 Ðến cả đi, hỡi những người đang
khát, nước đã sẵn đây!
Dầu không có tiền bạc, cứ đến mua
mà dùng;
đến mua rượu mua sữa, không phải
trả đồng nào.
2 Sao lại phí tiền bạc vào của
không nuôi sống,
tốn công lao vất vả vào thứ chẳng
làm cho chắc dạ no lòng?
Hãy chăm chú nghe Ta, thì các
ngươi sẽ được ăn ngon,
được thưởng thức cao lương mỹ vị.
3 Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy
nghe thì các ngươi sẽ được sống.
Ta sẽ lập với các ngươi một giao
ước vĩnh cửu,
để trọn bề nhân nghĩa với Ða-vít.
4 Này, Ta đã đặt Ða-vít làm nhân
chứng cho các dân,
làm thủ lãnh chỉ huy các nước.
5 Này, ngươi sẽ chiêu tập một dân
tộc ngươi không quen biết;
một dân tộc không quen biết ngươi
sẽ chạy đến với ngươi,
vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi,
vì Ðức Thánh của Ít-ra-en
đã làm cho ngươi được vinh hiển.
6 Hãy tìm Ðức Chúa khi Người còn
cho gặp,
kêu cầu Người lúc Người ở kề bên.
7 Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình
đang theo,
người bất lương, hãy bỏ tư tưởng
mình đang có
mà trở về với Ðức Chúa - và Người
sẽ xót thương -,
về với Thiên Chúa chúng ta, vì
Người sẽ rộng lòng tha thứ.
8 Thật vậy, tư tưởng của Ta không
phải là tư tưởng của các ngươi,
và đường lối các ngươi không phải
là đường lối của Ta
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
9 Trời cao hơn đất chừng nào
thì đường lối của Ta cũng cao hơn
đường lối các ngươi,
và tư tưởng của Ta cũng cao hơn
tư tưởng các ngươi chừng ấy.
10 Cũng như mưa với tuyết sa xuống
từ trời
không trở về trời nếu chưa thấm
xuống đất,
chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm
chồi nẩy lộc,
cho kẻ gieo có hạt giống, cho
người đói có bánh ăn,
11 thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất
phát từ miệng Ta,
sẽ không trở về với Ta nếu chưa
đạt kết quả,
chưa thực hiện ý muốn của Ta,
chưa chu toàn sứ mạng Ta giao
phó.
Kết luận
12 Phải, các ngươi sẽ ra đi mừng rỡ
hân hoan,
rồi lũ lượt kéo về bình an vô sự.
Trước mặt các ngươi, đồi núi sẽ
cất giọng reo hò,
cây cỏ ngoài đồng sẽ vỗ tay.
13 Cây bách vươn cao thay bụi rậm,
cây sim lớn mạnh thế tầm ma,
để Ðức Chúa được lừng danh nức
tiếng,
được ghi nhớ ngàn năm và truyền tụng
muôn đời.
Chương 56
III. Phần Thứ Ba Sách I-Sai-A
Lời hứa dành cho người ngoại bang
1 Ðức Chúa phán như sau: Hãy tuân
giữ điều chính trực,
thực hành điều công minh, vì ơn
cứu độ của Ta đã gần tới,
và đức công chính của Ta sắp được
biểu lộ.
2 Phúc thay người làm như thế,
phúc thay phàm nhân nắm giữ điều
này,
người giữ ngày sa-bát mà không vi
phạm,
chẳng hề đưa tay làm điều gian
ác.
3 Người ngoại bang gắn bó cùng Ðức
Chúa chớ nói rằng:
"Hẳn Ðức Chúa đã tách tôi ra
khỏi dân Người."
Người bị hoạn chớ nói: "Chính
tôi đây là một cây khô."
4 Quả vậy, Ðức Chúa phán như sau:
Nếu những người bị hoạn
mà vẫn giữ các ngày sa-bát Ta
truyền,
và lựa chọn điều Ta ưa thích,
cùng tuân thủ giao ước của Ta,
5 thì trong nhà và trong tường luỹ
của Ta,
Ta sẽ cho chúng được lưu danh và
có đài kỷ niệm;
như thế còn quý hơn con trai con
gái.
Ta sẽ cho tên tuổi chúng trường
tồn, không bao giờ bị ai xoá bỏ.
6 Người ngoại bang nào gắn bó cùng
Ðức Chúa
để phụng sự Người và yêu mến
Thánh Danh,
cùng trở nên tôi tớ của Người,
hết những ai giữ ngày sa-bát mà
không vi phạm,
cùng những ai tuân thủ giao ước
của Ta,
7 đều được Ta dẫn lên núi thánh
và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện
của Ta.
Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng
nhận
những lễ toàn thiêu và hy lễ
chúng dâng,
vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà
cầu nguyện của muôn dân.
8 Sấm ngôn của Ðức Chúa là Thiên
Chúa,
Ðấng tập hợp những người Ít-ra-en
tản lạc về:
Ngoài những người đã được tập
hợp,
Ta sẽ còn tập hợp thêm nữa về với
Ít-ra-en.
9 Mọi thú vật ngoài đồng, hãy đến
mà ăn;
tất cả thú trên rừng cũng vậy.
Các thủ lãnh bất xứng
10 Những người canh gác Ít-ra-en đui
mù hết, chẳng hiểu biết gì;
cả bọn chúng là lũ chó câm, không
biết sủa,
chỉ mơ mộng, nằm dài và thích ngủ
thôi.
11 Chúng còn là lũ chó đói, ăn chẳng
biết no.
Thế mà chúng lại là mục tử, thứ mục
tử chẳng biết phân biệt gì.
Cả bọn - chẳng trừ ai - mạnh ai
theo đường nấy,
chỉ mưu tìm lợi lộc cho riêng
mình.
12 "Lại đây! Ta sẽ đi tìm rượu
ngon, sẽ tha hồ uống rượu mạnh,
ngày mai cũng lại như hôm nay, và
còn nhiều hơn nữa."
Chương 57
1 Người công chính tiêu vong, thế
mà chẳng ai lưu tâm đến;
người hiếu nghĩa bị cất đi mà
chẳng ai hay rằng:
chính vì sự gian ác mà người công
chính bị cất đi:
2 họ bước vào cõi phúc bình an.
Kẻ dõi theo đường ngay nẻo chính
sẽ nghỉ ngơi trên giường của
mình.
Chống lại việc thờ ngẫu tượng
3 Phần các ngươi, hỡi những kẻ
chuyên nghề bói toán,
hỡi giống nòi dâm đãng ngoại
tình, hãy đến cả đây!
4 Này các ngươi nhạo cười ai vậy?
Các ngươi mở miệng, le lưỡi chống
lại ai?
Há các ngươi không phải là
con của tội ác,
là nòi giống của gian dối hay
sao?
5 Các ngươi đú đởn bên gốc vân
hương,
dưới mọi lùm cây xanh,
sát tế trẻ con gần khe suối,
trong những hốc đá sâu.
6 Gia tài của ngươi là đá cuội khe
suối,
đá cuội đó chính là phần sản
nghiệp của ngươi.
Ngươi còn làm lễ tưới và tiến dâng
lễ phẩm cho chúng.
Có phải vì thế mà Ta nguôi giận
chăng?
7 Trên núi cao sừng sững, ngươi đã
kê giường nằm;
ngươi lại còn lên đó đem lễ tế
tiến dâng.
8 Sau cánh cửa, sau khung cửa,
ngươi đã đặt kỷ vật ngươi thờ.
Quả vậy, ngươi lìa bỏ Ta,
ngươi tự lột trần, leo lên
giường, chơi bời thoả thích,
vừa giao du với tượng thần ngươi
ưa chuộng,
vừa nhìn ngắm bia thờ.
9 Ngươi mang theo dầu, đi đến với
Me-léc,
ngươi phung phí thuốc thơm,
phái các sứ giả của ngươi đến tận
phương xa
và đưa chúng xuống tận âm phủ.
10 Ngươi rong ruổi khắp nơi đến mệt
mỏi
mà không bảo là mình đã uổng
công.
Ngươi thấy mình sung sức, nên
không ngừng không nghỉ.
11 Ngươi còn lo còn sợ gì ai nữa,
ngươi quả là dối trá.
Trí ngươi đâu còn nhớ đến Ta,
lòng ngươi đâu còn chỗ cho Ta!
Có phải vì từ lâu Ta làm thinh
không nói
mà ngươi không kính sợ Ta chăng?
12 Ta đây sắp công bố sự công chính
của ngươi
và các việc ngươi làm.
Những việc ấy ích gì cho ngươi?
13 Khi ngươi kêu cứu, thì những gì
ngươi đã tập hợp
cứ việc giải thoát ngươi!
Một cơn gió cuốn, một làn hơi
thổi sẽ đem chúng đi hết.
Còn ai nương ẩn nơi Ta, sẽ được
đất làm gia nghiệp,
và được núi thánh của Ta làm sở
hữu.
Kẻ nghèo hèn được ơn cứu độ
14 Có lời rằng: "Hãy mở đường
khai lối, và san cho bằng phẳng,
dẹp bỏ mọi chướng ngại trên đường
nẻo dân Ta.
15 Bởi vì Ðấng muôn trùng cao cả,
Ðấng ngự chốn vĩnh hằng,
Ðấng mang danh chí thánh, Người
phán như sau:
Ta ngự chốn cao vời và thánh
thiện,
nhưng vẫn ở với tâm hồn khiêm
cung tan nát,
để ban sức sống cho tâm hồn những
kẻ khiêm cung,
và ban sinh lực cho những cõi
lòng tan nát.
16 Vì Ta chẳng trách cứ luôn luôn,
không giận hờn mãi mãi,
kẻo hơi thở mọi sinh linh chính
Ta làm ra,
trước mặt Ta, sẽ phải lụi tàn.
17 Vì tội nó ham lợi mà Ta giận dữ,
Ta đã đánh nó, đã ẩn mặt trong
cơn giận dữ,
nhưng nó vẫn ngỗ nghịch, theo con
đường nó muốn.
18 Những nẻo đường nó đi, Ta đều
thấy cả,
nhưng Ta sẽ chữa nó cho lành,
sẽ dẫn nó đi và cho nó đầy tràn
an ủi;
còn những kẻ khóc thương nó,
19 Ta sẽ làm cho môi miệng chúng
hoan ca:
"Bình an! Bình an cho khắp
xa gần!
Ðức Chúa phán: Ta sẽ chữa lành
cho nó."
20 Nhưng phường gian ác như biển
động không thể lặng yên,
sóng nước cuộn lên những bùn và
cặn.
21 Thiên Chúa của tôi phán:
"Phường độc ác gian tà không
được hưởng bình an."
Chương 58
Cách ăn chay đẹp lòng Thiên Chúa
1 Cứ lấy hết gân cổ mà kêu lên,
đừng kìm hãm,
kêu lớn tiếng lên như tù và,
báo cho dân Ta hay tội ác của
chúng,
cho nhà Gia-cóp biết những lỗi
lầm đã phạm.
2 Ngày lại ngày chúng kiếm tìm Ta,
chúng ao ước biết đường lối của
Ta,
như thể một dân tộc vẫn thực hành
sự công chính
và không bỏ luật pháp của Thiên
Chúa mình.
Chúng xin Ta ban những điều luật
công minh,
chúng ước ao được đến gần Thiên
Chúa.
3 Chúng nói: "Chúng tôi ăn
chay, sao Ngài không thấy,
chúng tôi hãm mình, sao Ngài
chẳng hay?"
Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn
lo kiếm lợi,
vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho
mình.
4 Này, các ngươi ăn chay để mà đôi
co cãi vã,
để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn.
Chính ngày các ngươi muốn ăn chay
để tiếng các ngươi kêu thấu trời
cao thẳm,
thì các ngươi lại ăn chay không
đúng cách.
5 Phải chăng đó là cách ăn chay mà
Ta ưa chuộng
trong ngày con người phải thực
hành khổ chế?
Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau,
nằm trên vải thô và tro bụi,
phải chăng như thế mà gọi là ăn
chay
trong ngày các ngươi muốn đẹp
lòng Ðức Chúa?
6 Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng
phải là thế này sao:
mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông
cùm trói buộc,
trả tự do cho người bị áp bức,
đập tan mọi gông cùm?
7 Chẳng phải là chia cơm cho người
đói,
rước vào nhà những người nghèo
không nơi trú ngụ;
thấy ai mình trần thì cho áo che
thân,
không ngoảnh mặt làm ngơ trước
người anh em cốt nhục?
8 Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng
lên như rạng đông,
vết thương ngươi sẽ mau lành.
Ðức công chính ngươi sẽ mở đường
phía trước,
vinh quang Ðức Chúa bao bọc phía
sau ngươi.
9 Bấy giờ, ngươi kêu lên, Ðức Chúa
sẽ nhận lời,
ngươi cầu cứu, Người liền đáp
lại: "Có Ta đây!"
Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở
gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời
nói hại người,
10 nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ
đói,
làm thoả lòng người bị hạ nhục,
thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả
trong bóng tối,
và tối tăm của ngươi chẳng khác
nào chính ngọ.
11 Ðức Chúa sẽ không ngừng dẫn dắt
ngươi,
giữa đồng khô cỏ cháy, Người sẽ
cho ngươi được no lòng;
xương cốt ngươi, Người sẽ làm cho
cứng cáp.
Ngươi sẽ như thửa vườn được tưới
đẫm
như mạch suối không cạn nước bao
giờ.
12 Nhờ ngươi, người ta sẽ tái thiết
những tàn tích cổ xưa,
ngươi sẽ dựng lại những nền móng
của các thế hệ trước,
người ta sẽ gọi ngươi là người
sửa lại những lỗ hổng,
là kẻ tu bổ phố phường cho người
ta cư ngụ.
Ngày sa-bát
13 Nếu ngươi giữ chân không vi phạm
ngày sa-bát,
và không tìm lợi lộc trong ngày
thánh của Ta,
nếu ngươi gọi ngày sa-bát là
"niềm vui"
và ngày thánh của Ðức Chúa là
"vinh hiển",
nếu ngươi tôn trọng ngày đó
mà tránh đi đường, tránh kiếm
lợi, tránh nói huyên thuyên,
14 thì bấy giờ, ngươi sẽ được Ðức
Chúa làm niềm vui,
Ta sẽ cho ngươi phóng ngựa trên
các vùng đất cao trong xứ,
sẽ cho ngươi hưởng gia nghiệp của
Gia-cóp, tổ tiên ngươi.
Chính miệng Ðức Chúa đã phán như
vậy.
Chương 59
Thánh vịnh sám hối
1 Này, không phải Ðức Chúa ngắn tay
không thể cứu,
cũng chẳng phải Người nặng tai
không nghe được,
2 mà chính lỗi lầm của các ngươi
đã phân cách các ngươi với Thiên
Chúa các ngươi;
chính tội lỗi các ngươi đã khiến
Người ẩn mặt
để khỏi nhìn, khỏi nghe các
ngươi.
3 Quả thật, bàn tay các ngươi vấy
máu,
ngón tay các ngươi đầy tội ác tầy
trời,
môi miệng các ngươi nói lời giả
dối,
lưỡi các ngươi thốt ra điều bất
công.
4 Chẳng ai theo lẽ công minh mà
kiện cáo,
không ai xét xử theo đường chân
thật.
Người ta tin tưởng điều hư không
và nói lời gian xảo,
cưu mang chuyện xấu xa, đẻ ra
điều gian ác.
5 Chúng ấp trứng rắn, chúng dệt
màng nhện:
ai ăn trứng của chúng sẽ phải
chết liền,
giả như trứng vỡ, sẽ nở ra rắn
con!
6 Sợi chúng dệt ra, không thể may
thành áo,
sản phẩm chúng làm, không thể
dùng che thân,
vì sản phẩm chúng làm là sản phẩm
của gian ác,
và bàn tay chúng đầy những việc
bạo tàn.
7 Chúng nhanh chân chạy theo sự dữ
và mau lẹ đổ máu người vô tội:
chúng suy nghĩ toàn những chuyện
độc ác gian tà,
chúng đi đâu cũng bạo hành tàn
phá.
8 Chúng không biết đường dẫn tới
bình an,
đường lối chúng chẳng có gì chính
trực,
chúng làm cho đường mình đi nên
quanh co khúc khuỷu,
ai đi theo đường đó, không hề
được bình an.
9 Vì thế, đức chính trực vẫn còn xa
chúng ta,
lẽ công chính không gần chúng ta
được!
Chúng ta mong ánh sáng, thì này
đây bóng tối,
mong xán lạn huy hoàng, lại bước
đi trong mù mịt tối tăm.
10 Tựa như người mù men theo tường,
chúng ta mò mẫm,
mò mẫm như người không có mắt.
Chúng ta lảo đảo cả trưa lẫn
chiều,
đang sung sức mà như người đã
chết.
11 Tất cả chúng ta gầm gừ như gấu,
chỉ biết rầm rì chẳng khác bồ
câu.
Mong được xét xử, mà đâu có thấy,
mong được cứu thoát, nhưng sao
quá xa vời!
12 Vì lạy Chúa, trước Thánh Nhan,
tội chúng con thật nhiều vô kể,
lỗi chúng con lại tố cáo chúng
con.
Quả thế, tội chúng con sờ sờ
trước mặt,
lỗi chúng con, chúng con biết cả
rồi:
13 Chúng con đã phạm tội, đã lìa bỏ
Ðức Chúa,
đã lìa xa Thiên Chúa chúng con,
còn nói lời thâm độc và nổi loạn
với Chúa,
ngấm ngầm mưu tính và lẩm nhẩm
thốt lời điêu ngoa.
14 Ðức chính trực đã bị bỏ rơi, lẽ
công minh sao xa vời quá!
Vì nơi quảng trường, lòng thành
tín phải đành nghiêng ngả,
sự liêm chính không thể chen
chân.
15 Lòng thành tín đã không còn nữa,
kẻ xa điều gian ác bị cướp bóc
liền tay.
Ðức Chúa thấy rồi và gai cả mắt,
vì chẳng có chi là chính trực.
16 Người đã thấy chẳng có ai phản
ứng,
Người ngạc nhiên vì không ai can
thiệp.
Bởi thế, cánh tay của Người đã
giải cứu
và đức công chính của Người đã
phù trợ.
17 Người lấy đức công chính làm áo
giáp hộ thân,
lấy ơn giải cứu làm mũ chiến đội
đầu,
Người dùng báo oán làm áo mặc,
và lấy ghen tương làm áo choàng.
18 Người đáp trả xứng với việc làm:
Người thịnh nộ với ai chống đối,
Người trả báo những kẻ thù địch;
Người trả báo các đảo xa xăm.
19 Từ phương Tây, người ta sẽ kính
sợ danh Ðức Chúa,
và từ phương Ðông, người ta sẽ
kính sợ vinh quang Người,
vì Người sẽ đến như dòng sông
chảy xiết,
và Thần Khí của Ðức Chúa đẩy nó
mạnh thêm.
20 Nhưng đối với Xi-on
và những ai thuộc nhà Gia-cóp đã
từ bỏ tội lỗi,
Người sẽ đến như Ðấng Cứu Chuộc.
Ðó là sấm ngôn của Ðức Chúa.
Sấm ngôn
21 Phần Ta, đây là giao ước của Ta
với chúng - Ðức Chúa phán -: thần khí của Ta ở trên ngươi và các lời Ta đặt nơi
miệng ngươi sẽ không rời khỏi miệng ngươi, khỏi miệng con cái ngươi, và khỏi miệng
cháu chắt ngươi - Ðức Chúa phán -, từ nay cho đến mãi muôn đời.
Chương 60
Vẻ huy hoàng của Giê-ru-sa-lem
1 Ðứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh
sáng của ngươi đến rồi.
Vinh quang của Ðức Chúa như bình
minh chiếu toả trên ngươi.
2 Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và
mây mù phủ lấp chư dân;
còn trên ngươi Ðức Chúa như bình
minh chiếu toả,
vinh quang Người xuất hiện trên
ngươi.
3 Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng
của ngươi,
vua chúa hướng về ánh bình minh
của ngươi mà tiến bước.
4 Ðưa mắt nhìn tứ phía mà xem,
tất cả đều tập hợp, kéo đến với
ngươi:
con trai ngươi từ phương xa tới,
con gái ngươi được ẵm bên hông.
5 Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng
rỡ,
lòng ngươi rạo rực, vui như mở
cờ,
vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ
biển cả,
của cải muôn dân nước sẽ tràn đến
với ngươi.
6 Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc
đà Ma-đi-an và Ê-pha:
tất cả những người từ Sơ-va kéo
đến,
đều mang theo vàng với trầm
hương,
và loan truyền lời ca tụng Ðức
Chúa.
7 Mọi chiên dê của Kê-đa sẽ được
tập trung lại nơi ngươi,
cừu tơ của Nơ-va-giốt sẽ được ngươi
dùng vào việc tế tự:
chúng sẽ được dâng tiến trên bàn
thờ để làm của lễ đẹp lòng Ta.
Ta sẽ làm cho nhà vinh hiển của
Ta càng thêm vinh hiển.
8 Kìa ai đó, như áng mây trôi, như
chim câu về tổ?
9 Phải, các hải đảo đợi chờ Ta: Có
đoàn tàu Tác-sít dẫn đầu,
chở con cái ngươi từ phương xa
tới, mang theo vàng và bạc,
để tôn vinh danh Ðức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi,
để tôn vinh Ðức Thánh của
Ít-ra-en,
vì Người đã làm cho ngươi được
vinh hiển.
10 Con cái khách ngoại kiều sẽ tái
thiết thành luỹ của ngươi,
việc tế tự của ngươi, vua chúa
của chúng sẽ góp phần.
Phải, trong lúc giận dữ, Ta đã
đánh phạt,
nhưng vì ân tình, Ta lại xót
thương ngươi.
11 Các cửa thành ngươi sẽ luôn luôn
mở rộng,
ngày đêm không đóng lại bao giờ,
để người ta đem nộp cho ngươi của
cải muôn dân,
để vua chúa của chúng đến trình
diện.
12 Vì dân nào nước nào không thần
phục ngươi sẽ phải tiêu vong,
các dân ấy sẽ bị huỷ diệt hoàn
toàn.
13 Vinh quang của rừng núi Li-băng
sẽ đến với ngươi,
cả trắc bá, du thụ, hoàng dương
cùng một lúc,
để làm cho thánh điện Ta được
vinh hiển,
vì Ta sẽ làm cho nơi Ta đặt chân
được vẻ vang.
14 Con cái những kẻ hà hiếp ngươi
phải khúm núm đến với ngươi,
dưới chân ngươi, mọi kẻ đã lăng
nhục ngươi sẽ phủ phục.
Chúng sẽ gọi ngươi là "Thành
Ðô của Ðức Chúa",
là "Xi-on của Ðức Thánh
Ít-ra-en."
15 Thay vì ngươi bị bỏ rơi, chê
ghét, không bóng người lai vãng,
Ta sẽ làm cho ngươi thành niềm
hãnh diện đến muôn đời,
thành nguồn vui qua muôn thế hệ.
16 Ngươi sẽ thưởng thức nguồn phú
túc của chư dân,
hưởng dùng sự giàu sang của vua chúa.
Ngươi sẽ biết rằng: Ta là Ðức
Chúa, là Ðấng cứu độ ngươi,
và Ðấng cứu chuộc ngươi chính là
Ðấng Toàn Năng của Gia-cóp.
17 Thay vì đồng, Ta sẽ đem vàng lại,
thay vì sắt, Ta sẽ đem bạc tới,
thay vì gỗ là đồng, thay vì đá là
sắt.
Ðể giám sát ngươi, Ta sẽ đặt Bình
An,
để cai trị ngươi, Ta sẽ đặt Công
Chính.
18 Người ta không còn nghe nói đến
bạo lực trong xứ sở,
đến tai ương đổ vỡ trong lãnh thổ
ngươi.
Ngươi sẽ gọi thành luỹ ngươi là
"Ơn Cứu Ðộ"
và cửa thành là "Lời Ngợi
Khen".
19 Ánh sáng ban ngày của ngươi không
còn là mặt trời nữa,
và ban đêm, ngươi chẳng cần đến
ánh trăng soi:
Ðức Chúa sẽ là ánh sáng vĩnh cửu
chiếu soi ngươi,
ánh quang huy của ngươi là Thiên
Chúa ngươi thờ.
20 Mặt trời của ngươi sẽ không bao
giờ lặn,
mặt trăng của ngươi cũng chẳng hề
tàn,
vì Ðức Chúa sẽ là ánh sáng muôn
đời cho ngươi
và những ngày tang tóc của ngươi
sẽ mãn.
21 Dân của ngươi gồm toàn những
người công chính,
chúng sẽ được đất nước làm sở hữu
đến muôn đời.
Chúng sẽ là mầm non trong vườn
cây của Ta,
là công trình do tay Ta thực hiện
để làm cho Ta được hiển vinh.
22 Người nhỏ nhất sẽ có ngàn con
cháu,
kẻ hèn nhất thành một dân hùng
cường.
Ta, Ðức Chúa, khi đến thời, Ta sẽ
mau thực hiện điều đó.
Chương 61
Ơn gọi của ngôn sứ
1 Thần khí của Ðức Chúa là Chúa
Thượng ngự trên tôi,
vì Ðức Chúa đã xức dầu tấn phong
tôi,
sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo
hèn,
băng bó những tấm lòng tan nát,
công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam
cầm,
ngày phóng thích cho những tù
nhân,
2 công bố một năm hồng ân của Ðức
Chúa,
một ngày báo phục của Thiên Chúa
chúng ta;
Người sai tôi đi yên ủi mọi kẻ
khóc than,
3 tặng cho những kẻ khóc than ở
Xi-on
tấm khăn đại lễ thay tro bụi,
dầu thơm hoan lạc thay tang chế,
áo ngày hội thay tâm thần sầu
não.
Người ta sẽ gọi họ là cây thánh
rừng thiêng,
là vườn cây Ðức Chúa trồng để làm
cho Người được vinh hiển.
4 Họ sẽ tái thiết những tàn tích cổ
xưa,
sẽ dựng lại những hoang tàn thuở
trước,
tu bổ những thành bị bỏ hoang,
những chốn hoang tàn từ bao thế
hệ.
5 Người ngoại bang sẽ đứng sẵn để
chăn chiên cừu cho anh em,
con cái khách ngoại kiều sẽ cày
ruộng
và làm vườn nho cho anh em.
6 Còn anh em, anh em sẽ được gọi là
"tư tế của Ðức Chúa",
người ta sẽ gọi anh em là
"người phụng sự Thiên Chúa chúng ta."
Của cải chư dân, anh em sẽ được
dùng,
phú quý vinh hoa của chúng, anh
em sẽ được hưởng.
7 Anh em đã lãnh gấp đôi phần tủi
nhục,
đã chuốc vào thân sự nhục nhằn
phỉ báng;
bù vào đó, anh em sẽ được lãnh
gấp đôi
phần gia nghiệp trên đất chúng,
và sẽ được niềm vui vĩnh cửu.
8 Vì Ta, Ðức Chúa, Ta chuộng lẽ
công minh,
ghét chuyện cướp bóc gian tà, nên
Ta sẽ theo lòng thành tín
mà ban phần thưởng cho các ngươi,
và sẽ lập với các ngươi một giao
ước vĩnh cửu.
9 Dòng dõi các ngươi sẽ nức tiếng
giữa chư dân,
và giống nòi các ngươi sẽ lừng
danh giữa muôn nước.
Tất cả những ai thấy các ngươi sẽ
biết rằng
các ngươi là một dòng dõi được
Ðức Chúa ban phúc lành.
Tạ ơn
10 Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Ðức
Chúa,
nhờ Thiên Chúa tôi thờ, tôi hớn
hở biết bao!
Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu
độ,
choàng cho tôi đức chính trực
công minh,
như chú rể chỉnh tề khăn áo, tựa
cô dâu lộng lẫy điểm trang.
11 Như đất đai làm đâm chồi nẩy lộc,
như vườn tược cho nở hạt sinh
mầm,
Ðức Chúa là Chúa Thượng cũng sẽ
làm trổ hoa công chính,
làm trổi vang lời ca ngợi trước
mặt muôn dân.
Chương 62
Vẻ huy hoàng của Giê-ru-sa-lem
1 Vì lòng mến Xi-on, tôi sẽ không
nín lặng,
vì lòng mến Giê-ru-sa-lem, tôi
nghỉ yên sao đành,
tới ngày đức công chính xuất hiện
tựa hừng đông,
ơn cứu độ của thành rực lên như
ngọn đuốc.
2 Rồi muôn dân sẽ được chiêm ngưỡng
đức công chính của ngươi,
mọi đế vương sẽ được ngắm nhìn
vinh quang ngươi tỏ rạng.
Người ta sẽ gọi ngươi bằng tên
mới,
chính là tên miệng Ðức Chúa đặt
cho.
3 Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng
trong lòng bàn tay Ðức Chúa,
sẽ là mũ triều thiên vương giả
Thiên Chúa ngươi cầm ở tay.
4 Chẳng ai còn réo tên ngươi:
"Ðồ bị ruồng bỏ!"
Xứ sở ngươi hết bị tiếng là
"Phận bạc duyên đơn."
Nhưng ngươi được gọi: "Ái
khanh lòng Ta hỡi! "
Xứ sở ngươi nức tiếng là
"Duyên thắm chỉ hồng."
Vì ngươi sẽ được Ðức Chúa đem
lòng sủng ái,
và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở
ngươi.
5 Như tài trai sánh duyên cùng thục
nữ,
Ðấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi
về.
Như cô dâu là niềm vui cho chú
rể,
ngươi cũng là niềm vui cho Thiên
Chúa ngươi thờ.
6 Giê-ru-sa-lem hỡi, trên tường
thành ngươi,
Ta đã đặt lính gác,
suốt ngày đêm, chúng sẽ chẳng bao
giờ nín lặng.
Hỡi những người có phận sự nhắc
nhở Ðức Chúa,
anh em đừng nghỉ ngơi.
7 Cũng đừng để Ðức Chúa nghỉ ngơi
bao lâu Người chưa tái lập,
chưa đặt Giê-ru-sa-lem làm lời
khen ngợi trên khắp địa cầu.
8 Ðức Chúa đã giơ cánh tay hữu
và giơ cánh tay mạnh mẽ của Người
mà thề:
"Ta sẽ không đem lúa mì của
ngươi
làm lương thực cho kẻ thù ngươi
nữa,
ngoại kiều cũng sẽ không được
uống rượu mới của ngươi,
thứ rượu ngươi đã vất vả mới làm
ra được.
9 Nhưng những người gặt lúa mì sẽ
được ăn
và sẽ ca tụng Ðức Chúa,
những kẻ hái nho sẽ được uống
rượu
tại tiền đình thánh điện của
Ta."
Kết thúc
10 Hãy bước qua, hãy bước qua các
cửa thành,
hãy mở con đường cho dân,
hãy dọn đường, hãy dọn đường, hãy
nhặt cho hết đá.
Hãy phất cờ ra hiệu cho các dân.
11 Ðây là lời Ðức Chúa loan truyền
cho khắp cùng cõi đất:
Hãy nói với thiếu nữ Xi-on: Kìa
ơn cứu độ ngươi đang tới.
Kìa phần thưởng của Người theo
sát một bên,
và thành tích đi ngay trước mặt.
12 Chúng sẽ được gọi là "dân
thánh",
là "những người được Ðức
Chúa cứu chuộc".
Còn ngươi sẽ được gọi là "Cô
gái đắt chồng",
là "Thành không bị bỏ".
Chương 63
Xét xử các dân tộc
1 Kìa ai từ Ê-đôm đến, từ Bót-ra
về, mặc trang phục đỏ thắm?
Kìa ai mang y phục rực rỡ, đang
bước tới đầy lẫm liệt oai phong?
- Chính là Ta, Ðấng phán dạy theo
lẽ công minh,
Ðấng mạnh thế ban ơn cứu độ.
2 - Tại sao y phục Ngài lại đỏ?
Trang phục Ngài như áo người đạp
bồn nho?
3 - Duy mình Ta, Ta đạp nơi bồn ép,
và trong các dân chẳng một người
nào ở với Ta.
Ta đã đạp nát chúng trong lúc
thịnh nộ,
đã giày xéo chúng trong cơn lôi
đình;
nước ép từ nơi chúng bắn vọt lên
trang phục của Ta,
và toàn bộ y phục của Ta, Ta đã
làm nhơ bẩn.
4 Vì một ngày báo phục, lòng Ta đã
quyết,
và năm cứu chuộc của Ta đã đến
rồi.
5 Ta nhìn xem: không một người trợ
giúp!
Ta kinh ngạc: chẳng người nào đỡ
nâng!
Khi ấy cánh tay Ta đã cứu Ta,
và cơn lôi đình của Ta đã phù trợ
Ta.
6 Ta đã giẫm nát các dân trong lúc
thịnh nộ,
Ta đã đập tan chúng giữa cơn lôi
đình.
Ta đã làm cho máu chúng chảy tràn
mặt đất.
Suy niệm về lịch sử Ít-ra-en
7 Tôi xin nhắc lại ân nghĩa Ðức
Chúa,
dâng lời ca tụng Ðức Chúa,
vì tất cả những gì Ðức Chúa đã
thực hiện cho chúng tôi
vì lòng nhân hậu lớn lao của
Người đối với nhà Ít-ra-en,
vì những gì Người đã thực hiện,
bởi lòng Người đầy thương xót và
lắm nghĩa giàu ân.
8 Người đã phán: "Thật, chúng
là dân của Ta,
là những đứa con không biết lừa
dối!"
Và đối với họ, Người đã là một vị
cứu tinh,
9 trong mọi cơn quẫn bách.
Không phải là một sứ giả hay một
thiên thần đã cứu thoát họ,
nhưng là chính tôn nhan Người.
Vì yêu mến và thương cảm, chính
Người đã chuộc họ về,
đã vực họ dậy và mang họ đi suốt
thời gian quá khứ.
10 Nhưng chính họ đã nổi loạn,
đã làm phiền thần khí thánh của
Người,
nên đối với họ, Người trở nên kẻ
thù,
và đích thân giao chiến chống lại
họ.
11 Bấy giờ, dân Người nhớ lại thời
quá khứ, thời ông Mô-sê.
Ðâu rồi Ðấng đã đưa vị mục tử đàn
chiên của Người lên từ biển?
Ðâu rồi Ðấng đã đặt nơi ông thần
khí thánh của Người,
12 Ðấng cho cánh tay vinh hiển của
Người đi bên hữu ông Mô-sê,
Ðấng rẽ nước ra trước mặt họ, để
lưu danh muôn đời,
13 Ðấng cho họ đi qua giữa lòng vực
thẳm
như ngựa đi trong sa mạc hoang
vu?
Họ đã không vấp ngã.
14 Thần khí Ðức Chúa đã đưa họ về
chốn nghỉ ngơi,
như bò bê đi xuống thung lũng.
Ngài đã dẫn dắt đoàn dân Ngài như
thế đó,
để danh Ngài được vinh hiển lẫy
lừng.
15 Xin đưa mắt nhìn xem, từ trời cao
thẳm,
từ thánh cung vinh hiển của Ngài.
Nào đâu tình thương nồng nhiệt và
hùng khí dũng mãnh,
nào đâu những rạo rực của lòng
Ngài?
Chẳng lẽ Ngài không còn động lòng
thương con nữa?
16 Quả chính Ngài là Cha chúng con!
Chúng con không được ông
Áp-ra-ham biết đến,
không được ông Ít-ra-en nhìn
nhận,
còn Ngài, lạy Ðức Chúa, Ngài mới
là Cha,
là Ðấng cứu chuộc chúng con:
đó là danh Ngài từ muôn thuở.
17 Lạy Ðức Chúa, tại sao Ngài lại để
chúng con
lạc xa đường lối Ngài?
Tại sao Ngài làm cho lòng chúng
con ra chai đá,
chẳng còn biết kính sợ Ngài?
Vì tình thương đối với tôi tớ
là các chi tộc thuộc gia nghiệp
của Ngài,
xin Ngài mau trở lại.
18 Trong một thời gian ngắn, dân
thánh được thừa hưởng gia tài,
nhưng thánh điện Ngài đã bị thù
địch chúng con giày xéo.
19 Từ lâu rồi, chúng con là những kẻ
không còn được Ngài cai trị,
không còn được cầu khẩn danh
Ngài.
Phải chi Ngài xé trời mà ngự
xuống,
cho núi non rung chuyển trước
Thánh Nhan.
Chương 64
1 như lửa đốt củi khô, như lửa làm
cho nước sôi sùng sục!
Ngài sẽ khiến cho thù địch Ngài
nhận biết Thánh Danh,
chư dân sẽ run rẩy trước nhan
Ngài,
2 khi thấy Ngài làm những điều kinh
hồn táng đởm
mà chúng con không ngờ:
Ngài ngự xuống: và núi non rung
chuyển trước Thánh Nhan!
3 Người ta chưa nghe nói đến bao
giờ,
tai chưa hề nghe, mắt chưa hề
thấy
có vị thần nào, ngoài Chúa ra,
đã hành động như thế đối với ai
tin cậy nơi mình.
4 Ngài đón gặp kẻ sống đời công
chính mà lấy làm vui
và nhớ đến Ngài khi theo đường
lối Ngài chỉ dạy.
Kìa, Ngài phẫn nộ vì tội lỗi
chúng con,
nhưng khi mải đi theo các đường
lối của Ngài,
chúng con sẽ được cứu thoát.
5 Tất cả chúng con đã trở nên như
người nhiễm uế,
mọi việc lành của chúng con khác
nào chiếc áo dơ.
Tất cả chúng con héo tàn như lá
úa,
và tội ác chúng con đã phạm, tựa
cơn gió, cuốn chúng con đi.
6 Không có ai cầu khẩn danh Chúa,
cũng chẳng ai tỉnh dậy mà níu lấy
Ngài,
vì Ngài đã ngoảnh mặt không nhìn
đến,
và để cho tội ác chúng con phạm
mặc sức hành hạ chúng con.
7 Thế nhưng, lạy Ðức Chúa, Ngài là
Cha chúng con;
chúng con là đất sét, còn thợ gốm
là Ngài,
chính tay Ngài đã làm ra tất cả
chúng con.
8 Lạy Ðức Chúa, xin đừng quá phẫn
nộ,
đừng nhớ mãi tội ác chúng con.
Cúi xin Ngài nhìn đến: chúng con
tất cả đều là dân của Ngài.
9 Các thành thánh của Ngài đã trở
nên sa mạc,
Xi-on đã trở nên sa mạc,
Giê-ru-sa-lem thành chốn hoang tàn.
10 Ngôi nhà thánh và vinh hiển của
chúng con,
là nơi cha ông chúng con ca tụng
Ngài, đã làm mồi cho lửa,
và tất cả những gì chúng con quý
nhất đã bị tàn phá.
11 Lạy Ðức Chúa, trước cảnh tượng
đó, Ngài dằn lòng được sao?
Ngài đành nín lặng, để chúng con
khổ nhục ê chề?
Chương 65
Cuộc xét xử tương lai
1 Những kẻ không hỏi Ta thì Ta đã
cho gặp;
những kẻ không tìm Ta, Ta đã xuất
hiện cho chúng thấy.
Với một dân chẳng kêu cầu danh
Ta,
Ta đã phán: "Ta đây, Ta đây
này!"
2 Suốt ngày Ta đưa tay kêu gọi một
dân ngỗ nghịch,
bọn người theo ý riêng mà đi
trong đường tà,
3 một dân không ngừng chọc giận
thẳng vào mặt Ta.
Chúng tế lễ trong các khu vườn,
dâng hương trên đống gạch.
4 Chúng sống trong mồ mả, qua đêm
nơi hang hốc,
ăn thịt heo và bát đĩa của chúng
đầy những món ăn ô uế.
5 Chúng nói: "Hãy xa ra,
đừng tiến lại gần, vì ta quá
thánh đối với ngươi."
Những điều đó khiến cơn giận Ta
bừng lên
như lửa cháy suốt ngày.
6 Này đây, sự việc đã được ghi
trước nhan Ta:
Ta sẽ không nín lặng mà sẽ báo
oán,
sẽ báo oán thế nào cho đích đáng.
7 Ðức Chúa phán: Tội của các ngươi
cũng như tội của cha ông,
là đã dâng hương trên các núi và
xúc phạm đến Ta trên các đồi.
Ta sẽ báo oán thật đích đáng những
việc làm thuở xưa.
8 Ðức Chúa phán thế này:
"Như khi thấy một chùm nho
chưa hoàn toàn khô héo,
người ta nói: đừng phá huỷ, vì
trong đó còn có phúc lành;
cũng vậy, Ta sẽ hành động vì các
tôi tớ của Ta
để không huỷ diệt tất cả."
9 Từ Gia-cóp, Ta sẽ cho phát xuất
một dòng dõi,
và từ Giu-đa, một người sở hữu
các núi của Ta;
những kẻ được Ta tuyển chọn sẽ sở
hữu chúng,
ở đó, các tôi tớ của Ta sẽ cư
ngụ.
10 Ngày nào dân Ta tìm kiếm Ta,
Sa-rôn sẽ thành đồng cỏ cho chiên
ăn,
thung lũng A-kho nên chỗ cho bò
nằm.
11 Còn các ngươi, những kẻ đã bỏ Ðức
Chúa,
đã quên núi thánh của Ta,
đã bày bàn tiệc kính thần Gát
và đổ rượu đầy chén dâng thần
Mơ-ni,
12 Ta sẽ để cho các ngươi bị gươm
đâm,
tất cả các ngươi sẽ phải quỵ ngã
và bị sát hại,
bởi vì Ta đã kêu gọi mà các ngươi
không đáp lời,
Ta đã phán dạy mà các ngươi chẳng
buồn nghe.
Các ngươi cứ làm điều dữ trái mắt
Ta,
điều Ta không thích, các ngươi
lại chọn.
13 Vì thế, Chúa Thượng là Ðức Chúa
phán như sau:
Này đây các tôi tớ của Ta sẽ được
ăn,
còn các ngươi, các ngươi sẽ phải
đói;
này đây các tôi tớ của Ta sẽ được
uống,
còn các ngươi, các ngươi sẽ phải
khát;
này đây các tôi tớ của Ta sẽ vui
mừng,
còn các ngươi, các ngươi sẽ phải
xấu hổ.
14 Này đây các tôi tớ của Ta sẽ reo
vui, lòng chứa chan hoan lạc,
còn các ngươi, các ngươi sẽ kêu
la, lòng tràn ngập ưu phiền,
các ngươi sẽ kêu gào, tâm thần
tan nát.
15 Các ngươi sẽ lưu lại tên mình,
và những kẻ Ta chọn sẽ dùng nó
làm lời nguyền rủa:
"Xin Ðức Chúa là Chúa Thượng
vật chết ngươi đi!"
Còn các tôi tớ của Ta, chúng sẽ
được gọi bằng một tên khác.
16 Trong xứ, ai cầu phúc cho mình
sẽ nhân danh Thiên Chúa chân thật
mà cầu phúc;
trong xứ, ai thề sẽ nhân danh
Thiên Chúa chân thật mà thề.
Vì những nỗi gian truân thời
trước sẽ chìm vào quên lãng
và không còn xuất hiện trước mắt
Ta.
17 Này đây Ta sáng tạo trời mới đất
mới,
không còn ai nhớ đến thuở ban đầu
và nhắc lại trong tâm trí nữa.
18 Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và
luôn mãi hỷ hoan
vì những gì chính Ta sáng tạo.
Phải, này đây Ta sẽ tạo
Giê-ru-sa-lem nên nguồn hoan hỷ
và dân ở đó thành nỗi vui mừng.
19 Vì Giê-ru-sa-lem, Ta sẽ hoan hỷ,
vì dân Ta, Ta sẽ nhảy mừng.
Nơi đây, sẽ không còn nghe thấy
tiếng than khóc kêu la.
20 Nơi đây, sẽ không còn trẻ sơ sinh
chết yểu
và người già tuổi thọ không tròn;
vì trăm tuổi mà chết là chết trẻ,
và chưa tròn trăm tuổi mà chết là
bị nguyền rủa.
21 Người ta sẽ xây nhà và được ở,
sẽ trồng nho và được ăn trái.
22 Người ta sẽ không xây nhà cho kẻ
khác ở,
không trồng nho cho kẻ khác ăn;
vì cây được bao nhiêu tuổi, dân
Ta cũng sẽ thọ bấy nhiêu;
và những kẻ Ta chọn sẽ được hưởng
kết quả do tay chúng làm.
23 Chúng sẽ không luống công vất vả,
không sinh con cho con chết bất
ưng,
vì chúng sẽ là dòng dõi
những người được Ðức Chúa ban
phúc lành,
bản thân chúng cũng như cả nòi
giống.
24 Trước khi chúng kêu Ta, chính Ta
đã đáp lời,
chúng hãy còn đang nói thì Ta đã
nghe rồi.
25 Sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn
cỏ,
sư tử cũng ăn rơm như bò,
còn rắn sẽ lấy bụi đất làm lương
thực.
Sẽ không còn ai tác hại và tàn
phá
trên khắp núi thánh của Ta."
Ðức Chúa phán như vậy.
Chương 66
Sấm ngôn về Ðền Thờ
1 Ðức Chúa phán thế này:
"Trời là ngai của Ta, và đất
là bệ dưới chân Ta.
Các ngươi sẽ xây cho Ta nhà nào,
và nơi nào sẽ là chốn Ta nghỉ
ngơi?
2 Tất cả những vật ấy, chính tay Ta
đã làm.
Tất cả những vật ấy đều là của Ta
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
Kẻ được Ta đoái nhìn: đó là người
nghèo khổ,
người có tâm hồn tan nát, người
nghe lời Ta mà run sợ.
3 Kẻ sát tế bò cũng là kẻ sát nhân,
người hiến tế chiên cũng là người
giết chó,
kẻ dâng lễ phẩm lại là kẻ dâng
máu heo,
người dâng hương kính Ðức Chúa
lại là người thờ ngẫu tượng.
Như thế, chúng đã chọn lấy đường
lối cho mình,
lòng chúng chỉ ưa thích những
điều ghê tởm.
4 Còn Ta, Ta chọn tai ương cho
chúng,
cho xảy ra điều khiến chúng kinh
hoàng.
Bởi vì Ta kêu mà không ai đáp
lại,
Ta phán mà chúng chẳng buồn nghe.
Chúng đã làm điều dữ trái mắt Ta,
đã chọn những điều Ta không
thích.
Phán quyết về Giê-ru-sa-lem
5 Hãy nghe lời Ðức Chúa, hỡi những
ai nghe lời Người mà run sợ.
Anh em các ngươi là những kẻ
ghét bỏ
và trục xuất các ngươi vì danh
Ta.
Chúng nói: "Xin Ðức Chúa tỏ
vinh quang của Người
để chúng ta thấy các ngươi hoan
hỷ."
Nhưng chính bọn chúng sẽ phải xấu
hổ bẽ bàng.
6 Từ trong thành có tiếng ồn ào
phát ra
có tiếng từ đền thờ, tiếng của
Ðức Chúa,
Ðấng trả báo cho kẻ thù Người.
7 Trước thời chuyển dạ, nó đã sinh
con,
trước cơn đau, nó đã cho con trai
chào đời.
8 Ai đã nghe một chuyện như thế?
Ai đã thấy một điều như vậy?
Có nước nào sinh ra nội một ngày?
Có dân nào chào đời trong một
lúc?
Thế mà Xi-on vừa mới chuyển dạ đã
sinh được đàn con.
9 Ðức Chúa phán:
Phải chăng Ta mở dạ mẹ mà không
để cho đứa con chào đời?
Hay Ta cho đứa con chào đời mà
lại ngăn dạ mẹ?
Thiên Chúa của ngươi phán như
thế.
10 Hãy vui mừng với Giê-ru-sa-lem,
hãy vì Thành Ðô mà hoan hỷ,
hỡi tất cả những người yêu mến
Thành Ðô!
Hãy cùng Giê-ru-sa-lem khấp khởi
mừng,
hỡi tất cả những người đã than
khóc Thành Ðô,
11 để được Thành Ðô cho hưởng trọn
nguồn an ủi,
được thoả thích nếm mùi sung mãn
vinh quang,
như trẻ thơ bú no bầu sữa mẹ.
12 Vì Ðức Chúa phán như sau:
Này Ta tuôn đổ xuống Thành Ðô ơn
thái bình tựa dòng sông cả,
và Ta khiến của cải chư dân chảy
về tràn lan như thác vỡ bờ.
Các ngươi sẽ được nuôi bằng sữa
mẹ,
được bồng ẵm bên hông, nâng niu
trên đầu gối.
13 Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ
an ủi các ngươi như vậy;
tại Giê-ru-sa-lem, các ngươi sẽ
được an ủi vỗ về.
14 Nhìn thấy thế, lòng các bạn sẽ
đầy hoan lạc,
thân mình được tươi tốt như cỏ
đồng xanh.
Ðức Chúa sẽ biểu dương quyền lực
của Người cho các tôi tớ biết,
và nổi cơn thịnh nộ với các kẻ
thù.
15 Vì này đây Ðức Chúa ngự đến trong
lửa,
xa giá của Người như thể cuồng
phong,
để trút cơn giận trong trận lôi
đình,
và lời đe doạ trong ngọn lửa
thiêu.
16 Vì Ðức Chúa sẽ dùng lửa và lưỡi
kiếm
mà xét xử mọi người phàm;
nhiều người phải mạng vong vì
lưỡi gươm của Ðức Chúa.
17 Những kẻ tự thánh hiến và tự
thanh tẩy
để vào các khu vườn sau một người
đứng ở giữa,
những kẻ ăn thịt heo,
thịt các thú vật kinh tởm và thịt
chuột, đều sẽ chết cả lũ
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
Diễn từ cánh chung
18 Còn Ta, Ta biết rõ việc làm và ý
định của chúng, Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và
được thấy vinh quang của Ta. 19 Ta sẽ đặt giữa họ một dấu hiệu và
sai những kẻ sống sót của họ đến các dân tộc: Tác-sít, Pút, Lút, là những dân
thạo nghề cung nỏ, đến dân Tu-van, Gia-van, đến những hải đảo xa xăm chưa hề
được nghe nói đến Ta và chưa hề thấy vinh quang của Ta. Họ sẽ loan báo vinh
quang của Ta giữa các dân tộc. 20 Ðức Chúa phán: giống như con cái
Ít-ra-en mang lễ phẩm trên chén dĩa thanh sạch đến Nhà Ðức Chúa, người ta cũng
sẽ đưa tất cả những anh em các ngươi thuộc mọi dân tộc về làm lễ phẩm tiến dâng
Ðức Chúa - đưa bằng ngựa, xe, võng cáng, lừa và lạc đà - về trên núi thánh của
Ta là Giê-ru-sa-lem. 21 Và cả trong bọn họ, Ta sẽ chọn lấy một số
làm tư tế, làm thầy Lê-vi - Ðức Chúa phán như vậy.
22 Vì trời mới đất mới do chính Ta
làm ra tồn tại trước mặt Ta thế nào - sấm ngôn của Ðức Chúa -, thì dòng dõi và
tên tuổi các ngươi cũng sẽ tồn tại như vậy.
23 Và từ mồng một tháng nọ đến mồng
một tháng kia,
từ ngày sa-bát này đến ngày
sa-bát khác,
mọi người phàm sẽ đến phủ phục
trước nhan Ta,
Ðức Chúa phán.
24 Và khi ra về, mọi người sẽ thấy
xác những kẻ phản loạn chống lại
Ta,
vì giòi bọ rúc rỉa chúng sẽ không
chết,
lửa thiêu đốt chúng sẽ không tàn
lụi.
Chúng sẽ là đồ ghê tởm cho mọi
người phàm.
Giê-rê-mi-a
Chương 01
Mở đầu
1 Ðây là những lời của ông
Giê-rê-mi-a, con ông Khin-ki-gia-hu, thuộc hàng tư tế ở A-na-thốt trong đất
Ben-gia-min. 2 Những lời này, Ðức Chúa đã phán với ông từ năm thứ
mười ba triều vua Giô-si-gia-hu; vua này là con vua A-môn và là vua Giu-đa, 3
qua triều vua Giơ-hô-gia-kim là con vua Giô-si-gia-hu và là vua Giu-đa,
cho đến cuối năm thứ mười một triều vua Xít-ki-gia-hu; vua này cũng là con vua
Giô-si-gia-hu và là vua Giu-đa, tới khi Giê-ru-sa-lem bị phát lưu vào tháng thứ
năm.
I. Những Lời Sấm Lên Án Giu-Ða Và
Giê-Ru-Sa-Lem
1. Thời Vua Giô-Si-Gia-Hu
Chúa gọi ông Giê-rê-mi-a
4 Có lời Ðức Chúa phán với tôi
rằng:
5 "Trước khi cho ngươi thành
hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi;
trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta
đã thánh hoá ngươi,
Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư
dân."
6 Nhưng tôi thưa: "Ôi! Lạy Ðức
Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói!"
7 Ðức Chúa phán với tôi:
"Ðừng nói ngươi còn trẻ!
Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi;
Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi
cứ nói.
8 Ðừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi
để giải thoát ngươi",
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
9 Rồi Ðức Chúa giơ tay chạm vào
miệng tôi và phán:
"Ðây Ta đặt lời Ta vào miệng
ngươi.
10 Coi, hôm nay Ta đặt ngươi đứng
đầu các dân các nước,
để nhổ, để lật, để huỷ, để phá,
để xây, để trồng."
11 Có lời Ðức Chúa phán với tôi
rằng: "Giê-rê-mi-a, ngươi thấy gì?" Tôi thưa: "Tôi thấy một
nhánh "cây canh thức".” 12 Ðức Chúa liền phán với tôi:
"Ngươi thấy đúng, vì Ta đang canh thức để thi hành lời Ta."
13 Lại có lời Ðức Chúa phán với tôi
rằng: "Ngươi thấy gì?" Tôi thưa: "Tôi thấy một cái nồi sôi sùng
sục, mặt nồi từ phía Bắc nghiêng xuống.” 14 Và Ðức Chúa phán với
tôi:
"Từ phía Bắc tai hoạ sẽ ập
xuống mọi cư dân xứ này;
15 vì đây Ta kêu gọi tất cả các dòng
tộc
thuộc các vương quốc phía Bắc, -
sấm ngôn của Ðức Chúa.
Chúng sẽ đến, và mỗi dân sẽ đặt
ngai của mình
tại lối vào các cổng
Giê-ru-sa-lem;
tứ phía tường thành sẽ bị chúng
phá đổ,
tất cả các thành khác của Giu-đa
cũng vậy.
16 Ta sẽ tuyên án phạt cư dân xứ
này,
lên án mọi hành vi gian ác của
chúng,
vì chúng đã bỏ Ta, đã đốt hương
kính các thần khác
và đã sụp lạy những sản phẩm tay
chúng làm ra.
17 Còn ngươi, ngươi hãy thắt lưng.
Hãy chỗi dậy! Hãy nói với chúng
tất cả những gì Ta sẽ truyền cho
ngươi.
Trước mặt chúng, ngươi đừng run
sợ;
nếu không, trước mặt chúng,
chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ
luôn.
18 Này, hôm nay, chính Ta làm cho
ngươi
nên thành trì kiên cố, nên cột
sắt tường đồng chống lại cả xứ:
từ các vua Giu-đa đến các thủ
lãnh,
các tư tế và toàn dân trong xứ.
19 Chúng sẽ giao chiến với ngươi,
nhưng sẽ không làm gì được,
vì - sấm ngôn của Ðức Chúa
có Ta ở với ngươi để giải thoát
ngươi."
Chương 02
Các lời giảng cổ nhất về việc
Ít-ra-en phản bội
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi:
2 Hãy đi mà thét vào tai
Giê-ru-sa-lem như sau:
Ðức Chúa phán thế này:
Ta nhớ lại lòng trung nghĩa của
ngươi lúc ngươi còn trẻ,
tình yêu của ngươi khi ngươi mới
thành hôn,
lúc ngươi theo Ta trong sa mạc,
trên vùng đất chẳng ai gieo
trồng.
3 Bấy giờ Ít-ra-en là của thánh
thuộc về Ðức Chúa,
là phần hoa lợi đầu mùa của
Người;
tất cả những ai ăn lạm vào đó đều
phạm lỗi,
chúng phải mang tai mắc hoạ, -
sấm ngôn của Ðức Chúa.
4 Hỡi nhà Gia-cóp và mọi dòng tộc
nhà Ít-ra-en,
hãy nghe lời Ðức Chúa.
5 Ðức Chúa phán như sau:
"Cha ông các ngươi đã thấy
Ta bất công ở chỗ nào
mà chúng lại rời bỏ Ta để bước
theo thần hư ảo,
và chính chúng trở thành hư ảo?
6 Chúng cũng chẳng thèm hỏi:
"Ðức Chúa ở đâu?
Ðấng đã đưa chúng ta từ đất
Ai-cập đi lên,
Ðấng dẫn bước chúng ta trong sa
mạc,
trong miền đất cằn cỗi, trong nơi
cát lún,
trong miền đất khô cháy và tối
tăm,
miền đất không người lai vãng,
chẳng ai cư ngụ,
Người ở đâu rồi?
7 Ta đã đưa các ngươi vào miền đất
xanh tươi
để các ngươi được ăn hoa trái thổ
sản của nó.
Nhưng một khi vào rồi, các ngươi
đã làm nhơ nhớp đất của Ta,
và biến gia sản của Ta thành đồ
ghê tởm.
8 Hàng tư tế cũng chẳng thèm hỏi:
"Ðức Chúa ở đâu?
Các chuyên viên Lề Luật chẳng
biết đến Ta,
các mục tử thì chống lại Ta,
còn ngôn sứ lại nhờ Ba-an mà
tuyên sấm,
chúng đi theo những thần vô tích
sự.
9 Bởi vậy, Ta sẽ còn tố cáo các
ngươi,
- sấm ngôn của Ðức Chúa -, tố cáo
con cái các ngươi nữa.
10 Các ngươi cứ qua đảo dân Kít-tim
mà xem,
cứ sai người đi Kê-đa để tìm hiểu
kỹ
và xem có đời thuở nào như thế
chăng?
11 Có dân nào lại đánh đổi thần minh
của mình
- mà những thứ đó lại chẳng phải
là thần minh?
Thế mà dân Ta đã đánh đổi vinh
quang của nó
đi lấy cái vô tích sự!
12 Này trời, hãy kinh khiếp về
chuyện đó,
hãy run sợ cho hồn xiêu phách
lạc, - sấm ngôn của Ðức Chúa,
13 vì dân Ta đã phạm hai tội:
chúng đã bỏ Ta là mạch nước
trường sinh
để làm những hồ nứt rạn, không
giữ được nước.
14 Ít-ra-en có phải là nô lệ hay gia
nhân không,
thế mà sao nó lại bị người ta
cưỡng đoạt?
15 Những con sư tử đã gầm gừ đe doạ
nó,
chúng rống lên, biến xứ sở nó
thành chốn hoang vu,
thiêu huỷ đô thị nó, không còn
người cư trú nữa.
16 Cả con cháu Nốp và Tác-pan-khết
cũng cạo trọc đầu ngươi.
17 Chẳng phải chính ngươi đã gây nên
điều ấy,
vì đã bỏ Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi,
khi Người dẫn ngươi trên đường
ngươi đi đó sao?
18 Và bây giờ, ngươi đi Ai-cập uống
nước sông Si-kho, thì nào được ích chi?
Ngươi đi Át-sua uống nước Sông
Cả, thì nào có lợi gì?
19 Sự gian ác của ngươi phải sửa trị
ngươi,
hành vi phản bội của ngươi sẽ
trừng phạt ngươi.
Ngươi phải biết, ngươi phải thấy
rằng:
lìa bỏ Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi,
không còn kính sợ Người, thì thật
là xấu xa và cay đắng
- sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo
binh là Chúa Thượng.
20 Phải, từ lâu rồi, ách đè lên
ngươi, ngươi bẻ gãy,
xiềng xích trói buộc ngươi, ngươi
giật phăng;
ngươi còn dám nói: "Chẳng
làm tôi ai cả!"
Thế rồi, trên khắp các đồi cao,
dưới mọi lùm cây rậm,
ngươi uốn mình như một con điếm.
21 Còn Ta, Ta đã trồng ngươi như cây
nho hảo hạng,
cây nho thuần chủng.
Sao ngươi lại thoái hoá thành
những cành nho tạp chủng?
22 Ngươi có dùng thuốc mà thanh tẩy
ngươi,
có cho nhiều xà bông mấy đi nữa
thì trước nhan Ta, vết tội của
ngươi vẫn sờ sờ ra đó
- sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa
Thượng.
23 Làm sao ngươi nói được:
"Tôi đâu bị nhơ uế? Tôi đâu
chạy theo thần Ba-an?"
Cứ nhìn đường ngươi đi trong thung
lũng
rồi sẽ biết ngươi đã làm gì.
Con lạc đà cái non dại chạy lăng
xăng khắp mọi nẻo đường,
24 con lừa cái hoang quen thói trong
sa mạc
nổi cơn thèm khát lên, thở hổn hà
hổn hển.
Chứng động cỡn của nó, ai mà ghìm
được?
Muốn tìm kiếm nó, đâu khó nhọc
gì,
cứ đến tháng của nó là gặp được
nó thôi.
25 Coi chừng chân mất dép, họng bỏng
khô!
Nhưng ngươi nói: "Vô phương!
Tôi trót yêu ngoại kiều, tôi sẽ
đi theo họ."
26 Kẻ trộm xấu hổ khi bị bắt thế
nào,
con cái nhà Ít-ra-en cũng thẹn
thùng như vậy.
Tất cả bọn chúng cùng vua chúa và
thủ lãnh,
tư tế và ngôn sứ đều xấu hổ thẹn
thùng,
27 vì đã nói cùng khúc gỗ:
"Ngài là cha của con",
đã thưa với cục đá: "Ngài là
mẹ sinh ra con."
Quả thế, thay vì quay mặt, chúng
quay lưng lại với Ta.
Nhưng lúc gặp tai hoạ, chúng lại
nói:
"Xin Ngài trỗi dậy cứu thoát
chúng con!"
28 Ðâu cả rồi, các thần của ngươi,
các thần ngươi đã làm ra ấy?
Chúng trỗi dậy đi nào
nếu chúng cứu được ngươi lúc
ngươi gặp tai hoạ.
Vì, Giu-đa hỡi,
ngươi có bao nhiêu thành thì cũng
có bấy nhiêu thần.
29 Sao các ngươi dám tranh tụng với
Ta?
Các ngươi đều phản bội Ta hết
thảy - sấm ngôn của Ðức Chúa.
30 Ta đã đánh phạt con cái các
ngươi, nhưng đâu có ích gì:
chúng chẳng tiếp thu lời sửa dạy.
Gươm của các ngươi đã làm thịt
các ngôn sứ
khác nào sư tử phá tan hoang.
31 Và các ngươi, thế hệ hôm nay,
hãy ngẫm xem lời Ðức Chúa phán
dạy:
"Ðối với Ít-ra-en, phải
chăng Ta đã là sa mạc
hay đất đai cằn cỗi tối
tăm?"
Thế mà sao dân Ta lại nói:
"Chúng tôi muốn tự do
chứ không còn đến với Ngài
nữa?"
32 Hỏi có trinh nữ nào quên được đồ
trang sức,
hay có cô dâu nào bỏ được chiếc
thắt lưng?
Thế mà dân Ta lại quên Ta đó,
quên Ta tự thuở nào.
33 Thật, ngươi đã khéo vạch đường mở
lối để tìm kiếm yêu đương.
Cho nên cả những chuyện gian tà,
ngươi cũng từng quen thói.
34 Ngay trên tà áo ngươi, cũng thấy
máu người nghèo vô tội,
dù ngươi chẳng bắt gặp họ khoét
vách đục tường.
Với những chuyện như thế
35 mà ngươi vẫn bô bô: "Tôi
hoàn toàn vô tội.
Bằng chứng là Người không trút
cơn giận trên tôi."
Này Ta kết án ngươi
bởi vì ngươi dám nói: "Tôi
hoàn toàn vô tội."
36 Sao ngươi thay lòng đổi dạ quá dễ
dàng như thế?
Như đã xấu hổ vì Át-sua, ngươi sẽ
xấu hổ vì Ai-cập:
37 Từ nơi đây, ngươi sẽ ôm đầu ra
đi.
Ðức Chúa đã loại trừ những kẻ
ngươi nương tựa;
đi với chúng, ngươi sẽ chẳng
thành công!
Chương 03
Trở về với Chúa
1 Nếu một người đuổi vợ
và bà này bỏ đi, làm vợ một người
khác, thử hỏi:
người chồng cũ có trở lại với bà
ta nữa không?
Vậy, phải chăng đất kia đã chẳng
hoàn toàn ra ô uế?
Và ngươi, ngươi đã đàng điếm với
bao nhiêu tình nhân,
lại còn mong trở về với Ta nữa! -
Sấm ngôn của Ðức Chúa.
2 Ngước mắt lên các đồi trọc mà xem
có nơi nào ngươi đã chẳng trao
thân cho người khác!
Ngươi ngồi đợi chúng bên vệ đường
như tên Ả-rập ngồi rình trong sa
mạc.
Ngươi đã làm cho xứ sở ra ô uế
vì những chuyện điếm đàng và gian
ác của ngươi.
3 Cho nên đến mùa, không có mưa,
cuối mùa, mưa cũng chẳng thấy.
Và ngươi cứ mặt dạn mày dày như
con đĩ,
mà chẳng biết xấu hổ là gì.
4 Từ bây giờ, ngươi lại không xưng
hô với Ta thế này sao:
"Ngài là thân phụ của con,
là lang quân của con thuở thanh
xuân ấy? "
5 Lẽ nào Người giận đến muôn đời,
lẽ nào Người chấp nê mãi mãi?
Nói vậy rồi, ngươi tiếp tục làm
điều gian ác, vì ngươi vốn lì lợm.
Kêu gọi miền Bắc trở về
6 Ðức Chúa phán với tôi dưới thời
vua Giô-si-gia-hu: Ðiều Ít-ra-en phản bội đã làm, ngươi có thấy không? Nó đi
khắp các núi cao, đến dưới mọi lùm cây rậm mà đàng điếm. 7 Ta tự
bảo: "Làm tất cả những chuyện đó rồi, nó sẽ trở về với Ta"; nhưng nó
đâu trở về. Và con em bất tín bất trung của nó là Giu-đa đã thấy như vậy. 8
Nó đã thấy: cũng vì tất cả những vụ ngoại tình mà Ta đã trao giấy ly hôn
cho con chị là Ít-ra-en phản bội và đuổi đi. Thế mà con em bất tín bất trung
của nó là Giu-đa cũng chẳng sợ, cứ tiếp tục đàng điếm. 9 Nó đàng
điếm trơ trẽn như vậy, nên đã làm cho xứ sở ra ô uế; nó đã ngoại tình với loài
gỗ đá. 10 Ðến thế rồi mà Giu-đa, con em bất tín bất trung của nó,
vẫn cứ giả dối, chưa hết lòng trở về với Ta, - sấm ngôn của Ðức Chúa.
11 Rồi Ðức Chúa phán với tôi:
Ít-ra-en phản bội, nhưng vẫn còn công chính so với Giu-đa bất tín bất trung. 12
Hãy đi, hô lên cho miền Bắc nghe những lời này:
Trở về đi, hỡi Ít-ra-en phản bội
- sấm ngôn của Ðức Chúa!
Ta sẽ không nghiêm nét mặt với
các ngươi nữa,
vì Ta giàu lòng xót thương - sấm
ngôn của Ðức Chúa
và Ta không giận dữ mãi đâu.
13 Có điều là tội ngươi, ngươi phải
biết:
ngươi đã xúc phạm đến Ðức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi,
khi lang bạt khắp các nẻo đường
tìm kiếm ngoại kiều dưới mọi lùm
cây rậm;
còn tiếng Ta gọi, các ngươi chẳng
thèm nghe,
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
Dân của Ðấng Mê-si-a ở Xi-on
14 Sấm ngôn của Ðức Chúa: Trở về đi,
hỡi lũ con phản bội, vì Ta vẫn là chủ các ngươi. Ta sẽ lấy của các ngươi mỗi
thành một người, mỗi thị tộc hai người, và đưa về Xi-on. 15 Ta sẽ
cho các ngươi những mục tử đẹp lòng Ta; chúng sẽ khôn ngoan sáng suốt chăn dắt
các ngươi. 16 Khi các ngươi tăng số và phát triển trong xứ, thì lúc
ấy - sấm ngôn của Ðức Chúa - người ta sẽ không còn nói đến Hòm Bia của Ðức Chúa
nữa, không còn lưu tâm, không nhớ tới, chẳng nuối tiếc, cũng chẳng làm lại nữa.
17 Thời ấy, Giê-ru-sa-lem sẽ được gọi là "Ngai toà của Ðức
Chúa", và mọi dân tộc sẽ nhân danh Ðức Chúa quy tụ tại Giê-ru-sa-lem;
chúng sẽ không còn sống buông thả theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình nữa.
18 Những ngày ấy, nhà Giu-đa sẽ đến
với nhà Ít-ra-en, rồi chúng sẽ cùng nhau từ đất Bắc tiến về đất Ta đã ban cho
tổ tiên chúng làm gia nghiệp.
Tiếp bài thơ về việc trở lại với
Chúa
19 Ta đã nói: Có cách nào để Ta đặt
ngươi trong hàng con cái?
Ta sẽ ban cho ngươi một miền đất
hoan lạc
làm phần gia nghiệp cao quý nhất
giữa chư dân.
Ta đã nói: ngươi sẽ gọi Ta:
"Cha ơi!"
Và ngươi sẽ không lìa xa Ta nữa.
20 Thế nhưng, người đàn bà thất
trung với bạn mình làm sao,
thì, hỡi nhà Ít-ra-en, các ngươi
cũng thất trung với Ta như vậy,
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
21 Người ta nghe tiếng kêu trên các
đồi trọc:
tiếng con cái Ít-ra-en khóc lóc
van nài,
vì chúng đã đi trệch đường lối,
đã bỏ quên Ðức Chúa, Thiên Chúa
của mình.
22 - Trở về đi, hỡi lũ con phản bội,
Ta sẽ chữa lành tội phản bội của
các ngươi!
- Này chúng con đây, chúng con đến
với Ngài,
vì Ngài là Ðức Chúa, Thiên Chúa
của chúng con.
23 Thật ra, các đồi cao chỉ là trò
dối trá,
cảnh ồn ào huyên náo trên núi non
cũng vậy.
Thật ra, chỉ nơi Ðức Chúa, Thiên
Chúa của chúng con,
Ít-ra-en mới có ơn cứu độ.
24 Công lao của tổ tiên chúng con,
Thần Ô Nhục đã ngốn hết,
ngay từ thời niên thiếu của chúng
con,
ngốn cả chiên bò, cả con trai con
gái các ngài.
25 Chúng ta đành chịu nằm vùi trong
nỗi ô nhục của mình thôi,
chịu cho nỗi thẹn thùng phủ lấp!
Vì, cũng như tổ tiên chúng ta,
chúng ta đã xúc phạm đến Ðức Chúa
từ thời niên thiếu cho tới ngày
nay;
chúng ta đã chẳng nghe theo tiếng
Ðức Chúa,
Thiên Chúa của chúng ta.
Chương 04
1 - Nếu ngươi trở về, hỡi Ít-ra-en,
- sấm ngôn của Ðức Chúa -,
nếu ngươi trở về với Ta,
nếu ngươi loại bỏ khỏi mặt Ta các
thần ghê tởm
và không còn đi lang bạt,
2 nếu ngươi kêu: "Ðức Chúa
hằng sống"
mà thề cách trung thực, ngay
thẳng và công chính,
thì chư dân cũng sẽ lấy danh
Người mà cầu phúc cho nhau;
và nơi Người, chư dân cũng sẽ
hãnh diện.
3 Vì Ðức Chúa phán thế này với
người Giu-đa và Giê-ru-sa-lem:
Vỡ đất hoang đi và đừng gieo vào
gai góc!
4 Hỡi người Giu-đa và dân cư
Giê-ru-sa-lem,
hãy cắt bì để thuộc về Ðức Chúa,
hãy cắt bì lòng dạ các ngươi;
nếu không, cơn giận của Ta sẽ
bừng lên như lửa.
Vì những việc gian ác của các
ngươi,
cơn giận ấy sẽ thiêu đốt mà không
ai giập tắt được.
Cuộc xâm lăng từ phương Bắc
5 Tại Giu-đa, hãy công bố, tại
Giê-ru-sa-lem, hãy loan tin,
nói đi, rúc tù và trong khắp xứ.
Hãy lớn tiếng la lên: tập hợp lại!
Nào tiến lên, chúng ta chiếm lấy
các thành kiên cố.
6 Giương cờ lên hướng về Xi-on.
Trốn đi, đừng đứng lại,
vì từ phương Bắc Ta sẽ giáng
xuống một tai hoạ,
một thảm hoạ gớm ghê.
7 Sư tử đã chồm lên từ bụi rậm, kẻ
sát hại chư dân đã lên đường
rời khỏi nơi nó ở, để biến xứ sở
ngươi thành chốn hoang tàn.
Các thành trì của ngươi sẽ đổ
nát, chẳng còn ai trú ngụ.
8 Bởi thế, hãy quấn vải thô vào
người, than khóc đi, kêu gào lên,
cơn thịnh nộ của Ðức Chúa sẽ
chẳng buông tha chúng ta đâu!
9 Trong những ngày ấy - sấm ngôn
của Ðức Chúa
vua sẽ phải kinh hồn, thủ lãnh
cũng bạt vía,
tư tế hốt hoảng, ngôn sứ bàng
hoàng.
10 Chúng nói: "Ôi, lạy Ðức Chúa
là Chúa Thượng,
quả thật Ngài đã gạt gẫm dân này
và Giê-ru-sa-lem.
Ngài từng nói: "Các ngươi sẽ
được bình an",
thế mà gươm lại đã thọc vào cổ!
"
11 Bấy giờ thiên hạ sẽ nói với dân
này và Giê-ru-sa-lem:
từ các đồi trọc trong sa mạc
gió nồng sẽ thổi đến con gái dân
Ta
không phải để rê, không phải để
sảy.
12 Một cơn gió cực mạnh thổi đến
theo lệnh Ta,
bấy giờ chính Ta sẽ tuyên án kết
tội chúng.
13 Này nó ùn ùn kéo lên như mây, xe
của nó khác nào vũ bão,
ngựa của nó lẹ hơn phượng hoàng.
Khốn cho chúng tôi, chúng tôi
chết mất!
14 Hỡi Giê-ru-sa-lem,
hãy tẩy rửa lòng ngươi sạch mọi
gian tà để được ơn cứu độ.
Ðến bao giờ lòng ngươi còn ấp ủ
những tư tưởng hư đốn?
15 Từ vùng Ðan có tiếng đồn, từ núi
Ép-ra-im có tin dữ.
16 Hãy nhắc cho chư dân nhớ điều
này,
hãy đưa tin về Giê-ru-sa-lem:
Từ miền đất xa xôi, quân thù đang
tiến đến.
Chúng sẽ vây hãm thành,
sẽ hò hét tấn công các thành thị
Giu-đa.
17 Như những kẻ canh giữ đồng ruộng,
chúng vây hãm Giê-ru-sa-lem,
bởi vì nó đã phản bội Ta, - sấm
ngôn của Ðức Chúa.
18 Các hành vi cử chỉ của ngươi
đã gây nên cho ngươi những điều
này.
Tai hoạ ngươi phải chịu là thế
đó:
Cay đắng thật, cay đắng tận tâm
can!
19 Ruột gan tôi, ôi ruột gan tôi,
đau quá chừng quá đỗi.
Trong lồng ngực tôi, tim đập
thình thình.
Tôi không thể nào làm thinh được
vì tiếng tù và rúc, tiếng hò la
xung trận, tôi đã nghe rõ cả.
20 Người ta la lên: "Hết thảm
hoạ này đến thảm hoạ khác!"
Phải, cả xứ đã bị tiêu diệt rồi!
Bất thình lình các lều trại của
tôi bị tiêu diệt,
trong nháy mắt các nhà bạt của
tôi cũng thế.
21 Tới bao giờ tôi còn phải thấy cờ
hiệu,
phải nghe tiếng tù và của chúng?
22 Dân Ta quả thật là ngu xuẩn,
chúng không nhận biết Ta.
Chúng là những đứa con dại dột,
là những kẻ tăm tối u mê.
Chúng chỉ khéo làm điều dữ, chứ
chẳng biết làm điều lành.
23 Tôi nhìn xuống đất: toàn là trống
rỗng,
tôi ngước lên trời: chỉ thấy tối
om.
24 Tôi nhìn núi non, chúng run lẩy
bẩy,
mọi đồi cao đều chuyển động rung
rinh.
25 Tôi đưa mắt nhìn: đâu còn ai nữa,
chim chóc trên trời cũng trốn
biệt tăm.
26 Tôi đưa mắt nhìn: đồng xanh đã
thành sa mạc,
mọi đô thị đều tan hoang trước
mặt Ðức Chúa,
trước cơn thịnh nộ bừng cháy của
Người.
27 Vì Ðức Chúa phán như sau: Cả xứ
sẽ bị tàn phá,
nhưng Ta sẽ không phá huỷ hoàn
toàn.
28 Vì thế, đất sẽ chịu tang, trên
cao, trời sẽ tối sầm.
Vì một khi tuyên bố rồi, Ta quyết
tâm thực hiện,
Ta sẽ không hối tiếc, không thay
đổi.
29 Nghe tiếng kỵ mã và lính bắn
cung, cả thành đều chạy trốn:
kẻ chui vào bụi rậm, người trèo
lên mỏm đá;
cả thành bị bỏ hoang, không còn
ai ở nữa.
30 Còn ngươi, ngươi sẽ làm gì, hỡi
đứa bị diệt vong?
Dù ngươi mặc áo điều sặc sỡ hay
trang sức bằng vàng,
dù ngươi có vẽ mắt cho to,
thì đỏm dáng như vậy cũng chẳng
ích lợi gì.
Những kẻ từng yêu ngươi say đắm
sẽ miệt thị ngươi, đòi lấy mạng
ngươi.
31 Phải, tiếng tôi nghe tựa tiếng
người phụ nữ lâm bồn,
tiếng rên la của người mẹ trẻ
sinh con,
tiếng thiếu nữ Xi-on thở hổn hển
và dang tay kêu khóc:
"Khốn thân tôi, tôi chết dần
chết mòn
trước những kẻ sát nhân!"
Chương 05
Lý do đưa đến cuộc xâm lăng
1 Hãy rảo quanh đường phố
Giê-ru-sa-lem mà xem cho biết.
Trên các quảng trường thành phố
ấy,
hãy tìm xem có gặp được một
người,
một người biết thi hành luật
pháp,
biết sống cho chân thật, Ta sẽ
dung tha cho cả thành.
2 Cả khi chúng kêu lên: "Có
Ðức Chúa hằng sống",
thì cũng chỉ là thề dối thề gian.
3 Lạy Ðức Chúa, Ngài chẳng để mắt
tìm chân lý sao?
Ngài đánh phạt chúng, chúng không
thèm rên rỉ.
Ngài tiêu diệt chúng, chúng từ
khước lời sửa dạy của Ngài.
Mặt chúng chai hơn đá, chúng từ
chối không chịu trở về.
4 Phần tôi, tôi nói: "Chúng
thật là những tên hèn hạ.
Hành động của chúng ngu xuẩn biết
bao.
Vì chúng chẳng am tường đường lối
của Ðức Chúa,
và luật pháp của Thiên Chúa chúng
thờ.
5 Tôi sẽ đến với hàng kẻ cả và nói
chuyện với họ,
hẳn là họ am tường đường lối của
Ðức Chúa
và luật pháp của Thiên Chúa họ
thờ."
Thế nhưng chính họ đã cùng nhau
bẻ gãy ách,
đập tan cả xích xiềng.
6 Vì thế họ sẽ bị sư tử trong rừng
xông ra tấn công,
bị chó sói hoang địa cắn chết.
Loài beo loài báo rình rập các
thành, ai ra khỏi sẽ bị xé xác.
Vì tội ác của họ thì muôn vàn,
hành vi phản bội thì vô kể.
7 Vì sao Ta phải tha cho ngươi chứ?
Con cái ngươi đã từ bỏ Ta
mà thề bồi nhân danh cái chẳng
phải là thần.
Ta cho chúng được ăn no mặc ấm,
thì chúng lại đi ngoại tình, đổ
xô đến nhà bọn điếm.
8 Chúng là những con ngựa động cỡn
và bất kham,
đứa nào cũng hú hí với vợ người
hàng xóm.
9 Những chuyện như thế Ta lại không
trừng phạt,
một dân như vậy Ta không trả thù
sao
- sấm ngôn của Ðức Chúa?
10 Leo lên tường của nó mà phá đổ,
nhưng đừng phá hoàn toàn.
Bẻ những nhánh nho đi,
vì những thứ đó không thuộc về
Ðức Chúa!
11 Nhà Ít-ra-en cũng như nhà Giu-đa,
đối với Ta, đều là quân phản bội,
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
12 Chúng chối bỏ Ðức Chúa, dám nói
rằng: "Chẳng có Chúa đâu!
Chúng tôi chẳng mắc tai hoạ nào,
đói kém, gươm đao, chúng tôi
không hề gặp!
13 Bọn ngôn sứ chỉ là cơn gió
thoảng,
chẳng có lời mặc khải nào
đâu!"
Chúng đã nói làm sao, xin xảy ra
cho chúng như vậy.
14 Thế nên, Ðức Chúa, Thiên Chúa các
đạo binh, phán như sau:
Các ngươi đã nói những lời đó,
thì này, Ta sẽ làm cho các lời
của Ta thành lửa nơi miệng ngươi,
và sẽ biến dân này thành củi cho
lửa ấy thiêu đốt.
15 Này, hỡi nhà Ít-ra-en, Ta sẽ đưa
một dân từ xa tới
cho nó đánh phá ngươi - sấm ngôn
của Ðức Chúa.
Ðó là một dân kiên cường, một dân
kỳ cựu,
một dân dùng ngôn ngữ ngươi chẳng
biết;
nó nói gì ngươi cũng chẳng nghe
ra.
16 Ống tên của nó như nấm mồ mở
rộng;
tất cả đều là những dũng sĩ anh
hùng.
17 Nó sẽ ngốn ngấu của ngươi:
mùa màng và lương thực, con trai
và con gái,
ngốn ngấu chiên và bò, vườn nho
và nương vả.
Nó sẽ dùng gươm mà triệt hạ các
thành trì kiên cố của ngươi,
các thành trì ngươi từng tin
tưởng.
Cách Thiên Chúa sửa trị
18 Cả trong những ngày ấy - sấm ngôn
của Ðức Chúa -, Ta sẽ không tận diệt ngươi.
19 Và khi chúng hỏi: "Tại sao
Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, lại làm cho chúng ta tất cả những điều
đó?", ngươi sẽ nói với chúng: "Là vì các ngươi đã lìa bỏ Ta và làm
tôi các thần ngoại ngay tại đất nước các ngươi, cho nên các ngươi cũng sẽ phải
làm tôi ngoại bang trên phần đất không thuộc về các ngươi."
Nhân một nạn đói (?)
20 Hãy loan báo điều này trong nhà
Gia-cóp,
hãy đưa tin tại Giu-đa rằng:
21 Nghe đây, lũ dân u mê, dại dột,
có mắt mà không thấy, có tai mà
chẳng nghe.
22 Ðến Ta mà các ngươi cũng không
kính sợ sao - sấm ngôn của Ðức Chúa?
Trước mặt Ta mà các ngươi cũng
không run khiếp sao?
Chính Ta đã đắp cát làm ranh giới
cho biển,
đã ấn định là muôn đời biển không
được vượt qua.
Biển có động cũng chẳng làm gì,
sóng có gào cũng không tràn nổi.
23 Nhưng lòng dân này thật ngoan cố,
lì lợm;
chúng tự tách rời và bỏ đi luôn.
24 Chúng đã không tự nhủ:
"Chúng ta hãy kính sợ Ðức
Chúa, Thiên Chúa chúng ta,
Ðấng cho mưa đúng thời đúng buổi,
mưa đầu mùa và mưa cuối mùa,
Ðấng dành cho chúng ta những thời
gian nhất định
để thu hoạch mùa màng."
25 Nhưng tội ác của các ngươi đã đảo
lộn trật tự đó,
và lỗi lầm của các ngươi không
cho các ngươi hưởng
bao điều tốt đẹp kia.
Tiếp tục đề tài trên
26 Vì trong dân Ta có những kẻ gian
ác
luôn rình rập như thể đánh chim,
chúng gài bẫy bắt người.
27 Tựa chiếc lồng đầy chim, nhà
chúng đầy lừa đảo.
Nhờ đó, chúng đã thành kẻ cả giàu
sang.
28 Chúng phương phi đẫy đà.
Tội ác của chúng không sao lường
nổi.
Chúng không tôn trọng công lý,
coi thường quyền lợi kẻ mồ côi,
miễn sao chúng được lợi.
Chúng không xử công minh cho kẻ
khó nghèo.
29 Những chuyện như thế đó, Ta lại
không trừng phạt,
một dân như vậy đó, Ta không trả
thù sao
- sấm ngôn của Ðức Chúa?
30 Những chuyện kinh khiếp và ghê
tởm đã xảy ra trong xứ này:
31 Ngôn sứ thì tuyên sấm điều gian
dối, tư tế thì trục lợi.
Vậy mà dân Ta lại ưa thích!
Nhưng khi mọi chuyện đến hồi kết
liễu, các ngươi sẽ làm gì?
Chương 06
Lại nói về cuộc xâm lăng
1 Con cái Ben-gia-min, hãy trốn
khỏi Giê-ru-sa-lem.
Tại Tơ-cô-a, hãy rúc tù và;
trên Bết Ha Ke-rem, hãy giương
cao cờ hiệu,
vì tai ương đang rình rập từ
phương Bắc:
thật là một thảm hoạ lớn lao.
2 Này thiếu nữ Xi-on bao xinh đẹp
yêu kiều,
ngươi đã đến ngày tận số.
3 Các mục tử dẫn đoàn vật tiến đến
Xi-on,
chung quanh thành, chúng cắm lều
dựng trại,
mỗi người chăn dắt đoàn vật của
mình.
4 Hãy mở một cuộc thánh chiến tấn
công thành.
Ðứng dậy! Ngay giữa trưa ta cũng
tiến đánh.
Tiếc thật: Ngày xế mất rồi, bóng
chiều đã ngả!
5 Ðứng dậy! Ðêm về ta cũng tiến
đánh, triệt hạ các lâu đài.
6 Ðức Chúa các đạo binh phán như
sau:
Hãy chặt cây, đắp ụ tiến vào
Giê-ru-sa-lem.
Phải trừng phạt thành này, vì
trong thành chỉ toàn áp bức.
7 Như nước tràn miệng giếng thế
nào,
gian ác của nó cũng tràn ra như
vậy.
Khắp nơi trong thành đều nghe chuyện
bạo hành, cướp bóc,
mở mắt ra là thấy thương tích,
khổ đau.
8 Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy nghe lời
răn dạy.
Nếu không, Ta sẽ lìa bỏ ngươi,
sẽ biến ngươi thành nơi hoang
vắng, thành đất không người ở.
9 Ðức Chúa các đạo binh phán: Như
người mót cây nho,
hãy mót cho thật kỹ phần còn sót
lại của Ít-ra-en;
như một kẻ hái nho, hãy đưa tay
ra nữa
mà soát kỹ các ngành nho!
10 Tôi sẽ nói với người nào,
sẽ phân trần cùng ai để bắt họ
phải nghe?
Này, tai họ không cắt bì, nên họ
không thể chú ý.
Này, họ coi lời Ðức Chúa như một
trò cười không hứng thú gì cả.
11 Con người tôi tràn ngập
cơn phẫn nộ của Ðức Chúa đối với
dân;
tôi không kìm hãm nổi:
Xin cứ trút xuống lũ trẻ thơ
ngoài phố,
xuống đám thanh niên đang tụ tập.
Cả đàn ông lẫn đàn bà, kẻ già
nua, người cao niên tuổi tác,
đừng để ai thoát khỏi.
12 Nhà cửa, ruộng đồng và thê thiếp
của họ sẽ qua tay kẻ khác,
vì Ta sẽ thẳng tay với cư dân xứ
này - sấm ngôn của Ðức Chúa!
13 Vì người lớn cũng như trẻ nhỏ,
tất cả đều gian tham bớt xén.
Ngôn sứ cũng như tư tế, tất cả là
một lũ gian phi.
14 Chúng bô bô: "Bình an vô
sự", để xoa dịu thương tích của dân Ta,
trong khi chẳng có bình an chi
cả.
15 Việc chúng làm thật kinh tởm biết
bao,
lẽ ra chúng phải biết xấu hổ,
nhưng nào chúng có xấu hổ gì đâu,
cũng chẳng còn biết ngượng mặt nữa
chứ.
Cho nên chúng sẽ gục ngã giữa bao
kẻ ngã gục.
Khi đến thời Ta trị tội chúng,
chúng sẽ té nhào, Ðức Chúa phán
như vậy.
16 Ðức Chúa phán thế này:
Hãy dừng lại trên các nẻo đường
mà coi,
hãy tìm hiểu những đường xưa lối
cũ
cho biết đâu là đường ngay nẻo
chính, rồi cứ đó mà đi:
tâm hồn các ngươi sẽ bình an thư
thái.
Thế nhưng chúng lại nói:
"Chúng tôi chẳng thèm đi! "
17 Ta còn đặt người canh cho chúng:
"Hãy chú ý nghe tiếng tù
và!"
Nhưng chúng nói: "Chẳng chú
ý đâu!"
18 Cho nên, hỡi chư dân, hãy nghe cho
tỏ,
nào công hội, hãy biết cho tường
chuyện gì sẽ xảy ra cho chúng.
19 Ðất hãy nghe đây: Chính Ta sẽ
mang tai hoạ đến cho dân này:
đó là hoa quả của những điều
chúng suy tính,
vì chúng đã không chú ý đến lời
Ta,
và lề luật của Ta, chúng đã khinh
dể.
20 Ta cần chi nhũ hương từ Sơ-va đưa
tới,
cần chi cây sậy thơm từ đất xa
đem về?
Lễ toàn thiêu của các ngươi chẳng
làm đẹp lòng Ta chút nào.
Lễ hy sinh của các ngươi không
làm cho lòng Ta vui thoả.
21 Cho nên Ðức Chúa phán như sau:
Ðây, Ta sẽ đặt chướng ngại trước
dân này
làm cho chúng vấp ngã.
Cùng một lượt, cả cha lẫn con,
láng giềng và bạn hữu,
tất cả đều diệt vong.
22 Ðức Chúa phán thế này: Ðây, một
dân từ phương Bắc đến,
một dân lớn xuất hiện từ tận cùng
trái đất.
23 Chúng nắm chắc cung nỏ, gươm đao.
Man rợ hung tàn, không mảy may
thương xót,
chúng ồn ào như biển gào sóng vỗ.
Trên lưng ngựa, muôn người như
một,
chúng sẵn sàng lâm trận tấn công
ngươi, thiếu nữ Xi-on hỡi!
24 Hay tin đó, tay chân bủn rủn,
nỗi kinh hoàng siết cứng chúng
tôi,
khiến chúng tôi run khiếp như sản
phụ lâm bồn.
25 Ðừng ra đồng ruộng, đừng đi ngoài
đường,
vì gươm đao thù địch gieo kinh
hoàng tứ phía.
26 Thiếu nữ dân tôi ơi,
quấn vải thô vào mình và lăn trên
tro bụi.
Hãy khóc than như mất đứa con
một,
than khóc thế nào cho thật đắng
cay,
vì kẻ tàn sát chúng ta sẽ thình
lình ập xuống.
27 Ta đã đặt ngươi làm người kiểm
tra dân Ta,
để ngươi biết và kiểm tra tính
hạnh chúng.
28 Tất cả đều phản bội, đi đâu vu
khống đó,
trơ như sắt, như đồng, toàn một
lũ phá hoại.
29 Ống bễ thổi phì phò, chì chảy tan
trong lửa.
Nhưng tôi luyện đến đâu cũng vô
ích:
Gỉ sét vẫn chẳng chịu bung ra.
30 Thế nên phải gọi họ là "bạc
phế thải."
Vì quả thật, Ðức Chúa đã phế thải
họ.
Chương 07
2. Các Sấm Ngôn, Ðặc Biệt Dưới
Thời Vua Giô-Gia-Kim
Nền phụng tự đích thực
a. Ðả kích Ðền Thờ
1 Ðây là lời Ðức Chúa phán với ông
Giê-rê-mi-a: 2 Ngươi hãy đứng ở cửa Ðền Thờ Ðức Chúa và tuyên bố
những lời sau đây: Tất cả những người Giu-đa qua cửa này vào thờ phượng Ðức
Chúa, hãy nghe lời Ðức Chúa. 3 Ðức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa
của Ít-ra-en phán: Hãy cải thiện lối sống và hành động của các ngươi, Ta sẽ cho
các ngươi lưu lại nơi này. 4 Ðừng ỷ vào lời giả dối sau đây:
"Ðền Thờ của Ðức Chúa! Ðền Thờ của Ðức Chúa! Ðã có Ðền Thờ của Ðức Chúa!” 5
Nếu các ngươi thật sự cải thiện lối sống và hành động của các ngươi, nếu
các ngươi thật sự đối xử công bình với nhau, 6 không ức hiếp ngoại
kiều hay cô nhi quả phụ, nếu các ngươi không đổ máu người vô tội nơi đây, không
đi theo các thần ngoại mà chuốc hoạ vào thân, 7 thì Ta sẽ cho các
ngươi lưu lại nơi này, trong phần đất Ta đã ban cho cha ông các ngươi đến muôn
đời. 8 Nhưng các ngươi lại ỷ vào những lời dối trá vô giá trị. 9
Trộm cắp, giết người, ngoại tình, thề gian, đốt hương tế thần Ba-an và đi
theo các thần lạ các ngươi không biết, 10 rồi lại vào nhà này, nơi
danh Ta được kêu khấn, đến trước mặt Ta mà nói: "Chúng ta được an
toàn!", sau đó cứ tiếp tục làm những điều ghê tởm ấy. Thế nghĩa là gì? 11
Phải chăng các ngươi coi nhà này, coi nơi danh Ta được kêu khấn là hang trộm
cướp sao? Ta, Ta thấy rõ hết - sấm ngôn của Ðức Chúa.
12 Vậy các ngươi hãy đi đến Si-lô,
nơi đã một thời thuộc về Ta, nơi Ta đã lưu ngụ thuở ban đầu. Hãy xem: vì tội ác
của dân Ta là Ít-ra-en, Ta đã làm gì cho nơi ấy. 13 Bởi vì các ngươi
đã làm tất cả những việc ấy - sấm ngôn của Ðức Chúa -, và bởi vì Ta đã không
ngừng nói với các ngươi mà các ngươi chẳng thèm nghe, Ta gọi các ngươi, các
ngươi chẳng trả lời, 14 nên giờ đây, Ta sẽ đối xử với Ðền Thờ này,
nơi danh Ta được kêu khấn, nơi các ngươi tin tưởng, nơi mà Ta đã ban cho các
ngươi cũng như cho tổ tiên các ngươi, Ta sẽ đối xử với nó như đã đối xử với
Si-lô. 15 Ta sẽ xua đuổi các ngươi khỏi mặt Ta như đã xua đuổi tất
cả anh em các ngươi, toàn thể dòng dõi Ép-ra-im.
b. Các thần ngoại
16 Còn ngươi, ngươi đừng chuyển cầu
cho dân này, đừng cất tiếng than vãn và dâng lời nguyện xin cho chúng, cũng
đừng nài nỉ Ta, vì Ta sẽ chẳng nghe ngươi đâu. 17 Những gì chúng làm
tại các thành Giu-đa và nơi các phố phường Giê-ru-sa-lem, ngươi lại không thấy
sao? 18 Con lượm củi, bố nhúm lửa, mẹ nhào bột làm bánh dâng Thiên Nữ Hoàng;
rồi chúng tưới rượu tế thần ngoại để trêu ngươi Ta. 19 Có phải chúng
xúc phạm đến Ta - sấm ngôn của Ðức Chúa - hay là xúc phạm đến chính mình, làm
cho mặt mình phải xấu hổ? 20 Cho nên Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Này
cơn giận của Ta, nộ khí của Ta sẽ đổ tràn xuống nơi đây, xuống người và súc
vật, xuống cây cối ngoài đồng và hoa màu ruộng đất. Cơn thịnh nộ của Ta sẽ bừng
lên và không tắt nữa.
c. Có phụng tự mà không có lòng
trung
21 Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa
của Ít-ra-en, phán thế này: Cứ hiến tế lễ toàn thiêu thêm vào với lễ hy sinh
của các ngươi, rồi cứ ăn thịt tế! 22 Vì khi đưa cha ông các ngươi ra khỏi đất
Ai-cập, Ta đã chẳng nói gì với chúng, chẳng truyền dạy chúng điều chi về lễ
toàn thiêu và lễ hy sinh cả. 23 Nhưng điều Ta truyền cho chúng là:
Hãy nghe tiếng Ta thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của
Ta. Hãy bước theo mọi đường lối Ta truyền dạy, để các ngươi được hạnh phúc. 24
Nhưng chúng chẳng nghe, chẳng để tai, cứ theo những suy tính của mình,
theo tâm địa ngoan cố xấu xa; chúng đã lùi chứ không tiến. 25 Từ
ngày cha ông chúng ra khỏi đất Ai-cập tới nay, ngày này qua ngày khác, Ta không
ngừng sai tất cả các tôi tớ của Ta là các ngôn sứ đến với chúng; 26 nhưng
chúng đã không nghe, cũng chẳng để tai, lại ra cứng đầu cứng cổ. Chúng hành
động còn xấu hơn cả cha ông chúng nữa. 27 Vậy, ngươi sẽ nói với
chúng tất cả những điều ấy, nhưng chúng chẳng nghe đâu; ngươi sẽ gọi chúng,
chúng chẳng trả lời đâu. 28 Bấy giờ ngươi sẽ nói: Ðây là dân tộc
không biết nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của mình, không chấp nhận lời sửa
dạy: sự chân thật đã tiêu tan và biến khỏi miệng nó.
d. Lại lên án phụng tự bất chính.
Lưu đày, một mối đe doạ
29 Bộ tóc dài của ngươi, hãy cắt bỏ.
Trên đồi trọc, hãy cất lên ca
khúc thở than.
Vì Ðức Chúa đã khinh chê ruồng
rẫy
thế hệ đã từng chọc giận Người.
30 Thật, con cái Giu-đa đã làm sự dữ
chướng mắt Ta - sấm ngôn của Ðức Chúa. Chúng đã làm ô uế Ðền Thờ là nơi danh Ta
được kêu khấn, vì đã đặt vào đó những tượng thần Ghê Tởm. 31 Rồi
chúng xây các nơi cao ở Tô-phét trong thung lũng Ben Hin-nôm để hoả thiêu con
trai con gái chúng. Ðó là điều Ta đã không truyền dạy, cũng chẳng bao giờ nghĩ
tới. 32 Cho nên sẽ đến những ngày - sấm ngôn của Ðức Chúa - người ta
không còn gọi là Tô-phét hay thung lũng Ben Hin-nôm nữa, nhưng là thung lũng
Giết Chóc. Người ta sẽ chôn cất ở Tô-phét vì thiếu chỗ; 33 tử thi
của dân này sẽ thành mồi cho muông chim cầm thú mà không ai xua đuổi. 34 Ta
sẽ làm cho các thành thị Giu-đa và các phố phường Giê-ru-sa-lem im bặt tiếng hò
reo tưng bừng rộn rã, tiếng hát của cô dâu chú rể, vì cả xứ sẽ trở nên chốn
hoang tàn đổ nát.
Chương 08
1 Thời bấy giờ - sấm ngôn của Ðức
Chúa -, người ta sẽ lôi ra khỏi mồ xương của các vua Giu-đa, xương các thủ
lãnh, xương hàng tư tế, xương các ngôn sứ và xương của cư dân Giê-ru-sa-lem. 2
Người ta sẽ phơi bày ra dưới mặt trời, mặt trăng và tất cả các tinh tú
trên trời mà chúng đã yêu mến và phục dịch, chúng đã đi theo, thỉnh cầu và sụp
lạy. Các xương đó không được thu gom, cũng chẳng được chôn cất, nhưng sẽ trở
thành phân bón trên mặt đất. 3 Bấy giờ, đối với tất cả những ai sống
sót trong cái dòng tộc xấu xa này ở khắp nơi mà Ta sẽ xua chúng tới, thì chết
vẫn còn hơn sống - sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo binh.
Ðe doạ, than vãn, nhắn nhủ
Ít-ra-en lầm lạc
4 Ngươi sẽ nói với chúng: Ðức Chúa
phán thế này:
Phải chăng người ta ngã xuống,
rồi không chỗi dậy,
bỏ đi rồi không trở lại sao?
5 Thế thì tại sao dân này cứ phản
bội?
Giê-ru-sa-lem phản bội mãi sao?
Chúng cố tình theo con đường lừa
đảo, dứt khoát không trở về.
6 Ta đã để ý nghe: Không phải như
chúng nói.
Chẳng ai hối hận về sự gian ác
của mình;
ai cũng nói: "Nào tôi có làm
chi! "
Như con ngựa xông vào trận chiến,
tất cả đều trở lại con đường tội
ác xưa.
7 Ðến như giống cò bay lượn trên
không
còn biết được mùa di chuyển của
nó;
chim cu, chim én và chim hạc còn
biết theo thời tiết mà về;
nhưng dân Ta thì chẳng hay chẳng
hiểu
pháp luật Ðức Chúa đã truyền ban.
Lề luật trong tay hàng tư tế
8 Sao các ngươi nói được:
"Ta khôn ngoan: ta có Lề
Luật của Ðức Chúa!"
Thực ra, ý nghĩa Lề Luật đó,
ngọn bút gian giảo của đám ký lục
đã xuyên tạc mất rồi.
9 Những hạng khôn ngoan ấy
sẽ thẹn thùng, run sợ, và sa vào
cạm bẫy.
Này, lời Ðức Chúa thì chúng khinh
miệt,
chúng khôn ngoan nỗi gì?
Nhắc lại mấy lời đe doạ
10 Vì vậy, thê thiếp chúng, Ta sẽ
trao cho kẻ khác,
đồng ruộng chúng, cho kẻ kế thừa.
Vì người lớn cũng như kẻ nhỏ, tất
cả đều gian tham bớt xén.
Ngôn sứ cũng như tư tế, tất cả là
một lũ gian phi.
11 Chúng bô bô: "Bình an vô
sự"
để xoa dịu thương tích của con
gái dân Ta,
trong khi chẳng có bình an chi
cả.
12 Việc chúng làm thật kinh tởm biết
bao,
lẽ ra chúng phải biết xấu hổ,
nhưng nào chúng có xấu hổ gì đâu,
cũng chẳng còn biết ngượng mặt
nữa chứ.
Cho nên chúng sẽ gục ngã giữa bao
kẻ ngã gục.
Khi đến thời Ta trị tội chúng,
chúng sẽ té nhào,
Ðức Chúa phán như vậy.
Giu-đa là cây nho bị đe doạ
13 Ta quyết sẽ thu về - sấm ngôn của
Ðức Chúa -,
không để trái nào trên cây nho,
không để trái nào trên cây vả,
cả lá cây cũng phải héo tàn,
vì Ta sẽ trao chúng cho những kẻ
qua đường.
14 Sao chúng ta ngồi yên? Tập trung
lại đi nào!
Ta hãy vào các thành kiên cố mà
chịu cảnh tiêu vong,
vì Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta,
đã tiêu diệt chúng ta;
Người cho chúng ta uống nước độc,
bởi chúng ta đã xúc phạm đến Người.
15 Người ta đợi hoà bình, nhưng
chẳng được may lành chi hết!
Mong đến thời bình phục, mà chỉ
thấy rùng rợn khiếp kinh.
16 Từ Ðan người ta nghe rõ tiếng vó
ngựa vang trời.
Khi nghe tiếng ngựa hí, cả mặt
đất run rẩy kinh hoàng.
17 Vì vậy Ta sẽ cho loài rắn, loài
rắn độc, đến làm hại các ngươi,
mà không phù phép nào ngăn nổi;
chúng sẽ cắn chết các ngươi - sấm
ngôn của Ðức Chúa.
Ngôn sứ than vãn vì nạn đói
18 Thật vô phương cứu chữa,
nỗi khổ xâm chiếm tôi, làm tim
tôi suy nhược.
19 Này tiếng kêu cứu của cô gái dân
tôi
từ miền đất xa xăm vọng về.
"Phải chăng Ðức Chúa không
còn ở Xi-on,
Vua của nó không ngự ở đây nữa?
"
(Tại sao chúng lại khiêu khích
Ta,
bằng các tượng thần của chúng,
là những đồ hư ảo của ngoại
bang?)
20 Mùa gặt đã hết rồi, mùa hè cũng
đã qua,
thế mà chúng tôi vẫn chưa được
cứu! "
21 Vì vết thương của cô gái dân tôi,
mà lòng tôi tan nát,
khiến tôi phải đau thương sầu
muộn,
nỗi kinh hoàng bám chặt lấy tôi.
22 Phải chăng không còn dầu thơm ở
Ga-la-át,
hay chẳng còn lương y nữa?
Mà tại sao việc chữa trị cô gái
dân tôi,
chẳng tiến triển chút nào?
23 Ai biến đầu tôi thành nguồn nước,
và đôi mắt tôi thành suối lệ, để
tôi than khóc đêm ngày
những người của cô gái dân tôi bị
giết.
Chương 09
Ðời sống luân lý ở Giu-đa suy sụp
1 Ai sẽ cho tôi một trạm dừng chân
trong sa mạc hoang vắng,
để tôi rời bỏ dân tôi, và đi xa
khỏi họ;
vì tất cả họ là quân ngoại tình,
một lũ người phản bội.
2 Chúng uốn lưỡi như thể giương
cung;
sự giả dối chứ không phải sự thật
đã khống chế xứ này.
Vì chúng đi từ gian ác này đến
gian ác nọ;
còn Ta, chúng không thèm biết
đến, - sấm ngôn của Ðức Chúa.
3 Ai nấy hãy đề phòng bạn hữu, đừng
tin tưởng bất cứ anh em nào.
Vì anh em nào cũng chỉ biết lật
lọng,
bạn hữu nào cũng rắc gieo vu
khống.
4 Người nào cũng lừa dối bạn mình,
chẳng ai nói sự thật.
Chúng luyện lưỡi nói lời dối
gian,
chúng mê mệt làm điều lắt léo.
5 Nhà của ngươi nằm ở giữa điêu
ngoa lừa đảo,
vì lừa đảo, chúng không thèm nhận
biết Ta
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
6 Bởi vậy, Ðức Chúa các đạo binh
phán như sau:
Này Ta sẽ tôi luyện và thử thách
chúng,
trước cô gái dân Ta, Ta làm gì
được nữa?
7 Lưỡi chúng là mũi tên giết người,
miệng nói ra toàn điêu ngoa lừa
đảo;
bên ngoài thì chúc bạn bè bình
an,
nhưng bên trong lại đặt dò giăng
bẫy.
8 Những chuyện như thế, há Ta chẳng
trừng phạt sao,
- sấm ngôn của Ðức Chúa?
Với một dân như vậy, lẽ nào Ta
lại không trả thù?
Buồn thay cho Xi-on!
9 Thương núi đồi, tôi nức nở khóc
than,
tiếc đồng cỏ sa mạc, tôi ngậm
ngùi ai oán,
vì chúng bị thiêu huỷ, không bóng
người qua lại,
chẳng còn nghe thấy tiếng súc vật
ngoài đồng.
Từ chim trời cho đến thú vật, tất
cả đều trốn chạy, bỏ đi.
10 Ta sẽ biến Giê-ru-sa-lem thành
đống hoang tàn,
thành sào huyệt cho loài lang
sói,
làm cho thành thị Giu-đa ra quạnh
hiu, không một ai cư trú.
11 Ai là người khôn ngoan hiểu được
điều này?
Miệng Ðức Chúa phán với ai để nó
tiết lộ?
Vì đâu xứ sở tiêu ma,
bị thiêu huỷ, nên như sa mạc,
không người lai vãng?
12 Ðức Chúa phán: vì chúng đã bỏ Lề
Luật của Ta, Lề Luật Ta đã đặt ra trước mặt chúng; chúng không nghe tiếng Ta,
cũng chẳng bước theo Lề Luật đó; 13 nhưng đã đi theo tính lì lợm
ngoan cố của lòng mình, và các thần Ba-an mà cha ông chúng đã dạy cho chúng
biết. 14 Bởi thế Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán
như sau: "Này đây Ta sẽ bắt dân này phải ngậm đắng nuốt cay và phải uống
nước độc. 15 Ta sẽ phân tán chúng giữa chư dân mà chúng cũng như cha
ông chúng không quen biết; Ta lại còn cho gươm đuổi theo cho đến khi Ta tận
diệt chúng.
16 Ðức Chúa các đạo binh phán thế
này: Hãy suy nghĩ cho kỹ
và gọi tới đây các phụ nữ chuyên
khóc mướn!
Hãy sai người đi tìm các phụ nữ
thành thạo tới,
17 để họ mau cất giọng than khóc
chúng tôi,
cho mắt chúng tôi trào ra lệ,
cho mi chúng tôi tuôn ra nước!
18 Vì nghe có tiếng than vãn từ
Xi-on:
"Sao chúng tôi bị tàn phá,
bị nhục nhằn quá đỗi,
phải bỏ xứ ra đi: cửa nhà chúng
tôi bị triệt hạ?"
19 Các bà ơi, hãy nghe lời Ðức Chúa,
mở tai ra đón nhận lời Người;
hãy dạy các con gái mình bài ca
than vãn,
và dạy lẫn nhau khúc ai ca này:
20 "Tử thần đã luồn qua cửa sổ,
xâm nhập các lâu đài của chúng
tôi.
Nó đã chém chết lũ trẻ thơ ngoài
phố,
và đám thanh niên trên các quảng
trường.
21 Nói lên đi! Ðây là sấm ngôn của
Ðức Chúa:
Tử thi đàn ông nằm sóng sượt như
phân rải rác trên cánh đồng,
như gié lúa sau lưng thợ gặt,
chẳng ai thèm thu lượm làm chi!"
Khôn ngoan thật
22 Ðức Chúa phán thế này:
"Kẻ khôn ngoan, đừng tự hào
mình khôn ngoan;
kẻ hùng mạnh, đừng tự hào mình
hùng mạnh;
kẻ giàu có, đừng tự hào mình giàu
có.
23 Ai tự hào thì hãy tự hào về điều
này, là hiểu biết Ta.
vì Ta là Ðức Chúa, Ðấng thực thi
nhân nghĩa,
công bình và chính trực trên mặt
đất.
Phải, Ta ưa thích những điều này.
- Sấm ngôn của Ðức Chúa."
Cắt bì, một bảo đảm giả tạo
24 Này, sẽ đến những ngày - sấm ngôn
của Ðức Chúa - Ta sẽ hạch tội mọi kẻ cắt bì mà kể như không: 25 Ai-cập,
Giu-đa, Ê-đôm, con cái Am-mon, Mô-áp, tất cả những kẻ cạo tóc hai bên thái
dương đang cư ngụ trong sa mạc. Quả thật, tất cả các dân đó đều là những dân
không cắt bì, và toàn thể nhà Ít-ra-en cũng là dân không cắt bì trong lòng.
Chương 10
Ngẫu tượng và Thiên Chúa thật
1 Hỡi nhà Ít-ra-en, hãy nghe lời
Ðức Chúa phán với các ngươi!
2 Ðức Chúa phán thế này: "Ðừng
học đòi con đường của chư dân,
đừng run sợ trước những điềm
trời,
dù chư dân run sợ trước những
điềm đó.
3 Các nghi thức của chư dân thật là
hư ảo;
vì đó chỉ là một khúc gỗ chặt
trên rừng về,
sản phẩm do tay người thợ chạm
4 lấy bạc vàng trang trí cho xinh,
rồi dùng đinh và búa đóng cho
vững, để nó khỏi xê dịch.
5 Chúng như thể bù nhìn trong ruộng
dưa, không biết nói;
người ta phải mang chúng đi, vì
chúng không bước được!
Ðừng sợ chúng, vì chúng không làm
hại, cũng chẳng sinh ích gì.
6 Không một ai sánh được như Ngài,
lạy Ðức Chúa,
Ngài cao cả, danh Ngài thật cao
cả nơi những kỳ công của Ngài.
7 Ngài, ai mà không kính sợ, lạy
Vua muôn vàn dân nước?
Ngài phải là như vậy!
Vì trong mọi kẻ khôn ngoan của
chư dân,
và trong mọi vương quốc của họ,
không ai sánh được như Ngài.
8 Chư dân đần độn và ngu si cả lũ,
giáo huấn của các thần hư ảo
chẳng qua chỉ là gỗ mà thôi,
9 là bạc lá từ Tác-sít đưa vào,
là vàng từ U-phát mang đến,
là sản phẩm của nghệ nhân,
là đồ vật do tay thợ bạc sản
xuất;
chúng có được mặc vải tía vải
điều,
thì tất cả vẫn là sản phẩm do
người thợ làm ra.
10 Còn Ðức Chúa là Thiên Chúa thật,
là Thiên Chúa hằng sống, là Vua
muôn đời.
Người phẫn nộ, địa cầu run rẩy,
chư dân không chịu nổi cơn thịnh
nộ của Người.
11 (Các ngươi sẽ nói với chúng như
sau:
"Các thần không làm ra trời
đất,
sẽ phải biến khỏi mặt đất, khỏi
gầm trời.")
12 Ðấng dùng sức mạnh làm ra trái
đất,
lấy lẽ khôn ngoan thiết lập địa
cầu,
cũng là Ðấng dùng sự thông suốt
trải rộng các tầng trời.
13 Người lên tiếng, là nước trên
trời cuồn cuộn;
Người đẩy lên từng lớp mây trời,
từ cùng tận địa cầu xa tắp,
làm cho chớp giật mưa rơi,
mở kho thả gió khắp nơi tung
hoành.
14 Mọi người đều ngu xuẩn, không hiểu
biết chi,
thợ bạc nào cũng xấu hổ vì tượng
thần của nó:
tượng nó đúc ra là vật hão huyền,
không có hơi thở!
15 Chúng chỉ là hư ảo, là sản phẩm
nực cười;
khi bị trừng phạt, chúng sẽ tiêu
vong.
16 Phần dành cho Gia-cóp thì không
như thế,
vì tất cả đã được Người nắn ra,
và Ít-ra-en là chi tộc Người chọn
làm gia nghiệp,
danh Người là Ðức Chúa các đạo
binh.
Nỗi kinh hoàng trong xứ sở
17 Khăn gói của ngươi ở dưới đất,
lượm lên đi,
hỡi thành đang bị vây hãm!
18 Vì Ðức Chúa phán như sau:
"Lần này, Ta đây sẽ quẳng đi
xa các cư dân trong xứ,
và sẽ dồn chúng vào bước đường
cùng cho chúng phải gặp Ta!"
19 - "Khốn thân tôi vì vết
thương đang phải chịu!
Vết trọng thương hết đường cứu
chữa,
và tôi nói: đau khổ của mình chỉ
có bấy nhiêu ư?
Thế thì mình sẽ chịu đựng nổi!
20 Nhưng lều của tôi đã bị phá tung,
các dây thừng đều bị đứt hết,
con cái tôi bỏ đi không còn nữa;
chẳng còn ai dựng lều căng bạt
cho tôi."
21 - Là vì các mục tử đều ngu xuẩn,
chúng chẳng kiếm tìm Ðức Chúa,
nên chúng chẳng thành công,
cả đàn chiên của chúng đều bị
phân tán.
22 Có tiếng đồn: nó tới nơi rồi!
Tiếng chấn động lớn từ phương
Bắc,
đã biến các thành Giu-đa ra quạnh
hiu,
nên sào huyệt cho loài lang sói.
23 Lạy Ðức Chúa, con biết rằng:
Con đường mình đi, người ta không
làm chủ,
bước chân mình tiến, lữ khách
không thể định đoạt.
24 Lạy Ðức Chúa, xin sửa trị con
theo lẽ công minh,
chứ đừng theo cơn thịnh nộ, kẻo
con phải co rúm.
25 Xin giáng trận lôi đình
xuống đầu các dân ngoại đã không
nhận biết Ngài,
và trên các bộ tộc chẳng kêu cầu
Thánh Danh.
Vì chúng đã tiêu diệt Gia-cóp;
chúng đã tiêu diệt làm nó phải
mạng vong,
và nơi ở của nó ra hoang tàn.
Chương 11
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a và những lời
giao ước
1 Có lời Ðức Chúa phán với ông
Giê-rê-mi-a rằng: 2 "Hãy nghe những lời giao ước này và nói lại
cho người Giu-đa và dân ở Giê-ru-sa-lem. 3 Ngươi hãy nói với chúng:
"Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán thế này: Ðáng nguyền rủa thay kẻ nào
không nghe các lời giao ước 4 mà Ta đã truyền cho cha ông các ngươi trong ngày
Ta đưa họ ra khỏi đất Ai-cập, ra khỏi cái lò nung sắt ấy. Ta đã phán rằng: nếu
các ngươi nghe tiếng Ta và làm theo tất cả những điều Ta truyền dạy, thì các
ngươi sẽ trở thành dân của Ta, và chính Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của các ngươi, 5
để giữ trọn lời Ta đã thề hứa với cha ông các ngươi, là ban cho họ đất
tràn trề sữa và mật như ngày hôm nay." Tôi đã đáp lời và thưa:
"A-men, lạy Ðức Chúa!” 6 Và Ðức Chúa phán với tôi: "Trong
các thành Giu-đa và phố phường Giê-ru-sa-lem, ngươi hãy công bố tất cả những
lời này: Các ngươi hãy nghe và thực hiện những lời giao ước trên đây, 7 vì
từ ngày Ta đưa cha ông các ngươi ra khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay, Ta đã
long trọng tuyên bố và không ngớt lặp đi lặp lại rằng: "Các ngươi hãy nghe
theo tiếng Ta.” 8 Nhưng họ đã không nghe và chẳng đoái hoài, vẫn cố
chấp theo lòng dạ xấu xa của họ. Vì thế, đối với họ, Ta đã áp dụng mọi khoản
trong giao ước Ta đã truyền mà họ không tuân giữ.
9 Ðức Chúa còn phán với tôi:
"Ðã thấy có âm mưu toa rập giữa người Giu-đa và dân ở Giê-ru-sa-lem. 10
Chúng đã quay về với tội lỗi của cha ông khi trước là từ chối không chịu
nghe lời Ta, lại đi thờ các thần khác. Nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa đã phá vỡ
giao ước của Ta, giao ước Ta đã lập với cha ông chúng. 11 Vì thế,
Ðức Chúa phán như sau: "Này Ta sắp giáng tai hoạ xuống trên chúng, và
chúng không tài nào thoát khỏi; chúng sẽ kêu cầu Ta, nhưng Ta sẽ chẳng nghe lời
chúng. 12 Các thành Giu-đa và dân ở Giê-ru-sa-lem sẽ chạy đến kêu
cầu các thần mà chúng dâng hương kính bái, nhưng các thần ấy sẽ không thể nào
cứu được chúng trong thời chúng lâm nạn.
13 Vì Giu-đa hỡi, ngươi có bao nhiêu
thành là có bấy nhiêu thần;
ở Giê-ru-sa-lem có bao nhiêu phố
thì các ngươi cũng dựng lên bấy
nhiêu bàn thờ kính sự ô nhục,
những bàn thờ dâng hương kính
thần Ba-an.
14 Còn ngươi, ngươi đừng cầu nguyện
cho dân này, cũng đừng lên tiếng kêu van và khấn xin cho chúng, vì khi chúng
lâm nạn mà kêu cầu đến Ta, Ta cũng chẳng thèm nghe.
Khiển trách những kẻ năng lui tới
Ðền Thờ
15 Người Ta yêu quý, kẻ từng ấp ủ
những mưu đồ đen tối,
còn đến làm gì trong Nhà Ta nữa?
Liệu những lời khấn nguyền và
thịt dâng tế
có giúp ngươi thoát khỏi tai ương
khiến ngươi được vui mừng hoan
hỷ?
16 Ðức Chúa đã gọi tên ngươi:
là "cây ô-liu xanh rờn, có
trái trông đẹp mắt."
Khi có tiếng rung chuyển ầm ầm,
Người liền châm lửa đốt,
cành lá của ngươi bị thiêu rụi
hoàn toàn.
17 Chính Ðức Chúa các đạo binh, Ðấng
trồng ngươi, đã tuyên phán giáng hoạ phạt ngươi, vì sự dữ nhà Ít-ra-en và nhà
Giu-đa đã làm để chọc giận Ta khi dâng hương kính thần Ba-an.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị ngược đãi
ở A-na-thốt
18 Ðức Chúa đã báo cho tôi và tôi đã
biết. Bấy giờ Người cho tôi thấy âm mưu của chúng. 19 Phần con, con
khác nào con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt, con đâu biết chúng đang mưu
tính hại con. Chúng bảo nhau: "Cây đương sức, nào ta chặt nó đi, loại nó
ra khỏi đất dành cho kẻ sống, để không còn ai nhớ đến tên tuổi nó nữa!"
20 Nhưng, lạy Ðức Chúa các đạo binh,
Ngài công minh khi xét xử,
Ngài thấu suốt tâm can từng gang
tấc,
con thấy Ngài trị tội chúng thật
là đích đáng,
vì con đã giãi bày cơ sự cùng
Ngài.
21 Vì thế, Ðức Chúa phán như sau để
chống lại dân A-na-thốt, những kẻ muốn hại mạng sống ngươi và nói: "Ngươi
không được tuyên sấm nhân danh Ðức Chúa nữa, bằng không ngươi sẽ chết vì tay
chúng ta!” 22 Bởi vậy, Ðức Chúa các đạo binh phán như sau: Này Ta sẽ
trừng phạt chúng, thanh niên sẽ chết vì gươm, con trai con gái chúng sẽ chết vì
đói. 23 Và chúng sẽ không còn sót lại một mạng nào, vì Ta sắp giáng
tai hoạ xuống dân A-na-thốt, vào năm Ta trừng phạt chúng.
Chương 12
Hạnh phúc của kẻ gian ác
1 Lạy Ðức Chúa, Ngài quả là chính trực,
con đâu dám tranh luận với Ngài,
nhưng chỉ xin thưa về một vài
phán quyết:
Tại sao kẻ gian ác thịnh đạt trên
đường đời,
tại sao mọi quân phản bội cứ bình
an vô sự?
2 Ngài trồng chúng, chúng liền bén
rễ,
chúng phát triển rồi sinh hoa
trái.
Môi miệng chúng tuy kêu cầu Ngài,
nhưng lòng dạ thì lại ở xa.
3 Lạy Ðức Chúa, Ngài biết con và
Ngài thấy rõ,
Ngài dò xét lòng con, lòng con ở
bên Ngài.
Xin tách biệt quân gian ác, như
tách chiên để đưa tới lò sát sinh.
Xin dành riêng chúng ra chờ ngày
tàn sát.
4 Cho đến bao giờ xứ sở còn tang
tóc,
và cỏ rả ngoài đồng còn héo khô?
Vì tội ác của dân cư trong xứ
mà thú vật và chim muông đều biến
sạch.
Chúng nói: "Người không thấy
các đường nẻo của tôi."
5 Ngươi chạy với người đi bộ mà còn
nhọc mệt,
thì chạy đua với ngựa làm sao?
Nếu ngươi chỉ thấy an tâm trong
một xứ thái bình,
thì trong bụi rậm sông Gio-đan,
an tâm làm sao được?
6 Phải, ngay cả anh em ngươi và nhà
cha ngươi, chính chúng cũng phản bội ngươi; sau lưng ngươi, chính chúng nặng
lời chỉ trích ngươi: đừng tin chúng khi chúng nói ngon nói ngọt với ngươi.
Ðức Chúa than phiền về cơ nghiệp
bị xâm chiếm
7 Nhà của Ta, Ta đã bỏ rơi, cơ
nghiệp của Ta, Ta cũng vứt bỏ;
kẻ lòng Ta yêu mến, Ta đã trao
vào tay thù địch.
8 Cơ nghiệp của Ta đã xử với Ta
như một con sư tử trong rừng;
nó rống lên chống Ta, vì vậy Ta
ghét nó.
9 Cơ nghiệp của Ta có phải là một
con chim sặc sỡ
cho mãnh cầm vây quanh?
Hỡi tất cả thú vật ngoài đồng,
hãy đến, tập trung lại, đến mà ăn
thịt con chim đó.
10 Vườn nho của Ta, nhiều kẻ chăn
chiên đến phá hoại,
thửa đất của Ta, chúng giày xéo.
Thửa đất yêu quý của Ta, chúng
biến thành sa mạc cằn cỗi,
11 chúng biến thành nơi cằn cỗi
hoang vu.
Trước mặt Ta, thửa đất ấy trông
tang thương cằn cỗi.
Cả xứ ra cằn cỗi vì không người
để tâm.
12 Trên khắp các đồi hoang trong sa
mạc, quân phá hoại kéo đến,
vì Ðức Chúa cầm gươm tiễu trừ từ
đầu xứ đến cuối xứ;
không một xác phàm nào được bình
an.
13 Chúng gieo lúa mì, nhưng lại gặt
gai góc,
rã rời mệt mỏi mà chẳng lợi lộc
chi.
Hãy xấu hổ về những gì các ngươi
gặt hái
vì lửa giận của Ðức Chúa bừng
bừng.
Xét xử và cứu độ các dân tộc lân
bang
14 Ðức Chúa phán như sau: Tất cả
những kẻ láng giềng xấu xa của Ta, những kẻ làm hại cơ nghiệp mà Ta đã ban cho
dân Ta là Ít-ra-en làm sở hữu. Này Ta sắp bứng chúng ra khỏi đất đai của chúng,
cả nhà Giu-đa, Ta cũng sẽ bứng ra khỏi xứ sở chúng. 15 Nhưng sau khi
đã bứng rồi, Ta sẽ lại đem lòng chạnh thương chúng và cho chúng trở về, ai nấy
về phần gia nghiệp, về phần đất của mình. 16 Nếu chúng chuyên cần
học hỏi đường lối của dân Ta, lấy danh Ta mà thề "có Ðức Chúa hằng
sống", theo cách chúng đã dạy dân Ta lấy danh Ba-an mà thề, thì chúng sẽ
được nhập cư giữa dân Ta. 17 Nhưng nếu chúng không nghe, thì Ta sẽ
bứng dân tộc ấy; Ta sẽ bứng đi và tiêu diệt nó. Sấm ngôn của Ðức Chúa.
Chương 13
Ðai lưng tốt đã trở thành vô dụng
1 Ðức Chúa phán với tôi thế này:
"Ngươi hãy đi mua một chiếc đai lưng bằng vải gai và thắt vào lưng. Nhưng
đừng ngâm nước.” 2 Tôi đã mua chiếc đai lưng như Ðức Chúa truyền và
thắt vào lưng. 3 Có lời Ðức Chúa phán với tôi lần thứ hai rằng: 4
"Ngươi hãy cầm lấy chiếc đai ngươi đã mua và đang thắt ở lưng. Hãy
đứng dậy, đi đến Êu-phơ-rát và đem giấu trong một kẽ đá.” 5 Tôi đi
giấu đai lưng ấy ở Êu-phơ-rát, như Ðức Chúa đã truyền cho tôi. 6 Sau
nhiều ngày, Ðức Chúa lại phán với tôi: "Ðứng dậy đi Êu-phơ-rát, lấy chiếc
đai lưng Ta đã truyền cho ngươi giấu ở đó về.” 7 Vậy tôi đi
Êu-phơ-rát, tìm và đem chiếc đai lưng từ nơi tôi đã giấu về; nhưng này, chiếc
đai lưng đã hư, không dùng vào việc gì được nữa. 8 Bấy giờ có lời
Ðức Chúa phán cùng tôi rằng: 9 "Ðức Chúa phán thế này: Ta sẽ
huỷ diệt thói kiêu hãnh của Giu-đa và thói kiêu hãnh lớn lao của Giê-ru-sa-lem
như vậy. 10 Dân xấu xa này không chịu nghe lời Ta, cứ ngoan cố cứng
lòng, chạy theo các thần khác mà làm tôi và sụp lạy chúng; nó sẽ nên như chiếc
đai lưng hoàn toàn vô dụng kia. 11 Vì, cũng như chiếc đai lưng người
ta thắt ở lưng, Ta cũng thắt chặt cả nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa vào Ta như vậy,
để chúng trở thành dân của Ta, dân đem lại cho Ta tiếng tăm, danh dự và vinh
quang. Nhưng chúng đã chẳng chịu nghe. Sấm ngôn của Ðức Chúa.
Các vò rượu va chạm vào nhau
12 Ngươi sẽ nói với chúng lời này:
"Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán như sau: Vò nào cũng phải chứa đầy
rượu." Nếu chúng nói với ngươi: "Chẳng lẽ chúng tôi lại không biết rõ
vò nào cũng phải chứa đầy rượu hay sao?” 13 Ngươi sẽ nói với chúng:
"Ðức Chúa phán như sau: Ðây, Ta sẽ làm cho toàn thể dân cư xứ này say tuý
luý, từ các vua đang ngự trên ngai Ða-vít, các tư tế, các ngôn sứ cho đến tất
cả dân cư ở Giê-ru-sa-lem. 14 Ta sẽ làm cho chúng đập nhau tơi bời,
thậm chí cha con cũng đánh nhau, sấm ngôn của Ðức Chúa. Ta sẽ không thương xót,
không nể nang, không đoái hoài đến chúng nữa. Ta sẽ tiêu diệt chúng.
Viễn ảnh lưu đày
15 Các người hãy nghe và hãy lắng
tai,
đừng tự cao tự đại, vì chính Ðức
Chúa phán.
16 Hãy tôn vinh Ðức Chúa, Thiên Chúa
các người,
trước khi màn đêm buông xuống,
trước khi các người vấp chân vào
núi chìm giữa bóng đen.
Các người mong đợi ánh sáng,
nhưng Người biến nó thành bóng
tối âm u,
thành mây mù dầy đặc.
17 Nếu các người không nghe theo
điều đó,
tôi chỉ còn âm thầm than khóc
thói kiêu căng của các người.
Nước mắt tôi đầm đìa lã chã,
vì đàn chiên của Ðức Chúa bị dẫn
đi đày.
Cảnh cáo vua Giô-gia-khin
18 Ngươi hãy nói với vua và thái
hậu: Xuống chỗ thấp mà ngồi đi,
vì vương miện huy hoàng đâu còn
trên đầu các người nữa.
19 Ở Ne-ghép, các thành bị phong
toả, không một ai có thể giải vây.
Toàn thể Giu-đa phải đi lưu đày,
đi lưu đày tất cả.
Cảnh cáo Giê-ru-sa-lem không chịu
sám hối
20 Hỡi Giê-ru-sa-lem, ngước mắt lên
mà nhìn
những người từ phương Bắc đến.
Ðâu cả rồi, đàn chiên được trao
phó cho ngươi?
Ðâu cả rồi, bầy chiên dê từng làm
ngươi rạng rỡ?
21 Ngươi nói sao, khi những kẻ từng
được ngươi dạy dỗ
nay được đặt lên thống trị ngươi?
Chẳng lẽ ngươi không gặp phải
những cơn đau quằn quại
như người phụ nữ lúc sinh con?
22 Nếu trong thâm tâm ngươi tự bảo:
"Tại sao điều ấy lại xảy đến
cho tôi?"
Thưa vì những tội lỗi tày trời
của các ngươi
mà các ngươi đã bị vén áo làm
nhục.
23 Chẳng lẽ người Cút lại đổi được
màu da,
và con báo lại đổi được những đốm
đen trên mình?
Các ngươi là những kẻ quen làm
điều ác
lại có thể làm điều thiện được
sao?
24 Ta sẽ phân tán chúng
như những cọng rơm bị gió sa mạc
cuốn bay lả tả.
25 Ðó là số ngươi bắt trúng, là phần
Ta dành cho ngươi.
Sấm ngôn của Ðức Chúa.
26 nên chính Ta sẽ vén áo ngươi lên
tận mặt
cho thiên hạ thấy ngươi trần
truồng.
27 Thói ngoại tình, tiếng hí khoái
lạc, trò dâm ô đĩ thõa của ngươi
trên những đồi cao, giữa cánh
đồng, Ta đã nhìn thấy hết:
toàn những điều ghê tởm!
Khốn cho ngươi, hỡi
Giê-ru-sa-lem!
Ngươi còn không chịu thanh tẩy
cho đến bao giờ nữa?
Chương 14
Ðại hạn
1 Ðây là lời Ðức Chúa phán với ông
Giê-rê-mi-a về hạn hán:
2 Miền Giu-đa lâm cảnh sầu tang,
các thành thị rã rời kiệt quệ,
chúng buồn tủi, mặt cúi gầm xuống
đất.
Giê-ru-sa-lem vẳng tiếng khóc
than.
3 Các ông chủ sai bề tôi đi kiếm
nước,
chúng đến các bể nước mà tìm
không ra.
Chúng trở về, bình không vò rỗng.
Chúng thẹn thùng nhục nhã, lấy
khăn trùm đầu.
4 Ðất nứt nẻ vì không có mưa trong
xứ,
các nông dân hổ thẹn, lấy khăn
trùm đầu.
5 Trong cánh đồng, nai mẹ đẻ con
rồi cũng bỏ, vì không còn cỏ ăn.
6 Lừa hoang trên đồi trọc đứng thở
hồng hộc như chó sói
mặt lờ đờ vì thiếu cỏ ăn.
7 Lạy Ðức Chúa, nếu tội ác chúng
con đã phạm
lại tố cáo chúng con, thì vì
thánh danh, xin ra tay hành động.
Ðã bao lần chúng con làm phản,
biết bao phen đắc tội với Ngài.
8 Lạy Ðức Chúa, Ngài là niềm hy
vọng của Ít-ra-en,
là Ðấng cứu thoát trong cơn khốn
quẫn.
Sao Ngài xử sự như ngoại kiều
trong xứ,
như lữ khách cắm lều nghỉ qua
đêm?
9 Tại sao Ngài lại như một con
người hốt hoảng
như chiến sĩ không khả năng cứu
thoát?
Nhưng, lạy Ðức Chúa, Ngài ngự
giữa chúng con;
chúng con được mang danh Ngài,
xin đừng bỏ rơi chúng con.
10 Ðức Chúa phán với dân này như
sau: Chúng thích đi lang thang, không chịu kìm chân lại. Ðức Chúa đã không còn
tỏ lòng thương chúng nữa. Bây giờ Người nhớ đến các lỗi lầm của chúng và trừng
phạt chúng vì các tội đã phạm.
11 Ðức Chúa phán với tôi:
"Ngươi đừng cầu nguyện cho dân này được may lành nữa! 12 Chúng có ăn chay,
cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta
cũng chẳng tỏ lòng xót thương, vì Ta sắp dùng gươm đao, đói khát và ôn dịch mà
tiêu diệt chúng."
13 Và tôi thưa: "Ôi, lạy Ðức
Chúa là Chúa Thượng, này các ngôn sứ nói với họ: các ngươi sẽ không phải thấy
cảnh gươm đao, không phải lâm cơn túng đói, vì Ta sẽ ban cho các ngươi một nền
hoà bình vững chắc ở nơi này."
14 Nhưng Ðức Chúa phán với tôi:
"Các ngôn sứ ấy đã nhân danh Ta mà tuyên sấm điều gian dối. Ta đã không
sai chúng, không truyền lệnh cho chúng, cũng chẳng hề phán với chúng. Thị kiến
gian dối, bói toán hão huyền, lòng dạ man trá: đó là những điều chúng tuyên sấm
cho các ngươi. 15 Vì thế Ðức Chúa phán thế này: Các ngôn sứ ấy tuyên
sấm nhân danh Ta, nhưng Ta đâu có sai chúng. Chúng dám nói xứ này không gặp
cảnh gươm đao, không lâm cơn túng đói; thế mà chính các ngôn sứ ấy vì gươm, vì
đói sẽ phải diệt vong! 16 Còn lũ dân đã nghe chúng tuyên sấm, sẽ gặp phải gươm
đao và đói khát, sẽ bị quẳng xác ra ngoài đường phố Giê-ru-sa-lem, mà chẳng được
ai chôn cất: chúng và vợ con chúng, trai cũng như gái. Ta sẽ đổ xuống đầu chúng
các tai hoạ chúng đã gây ra."
17 Mắt tôi hãy tuôn trào suối lệ cả
ngày đêm không ngớt,
vì trinh nữ cô gái dân tôi đã bị
đánh nhừ đòn,
vết trọng thương hết đường cứu
chữa.
18 Tôi bước ra đồng nội: này kẻ chết
vì gươm,
quay trở lại đô thành: nọ bao
người đói lả.
Cả ngôn sứ cùng là tư tế
19 Lạy Chúa, phải chăng Ngài đã
quyết từ bỏ Giu-đa?
Phải chăng Xi-on khiến lòng Ngài
ghê tởm?
Vậy cớ sao Ngài đánh phạt chúng
con
đến vô phương chữa chạy?
Chúng con đợi hoà bình nhưng
chẳng được may lành chi hết!
Mong đến thời bình phục,
mà chỉ thấy rùng rợn khiếp kinh!
20 Lạy Chúa, chúng con nhận rằng
mình gian ác
và cha ông sai lỗi đã nhiều.
Quả chúng con đều đắc tội với
Chúa!
21 Vì Danh Thánh, xin Chúa đừng chê
bỏ chúng con,
đừng rẻ rúng toà vinh hiển của
Ngài.
Dám xin Ngài nhớ lại, đừng huỷ bỏ
giao ước
giữa Ngài với chúng con.
22 Trong số chư thần của các dân
tộc,
có thần nào làm được mưa chăng?
Có phải trời đổ được mưa rào,
hay chính Ngài, lạy Ðức Chúa,
Thiên Chúa của chúng con?
Chúng con trông cậy nơi Ngài,
vì chính Ngài đã làm ra tất cả
những điều đó!
Chương 15
1 Ðức Chúa phán với tôi: "Cho
dù Mô-sê và Sa-mu-en có đứng trước nhan Ta, Ta cũng chẳng còn để lòng thương
dân này nữa. Hãy xua chúng cho khuất nhan Ta; chúng cứ đi đi! 2 Chúng có hỏi
ngươi: Chúng tôi sẽ đi đâu? Ngươi sẽ nói với chúng: Ðức Chúa phán thế này:
Kẻ nào phải chết thì chết, kẻ nào
bị gươm đâm thì bị gươm đâm,
kẻ nào phải đói lả thì đói lả, kẻ
nào phải đi đày thì đi đày.
3 Ta sẽ giáng bốn thứ tai hoạ xuống
trên chúng - sấm ngôn của Ðức Chúa -: gươm để tàn sát, chó để phanh thây, chim
trên trời và thú vật dưới đất để tiêu diệt chúng. 4 Ta sẽ khiến
chúng nên mối kinh hoàng cho mọi vương quốc trên cõi đất, vì những điều
Mơ-na-se, con Khít-ki-gia, vua Giu-đa, đã làm ở Giê-ru-sa-lem.
Tai hoạ chiến tranh
5 Ai còn thương xót ngươi, hỡi
Giê-ru-sa-lem?
Ai còn thương cảm cho ngươi?
Ai còn quay gót lại để vấn an
ngươi?
6 Chính ngươi đã chối bỏ
quay lưng lại với Ta - sấm ngôn
của Ðức Chúa
nên Ta dang tay đánh phạt, nhằm
huỷ diệt ngươi.
Thương xót nhiều rồi, nay Ta đã
chán!
7 Khắp xứ sở, nơi các cổng thành,
Ta đã lấy sàng mà sàng chúng.
Ta đã cướp đi con cái của dân Ta,
và làm cho chúng bị tiêu diệt,
vì chúng theo đường nẻo gian tà,
không chịu quay trở lại.
8 Người goá bụa, Ta đã tăng thêm số
nhiều hơn cát đại dương.
Ngay giữa trưa, Ta để cho quân
giặc
xông vào các bà mẹ của những
chiến binh trẻ.
Thình lình Ta đã giáng xuống trên
chúng
rối loạn và kinh hoàng.
9 Người mẹ từng sinh năm đẻ bảy nay
ủ rũ, rồi trút hơi thở lìa đời.
Giữa ban ngày mà mặt trời của bà
đã lặn, bà thẹn thùng xấu hổ.
Còn sống sót đứa con nào, Ta để
cho lưỡi gươm sát hại
trước mặt quân thù của chúng, -
sấm ngôn của Ðức Chúa.
Xác định lại ơn gọi
10 Con vô phúc quá, mẹ ơi, mẹ sinh
con ra làm gì,
để cho người ta chống đối, cho cả
nước gây gổ với con?
Con chẳng cho ai vay, cũng không
mượn của người,
thế mà vẫn cứ bị nguyền rủa.
11 Quả vậy, lạy Ðức Chúa,
con đã chẳng đem thiện chí phục
vụ Ngài hay sao?
Nào con đã chẳng cầu khẩn với
Ngài cho thù địch
khi nó gặp hoạn nạn, lúc nó phải
gian truân?
12 Sắt phương Bắc và đồng, có ai bẻ
nổi?
13 Tài sản và các kho tàng của
ngươi,
Ta sẽ để cho bị cướp phá mà không
đền bù
vì mọi tội ngươi đã phạm trên
toàn xứ sở.
14 Ta sẽ bắt ngươi làm tôi kẻ thù
trong xứ sở mà ngươi không biết,
vì cơn giận của Ta đã bừng lên
như lửa,
sẵn sàng thiêu rụi các ngươi.
15 Lạy Ðức Chúa, chính Ngài biết rõ!
Xin nhớ đến con và thăm viếng con
cùng,
xin báo oán những kẻ bách hại
con.
Xin đừng nén cơn giận kẻo con bị
chúng bắt đem đi.
Ngài biết đó: con phải chuốc lấy
nhục vào thân, âu cũng vì Ngài.
16 Gặp được lời Chúa, con đã nuốt
vào,
lời Ngài làm cho con hoan hỷ,
làm vui thoả lòng con, vì con
được mang danh Ngài,
lạy Ðức Chúa, Thiên Chúa các đạo
binh.
17 Con không ngồi chung vui với
phường giễu cợt,
tay Ngài đè nặng khiến con phải
ngồi riêng một mình.
Quả thật, Ngài đã làm cho con đầy
bực tức.
18 Tại sao con cứ phải đau khổ hoài,
mang vết trọng thương hết đường
cứu chữa?
Phải chăng đối với con, Ngài chỉ
là ngọn suối trong ảo mộng,
là dòng nước mơ hồ?
19 Vì thế, Ðức Chúa phán như sau:
"Nếu Ta đưa ngươi về mà
ngươi chịu trở về,
thì ngươi sẽ được đứng trước nhan
Ta.
Nếu ngươi nói điều cao quý thay
vì điều hèn hạ,
thì ngươi sẽ nên như miệng Ta.
Chúng sẽ trở lại với ngươi,
chứ không phải ngươi trở lại với
chúng.
20 Ta sẽ làm cho ngươi nên thành
đồng kiên cố đối với dân này.
Chúng có chống lại ngươi cũng
chẳng làm chi được,
vì Ta ở với ngươi để cứu sống và
giải thoát ngươi,
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
21 Ta sẽ giải thoát ngươi khỏi tay
kẻ dữ,
sẽ cứu chuộc ngươi khỏi bàn tay
hung tàn.
Chương 16
Cuộc đời ngôn sứ như dấu chỉ
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi
rằng:
2 "Ngươi đừng cưới vợ; đừng có
con trai, con gái ở nơi này! 3 Vì Ðức Chúa phán như sau về con trai, con gái
được sinh ra ở nơi đây, về các bà mẹ sinh ra chúng, về các người cha sinh ra
chúng trong xứ này: 4 Chúng sẽ chết vì các chứng bệnh nan y, không
được ai khóc thương, không được ai chôn cất. Người ta sẽ dùng chúng làm phân
trên mặt đất; chúng sẽ bị tiêu diệt vì gươm, vì đói. Xác của chúng sẽ làm mồi
cho chim trên trời và thú vật dưới đất.
5 Vì Ðức Chúa phán thế này: Ngươi
đừng vào nhà hiếu dự tiệc tang, đừng rên rỉ khóc thương chúng, bởi vì Ta không
còn cho chúng được hưởng bình an, tín thành và lòng thương xót của Ta nữa, -
sấm ngôn của Ðức Chúa. 6 Lớn bé, già trẻ trong xứ sẽ phải chết,
không người chôn cất, chẳng ai khóc thương, không ai rạch mình và cạo trọc đầu
để tang. 7 Không ai bẻ bánh cho những người thọ tang để an ủi chúng
đang buồn vì người chết; cũng không ai rót rượu an ủi chúng vì cha hay mẹ chúng
đã chết rồi.
8 Ngươi cũng không được vào nhà
đang có tiệc để cùng ngồi ăn uống. 9 Vì Ðức Chúa các đạo binh, Thiên
Chúa Ít-ra-en, phán như sau: Ngay trước mắt các ngươi và trong đời các ngươi,
Ta sẽ làm cho nơi này im bặt tiếng reo mừng hỷ hoan và tiếng hát của cô dâu chú
rể.
10 Khi ngươi loan báo tất cả những
lời ấy cho dân này, chúng sẽ nói với ngươi: "Tại sao Ðức Chúa lại giáng
một tai hoạ lớn lao như thế để trừng phạt chúng tôi? Chúng tôi đã có lỗi gì, đã
phạm tội nào chống lại Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi?” 11 Bấy giờ
ngươi sẽ bảo chúng: "Chính vì cha ông các ngươi đã chối bỏ Ta, - sấm ngôn
của Ðức Chúa -, chúng đã đi theo các thần khác, đã phụng thờ và sụp lạy các
thần ấy; còn Ta, chúng lại chối bỏ, và Lề Luật của Ta, chúng không tuân giữ. 12
Phần các ngươi, các ngươi còn hành động xấu xa hơn cha ông các ngươi:
người nào cũng cố chấp theo lòng dạ xấu xa của mình, không chịu nghe lời Ta. 13
Ta sẽ đuổi các ngươi ra khỏi xứ này và đưa đến một nơi xa lạ mà chính các
ngươi cũng như cha ông các ngươi không biết; ở đó đêm ngày các ngươi sẽ phụng
thờ các thần khác, vì Ta không còn thương các ngươi nữa."
Dân Ít-ra-en bị phân tán trở về
14 Vì thế, sẽ đến ngày - sấm ngôn
của Ðức Chúa - người ta không còn nói như sau nữa: "Có Ðức Chúa hằng sống,
Ðấng đã đưa con cái Ít-ra-en lên khỏi đất Ai-cập", 15 nhưng sẽ
nói "có Ðức Chúa hằng sống, Ðấng đã đưa con cái Ít-ra-en lên khỏi đất
phương Bắc và khỏi mọi miền đất Người đã xua họ đến." Quả thật, Ta sẽ cho
chúng trở về đất chúng sở hữu, đất mà xưa kia Ta đã ban cho cha ông chúng.
Loan báo cuộc xâm lược
16 "Này đây Ta sẽ sai nhiều ngư
phủ - sấm ngôn của Ðức Chúa - đến đánh bắt chúng. Sau đó, Ta sẽ sai nhiều thợ
săn đến săn bắt chúng từ trên mọi núi đồi và những kẽ đá. 17 Vì mắt
Ta luôn canh chừng mọi nẻo đường chúng đi; chúng không che giấu được mắt Ta và
tội ác của chúng không lọt khỏi mắt Ta. 18 Ta sẽ phạt chúng gấp đôi
các tội ác và lỗi lầm chúng phạm, vì chúng đã làm ô uế miền đất của Ta bằng
những đồ gớm ghiếc là các ngẫu tượng vô hồn; chúng lại chất đầy những đồ ghê
tởm lên cơ nghiệp của Ta.
Các nước trở lại
19 Lạy Ðức Chúa là sức mạnh, là
thành luỹ của con,
là nơi con ẩn náu trong ngày khốn
quẫn,
từ khắp cùng cõi đất, các dân tộc
sẽ đến với Ngài.
Chúng sẽ nói: Cha ông chúng tôi
đã chỉ được thừa hưởng sự dối
trá,
cùng những điều hão huyền vô tích
sự.
20 Người phàm có thể tạo thần minh
cho mình chăng?
Nhưng các thần đó đâu phải là
thần!
21 Vì thế, này đây Ta sắp sửa cho
chúng biết, lần này Ta sẽ cho chúng biết được
bàn tay oai hùng và dũng lực của
Ta,
và chúng sẽ biết danh Ta là Ðức
Chúa.
Chương 17
Lỗi lầm của Giu-đa trong việc
phụng tự
1 Tội lỗi của Giu-đa phải được ghi
bằng bút sắt
và khắc bằng mũi kim cương vào
tâm hồn
và vào các góc bàn thờ của chúng,
2 cho con cái chúng nhớ lại
các bàn thờ và cột thờ chúng dựng
lên
dưới mọi lùm cây xanh, tại các
ngọn đồi cao,
3 trên miền núi, và ở ngoài đồng.
Tài sản và mọi kho tàng của
ngươi,
Ta sẽ để cho thiên hạ cướp phá
vì tội ngươi đã lập những nơi cao
trong toàn lãnh thổ.
4 Ngươi sẽ để mất gia nghiệp Ta đã
dành cho ngươi.
Ta sẽ bắt ngươi làm tôi kẻ thù
trong xứ sở mà ngươi không biết,
vì cơn giận của Ta đã bừng lên
như lửa,
sẵn sàng thiêu rụi đến muôn đời.
Châm ngôn dạy khôn ngoan
5 Ðức Chúa phán như sau:
Ðáng nguyền rủa thay kẻ tin ở
người đời,
lấy sức phàm nhân làm nơi nương
tựa,
và lòng dạ xa rời Ðức Chúa!
6 Người đó sẽ như bụi cây trong
hoang địa
chẳng được thấy hạnh phúc bao
giờ,
hạnh phúc có đến cũng chẳng nhìn
ra,
nhưng sẽ ở mãi nơi đồng khô cỏ
cháy,
trong vùng đất mặn không một bóng
người.
7 Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Ðức
Chúa,
và có Ðức Chúa làm chỗ nương
thân.
8 Người ấy như cây trồng bên dòng
nước,
đâm rễ sâu vào mạch suối trong,
mùa nóng có đến cũng chẳng sợ gì,
lá trên cành vẫn cứ xanh tươi,
gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại,
và không ngừng trổ sinh hoa trái.
9 Không gì nham hiểm và bất trị như
lòng người, ai dò thấu được?
10 Ta là Ðức Chúa, Ta dò xét lòng
người, thử thách mọi tâm can.
Ta sẽ thưởng phạt ai nấy tuỳ theo
cách nó sống và việc nó làm.
11 Con chim quốc ấp trứng nó không
đẻ,
kẻ làm giàu bất chính nào có khác
chi:
nửa cuộc đời, nó phải bỏ giàu
sang,
và rốt cuộc, cũng chỉ là một đứa
ngu đần.
Tin tưởng vào Ðền Thờ và Ðức Chúa
12 Ngay từ thuở ban đầu,
nơi Thánh Ðiện chúng con toạ lạc
là ngai vinh hiển cao sang.
13 Lạy Ðức Chúa, niềm hy vọng của
Ít-ra-en là Ngài,
hết những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải
xấu hổ,
những kẻ quay lưng lại với Ngài
sẽ bị bứng khỏi đất,
vì họ đã lìa bỏ Ðức Chúa là mạch
nước trường sinh.
Xin báo thù
14 Lạy Ðức Chúa, xin chữa lành con,
để con được chữa lành,
xin cứu thoát con, để con được
cứu thoát,
vì vinh dự của con chính là Ngài!
15 Kìa chúng nói với con:
Lời Ðức Chúa đâu rồi? Cứ thực
hiện đi xem!
16 Phần con, con đâu hối thúc Chúa
gieo tai giáng hoạ.
Ngày bất hạnh, con cũng chẳng cầu
mong.
Môi miệng con có thốt ra lời nào
thì chính Ngài đã am tường hết:
tất cả đều phơi bày trước Thánh
Nhan.
17 Chính Ngài là chốn con nương ẩn
trong những ngày tai biến: xin
đừng nên cớ cho con sợ hãi.
18 Xin cho những kẻ bách hại con
phải thẹn thùng xấu hổ,
chứ không phải là con.
Xin cho chúng phải thất kinh
khiếp đảm,
chứ không phải là con.
Xin cho ngày tai hoạ mau đến với
chúng.
Xin đập chúng, đập tan nát tả
tơi.
Tuân giữ ngày sa-bát
19 Ðức Chúa phán với tôi thế này:
"Ngươi hãy đi túc trực ở Cổng Lớn, nơi các vua Giu-đa vẫn ra vào; rồi sau
đó, tại các cổng thành Giê-ru-sa-lem. 20 Ngươi sẽ nói với chúng: Hãy
nghe lời Ðức Chúa, hỡi tất cả những ai đi qua các cổng này: các vua Giu-đa,
toàn dân Giu-đa cũng như mọi dân cư Giê-ru-sa-lem. 21 Ðức Chúa phán
như sau: Hãy hết sức cẩn thận: đừng gồng đừng gánh mà đi qua các cửa thành
Giê-ru-sa-lem trong ngày sa-bát. 22 Ngày sa-bát, đừng gồng gánh ra
khỏi nhà, đừng làm công việc nào: hãy thánh hiến ngày sa-bát như Ta đã truyền
cho cha ông các ngươi. 23 Cha ông các ngươi đã chẳng đoái hoài,
không chịu lắng tai nghe. Chúng cứng đầu cứng cổ, không chịu nghe theo, không
chấp nhận lời sửa dạy. 24 Nếu các ngươi thực sự nghe theo lời Ta -
sấm ngôn của Ðức Chúa - là không gồng gánh qua các cửa thành này trong ngày
sa-bát, đồng thời nếu các ngươi thánh hiến ngày sa-bát là không làm công việc
nào trong ngày đó, 25 thì qua các cửa thành này, các vua nối quyền
Ða-vít cùng với các thủ lãnh sẽ ngồi xe cỡi ngựa mà đi qua, không những chỉ có
các vua và các thủ lãnh, mà cả người Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem nữa. Thành
này sẽ tồn tại mãi mãi. 26 Từ các thành Giu-đa và các vùng phụ cận
Giê-ru-sa-lem, từ đất Ben-gia-min, từ Sơ-phê-la, từ cao nguyên, từ Ne-ghép,
người ta sẽ đến, mang theo lễ toàn thiêu, hy lễ, lễ phẩm, hương thơm, và dâng
lễ tạ ơn trong Nhà Ðức Chúa. 27 Còn nếu các ngươi không nghe Ta mà
thánh hiến ngày sa-bát, lại gồng gánh đi qua các cửa thành Giê-ru-sa-lem trong
ngày sa-bát, thì Ta sẽ phóng hoả đốt các cửa thành, lửa sẽ thiêu rụi các lâu
đài ở Giê-ru-sa-lem và không tàn lụi.
Chương 18
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a ở nhà người
thợ gốm
1 Có lời Ðức Chúa phán với ông
Giê-rê-mi-a rằng: 2 "Ngươi hãy trỗi dậy và xuống nhà thợ gốm, ở
đó Ta sẽ cho ngươi nghe lời Ta.” 3 Tôi xuống nhà thợ gốm, và này anh
ta đang sử dụng chiếc bàn xoay hai bánh.4 Nhưng chiếc bình anh đang nắn bị
hỏng, như có lúc xảy ra khi thợ gốm nặn đất sét. Anh làm lại một chiếc khác
đúng như anh thấy cần phải làm. 5 Bấy giờ có lời Ðức Chúa phán với
tôi rằng: 6 "Hỡi nhà Ít-ra-en, đối với các ngươi, Ta lại không
thể làm được như người thợ gốm này hay sao? Sấm ngôn của Ðức Chúa. Này hỡi nhà
Ít-ra-en, đất sét ở trong tay người thợ gốm thế nào, các ngươi ở trong tay Ta
cũng như vậy. 7 Có khi Ta bày tỏ ý định sẽ nhổ, sẽ lật, sẽ diệt một
dân tộc hay một vương quốc, 8 nhưng nếu dân tộc ấy trở lại, bỏ sự dữ
đã khiến Ta quyết định trừng phạt nó, thì Ta sẽ hối tiếc về tai hoạ Ta định
giáng cho nó. 9 Có khi Ta bày tỏ ý định sẽ xây, sẽ trồng một dân tộc
hay một vương quốc, 10 nhưng nếu dân tộc ấy làm điều dữ trái mắt Ta,
không chịu nghe theo tiếng Ta, Ta sẽ hối tiếc về phúc lành Ta định ban cho nó. 11
Và bây giờ, ngươi hãy nói với người Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem rằng:
Ðức Chúa phán như sau: Này chính Ta đang tạo ra tai hoạ nhằm trừng phạt các
ngươi, đang tính kế chống các ngươi. Vậy hãy mau trở lại, ai nấy phải từ bỏ con
đường gian ác; hãy làm cho cách sống và công việc của mình tốt hơn. 12 Nhưng
chúng sẽ nói: "Vô ích! Chúng tôi sẽ theo ý định của chúng tôi, và mỗi
người cứ cố chấp theo lòng dạ xấu xa của mình."
Ít-ra-en lãng quên Ðức Chúa
13 Vì thế, Ðức Chúa phán thế này:
Hãy hỏi các dân tộc cho biết:
Ai đã nghe câu chuyện như thế này
chưa?
Trinh nữ Ít-ra-en đã làm điều rất
kinh tởm.
14 Có bao giờ tuyết núi Li-băng lại
ngừng rơi trên sườn đá dốc?
Có bao giờ dòng nước mát rượi
chảy từ núi đá lại cạn khô?
15 Thế mà Ta, dân Ta lại quên lãng,
chúng đốt hương dâng kính tà thần
nên chúng phải lao đao lận đận
trên nẻo đường chúng đi, những
nẻo đường thuở trước,
để đi vào những lối quanh co chưa
khai phá bao giờ.
16 Chúng đã biến xứ sở thành những
nơi hoang tàn đổ nát
cho thiên hạ mãi mãi cười chê, ai
đi qua cũng lắc đầu kinh ngạc.
17 Khác nào trận gió đông,
Ta sẽ làm cho chúng phân tán
trước mặt quân thù.
Ngày chúng gặp tai ương hoạn nạn
Ta sẽ chỉ cho chúng thấy lưng Ta,
chứ không cho thấy mặt.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị mưu hại
18 Chúng nói: "Hãy đến đây ta
cùng nhau bàn mưu tính kế hại Giê-rê-mi-a. Vì thiếu tư tế, lề luật không chết,
thiếu hiền nhân, không thiếu ý kiến, thiếu ngôn sứ, không thiếu lời dạy bảo.
Ðến đây, ta hãy dùng lời nó mà hại nó, và phải hết sức để ý đến mọi lời nó
nói."
19 Lạy Ðức Chúa, xin để ý đến con
và nghe những kẻ tố cáo con nói
đó.
20 Nào có ai lấy oán đền ơn?
Thế mà chúng lại đào hố nhằm làm
con mất mạng.
Xin Ngài nhớ cho: con đã từng
đứng ra trước nhan Ngài
để nói tốt nói hay cho chúng,
để ngăn cơn thịnh nộ của Ngài
khỏi giáng lên đầu chúng.
21 Vì vậy, xin để cho con cái chúng
đói lả,
cho chúng ngã gục vì gươm đao.
Ước chi đàn bà đã mất con lại goá
chồng,
đàn ông chết vì ôn dịch,
còn thanh niên chết vì gươm đao
chinh chiến.
22 Ước chi nhà chúng ở vẳng tiếng
khóc tiếng than,
khi bất chợt Ngài cho bọn cướp
xông vào chúng,
vì chúng đã đào hố để bắt con
và giăng bẫy cho chân con vấp
ngã.
23 Lạy Ðức Chúa, mọi âm mưu chúng
bày ra để hại con
chính Ngài biết rõ.
Lỗi lầm chúng, xin Ngài đừng bỏ
qua,
tội lỗi chúng sờ sờ trước Thánh
Nhan,
xin Ngài đừng xoá sạch.
Trước Thánh Nhan, xin cho chúng
phải thất điên bát đảo,
và đến lúc Ngài nổi trận lôi
đình,
xin cứ thẳng tay trừng trị chúng.
Chương 19
Cái bình vỡ. Tranh cãi với ông
Pát-khua.
1 Ðức Chúa phán thế này: Hãy đi mua
một cái bình sành của thợ gốm. Cùng với một số kỳ mục trong dân và một số trong
hàng tư tế, 2 hãy đi ra phía thung lũng Ben Hin-nôm, lối vào cửa
Gốm, tại đó ngươi sẽ công bố những điều Ta sẽ phán với ngươi. 3 Ngươi
sẽ nói: Hỡi các vua Giu-đa, hỡi dân cư Giê-ru-sa-lem, hãy nghe lời Ðức Chúa.
Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán như sau: Này Ta sắp giáng tai
hoạ xuống nơi đây, khiến cho bất cứ ai nghe nói cũng phải ù cả hai tai: 4 bởi
vì chúng đã lìa bỏ Ta, đã biến nơi này thành nơi xa lạ. Tại chính nơi này,
chúng còn dâng hương kính các thần khác, những thần chính chúng, cũng như cha
ông chúng và các vua Giu-đa đã không hề biết đến; chúng đã làm cho nơi này ngập
máu người vô tội. 5 Chúng đã xây những nơi cao kính Ba-an để hoả
thiêu con cái chúng làm lễ toàn thiêu dâng Ba-an; đó là điều Ta đã không
truyền, không phán dạy cũng không nghĩ đến. 6 Vì thế, sẽ đến ngày -
sấm ngôn của Ðức Chúa - người ta không còn gọi nơi này là "Tô-phét",
là "thung lũng Ben Hin-nôm" nữa, nhưng là "thung lũng Tàn Sát.” 7
Tại nơi này, Ta sẽ đập tan ý định của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Ta sẽ làm
cho chúng ngã gục vì gươm trước mặt quân thù, do tay những kẻ tìm hại mạng sống
chúng. Ta sẽ để cho xác của chúng làm mồi cho chim trời và thú vật dưới đất. 8
Ta sẽ khiến cho thành này nên đồ kinh tởm, nên đề tài trào phúng; ai đi
qua cũng lắc đầu kinh ngạc, cười chê về mọi thương tích của nó. 9 Ta
sẽ khiến chúng ăn thịt con trai, con gái mình: khi bị vây hãm, bị quân thù cùng
những kẻ tìm hại mạng sống siết chặt trong cảnh ngặt nghèo, chúng sẽ ăn thịt
lẫn nhau.
10 Ngươi sẽ đập vỡ cái bình trước
mặt những người cùng đi với ngươi, 11 rồi nói với chúng: Ðức Chúa
các đạo binh phán thế này: Cũng vậy, Ta sẽ đập tan dân này và thành này như
người ta đập vỡ cái vò của thợ gốm, mà không thể hàn gắn lại được nữa.
Người ta sẽ biến Tô-phét thành
nghĩa địa, vì không còn chỗ nào khác để chôn. 12 Ta sẽ xử với nơi
này và với dân cư ở đó cũng như vậy - sấm ngôn của Ðức Chúa - nghĩa là làm cho
thành này giống như Tô-phét. 13 Nhà cửa ở Giê-ru-sa-lem và cung điện
các vua Giu-đa - những nhà nào chúng dâng hương trên mái để kính đạo binh trên
trời và tưới rượu dâng các thần khác - tất cả sẽ nên ô uế như ở Tô-phét.
14 Từ Tô-phét là nơi Ðức Chúa đã sai
ông đi tuyên sấm, ông Giê-rê-mi-a trở về, đến đứng ở tiền đình Nhà Ðức Chúa và
nói với toàn dân rằng: 15 Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa
Ít-ra-en, phán như sau: Này Ta sắp giáng xuống thành này và mọi thành phụ thuộc
tất cả tai hoạ Ta đã tuyên phạt, vì chúng cứng đầu cứng cổ không chịu nghe lời
Ta."
Chương 20
1 Tư tế Pát-khua con ông Im-me,
tổng quản đốc Nhà Ðức Chúa, đã nghe ông Giê-rê-mi-a tuyên sấm các lời ấy. 2
Ông Pát-khua cho đánh đòn ngôn sứ Giê-rê-mi-a và cho cùm ông tại cửa
Ben-gia-min, tức là Cửa Trên trong Nhà Ðức Chúa. 3 Hôm sau, ông
Pát-khua tháo cùm cho ông Giê-rê-mi-a; ông Giê-rê-mi-a nói với ông ấy:
"Ðức Chúa không còn gọi ông là Pát-khua nữa, nhưng là "Kinh hoàng tứ
phía.” 4 Quả thật, Ðức Chúa phán như sau: Này Ta sẽ biến ngươi thành
nỗi kinh hoàng cho chính ngươi và tất cả bạn bè của ngươi. Chúng sẽ ngã gục
dưới lưỡi gươm quân thù, chính mắt ngươi sẽ chứng kiến điều đó. Ta sẽ trao nộp
toàn thể Giu-đa vào tay vua Ba-by-lon; nó sẽ bắt chúng đi lưu đày ở Ba-by-lon;
sẽ dùng gươm tàn sát chúng. 5 Tất cả của cải thành này cùng với mọi
công lao vất vả và mọi đồ quý giá, cũng như tất cả kho tàng của các vua Giu-đa,
Ta sẽ nộp vào tay quân thù chúng; bọn này sẽ cướp phá, tịch thu đem về
Ba-by-lon. 6 Còn ông, hỡi Pát-khua, chính ông và tất cả những người
ở trong nhà ông sẽ phải đi lưu đày. Ông sẽ đi Ba-by-lon, sẽ chết tại đó và sẽ
phải chôn tại đó; ông cũng như tất cả bạn bè, tức là những người đã nghe ông
tuyên sấm láo!"
Tâm sự của ngôn sứ Giê-rê-mi-a
7 Lạy Ðức Chúa, Ngài đã quyến rũ
con,
và con đã để cho Ngài quyến rũ.
Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng.
Suốt ngày con đã nên trò cười cho
thiên hạ, để họ nhạo báng con.
8 Mỗi lần nói năng là con phải la
lớn,
phải kêu lên: "Bạo tàn! Phá
huỷ!"
Vì lời Ðức Chúa mà con đây bị sỉ
nhục và chế giễu suốt ngày.
9 Có lần con tự nhủ: "Tôi sẽ
không nghĩ đến Người,
cũng chẳng nhân danh Người mà nói
nữa."
Nhưng lời Ngài cứ như ngọn lửa
bừng cháy trong tim,
âm ỉ trong xương cốt.
Con nén chịu đến phải hao mòn,
nhưng làm sao nén được!
10 Con nghe biết bao người vu cáo:
"Kìa, lão "Tứ phía kinh
hoàng! , hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi!"
Tất cả những bạn bè thân thích
đều rình xem con vấp ngã.
Họ nói: "Biết đâu nó chẳng
mắc lừa,
rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù
được nó!"
11 Nhưng Ðức Chúa hằng ở bên con
như một trang chiến sĩ oai hùng.
Vì thế những kẻ từng hại con
sẽ thất điên bát đảo, sẽ không
thắng nổi con.
Chúng sẽ phải thất bại, và nhục
nhã ê chề:
đó là một nỗi nhục muôn đời không
thể quên.
12 Lạy Ðức Chúa các đạo binh,
Ðấng dò xét người công chính,
Ðấng thấu suốt tâm can,
con sẽ thấy Ngài trị tội chúng
đích đáng,
vì con đã giãi bày cơ sự cùng
Ngài.
13 Hãy ca tụng Ðức Chúa, hãy ngợi
khen Ðức Chúa,
vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần
khỏi tay phường hung bạo.
14 Thật đáng nguyền rủa ngày tôi
được sinh ra.
Ngày mẹ tôi sinh ra tôi không
đáng được chúc lành.
15 Thật đáng nguyền rủa kẻ làm cho
cha tôi hớn hở mừng vui
khi báo tin cho người:
"Một người con, một bé trai
đã được sinh ra cho ông."
16 Chớ gì kẻ đó giống như các thành
bị Ðức Chúa phá đổ, không chút
xót thương.
Chớ gì sáng sớm nó nghe tiếng kêu
cứu,
và giữa trưa nghe tiếng hò xung
trận.
17 Tại sao tôi đã không chết ngay
trong lòng mẹ
để mẹ tôi nên nấm mồ chôn tôi,
và lòng bà cưu mang tôi mãi mãi?
18 Tôi đã lọt lòng mẹ để làm chi?
Phải chăng chỉ để thấy toàn gian
khổ, buồn sầu,
và thấy cuộc đời qua đi trong tủi
hổ?
Chương 21
3. Các Sấm Ngôn,
Ðặc Biệt Sấm Ngôn Sau Triều Ðại
Vua Giô-Gia-Kim
Câu trả lời cho phái đoàn của vua
Xít-ki-gia-hu
1 Ðây là lời Ðức Chúa phán với ông
Giê-rê-mi-a, khi vua Xít-ki-gia-hu phái ông Pát-khua con ông Man-ki-gia và tư
tế Xơ-phan-gia con ông Ma-a-xê-gia đến nói với ông rằng: 2 "Xin
ông thỉnh ý Ðức Chúa giúp chúng tôi, vì vua Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-xo đến
đánh chúng tôi; may ra Ðức Chúa sẽ lại thực hiện mọi kỳ công như Người đã làm
để giúp chúng ta, khiến vua ấy phải bỏ chúng ta mà rút lui.” 3 Ông
Giê-rê-mi-a bảo họ: "Các ông về thưa với vua Xít-ki-gia-hu thế này: 4
Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán như sau: Này từ bên ngoài tường luỹ,
Ta sắp thu hồi binh khí các người cầm ở tay để giao chiến với vua Ba-by-lon và
những người Can-đê hiện bao vây các ngươi, và Ta sẽ gom tất cả lại đưa vào giữa
thành này. 5 Ta sẽ dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, đích thân chống
lại các ngươi, trong lúc cơn giận của Ta lên tới cực điểm. 6 Ta sẽ
đánh phạt dân cư trong thành này, cả người lẫn súc vật; chúng sẽ phải chết vì
trận dịch kinh khủng. 7 Sau đó - sấm ngôn của Ðức Chúa -
Xít-ki-gia-hu, vua Giu-đa, các bề tôi của nó cùng với dân còn sống sót trong
thành này đã thoát khỏi ôn dịch, gươm đao, đói kém, Ta sẽ trao tất cả vào tay
Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, vào tay các thù địch của chúng và những kẻ
tìm hại mạng chúng; người ta sẽ dùng gươm đánh phạt chúng, không thương xót,
không nể nang, không đoái hoài đến chúng nữa."
8 Còn đối với dân này, ngươi sẽ
nói: "Ðức Chúa phán như sau: Ðây Ta đưa ra cho các ngươi chọn: hoặc con
đường đưa tới sự sống, hoặc con đường đưa tới sự chết. 9 Ai ở lại
trong thành, sẽ phải chết vì gươm đao, đói kém và ôn dịch; còn ai chạy ra ngoài
đầu hàng quân Can-đê đang vây chặt các ngươi, thì ít ra cũng sống và bảo toàn
được tính mạng. 10 Vì Ta sẽ quay mặt lại phạt thành này, giáng hoạ
chứ không giáng phúc, sấm ngôn của Ðức Chúa. Nó sẽ bị trao vào tay vua
Ba-by-lon và bị vua phóng hoả.
Ngỏ lời với hoàng gia
11 Ngỏ lời với hoàng gia Giu-đa: Hãy
nghe lời Ðức Chúa, 12 hỡi nhà Ða-vít! Ðức Chúa phán như sau:
Sáng sáng, hãy phân xử công minh,
giải thoát người bị bóc lột khỏi
tay kẻ áp bức;
chẳng vậy, lửa giận Ta sẽ bừng
bừng không ai tắt nổi,
vì những hành vi gian ác của các
ngươi.
13 Này Ta chống lại ngươi, hỡi cô
gái ở thung lũng,
hỡi núi đá miền đồng bằng - sấm
ngôn của Ðức Chúa.
Chính các ngươi bảo: Ai dám xuống
tấn công ta?
Ai vào được nơi ta trú ẩn?
14 Ta sẽ sửa phạt các ngươi
tuỳ theo kết quả công việc các
ngươi làm,
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
Ta sẽ đốt lửa trong rừng thuộc
hoàng cung
và lửa sẽ thiêu rụi tất cả những
gì bao quanh nó.
Chương 22
1 Ðức Chúa phán như sau: Ngươi hãy
xuống đền vua Giu-đa và tại đó, ngươi sẽ công bố lời này: 2 Ngươi sẽ
nói: Hãy nghe lời Ðức Chúa, hỡi vua Giu-đa đang ngự trên ngai vàng Ða-vít, vua
cũng như các bề tôi và dân của vua đang ra vào các cổng thành này. 3 Ðức
Chúa phán như sau: Hãy thực thi lẽ công minh và điều chính trực; hãy giải thoát
người bị bóc lột khỏi tay kẻ áp bức; đừng ngược đãi ngoại kiều, trẻ mồ côi và
người goá bụa; đừng cưỡng bức và đổ máu người vô tội ở nơi đây. 4 Vì
nếu các ngươi ra sức thực thi lời này, thì bấy giờ, các vua ngự trên ngai vàng
nối nghiệp Ða-vít sẽ ngồi xe, cỡi ngựa đi qua các cửa đền này, không những chỉ
có vua và bề tôi mà cả dân nữa. 5 Nhưng nếu các ngươi không nghe
những lời này - sấm ngôn của Ðức Chúa - Ta lấy chính danh Ta mà thề: Nhà này sẽ
nên chốn hoang tàn.
6 Thật vậy, Ðức Chúa phán như sau
về nhà của vua Giu-đa:
Cho dầu đối với Ta, ngươi là
Ga-la-át, là đỉnh núi Li-băng,
nhưng Ta quyết biến ngươi nên sa
mạc,
nên thành thị không người cư trú.
7 Nhằm chống lại ngươi,
chính Ta sẽ sai phái những người
đến huỷ diệt ngươi,
ai nấy được trang bị sẵn sàng.
Những cây bá hương hảo hạng của
ngươi,
chúng sẽ chặt đi và quăng vào
lửa.
8 Nhiều sắc dân sẽ đi ngang qua
thành này; chúng sẽ nói với nhau: "Vì sao Ðức Chúa lại xử với thành vĩ đại
này như thế?” 9 Người ta sẽ đáp lại: "Cũng chỉ vì họ đã bỏ Giao
Ước của Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, mà sụp lạy và phụng thờ các thần
khác."
Những lời sấm lên án các vua.
Lên án vua Sa-lum
10 Ðừng khóc thương người chết, rên
rỉ thương khóc nó làm gì!
Có khóc, hãy khóc người phải ra
đi, bởi vì nó chẳng còn trở lại,
chẳng còn nhìn thấy nơi chôn nhau
cắt rốn.
11 Quả thật, về vua Sa-lum, người
lên ngôi cai trị nước Giu-đa, kế vị cha mình là Giô-si-gia-hu, Ðức Chúa phán
thế này: Kẻ đã ra đi khỏi chốn này thì sẽ chẳng bao giờ trở lại, 12 vì
nó sẽ chết tại nơi nó phải lưu đày, và không bao giờ nhìn thấy chốn này nữa.
Lên án vua Giơ-hô-gia-kim
13 Khốn thay kẻ xây nhà xây cửa
mà không đếm xỉa đến lẽ công
bình.
Khốn thay kẻ xây lầu son gác tía
mà chẳng màng chi đến điều chính
trực.
Khốn thay kẻ bắt anh em mình làm
lụng vất vả
mà không tính công sá, không trả
thù lao.
14 Nó nói: "Ta sẽ xây cho mình
một toà nhà đồ sộ
có gác rộng lầu cao."
Nó trổ nhiều cửa sổ,
bọc tường bằng gỗ bá hương, rồi
sơn son thếp vàng.
15 Phải chăng ngươi tỏ mình làm vua
cai trị
khi ưa thích xài gỗ bá hương?
Cha ngươi lại chẳng ăn chẳng uống
hay sao?
Nhưng ông đã thực thi lẽ công
bình, đã làm điều chính trực;
chính vì vậy mà mọi sự nên xuôi
xắn cho ông.
16 Ông đã phân xử công minh cho kẻ
nghèo hèn túng thiếu,
cũng vì vậy mà mọi sự nên xuôi
xắn cho ông.
Xử sự như vậy là biết Ta rồi đó!
Sấm ngôn của Ðức Chúa.
17 Còn ngươi, mắt ngươi đâu nhìn gì,
lòng ngươi đâu muốn gì nếu không
phải là tư lợi,
nếu không phải là máu người vô
tội ngươi có thể đổ ra,
nếu không phải là điều áp bức bạo
tàn
ngươi sẵn sàng thực hiện?
18 Vì thế, Ðức Chúa phán thế này
về vua Giu-đa là Giơ-hô-gia-kim,
con vua Giô-si-gia-hu:
Người ta sẽ chẳng khóc thương nó:
"Ôi, người anh em của tôi
ơi! Ôi, người chị em của tôi ơi!"
Người ta sẽ chẳng khóc thương nó:
"Ôi, chúa thượng! Ôi, đức
vua!"
19 Nó sẽ được chôn cất như một con
lừa:
người ta sẽ lôi, sẽ quẳng nó
tận bên ngoài các cổng thành
Giê-ru-sa-lem.
Lên án vua Giô-gia-khin
20 Hãy lên núi Li-băng mà kêu gào;
hãy cất tiếng trên dãy Ba-san;
hãy kêu gào từ dãy núi A-va-rim,
vì mọi kẻ yêu mến ngươi đã bị đè
bẹp.
21 Ta đã phán với ngươi lúc ngươi
được yên ổn,
nhưng ngươi đã nói: "Tôi
chẳng thèm nghe! "
Từ lúc còn trẻ, ngươi vẫn sống
như thế,
ngươi đâu có chịu nghe tiếng Ta.
22 Mọi kẻ chăn dắt ngươi sẽ bị gió
cuốn sạch,
những kẻ yêu mến ngươi sẽ phải đi
đày.
Thật vậy, bấy giờ ngươi sẽ phải
hổ ngươi bẽ mặt
vì mọi thói gian ác của ngươi.
23 Chính ngươi là kẻ đang cư ngụ
trên núi Li-băng,
tổ ấm của ngươi ở giữa các cây
hương bá.
Nhưng than ôi! Khi cơn đau ập
xuống thình lình,
ngươi sẽ phải rên siết quằn quại
như sản phụ lâm bồn!
24 Ta lấy mạng sống Ta mà thề - sấm
ngôn của Ðức Chúa - dù Khon-gia-hu vua Giu-đa, con của Giơ-hô-gia-kim, là chiếc
ấn Ta đeo ở tay hữu, Ta cũng sẽ rút ra. 25 Thật vậy, Ta sẽ nộp ngươi
vào tay những kẻ tìm hại mạng sống ngươi, vào tay những kẻ làm ngươi phải kinh
hãi khi giáp mặt, vào tay Na-bu-cô-đô-nô-xo vua Ba-by-lon, và vào tay người
Can-đê. 26 Ngươi và người mẹ đã sinh ra ngươi, Ta sẽ quẳng vào một
miền đất xa lạ không phải là nơi chôn nhau cắt rốn của các ngươi, nhưng là nơi
các ngươi sẽ phải nhắm mắt lìa đời. 27 Còn miền đất chúng những khát
khao mong mỏi trở về, chẳng bao giờ chúng được trở về đó.
28 Khon-gia-hu, con người ấy,
phải chăng là cái bình đất bể nát
tồi tàn,
một dụng cụ chẳng ai ngó ngàng
chi cả?
Tại sao nó và cả dòng dõi bị
quẳng đi,
bị ném vào một miền đất chúng
không hề biết đến?
29 Quê hương ơi! Ðất nước ơi! Hãy
nghe lời Ðức Chúa.
30 Ðức Chúa phán thế này: Hãy viết
về con người ấy:
"Ðứa tuyệt tự! Ðồ vứt
đi!"
Vì trong dòng dõi nó, sẽ chẳng có
ai thành đạt,
lên ngự trên ngai Ða-vít
và nắm quyền thống trị ở Giu-đa
nữa.
Chương 23
Lời sấm loan báo Ðấng Cứu Thế
Vị vua tương lai
1 Khốn thay những mục tử làm cho đoàn
chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác - sấm ngôn của Ðức Chúa - 2 Vì thế,
Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán như sau để lên án các mục tử, những người
chăn dắt dân Ta: chính các ngươi đã làm cho đoàn chiên của Ta phải tan tác; các
ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi
gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi - sấm ngôn của Ðức Chúa. 3 Chính
Ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta
sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng; chúng sẽ sinh sôi nảy nở thật nhiều. 4 Ta
sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng. Chúng sẽ
không còn phải hãi hùng, kinh khiếp và bị bỏ rơi nữa. Sấm ngôn của Ðức Chúa.
5 Này, sẽ tới những ngày - sấm ngôn
của Ðức Chúa
Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Ða-vít
một chồi non chính trực.
Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là
người khôn ngoan tài giỏi
trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều
chính trực công minh.
6 Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được cứu
thoát,
Ít-ra-en được sống yên hàn.
Danh hiệu người ta tặng vua ấy
sẽ là: "Ðức Chúa, sự công
chính của chúng ta."
7 Vì thế, này đây sẽ tới những ngày
- sấm ngôn của Ðức Chúa - người ta không còn nói như sau nữa: "Nhân danh
Ðức Chúa hằng sống, Ðấng đưa con cái Ít-ra-en lên khỏi đất Ai-cập!", 8
nhưng sẽ nói: "Nhân danh Ðức Chúa hằng sống, Ðấng đã đưa dòng dõi
nhà Ít-ra-en lên khỏi đất phương Bắc và khỏi mọi miền đất Người đã xua họ đến,
để họ được cư ngụ trên đất của họ!"
Tập sách nhỏ lên án các ngôn sứ
giả
9 Về các ngôn sứ: Tâm can tôi tan
nát, xương cốt tôi rã rời.
Tôi nên như người say, nên như
người bứ rượu,
cũng chỉ vì Ðức Chúa, vì thánh
ngôn của Người.
10 Xứ sở đầy dẫy quân ngoại tình;
quả thế, vì một lời nguyền rủa mà
xứ sở phải tang tóc,
mà các bãi chăn súc vật trong
hoang địa phải héo khô.
Chúng chỉ mau chân chạy theo
chuyện gian tà
và mạnh tay làm điều bất chính.
11 Quả thế, cả ngôn sứ lẫn tư tế đều
là quân vô đạo;
ngay trong Nhà của Ta, Ta cũng
thấy điều gian ác của chúng.
Sấm ngôn của Ðức Chúa.
12 Vì thế, đường chúng đi trở nên
trơn trượt;
chúng bị đẩy vào nơi tăm tối mịt
mù và té nhào trong đó.
Vì Ta sẽ khiến tai hoạ ập xuống
trên chúng,
vào năm chúng bị trừng phạt. Sấm
ngôn của Ðức Chúa.
13 Nơi các ngôn sứ ở Sa-ma-ri, Ta đã
thấy chuyện điên rồ:
Chúng đã tuyên sấm nhân danh
Ba-an
và làm cho Ít-ra-en, dân Ta, bị
lầm lạc.
14 Còn nơi các ngôn sứ ở
Giê-ru-sa-lem,
Ta đã thấy điều ghê tởm:
chúng phạm tội ngoại tình và sống
trong dối trá;
chúng tiếp tay cho bọn gian tà,
đến nỗi chẳng ai từ bỏ điều gian
ác mà trở lại.
Ðối với Ta, tất cả bọn chúng khác
nào Xơ-đôm,
và dân cư trong thành cũng giống
như Gô-mô-ra.
15 Vì vậy, để lên án các ngôn sứ ấy,
Ðức Chúa các đạo binh phán như
sau:
Này Ta sắp bắt chúng ngậm ngải
và uống nước ngâm thuốc độc,
bởi vì chính từ các ngôn sứ ở
Giê-ru-sa-lem
mà sự vô đạo đã lan tràn khắp xứ.
16 Ðức Chúa các đạo binh phán như
sau:
đừng nghe lời các ngôn sứ tuyên
sấm,
chúng phỉnh phờ các ngươi;
điều chúng nói chỉ là thị kiến do
tưởng tượng,
chứ không phải do miệng Ðức Chúa
phán ra.
17 Chúng dám nói với những kẻ khinh
miệt Ta:
"Ðức Chúa phán: anh em sẽ
được bình an!"
Và với những kẻ lòng chai dạ đá:
"Tai hoạ chẳng bao giờ ập
xuống anh em!"
18 Nhưng ai đã được họp bàn với Ðức
Chúa,
để chứng kiến và nghe lời Người?
Ai đã chú ý và nghe theo lời
Người?
19 Này trận cuồng phong của Ðức
Chúa,
cơn thịnh nộ của Người bừng lên,
cơn dông tố quay cuồng, nó ập
xuống đầu quân gian ác.
20 Cơn lôi đình của Ðức Chúa sẽ
không nguôi
cho đến khi Người thực hiện và
hoàn tất
mọi điều lòng Người đã quyết
định.
Ðiều ấy, các ngươi sẽ hiểu rõ sau
này.
21 Ta đã không phái các ngôn sứ ấy
đi, thế mà chúng lại chạy!
Ta đâu có bảo chúng, thế mà chúng
lại nói tiên tri!
22 Cuộc họp bàn của Ta, giả như
chúng có mặt,
thì chúng đã công bố lời Ta muốn
nói cho dân,
chúng đã giúp dân bỏ đường tà mà
trở lại
và bỏ các hành vi gian ác đã làm.
23 Phải chăng Ta chỉ là Thiên Chúa
khi ở gần,
chứ không phải Thiên Chúa khi ở
xa?
Sấm ngôn của Ðức Chúa.
24 Có ai ẩn mình trong nơi bí mật
mà Ta lại không thấy. Sấm ngôn
của Ðức Chúa.
Ta lại không làm cho trời đất đầy
tràn hay sao?
Sấm ngôn của Ðức Chúa.
25 Ta đã nghe các ngôn sứ nhân danh
Ta mà tuyên sấm dối trá rằng: "Tôi chiêm bao! Tôi đã chiêm bao!” 26 Cho
tới bao giờ trong hàng ngôn sứ còn có những kẻ tuyên sấm dối trá, những kẻ
tuyên sấm điều giả dối do lòng nghĩ tưởng ra. 27 Chúng kể cho nhau
nghe những giấc chiêm bao có ý làm cho dân Ta quên bẵng danh Ta, giống như cha
ông chúng đã quên danh Ta mà nhớ Ba-an! 28 Ngôn sứ có chiêm bao thì cứ thuật
lại giấc chiêm bao, còn người đón nhận lời Ta, thì hãy trung thành nói lại lời
Ta!
Rơm với lúa có gì chung nhau
không?
Sấm ngôn của Ðức Chúa.
29 Lời của Ta lại chẳng giống như
lửa,
chẳng giống như búa đập tan tảng
đá sao?
Sấm ngôn của Ðức Chúa.
30 Vì thế, này Ta chống lại các ngôn
sứ ăn cắp lời của Ta phán với kẻ này người kia - sấm ngôn của Ðức Chúa. 31
Này Ta chống lại các ngôn sứ dùng ba tấc lưỡi của mình mà tuyên sấm - sấm
ngôn của Ðức Chúa. 32 Này Ta chống lại những kẻ dựa vào những giấc
chiêm bao dối trá mà tuyên sấm - sấm ngôn của Ðức Chúa. Chúng kể lại những giấc
chiêm bao và làm cho dân Ta lầm lạc vì những điều dối trá cùng những chuyện
khoác lác ba hoa của chúng. Chính Ta, Ta đã không phái chúng đi, cũng chẳng
truyền lệnh cho chúng; đối với dân này, chúng thật vô tích sự. Sấm ngôn của Ðức
Chúa.
33 Và khi dân này hay một ngôn sứ
hoặc một tư tế hỏi ngươi: "Cái gì là gánh nặng của Ðức Chúa?", ngươi
sẽ trả lời chúng: "Chính các ngươi là gánh nặng, và Ta sẽ quẳng các người
đi, sấm ngôn của Ðức Chúa!"
34 Và ngôn sứ hay tư tế hoặc kẻ nào
trong dân nói: "Gánh nặng của Ðức Chúa!" thì Ta sẽ trừng phạt nó và
nhà nó. 35 Các ngươi hãy bảo nhau thế này: "Ðức Chúa trả lời
sao?" và "Ðức Chúa phán dạy điều chi?” 36 Còn "Gánh
nặng của Ðức Chúa", các ngươi không được nói đến nữa, vì lời của ai sẽ là
gánh nặng cho người ấy, bởi vì các người đã làm biến nghĩa lời của Thiên Chúa
hằng sống, Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa chúng ta! 37 Ngươi sẽ nói với ngôn
sứ ấy như sau: "Ðức Chúa trả lời sao?" hoặc "Ðức Chúa phán dạy
điều chi?” 38 Nhưng nếu các ngươi nói: "Gánh nặng của Ðức
Chúa!", thì Ðức Chúa phán như sau: Vì các ngươi nói: "Gánh nặng của
Ðức Chúa!" dù Ta đã sai người đến bảo các ngươi rằng: Các ngươi đừng nói:
"Gánh nặng của Ðức Chúa!” 39 thì này Ta sẽ bốc các ngươi lên và
quẳng các ngươi cũng như thành Ta đã ban cho các ngươi và cha ông các ngươi cho
khuất mặt Ta. 40 Ta sẽ để cho các ngươi phải sỉ nhục muôn đời, phải
bẽ bàng mãi mãi không thể nào quên.
Chương 24
Hai thúng vả
1 Ðức Chúa đã cho tôi thấy hai
thúng vả đặt ở trước thánh điện của Ðức Chúa. Việc này xảy ra sau khi
Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, đã phát lưu khỏi Giê-ru-sa-lem:
Giơ-khon-gia-hu vua Giu-đa, con vua Giơ-hô-gia-kim, các thủ lãnh Giu-đa, thợ
rèn và thợ làm khoá; vua ấy điệu họ về Ba-by-lon. 2 Hai thúng vả ấy,
một thúng rất tốt, tựa như vả đầu mùa; còn một thúng rất xấu, xấu đến nỗi không
ăn được. 3 Bấy giờ Ðức Chúa phán với tôi: "Này Giê-rê-mi-a,
ngươi thấy cái gì?" Tôi đáp: "Thưa những trái vả: những trái vả tốt
thì rất tốt, còn những trái vả xấu thì rất xấu, xấu đến nỗi không ăn được!” 4
Bấy giờ có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng: 5 Ðức Chúa, Thiên Chúa
Ít-ra-en, phán như sau: Như những trái vả tốt kia, đoàn người Giu-đa lưu đày
biệt xứ đã bị Ta đưa ra khỏi nơi này đến xứ người Can-đê, Ta cũng sẽ đoái nhìn
và giáng phúc cho như vậy. 6 Ta sẽ ghé mắt nhìn để ban phúc và sẽ
đưa chúng trở về đất này; Ta sẽ xây chứ không phá, sẽ trồng chứ không nhổ. 7
Ta sẽ ban cho chúng một tâm hồn để nhận biết rằng chính Ta là Ðức Chúa.
Chúng sẽ là dân của Ta, còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng; bởi vì chúng sẽ
hết lòng trở về với Ta. 8 Nhưng cũng như những trái vả xấu, xấu đến
nỗi không thể ăn được - quả thật, Ðức Chúa phán như sau - Ta cũng sẽ xử như thế
với Xít-ki-gia-hu vua Giu-đa, với các thủ lãnh của vua ấy và với phần còn lại ở
Giê-ru-sa-lem, những người còn sống sót trong xứ này và những người cư ngụ
trong đất Ai-cập. 9 Ta sẽ khiến chúng trở nên mối kinh hoàng và tai
hoạ cho mọi vương quốc trên cõi đất, nên trò ô nhục, lời đàm tiếu, đầu đề châm
chọc và lời nguyền rủa cho mọi nơi Ta đã xua chúng đến. 10 Ðể trừng
phạt chúng, Ta sẽ bắt chúng phải chịu cảnh gươm đao, đói kém và ôn dịch, cho
tới khi chúng biến sạch khỏi miền đất Ta đã ban cho chúng cũng như cho cha ông
chúng.
Chương 25
4. Ba-By-Lon, Tai Ương Ðức Chúa
Gửi Ðến
1 Có lời phán với ông Giê-rê-mi-a
liên quan đến toàn dân Giu-đa, vào năm thứ tư triều Giơ-hô-gia-kim, con vua
Giô-si-gia-hu, làm vua Giu-đa - cũng là năm thứ nhất triều Na-bu-cô-đô-nô-xo,
vua Ba-by-lon - 2 Lời đó, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã công bố cho toàn dân Giu-đa và
cho mọi người cư ngụ ở Giê-ru-sa-lem, lời đó như sau:
3 Kể từ năm thứ mười ba triều
Giô-si-gia-hu, con vua A-môn, làm vua Giu-đa cho đến hôm nay, tính ra đã được
hai mươi ba năm, lời Ðức Chúa phán với tôi và tôi đã không ngừng công bố cho
anh em, nhưng anh em đã chẳng thèm nghe! 4 Hơn nữa, Ðức Chúa lại đã không ngừng
phái đến với anh em tất cả các tôi tớ của Người là các ngôn sứ, nhưng anh em đã
chẳng thèm nghe, cũng chẳng thèm lưu ý. 5 Người phán rằng: "Hãy
trở về đi, mỗi người hãy bỏ con đường xấu xa, bỏ những hành vi gian ác của
mình, rồi các ngươi sẽ được cư ngụ trên miền đất mà Ðức Chúa đã ban cho các
ngươi và cha ông các ngươi từ muôn thuở cho đến muôn đời. 6 Ðừng
chạy theo các thần khác mà thờ phượng và sụp lạy chúng, cũng đừng chọc giận Ta
bằng những việc tay các ngươi làm, rồi Ta sẽ thôi không giáng hoạ cho các ngươi
nữa. 7 Nhưng các ngươi đã chẳng chịu nghe Ta - sấm ngôn của Ðức Chúa
- cứ chọc giận Ta bằng những việc tay các ngươi làm mà chuốc lấy tai hoạ.
8 Vì thế, Ðức Chúa các đạo binh
phán: Vì các ngươi đã không thèm nghe các lời của Ta, 9 thì này Ta
cho vời tất cả các thị tộc phương Bắc cùng với Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua
Ba-by-lon, tôi tớ của Ta - sấm ngôn của Ðức Chúa. Ta sẽ đưa tất cả đến đánh xứ
này và dân cư của nó cùng mọi dân tộc xung quanh; Ta sẽ loại trừ chúng, sẽ biến
chúng nên đồ kinh tởm, nên đề tài trào phúng, nên chốn điêu tàn vạn cổ. 10
Ta sẽ làm cho nơái chúng ở im bặt tiếng reo mừng hỷ hoan và tiếng hát của
cô dâu chú rể, cũng như tiếng cối xay và ánh đèn. 11 Tất cả xứ này
sẽ nên chốn điêu tàn đổ nát và các dân ấy sẽ phải làm tôi vua Ba-by-lon trong
bảy mươi năm. 12 Nhưng khi mãn bảy mươi năm, Ta sẽ viếng thăm để
trừng phạt vua Ba-by-lon và dân ấy - sấm ngôn của Ðức Chúa - vì tội lỗi của
chúng, cũng như trừng phạt xứ Can-đê và biến nó thành chốn điêu tàn vạn cổ. 13
Mọi lời Ta đã phán về xứ ấy, mọi điều đã được viết trong sách này, Ta sẽ
thực hiện để trừng phạt nó.
II. Mở Ðầu Các Lời Sấm Lên Án Các
Dân Ngoại
Thị kiến cái chén
Ðây là điều ông Giê-rê-mi-a đã
tuyên sấm để lên án tất cả các dân tộc.
14 Vì cả chúng nữa, chúng cũng sẽ bị
các dân tộc hùng cường và các vua chúa quyền uy bắt làm tôi, và Ta sẽ trả cho
chúng tuỳ theo những hành vi và những việc tay chúng làm.
15 Thật vậy, Ðức Chúa, Thiên Chúa
Ít-ra-en, phán với tôi như sau: Ngươi hãy cầm lấy từ tay Ta chén rượu tức là
cơn lôi đình, và ngươi hãy bắt mọi dân tộc mà Ta sai ngươi đến phải uống chén
ấy. 16 Chúng sẽ uống vào, sẽ lảo đảo và hoá ra điên dại vì lưỡi gươm
mà chính Ta sẽ gửi cho chúng. 17 Tôi đã cầm lấy chén từ tay Ðức Chúa
và tôi đã bắt mọi dân mà Ðức Chúa sai tôi đến phải uống. 18 Ðó là
Giê-ru-sa-lem và các thành miền Giu-đa, các vua chúa và các thủ lãnh của thành,
để biến chúng nên chốn hoang tàn, nên đồ kinh tởm, nên đề tài trào phúng và đầu
đề châm chọc; 19 đó là Pha-ra-ô vua Ai-cập, các bề tôi, các thủ lãnh
và toàn dân của vua ấy; 20 đó là tất cả đám đông hỗn tạp; tất cả các
vua xứ Út; tất cả các vua xứ Phi-li-tinh: Át-cơ-lôn, Ga-da, Éc-rôn và phần dân
Át-đốt còn sót lại; 21 là Ê-đôm, Mô-áp và con cái Am-mon; 22 là
tất cả các vua Tia, tất cả các vua Xi-đôn và tất cả các vua ở hải đảo bên kia
biển; 23 là Ðơ-đan, Tê-ma, Bút, tất cả những dân cạo tóc hai bên
thái dương; 24 là tất cả các vua Ả-rập, tất cả các vua của đám đông
hỗn tạp định cư trong sa mạc; 25 là tất cả các vua Dim-ri, tất cả
các vua Ê-lam, tất cả các vua Mê-đi. 26 Tất cả các vua phương Bắc,
gần cũng như xa, kẻ trước người sau và mọi vương quốc trên cõi đất, trên mặt
đất này. Còn vua Sê-sác sẽ uống sau cùng.
27 Ngươi sẽ nói với chúng: Ðức Chúa
các đạo binh, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán như sau: Hãy uống cho say! Hãy mửa ra
và ngã vật xuống, không còn chỗi dậy nổi trước lưỡi gươm mà chính Ta phóng vào
giữa các ngươi. 28 Nếu chúng từ chối không nhận lấy chén từ tay
ngươi mà uống, thì ngươi sẽ bảo chúng: Ðức Chúa các đạo binh phán như sau: Thế
nào các ngươi cũng phải uống! 29 Vì này, cả chính thành kêu cầu Danh Ta, Ta còn
gieo tai giáng hoạ, thì huống hồ các ngươi? Không! Các ngươi không được yên
đâu, vì chính Ta cho phóng gươm để trừng phạt mọi dân cư trên cõi đất. Sấm ngôn
của Ðức Chúa các đạo binh.
30 Còn ngươi, ngươi hãy tuyên
sấm cho chúng biết tất cả những
lời trên đây; ngươi hãy bảo chúng:
Từ trên cao Ðức Chúa rống lên,
từ thánh điện của Người, Người
lên tiếng,
Người rống lên vang dội để kết án
lãnh địa của Người,
Người cất tiếng reo hò của những
người đạp nho
để trừng phạt toàn dân cư trên
cõi đất.
31 Tận cùng cõi đất còn vang tiếng
ồn ào,
vì Ðức Chúa đứng ra tố cáo muôn
dân,
chính Người ngự toà xét xử mọi
xác phàm,
phường gian ác, Người để mặc cho
gươm chém.
Sấm ngôn của Ðức Chúa.
32 Ðức Chúa các đạo binh phán như
sau:
Này tai hoạ lan tràn
từ dân tộc này đến dân tộc khác;
và một trận cuồng phong dữ dội
nổi lên
từ những miền xa xăm của cõi đất.
33 Ngày ấy, những xác chết do Ðức
Chúa đánh phạt sẽ ngổn ngang khắp mặt đất. Chúng chẳng được khóc thương, chẳng
được thu lượm, chẳng được chôn cất. Chúng hoá thành phân bón trên mặt đất.
34 Hỡi các mục tử, hãy rên siết, hãy
kêu gào.
Hỡi những người thống lãnh đoàn
chiên, hãy lăn lộn trên đất,
vì đã đến ngày các ngươi bị hạ
sát và tán loạn,
các ngươi sẽ rơi xuống như chiếc
bình quý giá.
35 Mục tử chẳng còn nơi náu ẩn,
kẻ thống lãnh đoàn chiên hết
đường thoát thân.
36 Người ta nghe tiếng kêu than của
các mục tử,
tiếng rên siết của những kẻ thống
lãnh đoàn chiên,
vì Ðức Chúa đã phá tan đồng cỏ
của chúng.
37 Những bãi cỏ yên hàn đã thành nơi
lặng lẽ,
vì Ðức Chúa nổi cơn lôi đình
thịnh nộ!
38 Con sư tử đã ra khỏi lùm cây;
xứ sở của chúng đã nên chốn hoang
tàn,
vì cơn lôi đình tàn khốc, vì cơn
lôi đình thịnh nộ.
Chương 26
III. Các Lời Tuyên Sấm Báo Phúc
1. Mở Ðầu. Ông Giê-Rê-Mi-A Là
Ngôn Sứ Thật.
Ông Giê-rê-mi-a bị bắt và bị xử
1 Vào đầu triều Giơ-hô-gia-kim, con
vua Giô-si-gia-hu, làm vua Giu-đa, có lời sau đây từ Ðức Chúa gửi đến: 2 Ðức
Chúa phán như sau: Ngươi hãy đứng ở tiền đình Nhà Ðức Chúa và công bố để lên án
mọi người thuộc các thành Giu-đa đang đến thờ lạy trong Nhà Ðức Chúa. Ngươi hãy
công bố cho chúng mọi lời Ta truyền cho ngươi, đừng bớt lời nào. 3 May
ra chúng sẽ nghe và mỗi người sẽ bỏ con đường xấu xa của mình mà trở lại, bấy
giờ Ta sẽ hối tiếc về tai hoạ chính Ta đang định giáng trên chúng vì những hành
vi gian ác của chúng. 4 Ngươi hãy bảo chúng: Ðức Chúa phán như sau:
Nếu các ngươi không chịu nghe Ta mà sống theo Lề Luật Ta đã đưa ra trước mặt
các ngươi, 5 nếu các ngươi không chịu nghe lời các ngôn sứ, tôi tớ
của Ta, những người chính Ta không ngừng sai đến với các ngươi, - nhưng các
ngươi đã chẳng chịu nghe -, 6 Ta sẽ xử với Nhà này như với Si-lô;
còn thành này, Ta sẽ cho mọi dân tộc trên cõi đất dùng làm lời nguyền rủa.
7 Các tư tế, các ngôn sứ và toàn
dân đã nghe ông Giê-rê-mi-a công bố những lời trên đây trong nhà Ðức Chúa. 8
Sau khi ông Giê-rê-mi-a đã nói mọi điều Ðức Chúa truyền cho ông phải công
bố cho toàn dân, thì các tư tế, các ngôn sứ và toàn dân túm lấy ông mà bảo:
"Thế nào ông cũng phải chết! 9 Tại sao ông lại dám nhân danh Ðức Chúa mà
tuyên sấm rằng: Nhà này sẽ nên như Si-lô, còn thành này sẽ ra điêu tàn, không
ai cư ngụ?" Toàn dân đã tụ tập quanh ông Giê-rê-mi-a, trong nhà Ðức Chúa. 10
Nghe biết những chuyện ấy, các thủ lãnh Giu-đa đã rời đền vua mà lên Nhà
Ðức Chúa; họ đã ngồi xét xử ở lối vào Nhà Ðức Chúa, tại Cửa Mới.
11 Bấy giờ, các tư tế và ngôn sứ nói
với các thủ lãnh và toàn dân rằng: "Con người này đáng lãnh án tử, vì ông
ta đã tuyên sấm chống lại thành này, như chính tai các ông đã nghe!"
12 Nhưng ông Giê-rê-mi-a đã trả lời
tất cả các thủ lãnh và toàn dân như sau: "Chính Ðức Chúa đã sai tôi tuyên
sấm mọi lời liên quan đến Nhà này cũng như thành này mà các người đã nghe. 13
Vậy giờ đây, các người hãy cải thiện đường lối và hành vi của các người
và hãy nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của các người; bấy giờ Ðức Chúa sẽ hối
tiếc về tai hoạ Người đã quyết định để lên án các người. 14 Còn tôi,
này tôi ở trong tay các người, các người cứ xử với tôi thế nào như các người
coi là tốt đẹp và chính đáng. 15 Có điều xin các người biết rõ cho
rằng: Nếu các người giết tôi, thì chính các người sẽ phải chuốc lấy máu vô tội
cho mình, cho thành này và dân cư trong thành. Vì quả thật là Ðức Chúa đã sai
tôi đến với các người để công bố cho các người nghe tất cả những điều trên
đây."
16 Bấy giờ, các thủ lãnh và toàn dân
nói với các tư tế và ngôn sứ: "Con người này không đáng lãnh án tử, vì ông
ta đã nói với chúng ta nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta.” 17 Bấy
giờ có mấy người thuộc hàng kỳ mục trong xứ đứng lên nói với đại hội toàn dân
rằng: 18 "Ông Mi-kha, người Mô-re-sét, đã tuyên sấm vào thời
vua Giu-đa là Khít-ki-gia; ông ấy đã nói với toàn dân Giu-đa rằng: "Ðức
Chúa các đạo binh phán như sau: Xi-on sẽ thành ruộng cày, Giê-ru-sa-lem sẽ nên
chốn tan hoang, và núi Ðền Thờ hoá ra nơi cao rậm rạp!"
19 Có phải vì thế mà vua Giu-đa là
Khít-ki-gia và toàn thể Giu-đa đã xử tử ông ấy? Há chẳng phải vua đã kính sợ
Ðức Chúa và làm cho nét mặt Ðức Chúa dịu lại, khiến Ðức Chúa hối tiếc về tai
hoạ Người đã quyết định để lên án họ hay sao? Còn chúng ta, chính chúng ta lại
muốn chuốc lấy cho mình một tai hoạ lớn lao như thế!"
20 Cũng có một người nữa đã tuyên
sấm nhân danh Ðức Chúa, đó là ông U-ri-gia-hu, con ông Sơ-ma-gia-hu, người
Kia-giát Giơ-a-rim; ông đã tuyên sấm để lên án thành này và xứ này, với những
lời lẽ tương tự như ông Giê-rê-mi-a. 21 Bấy giờ vua Giơ-hô-gia-kim,
cùng với tất cả các dũng sĩ của vua và tất cả các thủ lãnh nghe những lời ông
nói, đã tìm cách giết ông. Nghe tin ấy, ông U-ri-gia-hu sợ hãi, chạy trốn và
sang tới Ai-cập. 22 Nhưng vua Giơ-hô-gia-kim đã phái En-na-than con
ông Ác-bo và một số người cùng với ông ấy đi sang Ai-cập. 23 Chúng
đưa ông U-ri-gia-hu từ Ai-cập về và đem nộp cho vua Giơ-hô-gia-kim. Vua đã dùng
gươm giết chết ông và ném xác vào mồ tập thể. 24 Còn ông Giê-rê-mi-a
thì được ông A-khi-cam con ông Sa-phan ra tay che chở cho khỏi rơi vào tay dân
mà bị giết.
Chương 27
2. Tập Sách Nhỏ Gửi Dân Lưu Ðày
Ý nghĩa tượng trưng của cái ách
Sứ điệp gửi các vua phương Ðông
1 Vào đầu triều Xít-ki-gia-hu, con
vua Giô-si-gia-hu, làm vua Giu-đa, có lời Ðức Chúa phán với ông Giê-rê-mi-a như
sau:
2 Ðức Chúa phán với tôi rằng: Ngươi
hãy bện dây thừng và làm một cái gông rồi đeo vào cổ. 3 Sau đó,
ngươi hãy gửi một sứ điệp cho vua Ê-đôm, vua Mô-áp, vua dân Am-mon, vua Tia,
vua Xi-đôn, qua trung gian các sứ giả chúng gửi đến Giê-ru-sa-lem để gặp
Xít-ki-gia-hu, vua Giu-đa. 4 Ngươi hãy truyền lệnh cho chúng phải
thưa với chủ mình rằng: "Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán
thế này: Các ông hãy thưa với chủ của các ông như sau: 5 Chính Ta đã
làm nên cõi đất, con người và súc vật trên mặt đất, nhờ sức mạnh lớn lao và
cánh tay uy quyền của Ta; Ta ban cõi đất này cho ai vừa mắt Ta. 6 Vậy
giờ đây, chính Ta trao tất cả các xứ này vào tay Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua
Ba-by-lon, là tôi tớ của Ta; ngay cả giống vật ngoài đồng, Ta cũng trao cho nó
sử dụng. 7 Mọi dân tộc sẽ phải làm tôi nó cũng như con cháu nó, cho
tới khi đến thời của xứ sở nó, đến lượt nó phải làm tôi các dân tộc mạnh mẽ và
các vua chúa hùng cường. 8 Vậy, dân tộc nào hoặc vương quốc nào
không làm tôi nó, tức là Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, và không chịu quàng
ách của vua Ba-by-lon vào cổ mình, thì Ta sẽ dùng gươm đao, đói kém và ôn dịch
mà viếng thăm dân tộc ấy - sấm ngôn của Ðức Chúa - cho đến khi Ta dùng tay nó
mà làm cho dân tộc ấy biến mất hoàn toàn. 9 Phần các ngươi, đừng
nghe lời các ngôn sứ, các tay bói toán, giải mộng, chiêm tinh, phù thủy của các
ngươi; chính chúng đã nói với các ngươi rằng: "Anh em sẽ không phải làm
tôi vua Ba-by-lon đâu!” 10 Thực ra, chúng chỉ tuyên sấm điều dối trá
để làm cho các ngươi phải xa rời đất nước của các ngươi, khiến Ta phải xua đuổi
và tiêu diệt các ngươi. 11 Nhưng dân tộc nào đưa cổ nhận ách của vua
Ba-by-lon mà làm tôi nó, Ta sẽ cho dân tộc ấy ở lại trên đất nước mình - sấm
ngôn của Ðức Chúa -, dân ấy sẽ trồng trọt và cư ngụ trên đó. 12 Còn
về Xít-ki-gia-hu, vua Giu-đa, Ta cũng phán với nó những điều tương tự:
"Các ngươi hãy đưa cổ nhận ách của vua Ba-by-lon mà làm tôi nó cũng như
dân nó, và các ngươi sẽ được sống. 13 Sao ngươi và dân ngươi lại
muốn chết vì gươm đao, đói kém và ôn dịch, như lời Ðức Chúa đã phán với dân tộc
không chịu làm tôi vua Ba-by-lon? 14 Các ngươi chớ nghe lời các ngôn sứ, những
kẻ nói với các ngươi rằng: "Anh em sẽ không phải làm tôi vua Ba-by-lon
đâu!" Thực ra, chúng chỉ tuyên sấm điều dối trá cho các ngươi. 15 Quả
vậy, Ta chẳng sai chúng - sấm ngôn của Ðức Chúa -, chúng chỉ nhân danh Ta mà
tuyên sấm điều dối trá, khiến Ta phải xua đuổi và tiêu diệt các ngươi cũng như
các ngôn sứ đã tuyên sấm cho các ngươi."
16 Còn về các tư tế và toàn dân này,
Ta phán như sau: "Ðức Chúa phán: Chớ nghe lời các ngôn sứ của các ngươi
tuyên sấm cho các ngươi rằng: Này, các đồ dùng của Nhà Ðức Chúa đang sắp được
đưa từ Ba-by-lon về ngay lập tức, không trì hoãn! Thực ra, chúng chỉ tuyên sấm
điều dối trá cho các ngươi. 17 Chớ nghe theo chúng. Cứ làm tôi vua
Ba-by-lon và các ngươi sẽ được sống. Tại sao thành này lại hoá ra một đống
hoang tàn? 18 Còn nếu chúng là ngôn sứ, nếu có lời Ðức Chúa ở với chúng, thì
chúng chỉ việc xin Ðức Chúa các đạo binh giữ các đồ dùng còn sót lại trong Nhà
Ðức Chúa, trong đền vua Giu-đa và ở Giê-ru-sa-lem khỏi bị đưa sang Ba-by-lon!
19 Quả thật, Ðức Chúa các đạo binh phán như sau về các trụ đồng, các bể nước,
các giàn lăn và các đồ dùng khác còn sót lại trong thành này, 20 những
thứ không bị Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, lấy đi, khi nó bắt Giơ-khon-gia,
con của Giơ-hô-gia-kim, vua Giu-đa, phải lưu đày sang Ba-by-lon, cũng như các
thân hào Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 21 Vì Ðức Chúa các đạo binh, Thiên
Chúa Ít-ra-en, phán như sau về các đồ dùng còn sót lại trong Nhà Ðức Chúa,
trong đền vua Giu-đa và ở Giê-ru-sa-lem: 22 Những thứ ấy sẽ bị đem
sang Ba-by-lon và sẽ lưu lại đó cho tới ngày Ta để ý đến - sấm ngôn của Ðức
Chúa. Bấy giờ Ta sẽ đưa những thứ ấy lên và đem về lại chốn này."
Chương 28
Tranh cãi với ngôn sứ Kha-nan-gia
1 Cũng năm ấy, vào đầu triều
Xít-ki-gia-hu, vua Giu-đa, hồi tháng năm, năm thứ tư, ngôn sứ Kha-nan-gia, con
ông Át-dua, người Ghíp-ôn, nói với tôi trong Nhà Ðức Chúa, trước mặt các tư tế
và toàn dân rằng: 2 "Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa
Ít-ra-en, phán như sau: Ta sẽ bẻ gãy ách của vua Ba-by-lon. 3 Còn
hai năm nữa, Ta sẽ đem về nơi này mọi đồ dùng trong Nhà Ðức Chúa, mà
Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, đã lấy ra khỏi nơi này đưa sang Ba-by-lon. 4
Cả Giơ-khon-gia, con của Giơ-hô-gia-kim, vua Giu-đa và tất cả những người
Giu-đa bị lưu đày sang Ba-by-lon, chính Ta sẽ dẫn chúng về nơi đây, - sấm ngôn
của Ðức Chúa -, vì Ta bẻ gãy ách của vua Ba-by-lon!"
5 Bấy giờ ngôn sứ Giê-rê-mi-a trả
lời ngôn sứ Kha-nan-gia trước mặt các tư tế và toàn dân đang đứng trong Nhà Ðức
Chúa. 6 Ngôn sứ Giê-rê-mi-a nói: "A-men! Ước gì Ðức Chúa làm
như thế! Ước gì Người thực hiện các điều ông vừa tuyên sấm, và đưa các đồ dùng
trong Nhà Ðức Chúa cũng như tất cả những người lưu đày từ Ba-by-lon trở lại nơi
này. 7 Nhưng xin ông lưu ý đến lời tôi sắp nói cho ông và cho toàn
dân nghe đây: 8 Các ngôn sứ có trước tôi và ông từ ngàn xưa đã tuyên
sấm về nhiều xứ sở và vương quốc hùng mạnh, là sẽ có chiến tranh, tai ương và
ôn dịch; 9 còn ngôn sứ nào tuyên sấm có bình an, thì chỉ khi nào lời
ngôn sứ ấy ứng nghiệm, ông mới được nhìn nhận là ngôn sứ Ðức Chúa sai đến thật
sự!"
10 Bấy giờ ngôn sứ Kha-nan-gia tháo
cái gông ra khỏi cổ ngôn sứ Giê-rê-mi-a và bẻ gãy. 11 Rồi ông
Kha-nan-gia nói trước mặt toàn dân rằng: "Ðức Chúa phán như sau: Cũng
giống như thế, hai năm nữa, Ta sẽ bẻ gãy cái ách của Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua
Ba-by-lon, không còn để nó đè trên cổ mọi dân tộc." Sau đó ngôn sứ
Giê-rê-mi-a bỏ đi.
12 Nhưng, sau khi ngôn sứ
Kha-nan-gia bẻ gãy cái gông mà ông đã tháo ra khỏi cổ ngôn sứ Giê-rê-mi-a, có
lời Ðức Chúa phán với ông Giê-rê-mi-a rằng: 13 "Hãy đi nói với
Kha-nan-gia: Ðức Chúa phán như sau: Ngươi đã bẻ gãy những cái gông bằng gỗ, thì
hãy làm những cái gông bằng sắt thế vào! 14 Quả thật, Ðức Chúa các đạo binh,
Thiên Chúa Ít-ra-en, phán như sau: Ta sẽ quàng một cái ách bằng sắt vào cổ tất
cả các dân tộc này, khiến chúng phải làm tôi Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon,
và chúng sẽ làm tôi nó. Ngay cả những giống vật ngoài đồng, Ta cũng trao cho
nó."
15 Khi ấy, ngôn sứ Giê-rê-mi-a nói
với ngôn sứ Kha-nan-gia: "Ông Kha-nan-gia, hãy nghe đây, Ðức Chúa chẳng hề
sai ông, thế mà ông lại làm cho dân này tin vào điều dối trá. 16 Bởi
thế, Ðức Chúa phán như sau: Này, Ta sẽ bứng ngươi ra khỏi mặt đất: Ngay năm
nay, ngươi sẽ phải chết vì ngươi đã hô hào nổi loạn chống Ðức Chúa."
17 Ngôn sứ Kha-nan-gia đã chết vào
tháng bảy năm ấy.
Chương 29
Thư gửi người lưu đày
1 Ðây là những lời lẽ trong bức thư
ngôn sứ Giê-rê-mi-a gửi từ Giê-ru-sa-lem cho các kỳ mục còn sót lại trong đám
người lưu đày, cho các tư tế, các ngôn sứ và toàn dân đã bị Na-bu-cô-đô-nô-xo
đưa từ Giê-ru-sa-lem đày sang Ba-by-lon, 2 sau khi vua Giơ-khon-gia,
thái hậu, các thái giám, thủ lãnh Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, các thợ rèn và thợ
làm khoá rời khỏi Giê-ru-sa-lem. 3 Lá thư này do ông En-a-xa, con
ông Sa-phan và ông Gơ-mác-gia con ông Khin-ki-gia mang đi; hai ông này đã được
Xít-ki-gia-hu, vua Giu-đa sai đến Ba-by-lon gặp vua Ba-by-lon là
Na-bu-cô-đô-nô-xo. Thư viết như sau:
4 "Ðức Chúa các đạo binh,
Thiên Chúa Ít-ra-en, phán thế này với tất cả những người lưu đày mà Ta đã đưa
từ Giê-ru-sa-lem sang Ba-by-lon: 5 Các ngươi hãy xây nhà mà ở, trồng
cây mà ăn trái;6 hãy lấy vợ và sinh con đẻ cái; hãy cưới vợ cho con trai và gả
chồng cho con gái các ngươi để chúng sinh con đẻ cái; ở đó hãy tăng thêm nhiều
chứ đừng giảm bớt! 7 Hãy mưu tìm thịnh vượng cho thành mà Ta đã đày các ngươi
tới; hãy cầu nguyện cùng Ðức Chúa cho thành ấy, vì sự thịnh vượng của nó cũng
là sự thịnh vượng của các ngươi. 8 Quả vậy, Ðức Chúa các đạo binh,
Thiên Chúa Ít-ra-en, phán như sau: Các ngươi chớ để cho mình bị lầm lạc vì các
ngôn sứ đang ở giữa các ngươi, cũng như vì các tay bói toán; đừng tin theo mộng
mị các ngươi mơ thấy, 9 bởi vì chúng chỉ nhân danh Ta mà tuyên sấm
điều dối trá cho các ngươi. Ta chẳng hề sai chúng - sấm ngôn của Ðức Chúa. 10
Quả thế, Ðức Chúa phán như sau: Khi mãn bảy mươi năm dành cho Ba-by-lon,
Ta sẽ thăm viếng các ngươi và sẽ thực hiện lời báo phúc cho các ngươi là đưa
các ngươi trở lại chốn này. 11 Vì chính Ta biết các kế hoạch Ta định
làm cho các ngươi - sấm ngôn của Ðức Chúa -, kế hoạch thịnh vượng, chứ không
phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng. 12 Bấy
giờ các ngươi kêu cầu Ta, các ngươi đến cầu nguyện với Ta, Ta sẽ nhận lời các
ngươi. 13 Các ngươi sẽ tìm Ta và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi
sẽ hết lòng kiếm Ta, 14 Ta sẽ cho các ngươi được gặp - sấm ngôn của
Ðức Chúa. Ta sẽ đổi vận mạng của các ngươi và sẽ thu họp các ngươi về từ khắp
các dân, từ mọi nơi Ta đã xua các ngươi đến - sấm ngôn của Ðức Chúa -, Ta sẽ
dẫn các ngươi trở về nơi Ta đã bắt các ngươi phải rời xa để đi đày.
15 Bởi vì các ngươi nói: "Ở
Ba-by-lon, Ðức Chúa đã cho xuất hiện các ngôn sứ để giúp chúng ta.” 16 Quả
vậy, Ðức Chúa phán như sau về nhà vua đang ngự trên ngai vàng Ða-vít, về toàn
dân đang cư ngụ trong thành ấy, tức là những người anh em của các ngươi đã
không cùng đi lưu đày với các ngươi. 17 Ðức Chúa các đạo binh phán
như sau: Này Ta sắp gửi đến cho các ngươi gươm đao, đói kém và ôn dịch. Ta sẽ
làm cho chúng nên như những trái vả hư, xấu đến nỗi không ăn được. 18 Ta
sẽ cho gươm đao, đói kém và ôn dịch rượt theo chúng. Ta sẽ biến chúng nên nỗi
kinh hoàng cho mọi vương quốc trên cõi đất, nên lời nguyền rủa, nên đồ kinh
tởm, nên đề tài trào phúng, nên trò ô nhục cho mọi dân tộc ở nơi Ta đã xua
chúng đến. 19 Chính vì chúng không nghe các lời của Ta - sấm ngôn
của Ðức Chúa - dầu Ta vẫn không ngừng sai các tôi tớ của Ta là các ngôn sứ đến
với chúng, nhưng các ngươi chẳng chịu nghe - sấm ngôn của Ðức Chúa. 20 Phần
các ngươi, hỡi tất cả những người Ta đã đưa từ Giê-ru-sa-lem sang lưu đày ở
Ba-by-lon, hãy nghe lời Ðức Chúa.
21 Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa
Ít-ra-en, phán thế này về A-kháp con ông Cô-la-gia, cũng như về Xít-ki-gia-hu
con ông Ma-a-xê-gia, những kẻ nhân danh Ta mà tuyên sấm điều dối trá cho các
ngươi: Này, Ta sắp trao chúng vào tay Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon; nó sẽ
hạ sát chúng ngay trước mắt các ngươi. 22 Số phận chúng sẽ được đem
ra làm lời nguyền rủa lưu truyền trong tất cả đám người Giu-đa lưu đày ở
Ba-by-lon rằng: "Ước gì Ðức Chúa xử với ngươi như với Xít-ki-gia-hu và
A-kháp, những người đã bị vua Ba-by-lon nướng cháy!” 23 Chính vì
chúng đã làm điều đồi bại trong Ít-ra-en, đã ngoại tình với vợ người đồng loại,
và đã nhân danh Ta mà nói điều dối trá, dù Ta không truyền dạy. Nhưng Ta, Ta
biết và Ta làm chứng - sấm ngôn của Ðức Chúa.
Lời sấm lên án ông Sơ-ma-gia-hu
24 Còn về Sơ-ma-gia-hu người
Ne-khe-lam, ngươi sẽ nói rằng: 25 Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa
Ít-ra-en, phán thế này: Bởi vì chính ngươi đã nhân danh mình gửi cho toàn dân ở
Giê-ru-sa-lem, cho tư tế Xơ-phan-gia, con Ma-a-xê-gia và cho tất cả các tư tế,
một bức thư như sau: 26 "Ðức Chúa đã đặt ông làm tư tế thay cho
tư tế Giơ-hô-gia-đa, để ông làm quản đốc Nhà Ðức Chúa, phòng khi có kẻ nào nổi
điên muốn làm ngôn sứ, thì ông phải cùm hoặc xích nó lại. 27 Vậy tại
sao ông không ngăn cản Giê-rê-mi-a người A-na-thốt, kẻ đang tuyên sấm giữa các
ông? 28 Chính vì thế ông ta mới gửi cho chúng ta ở Ba-by-lon lời nhắn nhủ này:
"Còn lâu lắm! Anh em cứ xây nhà mà ở, trồng cây mà ăn trái!"
29 Tư tế Xơ-phan-gia đã đọc bức thư
này cho ngôn sứ Giê-rê-mi-a nghe. 30 Vậy có lời Ðức Chúa phán với
ông Giê-rê-mi-a rằng: 31 Hãy gửi những lời sau đây cho tất cả đám
dân lưu đày: "Ðức Chúa phán thế này về Sơ-ma-gia người Ne-khe-lam. Vì
Sơ-ma-gia đã tuyên sấm cho các ngươi trong khi chính Ta không hề sai nó, và nó
đã làm cho các ngươi tin vào điều dối trá, 32 nên Ðức Chúa phán như
sau: Này Ta sắp trừng phạt Sơ-ma-gia người Ne-khe-lam và dòng dõi nó. Không một
ai trong số những người thân thuộc của nó được cư ngụ ở giữa dân này, và được
hưởng hạnh phúc mà chính Ta sắp thực hiện cho dân Ta - sấm ngôn của Ðức Chúa -,
bởi vì nó đã hô hào nổi loạn chống lại Ðức Chúa."
Chương 30
3. Sách An Ủi
Lời hứa phục hồi Ít-ra-en
1 Có lời Ðức Chúa phán với ông
Giê-rê-mi-a rằng: 2 Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này:
Ngươi hãy viết vào một cuốn sách tất cả những lời Ta phán với ngươi. 3 Vì
sẽ đến những ngày - sấm ngôn của Ðức Chúa - Ta sẽ đem các kẻ lưu vong của dân
Ta là Ít-ra-en và Giu-đa trở về, Ðức Chúa phán. Ta sẽ đưa chúng trở lại miền
đất Ta đã ban cho cha ông chúng làm sở hữu.
4 Ðây là những lời Ðức Chúa đã phán
về Ít-ra-en và Giu-đa:
5 Ðức Chúa phán thế này:
chúng tôi đã nghe thấy tiếng kinh
hãi
báo hiệu khiếp đảm, chứ không
phải bình an.
6 Cứ hỏi mà xem: có đàn ông nào đẻ
con không,
mà tại sao tôi lại thấy người đàn
ông nào tay cũng ôm bụng
như đàn bà sắp sinh?
Tại sao mặt ai cũng xám ngắt?
7 Khốn thay! Ngày đó thật là ngày
trọng đại,
không ngày nào sánh bằng!
Ðó là thời khốn quẫn cho Gia-cóp.
Nhưng nó sẽ được giải thoát khỏi
ngày đó.
8 (Trong ngày ấy - sấm ngôn của Ðức
Chúa các đạo binh - Ta sẽ bẻ gãy ách đè trên cổ ngươi, sẽ tháo xiềng xích trói
buộc ngươi. Ngoại bang sẽ không bắt ngươi làm tôi nữa; 9 nhưng
Ít-ra-en và Giu-đa sẽ phục vụ Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng, và phục vụ Ða-vít
mà Ta sẽ đặt lên làm vua cai trị chúng.)
10 Vậy hỡi tôi tớ Ta là Gia-cóp,
đừng sợ, - sấm ngôn của Ðức Chúa!
Ít-ra-en ơi, đừng khiếp kinh, vì,
này Ta sẽ cứu
và đưa ngươi ra khỏi những miền
xa xăm,
đưa dòng dõi ngươi khỏi đất lưu
đày.
Gia-cóp sẽ trở về và được yên ổn,
không còn bị ai đe doạ nữa.
11 Vì Ta ở với ngươi để cứu ngươi -
sấm ngôn của Ðức Chúa
Ta sẽ phá tan mọi dân tộc, nơi Ta
đã phân tán các ngươi đến.
Còn ngươi, Ta sẽ không phá tan;
Ta sửa trị theo lẽ công minh,
không để ngươi thoát khỏi hình
phạt.
12 Phải, Ðức Chúa phán thế này:
Vết thương của ngươi hết đường
cứu chữa,
vết đòn của ngươi không thể lành
được.
13 Không ai biện hộ cho vụ kiện của
ngươi;
ung nhọt thì còn có thuốc chữa,
chứ ngươi thì vô phương điều trị.
14 Mọi nhân tình của ngươi đều quên
ngươi hết,
chúng không kiếm tìm ngươi nữa,
vì ngươi đã bị Ta đánh trọng
thương, như bị kẻ thù đánh;
Ta đánh ngươi để nghiêm khắc sửa
trị,
chỉ vì sự gian ác của ngươi quá
nhiều,
và tội lỗi của ngươi quá nặng.
15 Ngươi kêu la vì thương tích của
ngươi làm gì?
Nỗi thống khổ của ngươi thật hết
đường cứu chữa!
Ấy chỉ vì sự gian ác của ngươi
quá nhiều,
và tội lỗi của ngươi quá nặng, mà
Ta đã xử với ngươi như thế.
16 Tất cả những kẻ tiêu diệt ngươi
sẽ bị tiêu diệt,
mọi kẻ thù ngươi sẽ phải đi đày.
Mọi kẻ bóc lột ngươi sẽ bị bóc
lột,
và mọi kẻ cướp phá ngươi, Ta sẽ
để cho bị cướp phá.
17 Phải, Ta sẽ phục thuốc cho ngươi,
các thương tích của ngươi, Ta sẽ
chữa lành
- sấm ngôn của Ðức Chúa
vì người ta gọi ngươi là
"Thành bị ruồng rẫy",
"Xi-on đó, kẻ chẳng được ai
lo."
18 Ðức Chúa phán như sau:
Này Ta sẽ đổi số phận của lều
trại Gia-cóp,
và nhà cửa nó, Ta sẽ chạnh lòng
xót thương.
Thành sẽ được dựng lại trên nơi
phế tích,
dinh thự sẽ toạ lạc trên chính
chỗ xưa.
19 Từ các nơi ấy, sẽ vọng ra lời cảm
tạ và tiếng reo mừng.
Ta sẽ làm cho chúng tăng số,
chúng không còn bị sút giảm.
Ta sẽ làm cho chúng được vẻ vang,
chúng không còn bị hạ nhục.
20 Con cái nó sẽ lại được như xưa,
và cộng đoàn của nó sẽ đứng vững
trước nhan Ta.
Ta sẽ sửa phạt mọi kẻ áp bức nó.
21 Thủ lãnh của nó sẽ từ nó xuất
thân,
và người thống trị nó sẽ từ giữa
nó mà ra.
Ta sẽ cho nó tới gần, và nó sẽ
đến với Ta
- sấm ngôn của Ðức Chúa
- vì ai là kẻ cả gan dám đến gần
Ta?
22 Các ngươi sẽ là dân Ta chọn,
và Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của
các ngươi.
23 Này trận cuồng phong của Ðức
Chúa,
cơn thịnh nộ của Người bùng lên,
cơn dông tố quay cuồng,
nó ập xuống đầu quân gian ác.
24 Cơn lôi đình của Ðức Chúa sẽ
không nguôi,
cho đến khi Người thực hiện và hoàn
tất
mọi điều lòng Người đã quyết
định.
Ðiều ấy các ngươi sẽ hiểu rõ sau
này.
Chương 31
1 Thời bấy giờ - sấm ngôn của Ðức
Chúa - Ta sẽ là Thiên Chúa của tất cả các thị tộc Ít-ra-en, và chúng sẽ là dân
Ta.
2 Ðức Chúa phán thế này: Ðám dân
thoát cảnh gươm đao
đã được ân nghĩa trong sa mạc,
đó là Ít-ra-en trên đường về chốn
nghỉ ngơi.
3 Từ xa Ðức Chúa đã hiện ra với
tôi:
"Ta đã yêu ngươi bằng mối
tình muôn thuở,
nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng
xót thương.
4 Ta sẽ lại xây ngươi lên, và ngươi
sẽ được xây lại,
hỡi trinh nữ Ít-ra-en.
Ngươi sẽ lại nên xinh đẹp;
với những chiếc trống cơm,
ngươi sẽ xuất hiện giữa đám nhảy
múa tưng bừng.
5 Ngươi sẽ trồng nho lại trên núi
đồi Sa-ma-ri;
những kẻ trồng cây sẽ trồng cây,
và được hưởng hoa lợi.
6 Vì có ngày trên núi Ép-ra-im,
người canh gác sẽ hô lớn:
"Ðứng lên nào, chúng ta lên
Xi-on,
đến cùng Ðức Chúa là Thiên Chúa
chúng ta!"
7 Vì Ðức Chúa phán thế này: Reo vui
lên mừng Gia-cóp,
hãy hoan hô dân đứng đầu chư dân!
Nào loan tin, ca ngợi và công bố:
"Ðức Chúa đã cứu dân Người,
số còn sót lại của Ít-ra-en!"
8 Này Ta sẽ đưa chúng từ đất Bắc
trở về,
quy tụ chúng lại từ tận cùng cõi
đất.
Trong chúng, có kẻ đui, người
què, kẻ mang thai, người ở cữ:
tất cả cùng nhau trở về, cả một
đại hội đông đảo.
9 Chúng trở về, nước mắt tuôn rơi,
Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng,
dẫn đưa tới dòng nước, qua con
đường thẳng băng,
trên đó chúng không còn vấp ngã.
Vì đối với Ít-ra-en, Ta là một
người Cha,
còn đối với Ta, Ép-ra-im chính là
con trưởng.
10 Muôn dân hỡi, lắng nghe lời Ðức
Chúa
và loan đi các đảo xa vời,
rằng Ðấng đã phân tán Ít-ra-en,
cũng chính Người sẽ thâu tập lại,
canh giữ họ như mục tử canh giữ đàn chiên.
11 Vì Ðức Chúa đã cứu chuộc nhà
Gia-cóp,
giải thoát họ khỏi tay kẻ mạnh
hơn nhiều.
12 Họ sẽ reo mừng đi tới đỉnh Xi-on,
lũ lượt kéo nhau về hưởng ân lộc
Ðức Chúa.
Nào lúa thơm rượu mới dầu tươi,
nào bò bê cùng với chiên cừu.
Lòng thoả thuê như vườn cây tưới
nước,
họ chẳng còn mỏi mệt héo hon.
13 Thiếu nữ bấy giờ vui nhảy múa,
trẻ già cùng mở hội tưng bừng.
Tang tóc họ, Ta biến thành hoan hỷ,
và sau cảnh sầu thương,
sẽ cho họ được an ủi vui mừng.
14 Thức ăn ngon, Ta đãi hàng tư tế,
và dân Ta hưởng ân lộc dư đầy,
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
15 Ðức Chúa phán thế này:
"Người ta nghe có tiếng khóc
ở Ra-ma,
tiếng khóc than ai oán:
Ðó là tiếng bà Ra-khen
khóc thương con cái mình,
bà không muốn được an ủi
về những người con ấy,
vì nay chúng chẳng còn.
16 Ðức Chúa phán thế này:
Thôi đừng than khóc nữa,
hãy lau khô dòng lệ trên đôi mắt,
vì công lao của ngươi sẽ được đền
bù:
- sấm ngôn của Ðức Chúa
chúng sẽ rời bỏ đất quân thù trở
về.
17 Như thế, tương lai ngươi sẽ tràn
trề hy vọng:
- sấm ngôn của Ðức Chúa
con cái ngươi sẽ trở về bờ cõi
mình.
18 Ta đã nghe rõ tiếng rên rỉ của
Ép-ra-im:
"Ngài đã sửa trị con và con
đã được sửa trị,
như con bê chưa vực.
Xin đưa con trở về, và con sẽ trở
về,
vì Ngài là Ðức Chúa, Thiên Chúa
của con!
19 Vì sau khi phạm tội, con hối tiếc
ăn năn.
Sau khi đã hồi tâm, con đấm ngực
tự giác.
Con xấu hổ thẹn thùng,
vì mang nỗi nhục nhằn của tuổi
thanh xuân."
20 - Ép-ra-im có phải là đứa con Ta
yêu dấu,
một đứa con Ta rất mực mến yêu?
Vì mỗi lần nhắc tới nó,
Ta lại thấy nhớ thương,
nên lòng Ta bồi hồi thổn thức,
Ta thương nó, thương nó thật
nhiều,
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
21 Hãy cắm mốc, dựng cột chỉ đường,
và để ý tới con đường ngươi đã
qua.
Trở về đi thôi, trinh nữ Ít-ra-en
hỡi,
trở về các thành cũ của ngươi.
22 Cho tới bao giờ, ngươi còn lang
thang đây đó,
hỡi cô gái phản bội?
Vì Ðức Chúa tạo ra điều mới lạ
trên mặt đất:
đó là đàn bà bao quanh đàn ông.
Lời hứa phục hồi Giu-đa
23 Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa
Ít-ra-en phán thế này: Người ta sẽ còn nói lời sau đây trong đất Giu-đa và các
thành của nó, khi Ta đổi vận mạng của chúng:
Xin Ðức Chúa giáng phúc cho
ngươi,
hỡi Núi thánh, nơi Ðấng Công
Chính ngự trị.
24 Tại đó, Giu-đa và tất cả các
thành của nó sẽ cùng nhau chung sống; nông dân và những người du mục chăn giữ
đàn chiên cũng vậy.25 Thật thế, kẻ mệt lả, Ta sẽ cho uống thoả thuê, người yếu
nhược, Ta sẽ cho no đủ.
26 Ðến đây, tôi tỉnh dậy,
và cảm thấy giấc mơ của tôi thật
êm đềm.
Ít-ra-en và Giu-đa
27 Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn
của Ðức Chúa - Ta sẽ dùng người và súc vật làm hạt giống mà gieo giống nhà
Ít-ra-en và Giu-đa. 28 Như Ta đã canh chừng chúng để nhổ, để lật, để
phá, để tiêu diệt, để giáng hoạ, thì Ta cũng sẽ canh chừng chúng để xây và để
trồng - sấm ngôn của Ðức Chúa.
Thưởng phạt mỗi người
29 Vào những ngày ấy, người ta sẽ
không còn nói:
"Cha ông ăn nho xanh, con
cháu bị ghê răng."
30 Nhưng mỗi người sẽ chết vì tội
mình. Kẻ nào ăn nho xanh, kẻ ấy sẽ bị ghê răng.
Giao ước mới
31 Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn
của Ðức Chúa - Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, 32
không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn
họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là
Chúa Tể của chúng - sấm ngôn của Ðức Chúa. 33 Nhưng đây là giao ước
Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó - sấm ngôn của Ðức Chúa. Ta sẽ ghi
vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên
Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. 34 Chúng sẽ không còn
phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: "Hãy học cho biết Ðức
Chúa", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta - sấm
ngôn của Ðức Chúa. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm
của chúng nữa.
Ít-ra-en sẽ tồn tại mãi
35 Ðức Chúa phán thế này: Ðấng cho
mặt trời soi sáng ban ngày,
đặt trăng sao soi sáng ban đêm,
Ðấng khuấy động biển khơi cho ba
đào gầm thét,
danh Người là Ðức Chúa các đạo
binh:
36 Các quy luật ấy có suy suyển
trước mặt Ta
- sấm ngôn của Ðức Chúa - thì
Ít-ra-en mới hết là một dân tộc
trường tồn trước mặt Ta.
37 Ðức Chúa phán thế này:
Nếu ai đo được các tầng trời ở
trên cao
và dò thấu nền tảng trái đất ở
phía dưới,
thì Ta sẽ từ bỏ tất cả dòng dõi
Ít-ra-en
vì mọi việc chúng đã làm - sấm
ngôn của Ðức Chúa.
Giê-ru-sa-lem huy hoàng sau khi
được tái thiết
38 Này sẽ tới những ngày - sấm ngôn
của Ðức Chúa - thành đô sẽ được xây dựng lại để kính Ðức Chúa, từ tháp
Kha-nan-ên đến Cổng Góc. 39 Dây đo vẫn giăng thẳng cho tới đồi
Ga-rếp, rồi quẹo về phía Gô-a. 40 Tất cả thung lũng chôn tử thi và
đổ tro thiêu xác, tất cả vùng đất cho đến suối Kít-rôn, mãi tới góc Cửa Ngựa ở
phía Ðông, đều là của thánh thuộc về Ðức Chúa. Ðến muôn đời thành sẽ không bị
nhổ đi và không bị phá đổ.
Chương 32
4. Phụ Thêm Vào Sách An Ủi
Mua một thửa ruộng để bảo đảm một
tương lai hạnh phúc
1 Có lời Ðức Chúa phán với ông
Giê-rê-mi-a vào năm thứ mười triều Xít-ki-gia-hu làm vua Giu-đa, cũng là năm
thứ mười tám triều Na-bu-cô-đô-nô-xo. 2 Bấy giờ lực lượng của vua
Ba-by-lon vây hãm Giê-ru-sa-lem, và ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị nhốt trong sân vệ
binh tại cung điện vua Giu-đa; 3 Xít-ki-gia-hu, vua Giu-đa, đã nhốt
ông ở đó, vua nói: "Tại sao ông lại tuyên sấm: Ðức Chúa phán thế này: Ta
sẽ trao thành này vào tay vua Ba-by-lon và vua ấy sẽ chiếm thành. 4 Xít-ki-gia-hu
sẽ nói chuyện trực tiếp, mặt đối mặt với vua ấy. 5 Sau đó
Xít-ki-gia-hu sẽ bị bắt sang Ba-by-lon và ở lại đó cho tới khi Ta thăm viếng -
sấm ngôn của Ðức Chúa. Vì thế, các ngươi có chống cự quân Can-đê cũng vô
ích."
6 Ông Giê-rê-mi-a nói: "Có lời
Ðức Chúa phán với tôi rằng: 7 "Này Kha-nan-ên, con ông Sa-lum,
cậu ngươi, đến nói với ngươi: Anh hãy mua thửa ruộng của tôi ở A-na-thốt, vì
anh có quyền mua.” 8 Như lời Ðức Chúa phán, Kha-nan-ên con cậu tôi
đến gặp tôi trong sân vệ binh và nói: "Xin anh mua thửa ruộng của em ở
A-na-thốt trong đất Ben-gia-min, vì anh có quyền hưởng và quyền mua, mua đi
anh!" Tôi biết đó là lời Ðức Chúa truyền. 9 Tôi đã mua thửa
ruộng của Kha-nan-ên con cậu tôi, ở A-na-thốt, và tôi đã cân cho nó mười bảy
thỏi bạc. 10 Tôi đã ghi vào văn tự và niêm phong lại, rồi nhờ người
làm chứng và lấy cân cân số bạc đó. 11 Tôi nhận văn tự sở hữu, bản
đã niêm phong với các ước khoản và các điều quy định, cùng một bản sao để ngỏ. 12
Ðoạn tôi trao văn tự sở hữu cho ông Ba-rúc con ông Nê-ri-gia, cháu ông
Mác-xê-gia, trước mặt Kha-nan-ên con cậu tôi, trước mặt các chứng nhân đã ký
vào văn tự sở hữu, và trước mặt mọi người Giu-đa đang ở trong sân vệ binh. 13
Trước mặt họ, tôi ra lệnh cho Ba-rúc: 14 Ðức Chúa các đạo binh
là Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: "Hãy lấy hai bản văn tự sở hữu
đó, một bản đã niêm phong và một bản để ngỏ, rồi cất trong một chiếc bình sành,
để giữ những thứ đó về lâu về dài. 15 Vì Ðức Chúa các đạo binh là
Thiên Chúa phán thế này: "Người ta sẽ còn tậu nhà cửa, ruộng nương, vườn
tược trong xứ này."
16 Sau khi trao văn tự sở hữu đó cho
Ba-rúc con ông Nê-ri-gia, tôi dâng lên Ðức Chúa lời cầu nguyện sau đây: 17
"Lạy Ðức Chúa, Chúa Thượng của con, này Ngài đã tạo thành trời đất
bằng sức mạnh vĩ đại và cánh tay uy quyền của Ngài. Không có gì mà Ngài không
làm được! 18 Ngài tỏ lòng thương xót mọi người, nhưng phạt tội cha ông nơi đàn
con cháu. Thiên Chúa vĩ đại và uy hùng, danh Ngài là Ðức Chúa các đạo binh. 19
Ý định Ngài cao cả, quyền năng Ngài mạnh mẽ để thực hiện những kỳ công.
Ngài là Ðấng để mắt theo dõi mọi đường lối của con cái loài người, để ban cho
ai nấy tuỳ theo cách nó sống và việc nó làm. 20 Ngài là Ðấng đã thực
hiện những dấu lạ điềm thiêng bên đất Ai-cập và cho tới ngày nay, Ngài vẫn làm
như thế tại Ít-ra-en cũng như giữa thiên hạ; Ngài đã làm cho danh Ngài rạng rỡ
như hiện nay. 21 Ngài đã dùng dấu lạ điềm thiêng, đã giương bàn tay
mạnh mẽ và cánh tay uy quyền, gây kinh hồn táng đởm mà đưa dân Ngài là Ít-ra-en
ra khỏi đất Ai-cập. 22 Rồi Ngài đã ban cho họ đất này, như Ngài đã
thề hứa với tổ tiên họ, miền đất tràn trề sữa và mật. 23 Họ đã tiến
vào và chiếm hữu đất ấy, nhưng lại không nghe theo tiếng Ngài, chẳng bước theo
Lề Luật của Ngài; tất cả những điều Ngài truyền cho họ, họ đã không thi hành,
nên Ngài đã khiến những tai hoạ này xảy đến cho họ. 24 Kìa, ngay sát
thành, người ta đã đắp ụ để tấn công và chiếm thành; thành sẽ bị nộp vào tay
quân Can-đê là những kẻ nhờ gươm giáo, đói khát và ôn dịch mà tấn công thành.
Ðiều Ngài phán, nay đã xảy ra mà Ngài chỉ nhìn thôi. 25 Chính Ngài,
lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng con, Ngài đã phán với con: "Ngươi hãy dùng bạc
tậu thửa ruộng và kêu người đến làm chứng. Nhưng thành vẫn bị nộp vào tay quân
Can-đê!"
26 Có lời Ðức Chúa phán với Giê-rê-mi-a
rằng: 27 "Này chính Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của mọi phàm
nhân, đối với Ta, hỏi có điều gì là không thể làm được chăng?"
28 Vì thế Ðức Chúa phán như sau: Này
đây Ta sẽ trao thành này vào tay quân Can-đê và vào tay Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua
Ba-by-lon, và nó sẽ chiếm thành. 29 Quân Can-đê, những kẻ tấn công
thành, sẽ tiến vào và phóng hoả đốt thành, thiêu huỷ nhà cửa, vì trên sân
thượng các nhà ấy, người ta đã đốt hương kính thần Ba-an và tưới rượu kính các
thần ngoại bang mà chọc giận Ta. 30 Vì từ hồi còn niên thiếu, con
cái Ít-ra-en và con cái Giu-đa chỉ làm những điều xấu xa trước mắt Ta (quả
thật, con cái Ít-ra-en cứ chọc giận Ta vì những việc tay chúng làm - sấm ngôn
của Ðức Chúa). 31 Phải, từ khi được xây dựng cho tới ngày nay, thành
này vẫn làm cho Ta phải bực tức và giận dữ, đến nỗi Ta phải gạt nó đi cho khuất
mắt, 32 vì tất cả sự dữ con cái Ít-ra-en và con cái Giu-đa, tức là
chính chúng, các vua của chúng, các thủ lãnh, hàng tư tế, người Giu-đa và dân
cư Giê-ru-sa-lem đã làm để chọc giận Ta. 33 Chúng đã quay lưng lại
với Ta, chứ không quay mặt; Ta đã không ngừng dạy bảo chúng, nhưng chúng chẳng
thèm nghe mà đón nhận bài học. 34 Chúng đã đặt các tượng thần Ghê
Tởm của chúng trong nhà đã được xây cất kính danh Ta để làm cho ra ô uế. 35
Chúng đã xây các nơi cao kính thần Ba-an trong thung lũng Ben Hin-nôm, để
làm lễ thiêu con trai, con gái mình mà tế thần Mô-léc; điều kinh tởm đã khiến
Giu-đa phạm tội: điều đó Ta đã chẳng truyền, cũng không hề nghĩ tới.
36 Bởi thế, giờ đây Ðức Chúa, Thiên
Chúa của Ít-ra-en, phán thế này về thành (mà theo lời các ngươi) đã bị nộp vào
tay vua Ba-by-lon vì giặc giã, đói khát và ôn dịch: 37 Này Ta sẽ quy
tụ chúng từ khắp mọi miền đất mà vì bực tức, giận dữ và quá phẫn nộ Ta đã xua
chúng tới. Ta sẽ đưa chúng về lại nơi này và cho chúng được an cư. 38 Bấy
giờ chúng sẽ là dân Ta, và Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng. 39 Ta
sẽ ban cho chúng một trái tim và một con đường hành động, để chúng kính sợ Ta
mãi mãi, nhờ đó chúng và con cháu sau này được hạnh phúc. 40 Ta sẽ
lập với chúng một giao ước muôn đời: Ta sẽ không bỏ chúng nữa, sẽ tiếp tục theo
dõi và không ngừng thi ân cho chúng, cũng như ban cho chúng lòng kính sợ Ta để
chúng không xa rời Ta nữa. 41 Ta lấy làm vui mà thi ân cho chúng, và
đem hết sức hết lòng mà trồng chúng vững chắc trên đất này. 42 Vì
Ðức Chúa phán như sau: Ta đã kéo xuống trên dân này tất cả mọi tai hoạ lớn lao
như thế, thì chính Ta cũng sẽ đem lại cho chúng tất cả mọi ơn lành mà Ta đã hứa
với chúng. 43 Người ta sẽ tậu ruộng trong xứ này, nơi ngươi nói là hoang
vu chẳng có người cũng không có vật, và đã bị nộp vào tay quân Can-đê. 44 Người
ta sẽ dùng bạc tậu ruộng, viết văn tự, niêm phong và kêu người tới làm chứng
trong đất Ben-gia-min, các vùng phụ cận Giê-ru-sa-lem, tại các thành Giu-đa,
các thành miền núi, cũng như các thành vùng Sơ-phê-la, và các thành vùng
Ne-ghép. Quả thật, Ta sẽ đổi vận mạng của chúng - sấm ngôn của Ðức Chúa.
Chương 33
Thêm một lời hứa phục hồi
1 Khi ông Giê-rê-mi-a vẫn còn bị
nhốt trong sân vệ binh, lại có lời Ðức Chúa phán với ông lần thứ hai rằng: 2
Ðức Chúa, Ðấng đã làm ra trái đất, đã nắn ra và làm cho nó được vững bền
- danh Người là Ðức Chúa - Người phán thế này: 3 Hãy kêu cầu Ta, Ta
sẽ trả lời ngươi và sẽ tỏ cho ngươi biết những điều lớn lao và bí ẩn mà ngươi
không biết. 4 Vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán như sau về
nhà cửa trong thành này và cung điện các vua Giu-đa, những nhà sắp bị tàn phá
vì ụ và gươm, 5 về những người kéo đến chống quân Can-đê nhưng lại
làm cho thành đầy tử thi, đầy xác những kẻ Ta đã đánh chết trong cơn bực tức và
giận dữ; vì tất cả những điều gian ác của chúng mà Ta đã ngoảnh mặt đi, không
nhìn đến thành này nữa. 6 Nhưng, Ta sẽ mang lại cho nó một phương
thuốc điều trị, sẽ chữa lành, sẽ tỏ cho chúng thấy một cảnh thái bình và một
nền an ninh lâu dài. 7 Ta sẽ đổi vận mạng của Giu-đa và Ít-ra-en, sẽ
xây dựng chúng như thuở ban đầu. 8 Ta sẽ thanh tẩy chúng cho sạch
mọi điều gian ác chúng đã phạm, khiến chúng đắc tội với Ta. Ta sẽ thứ tha mọi
điều gian ác chúng đã phạm khiến chúng đắc tội với Ta và phản lại Ta. 9 Ðối
với Ta, Giê-ru-sa-lem sẽ là một danh hiệu để hân hoan, là một lời ca ngợi, một
vẻ huy hoàng trước toàn thể chư dân trên mặt đất, vì chư dân sẽ nghe biết mọi
điều tốt lành Ta sẽ làm cho chúng. Họ sẽ sợ hãi và run rẩy vì tất cả mọi điều
tốt lành, tất cả sự bình an Ta sẽ thực hiện cho thành ấy.
10 Ðức Chúa phán thế này: Tại nơi
đây, nơi mà các ngươi gọi là một đống hoang tàn, không có người cũng không có
vật, tại các thành Giu-đa, các phố phường bị tàn phá của Giê-ru-sa-lem, nơi
không có người, không có dân cư, không có súc vật, tại nơi này vẫn còn nghe
thấy 11 tiếng reo mừng hỷ hoan, tiếng hát của cô dâu chú rể, tiếng của những kẻ
mang lễ vật tạ ơn lên Nhà Ðức Chúa mà nói: "Hãy tạ ơn Ðức Chúa các đạo
binh, vì Ðức Chúa nhân lành, vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương!"
Vì Ta sẽ đổi vận mạng xứ này và làm cho nó lại được như thuở ban đầu, Ðức Chúa
phán.
12 Ðức Chúa các đạo binh phán thế
này: Tại nơi đây, nơi hoang tàn không có người cũng không có vật, và trong tất
cả các thành của nó, sẽ vẫn còn có những đồng cỏ cho các mục đồng thả chiên nằm
nghỉ. 13 Tại các thành miền núi, các thành vùng Sơ-phê-la, và các
thành vùng Ne-ghép, trong đất Ben-gia-min, vùng phụ cận Giê-ru-sa-lem và tại
các thành Giu-đa, chiên cừu vẫn còn được lùa qua, dưới bàn tay của người kiểm
số chiên - Ðức Chúa phán như vậy.
Ðịnh chế cho tương lai
14 Này, sẽ đến những ngày - sấm ngôn
của Ðức Chúa - Ta sẽ thực hiện điều tốt lành Ta đã phán về nhà Ít-ra-en và về
Giu-đa.
15 Trong những ngày ấy, vào thời đó,
Ta sẽ cho mọc lên một mầm non,
một Ðấng Công Chính để nối nghiệp
Ða-vít;
Người sẽ trị nước theo lẽ công
bình chính trực.
16 Trong những ngày ấy, Giu-đa sẽ
được cứu thoát,
Giê-ru-sa-lem sẽ an cư lạc
nghiệp.
Ðây là tên người ta sẽ đặt cho
thành:
"Ðức Chúa
là-sự-công-chính-của-chúng-ta!"
17 Vì Ðức Chúa phán thế này: Ða-vít
sẽ không bao giờ thiếu người ngự trên ngai báu nhà Ít-ra-en. 18 Các
tư tế Lê-vi cũng không bao giờ thiếu người phục vụ trước nhan Ta để dâng lễ
toàn thiêu, đốt hương làm lễ vật, và cử hành hy lễ mọi ngày.
19 Lại có lời Ðức Chúa phán với ông
Giê-rê-mi-a rằng: 20 Ðức Chúa phán thế này: Nếu các ngươi phá vỡ
được giao ước của Ta với ngày, và giao ước của Ta với đêm, đến nỗi không có
ngày và đêm đắp đổi nhau, 21 thì giao ước của Ta với Ða-vít, tôi tớ
Ta, cũng sẽ bị phá vỡ, tức là nó sẽ không có con cháu trị vì trên ngôi báu của
nó và chẳng còn các thầy Lê-vi, các tư tế phục vụ Ta nữa. 22 Cũng
như không thể đếm được đạo binh trên trời và chẳng sao kể hết cát dưới biển, Ta
sẽ làm cho dòng dõi Ða-vít, tôi tớ Ta và các thầy Lê-vi phục vụ Ta, tăng nhiều
như thế.
23 Có lời Ðức Chúa phán với ông
Giê-rê-mi-a rằng: 24 "Ngươi chẳng thấy sao? Dân này từng nói:
hai thị tộc Ðức Chúa đã chọn, Người đã bỏ rồi! " Bởi thế, chúng khinh dể
dân Ta, coi như không phải là một dân tộc trước mặt chúng nữa. 25 Ðức
Chúa phán thế này: Nếu Ta không dựng nên ngày và đêm, nếu Ta không đặt ra quy
luật cho trời và đất, 26 thì Ta sẽ vứt bỏ dòng dõi Gia-cóp và
Ða-vít, tôi tớ Ta, không còn lấy từ dòng dõi ấy những kẻ cai trị con cháu
Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp nữa! Quả thật, Ta sẽ đổi vận mạng chúng và sẽ xót
thương chúng.
Chương 34
5. Mấy Sự Kiện Riêng Lẻ
Chung cuộc của vua Xít-ki-gia-hu
1 Có lời Ðức Chúa phán với ông
Giê-rê-mi-a vào thời Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, với toàn thể lực lượng
của ông, cùng mọi vương quốc trên trái đất dưới quyền thống trị của ông, và tất
cả các dân tộc đến tấn công Giê-ru-sa-lem và các thành của nó. 2 Ðức
Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này: Ngươi hãy đi nói với
Xít-ki-gia-hu, vua Giu-đa rằng: Ðức Chúa phán như sau: Này đây Ta sẽ trao thành
này vào tay vua Ba-by-lon và nó sẽ phóng hoả đốt thành. 3 Còn ngươi,
ngươi sẽ không thoát khỏi tay nó, nhưng chắc chắn sẽ bị bắt nộp vào tay nó.
Ngươi sẽ phải gặp vua Ba-by-lon, mắt nhìn mắt, miệng đối miệng; và ngươi sẽ phải
đi Ba-by-lon. 4 Nhưng, hỡi Xít-ki-gia-hu, vua Giu-đa, hãy nghe lời
Ðức Chúa! Ðức Chúa phán về vua thế này: ngươi sẽ không chết vì gươm, 5 nhưng
sẽ được chết yên hàn. Và cũng như người ta đã đốt hương tưởng niệm tổ tiên
ngươi là các vua tiền nhiệm thuở xưa, người ta cũng sẽ đốt hương tưởng niệm và
than khóc ngươi: "Ôi, Chúa Thượng!" Vì chính Ta phán như vậy - sấm
ngôn của Ðức Chúa.
6 Ngôn sứ Giê-rê-mi-a nói với
Xít-ki-gia-hu, vua Giu-đa, tất cả các lời đó tại Giê-ru-sa-lem. 7 Lực
lượng của vua Ba-by-lon đã tấn công Giê-ru-sa-lem và tất cả các thành còn lại
của Giu-đa, đó là La-khít và A-dê-ca; vì trong số các thành Giu-đa, các thành
còn lại này là những thành kiên cố.
Giải phóng nô lệ
8 Có lời Ðức Chúa phán với ông
Giê-rê-mi-a, sau khi vua Xít-ki-gia-hu lập giao ước với toàn dân tại
Giê-ru-sa-lem để công bố một cuộc giải phóng, đó là: 9 mỗi người
phải trả tự do cho các nô lệ người Híp-ri thuộc quyền mình, dù là nam hay nữ,
nghĩa là không ai giữ một người anh em Giu-đa nào của mình làm nô lệ. 10 Tất
cả các thủ lãnh và toàn dân tham dự giao ước, mỗi người đều đồng ý trả tự do
cho nô lệ, nam cũng như nữ thuộc quyền mình, nên nơi họ không còn nô lệ nữa; họ
đã tán thành và cho chúng được tự do. 11 Tuy nhiên sau đó, họ đã đổi
ý và bắt lại các nô lệ nam nữ đã được họ phóng thích: họ lại bắt chúng làm nô
lệ. 12 Có lời Ðức Chúa phán với ông Giê-rê-mi-a rằng: 13 Ðức
Chúa phán thế này: Khi Ta đưa cha ông các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi nhà nô
lệ, Ta đã lập với họ một giao ước như sau: 14 "Ðến năm thứ bảy,
mỗi người trong các ngươi sẽ trả tự do cho người anh em Híp-ri đã bán mình cho
ngươi; nó sẽ làm nô lệ ngươi trong sáu năm, rồi ngươi phải phóng thích nó khỏi
nhà ngươi." Nhưng cha ông các ngươi đã không nghe Ta; chúng chẳng để tai. 15
Ngày nay các ngươi đã trở lại và làm điều ngay chính trước mặt Ta là
phóng thích đồng bào mình; các ngươi đã lập giao ước trước mặt Ta trong Ðền
Thờ, nơi danh Ta được kêu khấn. 16 Nhưng rồi các ngươi đã tráo trở
và xúc phạm đến danh Ta, vì mỗi người trong các ngươi đã bắt lại những nô lệ nam
nữ các ngươi đã phóng thích, để bắt chúng trở về làm tôi các ngươi, cả nam lẫn
nữ.
17 Vì thế, Ðức Chúa phán thế này:
Các ngươi đã không nghe Ta, không ai chịu phóng thích anh em mình, không ai
chịu phóng thích đồng bào mình, thì này, sấm ngôn của Ðức Chúa, Ta sẽ để mặc
các ngươi cho gươm đao, ôn dịch và đói khát tự do hoành hành; Ta sẽ biến các
ngươi thành nỗi kinh hoàng cho mọi vương quốc trên cõi đất. 18 Những
kẻ đã vi phạm giao ước của Ta, đã không giữ những điều khoản cam kết trước mặt
Ta, những kẻ đó, Ta sẽ biến thành một con bò tơ cho người ta xẻ làm đôi và băng
qua giữa hai phần. 19 Các thủ lãnh Giu-đa, các thủ lãnh
Giê-ru-sa-lem, các hoạn quan, các tư tế và toàn dân trong xứ, những kẻ băng qua
giữa hai phần đó, 20 Ta sẽ nộp chúng vào tay quân thù của chúng, vào
tay những kẻ đòi mạng chúng. Xác chúng sẽ là thức ăn cho loài chim trên trời và
thú vật dưới đất. 21 Còn Xít-ki-gia-hu, vua Giu-đa, và các thủ lãnh
của nó, Ta sẽ nộp vào tay quân thù của chúng, vào tay những kẻ đòi mạng chúng
và vào tay lực lượng của vua Ba-by-lon, là những kẻ vừa bỏ các ngươi mà đi. 22
Này Ta sẽ ra lệnh - sấm ngôn của Ðức Chúa - và sẽ đưa chúng trở lại để
tấn công thành này. Chúng sẽ chiếm cứ và phóng hoả đốt thành. Các thành thị
Giu-đa, Ta sẽ làm cho ra hoang vu, không người cư ngụ.
Chương 35
Gương con cháu Rê-kháp
1 Có lời Ðức Chúa phán với ông
Giê-rê-mi-a thời vua Giu-đa là Giơ-hô-gia-kim, con Giô-si-gia-hu, rằng: 2 "Hãy
đi gặp và nói chuyện với nhà Rê-kháp, rồi đưa chúng vào Nhà Ðức Chúa, lên một
trong các phòng tại đó và cho chúng uống rượu.” 3 Vậy tôi đưa
Gia-a-dan-gia, con ông Giếc-mơ-gia-hu, cháu ông Kha-vát-xin-gia, cùng với anh
em và tất cả con cháu anh, tức là toàn thể nhà Rê-kháp, 4 vào Nhà
Ðức Chúa, lên phòng các con ông Kha-nan, con ông Gích-đan-gia-hu, người của
Thiên Chúa. Phòng ấy ở sát bên phòng các thủ lãnh, phía trên phòng ông
Ma-a-xê-gia-hu, con ông Sa-lum, và là người giữ cửa. 5 Tôi đặt trước
mặt con cháu nhà Rê-kháp những bình đầy rượu với những chiếc ly, rồi bảo họ:
"Xin mời!"
6 Nhưng họ nói: "Chúng tôi
không uống rượu, vì tổ phụ chúng tôi là ông Giô-na-đáp, con ông Rê-kháp, đã ra
lệnh cho chúng tôi rằng: các con và dòng dõi các con đừng bao giờ uống rượu, 7
cũng đừng xây nhà, gieo giống, trồng nho, đừng có những thứ đó, vì các
con sẽ suốt đời ở dưới lều trại, để như thế các con sẽ sống lâu ngày trên mặt
đất, nơi các con ở như khách kiều cư. 8 Chúng tôi đã nghe theo lời
tổ phụ chúng tôi, là ông Giơ-hô-na-đáp, con ông Rê-kháp truyền: chúng tôi, vợ
và con trai con gái chúng tôi, suốt đời không bao giờ được uống rượu, 9 không
được xây nhà để ở, không có vườn nho, ruộng đất, và hạt giống chi cả. 10 Chúng
tôi hiện ở dưới lều trại, là vì chúng tôi vâng nghe và thi hành mọi điều tổ phụ
chúng tôi là ông Giô-na-đáp đã truyền. 11 Nhưng khi
Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, tấn công xứ này, chúng tôi tự bảo: nào chúng
ta hãy vào Giê-ru-sa-lem tránh mặt quân Can-đê và lực lượng A-ram. Thế là chúng
tôi đã ở Giê-ru-sa-lem."
12 Bấy giờ có lời Ðức Chúa phán với
ông Giê-rê-mi-a rằng: 13 Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa của
Ít-ra-en, phán thế này: Hãy đi nói với người Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem:
Các ngươi không đón nhận bài học là vâng nghe lời Ta sao? Sấm ngôn của Ðức Chúa.
14 Lời của Giơ-hô-na-đáp, con Rê-kháp, truyền cho con cháu không
uống rượu đã được tuân hành. Chúng đã không uống rượu cho tới ngày nay, vì
chúng nghe theo lệnh của tổ phụ chúng. Còn Ta, Ta đã không ngừng phán với các
ngươi, nhưng các ngươi chẳng thèm nghe. 15 Ta đã không ngừng sai đến
với các ngươi tôi tớ của Ta là các ngôn sứ, để nói với các ngươi: "Mỗi
người trong các ngươi hãy trở về và từ bỏ con đường xấu xa mà cải thiện các
hành vi của mình. Ðừng đi theo các thần khác mà làm tôi chúng, thì các ngươi sẽ
cư ngụ trên đất Ta đã ban cho các ngươi và cha ông các ngươi. Nhưng các ngươi
đã không để tai, không thèm nghe Ta. 16 Phải, con cháu
Giơ-hô-na-đáp, con của Rê-kháp, đã tuân hành mệnh lệnh tổ phụ chúng truyền; còn
dân này chẳng chịu nghe lời Ta. 17 Vì thế Ðức Chúa, Thiên Chúa các
đạo binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán như sau: Này Ta sẽ giáng xuống Giu-đa
và dân cư Giê-ru-sa-lem tất cả những tai hoạ Ta đã đe phạt chúng: bởi vì Ta
phán với chúng, mà chúng không nghe, Ta gọi mà chúng không trả lời."
18 Còn với nhà Rê-kháp, ông
Giê-rê-mi-a nói: "Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế
này: Vì các ngươi đã vâng nghe mệnh lệnh của tổ phụ các ngươi là Giơ-hô-na-đáp
truyền, các ngươi đã tuân cứ mọi mệnh lệnh của ông ấy và thi hành mọi điều ông
đã truyền, 19 nên Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en,
phán thế này: Giô-na-đáp, con của Rê-kháp, sẽ không bao giờ thiếu người đứng
trực trước nhan Ta."
Chương 36
IV. Những Nỗi Thống Khổ Của Ngôn
Sứ Giê-Rê-Mi-A
Cuộn sách năm 605 - 604
1 Năm thứ tư triều Giơ-hô-gia-kim,
con vua Giô-si-gia-hu, làm vua Giu-đa, có lời Ðức Chúa phán với ông Giê-rê-mi-a
rằng: 2 "Ngươi hãy lấy một cuộn sách, rồi viết vào đó mọi lời
Ta đã phán với ngươi liên quan đến Ít-ra-en, Giu-đa và tất cả các nước, từ ngày
Ta phán bảo ngươi dưới triều Giô-si-gia-hu cho đến ngày nay. 3 May
ra khi nghe biết tất cả những tai hoạ Ta định giáng xuống trên chúng, nhà
Giu-đa sẽ trở lại, ai nấy sẽ từ bỏ con đường xấu xa của mình, và Ta sẽ tha thứ
các lỗi lầm cũng như tội ác chúng đã phạm.” 4 Ông Giê-rê-mi-a gọi
ông Ba-rúc, con ông Nê-ri-gia lại; và theo lời ông đọc, ông Ba-rúc đã viết lại
tất cả những lời Ðức Chúa đã phán với ông vào một cuộn sách.
5 Bấy giờ, ông Giê-rê-mi-a truyền
lệnh cho ông Ba-rúc rằng: "Tôi bị ngăn trở, không thể vào Nhà Ðức Chúa
được. 6 Còn ông, ông hãy đi vào Nhà Ðức Chúa trong ngày ăn chay và
đọc cho dân nghe những lời của Ðức Chúa trong cuộn sách tôi đã đọc cho ông
viết; ông lại đọc cho tất cả những người Giu-đa từ các thành khác đến, để họ
cũng được nghe nữa. 7 May ra họ sẽ dâng lên trước nhan Ðức Chúa
những lời van xin mà trở lại; ai nấy sẽ từ bỏ con đường xấu xa của mình, bởi vì
cơn thịnh nộ và trận lôi đình của Ðức Chúa đe doạ trừng phạt dân này, thật là
kinh khủng.” 8 Ông Ba-rúc, con ông Nê-ri-gia, đã làm đúng theo mọi
điều ngôn sứ Giê-rê-mi-a truyền, là đọc những lời Ðức Chúa phán được ghi trong
sách, tại Nhà Ðức Chúa. 9 Vào tháng chín năm thứ năm triều
Giơ-hô-gia-kim, con vua Giô-si-gia-hu, làm vua Giu-đa, người ta công bố một
thời kỳ chay tịnh trước nhan Ðức Chúa cho toàn dân ở Giê-ru-sa-lem, và cho tất
cả dân chúng từ các thành Giu-đa đến Giê-ru-sa-lem. 10 Ông Ba-rúc
đọc sách ghi những lời của ông Giê-rê-mi-a tại Nhà Ðức Chúa, bên phòng ông
Gơ-mác-gia-hu con ông thư ký Sa-phan, tại Tiền đình thượng, ngay ở lối vào Cửa
Mới Nhà Ðức Chúa; ông đã đọc cho toàn dân nghe.
11 Ông Mi-kha-giơ-hu con ông
Gơ-mác-gia-hu, con ông Sa-phan, đã nghe mọi lời Ðức Chúa phán được ghi trong
sách; 12 ông liền xuống đền vua, vào phòng viên thư ký; tại đó tất
cả các thủ lãnh đang hội họp, gồm thư ký Ê-li-sa-ma, ông Ðơ-la-gia-hu con ông
Sơ-ma-gia-hu, ông En-na-than con ông Ác-bo, ông Gơ-mác-gia-hu con ông Sa-phan,
ông Xít-ki-gia-hu con ông Kha-nan-gia-hu, cùng tất cả các thủ lãnh. 13 Ông
Mi-kha-gia-hu tường thuật cho họ mọi điều ông đã được nghe khi ông Ba-rúc đọc
sách cho dân. 14 Toàn thể các thủ lãnh sai ông Giơ-hu-di con ông
Nơ-than-gia-hu, con ông Se-lem-gia-hu, con ông Cu-si, đi gặp ông Ba-rúc và nói
rằng: "Cuộn sách ông vừa đọc cho dân nghe, hãy cầm lấy và mang tới
đây." Ông Ba-rúc cho ông Nê-ri-gia cầm lấy cuộn sách và mang đến cho họ. 15
Họ bảo ông: "Xin mời ông ngồi và đọc cho chúng tôi nghe." Ông
Ba-rúc liền đọc cho họ nghe. 16 Sau khi đã nghe tất cả những lời ấy,
họ đều kinh hãi nhìn nhau và nói với ông Ba-rúc: "Chúng tôi phải tường
thuật tỉ mỉ cho nhà vua tất cả những điều này.” 17 Họ bảo ông:
"Xin kể rõ cho chúng tôi: làm thế nào ông viết được tất cả những lời ông
Giê-rê-mi-a đã đọc.” 18 Ông Ba-rúc nói với họ: "Chính miệng ông
Giê-rê-mi-a đã đọc cho tôi tất cả những lời ấy; còn tôi, tôi đã lấy mực viết
vào sách.” 19 Các thủ lãnh nói với ông Ba-rúc: "Ông và ông
Giê-rê-mi-a, các ông hãy trốn đi! Mong rằng không ai biết được các ông ở đâu!” 20
Họ để lại cuộn sách trong phòng thư ký Ê-li-sa-ma, rồi đến gặp vua tại
triều đình, và tường thuật cho vua nghe tất cả sự việc.
21 Vua sai ông Giơ-hu-di đi lấy cuộn
sách; ông này lấy cuộn sách ở phòng thư ký Ê-li-sa-ma, rồi đọc cho vua và tất
cả các thủ lãnh đang đứng hầu vua cùng nghe. 22 Khi ấy, vua ngự tại
cung mùa đông, trời vào tháng chín, trước mặt vua có lò sưởi đang cháy. 23
Mỗi khi ông Giơ-hu-di đọc được ba hay bốn cột, thì vua lấy con dao gọt
bút của thư ký xén đi và bỏ vào lửa trong lò sưởi, cho đến khi cả cuộn sách bị
thiêu rụi trong lò ấy. 24 Nghe những lời ấy, vua và tất cả các thuộc
hạ chẳng kinh hãi, cũng không xé áo mình ra. 25 Mặc dù các ông
En-na-than, Ðơ-la-gia-hu và Gơ-mác-gia-hu đã khẩn khoản xin vua đừng đốt cuộn
sách ấy, nhưng vua chẳng thèm nghe. 26 Vua truyền lệnh cho hoàng tử
Giơ-rác-mơ-ên, cho ông Xơ-ra-gia-hu con ông Át-ri-ên, và cho ông Se-lem-gia-hu
con ông Áp-đi-ên đi bắt ông Ba-rúc và ngôn sứ Giê-rê-mi-a; nhưng Ðức Chúa đã
che giấu hai ông.
27 Sau khi vua đốt cuộn sách ghi
những lời miệng ông Giê-rê-mi-a đã đọc cho ông Ba-rúc viết, có lời Ðức Chúa
phán với ông Giê-rê-mi-a rằng: 28 "Ngươi lại lấy một cuộn khác
và viết vào đó tất cả những lời đã được viết trong cuộn trước mà
Giơ-hô-gia-kim, vua Giu-đa, đã đốt. 29 Còn về Giơ-hô-gia-kim, vua
Giu-đa, ngươi sẽ nói: Ðức Chúa phán thế này: Ngươi đã đốt cuộn sách ấy, lại còn
dám nói rằng: "Tại sao ông viết trong sách ấy: Chắc chắn vua Ba-ben sẽ đến
tàn phá xứ này, và tiêu diệt cả người lẫn súc vật? 30 Vì thế, Ðức Chúa phán về
Giơ-hô-gia-kim, vua Giu-đa, như sau: Nó sẽ chẳng có người nào nối ngôi trên
ngai vàng Ða-vít nữa, thây nó sẽ bị vất ra phơi nắng ban ngày, và ướp lạnh ban
đêm. 31 Ta sẽ trừng phạt nó, dòng dõi và cả tôi tớ nó, vì các tội
chúng đã phạm. Ta sẽ giáng xuống trên chúng, cũng như dân cư Giê-ru-sa-lem và
người Giu-đa, mọi tai hoạ Ta đã nói cho chúng mà chúng chẳng thèm nghe."
32 Ông Giê-rê-mi-a lấy một cuộn khác
và trao cho thư ký Ba-rúc, con ông Nê-ri-gia. Theo lời ông Giê-rê-mi-a đọc, ông
Ba-rúc đã viết vào đó tất cả những lời đã được ghi trong sách mà
Giơ-hô-gia-kim, vua Giu-đa, đã đốt trong lò sưởi; hơn nữa, ông còn thêm vào đó
nhiều điều tương tự.
Chương 37
Nhận định tổng quát về triều
Xít-ki-gia-hu
1 Xít-ki-gia-hu con vua
Giô-si-gia-hu, lên ngôi cai trị thay vua Khon-gia-hu con vua Giơ-hô-gia-kim.
Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, đặt Xít-ki-gia-hu lên ngôi cai trị xứ Giu-đa.
2 Nhưng, cả vua lẫn bề tôi và toàn dân trong xứ, chẳng ai chịu nghe
lời Ðức Chúa phán qua trung gian ngôn sứ Giê-rê-mi-a.
Vua Xít-ki-gia-hu thỉnh vấn ngôn
sứ Giê-rê-mi-a
trong cuộc giải vây
Giê-ru-sa-lem, năm 588
3 Vua Xít-ki-gia-hu sai ông
Giơ-hu-can con ông Se-lem-gia, và tư tế Xơ-phan-gia-hu con ông Ma-a-xê-gia đến
gặp ngôn sứ Giê-rê-mi-a mà nói rằng: "Xin ông khẩn cầu Ðức Chúa, Thiên
Chúa chúng ta, thay cho chúng tôi!” 4 Bấy giờ, ông Giê-rê-mi-a tự do
đi lại giữa dân, người ta vẫn chưa tống giam ông vào ngục. 5 Nhưng,
đạo quân của Pha-ra-ô đã từ Ai-cập lên đường xuất chinh. Quân Can-đê đang vây
hãm Giê-ru-sa-lem nghe tin ấy, đã phải rút lui khỏi Giê-ru-sa-lem.
6 Bấy giờ có lời Ðức Chúa phán với
ngôn sứ Giê-rê-mi-a rằng: 7 "Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en,
phán thế này: Các ngươi sẽ nói như sau với vua Giu-đa, người đã sai các ngươi
đến thỉnh vấn Ta. Này đạo quân của Pha-ra-ô lên đường xuất chinh để trợ giúp
các ngươi, sẽ phải rút về đất Ai-cập của chúng. 8 Quân Can-đê sẽ
quay lại đánh thành này. Chúng sẽ chiếm thành rồi phóng hoả đốt. 9 Ðức
Chúa phán thế này: Các ngươi đừng tự lừa dối mình rằng: "Quân Can-đê đã xa
hẳn chúng ta." Nhưng thực ra chúng không đi đâu. 10 Giả như các
ngươi có đánh bại toàn thể đạo quân Can-đê đến giao chiến với các ngươi, và chỉ
còn sót lại một số quân bị thương, thì chúng cũng sẽ chỗi dậy, ai nấy từ lều
của mình, và sẽ phóng hoả đốt thành này.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị bắt, nhưng
lại gặp may
11 Khi đạo quân Can-đê rút khỏi
Giê-ru-sa-lem vì bị đạo quân Ai-cập của Pha-ra-ô tiến đánh, 12 thì
ông Giê-rê-mi-a ra khỏi Giê-ru-sa-lem đến đất Ben-gia-min, để lo việc chia của
cải trong đám bà con họ hàng. 13 Lúc đến cổng thành Ben-gia-min, ông
gặp một trưởng đồn canh tên là Giếc-i-gia con ông Se-lem-gia, con ông
Kha-nan-gia. Ông Giếc-i-gia liền bắt lấy ngôn sứ Giê-rê-mi-a và nói rằng:
"Ông chạy sang với người Can-đê!” 14 Ông Giê-rê-mi-a nói:
"Láo! Tôi đâu có chạy sang với người Can-đê!" Nhưng Giếc-i-gia không
muốn nghe, liền bắt lấy ông rồi điệu đến cho các thủ lãnh. 15 Các
thủ lãnh giận dữ với ông. Họ đánh ông rồi giam ông tại nhà thư ký
Giơ-hô-na-than, bởi vì họ đã biến nhà ấy thành nhà tù. 16 Thế là,
ông Giê-rê-mi-a bị giam trong nhà ngục có mái vòm; ông đã ở lại đó nhiều ngày.
17 Sau đấy, vua Xít-ki-gia-hu sai
người đến đưa ông ra. Vua bí mật thỉnh vấn ông trong cung. Vua hỏi: "Có
lời nào của Ðức Chúa phán không?" Ông Giê-rê-mi-a trả lời: "Có",
rồi nói tiếp: "Vua sẽ bị trao nộp vào tay vua Ba-by-lon.” 18 Ông
Giê-rê-mi-a nói với vua Xít-ki-gia-hu: "Tôi có lỗi gì phạm đến ngài, đến
các tôi tớ của ngài cũng như dân này, mà các người lại tống tôi vào ngục? 19
Các ngôn sứ đã tuyên sấm cho các người rằng vua Ba-by-lon sẽ không đến tấn công
các người và xứ này, họ đâu cả rồi? 20 Bây giờ, thưa đức vua là chúa thượng
tôi, xin lắng nghe và đoái nhận lời tôi van vỉ ngài đây: xin đừng để tôi trở
lại nhà thư ký Giơ-hô-na-than nữa, vì e rằng tôi sẽ phải chết ở đó.” 21 Vua
Xít-ki-gia-hu ra lệnh giam giữ ông trong sân vệ binh và cung cấp cho ông mỗi
ngày một ổ bánh lấy ở Phố Hàng Bánh, cho đến khi bánh trong thành hết sạch. Thế
là ông Giê-rê-mi-a ở lại trong sân vệ binh.
Chương 38
Ông Giê-rê-mi-a ở trong hầm nước
được ông E-vét Me-léc can thiệp
1 Ông Sơ-phát-gia con ông Mát-tan,
ông Gơ-đan-gia-hu con ông Pát-khua, ông Giu-Can con ông Se-lem-gia-hu, ông
Pát-khua con ông Man-ki-gia đã nghe những lời ông Giê-rê-mi-a nói với dân rằng:
2 "Ðức Chúa phán như sau: Ai ở lại trong thành này sẽ phải chết
vì gươm đao, đói kém và ôn dịch; ai chạy ra ngoài đầu hàng quân Can-đê, thì ít
ra cũng sống và bảo toàn được tính mạng. 3 Ðức Chúa phán như sau:
Chắc chắn thành này sẽ bị nộp vào tay đạo quân của vua Ba-by-lon; chúng sẽ
chiếm được thành."
4 Các thủ lãnh thưa với vua:
"Xin ngài cho giết con người ấy đi, vì những luận điệu của ông ta đã làm
nản lòng các binh sĩ còn lại trong thành này, cũng như toàn dân. Thật vậy, con
người ấy chẳng mưu hoà bình cho dân này, mà chỉ gây tai hoạ.” 5 Vua
Xít-ki-gia-hu nói: "Ðây ông ta đang ở trong tay các ngươi; nhà vua cũng
chẳng có thể làm gì trái ý các ngươi được.” 6 Họ liền điệu ông
Giê-rê-mi-a đi, và bỏ xuống một cái hầm nước của hoàng tử Man-ki-gia-hu, trong
sân vệ binh. Họ lấy dây thừng thả ông Giê-rê-mi-a xuống. Vì trong hầm không có
nước, mà chỉ có bùn, nên ông bị lún sâu."
7 Trong số thái giám, có ông E-vét
Me-léc, người Cút; ông này đang ở trong đền vua, thì được tin người ta sẽ thả
ông Giê-rê-mi-a xuống hầm nước. Bấy giờ vua đang ngồi ở cổng Ben-gia-min. 8
Ông E-vét Me-léc đi ra khỏi đền vua và thưa với vua rằng: 9 "Thưa
đức vua, chúa thượng tôi, những người này làm toàn những chuyện tai ác cho ngôn
sứ Giê-rê-mi-a. Họ đã thả ông xuống hầm, và ông đang chết đói ở dưới ấy, vì
trong thành không còn bánh nữa. 10 Vua liền truyền cho ông E-vét
Me-léc, người Cút rằng: "Ngươi hãy đem theo ba mươi người ở đây, đi kéo
ngôn sứ Giê-rê-mi-a lên khỏi hầm, kẻo ông chết mất.” 11 Ông E-vét
Me-léc đem theo ba mươi người, rồi vào đền vua, đến phòng lễ phục. Ở đó, ông
lấy ra những mảnh vải cũ đã rách, rồi dùng dây thừng thả xuống cho ông
Giê-rê-mi-a trong hầm. 12 Ông E-vét Me-léc, người Cút, nói với ông
Giê-rê-mi-a: "Xin ông lấy các mảnh vải cũ đã rách này cuốn vào dây thừng
rồi để dưới nách!" Ông Giê-rê-mi-a đã làm đúng như thế. 13 Người
ta dùng dây thừng kéo ông Giê-rê-mi-a lên và đưa ông ra khỏi giếng. Ông
Giê-rê-mi-a vẫn ở lại trong sân vệ binh.
Cuộc hội kiến cuối cùng giữa ông
Giê-rê-mi-a với vua Xít-ki-gia-hu
14 Vua Xít-ki-gia-hu sai người đến
đưa ngôn sứ Giê-rê-mi-a tới gặp vua ở lối vào thứ ba trong Nhà Ðức Chúa. Vua
nói với ông Giê-rê-mi-a: "Tôi muốn hỏi ông một điều; ông đừng giấu tôi!” 15
Ông Giê-rê-mi-a nói với vua Xít-ki-gia-hu rằng: "Tôi mà nói thật với
ngài, ngài lại không cho giết tôi sao? Tôi có góp ý kiến với ngài, ngài cũng
chẳng thèm nghe!” 16 Lúc ấy vua Xít-ki-gia-hu bí mật thề với ông
Giê-rê-mi-a rằng: "Có Ðức Chúa hằng sống, Ðấng đã ban cho chúng ta mạng
sống này: Tôi sẽ không cho giết ông, cũng không trao ông vào tay những người
ấy, những kẻ tìm hại mạng sống ông!” 17 Ông Giê-rê-mi-a nói với vua
Xít-ki-gia-hu: "Ðức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, phán thế này: Nếu ngươi
chịu ra đầu hàng các tướng lãnh của vua Ba-by-lon, tính mạng ngươi sẽ được bảo
toàn, thành này sẽ không bị phóng hoả, ngươi và gia đình sẽ được sống. 18 Nhưng
nếu ngươi không ra đầu hàng các tướng lãnh của vua Ba-by-lon, thì thành này sẽ
bị nộp vào tay quân Can-đê. Chúng sẽ phóng hoả đốt thành; còn chính ngươi,
ngươi sẽ không thoát khỏi bàn tay chúng.” 19 Vua Xít-ki-gia-hu nói
với ông Giê-rê-mi-a: "Tôi lo ngại rằng: Những người Giu-đa đã đầu hàng
quân Can-đê, sẽ trao nộp tôi vào tay chúng và chúng sẽ ngược đãi tôi.” 20 Ông
Giê-rê-mi-a nói: "Họ sẽ không trao nộp ngài đâu! Xin ngài cứ nghe tiếng
Ðức Chúa qua những điều tôi nói với ngài; ngài sẽ được an toàn và cứu được mạng
sống.21 Còn nếu ngài không chịu ra đầu hàng, thì đây là điều Ðức Chúa đã tỏ cho
tôi thấy: 22 Tất cả phụ nữ còn sót lại trong đền vua Giu-đa sẽ bị
điệu đến cho các tướng lãnh của vua Ba-by-lon. Họ sẽ nói:
Những người bạn thân tín của ngài
đã xúi giục ngài, lại còn lừa
đảo.
Chúng để cho chân ngài lún xuống
bùn sâu,
rồi tháo lui chạy trốn.
23 Tất cả vợ con ngài, người ta sẽ
điệu đến cho quân Can-đê; còn ngài, ngài sẽ không thoát khỏi tay chúng, vì ngài
sẽ bị tay vua Ba-by-lon nắm bắt; thành này sẽ bị phóng hoả."
24 Vua Xít-ki-gia-hu nói với ông
Giê-rê-mi-a: "Ðừng để cho ai biết các điều này, chẳng vậy ông sẽ phải chết.
25 Nếu các thủ lãnh nghe biết là tôi đã nói chuyện với ông, họ sẽ
đến gặp ông và nói: Xin kể cho chúng tôi biết ông đã nói gì với nhà vua, đừng
giấu gì cả; chẳng vậy, chúng tôi sẽ giết ông. Nhà vua đã nói gì với ông? 26 Ông
sẽ nói với họ: Tôi trình lên nhà vua lời thỉnh cầu xin đừng bắt tôi trở lại nhà
ông Giơ-hô-na-than, kẻo phải chết ở đó."
27 Vậy tất cả các thủ lãnh đến gặp
ông Giê-rê-mi-a và hỏi: Ông đã nói cho họ biết mọi điều đúng như lệnh truyền
của vua. Họ yên lặng rút lui, vì câu chuyện không được tiết lộ. 28 Ông
Giê-rê-mi-a ở trong sân vệ binh cho đến ngày Giê-ru-sa-lem thất thủ.
Bấy giờ, Giê-ru-sa-lem thất
thủ...
Chương 39
Số phận của ngôn sứ Giê-rê-mi-a
lúc Giê-ru-sa-lem thất thủ (2 V 25:1-12)
1 Tháng mười năm thứ chín triều
Xít-ki-gia-hu, vua Giu-đa, Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, cùng toàn thể đạo
quân tiến đánh Giê-ru-sa-lem; chúng vây hãm thành. 2 Ngày mồng chín,
tháng tư, năm thứ mười một triều Xít-ki-gia-hu, tường thành bị chọc thủng một
lỗ.
3 Tất cả các tướng lãnh của vua
Ba-by-lon đến đóng quân ở cửa giữa; đó là các tướng Néc-gan Xa E-xe, Xam-ga
Nơ-vu, quan thái giám Xác-xơ-khim, quan chiêm tinh Néc-gan Xa E-xe và tất cả
các tướng lãnh khác của vua Ba-by-lon.
4 Khi thấy chúng, đang đêm,
Xít-ki-gia-hu, vua Giu-đa, và tất cả các binh lính trốn khỏi thành theo con
đường trong vườn của vua, qua cửa giữa hai bức tường, rồi đi về hướng A-ra-va. 5
Ðạo quân Can-đê rượt theo và đuổi kịp vua Xít-ki-gia-hu trong vùng thảo
nguyên Giê-ri-khô. Chúng bắt được vua và đem lên Ríp-la, thuộc xứ Kha-mát gặp
Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon. Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo tuyên án kết tội vua Xít-ki-gia-hu.
6 Vua Ba-by-lon cho cắt cổ những người con của vua Xít-ki-gia-hu tại
Ríp-la trước mắt vua cha; tất cả hàng quý tộc Giu-đa, vua Ba-by-lon cũng đều
cho cắt cổ. 7 Rồi ông đâm mù mắt vua Xít-ki-gia-hu, lấy hai dây xích
đồng xiềng vua lại, và cho điệu về Ba-by-lon. 8 Còn đền vua và nhà
dân chúng, quân Can-đê đã phóng hoả đốt; chúng cũng triệt hạ các tường thành
Giê-ru-sa-lem. 9 Quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan bắt những người
dân còn sót lại trong thành, những người đã đầu hàng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo,
những người thợ thủ công còn sót lại, đem đi lưu đày ở Ba-by-lon. 10 Quan
chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan cho chừa lại một phần dân cùng đinh, là những
người vô sản trong xứ Giu-đa, đồng thời ông chia cho họ vườn nho và ruộng đất.
11 Còn về ông Giê-rê-mi-a,
Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, truyền lệnh cho quan chỉ huy thị vệ
Nơ-vu-dác-a-đan như sau: 12 "Hãy bắt lấy ông ta và coi chừng,
đừng làm gì hại ông ta; trái lại ông ta yêu cầu gì, cứ làm cho ông ta như
thế!"
13 Vậy vua Na-bu-cô-đô-nô-xo giao
nhiệm vụ này cho quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan, quan thái giám
Nơ-vu-sát-ban, quan chiêm tinh Néc-gan Xa E-xe, cùng tất cả các thuộc hạ của
vua.
14 Họ sai người đến đưa ông
Giê-rê-mi-a ra khỏi sân thị vệ và giao ông cho Gơ-đan-gia-hu, con ông
A-khi-cam, con ông Sa-phan, để ông Giơ-đan-gia-hu dẫn ông Giê-rê-mi-a về nhà
mình và ông Giê-rê-mi-a đã ở lại đó với dân chúng.
Sấm ngôn về E-vét Me-léc
15 Có lời Ðức Chúa phán với ông
Giê-rê-mi-a, lúc ấy đang bị giam trong sân vệ binh: 16 "Ngươi
hãy đi nói với E-vét Me-léc, người Cút rằng: Ðức Chúa các đạo binh phán như
sau: Này Ta sắp tuyên phán những lời của Ta về thành này để giáng hoạ, chứ
không phải giáng phúc. Ngày đó, các lời ấy sẽ thành sự thực trước mắt ngươi. 17
Nhưng, trong ngày đó, Ta sẽ giải thoát ngươi - sấm ngôn của Ðức Chúa -,
và ngươi sẽ không bị trao nộp vào tay những kẻ làm cho ngươi sợ. 18 Quả
thật, chắc chắn Ta sẽ cứu ngươi khỏi phải ngã gục vì gươm đao, ngươi sẽ được
sống và bảo toàn được tính mạng, bởi vì ngươi đã tin cậy vào Ta - sấm ngôn của Ðức
Chúa."
Chương 40
Số phận của ngôn sứ Giê-rê-mi-a
1 Có lời Ðức Chúa phán với ông
Giê-rê-mi-a, sau khi quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan cho thả ông ra khỏi
Ra-ma. Tại đây, quan đã gặp ông đang lúc ông bị xiềng ở giữa những người
Giê-ru-sa-lem và Giu-đa. Những người đó bị bắt đi lưu đày; họ sắp phải đem sang
Ba-by-lon.
2 Quan chỉ huy thị vệ vời ông
Giê-rê-mi-a đến và nói với ông: "Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, đã quyết
định giáng tai hoạ này xuống nơi đây, 3 và Người đã cho tai hoạ xảy
đến. Ðức Chúa thực hiện như lời Người đã phán. Các ông đã đắc tội với Ðức Chúa
và không chịu nghe tiếng Người, nên tai hoạ xảy đến cho các ông. 4 Và
giờ đây, ngày hôm nay tôi tháo xiềng xích khỏi tay ông. Nếu ông vui lòng cùng
đi với tôi đến Ba-by-lon, xin ông cứ đi, và tôi sẽ canh chừng cho ông; còn nếu
ông không thích cùng đi với tôi đến Ba-by-lon, thì thôi! Ông coi: tất cả xứ sở
đang ở trước mắt ông. Nơi nào ông thích và cho là hợp để đến đó, mời ông cứ đi.”
5 Ông chưa kịp rời khỏi nơi đó, thì quan chỉ huy thị vệ đã nói tiếp:
"Ông hãy quay về với ông Gơ-đan-gia con ông A-khi-cam, con ông Sa-phan;
ông ấy đã được vua Ba-by-lon đặt lên cai quản các thành Giu-đa. Ông cứ ở với
ông ấy, giữa các đồng bào, hoặc đi đến nơi nào ông cho là thích hợp." Quan
chỉ huy thị vệ cung cấp lương thực và quà tặng cho ông, rồi để ông đi. 6 Ông
Giê-rê-mi-a đến ở với ông Gơ-đan-gia con ông A-khi-cam, tại Mít-pa. Ông ở lại
với ông ấy, giữa các đồng bào, những người còn sót lại trong xứ.
Tổng trấn Gơ-đan-gia bị ám sát (2
V 25:22-26)
7 Tất cả các tướng lãnh chỉ huy các
đạo quân đóng ở cánh đồng, cũng như binh lính của họ, đều nghe tin là vua
Ba-by-lon đã đặt ông Gơ-đan-gia con ông A-khi-cam cai quản trong xứ, và cũng
nghe tin là vua đã đặt ông coi sóc đàn ông, đàn bà, trẻ con và những người cùng
đinh trong xứ, là những người không phải đi lưu đày ở Ba-by-lon. 8 Những
người đến gặp ông Gơ-đan-gia tại Mít-pa, là các ông Gít-ma-ên con ông
Nơ-than-gia-hu, Giô-kha-nan và Giô-na-than là các con ông Ca-rê-ác, Xơ-ra-gia
con ông Tan-khu-mét và các con ông Ê-phai người Nơ-tô-pha, Gi-dan-gia-hu người
Ma-a-kha, và binh lính của họ. 9 Ông Gơ-đan-gia con ông A-khi-cam,
con ông Sa-phan đã thề với họ và binh lính của họ rằng: "Ðừng sợ làm tôi
người Can-đê, cứ ở lại trong xứ và làm tôi vua Ba-by-lon, các ông sẽ được thoải
mái. 10 Còn tôi, này tôi ở lại Mít-pa để phục vụ người Can-đê khi họ
đến ở giữa chúng ta. Phần các ông, hãy thu tích rượu nho, trái cây và dầu, rồi
chứa trong các vò. Các ông hãy ở lại trong các thành các ông đã chiếm
được."
11 Tất cả những người Giu-đa đang ở
Mô-áp giữa con cái Am-mon, ở Ê-đôm, cũng như những người đang ở tất cả các xứ
đều nghe tin là vua Ba-by-lon đã chừa lại một số dân còn sót ở Giu-đa, và cũng
nghe tin là vua Ba-by-lon đã đặt ông Gơ-đan-gia con ông A-khi-cam, con ông
Sa-phan cai quản họ. 12 Tất cả những người Giu-đa đã từ những nơi
phân tán trở về; họ đến xứ Giu-đa sinh sống bên cạnh ông Gơ-đan-gia, tại
Mít-pa. Họ đã thu tích được rất nhiều rượu và trái cây.
13 Ông Giô-kha-nan con ông Ca-rê-ác
và tất cả các tướng lãnh chỉ huy các đạo quân đóng ở cánh đồng đến gặp ông
Gơ-đan-gia, tại Mít-pa, 14 và nói với ông: "Ông có biết rằng
Ba-a-lít, vua dân Am-mon, đã sai Gít-ma-ên con ông Nơ-than-gia đến hại mạng
sống ông không? " Nhưng ông Gơ-đan-gia con ông A-khi-cam không tin lời họ.
15 Ông Giô-kha-nan con ông Ca-rê-ác bí mật nói với ông Gơ-đan-gia
tại Mít-pa, rằng: "Xin ông cho tôi đi giết Gít-ma-ên con ông Nơ-than-gia.
Không ai biết đâu. Tại sao nó lại hại mạng sống ông? Tại sao những người Giu-đa
tụ tập bên ông lại phải tứ tán? Tại sao những người Giu-đa còn sót lại bị tiêu
diệt?” 16 Ông Gơ-đan-gia con ông A-khi-cam nói với ông Giô-kha-nan
con ông Ca-rê-ác: "Ðừng làm thế, bởi vì điều ông nói về Gít-ma-ên, không
đúng đâu!"
Chương 41
1 Vậy, vào tháng bảy, Gít-ma-ên con
Nơ-than-gia, cháu Ê-li-sa-ma, thuộc hoàng tộc, một trong những quan lớn của nhà
vua cùng với mười người đến gặp ông Gơ-đan-gia ở Mít-pa. Ðang lúc họ ăn uống
với nhau ở đó, tại Mít-pa, 2 thì Gít-ma-ên con ông Nơ-than-gia cùng
với mười người đi theo đứng lên rút gươm hạ sát ông Gơ-đan-gia con ông
A-khi-cam cháu ông Sa-phan. Họ đã giết chết ông, người đã được vua Ba-by-lon
đặt lên trông coi cả xứ. 3 Còn mọi người Giu-đa đang ở với ông
Gơ-đan-gia, tại Mít-pa và những người Can-đê, những chiến binh, bấy giờ đang ở
đó, Gít-ma-ên cũng giết luôn.
4 Ngày thứ hai sau khi ông
Gơ-đan-gia bị giết mà chưa ai hay, 5 thì có đoàn người từ Si-khem,
Si-lô và Sa-ma-ri đến, gồm tám mươi người, râu cạo nhẵn, quần áo xé rách, mình
đầy vết rạch, tay mang lễ phẩm và hương thơm đến nhà Ðức Chúa. 6 Gít-ma-ên
con Nơ-than-gia từ Mít-pa ra đón họ, vừa đi vừa khóc. Gặp họ rồi, ông ta nói
với họ: "Các ông hãy vào gặp ông Gơ-đan-gia con ông A-khi-cam.” 7 Nhưng
khi họ vào đến giữa thành, thì Gít-ma-ên con Nơ-than-gia cùng những người đi
theo, đã giết cả bọn, rồi quăng xác vào giữa hầm nước. 8 Nhưng trong
số những người ấy, có mười người nói với Gít-ma-ên: "Ðừng giết chúng tôi,
vì chúng tôi có những kho dự trữ lúa mì, lúa mạch, dầu và mật giấu trong cánh
đồng. Thế là ông ấy thôi không giết họ cùng với các anh em của họ. 9 Còn
cái hầm nước, nơi Gít-ma-ên đã quăng xác những người bị ông sát hại, chính là
hầm nước lớn vua A-xa đã làm để chống lại Ba-sa, vua Ít-ra-en; Gít-ma-ên con
Nơ-than-gia đã ném xác các nạn nhân xuống đầy hầm đó. 10 Rồi
Gít-ma-ên đã bắt tất cả số người còn lại trong dân ở Mít-pa làm tù binh: các
con gái của vua và tất cả dân còn lại ở Mít-pa, thuộc quyền ông Gơ-đan-gia con
ông A-khi-cam, người được quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan, đặt lên trông
coi; Gít-ma-ên con Nơ-than-gia đã bắt họ làm tù binh và lên đường sang chỗ dân
Am-mon.
11 Khi Giô-kha-nan con ông Ca-rê-ác
và toàn thể các vị chỉ huy quân đội đang ở với ông, nghe biết mọi tai hoạ
Gít-ma-ên con Nơ-than-gia đã gây ra, 12 ông đem tất cả quân của mình
đi giao chiến với Gít-ma-ên con Nơ-than-gia. Họ gặp Gít-ma-ên tại Hồ lớn ở
Ghíp-ôn. 13 Khi thấy ông Giô-kha-nan con ông Ca-rê-ác và toàn thể
các vị chỉ huy quân đội đang ở với ông, toàn dân ở bên Gít-ma-ên mừng rỡ. 14
Toàn dân đã bị Gít-ma-ên bắt đi khỏi Mít-pa làm tù binh, liền quay ngược
lại, đi về phía ông Giô-kha-nan con ông Ca-rê-ác. 15 Còn Gít-ma-ên
con Nơ-than-gia cùng với tám người đã thoát khỏi tay ông Giô-kha-nan thì sang
chỗ dân Am-mon. 16 Bấy giờ, ông Giô-kha-nan con ông Ca-rê-ác cùng
với toàn thể các vị chỉ huy quân đội đang ở với ông, đem tất cả những người còn
lại trong dân đã bị Gít-ma-ên con Nơ-than-gia bắt đi khỏi Mít-pa làm tù binh,
sau khi ông ta đã giết ông Gơ-đan-gia con ông A-khi-cam. Họ là đám đàn ông
chiến binh, đàn bà, con trẻ cũng như các quan thái giám đã được đưa từ Ghíp-ôn về.
17 Họ lên đường và dừng lại ở Bi-ghe-rút Kim-ham gần Bê-lem, rồi đi
đến Ai-cập để 18 tránh quân Can-đê. Họ sợ những người này, vì Gít-ma-ên con
Nơ-than-gia đã giết ông Gơ-đan-gia con ông A-khi-cam, người đã được vua
Ba-by-lon đặt lên trông coi cả xứ.
Chương 42
Trốn sang Ai-cập
1 Vậy toàn thể các vị chỉ huy quân
đội, cũng như ông Giô-kha-nan con ông Ca-rê-ác và ông Giơ-dan-gia con ông
Hô-sa-gia cùng toàn dân từ người nhỏ đến người lớn tới 2 thưa với ngôn sứ
Giê-rê-mi-a: "Ước chi lời thỉnh cầu của chúng tôi được ông chấp nhận! Xin
ông cầu cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông, cho chúng tôi và cho tất cả những
người còn lại đây, bởi vì chúng tôi chỉ còn lại một số rất ít, chứ không còn
nhiều nữa, như chính mắt ông đang chứng kiến. 3 Ước gì Ðức Chúa,
Thiên Chúa của ông, chỉ cho chúng tôi con đường phải đi và những việc phải làm!”
4 Ngôn sứ Giê-rê-mi-a trả lời họ: "Tôi đã nghe thấy rồi. Này
tôi sẽ cầu cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, như lời anh em xin, và mọi
điều Ðức Chúa đáp lại, tôi sẽ cho anh em biết, không giữ lại một điều nào cả!” 5
Họ lại thưa với ông Giê-rê-mi-a: "Có Ðức Chúa chân thật và trung tín
làm chứng cho chúng tôi, nếu chúng tôi không thi hành đúng như mọi điều Ðức
Chúa, Thiên Chúa của ông, gửi đến cho ông để ông nói cho chúng tôi. 6 Dầu
thích hay không, chúng tôi cũng sẽ vâng nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng
tôi, là Ðấng chúng tôi cử ông đến. Như vậy chúng tôi sẽ được hạnh phúc vì đã
vâng nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi.
7 Hết mười ngày, có lời Ðức Chúa
phán với ông Giê-rê-mi-a. 8 Bấy giờ, ông cho gọi ông Giô-kha-nan con
ông Ca-rê-ác và toàn thể các vị chỉ huy quân đội đang ở với ông cũng như toàn
dân từ người nhỏ đến người lớn. 9 Ông bảo họ: "Ðức Chúa, Thiên
Chúa Ít-ra-en là Ðấng anh em đã cử tôi đến để dâng lời cầu khẩn của anh em lên
trước nhan Người; Người phán như sau: 10 Nếu các ngươi nhất định ở
lại xứ này, thì Ta sẽ xây các ngươi chứ không phá, sẽ trồng chứ không nhổ, bởi
vì Ta hối tiếc về tai hoạ Ta đã giáng cho các ngươi. 11 Ðừng sợ vua
Ba-by-lon như các ngươi đang sợ; đừng sợ nó - sấm ngôn của Ðức Chúa - bởi vì
chính Ta ở với các ngươi để cứu độ các ngươi, để giải thoát các ngươi khỏi tay
nó. 12 Ta sẽ cho các ngươi gặp được lòng thương xót và khiến nó
thương xót các ngươi và cho các ngươi trở về đất nước các ngươi. 13 Còn
nếu các ngươi bảo: "Chúng tôi sẽ không ở lại xứ này", không chịu vâng
nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, 14 nếu các ngươi bảo:
"Không! Chính Ai-cập mới là nơi chúng tôi đến, ở đó chúng tôi sẽ chẳng còn
thấy chiến tranh, không còn phải nghe tiếng kèn thúc quân nữa, chẳng còn lo
thiếu thốn bánh ăn: chính đó mới là nơi chúng tôi cư ngụ", 15 thì,
hãy nghe lời Ðức Chúa, hỡi những người Giu-đa còn sót lại: Ðức Chúa các đạo
binh, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán thế này: Nếu các ngươi cứ nhất định lên đường
đi tới Ai-cập và trú ngụ tại đó, 16 thì lưỡi gươm các ngươi vẫn sợ
sẽ đón chờ các ngươi ở đó, trên đất Ai-cập, và nạn đói các ngươi vẫn ái ngại sẽ
theo sát các ngươi ở đó, bên Ai-cập: chính tại đó, các ngươi sẽ phải chết! 17
Tất cả những người cứ nhất định lên đường đi tới Ai-cập và trú ngụ tại đó, sẽ
phải chết vì gươm đao, đói kém và ôn dịch: sẽ chẳng có người nào trong bọn
chúng còn sống sót hoặc thoát khỏi nạn đói mà chính Ta cho ập xuống trên chúng!
18 Quả thật, Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán thế này: Cũng như
Ta đã nổi cơn lôi đình thịnh nộ với dân cư Giê-ru-sa-lem thế nào, thì Ta cũng
nổi cơn thịnh nộ với các ngươi như thế, nếu các ngươi sang Ai-cập. Các ngươi sẽ
trở nên lời nguyền rủa, nên đồ kinh tởm, nên lời chúc dữ, nên trò ô nhục, và sẽ
không còn nhìn thấy chốn này nữa. 19 Hỡi những người Giu-đa còn sót
lại, Ðức Chúa đã phán về anh em như sau: "Các ngươi đừng đến Ai-cập."
Xin anh em biết rõ cho rằng hôm nay tôi đã thông báo cho anh em: 20 Anh
em đã lầm lạc, khi cử tôi đến với Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, và bảo:
"Xin ông cầu cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, giúp chúng tôi. Và
Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, phán thế nào, ông cứ thông báo lại cho
chúng tôi như vậy; chúng tôi xin thi hành.” 21 Ngay hôm nay, tôi
thông báo cho anh em, nhưng anh em đã chẳng vâng nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên
Chúa của anh em, chẳng theo những điều Người đã sai tôi đến nói với anh em. 22
Vậy, xin anh em biết rõ cho là: anh em sẽ phải chết vì gươm đao, đói kém
và ôn dịch tại nơi anh em thích đến trú ngụ."
Chương 43
1 Sau khi ông Giê-rê-mi-a nói với
toàn dân tất cả những lời mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, đã tuyên phán, tất cả
những lời mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, sai ông đến nói với họ, 2 thì
ông A-dác-gia con ông Hô-sa-gia, ông Giô-kha-nan con ông Ca-rê-ác và tất cả
những con người ngạo mạn ấy liền nói với ông Giê-rê-mi-a: "Ông chỉ nói
toàn điều dối trá: Ðức Chúa đâu có sai ông đến nói với chúng tôi: "Ðừng
đến Ai-cập mà trú ngụ! 3 Nhưng chính Ba-rúc, con ông Nê-ri-gia, đã xúi ông
chống lại chúng tôi để nộp chúng tôi vào tay quân Can-đê cho chúng tôi bị giết
và bị bắt đi đày sang Ba-by-lon."
4 Thế là ông Giô-kha-nan con ông
Ca-rê-ác và toàn thể các vị chỉ huy quân đội cũng như toàn dân đã không chịu
vâng nghe tiếng Ðức Chúa bảo ở lại xứ Giu-đa. 5 Ông Giô-kha-nan con
ông Ca-rê-ác và toàn thể các vị chỉ huy quân đội đã đem tất cả những người
Giu-đa còn sót lại, những người đã trở về đất Giu-đa từ khắp mọi dân họ bị xua
đến, 6 đó là đàn ông, đàn bà, con trẻ, các con gái của vua và mọi
người mà Nơ-vu-dác-a-đan đã giao phó cho ông Gơ-đan-gia con ông A-khi-cam cháu
ông Sa-phan, kể cả ngôn sứ Giê-rê-mi-a lẫn ông Ba-rúc con ông Nê-ri-gia. 7
Vậy họ đã sang đến Ai-cập bởi vì họ không vâng nghe tiếng Ðức Chúa. Họ
đến tận Tác-pan-khết.
Ông Giê-rê-mi-a báo tin
Na-bu-cô-đô-nô-xo xâm lăng Ai-cập
8 Bấy giờ có lời Ðức Chúa phán với
ông Giê-rê-mi-a ở Tác-pan-khết rằng: 9 Ngươi hãy bê những tảng đá
lớn và trước mắt những người Giu-đa, ngươi hãy vùi xuống nền đất pha vữa ở cửa
đền Pha-ra-ô tại Tác-pan-khết. 10 Rồi ngươi hãy nói với chúng:
"Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán như sau: Này, Ta sẽ cho
vời Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, tôi tớ của Ta đến; Ta sẽ đặt ngai vàng
của nó bên trên những tảng đá Ta đã vùi đi, và nó sẽ giương lều trên những tảng
đá ấy. 11 Nó sẽ đến đánh phá đất Ai-cập:
Kẻ nào phải chết thì chết!
Kẻ nào phải đi đày thì đi đày!
Kẻ nào bị gươm đâm thì bị gươm
đâm!
12 Nó sẽ châm lửa đốt các đền thờ
thần Ai-cập; nó sẽ thiêu huỷ và đưa chúng đi đày, nó sẽ quấn lấy đất Ai-cập
giống như người mục tử lấy áo mà quấn vào mình, rồi nó sẽ ra khỏi đó bình an. 13
Nó sẽ đập nát các trụ đá của Bết Se-mét trong xứ Ai-cập và thiêu huỷ các
đền thờ thần Ai-cập.
Chương 44
Sứ mạng cuối cùng của ông
Giê-rê-mi-a.
Người Giu-đa ở Ai-cập và Thiên Nữ
Hoàng
1 Có lời phán với ông Giê-rê-mi-a
về tất cả những người Giu-đa đang cư ngụ trên đất Ai-cập, đang cư ngụ ở
Mích-đôn, ở Tác-pan-khết, ở Nốp và trên đất Pát-rốt.
2 Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa
Ít-ra-en, phán thế này: Các ngươi đã chứng kiến mọi tai hoạ Ta giáng xuống
Giê-ru-sa-lem và tất cả các thành Giu-đa: Này, các thành ấy hiện vẫn còn hoang
tàn, không ai cư ngụ. 3 Chính vì những điều gian ác chúng đã làm để
chọc giận Ta, là đi dâng hương và phụng thờ các thần khác mà chính chúng cũng
như các ngươi và cha ông các ngươi đã không biết. 4 Ta đã không
ngừng sai đến với các ngươi tất cả các tôi tớ Ta là các ngôn sứ để nói rằng:
"Chớ làm điều ghê tởm mà Ta ghét ấy!” 5 Nhưng chúng chẳng thèm
nghe, chẳng thèm lắng tai và từ bỏ điều gian ác của mình mà trở lại, là thôi
không dâng hương cho các thần khác nữa. 6 Vì thế, Ta đã nổi cơn lôi
đình thịnh nộ đốt cháy các thành Giu-đa và các đường phố Giê-ru-sa-lem; những
nơi ấy đã nên chốn hoang tàn đổ nát như thấy ngày nay. 7 Giờ đây,
Ðức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán thế này: Tại sao
các ngươi lại gây cho mình một tai hoạ lớn lao như thế, là diệt hết đàn ông,
đàn bà, trẻ con và hài nhi khỏi Giu-đa, không để sót lại một người nào? 8 Các
ngươi chọc giận Ta bằng những việc tay các ngươi làm, là dâng hương cho các
thần khác trên đất Ai-cập, nơi các ngươi đến trú ngụ, khiến các ngươi phải bị
tận diệt và trở nên lời chúc dữ, nên trò ô nhục cho mọi dân tộc trên cõi đất. 9
Chẳng lẽ các ngươi đã quên mất những điều gian ác của cha ông các ngươi,
những điều gian ác của các vua Giu-đa, những điều gian ác của vợ các vua ấy,
những điều gian ác của các ngươi, những điều gian ác của vợ các ngươi mà tất cả
chúng đã làm trong đất Giu-đa và trên các đường phố Giê-ru-sa-lem rồi sao? 10
Cho đến ngày nay, chúng không chút hối hận, không sợ hãi, cũng chẳng sống theo
Lề Luật và các thánh chỉ mà Ta đã đưa ra trước mặt các ngươi, và trước mặt cha
ông các ngươi. 11 Vì thế Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa Ít-ra-en,
phán như sau: Này Ta sắp quay mặt mà giáng hoạ trên các ngươi, và tiêu diệt
toàn thể Giu-đa. 12 Ta sẽ đem đi những người Giu-đa còn sót lại,
những kẻ đã lên đường sang Ai-cập và trú ngụ tại đó; tất cả sẽ bị tận diệt trên
đất Ai-cập, và sẽ ngã gục vì gươm đao, sẽ bị tận diệt vì đói kém; từ bé chí
lớn, tất cả sẽ phải chết vì gươm đao, đói kém, sẽ nên lời nguyền rủa, nên đồ
kinh tởm, nên lời chúc dữ và trò ô nhục. 13 Ta sẽ trừng phạt dân cư
ở đất Ai-cập, như đã trừng phạt Giê-ru-sa-lem, bằng gươm đao, đói kém và ôn
dịch. 14 Trong số những người Giu-đa còn sót lại đã đến đất Ai-cập
và trú ngụ tại đó, sẽ chẳng có ai thoát thân hoặc sống sót mà trở về đất
Giu-đa, nơi chúng rất ao ước được trở về cư ngụ. Thật vậy, chúng sẽ chẳng được
trở về, trừ vài người thoát thân.
15 Bấy giờ, tất cả những người biết
là vợ mình đã dâng hương cho các thần khác và tất cả các phụ nữ hiện diện -
đông như một đại hội - cũng như toàn dân đang cư ngụ trên đất Ai-cập, ở
Pát-rốt, đã đáp lại ông Giê-rê-mi-a rằng: 16 "Ðiều ông vừa nói
với chúng tôi nhân danh Ðức Chúa, chúng tôi cũng chẳng có nghe! 17 Chúng tôi cứ
làm mọi điều miệng chúng tôi đã nói ra, là dâng hương kính Thiên Nữ Hoàng và
làm các lễ tưới kính thần ấy, như chúng tôi, cha ông chúng tôi, các vua của
chúng tôi, các thủ lãnh của chúng tôi đã làm trong các thành Giu-đa và trên các
đường phố Giê-ru-sa-lem: bấy giờ chúng tôi sẽ có dư đầy bánh ăn, sẽ được hạnh
phúc và chẳng còn gặp phải tai hoạ nào. 18 Từ khi thôi không dâng
hương kính Thiên Nữ Hoàng và không làm các lễ tưới kính thần ấy nữa, chúng tôi
thiếu thốn đủ thứ và bị tận diệt vì gươm đao đói kém!” 19 Các phụ nữ
lại nói thêm: "Khi chúng tôi dâng hương kính Thiên Nữ Hoàng và làm các lễ
tưới kính thần ấy, phải chăng chồng chúng tôi không biết là chúng tôi làm những
chiếc bánh tượng trưng thần ấy và làm các lễ tưới kính thần ấy?"
20 Nhưng ông Giê-rê-mi-a nói với
toàn dân, với đàn ông, đàn bà, những người đã trả lời ông; ông nói: 21 "Phải
chăng hương mà các người, cha ông các người, các vua và thủ lãnh của các người,
cũng như dân trong xứ đã dâng trong các thành Giu-đa và trên các đường phố Giê-ru-sa-lem,
Ðức Chúa lại không nhớ và không lưu tâm đến tất cả hay sao? 22 Ðức Chúa không
còn chịu được nữa các hành vi gian ác của các người, các điều ghê tởm các người
đã làm: vì thế xứ sở các người sẽ nên đồ ghê tởm, nên lời chúc dữ, nên chốn
hoang tàn không ai cư ngụ, như thấy hiện nay. 23 Chính vì các người
đã dâng hương, đã đắc tội với Ðức Chúa, đã không vâng nghe tiếng Ðức Chúa, lại
không sống theo Lề Luật, các thánh chỉ và các mệnh lệnh của Người; bởi vậy các
người gặp phải tai hoạ như thấy ngày nay."
24 Rồi ông Giê-rê-mi-a nói với toàn
dân, nhất là với tất cả các phụ nữ: "Hãy nghe lời Ðức Chúa, hỡi toàn thể
Giu-đa đang ở đất Ai-cập: 25 Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa
Ít-ra-en, phán thế này: Các ngươi cùng với vợ các ngươi, miệng đã nói, tay đã làm.
Các ngươi đã nói: Chúng tôi cứ thực hiện những lời chúng tôi đã khấn hứa là
dâng hương cho Thiên Nữ Hoàng và làm các lễ tưới kính thần ấy. Hãy cứ đi mà chu
toàn những lời các người đã khấn hứa. 26 Nhưng hãy nghe lời Ðức
Chúa, hỡi toàn thể Giu-đa đang cư ngụ ở đất Ai-cập: Này Ta lấy chính Danh vĩ
đại của Ta mà thề, Ðức Chúa phán. Danh Ta sẽ không còn được bất cứ người Giu-đa
nào kêu cầu nữa; trên toàn cõi Ai-cập, sẽ không còn ai nói "Có Chúa Thượng
là Ðức Chúa hằng sống.” 27 Này Ta sẽ canh chừng để giáng hoạ chứ
không giáng phúc cho chúng; tất cả mọi người Giu-đa đang ở đất Ai-cập sẽ phải
chết vì gươm đao và đói kém cho đến khi chúng bị tiêu diệt hoàn toàn. 28 Nhưng
chỉ có mấy người, một số rất ít, thoát khỏi gươm đao, sẽ rời bỏ đất Ai-cập mà
trở về đất Giu-đa. Bấy giờ, tất cả những người Giu-đa còn sót lại, những người
đã sang đất Ai-cập và trú ngụ tại đó, sẽ nhận biết: lời của Ta hay lời của
chúng sẽ ứng nghiệm."
29 Ðây sẽ là dấu hiệu cho các ngươi
- sấm ngôn của Ðức Chúa - khi Ta đích thân viếng thăm các ngươi ở nơi này, để
các ngươi biết rằng các lời Ta lên án các ngươi sẽ được thực hiện, là giáng hoạ
cho các ngươi. 30 Ðức Chúa phán như sau: Này, Ta sắp trao Pha-ra-ô
Khóp-ra, vua Ai-cập, vào tay kẻ thù của nó, vào tay những kẻ tìm hại mạng sống
nó, cũng như Ta đã trao Xít-ki-gia-hu, vua Giu-đa, vào tay Na-bu-cô-đô-nô-xo,
vua Ba-by-lon, là kẻ thù của nó và là kẻ tìm hại mạng sống nó."
Chương 45
Lời an ủi ông Ba-rúc
1 Có lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a nói
với ông Ba-rúc, con ông Nê-ri-gia, khi ông này viết vào một cuốn sách, những
lời trên, do ngôn sứ Giê-rê-mi-a đọc cho, năm thứ tư triều Giô-gia-kim, con vua
Giơ-hô-si-gia, làm vua Giu-đa. 2 Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán
về anh thế này, hỡi Ba-rúc. 3 Anh đã nói: "Khốn thân tôi, vì
Ðức Chúa đã chất thêm buồn sầu lên nỗi đau khổ của tôi. Tôi kiệt lực vì than
vãn, tôi chẳng tìm được sự an nghỉ!” 4 Anh hãy thưa với Người như
sau: Ðức Chúa phán: Này, cái gì Ta đã xây, chính Ta sẽ phá, và cái gì Ta đã
trồng, chính Ta sẽ nhổ, và điều đó áp dụng cho toàn cõi đất! 5 Còn ngươi, ngươi
cứ đòi những điều to tát; thôi, đừng đòi nữa, vì này Ta sắp giáng tai hoạ xuống
trên mọi xác phàm, - sấm ngôn của Ðức Chúa. Về phần ngươi, bất cứ nơi nào ngươi
đến, ít ra Ta cũng cho ngươi được an toàn tính mạng."
Chương 46
1 Có lời Ðức Chúa phán với ngôn sứ
Giê-rê-mi-a để lên án các dân tộc.
V. Những Lời Sấm Lên Án Các Dân
Tộc
Những lời sấm lên án Ai-cập
Ai-cập thua trận tại Các-cơ-mít
2 Về Ai-cập.
Chống lại đạo binh của Pha-ra-ô
Nơ-khô, vua Ai-cập, đóng tại bờ sông Êu-phơ-rát ở Các-cơ-mít. Pha-ra-ô Nơ-khô
đã bị Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, đánh bại vào năm thứ tư đời
Giơ-hô-gia-kim, con Giô-si-gia, vua Giu-đa.
3 Hãy chuẩn bị mang khiên thuẫn,
mang lá chắn
mà xông ra chiến địa!
4 Kỵ binh hỡi, nào thắng ngựa, lên
yên,
nhập hàng ngũ, đội mũ chiến lên
đầu;
lau chùi giáo mác cho sạch bóng,
rồi mặc áo giáp vào.
5 Mà sao tôi lại thấy chúng sợ hãi
rút lui?
Dũng sĩ của chúng bị đánh tơi
bời,
trốn chạy tứ tán, không dám quay
nhìn lại.
Tứ phía kinh hoàng, sấm ngôn của
Ðức Chúa!
6 Người nhanh chân chẳng sao chạy
trốn.
Cả người hùng cũng không thể
thoát thân.
Tại phương Bắc, trên bờ
sông Êu-phơ-rát, chúng lảo đảo té
nhào.
7 Kẻ nào đó tiến lên tựa sông Nin,
như những dòng sông nước cuồn
cuộn chảy?
8 Ðó là Ai-cập tiến lên tựa sông
Nin,
như những dòng sông nước cuồn
cuộn chảy.
Ai-cập nói: "Ta sẽ tiến lên
bao trùm mặt đất,
phá huỷ thành thị, tiêu diệt các
cư dân.
9 Này chiến mã, tiến lên nào,
chiến xa ơi, hãy cuồng nộ lăn
bánh;
hãy đem quân xuất trận, hỡi tướng
dũng binh hùng,
nào người Cút, người Pút mang
khiên mộc,
người Lút cầm cung và giương
nỏ."
10 Ngày ấy là ngày của Chúa Thượng,
Ðức Chúa các đạo binh,
ngày báo oán trị tội các đối
phương của Người.
Gươm sẽ ăn no thoả, kiếm uống máu
say sưa,
vì đó là hy lễ dâng Chúa Thượng,
Ðức Chúa các đạo binh,
tại đất Bắc, trên bờ sông
Êu-phơ-rát.
11 Hãy lên Ga-la-át lấy dầu thoa,
hỡi trinh nữ con gái Ai-cập!
Ngươi có lấy thuốc nhiều cũng vô
ích,
vết thương của ngươi sẽ chẳng
lành!
12 Các nước đã nghe biết nỗi ô nhục
của ngươi;
tiếng ngươi kêu la vang rền trái
đất;
vì người hùng lảo đảo vấp phải
người hùng,
cả hai cùng té nhào một lúc.
Ai-cập bị xâm lăng
13 Ðây là lời Ðức Chúa phán với ngôn
sứ Giê-rê-mi-a, khi Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, đánh nước Ai-cập.
14 Hãy loan báo ở Ai-cập, hãy công
bố tại Mích-đôn,
hãy công bố ở Nốp và Tác-pan-khết
rằng: Hãy nhập ngũ, hãy chuẩn bị
sẵn sàng
vì gươm đang chém giết chung
quanh ngươi.
15 Tại sao bò tót lại bị lật nhào?
Tại sao nó không chống cự nổi?
Vì Ðức Chúa đã xô đẩy nó.
16 Ðức Chúa làm cho nhiều người lảo
đảo,
kẻ này ngã xuống đè lên kẻ kia.
Họ nói: "Hãy chỗi dậy, nào
ta quay về với dân ta
và trở về sinh quán, để thoát
khỏi lưỡi gươm giết người."
17 Họ đặt tên cho Pha-ra-ô, vua
Ai-cập,
là "Náo động ồn ào, bỏ lỡ
dịp may."
18 Ðây là lời sấm của Ðức Vua,
danh Người là Ðức Chúa các đạo
binh:
Ta lấy mạng sống Ta mà thề!
Như núi Ta-bo nằm giữa các ngọn
núi,
như núi Các-men nhô ra vùng biển,
quân xâm lăng cũng sẽ đến như
vậy!
19 Hỡi toàn thể dân cư Ai-cập, hãy
lo khăn gói mà đi đày,
vì Nốp sẽ nên mối kinh hoàng sợ
hãi,
sẽ trở thành hoang phế, vắng bóng
cư dân.
20 Ai-cập là con bò tơ xinh đẹp,
bị ruồi trâu từ phương Bắc đến
đậu trên mình.
21 Ở giữa nó, bọn lính đánh thuê
giống như đàn bò tơ được nuôi cho
béo mập,
cả chúng nữa cũng quay lưng,
cùng nhau chạy trốn, không chống
cự lại.
Quả thật, ngày nguy nan của
chúng,
thời chúng bị trừng phạt đến nơi
rồi!
22 Tiếng nó tựa như tiếng rít của
con rắn bò đi,
khi quân địch đem binh hùng kéo
đến;
chúng mang rìu xông đánh như
những tiều phu.
23 Chúng chặt phá khu rừng của nó
- sấm ngôn của Ðức Chúa - dù khu
rừng đó không ai vào được.
Chúng đông hơn châu chấu cào cào,
chẳng có ai đếm nổi.
24 Toàn thể dân cư Ai-cập phải xấu
hổ nhục nhằn,
nó bị nộp vào tay một dân tộc
phương Bắc.
25 Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa
của Ít-ra-en, đã phán: "Này Ta sắp trừng trị thần A-môn thành Nô, Pha-ra-ô
và Ai-cập, các thần và các vua Ai-cập, Pha-ra-ô và những kẻ đặt tin tưởng vào
nó. 26 Ta sẽ nộp chúng vào tay những kẻ tìm hại mạng sống chúng, vào
tay Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, vào tay đám bầy tôi của vua ấy. Nhưng sau
đó, xứ Ai-cập lại có dân đến ở như những ngày xa xưa - sấm ngôn của Ðức
Chúa."
27 Còn ngươi, hỡi Gia-cóp, tôi tớ
của Ta, đừng sợ hãi,
hỡi Ít-ra-en, chớ khiếp kinh,
vì này đây Ta sẽ cứu ngươi khỏi
các miền xa xôi hẻo lánh,
sẽ cứu dòng dõi ngươi khỏi đất
lưu đày.
Gia-cóp sẽ trở về lại, sẽ được
hưởng bình an và sống an toàn,
không bị ai làm cho sợ hãi.
28 Còn ngươi, hỡi Gia-cóp, tôi tớ
của Ta, đừng sợ hãi,
- sấm ngôn của Ðức Chúa - vì Ta ở
với ngươi.
Ta sẽ lên án tiêu diệt mọi dân
nước
là những nơi Ta đã xua ngươi tới
ở;
nhưng Ta sẽ không lên án tiêu
diệt ngươi.
Tuy nhiên, Ta sẽ sửa trị ngươi
theo lẽ công bình,
không để cho ngươi thoát khỏi
hình phạt.
Chương 47
Lời sấm lên án người Phi-li-tinh
1 Có lời Ðức Chúa phán với ngôn sứ
Giê-rê-mi-a về người Phi-li-tinh trước khi Pha-ra-ô đánh Ga-da.
2 Ðức Chúa phán thế này:
Này đây nước dâng lên từ phương
Bắc,
biến thành thác lũ chảy lan tràn,
tràn ngập khắp xứ sở và mọi vật
trong đó,
tràn ngập cả thành thị lẫn cư
dân.
Thiên hạ kêu la inh ỏi, mọi cư
dân trong xứ đều khóc rú lên.
3 Tiếng vó ngựa lộp cộp, tiếng
chiến xa vang rền,
tiếng bánh xe ầm ĩ, khiến người
cha, hai tay bủn rủn,
chẳng còn màng đến con.
4 Bởi vì Ngày ấy đến tiêu diệt mọi
người Phi-li-tinh,
khiến cả Tia lẫn Xi-đôn
không còn sót lại ai để tiếp cứu.
Phải, Ðức Chúa tiêu diệt người
Phi-li-tinh,
là cư dân đảo Cáp-to còn sót lại.
5 Ga-da đã cạo đầu xuống tóc,
Át-cơ-lôn cũng bị tiêu tan.
Này ngươi, hỡi phần dân còn lại
đang sống trong thung lũng của
chúng,
cho đến bao giờ ngươi sẽ rạch
mình?
6 Ôi, gươm của Ðức Chúa,
ngươi không được nghỉ ngơi mãi
đến bao giờ?
Hãy lại rút vào bao, ở yên, ngưng
lại!
7 Ngươi nghỉ sao được, khi Ðức Chúa
còn ra lệnh truyền?
Át-cơ-lôn và vùng duyên hải, đó
là nơi Người đã định cho nó.
Chương 48
Các lời sấm lên án Mô-áp
1 Về Mô-áp. Ðức Chúa các đạo binh,
Thiên Chúa của Ít-ra-en, phán thế này:
Khốn cho Nơ-vô, vì nó đã bị phá
tan!
Kia-gia-tha-gim phải hổ ngươi, vì
đã bị chiếm đóng,
thành kiên cố phải mất mặt, vì đã
bị phá huỷ.
2 Niềm kiêu hãnh của Mô-áp, nay còn
đâu!
Ở Khét-bôn, người ta mưu toan gây
tai hoạ cho nó:
"Nào ta hãy loại nó ra khỏi
các dân nước! "
Cả Mát-mên nữa, ngươi cũng sẽ bị
tiêu vong,
bị lưỡi gươm đuổi theo sát gót.
3 Từ Khô-rô-na-gim dội về tiếng la
ó: "Tàn phá, đại hoạ!"
4 Mô-áp bị phá huỷ, trẻ em khắp vùng
lên tiếng kêu la.
5 Phải, tại đèo Lu-khít, thiên hạ
vừa leo vừa nức nở;
nơi dốc Khô-rô-na-gim, quân địch
nghe tiếng kêu la bại trận:
6 "Trốn đi, liệu mà thoát
thân!
Hãy bắt chước lừa hoang trong sa
mạc!"
7 Vì ngươi đặt tin tưởng vào các
việc làm và kho báu của ngươi,
nên cả ngươi nữa, ngươi cũng sẽ
bị chiếm đóng.
Thần Cơ-mốt sẽ đi đày, cùng với
hàng tư tế và thủ lãnh của nó.
8 Kẻ tàn phá sẽ vào hết mọi thành,
và không thành nào thoát khỏi.
Thung lũng sẽ tiêu tan, đồng bằng
cũng bị phá huỷ,
như lời Ðức Chúa phán trước kia.
9 Hãy chắp cánh cho Mô-áp vì nó
muốn bay ra.
Các thành của nó sẽ nên mối kinh
tởm, ở đó chẳng còn ai cư ngụ.
10 (Khốn cho ai lơ là với công việc
của Ðức Chúa!
Khốn cho kẻ nào không chịu để cho
gươm mình vấy máu!)
11 Từ thuở thanh xuân, Mô-áp sống
yên hàn,
nó nghỉ yên như rượu trên lớp
cặn,
không bị rót từ bình này sang
bình khác: nó không phải đi đày.
Cho nên, vị của nó còn nguyên,
mùi của nó không thay đổi.
12 Vì thế, sẽ đến ngày - sấm ngôn
của Ðức Chúa - Ta sai đến với nó những người chuyên chắt lọc. Họ sẽ lọc, sẽ đổ
hết ra khỏi bình, rồi đập tan cả vò. 13 Mô-áp sẽ phải xấu hổ vì thần
Cơ-mốt cũng như nhà Ít-ra-en đã phải xấu hổ vì thần Bết Ên, một vị thần được
nhà Ít-ra-en tin tưởng.
14 Sao các ngươi dám nói:
"Chúng ta là chiến sĩ, là dũng
sĩ nơi sa trường"?
15 Mô-áp đã bị phá tan.
Người ta tấn công các thành của
nó,
các tinh binh trẻ phải vào lò sát
sinh
- sấm ngôn của Ðức Vua, Ðức Chúa
các đạo binh là danh Người.
16 Cảnh nguy nan của Mô-áp sắp xảy
đến,
tai hoạ của nó phút giây đã gần kề.
17 Hãy chia buồn với nó,
hỡi mọi lân quốc láng giềng,
hỡi mọi người biết danh tiếng nó.
Hãy nói: "Sao cây trượng
quyền uy,
cây gậy huy hoàng như thế mà lại
bị bẻ gãy? "
18 Hỡi dân cư ngụ ở Ði-vôn, hãy rời
chỗ danh dự
xuống nơi khô cằn thiếu nước mà
ngồi,
vì kẻ tàn phá Mô-áp đã tiến lên
đánh ngươi
và huỷ diệt các thành trì của
ngươi.
19 Ðứng bên đường mà coi cho kỹ, hỡi
dân cư A-rô-e:
với chàng thanh niên chạy trốn và
cô thiếu nữ thoát nạn,
hãy hỏi rằng "việc gì đã xảy
ra? "
20 - "Mô-áp phải hổ ngươi, vì bị
phá huỷ.
Nào khóc rú lên, kêu cứu đi!
Hãy công bố tại Ác-nôn rằng:
Mô-áp đã bị tàn phá! "
21 Án phạt đã giáng xuống vùng đồng
bằng, xuống Khô-lôn, Gia-hát, Mê-pha-át, 22 xuống Ði-vôn, Nơ-vô, Bết
Ðíp-la-tha-gim, 23 xuống Kia-gia-tha-gim, Bết Ga-mun, Bết Mơ-ôn, 24
xuống Cơ-ri-giốt, Bót-ra và mọi thành thị xa gần xứ Mô-áp.
25 "Sừng của Mô-áp bị bẻ gãy,
tay của nó bị nát tan!"
- Sấm ngôn của Ðức Chúa.
26 Hãy cho Mô-áp uống say tuý luý,
vì nó đã lên mày lên mặt với Ðức Chúa. Ước gì nó ngã lăn xuống, ói mửa ra, để
nó lại nên một trò cười! 27 Khi trước, Ít-ra-en đã chẳng nên trò cười cho ngươi
sao? Phải chăng người ta đã không gặp nó giữa quân trộm cướp, để mỗi lần nói
đến nó, là ngươi phải lắc đầu đó sao?
28 "Hỡi cư dân Mô-áp, hãy rời
bỏ thị thành
mà sống chui rúc trong hốc đá.
Hãy giống như chim câu làm tổ nơi
sườn núi, bên bờ vực thẳm."
29 Chúng ta đã từng được nghe
về thói kiêu căng của Mô-áp, một
xứ rất mực kiêu kỳ,
về thói tự mãn và tính ngông
nghênh ngạo mạn
cũng như lòng tự cao của nó.
30 Ta biết - sấm ngôn của Ðức Chúa
tính nóng nảy, những lời khoác
lác ba hoa,
cũng như các hành vi bất chính
của nó.
31 Bởi thế, vì Mô-áp tôi khóc rú
lên,
vì toàn thể Mô-áp tôi thảm thiết
kêu la,
tôi rên siết cho người Kia
Khe-rét.
32 Hỡi nho Xíp-ma, ta khóc ngươi hơn
là khóc Gia-de.
Các nhánh của ngươi vượt qua biển
cả, vươn tới tận Gia-de.
kẻ tàn phá xông vào làm hại mùa
hái nho hái trái.
33 Niềm vui sướng hân hoan
đã biến khỏi vườn cây, khỏi xứ
Mô-áp.
Ta đã làm cho bồn nho cạn rượu;
người đạp nho không còn đạp nho
nữa,
và tiếng reo hò chẳng còn là
tiếng hò reo!
34 Tiếng kêu la của Khét-bôn vang
đến En-a-lê, đến tận Gia-hát. Người ta lên tiếng kêu từ Xô-a đến Khô-rô-na-gim
và Éc-lát Sơ-li-si-gia, vì ngay cả các dòng suối Nim-rim cũng trở thành nơi
hoang vắng.
35 Ta sẽ làm cho ở Mô-áp - sấm ngôn
của Ðức Chúa - không còn ai lên nơi cao đốt hương kính các thần của nó nữa.
36 Bởi thế, vì Mô-áp tâm hồn tôi
rung động như tiếng sáo; vì người Kia Khe-rét tâm hồn tôi cũng rung động như
tiếng sáo. Thế là chúng dày công ki cóp mà chẳng được hưởng dùng! 37 Phải, đầu
nào cũng bị cạo trọc, chòm râu nào cũng bị xén, đôi tay nào cũng mang vết rạch,
và lưng nào cũng quấn vải thô. 38 Trên mọi sân thượng và công trường
ở Mô-áp, đâu đâu cũng thấy cảnh tang tóc, vì Ta đã đập tan Mô-áp như chiếc bình
không ai ưa nữa - sấm ngôn của Ðức Chúa. 39 Làm sao nó đã bị phá
huỷ? Khóc rú lên đi! Làm sao Mô-áp đã quay lưng bỏ chạy cách nhục nhã? Mô-áp đã
trở nên trò cười và mối kinh hoàng cho mọi xứ lân bang.
40 Vì Ðức Chúa phán như sau:
(Này, tựa như chim đại bàng,
nó bay lượn, cánh xoè trên
Mô-áp.)
41 Thành thị bị chiếm giữ, pháo đài
bị đánh bay.
(Ngày ấy, lòng dũng sĩ Mô-áp
sẽ như dạ đàn bà đau quặn lúc
sinh con.)
42 Mô-áp bị huỷ diệt, chẳng còn là
một dân,
vì đã cả gan lên mặt với Ðức
Chúa.
43 Này kinh hoàng, hố sâu, dò lưới
đang sẵn chờ đợi ngươi, hỡi cư
dân Mô-áp
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
44 Kẻ thoát nỗi kinh hoàng sẽ sa
xuống hố sâu,
kẻ ngoi lên khỏi hố lại mắc phải
lưới dò,
vì Ta sẽ giáng các tai hoạ này
trên Mô-áp
vào năm chúng bị trừng phạt - sấm
ngôn của Ðức Chúa.
45 Những người chạy trốn, sức lực
suy tàn,
dừng chân lại dưới bóng Khét-bôn,
nhưng từ Khét-bôn phụt ra ngọn
lửa,
và từ giữa Xi-khôn, bốc lên đám
cháy
thiêu huỷ màng tang Mô-áp, cũng
như sọ của đám hỗn quân.
46 Khốn cho ngươi, Mô-áp hỡi, dân
Cơ-mốt mạt vận rồi!
Vì con trai ngươi bị người ta đày
ải
và con gái ngươi cũng bị bắt đi
đày.
47 Nhưng sau đó, Ta sẽ đổi vận mạng
Mô-áp
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
Lời tuyên án Mô-áp chấm dứt ở
đây.
Chương 49
Lời sấm lên án Am-mon
1 Về con cái Am-mon. Ðức Chúa phán
thế này:
Phải chăng Ít-ra-en không còn con
cái nữa,
hay nó đã hết người nối nghiệp
rồi?
Vậy tại sao thần Min-côm lại thừa
kế đất của Gát
và dân của thần đó lại đến cư ngụ
trong các thành của Gát?
2 Vì thế, này sẽ đến ngày - sấm
ngôn của Ðức Chúa
Ta cho vang lên tiếng hò reo xung
trận
tại Ráp-ba của con cái Am-mon.
Ráp-ba sẽ trở nên một phế tích
hoang tàn,
các thành phụ thuộc sẽ bị lửa
thiêu.
Rồi Ít-ra-en sẽ nhận lại gia
nghiệp
của những kẻ được quyền thừa kế.
Ðức Chúa phán.
3 Khóc rú lên đi, hỡi Khét-bôn, vì
thành Ai đã bị tàn phá.
Gào lên đi, quấn vải thô vào
người, hỡi dân thành Ráp-ba,
khóc lên đi và rảo quanh tường
luỹ,
vì cùng với tư tế, quan quyền,
Min-côm sẽ bị đày ải.
4 Làm sao ngươi có thể tự hào
về các thung lũng, về thung lũng
phì nhiêu của ngươi,
hỡi cô gái phản bội?
Ngươi tin tưởng vào các kho báu
của mình
nên mới nói: "Ai sẽ đến đánh
ta?"
5 Này đây, từ tứ phía, Ta cho kinh
hoàng ập xuống trên ngươi
- sấm ngôn của Chúa Thượng, Ðức
Chúa các đạo binh.
Các ngươi sẽ bị xua đuổi đi, mỗi
người một ngả,
và sẽ chẳng còn ai quy tụ những
người đã chạy trốn.
6 Nhưng sau đó, Ta sẽ đổi vận mạng
của con cái Am-mon - sấm ngôn của
Ðức Chúa.
Lời sấm lên án Ê-đôm
7 Về Ê-đôm.
Ðức Chúa các đạo binh phán thế
này:
Ở Tê-man, phải chăng không còn
khôn ngoan nữa,
bậc thông thái đã hết mưu trí
sao?
Chẳng lẽ họ đã mất khôn ngoan
rồi?
8 Chạy trốn đi, quay mặt đi, đào hố
sâu mà ở,
hỡi cư dân thành Ðơ-đan, vì Ta
giáng hoạ xuống Ê-xau;
đây là thời Ta trừng phạt nó.
9 Nếu thợ hái nho đến vườn nho của
ngươi,
chúng sẽ không để sót trái nào;
nếu ban đêm kẻ trộm đến, chúng sẽ
tha hồ phá hoại.
10 Quả thật, chính Ta sẽ lột trần
Ê-xau,
để lộ những nơi nó ẩn núp,
như thế, nó sẽ không ẩn mình được
nữa.
Dòng dõi nó đã bị tiêu diệt rồi,
anh em láng giềng nó cũng vậy,
chẳng còn ai nữa hết.
11 Ðể những trẻ mồ côi lại cho Ta,
Ta sẽ nuôi dưỡng chúng;
còn những ai goá bụa, cứ tin
tưởng vào Ta!
12 Quả vậy, Ðức Chúa phán thế này:
Ai không chấp nhận án phạt là uống chén ấy, sẽ cứ phải uống; phần ngươi, chẳng
lẽ ngươi lại thoát khỏi hình phạt? Ngươi không thoát khỏi hình phạt đâu, ngươi
sẽ phải uống! 13 Vì, Ta lấy chính danh Ta mà thề - sấm ngôn của Ðức Chúa -:
Bót-ra sẽ nên đồ kinh tởm, nên trò ô nhục, nên chốn điêu tàn, và nên lời chúc
dữ; tất cả các thành của nó sẽ nên chốn điêu tàn vạn cổ.
14 Tôi đã nghe một lời khuyên từ nơi
Ðức Chúa,
và một sứ giả đã được sai đến với
chư dân:
"Tập trung lại! Hãy xông vào
đánh nó!
Nào đứng lên giao chiến!"
15 Vì này, Ta làm cho ngươi ra bé
nhỏ giữa chư dân,
bị người người khinh dể.
16 Thói tự cao tự đại,
lòng kiêu căng của ngươi đã lừa
dối ngươi;
ngươi ở trong các hốc đá, ngươi
chiếm giữ các đỉnh đồi!
Khi ngươi làm tổ trên cao tựa
chim phượng hoàng,
thì từ đó, Ta lại hất ngươi xuống
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
17 Ê-đôm sẽ nên đồ kinh tởm; bất cứ
ai qua lại gần đó cũng phải kinh ngạc và chê cười mọi thương tích của nó. 18
Giống như cảnh tàn phá ở Xơ-đôm, Gô-mô-ra và các vùng lân cận, Ðức Chúa
phán, sẽ không còn ai cư ngụ ở đó, chẳng còn người nào đến đó trú ngụ.
19 Này tựa con sư tử lên khỏi bụi
rậm ở sông Gio-đan,
tiến về đồng cỏ luôn xanh tốt,
thì trong phút giây, Ta sẽ bắt
chúng phải mau ra khỏi đó,
và đặt ở đó người được Ta tuyển
chọn.
Vì nào có ai giống như Ta? Ai có
thể bắt Ta hầu toà?
Có mục tử nào đứng vững được
trước nhan Ta?
20 Vì thế, hãy nghe đây kế hoạch
Ðức Chúa đã mưu tính để lên án
Ê-đôm,
cũng như những toan tính
Người đã dự định để lên án dân cư
Tê-man.
Quả thật, cả chiên dê nhỏ nhất
cũng sẽ bị lôi đi!
Quả thật, đồng cỏ của chúng cũng
vì chúng mà phải kinh ngạc.
21 Tin chúng sụp đổ làm cõi đất
chuyển rung,
tiếng kêu la vang dội đến Biển
Sậy.
22 Này tựa chim phượng hoàng cất
mình lên,
bay lượn và xoè cánh che Bót-ra,
lòng dũng sĩ Ê-đôm trong ngày ấy
cũng sẽ như dạ đàn bà đau quặn
lúc sinh con.
Lời sấm lên án các thành xứ Xy-ri
23 Về Ða-mát.
Kha-mát và Ác-pát thẹn thùng, vì
phải nghe một hung tín.
Chúng phải xao xuyến như biển
động, không thể yên hàn.
24 Ða-mát suy nhược quay lưng trốn
chạy,
nỗi kinh hoàng xâm chiếm nó, như
người phụ nữ sắp sinh con.
25 Tại sao thành phố danh tiếng ấy,
một đô thị làm cho Ta hoan hỷ
lại không bị bỏ rơi?
26 Vì thế các thanh niên sẽ ngã gục
trên các quảng trường, và tất cả các chiến binh sẽ phải tiêu vong trong ngày đó
- sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo binh.
27 Ta sẽ châm lửa đốt tường luỹ
Ða-mát,
lửa sẽ thiêu rụi các cung điện của
Ben Ha-đát.
Lời sấm lên án các chi tộc Ả-rập
28 Về Kê-đa và về các vương quốc
Kha-xo đã bị Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, đánh bại, Ðức Chúa phán thế này:
Nào đứng dậy! Tiến lên Kê-đa,
hãy huỷ diệt con cái dân Ke-đem.
29 Chớ gì lều và chiên dê của chúng
bị người ta lấy đi,
cả vải vóc và mọi đồ đạc của
chúng cũng vậy;
phải chi người ta bắt lạc đà của
chúng đi,
và lớn tiếng hô chống lại chúng
rằng: "Kinh hoàng tứ phía!"
30 Hỡi dân cư Kha-xo, trốn đi, lẩn
cho mau, đào hố sâu mà ở,
- sấm ngôn của Ðức Chúa
bởi vì Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua
Ba-by-lon,
đã hoạch định một kế hoạch chống
các ngươi:
31 "Nào đứng dậy, tiến lên đánh
dân tộc hiền hoà
đang sống trong yên ổn - sấm ngôn
của Ðức Chúa -,
dân không cửa, không then, sống ở
nơi riêng biệt.
32 Lạc đà của chúng sẽ thành mục
tiêu cướp phá,
súc vật từng đàn nên miếng mồi
ngon!"
Ta sẽ phân tán theo mọi chiều gió
những kẻ cạo tóc hai bên thái
dương,
Ta sẽ giáng hoạ cho chúng từ mọi
phía,
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
33 Kha-xo sẽ trở thành sào huyệt cho
loài lang sói,
sẽ ra hoang vu đến muôn đời,
không còn ai cư ngụ ở đó,
chẳng còn người nào đến đó trú
ngụ.
Lời sấm lên án Ê-lam
34 Ðây là lời Ðức Chúa gửi cho ngôn
sứ Giê-rê-mi-a liên quan đến Ê-lam, vào đầu triều đại Xít-ki-gia-hu, vua
Giu-đa:
35 Ðức Chúa các đạo binh phán thế
này:
Này Ta sắp bẻ gãy cây cung của
Ê-lam,
nguồn dũng lực của chúng.
36 Ta sẽ cho ập vào Ê-lam bốn luồng
gió từ bốn phương trời.
Ta sắp phân tán chúng theo mọi
chiều gió ấy;
sẽ không còn một dân tộc nào,
mà người Ê-lam bị xua đuổi lại
không đến.
37 Ta sẽ bắt dân Ê-lam phải run sợ
trước mặt những kẻ thù,
và trước mặt những kẻ tìm hại
mạng sống chúng.
Ta sẽ khiến tai ương, cơn lôi
đình thịnh nộ của Ta
ập xuống trên chúng - sấm ngôn
của Ðức Chúa.
Ta lại còn cho gươm đuổi theo cho
đến khi Ta tận diệt chúng.
38 Rồi Ta sẽ đặt ngai vàng của Ta ở
Ê-lam,
Ta sẽ diệt tận gốc vua và các thủ
lãnh
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
39 Nhưng sau đó, Ta sẽ đổi vận mạng
của Ê-lam - sấm ngôn của Ðức Chúa.
Chương 50
Lời sấm lên án Ba-by-lon
1 Ðây là lời Ðức Chúa phán liên
quan tới Ba-by-lon, đất người Can-đê, qua trung gian ngôn sứ Giê-rê-mi-a.
Ba-by-lon sụp đổ. Ít-ra-en được
giải thoát.
2 Hãy loan báo giữa chư dân và công
bố,
nào phất cờ hiệu và công bố.
Ðừng giấu giếm, nói lên đi:
Ba-by-lon đã thất thủ,
Ben phải nhục nhã, Mơ-rô-đác tan
tành.
(Các tượng thần của nó phải nhục
nhã,
các đồ gớm ghiếc của nó bị tan
tành.)
3 Vì từ phương Bắc, một dân nổi lên
đánh nó;
dân ấy sẽ làm cho xứ sở của nó ra
hoang tàn,
không còn ai cư ngụ ở đó, từ loài
người cho đến loài vật
đều phải lẩn trốn, đều phải ra
đi.
4 Trong những ngày ấy và vào lúc ấy
- sấm ngôn của Ðức Chúa -,
con cái Ít-ra-en sẽ đến cùng với
con cái Giu-đa;
chúng vừa đi vừa khóc
và tìm kiếm Ðức Chúa, Thiên Chúa
của chúng.
5 Chúng hỏi đường đi tới Xi-on, mặt
hướng nhìn về đó:
"Nào ta gắn bó cùng Ðức
Chúa,
bằng giao ước muôn đời, không thể
quên!"
6 Dân Ta là chiên cừu đi lạc, mục
tử của chúng đã đánh lừa,
họ đưa chiên đi lòng vòng trên
núi;
chiên hết lên núi lại xuống đồi,
quên đi mất cả ràn của chúng.
7 Mọi kẻ bắt gặp chúng đều xâu xé,
đối phương của chúng nói rằng:
"Ta đâu có lỗi chi, ấy chỉ
vì chúng đắc tội với Ðức Chúa,
xúc phạm tới nơi đức công chính
ngự trị,
và phản lại niềm hy vọng của cha
ông là chính Ðức Chúa."
8 Hãy trốn khỏi Ba-by-lon, ra khỏi
đất người Can-đê;
và nên như những con dê đầu đàn.
9 Vì này, để chống lại Ba-by-lon,
Ta sắp cho nổi lên từ đất phương
Bắc,
một đoàn gồm các dân tộc hùng
cường;
chúng dàn hàng tiến công, từ phía
đó, nó sẽ thất thủ.
Những mũi tên của chúng
như người lính thiện xạ chẳng về
không bao giờ.
10 Người Can-đê thành miếng mồi ngon
những người cướp phá nó được no
thoả
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
11 Thật vậy, các ngươi hãy vui mừng
hoan hỷ,
hỡi những người cướp phá phần gia
sản của Ta!
Thật vậy, các ngươi hãy tung tăng
như cừu non trong đồng cỏ,
hãy hí vang như ngựa giống!
12 Mẹ của các ngươi rất đỗi nhục
nhằn,
người sinh hạ các ngươi phải tủi
hổ.
Này, nó sẽ đứng hạng chót giữa
chư dân,
thành sa mạc, nên chốn cằn cỗi,
hoang vu.
13 Vì Ðức Chúa nổi giận mà nó không
còn được ai đến ở,
tất cả nên như chốn hoang tàn;
ai qua lại Ba-by-lon cũng phải
kinh ngạc,
và cười chê mọi thương tích của
nó.
14 Hãy dàn hàng vây đánh Ba-by-lon
tứ phía,
hỡi tất cả các xạ thủ bắn cung,
hãy bắn vào nó, đừng tiếc tên, vì
nó đã đắc tội với Ðức Chúa.
15 Từ bốn phía, hãy reo hò xung phong.
Nó giơ tay hàng, các cột trụ của
nó sụp đổ,
các tường luỹ của nó bị phá tan.
Vì đó là việc báo oán của Ðức
Chúa!
Các ngươi hãy báo oán nó! Hãy làm
cho nó những gì nó đã làm!
16 Hãy loại khỏi Ba-by-lon người
gieo giống
và kẻ cầm liềm vào thời gặt hái.
Ðể thoát khỏi lưỡi gươm giết
người,
ai nấy hãy trở về với dân mình,
ai nấy hãy trốn về quê hương xứ
sở.
17 Ít-ra-en là con chiên lạc đàn, bị
những con sư tử đuổi bắt.
Con đầu tiên ăn thịt nó là vua
Át-sua; rồi sau cùng, kẻ đập vỡ xương nó là Na-bu-côđô-nô-xo, vua Ba-by-lon. 18
Vì thế, Ðức Chúa các đạo binh, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán như sau: Này Ta
sắp trừng phạt vua Ba-by-lon và xứ sở của nó như Ta đã trừng phạt vua Át-sua.
19 Ta sẽ dẫn Ít-ra-en về đồng cỏ của
nó,
để nó được ăn cỏ ở Các-men và
Ba-san,
trên núi Ép-ra-im và Ga-la-át, nó
sẽ được thoả thuê.
20 Trong những ngày ấy và vào lúc ấy
- sấm ngôn của Ðức Chúa
người ta sẽ tìm lỗi lầm của
Ít-ra-en mà chẳng thấy,
sẽ tìm tội lỗi của Giu-đa mà đâu
có gặp,
bởi vì Ta đã thứ tha cho những
người Ta còn để sót lại.
Tại Giê-ru-sa-lem, loan báo
Ba-by-lon sụp đổ
21 "Nào lên đất Mơ-ra-tha-gim,
hãy tiến lên đánh nó và dân cư
Pơ-cốt:
tàn sát, tiêu diệt chúng cho đến
người cuối cùng
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
Hãy thi hành đúng mọi điều Ta đã
truyền cho ngươi."
22 Tiếng giao tranh vang ầm trong
xứ! Thật là đại hoạ!
23 Tại sao cái búa đe doạ toàn cõi
đất, lại bị bẻ gãy tan tành?
Tại sao giữa chư dân, Ba-by-lon
lại nên đồ kinh tởm?
24 Hỡi Ba-by-lon, Ta đã giăng bẫy
bắt ngươi,
ngươi mắc phải mà đâu có biết!
Ngươi đã bị bắt và bị giữ lại,
vì ngươi đã khiêu chiến với Ðức
Chúa.
25 Ðức Chúa đã mở kho của Người,
và đưa ra những vũ khí để trút
cơn giận dữ.
Ðó chính là việc Chúa Thượng, Ðức
Chúa các đạo binh,
sẽ thực hiện trong xứ sở người
Can-đê!
26 Nào từ khắp nơi hãy đến đó, mở
các vựa của nó ra,
chất nó cho thành đống,
rồi tận diệt nó, đừng để cho sót
lại một tí gì.
27 Hãy giết sạch bò mộng của nó, cho
tất cả phải xuống lò sát sinh.
Khốn cho chúng, vì đã tới ngày,
tới thời chúng bị trừng phạt.
28 Hãy nghe đây!
Kìa những kẻ thoát thân và những
người chạy trốn
khỏi đất Ba-by-lon, đã về báo cho
Xi-on biết,
cuộc báo oán của ÐỨC CHÚA, Thiên
Chúa chúng ta,
Người báo oán cho Ðền Thờ của
Người!
Tội kiêu căng
29 Hãy tập trung các tay xạ thủ, tất
cả những người bắn cung,
để tiến đánh Ba-by-lon.
Hãy vây hãm nó tư bề, đừng để cho
kẻ nào chạy thoát.
Hãy đáp trả nó xứng với việc nó
làm;
tất cả những gì nó đã làm, hãy
làm lại cho nó,
bởi vì nó đã ngạo mạn với Ðức
Chúa,
với Ðấng Thánh của Ít-ra-en.
30 Vì thế, các thanh niên sẽ ngã gục
trên các quảng trường và tất cả các chiến binh sẽ phải tiêu vong trong ngày đó
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
31 Này Ta chống lại ngươi, hỡi tên
"Ngạo Mạn"
- sấm ngôn của Chúa Thượng là Ðức
Chúa các đạo binh -,
vì đã tới ngày, tới thời ngươi bị
trừng phạt.
32 Bấy giờ tên "Ngạo Mạn"
sẽ lảo đảo té nhào,
chẳng còn ai vực nó đứng lên.
Ta sẽ châm lửa đốt các thành của
nó,
lửa sẽ thiêu rụi các vùng phụ
cận.
Ðức Chúa, Ðấng cứu chuộc Ít-ra-en
33 Ðức Chúa các đạo binh phán thế
này:
con cái Ít-ra-en cùng với con cái
Giu-đa bị áp bức;
mọi kẻ bắt chúng làm tôi muốn giữ
chúng lại,
không chịu thả chúng về.
34 Nhưng Ðấng cứu chuộc chúng thật
hùng mạnh,
danh Người là Ðức Chúa các đạo
binh;
Người đích thân đứng ra bênh vực
chúng,
để cho đất nước được yên hàn,
và khiến dân cư Ba-by-lon run
rẩy.
35 Gươm đe doạ người Can-đê, - sấm
ngôn của Ðức Chúa
và đe doạ dân cư Ba-by-lon, đe
doạ các thủ lãnh,
các bậc khôn ngoan của nó!
36 Gươm đe doạ những kẻ khoác lác ba
hoa, chúng hoá ra điên dại!
Gươm đe doạ các anh hùng của nó,
chúng đâm ra hãi hùng!
37 Gươm đe doạ ngựa xe của nó
và đe doạ tất cả đám đông ô hợp ở
giữa nó,
chúng nên như đàn bà!
Gươm đe doạ các kho tàng của nó,
các kho ấy bị cướp sạch!
38 Gươm đe doạ các nguồn nước của
nó,
nguồn nước bị cạn khô!
Vì đó là xứ sở của tượng thần,
chúng lảm nhảm vì những Kinh
Hoàng của chúng.
39 Vì thế, thú rừng sẽ chung sống
với chó hoang,
đà điểu sẽ sống ở đó.
Mãi mãi nó sẽ chẳng còn được ai
cư ngụ,
nó sẽ không còn được ai đến ở từ
đời này tới đời kia.
40 Giống như khi Thiên Chúa tàn phá
Xơ-đôm,
Gô-mô-ra và các vùng lân cận -
sấm ngôn của Ðức Chúa.
Sẽ không còn ai cư ngụ ở đó,
sẽ chẳng còn người nào tới đó trú
ngụ.
Dân tộc phương Bắc và con sư tử
vùng sông Gio-đan
41 Này đây, một dân đến từ phương
Bắc,
một dân lớn và rất nhiều vua chúa
xuất hiện từ tận cùng trái đất.
42 Chúng nắm chắc cung nỏ, gươm đao.
Man rợ hung tàn không mảy may
thương xót,
chúng ồn ào như biển gào sóng vỗ.
Trên lưng ngựa, muôn người như
một,
chúng sẵn sàng lâm trận tấn công
ngươi,
thiếu nữ Ba-by-lon hỡi!
43 Hay tin đó, vua Ba-by-lon tay
chân bủn rủn,
nỗi kinh hoàng siết cứng ông ta
khiến ông ta run khiếp như sản
phụ lâm bồn.
44 Này, tựa con sư tử lên khỏi bụi
rậm ở sông Gio-đan,
tiến về đồng cỏ luôn xanh tốt,
thì trong phút giây,
Ta sẽ bắt chúng phải mau ra khỏi
đó,
và đặt ở đó người được Ta tuyển
chọn.
Vì nào có ai giống như Ta? Ai có
thể bắt Ta hầu toà?
Có mục tử nào đứng vững được
trước nhan Ta?
45 Vì thế, hãy nghe đây kế hoạch
Ðức Chúa đã mưu tính để lên án
Ba-by-lon,
cũng như những toan tính
Người đã dự định để lên án xứ sở
người Can-đê:
Quả thật, cả chiên dê nhỏ nhất
cũng sẽ bị lôi đi!
Quả thật, đồng cỏ của chúng cũng
vì chúng mà phải kinh ngạc!
46 Tin Ba-by-lon bị chiếm giữ làm
cõi đất chuyển rung;
tiếng kêu la vang dội giữa chư
dân!
Chương 51
Ðức Chúa lên án Ba-by-lon
1 Ðức Chúa phán thế này: Ta sẽ cho
nổi lên một thần khí sát hại,
để chống lại Ba-by-lon và dân cư
Lếp Ca-mai.
2 Ta sẽ sai những người ngoại bang
đến Ba-by-lon,
để sàng sẩy và quét sạch xứ sở
nó;
bởi vì, vào ngày tai hoạ, chúng
sẽ nổi lên chống lại nó từ bốn phía.
3 Ðừng chừa lại một xạ thủ giương
cung nào,
cũng đừng để ai tự hào vì áo giáp
của nó.
Ðừng thương xót các thanh niên
Ba-ben,
quân đội của nó, hãy diệt cho
hết!
4 Ước gì đất Can-đê tràn ngập tử
thi,
người bị đâm nằm la liệt trên
đường phố!
5 Quả thật, Ít-ra-en và Giu-đa không
goá bụa,
vì không còn Thiên Chúa, không
còn Ðức Chúa các đạo binh,
dù xứ sở của chúng tràn đầy tội
lỗi
xúc phạm đến Ðấng Thánh của
Ít-ra-en.
6 Hãy trốn khỏi Ba-by-lon, ai nấy
liệu mà thoát thân,
kẻo các ngươi phải tiêu vong vì
tội ác của nó.
Vì đối với Ðức Chúa, đây là thời
báo oán,
thời giáng cho nó phần phạt nó
đáng chịu.
7 Ba-by-lon là chén vàng trong tay
Ðức Chúa,
nó làm cho toàn cõi đất phải say
sưa,
các dân tộc đã uống rượu của nó,
vì thế mà hoá ra rồ dại.
8 Bỗng chốc Ba-by-lon sụp đổ tan
tành:
hãy khóc rú lên thương hại nó!
Lấy dầu mà thoa cho nó bớt đau,
may ra nó sẽ lành!
9 - "Chúng tôi muốn chữa trị
cho Ba-by-lon,
thế mà nó vẫn chẳng lành.
Mặc kệ nó! Mỗi người hãy quay về
xứ sở."
- Quả vậy, án phạt dành cho nó
chạm tới trời,
lên đến tận mây xanh.
10 Ðức Chúa đã cho bừng lên sự công
chính của chúng ta:
Ðến đây, nào chúng ta kể cho
Xi-on biết
công trình của Ðức Chúa, Thiên
Chúa chúng ta.
11 Hãy chuốt nhọn tên, rồi nhét cho
đầy ống.
Ðức Chúa đã thúc đẩy thần trí của
các vua Mê-đi; quả thật, Người đã quyết định huỷ diệt Ba-by-lon, vì đây là thời
Ðức Chúa báo oán; Người báo oán cho Ðền Thờ của Người.
12 Hãy phất cờ làm hiệu tấn công các
tường luỹ Ba-by-lon,
hãy tăng cường phòng thủ,
dựng lên các vọng canh, bố trí
quân mai phục!
Bởi vì không những Ðức Chúa đã
quyết định, mà còn thực hiện điều Người đã phán về dân cư Ba-by-lon.
13 Phần ngươi, ngươi ở gần dòng nước
lớn, ngươi có lắm kho tàng,
giờ cùng tận của ngươi đã tới,
giờ chấm dứt các lợi lộc của ngươi.
14 Ðức Chúa các đạo binh đã lấy
chính mạng sống Người mà thề:
Ta sẽ cho một đoàn người đông như
châu chấu,
tràn ngập và chống lại ngươi;
chúng cất tiếng hò reo chiến
thắng!
15 Ðấng dùng sức mạnh làm ra trái
đất,
lấy lẽ khôn ngoan thiết lập địa
cầu,
cũng là Ðấng dùng sự thông suốt
trải rộng các tầng trời.
16 Người lên tiếng, là nước trên
trời cuồn cuộn;
Người đẩy lên từng lớp mây trời,
từ cùng tận địa cầu xa tắp,
làm cho chớp giật mưa rơi,
mở kho thả gió khắp nơi tung
hoành.
17 Mọi người đều ngu xuẩn, không
hiểu biết chi,
thợ bạc nào cũng xấu hổ vì tượng
thần của nó,
tượng nó đúc ra là vật hão huyền,
không có hơi thở!
18 Chúng chỉ là hư ảo, là sản phẩm
nực cười;
khi bị trừng phạt, chúng sẽ tiêu
vong.
19 Phần dành cho Gia-cóp thì không
như thế,
vì tất cả đã được Người nắn ra,
và Ít-ra-en là chi tộc Người chọn
làm gia nghiệp,
danh Người là Ðức Chúa các đạo
binh.
Cái búa của Ðức Chúa và quả núi
hùng vĩ
20 Ngươi như cái búa, như binh khí
của Ta.
Ta dùng ngươi để đập các dân,
Ta dùng ngươi để huỷ các nước,
21 Ta dùng ngươi để đập ngựa và
người cỡi,
Ta dùng ngươi để đập xe và người
đánh xe.
22 Ta dùng ngươi để đập đàn ông, đàn
bà,
Ta dùng ngươi để đập cụ già, con
trẻ,
Ta dùng ngươi để đập thanh niên,
trinh nữ.
23 Ta dùng ngươi để đập người chăn
và đàn vật,
Ta dùng ngươi để đập người cày và
vật kéo,
Ta dùng ngươi để đập tổng đốc và
khâm sai.
24 Nhưng, ngay trước mắt các ngươi,
Ta sẽ giáng trả cho Ba-by-lon và cho tất cả dân cư Can-đê mọi tai hoạ chúng đã
gây ra ở Xi-on - sấm ngôn của Ðức Chúa.
25 Này, Núi Tàn Phá, Ta chống lại
ngươi,
tàn phá toàn cõi đất - sấm ngôn
của Ðức Chúa,
Ta sẽ dang tay đánh phạt ngươi,
cho ngươi lăn xuống từ đỉnh cao
núi đá.
Ta sẽ biến ngươi thành ngọn núi
bị thiêu rụi.
26 Người ta không còn lấy được từ
nơi ngươi
viên đá góc, viên đá nền;
vì ngươi sẽ thành chốn điêu tàn
vạn cổ
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
Tới hồi kết thúc
27 Hãy phất cờ làm hiệu trong xứ,
hãy thổi kèn giữa chư dân!
Hãy thánh hiến chư dân để đánh
nó,
để đánh nó, hãy triệu tập các
vương quốc:
A-ra-rát, Min-ni và Át-cơ-nát,
hãy đặt một viên giám sát để đánh
nó.
Hãy tập trung ngựa lại như tập
trung đàn châu chấu hung hăng.
28 Ðể đánh nó, hãy thánh hiến chư
dân: các vua Mê-đi, các tổng đốc, các khâm sai, cũng như tất cả xứ sở thuộc
quyền nó thống trị.
29 Cõi đất run rẩy hãi hùng,
bởi vì kế hoạch của Ðức Chúa về
Ba-by-lon sắp hoàn thành:
là làm cho đất Ba-by-lon nên
hoang vu, không có người cư ngụ.
30 Các dũng sĩ Ba-by-lon đã ngừng
chiến đấu,
chúng ở lại trong các pháo đài.
Lòng dũng cảm của chúng đã cạn,
chúng nên như đàn bà!
Nhà cửa nó bị thiêu rụi, các then
cửa gãy tan tành.
31 Phu trạm đón phu trạm, sứ giả đón
sứ giả,
dồn dập báo cho vua Ba-by-lon:
thành của nó thất thủ hoàn toàn.
32 Các ngả đường đã bị chiếm cứ, các
pháo đài đều bị phóng hoả,
các chiến binh sợ hãi kinh hoàng.
33 Quả vậy, Ðức Chúa các đạo binh,
Thiên Chúa Ít-ra-en phán như sau:
Cô gái Ba-by-lon như sân phơi,
vào thời đạp lúa;
chẳng còn bao lâu, mùa gặt sẽ đến
với cô.
Thiên Chúa báo phục
34 Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon,
đã xâu xé, đã loại trừ tôi,
gạt tôi ra như chiếc bình rỗng;
tựa con rồng, nó đã nuốt trửng
tôi,
các miếng ngon của tôi, nó nhét
đầy bụng, rồi xua đuổi tôi đi.
35 Cô thiếu nữ Xi-on sẽ nói:
"Chớ gì bạo lực và thương
tích tôi phải chịu
sẽ đổ xuống Ba-by-lon!" Và
Giê-ru-sa-lem sẽ nói:
"Chớ gì máu tôi đổ trên đầu
dân cư Can-đê!"
36 Vì thế, Ðức Chúa phán như sau:
Này Ta sẽ bênh vực, đòi báo thù
cho ngươi,
Ta sẽ làm cho biển của nó ra khô
cạn,
và suối nước của nó phải cạn khô.
37 Ba-by-lon sẽ nên đống hoang tàn,
thành sào huyệt cho loài lang
sói,
thành đồ kinh tởm cho thiên hạ
cười chê,
không còn ai cư ngụ nữa.
38 Chúng cùng gầm lên như bầy sư tử,
chúng rống lên khác nào lũ sư tử
con.
39 Ðang lúc chúng hung hăng, Ta
chuốc rượu cho chúng,
cho chúng uống say sưa, đến nỗi
phải mê mệt.
Chúng nằm ngủ li bì, không bao
giờ dậy nữa.
40 Ta sẽ đẩy chúng xuống lò sát sinh,
như chiên con, như cừu và dê đực.
Lời than vãn về Ba-by-lon
41 Tại sao Sê-sác đã bị chiếm,
và niềm vinh dự của toàn cõi đất
lại bị đoạt?
Tại sao giữa chư dân, Ba-by-lon
lại nên đồ kinh tởm?
42 Biển dâng lên tràn ngập
Ba-by-lon,
sóng biển gầm vang nhận chìm nó.
43 Các thành trì của nó đã nên đống
hoang tàn,
nên miền đất cằn cỗi, hoang vu,
miền đất không có ai cư ngụ, và
chẳng có người nào lai vãng.
Ðức Chúa hỏi thăm các ngẫu tượng
44 Ta sẽ trừng phạt Ben thuộc
Ba-by-lon,
Ta sẽ móc khỏi miệng nó, những gì
nó đã nuốt;
các dân nước sẽ không còn tuôn
đến đó nữa,
các tường luỹ của Ba-by-lon sụp
đổ tan tành.
45 Hỡi dân Ta, hãy ra khỏi đó;
ai nấy hãy lo cứu mạng mình
cho khỏi cơn lôi đình thịnh nộ
của Ðức Chúa.
46 Các ngươi đừng sờn lòng, đừng sợ
hãi trước những tin đồn trong xứ: năm này đồn thổi thế này, năm sau lại đồn
thổi thế khác, bạo lực lan khắp xứ, bạo chúa này kế tiếp bạo chúa kia.
47 Vì thế, này sẽ đến những ngày,
Ta sẽ trừng phạt các ngẫu tượng
của Ba-by-lon;
toàn xứ sở nó phải xấu hổ,
và trên đất nó, xác mọi kẻ tử
thương nằm la liệt.
48 Bấy giờ, trời đất cùng muôn vật
sẽ reo hò, vì Ba-by-lon sụp đổ,
vì từ phương Bắc, những kẻ tàn
phá sẽ đến hại nó
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
49 Hỡi những kẻ thương vong của
Ít-ra-en, Ba-by-lon phải ngã gục,
cũng như bao kẻ thương vong trên
toàn cõi đất
đã phải ngã gục vì Ba-by-lon.
50 Hỡi những kẻ thoát khỏi gươm đao,
hãy đi, chớ có dừng lại.
Từ miền xa xăm, hãy nhớ đến Ðức
Chúa,
và ước chi các ngươi hằng lưu tâm
đến Giê-ru-sa-lem.
51 - "Chúng tôi xấu hổ khi nghe
lời lăng nhục,
mặt mày chúng tôi phủ đầy nhục
nhã,
bởi những người ngoại bang
đã đến tấn công các nơi thánh
trong Nhà Ðức Chúa."
52 - Vì thế, này sẽ đến những ngày -
sấm ngôn của Ðức Chúa
Ta sẽ trừng phạt các ngẫu tượng
của nó,
và trong khắp xứ sở nó, các
thương vong sẽ khóc than.
53 Dù Ba-by-lon có lên tận trời, có
dựng pháo đài ở chốn cao xanh,
thì theo lệnh Ta, những kẻ tàn
phá cũng sẽ đến hại nó
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
54 Hãy nghe tiếng kêu la từ
Ba-by-lon,
từ đất Can-đê, một thảm hoạ ghê
gớm!
55 Quả thật, Ðức Chúa tàn phá
Ba-by-lon,
và làm nó im bặt tiếng ba hoa
khoác lác,
cho dù sóng của nó có vang gầm
như nước lũ,
và tiếng của nó có ồn ào.
56 Khi kẻ tàn phá đến đánh
Ba-by-lon,
các anh hùng của nó đều bị bắt,
cung tên của chúng bị gãy tan,
vì Ðức Chúa là Thiên Chúa báo
phục,
Người sẽ giáng trả đích đáng.
57 Các tướng lãnh, các nhà khôn
ngoan,
các toàn quyền, các khâm sai, các
anh hùng của chúng,
Ta cho uống say sưa, đến nỗi phải
mê mệt,
chúng nằm ngủ li bì, không bao
giờ dậy nữa
- sấm ngôn của Ðức Vua, danh Người
là Ðức Chúa các đạo binh.
Ba-by-lon bị huỷ diệt
58 Ðức Chúa các đạo binh phán thế
này:
các tường luỹ Ba-by-lon vĩ đại,
bị sụp đổ hoàn toàn,
các cổng thành to lớn sẽ bị thiêu
rụi.
Thế là các dân phải vất vả luống
công,
các nước kiệt quệ làm mồi cho
lửa.
Lời sấm được ném xuống sông
Êu-phơ-rát
59 Có lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a truyền
cho ông Xơ-ra-gia, con ông Nê-ri-gia, cháu ông Mác-xê-gia, khi ông Xơ-ra-gia
cùng đi với Xít-ki-gia-hu, vua Giu-đa, đến Ba-by-lon, vào năm thứ tư triều đại
của vua. Ông Xơ-ra-gia là quan trông coi các trạm dừng chân. 60 Bấy
giờ, ông Giê-rê-mi-a ghi tất cả các tai hoạ sẽ phải xảy ra cho Ba-by-lon, vào
một cuốn sách: tất cả những điều này đã được viết về Ba-by-lon. 61 Ông
Giê-rê-mi-a đã nói với ông Xơ-ra-gia: "Khi đến Ba-by-lon, ông liệu mà công
bố tất cả các điều ấy. 62 Ông sẽ nói: Lạy Ðức Chúa, chính Ngài đã
phán về nơi này rằng, nó sẽ phải tiêu diệt đến nỗi không còn gì tồn tại ở đó,
từ loài người cho đến loài vật; quả thật, nó sẽ trở nên hoang tàn mãi mãi. 63
Sau khi công bố sách này, ông sẽ buộc nó vào một hòn đá và ném xuống lòng
sông Êu-phơ-rát. 64 Ông sẽ nói: Ba-by-lon phải chìm ngập như thế và
không ngoi lên khỏi tai hoạ mà chính Ta sẽ giáng phạt nó."
Các lời của ông Giê-rê-mi-a chấm
dứt ở đây.
Chương 52
VI. Phụ Trương
Thảm hoạ của Giê-rê-mi-a. Ủng hộ
vua Giơ-hô-gia-khin. (2 V 24:18 - 25:7-21,27-30)
1 Xít-ki-gia-hu lên ngôi vua khi
được hai mươi mốt tuổi, và trị vì mười một năm ở Giê-ru-sa-lem. Mẹ của vua là
Kha-mi-tan, con gái ông Giếc-mơ-gia-hu; bà là người Líp-na. 2 Vua đã
làm điều dữ trái mắt Ðức Chúa, hệt như vua Giơ-hô-gia-kim. 3 Chính
vì Ðức Chúa nổi cơn thịnh nộ mà sự việc đã xảy ra như thế tại Giê-ru-sa-lem và
Giu-đa, cho đến khi Người xua đuổi họ đi khuất nhan Người.
4 Ngày mồng mười tháng mười, năm
thứ chín triều Xít-ki-gia-hu, Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, cùng toàn thể
đạo quân tiến đánh Giê-ru-sa-lem. Chúng đóng trại và đắp chiến luỹ chung quanh
để đánh thành. 5 Thành bị vây hãm cho đến năm thứ mười một triều
Xít-ki-gia-hu. 6 Ngày mồng chín tháng tư, nạn đói hoành hành trong
thành và không có bánh cho dân trong xứ. 7 Thành bị chọc thủng một
lỗ. Ðang đêm, tất cả các binh lính trốn ra khỏi thành, theo con đường cửa giữa
hai bức tường, gần vườn của vua - bấy giờ quân Can-đê đang bao vây thành -, rồi
họ đi theo con đường hướng tới A-ra-va. 8 Ðạo quân Can-đê rượt theo
và đuổi kịp vua Xít-ki-gia-hu trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. Toàn thể đạo
quân của vua Xít-ki-gia-hu bỏ vua chạy tán loạn. 9 Chúng bắt được
vua và đem lên Ríp-la, thuộc xứ Kha-mát gặp vua Ba-by-lon. Vua Ba-by-lon tuyên
án kết tội vua Xít-ki-gia-hu. 10 Vua Ba-by-lon cắt cổ những người
con của vua Xít-ki-gia-hu trước mắt vua cha. Cả những thủ lãnh của Giu-đa, vua
Ba-by-lon cũng cắt cổ tại Ríp-la. 11 Rồi ông đâm mù mắt vua
Xít-ki-gia-hu, lấy hai dây xích đồng xiềng vua lại; vua Ba-by-lon cho điệu
Xít-ki-gia-hu về Ba-by-lon và giam ông trong nhà tù cho đến ngày ông chết.
12 Ngày mồng mười tháng năm - đó là
năm thứ mười chín triều Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon - quan chỉ huy thị vệ
Nơ-vu-dác-a-đan, cận thần của vua Ba-by-lon, vào Giê-ru-sa-lem. 13 Ông
đốt Nhà Ðức Chúa, đền vua và mọi nhà cửa ở Giê-ru-sa-lem; ông còn phóng hoả đốt
mọi dinh thự các nhà quyền quý. 14 Toàn thể đạo quân Can-đê, dưới
quyền quan chỉ huy thị vệ, phá huỷ mọi tường thành chung quanh Giê-ru-sa-lem.
15 Quan chỉ huy thị vệ
Nơ-vu-dác-a-đan bắt một phần dân cùng đinh, những người dân còn sót lại trong
thành, những người đã đào ngũ theo vua Ba-by-lon và những người thợ thủ công
còn sót lại, phải đi đày. 16 Nhưng quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan
cho chừa lại một phần dân cùng đinh trong xứ để trồng nho và canh tác.
17 Quân Can-đê đập tan các cột đồng
của Nhà Ðức Chúa, các giàn và bể nước bằng đồng trong Nhà Ðức Chúa, rồi mang
tất cả đồng về Ba-by-lon. 18 Rồi chúng lấy nồi, xẻng, dao, các bình
rẩy, các bình hương và mọi đồ bằng đồng dùng vào việc tế tự. 19 Quan
chỉ huy thị vệ cũng lấy chén, khay đựng tro, các bình rẩy, nồi, chân đèn, bình
hương và chén, các đồ này được làm bằng vàng, bằng bạc. 20 Còn hai
cái cột của bể nước duy nhất và mười hai con bò bằng đồng kê bể nước, ở dưới
cái giàn, mà vua Sa-lô-môn đã làm cho Nhà Ðức Chúa, thì người ta không thể xác
định được số lượng đồng của tất cả những đồ vật đó. 21 Còn các cột,
mỗi cột cao chín thước; bên trên đầu trụ cột, lấy dây mà đo chu vi thì được sáu
thước, dày bốn đốt ngón tay; rỗng bên trong. 22 Cột ấy được đặt trên
trụ bằng đồng, chiều cao của mỗi trụ là hai thước rưỡi. Có một màng lưới và
những trái thạch lựu bọc chung quanh trên đầu trụ; tất cả đều bằng đồng. Cột
thứ hai cũng vậy, và các trái thạch lựu... 23 Có chín mươi sáu trái
thạch lựu treo lơ lửng. Tổng số trái thạch lựu là một trăm, treo chung quanh
mạng lưới.
24 Quan chỉ huy thị vệ bắt giữ tư tế
thủ lãnh Xơ-ra-gia, tư tế bậc hai Xơ-phan-gia và ba tư tế canh ngưỡng cửa. 25
Còn trong thành, ông bắt giữ một thái giám chỉ huy các binh lính, bảy cận
thần của vua người ta tìm thấy trong thành, viên ký lục của tướng lãnh quân đội
lo việc tuyển quân trong xứ và sáu mươi người dân trong xứ người ta tìm thấy ở
trong thành. 26 Quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan bắt những người
ấy và điệu tới vua Ba-by-lon ở Ríp-la. 27 Vua Ba-by-lon cho người
đánh đập và giết chết họ ở Ríp-la, trong xứ Kha-mát. Và Giu-đa bị đày biệt xứ.
28 Ðây là số dân bị vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo bắt đi đày. Vào năm thứ bảy: có ba ngàn hai mươi ba người
Giu-đa bị lưu đày. 29 Vào năm thứ mười tám triều Na-bu-cô-đô-nô-xo:
có tám trăm ba mươi hai người Giê-ru-sa-lem bị lưu đày. 30 Vào năm
thứ hai mươi ba triều Na-bu-cô-đô-nô-xo, quan chỉ huy thị vệ Nơ-vu-dác-a-đan
bắt bảy trăm bốn mươi lăm người Giu-đa đi lưu đày. Tổng số người phải lưu đày
là bốn ngàn sáu trăm.
31 Nhưng, năm thứ ba mươi bảy kể từ
khi vua Giu-đa là Giơ-hô-gia-khin bị lưu đày, tức là năm vua Ba-by-lon là E-vin
Mơ-rô-đác lên ngôi, thì ngày hai mươi lăm tháng mười hai, vua này ân xá cho
Giơ-hô-gia-khin, vua Giu-đa, và đưa ra khỏi nhà tù. 32 Vua Ba-by-lon
tiếp chuyện vua một cách thân thiện và ban cho vua một ngai cao hơn ngai các
vua khác đang có mặt tại Ba-by-lon. 33 Vua Ba-by-lon cho vua thay áo
tù, và suốt đời, ngày ngày luôn được đồng bàn với mình. 34 Vua được
vua Ba-by-lon cấp dưỡng liên tục, ngày nào cũng thế, trong suốt đời vua, cho
đến khi vua chết.
Ai-ca
Chương 01
Bài Thứ Nhất
A-lép: 1 Làm sao Ðô
Thị dân đông đúc
lại ngồi trơ, tủi nhục một mình!
Xưa lệnh bà giữa muôn dân nước,
nay khác chi quả phụ tội tình.
Bà nữ chúa đứng đầu các tỉnh
đã trở thành một kẻ khổ sai.
Bết: 2 Tỉ ti nàng khóc
suốt đêm dài,suối lệ đắng cay tràn đôi má;
chẳng thấy kẻ nào đến ủi an
trong số những người yêu thuở
trước.
Bạn hữu thân tình nay bội ước,
thành ra cả một lũ địch thù.
Ghi-men: 3 Bị lưu đày,
Giu-đa cực khổ,phải làm tôi nhuốc hổ vô cùng.
Này đây giữa dân ngoại nàng đang
sống,
nàng chẳng hề được vui thú nghỉ
ngơi.
Mọi kẻ rượt theo nàng
đã bắt được nàng trong đường cùng
ngõ hẻm.
Ða-lét: 4 Ðường phố
Xi-on đượm màu tang tóc,
chẳng còn ai trẩy lễ lên đền.
Cổng thành vắng lặng không một
bóng.
Tư tế thở than, nữ trinh sầu
thảm,
cả thành chìm ngập giữa đắng cay!
Hê: 5 Quân áp bức nắm
đầu cưỡi cổ,
kẻ tử thù hớn hở sướng vui,
vì Ðức Chúa làm cho nàng cực khổ
bởi tội nàng nhiều quá;
lũ con nàng bị quân áp bức đày đi
xa.
Vau: 6 Thiếu nữ Xi-on
quả hết thời,
vẻ rực rỡ huy hoàng không còn
nữa.
Thủ lãnh của nàng khác chi nai
đói
không tìm ra đồng cỏ.
Họ kiệt sức bước đi
trước những người xua đuổi.
Da-in: 7 Giê-ru-sa-lem
nhớ lại
những ngày gian khổ và kiếp sống
lang thang
khi dân ngã gục, không người tiếp
cứu,
dưới bàn tay tàn bạo của quân
thù.
Quân áp bức thấy nàng sụp đổ, thì
cười nhạo khinh chê.
Khết: 8 Giê-ru-sa-lem
phạm quá nhiều tội lỗi, nên đã ra ô uế.
Mọi kẻ xưa kia từng kính nể, nay
khinh mạn cười chê,
vì thấy nàng loã thể.
Ngay chính nàng cũng phải rên
siết,
cũng phải ngoảnh mặt đi.
Tết: 9 Trên áo nàng,
vết nhơ còn rành rành ra đó,
mà nàng đâu nghĩ tới hậu vận đang
chờ.
Nàng sa cơ quá mức, không một kẻ
ủi an.
"Lạy Ðức Chúa, xin nhìn nỗi
nhục nhằn con phải chịu,
vì kẻ thù đắc thắng dương
oai."
Giốt: 10 Quân áp bức
đưa tay vét sạch các kho báu của nàng.
Phải, chính mắt nàng thấy đám dân
ngoại
kéo nhau vào đền thánh.
Chúng là những kẻ Ngài cấm ngặt
không được vào nơi công hội của
Ngài.
Cáp: 11 Toàn dân rên
rỉ đi tìm bánh,
đổi kho tàng lấy một chút cầm
hơi.
"Lạy Ðức Chúa, xin Ngài nhìn
rõ
xem con đây tủi hổ biết chừng
nào!"
La-mét: 12 "Này
tất cả những ai qua lại, hãy nhìn kỹ mà xem:
Có nỗi khổ nào so sánh được
với nỗi khổ Ðức Chúa giáng trên
tôi,
khi Người nổi trận lôi đình mà
trừng phạt.
Mêm: 13 Từ trời cao,
Người phóng lửa xuống
cho xâm nhập tận cốt tuỷ tôi.
Dưới chân tôi, Người giăng lưới
sẵn, cho tôi phải té nhào.
Người bỏ tôi hiu quạnh, suốt cả ngày
bệnh hoạn ốm đau.
Nun: 14 Người theo dõi
lỗi lầm tôi đã phạm, siết chặt lỗi lầm đó trong tay,
rồi đặt lên cổ tôi như cái ách,
khiến tôi phải kiệt quệ, hao mòn.
Người đã trao tôi vào tay chúng,
làm cho tôi không thể ngóc đầu
lên.
Xa-méc: 15 Mọi người
hùng đang ở với tôi, Chúa đều khinh chê và loại bỏ.
Nhằm chống lại tôi, nhằm diệt
quân tinh nhuệ của tôi,
Người triệu tập hết vào công hội.
Chúa chà đạp, giày xéo nàng trinh
nữ, con gái Giu-đa,
như đạp nho trong bồn.
A-in: 16 Thế nên tôi
khóc ròng khóc rã,
cặp mắt tôi, suối lệ tuôn trào.
Bởi Ðấng ủi an tôi, Ðấng ban lại
cho tôi sức sống,
Người đã lìa xa tôi.
Con cái tôi phải mồ côi cô độc
bởi chưng thù địch quá hung tàn."
Pê: 17 Xi-on chìa đôi
tay kêu cứu, mà không người an ủi.
Ðức Chúa ra lệnh cho thù địch: hãy
tấn công Gia-cóp tư bề.
Ngay cả với địch quân,
Giê-ru-sa-lem cũng trở thành ô uế.
Xa-đê: 18 "Ðấng
chính trực công minh là Ðức Chúa,
còn tôi, tôi chống lại lời Người.
Nghe đi nào, mọi dân, mọi nước,
và thấy cho nỗi khổ cực của tôi.
Con cái tôi, thanh niên, thiếu
nữ, bị bắt đi lưu đày.
Cốp: 19 Tôi ngỏ lời
kêu gọi tình nhân,
nhưng chúng là những tên lừa đảo.
Tư tế và kỳ mục của tôi tắt thở
trong thành nội
khi đi tìm miếng bánh để cầm hơi.
Rết: 20 Lạy Ðức Chúa,
xin hãy nhìn xem:
giữa cảnh khốn cùng, ruột gan con
đòi đoạn,
trái tim con thổn thức bồi hồi.
Con quả đã cứng đầu cứng cổ.
Ngoài đường phố gươm đao thao
túng,
ở trong nhà thần chết hoành hành.
Sin: 21 Xin Ngài lắng
nghe con rên rỉ: có ai thèm an ủi con đâu!
Mọi kẻ thù con vui mừng hớn hở
khi biết chính Ngài gây khổ cực
cho con.
Ngày Ngài hứa, xin cho mau đến
để chúng cùng số phận với con.
Tau: 22 Xin cho tội ác
chúng đã phạm
phơi bày tất cả trước thánh nhan
Ngài.
Xin Ngài xử với chúng
như đã xử với con, vì tất cả tội
con đã phạm.
Con than thở đã quá nhiều rồi, và
tim con héo hắt."
Chương 02
Bài Thứ Hai
A-lép: 1 Vì đâu Ðức
Chúa nổi lôi đình
khiến thiếu nữ Xi-on tối mày tối
mặt?
Vẻ huy hoàng của Ít-ra-en,
từ trời cao Người quăng xuống
đất,
chẳng nhớ đến bệ Người kê chân
trong ngày Người nổi cơn thịnh
nộ.
Bết: 2 Mọi nơi cư ngụ
của Gia-cóp,
Ðức Chúa huỷ diệt chẳng chút xót
thương;
nổi trận lôi đình, Người triệt hạ
đồn luỹ của thiếu nữ Giu-đa;
Người xô xuống đất và làm nhục
vương quốc và thủ lãnh của nàng.
Ghi-men: 3 Bừng bừng
lửa giận, Người bẻ gãy sừng,
đập tan sức mạnh Ít-ra-en,
rút tay hữu cho quân thù xông
tới;
Người đốt lên trong Gia-cóp như
ngọn hoả hào
thiêu rụi khắp chung quanh.
Ða-lét: 4 Người giương
cung khác nào địch thủ,
vung tay hữu như thể đối phương,
bao trang tuấn tú, Người giết
sạch,
trút cơn thịnh nộ như trút lửa
xuống lều trại của thiếu nữ
Xi-on.
Hê: 5 Chúa nên như
địch thủ, huỷ diệt Ít-ra-en,
huỷ diệt mọi lâu đài dinh thự,
triệt hạ các luỹ đồn của nó;
nơi thiếu nữ Giu-đa, Người gia
tăng tiếng than van kêu khóc.
Vau: 6 Người đốt phá
cả lều lẫn vườn, triệt hạ nơi họp nhau mừng lễ;
lễ hội và sa-bát tại Xi-on, Ðức
Chúa để rơi vào quên lãng;
nổi giận bừng bừng, Người loại bỏ
nhà vua cũng như thầy tư tế.
Da-in: 7 Chúa chán
ghét bàn thờ,
thánh điện của Người, Người cũng
ghê tởm.
Tường luỹ các dinh thự của Người,
Người trao nộp vào tay địch thủ.
Chúng hò la trong Nhà Ðức Chúa,
như trong buổi hội hè.
Khết: 8 Ðức Chúa đã
tính chuyện tàn phá tường luỹ của thiếu nữ Xi-on.
Người đã giăng dây đo, quyết
thẳng tay tiêu diệt tới cùng.
Tường trong luỹ ngoài, Người gieo
tang tóc:
tất cả cùng ảm đạm thê lương.
Tết: 9 Cổng thành bị
sụt sâu dưới đất, Người phá tung, bẻ gãy then cài.
Vua cùng thủ lãnh đi biệt xứ,
giữa chư dân sống kiếp đoạ đày.
Pháp luật đâu còn nữa;
ngôn sứ chẳng được thấy thị kiến
do Ðức Chúa ban cho.
Giốt: 10 Hàng kỳ mục
của thiếu nữ Xi-on
ngồi thinh lặng ngay trên thềm
đất,
đầu rắc đầy tro bụi, mình mặc áo
vải thô.
Các cô trinh nữ Giê-ru-sa-lem gục
đầu sát đất.
Cáp: 11 Suối lệ tuôn
trào đến mòn đôi mắt,
ruột gan tôi đòi đoạn, tâm can
tôi rối bời;
vì con gái dân tôi rã rời tan
nát,
còn lũ sơ sinh và bầy trẻ dại
gục ngã khắp quảng trường.
La-mét: 12 Lũ trẻ thơ
hoài công hỏi mẹ: "Bánh con đâu?",
rồi ngã gục trên quảng trường
thành phố,
tựa như người bị đâm:
chúng trút linh hồn ngay trên tay
mẹ.
Mêm: 13 Hỡi thiếu nữ
Giê-ru-sa-lem, ví ngươi cùng ai, sánh ngươi với ai?
Này trinh nữ, cô gái Xi-on, ai
cứu được ngươi, ai ủi an ngươi?
Tai hoạ ngươi mắc phải lớn quá
rồi,
lớn tựa trùng dương, ai chữa nổi?
Nun: 14 Ngôn sứ của
ngươi tỏ cho ngươi thấy
toàn điều hư ảo, toàn chuyện khói
mây,
còn lỗi lầm ngươi, chúng không
vạch rõ
để đảo ngược vận số của ngươi.
Ðiều chúng thấy là điều huyền
hoặc,
chỉ đưa ngươi vào ảo tưởng mà
thôi.
Xa-méc: 15 Thiếu nữ
Giê-ru-sa-lem ơi, kẻ qua người lại nhạo báng ngươi,
vỗ tay, huýt sáo, lắc đầu cười:
"Phải chăng đây Ðô Thị
từng được gọi là tuyệt thế giai
nhân,
là niềm vui cho toàn cõi địa
cầu?"
Pê: 16 Mọi kẻ thù há
miệng hăm ngươi,
huýt sáo, nghiến răng, bọn chúng
nói:
"Phen này ta nuốt sống ăn
tươi.
Ngày ta chờ đợi nay đã đến, ngày
đó, ta đã thấy đây rồi."
A-in: 17 Ðức Chúa thi
hành điều Người đã quyết,
thực hiện lời Người đã phán xưa,
lời Người truyền dạy từ bao thuở,
nên đã diệt trừ, chẳng chút xót
thương.
Người làm cho kẻ thù ngươi hả hê
sung sướng,
tăng sức mạnh cho kẻ chống đối ngươi.
Xa-đê: 18 Tự đáy lòng,
hãy kêu lên Chúa,
hỡi tường thành của thiếu nữ
Xi-on!
Cứ để mặc suối lệ ngươi tuôn
chảy, ngày đêm chẳng khi ngừng.
Chớ khi nào ngơi nghỉ, cũng đừng
để dòng lệ khô đi.
Cấp: 19 Ðứng dậy đi,
la lên trong đêm tối,
khi năm canh chỉ mới bắt đầu!
Trước nhan Chúa, hãy trút niềm
tâm sự, giơ tay hướng về Người
mà cầu cho sinh mạng của đoàn con
đang lịm dần vì đói
đầu đường, góc phố, khắp nơi nơi.
Rết: 20 Lạy Ðức Chúa,
xin nhìn xem cho kỹ,
Ngài đối xử thế này với ai đây?
Làm sao người mẹ đành ăn thịt
những đứa con mình bồng bế trên
tay?
Làm sao tư tế và ngôn sứ
lại bị giết ngay trong thánh điện
Ngài?
Sin: 21 Ngoài phố, em
bé với cụ già nằm la liệt,
thanh niên và thiếu nữ ngã gục
dưới lưỡi gươm.
Ngày phẫn nộ, Ngài thẳng tay tàn
sát,
Ngài tiêu diệt, chẳng chút xót
thương.
Tau: 22 Bao nỗi kinh
hoàng từ bốn phương kéo tới
như người ta trẩy hội:
Ngài đã gọi chúng đến bủa vây
tôi.
Ngày Ðức Chúa nổi trận lôi đình,
không ai thoát nạn, không người
sống sót.
Những đứa con tôi bế bồng nuôi
dưỡng,
nay địch quân giết chết cả rồi.
Chương 03
Bài Thứ Ba
A-lép: 1 Tôi là người
đã sống cảnh lầm than
dưới làn roi giận dữ của Người.
2 Người dẫn tôi, bắt tôi lần bước,
trong tối tăm, không ánh sáng soi
đường.
3 Suốt ngày Người ra tay
hành hạ tôi đủ cách.
Bết: 4 Da thịt tôi,
Người khiến phải hao mòn,
xương cốt tôi, Người làm cho rời
rã.
5 Người đắp ụ nhằm tấn công tôi,
vùi dập tôi trong cay đắng nhục
nhằn.
6 Người nhốt tôi trong ngục tù tăm
tối,
như những kẻ đã chết tự ngàn xưa.
Ghi-men: 7 Người xây
tường vây kín lấy tôi, tôi không sao trốn thoát.
Xiềng xích tôi, Người làm cho
thêm nặng.
8 Tôi kêu la cầu cứu, Người cũng
bịt miệng tôi,
không để tôi khẩn nguyện.
9 Người lấy đá hộc chận đường tôi,
xoá lối đi khiến tôi phải lạc
hướng.
Ða-lét: 10 Người là
con báo rình rập tôi,
là sư tử chờ mồi trong bóng tối.
11 Người để tôi lạc lối nhằm xé xác
phanh thây,
bỏ mặc tôi cô đơn tiều tuỵ.
12 Người giương nỏ nhắm tôi,
tôi trở thành mục tiêu cho Người
bắn.
Hê: 13 Người rút tên
trong ống
bắn vào tạng phủ tôi.
14 Tôi nên trò cười cho thiên hạ,
nên vè vãn suốt ngày họ nghêu
ngao.
15 Người ép tôi nuốt cay ngậm đắng,
rượu bồ hòn bắt uống cho say.
Vau: 16 Răng tôi,
Người bắt nhai đá sỏi,
xác tôi, Người vùi dập dưới đống
tro.
17 Hồn tôi hết được bình an thư
thái,
tôi đã quên mùi hạnh phúc rồi.
18 Tôi tự nhủ: cuộc sống của mình
nay chấm dứt,
hy vọng nơi Ðức Chúa cũng tiêu
tan.
Da-in: 19 Xin nhớ đến
nỗi khốn cùng của con,
và cuộc đời con vất vưởng nuốt
cay ngậm đắng.
20 Nỗi niềm riêng canh cánh bên
lòng,
khiến hồn con tiêu hao mòn mỏi.
21 Ðây là điều con suy đi gẫm lại,
nhờ thế mà con vững dạ cậy trông:
Khết: 22 Lượng từ bi
Ðức Chúa đâu đã cạn,
lòng thương xót của Người mãi
không vơi.
23 Sáng nào Người cũng ban ân huệ
mới.
Lòng trung tín của Người cao cả
biết bao!
24 Tôi tự nhủ: "Ðức Chúa là phần
sản nghiệp của tôi,
vì thế nơi Người, tôi trông
cậy."
Tết: 25 Ðức Chúa xử
tốt với ai tin cậy Người,
với ai hết lòng tìm kiếm Chúa.
26 Biết thinh lặng đợi chờ,
đợi chờ ơn cứu độ của Ðức Chúa,
đó là một điều hay.
27 Cũng là một điều hay cho người
nào
phải mang ách từ khi còn trẻ.
Giốt: 28 Khi chính
Chúa bắt nó phải mang,
nó hãy cứ ngồi im lặng một mình,
29 cứ đặt miệng nó trong bụi đất
- may ra còn chút hy vọng nào
chăng
30 nó cứ đưa má cho kẻ tát,
chuốc lấy cho mình đầy nỗi nhuốc
nhơ.
Cáp: 31 Vì quả thật,
Ðức Chúa chẳng bỏ rơi mãi mãi:
32 có làm khổ, Người cũng xót
thương,
vì Người vốn từ bi cao cả;
33 có hạ nhục và làm khổ người ta,
Người cũng chẳng vui vẻ gì.
La-mét: 34 Chà đạp
dưới chân hết mọi tù nhân trong xứ sở;
35 tráo trở để không tôn trọng quyền
lợi kẻ khác
trước mặt Ðấng Tối Cao;
36 gây thiệt hại cho người khi kiện
tụng:
tất cả những điều này,
lẽ nào Ðức Chúa lại không thấy?
Mêm: 37 Ai chỉ nói một
lời là có mọi sự?
Chẳng phải Ðức Chúa đã phán
truyền hay sao?
38 Chẳng lẽ mọi điều lành điều dữ
không xuất hiện do miệng Ðấng Tối
Cao?
39 Sao con người cứ than thân trách
phận
mà không sống cho ra người, tránh
xa tội lỗi?
Nun: 40 Mọi nẻo đường
của ta, ta hãy xem đi xét lại,
và trở về cùng Ðức Chúa.
41 Hãy giơ tay và hướng lòng lên Ðức
Chúa,
là Ðấng ngự trên trời.
42 Chúng con đắc tội, chúng con phản
phúc,
Ngài thì Ngài chẳng dung tha.
Xa-méc: 43 Ngài ẩn
mình trong cơn thịnh nộ,
đuổi bắt và tiêu diệt chúng con
chẳng chút khoan hồng.
44 Ngài ẩn mình thật kín giữa ngàn
mây thẳm,
khiến lời kinh không sao vọng
tới.
45 Ngài biến chúng con thành rác
rưởi,
thành đồ phế thải giữa chư dân.
Pê: 46 Hết mọi kẻ thù
của chúng tôi
đều há miệng hằm hè khiêu khích.
47 Số phận của chúng tôi là vực thẳm
và kinh hoàng,
là đổ nát và tan hoang.
48 Mắt tôi trào suốt lệ
thương con gái dân tôi tàn phế.
A-in: 49 Mắt tôi thành
suối không ngừng chảy,
cứ chảy mãi không ngừng,
50 cho đến khi, từ trời cao thẳm,
Ðức Chúa nhìn xem và trông thấy
tỏ tường.
51 Mắt tôi làm cho tôi nhức nhối,
vì cảm thương mọi thiếu nữ Thành
Ðô.
Xa-đê: 52 Những người
thù ghét tôi vô cớ
đuổi xua tôi như thể đuổi chim.
53 Chúng chôn sống tôi trong một cái
hố,
rồi lấy đá lấp lại.
54 Nước dâng lên ngập đầu,
tôi thốt lên: "Chết
mất!"
Cốp: 55 Từ hố sâu,
thân lạy Ðức Chúa,
con kêu khấn danh Ngài.
56 Ngài đã nghe con cầu nguyện kêu
van,
xin đừng giả điếc làm ngơ nữa!
57 Chúa ở bên con ngày con kêu Chúa,
Ngài đã phán: "Ðừng sợ hãi
chi! "
Rết: 58 Ngài biện hộ
cho con, lạy Chúa,
và chuộc lấy mạng con.
59 Con bị oan, Ngài đã thấy rõ,
lạy Ðức Chúa, xin minh xử cho
con.
60 Ngài đã thấy chúng căm gan giận
dữ,
tìm mọi âm mưu chống lại con.
Sin: 61 Lạy Ðức Chúa,
Ngài đã nghe những lời lăng nhục,
và mọi điều chúng mưu tính hại
con,
62 với những lời thì thầm bàn tán
suốt ngày chống lại con.
63 Xin Ngài thấy cho: chúng ngồi hay
đứng,
con cũng thành vè cho chúng nghêu
ngao.
Tau: 64 Lạy Ðức Chúa,
xin Ngài đáp trả
tuỳ theo những việc tay chúng
làm.
65 Xin cho lòng chúng ra cứng cỏi,
giáng trên chúng lời nguyền rủa
của Ngài.
66 Trong cơn thịnh nộ, xin xua đuổi
và tiêu diệt chúng,
cho chúng khuất dạng khỏi gầm
trời.
Chương 04
Bài Thứ Tư
A-lép: 1 Làm sao vàng
lại phai nhạt được?
Vàng tinh khiết nhất cũng biến
chất rồi!
Ðá thánh nằm vung vãi mọi đầu
đường góc phố.
Bết: 2 Những người con
ưu tú của Xi-on quý giá tựa vàng ròng,
sao lại bị coi thường như bình
đất
do tay người thợ gốm làm ra?
Ghi-men: 3 Ngay cả lũ
chó rừng cũng biết chìa vú cho con bú,
thế mà con gái dân tôi lại dữ dằn
hung bạo
như đà điểu chốn hoang địa khô
cằn.
Ða-lét: 4 Bé thơ măng
sữa, vì quá khát, nên lưỡi dính với hàm;
còn đám trẻ nhỏ đòi ăn bánh,
nhưng nào có ai cho!
Hê: 5 Những người từng
thưởng thức cao lương mỹ vị
nay gục chết ngoài đường,
những kẻ được dưỡng nuôi trong
nhung lụa
nay phải bốc phân dơ.
Vau: 6 Thiếu nữ dân
tôi gian ác tầy trời
vượt xa cả Xơ-đôm tội lỗi;
thành đó bị đổ nhào trong nháy
mắt,
chẳng cần ai phải nhúng tay vào.
Da-in: 7 Ðám thanh
niên mới ngày nao rạng ngời hơn tuyết,
trắng hơn cả sữa tươi,
thân mình đẹp hơn san hô thắm đỏ,
da dẻ mịn màng tựa ngọc xanh.
Khết: 8 Nay mặt chúng
đen như mồ hóng,
ngoài đường phố không thể nhận
ra,
chỉ còn da bọc xương, khô đét như
khúc gỗ.
Tết: 9 Chết vì gươm
đâm còn may mắn hơn chết vì đói lả,
bởi vì người chết đói
chẳng được ăn hoa quả ruộng đồng.
Giốt: 10 Những bà mẹ
vốn dịu hiền âu yếm
lại đang tay nấu thịt con mình,
biến chúng thành của ăn
ngày con gái dân tôi lâm cơn cùng
khốn.
Cáp: 11 Ðức Chúa đã
đùng đùng nổi giận
trút hết cơn thịnh nộ xuống
Xi-on,
khiến bùng lên ngọn lửa thiêu huỷ
cả móng nền.
La-mét: 12 Vua chúa
trần gian cùng dân cư thế giới
không làm sao tin nổi
rằng kẻ thù cùng với quân áp bức
lại qua được cửa thành
Giê-ru-sa-lem.
Mêm: 13 Âu cũng chỉ vì
ngôn sứ tội lỗi,
vì tư tế đồi bại quá đi thôi:
ngay ở giữa thành, họ ra tay đổ
máu người công chính.
Nun: 14 Họ như người
mù lang thang ngoài đường phố,
mình mẩy đầy máu me;
ngay cả áo xống họ, chẳng ai dám
đụng tới!
Xa-méc: 15 Người ta
kêu: "Ðồ dơ bẩn đó! Tránh đi thôi!
Tránh đi! Tránh đi! Ðừng đụng tới
chúng!"
Chúng có trốn, có trôi dạt đến
đâu,
dân ngoại cũng sẽ nói:
"Chúng không ở đây được."
Pê: 16 Thánh nhan Ðức
Chúa phân tán chúng,
chẳng nhìn đến chúng nữa.
Tư tế không dám ngẩng mặt lên,
kỳ mục chẳng được ai đoái đến.
A-in: 17 Phần chúng
tôi vẫn mỏi mắt mong chờ,
chờ mong cứu giúp cũng luống
công.
Từ vọng canh, chúng tôi ngóng
đợi,
đợi một dân chẳng cứu nổi ai.
Xa-đê: 18 Bước chân
chúng tôi, quân thù dò xét,
không cho bén mảng tới quảng
trường.
Tận số rồi, đời chúng tôi đã hết,
quả chúng tôi đã đến ngày tàn!
Cốp: 19 Những người
săn đuổi chúng tôi lanh lẹ quá,
hơn cả đại bàng giữa trời xanh.
Chúng rượt đuổi chúng tôi trên
đồi núi,
nơi hoang địa gài bẫy bắt chúng
tôi.
Rết: 20 Ðấng được Ðức
Chúa xức dầu,
và từng là lẽ sống của chúng tôi,
đấng ngày xưa chúng tôi đã nói
"giữa chư dân, ta núp bóng
người", thì nay sa hố quân thù đào sẵn.
Sin: 21 Hãy vui lên,
hãy nhảy mừng, hỡi thiếu nữ Ê-đôm
đang cư ngụ trong miền đất Út:
chén lôi đình rồi cũng đến lượt
ngươi phải uống,
say ngất say ngư, ngươi sẽ tự lột
trần.
Tau: 22 Hỡi thiếu nữ
Xi-on, tội vạ ngươi đã được tẩy xoá,
ngươi chẳng còn phải đi lưu đày
nữa.
Còn ngươi, hỡi thiếu nữ Ê-đôm,
sự gian ác của ngươi, Người sẽ
trừng trị,
tội lỗi của ngươi, Người sẽ lột
trần.
Chương 05
Bài Thứ Năm
1 Lạy Ðức Chúa, xin Ngài nhớ cho:
chúng con khổ cực biết chừng nào.
Xin đưa mắt nhìn xem
nỗi nhục nhằn chúng con phải
chịu.
2 Sản nghiệp chúng con đã về tay
ngoại kiều,
nhà cửa chúng con lại thuộc về kẻ
khác.
3 Chúng con mồ côi cha
mẹ chúng con goá bụa.
4 Ðến như nước uống còn phải trả
tiền,
củi để đun cũng phải mua mới có.
5 Chúng con bị săn đuổi, cổ đeo
gông nặng nề,
xác thân rời rã mà chẳng được
nghỉ ngơi.
6 Chúng con ngửa tay xin Ai-cập,
chờ Át-sua cho miếng bánh độ
thân.
7 Cha ông chúng con phạm tội, nhưng
đã khuất,
chúng con nay gánh chịu vạ các
ngài gây nên.
8 Ðám tôi đòi thống trị chúng con,
chẳng ai cứu chúng con khỏi tay
chúng.
9 Chúng con đánh liều vào hoang
địa,
bất chấp lưỡi gươm, kiếm bánh về.
10 Da thịt nóng ran như lò lửa,
bụng dạ cồn cào vì cơn đói.
11 Tại Xi-on, chúng hãm hiếp đàn bà,
trong các thành Giu-đa, chúng làm
nhục trinh nữ.
12 Chúng tra tay treo cổ các thủ
lãnh chúng con,
hàng kỳ mục, chúng chẳng thèm
kiêng nể.
13 Ðám thanh niên phải khiêng cối
đá,
còn thiếu niên lảo đảo dưới khối
gỗ nặng nề.
14 Cổng thành vắng bóng hàng kỳ mục,
thanh niên hết đàn ca xướng hát.
15 Tim chúng con hết rạo rực niềm
vui,
tang tóc sầu thương thay thế cho
vũ điệu.
16 Triều thiên đội đầu nay đã rớt,
khốn thân chúng con: chúng con đã
lỗi phạm đến Ngài.
17 Hỏi vì đâu mà lòng chúng con sầu
muộn,
vì đâu mắt chúng con mù tối?
18 Âu cũng vì núi Xi-on vắng lặng
điêu tàn,
trở thành nơi cho sói rừng lảng
vảng.
19 Còn Ngài, lạy Ðức Chúa, Ngài muôn
đời tồn tại,
vương quyền Ngài bền vững thiên
thu.
20 Sao Ngài đành quên chúng con mãi
mãi,
đành bỏ mặc chúng con suốt chuỗi
ngày dài?
21 Xin đưa chúng con về với Ngài,
lạy Ðức Chúa,
để chúng con trở về.
Xin đổi mới cuộc đời chúng con
cho được như thời xa xưa ấy.
22 Hay Ngài đã thực sự ruồng rẫy
chúng con,
đã giận chúng con hết mức rồi?
Ba-rúc
Chương 01
Ông Ba-rúc và cộng đồng Do-thái ở
Ba-by-lon
1 Ðây là nội dung quyển sách của
ông Ba-rúc con ông Nê-ri-gia, cháu ông Ma-a-xa-gia, cháu ba đời ông Xít-ki-gia,
cháu bốn đời ông A-xa-đi-a, cháu năm đời ông Khen-ki-gia. Ông Ba-rúc đã viết
sách này tại Ba-by-lon.
2 Năm thứ năm, ngày thứ bảy trong
tháng thứ năm, kể từ khi quân Can-đê đánh chiếm và phóng hoả thành Giê-ru-sa-lem,
3 ông Ba-rúc đã đọc sách này trước mặt vua Giơ-khon-gia, con vua
nước Giu-đa là Giô-gia-kim, trước mặt toàn dân đến nghe và 4 trước mặt các bậc
vị vọng, hoàng thân và kỳ mục, trước mặt toàn dân, cả trẻ con lẫn người lớn,
trước mặt mọi người cư ngụ tại Ba-by-lon bên sông Sút. 5 Bấy giờ,
trước nhan Ðức Chúa, tất cả đều khóc lóc, ăn chay và cầu nguyện; 6 rồi
người ta đóng góp tiền bạc, mỗi người theo khả năng của mình, 7 và
gửi về Giê-ru-sa-lem cho tư tế Giô-gia-kim con ông Khen-ki-gia, cháu ông
Sa-lom, cho các tư tế khác và toàn dân đang ở với ông ấy tại Giê-ru-sa-lem. 8
Trước đó, vào ngày mồng mười tháng Siu-van, chính ông Ba-rúc đã đem trả
lại xứ Giu-đa các vật dụng thuộc về Nhà Ðức Chúa, xưa kia đã bị đưa đi khỏi Ðền
Thờ. Ðó là những bình bằng bạc mà vua Xít-ki-gia-hu, con vua Giu-đa là
Giô-si-gia-hu đã làm, 9 sau khi Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon,
bắt vua Giơ-khon-gia rời khỏi Giê-ru-sa-lem, đưa đi đày tại Ba-by-lon, cùng với
các thủ lãnh, tù nhân, các bậc vị vọng và toàn dân.
10 Họ nói: "Ðây là tiền chúng
tôi gửi về cho anh em, xin dùng để mua sắm lễ vật toàn thiêu, lễ vật đền tội và
hương thơm; hãy chuẩn bị lễ phẩm rồi dâng trên bàn thờ Ðức Chúa là Thiên Chúa
chúng ta. 11 Hãy cầu nguyện cho Na-bu-cô-đô-nô-xo vua Ba-by-lon,
cũng như cho thái tử Bên-tát-xa được an khang trường thọ như trời cao đất dày. 12
Xin Chúa ban cho chúng tôi được can đảm và sáng suốt, cho chúng tôi được
núp bóng Na-bu-cô-đô-nô-xo vua Ba-by-lon và thái tử Bên-tát-xa, cho chúng tôi
được phục vụ các ngài dài lâu và làm đẹp lòng các ngài mãi mãi. 13 Xin
anh em cũng cầu nguyện cùng Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng ta cho chính chúng ta
nữa, vì chúng ta đã xúc phạm đến Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng ta, và cho đến
ngày nay, trận lôi đình thịnh nộ của Ðức Chúa đối với chúng ta vẫn chưa nguôi. 14
Vậy sách chúng tôi gửi cho anh em đây, hãy đọc mà xưng thú tội lỗi trong
Nhà Ðức Chúa vào ngày lễ Lều và những ngày thuận tiện. 15 Sau đây là
nội dung:
I. Lời Nguyện Của Những Người Lưu
Ðày
Xưng thú tội lỗi
Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi,
quả là Ðấng công minh; còn chúng tôi, những người Giu-đa và cư dân
Giê-ru-sa-lem, 16 các vua và thủ lãnh, tư tế và ngôn sứ cũng như các
bậc cha ông, chúng tôi phải hổ ngươi bẽ mặt như ngày hôm nay thì cũng đáng, 17
vì tất cả chúng tôi đã phạm tội trước nhan Ðức Chúa, 18 đã bất
tuân, không nghe tiếng Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không vâng theo các
mệnh lệnh Ðức Chúa đã đề ra trước mắt chúng tôi. 19 Từ ngày Ðức Chúa
đưa cha ông chúng tôi ra khỏi đất Ai-cập cho tới ngày nay, chúng tôi vẫn bất
tuân đối với Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, vẫn làm ngơ không chịu nghe
tiếng Người. 20 Cho nên, như sự việc xảy ra hôm nay đây, những bất
hạnh và lời nguyền rủa vẫn đeo đuổi chúng tôi, đúng như Ðức Chúa đã tuyên bố
với ông Mô-sê tôi tớ Người, ngày Người đưa cha ông chúng tôi ra khỏi Ai-cập để
ban cho chúng tôi miền đất tràn trề sữa và mật. 21 Chúng tôi đã
không vâng nghe tiếng Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không tuân giữ mọi lời
các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi. 22 Mỗi người chúng tôi
đã cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục dịch các thần khác, và làm
điều dữ trước mặt Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi.
Chương 02
1 Vì thế Ðức Chúa thi hành lời đã
phán liên quan đến chúng tôi, đến các thẩm phán lãnh đạo Ít-ra-en, đến các vua
và thủ lãnh của chúng tôi, đến người Ít-ra-en và Giu-đa. 2 Dưới cả
vòm trời này, chưa hề xảy ra điều gì giống điều Người đã thực hiện tại
Giê-ru-sa-lem, như đã chép trong Luật Mô-sê: 3 đến độ trong chúng
tôi, kẻ ăn thịt con trai, người ăn thịt con gái của mình. 4 Người
còn bắt các ngài luỵ phục tất cả các vương quốc chung quanh chúng tôi, khiến
các ngài nên trò ô nhục, nên đồ ghê tởm giữa mọi dân chung quanh, nơi Ðức Chúa
đã phân tán các ngài đến. 5 Như thế các ngài là những kẻ bị trị, chứ
không phải là những người cai trị, bởi vì chúng tôi đã xúc phạm đến Ðức Chúa là
Thiên Chúa chúng tôi, không vâng nghe tiếng Người.
6 Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi
quả là Ðấng công minh, còn chúng tôi cũng như cha ông chúng tôi có phải hổ
ngươi bẽ mặt như ngày hôm nay thì cũng đáng. 7 Tất cả những tai hoạ
Ðức Chúa đe sẽ dùng mà trừng phạt chúng tôi, đã xảy đến cho chúng tôi rồi. 8
Thế mà chúng tôi chẳng cầu xin tôn nhan Ðức Chúa giúp mỗi người từ bỏ
những tư tưởng xấu xa trong tâm hồn. 9 Cho nên Ðức Chúa đã canh
chừng và đã giáng những tai hoạ ấy xuống trên chúng tôi; vì trong mọi việc Ðức
Chúa đã khiến xảy ra cho chúng tôi, Người thật là Ðấng công minh. 10 Còn
chúng tôi, chúng tôi đã không nghe tiếng Người, không vâng theo các mệnh lệnh
Ðức Chúa đã đề ra trước mặt chúng tôi.
Lời cầu khẩn
11 Giờ đây, lạy Ðức Chúa là Thiên
Chúa Ít-ra-en, Người đã dang cánh tay mạnh mẽ uy quyền, dùng dấu lạ điềm
thiêng, dùng sức mạnh lớn lao mà đưa dân Ngài ra khỏi đất Ai-cập, khiến cho
danh Ngài rạng rỡ như hiện nay. 12 Lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng
con, chúng con đã phạm tội, đã làm điều gian ác, đã ăn ở bất chính, ngược với
mọi điều Ngài truyền dạy. 13 Xin cho cơn lôi đình của Ngài rời xa
chúng con, vì giữa chư dân, nơi Ngài phân tán chúng con, chúng con chỉ còn lại
rất ít. 14 Lạy Ðức Chúa, xin lắng nghe lời chúng con cầu xin khẩn
nguyện: vì danh Ngài, xin giải thoát chúng con và làm cho các kẻ đã đày ải
chúng con có thiện cảm với chúng con. 15 Như vậy, toàn cõi đất sẽ
biết rằng Ngài là Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng con, và cũng biết rằng Ít-ra-en
cùng dòng dõi ông được mang danh Ngài. 16 Lạy Ðức Chúa, từ thánh
điện Ngài, xin đoái nhìn, xin nghĩ đến chúng con; lạy Ðức Chúa, xin ghé tai
nghe, 17 lạy Ðức Chúa, xin đưa mắt nhìn xem: vì những kẻ sẽ ca ngợi
vinh quang và sự công chính của Ðức Chúa không phải là những kẻ đã chết, đang ở
trong âm phủ, những kẻ đã trút hơi thở cuối cùng, 18 nhưng là những
tâm hồn trăm bề đau khổ, thân xác lom khom rời rã, chân lê bước, mắt lờ đờ,
bụng đói lả; lạy Ðức Chúa, chính những tâm hồn này mới ca ngợi vinh quang và sự
công chính của Ngài.
19 Vì lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa
chúng con, chúng con không dựa vào công đức của cha ông và vua chúa chúng con
mà giãi bày cơ sự trước nhan Ngài. 20 Ngài đã trút lôi đình thịnh nộ
trên chúng con, như Ngài đã dùng các ngôn sứ là các tôi tớ Ngài mà phán: 21
"Ðức Chúa dạy rằng: Hãy khom lưng xuống làm tôi vua Ba-by-lon, rồi
các ngươi sẽ được ở lại trên đất Ta đã ban cho cha ông các ngươi. 22 Còn
nếu các ngươi không nghe tiếng Ðức Chúa phán dạy mà làm tôi vua Ba-by-lon, 23
thì Ta sẽ làm cho các thành thị Giu-đa và ngay trong Giê-ru-sa-lem im bặt
tiếng hò reo tưng bừng rộn rã, tiếng cô dâu chú rể gọi nhau, cả xứ sẽ trở nên
chốn hoang vu không người cư ngụ.” 24 Nhưng chúng con đã không nghe
theo tiếng Ngài phán bảo phải làm tôi vua Ba-by-lon, cho nên Ngài đã cứ những
lời Ngài đã dùng các ngôn sứ tôi tớ Ngài mà phán, là xương cốt của các vua,
cũng như xương cốt của cha ông chúng con sẽ bị lôi ra khỏi mồ. 25 Các
ngài đã chết vì những cực hình ghê gớm: đói khát, gươm đao, ôn dịch; và giờ đây
xương cốt bị dầm sương giãi nắng đêm ngày. 26 Ngôi nhà được dành
riêng để cầu khẩn Thánh Danh, Ngài đã làm cho ra nông nỗi này, âu cũng vì tội
ác nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa đã phạm.
27 Dầu vậy, lạy Ðức Chúa là Thiên
Chúa chúng con, Ngài đã lấy hết lượng khoan dung và lòng từ bi cao cả của Ngài
mà xử với chúng con, 28 như Ngài đã dùng tôi tớ Ngài là ông Mô-sê mà
phán, khi truyền cho ông chép Lề Luật của Ngài trước mặt con cái Ít-ra-en, nội
dung như sau: 29 "Nếu các ngươi không nghe Ta, thì giữa chư
dân, nơi Ta sẽ phân tán chúng, đám dân vĩ đại và đông đảo này chắc chắn sẽ trở
thành nhỏ bé. 30 Ta vẫn biết rằng chúng sẽ chẳng nghe Ta đâu, vì đó
là một dân cứng cổ. Nhưng trên đất lưu đày, chúng sẽ hồi tâm, 31 và
sẽ biết rằng Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng. Ta sẽ ban cho chúng một trái
tim và đôi tai biết lắng nghe. 32 Trên đất lưu đày, chúng sẽ ca ngợi
Ta, và sẽ tưởng nhớ danh Ta. 33 Chúng không còn cứng cổ nữa, cũng sẽ
chẳng có những hành động xấu xa, vì chúng sẽ nhớ lại cách ăn nết ở của cha ông
chúng, những kẻ đã phạm tội trước nhan Ðức Chúa. 34 Rồi Ta sẽ đưa
chúng trở về đất Ta đã thề hứa ban cho tổ tiên chúng là Áp-ra-ham, I-xa-ác và
Gia-cóp; chúng sẽ làm chủ đất ấy. Ta sẽ làm cho chúng gia tăng và chúng sẽ
không giảm bớt nữa. 35 Ta sẽ thiết lập với chúng một giao ước muôn
đời, theo đó Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Ta sẽ
không còn xua đuổi Ít-ra-en dân Ta khỏi đất Ta đã ban cho chúng nữa."
Chương 03
1 Lạy Ðức Chúa toàn năng là Thiên
Chúa Ít-ra-en, kẻ kêu cầu Ngài đây là một tâm hồn sầu muộn và một lòng trí rã
rời. 2 Lạy Ðức Chúa, xin lắng nghe, xin thương xót, vì chúng con đã
phạm tội trước nhan Ngài. 3 Vì Ngài là Ðấng muôn đời hiển trị; còn
chúng con thì mãi mãi tiêu vong. 4 Vậy, lạy Ðức Chúa toàn năng là
Thiên Chúa Ít-ra-en, xin nghe lời khẩn nguyện của chúng con là những tử vong
Ít-ra-en, là con cháu những người xưa kia đã xúc phạm đến Ngài, đã chẳng nghe
tiếng Ðức Chúa là Thiên Chúa các vị ấy, để ngày nay những bất hạnh này vẫn bám
sát chúng con. 5 Xin đừng chấp tội cha ông chúng con, nhưng trong giờ
phút này, xin nhớ đến cánh tay và thánh danh Ngài. 6 Vâng, Ngài là
Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng con, và lạy Ðức Chúa, chúng con sẽ ca tụng Ngài. 7
Sở dĩ Ngài đã ban cho chúng con lòng kính sợ Ngài là để chúng con kêu cầu
Thánh Danh. Nơi lưu đày, chúng con sẽ ca tụng Ngài, vì chúng con đã loại khỏi
tâm hồn chúng con mọi điều gian ác cha ông chúng con đã phạm trước nhan Ngài. 8
Hôm nay đây, chúng con đang ở nơi lưu đày, nơi Ngài đã phân tán chúng
con, khiến chúng con thành trò ô nhục, thành lời nguyền rủa, thành khoản bồi
hoàn cho tất cả những điều gian ác của cha ông chúng con, những người đã từ bỏ
Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng con.
II. Ơn Khôn Ngoan Dành Cho
Ít-Ra-En
9 Nghe đi nào, hỡi Ít-ra-en,
những mệnh lệnh tặng ban sự sống,
hãy lắng tai hiểu lẽ khôn ngoan.
10 Vì đâu, Ít-ra-en hỡi, vì đâu
ngươi phải nương thân trên đất
thù địch,
phải mòn hao nơi xứ lạ quê người?
11 Vì đâu ngươi bị nhiễm uế giữa đám
thây ma,
phải nằm chung với những người ở
trong âm phủ?
12 Âu cũng vì ngươi đã bỏ Nguồn Mạch
Khôn Ngoan.
13 Nếu ngươi cứ bước đi theo đường
Ðức Chúa,
hẳn muôn đời ngươi đã được an
vui.
14 Hãy học cho biết đâu là khôn
ngoan,
đâu là sức mạnh, đâu là thông
hiểu,
đâu là trường thọ và sự sống,
đâu là ánh sáng soi con mắt, và
đâu là bình an.
15 Nhưng ai tìm thấy nơi cự ngụ,
và vào được kho tàng của đức khôn
ngoan?
16 Ðâu cả rồi, thủ lãnh các dân tộc,
kẻ bá chủ muông thú địa cầu,
17 kẻ lấy chim trời làm trò tiêu
khiển?
Ðâu cả rồi kẻ chuyên lo tích trữ
bạc vàng,
là những thứ người đời luôn tin
tưởng,
có chiếm được bao nhiêu cũng
không vừa?
18 Ðâu cả rồi những kẻ làm ra bạc,
nhọc lòng mà kết quả vẫn là
không?
19 Tất cả đều khuất bóng, đều đi vào
âm phủ,
nhường chỗ cho kẻ khác vươn lên.
20 Một lớp người trẻ hơn đã nhìn
thấy ánh sáng,
đã cư ngụ trên chốn dương gian:
nhưng đường hiểu biết, chúng
chẳng am tường,
21 nẻo khôn ngoan, chúng không thông
hiểu.
Cả con cái chúng cũng không nắm
vững,
cứ mãi ở xa đường lối khôn ngoan.
22 Tại Ca-na-an, không ai nghe nói
đến,
cũng chẳng ai nhìn thấy tại
Tê-man.
23 Ngay cả đám con cháu Ha-ga,
những kẻ trên đời chuyên tìm kiến
thức,
bọn thương gia Me-ran và Tê-man,
những kẻ ưa kể chuyện thần thoại,
chuyên tìm kiến thức:
trong bọn họ, đường nẻo khôn
ngoan
chẳng ai am tường, chẳng ai nhớ
đến.
24 Hỡi Ít-ra-en, nhà Thiên Chúa ngự
lớn lao biết mấy,
lãnh địa của Người bát ngát dường
bao,
25 lớn lao vô hạn, cao cả khôn
lường!
26 Tại đó, từ nguyên thủy đã sinh ra
những kẻ khổng lồ tiếng tăm lừng
lẫy,
vóc dáng to cao, thạo nghề chinh
chiến.
27 Nhưng những người này, Thiên Chúa
không chọn,
cũng chẳng dạy cho con đường hiểu
biết.
28 Vì thiếu hiểu biết, họ đã tiêu
vong,
đã tiêu vong, vì họ điên rồ.
29 Ai lên trời chiếm được khôn
ngoan,
rời khỏi tầng mây mà đưa xuống?
30 Ai vượt trùng dương để mong tìm
được,
rồi lấy vàng y đổi đem về?
31 Ðường khôn ngoan, nào ai biết
được,
nẻo khôn ngoan, mấy kẻ quan tâm?
32 Chỉ mình Ðấng Toàn Tri mới biết
đức khôn ngoan,
chỉ có trí tuệ Người mới thông
suốt được.
Người đã thiết lập cõi đất cho
bền vững muôn đời,
đã cho thú vật tràn đầy mặt đất.
33 Người sai ánh sáng, ánh sáng liền
đi;
gọi ánh sáng lại, ánh sáng run
rẩy vâng lời.
34 Các tinh tú, mỗi ngôi ở vị trí
mình, tưng bừng chiếu sáng.
35 Người gọi chúng, chúng thưa: Có
mặt,
và hân hoan chiếu sáng mừng Ðấng
tạo nên mình.
36 Chính Người là Thiên Chúa chúng
ta,
chẳng có ai sánh được như Người.
37 Mọi nẻo đường đưa tới hiểu biết,
Người đều tinh thông,
chính Người đã vạch ra cho
Gia-cóp, tôi trung của Người,
cho Ít-ra-en, kẻ Người yêu quý.
38 Rồi đức khôn ngoan xuất hiện trên
mặt đất
và đã sống giữa loài người.
Chương 04
1 Ðức khôn ngoan
là huấn giới của Thiên Chúa ghi
trong Sách Luật,
Luật tồn tại cho đến muôn đời.Ai
gắn bó với Lề Luật thì sẽ được sống;
còn ai lìa bỏ ắt sẽ phải chết.
2 Hỡi Gia-cóp, hãy quay trở về đón
nhận Lề Luật,
hãy dõi theo ánh sáng của Lề Luật
mà tiến bước về chốn huy hoàng!
3 Vinh quang của ngươi, chớ nhường
cho người khác,
đặc ân của ngươi, đừng trao cho
dân ngoại.
4 Hỡi Ít-ra-en, chúng ta có phúc
dường nào,
vì được biết những gì làm đẹp
lòng Thiên Chúa!
III. Giê-Ru-Sa-Lem Than Van Và Hy
Vọng
5 Can đảm lên nào, hỡi dân Ta!
Hỡi những kẻ mang danh Ít-ra-en!
6 Các ngươi có bị bán cho dân
ngoại,
không phải là để bị diệt vong.
Các ngươi có bị trao cho quân thù
âu cũng vì đã chọc giận Thiên
Chúa.
7 Quả thật, khi tế lễ cho ma quỷ
thay vì cho Thiên Chúa,
các ngươi đã khiêu khích Ðấng tạo
dựng nên mình.
8 Thiên Chúa vĩnh cửu, Ðấng nuôi
dưỡng các ngươi,
các ngươi đành quên lãng;
còn Giê-ru-sa-lem, mẹ sinh thành
các ngươi,
các ngươi làm cho mẹ phải buồn
sầu;
9 buồn vì chứng kiến cơn thịnh nộ
của Thiên Chúa
giáng xuống trên đoàn con, và mẹ
đã than thở:
Hãy nghe đây, các thành lân cận
của Xi-on,
Thiên Chúa đã giáng xuống trên
tôi một nỗi buồn thê thảm.
10 Vì tôi đã thấy cảnh lưu đày
Ðấng Vĩnh Hằng giáng xuống trên
con trai con gái của tôi.
11 Xưa tôi vui mừng nuôi dưỡng chúng,
nay đành phải buồn sầu ứa lệ để
cho chúng ra đi.
12 Chớ ai vui mừng vì thấy tôi goá
bụa, bị mọi người bỏ rơi;
tôi phải sống đơn độc như thế này
chỉ vì con cái tôi phạm tội, lìa
bỏ Lề Luật của Thiên Chúa:
13 Chúng không hay không biết huấn
lệnh Người,
chẳng đi theo đường Người chỉ
dạy,
chẳng bước theo đường nẻo, chẳng
sống theo kỷ cương
phù hợp với sự công chính của
Thiên Chúa.
14 Ðến đây, hỡi các thành lân cận
của Xi-on,
và hãy nhớ lại cảnh tù đày
Ðấng Vĩnh Hằng giáng xuống trên
con trai, con gái của tôi.
15 Nhằm trừng phạt chúng, Ðức Chúa
gửi đến một dân xa lạ,
một dân ngạo ngược, nói tiếng
không ai hiểu,
già không nể, trẻ không thương.
16 Những đứa con trai yêu của bà goá
đã bị dẫn đi xa,
bà chỉ còn trơ trọi một mình, mất
luôn cả con gái.
17 Các con ơi, làm sao mẹ giúp các
con bây giờ?
18 Ðấng đã giáng tai hoạ xuống các
con,
chính Người sẽ cứu các con khỏi
tay thù địch.
19 Ði đi các con, đi đi thôi, mẹ
đành phải ở lại một mình!
20 Mẹ đã cởi áo đẹp của lúc an vui
thái bình,
khoác áo thô để van xin khẩn
nguyện.
Suốt chuỗi ngày còn sống,
mẹ sẽ gào lên Ðấng Vĩnh Hằng.
21 Can đảm lên nào, hỡi các con,
hãy cứ kêu lên cùng Thiên Chúa.
Chính Người sẽ giải thoát các con
khỏi quân bạo tàn, khỏi tay thù
địch.
22 Mẹ trông đợi Ðấng Vĩnh Hằng,
sẽ ban cho chúng con ơn giải
thoát,
Người là Ðấng Thánh đã ban cho mẹ
niềm vui;
mẹ vui vì nghĩ đến lòng thương
xót,
Ðấng Vĩnh Hằng, Vị Cứu Tinh của
chúng con
sắp đem đến cho chúng con.
23 Nước mắt rưng rưng, lòng buồn tê
tái, mẹ đành để các con ra đi.
Nhưng Thiên Chúa sẽ đưa các con
về với mẹ,
mẹ con mình sẽ mãi mãi vui sướng
hân hoan.
24 Hôm nay đây các thành lân cận của
Xi-on
nhìn thấy các con đi lưu đày,
thì chỉ mai này thôi, cũng chính
chúng
sẽ thấy các con được Thiên Chúa
cứu độ.
Trong ánh sáng huy hoàng, trong
vinh quang rực rỡ,
Ðấng Vĩnh Hằng sẽ ban ơn cứu độ
cho chúng con.
25 Các con ơi, hãy kiên tâm chịu
đựng
cơn thịnh nộ Thiên Chúa đổ xuống
các con.
- Ngươi đã bị quân thù khủng bố,
nhưng ngươi sẽ sớm thấy nó tan
hoang,
nó sẽ bị ngươi đạp đầu đạp cổ -.
26 Những đứa con tôi nâng niu chiều
chuộng
nay bước lê trên đường sỏi đá.
Chúng khác chi đàn vật
bị quân thù đánh cướp, bắt đem
đi.
27 Các con ơi, can đảm lên nào!
Hãy cứ kêu lên cùng Thiên Chúa,
vì Ðấng đã giáng hoạ sẽ lại nhớ
đến các con.
28 Xưa các con chỉ nghĩ đến chuyện
xa lìa Thiên Chúa,
thì một khi trở về,
các con phải nỗ lực gấp mười mà
tìm kiếm Chúa.
29 Vì Ðấng đã giáng hoạ xuống các
con,
chính Người sẽ giải thoát mà ban
cho các con niềm vui vĩnh cửu.
30 Giê-ru-sa-lem, can đảm lên nào:
Ðấng đã đặt tên cho ngươi sẽ mang
lại cho ngươi niềm an ủi.
31 Khốn cho những kẻ hành hạ ngươi,
và vui sướng vì ngươi sụp đổ!
32 Khốn cho các thành phố và đô thị
đã bắt con cái ngươi phải làm
tôi!
Khốn cho thành cướp đoạt con cái
ngươi!
33 Nó đã vui mừng thấy ngươi sụp đổ,
đã sung sướng vì ngươi suy vong;
cũng vậy, nó sẽ phải buồn phiền
đau đớn,
khi chính nó trở nên đống hoang
tàn.
34 Ta sẽ cất đi, không cho nó hưởng
niềm vui của một đô thị đông dân;
nó đã từng kiêu căng ngạo ngược,
thì rồi ra phải ủ dột buồn sầu.
35 Vì lửa của Ðấng Vĩnh Hằng trút
xuống
sẽ thiêu đốt nó ngày này qua ngày
nọ;
và năm này qua năm khác,
nó sẽ thành sào huyệt của quỷ ma.
36 Hãy hướng về phía đông,
Giê-ru-sa-lem hỡi,
và nhận ra niềm vui đang đến,
niềm vui Thiên Chúa gửi cho
ngươi.
37 Những đứa con ngươi đã để ra đi,
này chúng đang tiến về;
từ đông sang tây, chúng tụ họp
lại,
và tiến về theo lệnh của Ðấng
Thánh,
hân hoan vì được vinh quang Thiên
Chúa ở cùng.
Chương 05
1 Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy cởi bỏ áo
tang khổ nhục,
và mặc lấy ánh vinh quang vĩnh
cửu Thiên Chúa ban cho ngươi;
2 hãy khoác vào mình áo choàng công
chính của Thiên Chúa;
và đội lên đầu triều thiên vinh
quang
Ðấng Vĩnh Hằng ban tặng.
3 Vì Thiên Chúa sẽ cho khắp cả hoàn
cầu
thấy hào quang rực rỡ của ngươi.
4 Mãi mãi Người sẽ gọi ngươi
là "Bình an xây dựng trên
công chính",
và "Vinh quang phát xuất từ
lòng kính sợ Thiên Chúa".
5 Vùng lên, Giê-ru-sa-lem hỡi,
hãy đứng ở nơi cao, và hướng nhìn
về phía đông:
Kìa xem con cái ngươi từ đông
sang tây tụ họp về
theo lời Ðấng Thánh đã truyền
dạy.
Ðược Thiên Chúa nhớ đến, chúng
hớn hở mừng vui.
6 Xưa chúng bị quân thù áp giải,
phải rời ngươi, không xe không
ngựa.
Nay Thiên Chúa lại đưa chúng trở
về với ngươi,
chúng được kiệu đi vinh quang rực
rỡ, khác chi một ngai vàng.
7 Vì Thiên Chúa đã ra lệnh phải bạt
thấp núi cao
và gò nổng có tự lâu đời,
phải lấp đầy thung lũng cho mặt
đất phẳng phiu,
để Ít-ra-en tiến bước an toàn
dưới ánh vinh quang của Thiên
Chúa.
8 Theo lệnh của Thiên Chúa, rừng
xanh và đủ loại quế trầm
sẽ toả bóng che rợp Ít-ra-en,
9 vì Thiên Chúa sẽ dẫn Ít-ra-en đi
trong hoan lạc,
dưới ánh sáng vinh quang của
Chúa,
cùng với lòng từ bi và sự công
chính của Người.
Chương 06
IV. Thư Của Ông Giê-Rê-Mi-A
Bản sao bức thư ông Giê-rê-mi-a
gửi cho những người sắp bị vua nước Ba-by-lon phát lưu sang nước này, để loan
báo cho họ những gì Thiên Chúa đã truyền cho ông.
1 Vì tội lỗi anh em đã phạm trước
nhan Thiên Chúa, anh em sẽ bị vua nước Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-xo phát lưu
sang nước này. 2 Vậy sau khi đến Ba-by-lon, anh em sẽ phải ở lại xứ
ấy nhiều năm, trong quãng thời gian dài đến bảy đời. "Nhưng, Thiên Chúa
phán, sau thời gian này, Ta sẽ đưa các ngươi ra khỏi đó bình an.” 3 Rồi
đây tại Ba-by-lon, anh em sẽ thấy những tượng thần bằng vàng bạc hay bằng đá.
Những tượng này được người ta kiệu trên vai, và đã từng làm cho các dân ngoại
kinh hoàng. 4 Hãy coi chừng kẻo như các dân ngoại, chính anh em cũng
run sợ, 5 khi thấy quần chúng kẻ trước người sau thờ lạy các tượng
thần đó. Nhưng anh em hãy nói trong lòng rằng: "Lạy Chúa là Chúa Tể, chỉ
mình Ngài là Ðấng phải thờ lạy mà thôi!” 6 "Vì, Thiên Chúa
phán, thần sứ của Ta luôn ở với các ngươi, chính Người sẽ bảo vệ tính mạng các
ngươi."
7 Quả thật, các tượng thần này đã
được sơn son thiếp vàng, lưỡi chúng được thợ mài nhẵn, chúng chỉ là đồ giả
không biết nói. 8 Người ta lấy vàng làm triều thiên đội lên đầu các
tượng thần của mình như đội cho thiếu nữ ưa làm dáng. 9 Ðôi khi các
tư tế cũng cất giấu vàng bạc đó để dùng vào việc riêng; họ còn lấy đem cho các
cô điếm ở trên sân thượng nữa. 10 Họ may áo mặc cho các tượng thần
bằng vàng bạc hay gỗ đó, y như cho người ta vậy; nhưng các thần ấy không chống
lại được rỉ sét và mối mọt. 11 Mỗi khi khoác áo đỏ cho chúng, người
ta phải lau mặt cho chúng vì bụi bặm trong đền thờ bám đầy. 12 Thần
này thì cầm phủ việt tựa như lãnh chúa, nhưng không giết được kẻ phạm đến mình;
13 thần khác thì cầm trong tay phải vừa kiếm vừa rìu, nhưng không
bảo vệ được mình cho khỏi địch thù hay trộm cướp. 14 Vì thế, hiển
nhiên, chúng không phải là thần, sợ chúng mà làm chi!
15 Như chiếc bình vỡ trở thành vô
tích sự, các thần của họ được đặt trong các đền cũng thế. 16 Mắt
chúng đầy bụi bặm do chân những kẻ đi vào tung lên. 17 Như người ta
nhốt kín kẻ phạm tội khi quân, chờ lãnh án tử hình, không để nó trốn thoát,
cũng vậy, các tư tế tăng cường bảo vệ các đền thờ của họ bằng cửa đóng then cài
để tránh trộm cướp. 18 Họ thắp đèn cho thần còn nhiều hơn cho chính
mình nữa, nhưng dù một ngọn thôi, thần cũng chẳng thấy. 19 Chúng có
khác chi các xà nhà bên trong đã ruỗng hết, như người ta quen nói; mối từ đất
xông lên đục khoét chúng cũng như áo chúng mặc, mà chúng không hề biết. 20
Mặt mũi chúng lọ lem vì khói trong đền bốc lên nghi ngút. 21 Trên
thân mình chúng cũng như trên đầu chúng, người ta thấy bay lượn nào dơi, nào
nhạn và các thứ chim khác, lại có cả mèo nữa. 22 Cứ thế anh em đủ
biết chúng chẳng phải là thần: sợ chúng mà làm chi!
23 Hơn nữa, vàng người ta dùng dát
lên các tượng thần cho đẹp, nếu không có ai lau cho hết mờ, thì chúng cũng
không làm cho vàng đó sáng lên được, vì ngay cả lúc người ta làm ra chúng,
chúng cũng chẳng hay. 24 Dù được mua với giá cao, các thần ấy vẫn
chẳng có hơi thở. 25 Chúng không có chân, nên người ta phải khiêng
chúng trên vai, và như thế ai cũng nhìn thấy sự ô nhục của chúng. Bầy tôi chúng
cũng phải xấu hổ, vì nếu chúng đổ xuống đất, thì cũng phải nhờ họ chúng mới
đứng lên được. 26 Cứ đặt chúng đứng yên một chỗ, chúng chẳng tự mình
đi lại được đâu. Nếu bị nghiêng, chúng không đứng thẳng lại được. Có dâng lễ
vật cho chúng thì cũng như dâng cho người chết vậy thôi. 27 Của lễ
hy sinh dâng cho chúng, các tư tế đem bán kiếm lời; còn phần phải đem chia cho
người nghèo đói tật nguyền, thì các bà vợ của họ đem ướp muối. Những của lễ hy
sinh ấy, cả đàn bà có kinh nguyệt và người ở cữ cũng cứ động vào. 28 Những
điều này cho anh em biết chúng không phải là thần: sợ chúng mà làm chi!
29 Làm sao gọi là thần, những pho
tượng bằng vàng bạc hay bằng gỗ, vì có cả đàn bà dâng của lễ cho chúng nữa? 30
Trong đền của chúng, tư tế thì ngồi, lễ phục rách rưới, đầu râu cạo nhẵn, không
mũ không nón. 31 Khi kêu gào trước các thần, họ rống lên như có
người vẫn làm khi ăn cỗ nhà tang. 32 Các tư tế lấy áo của thần cho
vợ con mặc. 33 Bị xử tệ hay được xử tốt, các thần ấy cũng chẳng đáp
trả được. Chúng không thể đặt ai lên làm vua hay truất phế, 34 cũng
không thể cho ai của cải hay tiền bạc gì. Ai khấn với chúng rồi mà không giữ,
chúng không đòi hỏi gì được. 35 Chúng không cứu được ai khỏi chết,
không giải thoát được người yếu thế khỏi tay kẻ có quyền; 36 không
làm cho người mù được thấy, chẳng cứu được ai khỏi cảnh khốn quẫn, 37 không
cảm thương kẻ goá bụa, chẳng thi ân cho trẻ mồ côi. 38 Những khúc gỗ
bọc vàng bọc bạc ấy cũng giống như những phiến đá đẽo lấy từ núi ra vậy; những
kẻ làm tôi chúng sẽ phải xấu hổ thẹn thùng. 39 Thế thì làm sao có
thể nghĩ hoặc nói rằng chúng là thần được?
40 Ngay cả những người Can-đê cũng
khinh dể các thần đó, vì khi thấy một người câm, họ đưa đến cho thần Ben để xin
cho nó nói được, làm như thần này có thể hiểu; 41 thế mà khi nghĩ
lại, những người kia cũng không bỏ được các thần ấy: là vì họ không có khả năng
nhận thức. 42 Có những người đàn bà thắt dây thừng ngồi bên vệ
đường, đốt cám làm hương; 43 bà nào được một người khách chiếu cố mà
đi lại với mình thì mạt sát bà bên cạnh, cho rằng bà này không xứng đáng bằng
mình nên dây thừng mới không được giật đứt. 44 Tất cả mọi chuyện làm
cho các thần ấy đều là dối trá; thế thì sao có thể nghĩ hoặc nói rằng chúng là
thần được?
45 Những người chế tạo ra chúng là
các nghệ nhân và thợ kim hoàn, nên họ muốn chúng ra thế nào thì chúng chỉ là
thế thôi. 46 Những người chế tạo ra chúng còn chẳng sống được lâu,
thì làm sao sản phẩm của họ lại là thần được? 47 Cái họ để lại cho hậu thế chỉ
là dối trá và ô nhục thôi. 48 Khi xảy ra tai ương loạn lạc, tư tế
liền hỏi nhau xem phải đem thần đi trốn chỗ nào. 49 Những thứ không
thể cứu nổi mình khỏi tai ương loạn lạc, những thứ đó không phải là thần:
chuyện này, làm sao không hiểu được? 50 Sớm muộn gì người ta cũng sẽ nhận ra
rằng những khúc gỗ sơn son thiếp vàng kia chỉ là dối trá. Mọi dân tộc và vua
chúa đều thấy rõ rằng chúng không phải là thần, mà chỉ là sản phẩm do tay con
người làm ra, và nơi chúng không hề có một tác động thần linh nào cả. 51 Vậy
thì ai lại không dễ dàng biết được: chúng không phải là thần?
52 Chúng không thể đặt ai làm vua
trong một nước, chẳng làm được mưa cho người ta, 53 chẳng giải quyết
được vụ tranh chấp nào, cũng chẳng có khả năng cứu người bị áp bức. Chúng khác
chi loài quạ bay lượn giữa trời đất. 54 Khi xảy ra hoả hoạn tại đền
của các thần bằng gỗ sơn son thiếp vàng ấy, thì các tư tế của chúng lo chạy
thoát thân; còn chúng cứ đứng trơ trơ giữa nhà như kèo cột mà chịu đốt. 55
Chúng không chống nổi vua, không chống nổi kẻ thù. 56 Vậy, làm
sao chấp nhận hoặc nghĩ rằng chúng là thần được?
57 Các thần bằng gỗ sơn son thếp
vàng đó không thoát khỏi trộm cướp to gan đánh cắp vàng bạc cũng như áo xống
của chúng; chúng có tự cứu mình được đâu! 58 Như vậy, thà làm một ông vua biết
diệu võ dương oai, hay làm một vật dụng hữu ích cho chủ nhà sử dụng, còn hơn là
làm một ông thần giả tạo như thế. Thà làm một cái cửa trong nhà để giữ gìn đồ
đạc, hơn làm một ông thần giả tạo như thế. Thà làm một cây cột gỗ trong hoàng
cung, còn hơn làm ông thần giả tạo như thế. 59 Mặt trời, mặt trăng
và các vì tinh tú có nhiệm vụ chiếu sáng và trở nên hữu ích thì đều biết vâng
phục; 60 ánh chớp loé lên trông rất đẹp, gió thổi khắp nơi cũng thế,
tất cả đều biết vâng phục; 61 các đám mây cũng vậy, khi Thiên Chúa
truyền cho chúng bay khắp mặt đất, chúng đều thi hành mệnh lệnh của Người; còn
lửa, khi được gửi đến từ trời cao để đốt núi rừng, cũng đều thực hiện điều đã
truyền dạy. 62 Thế mà về hình dáng cũng như về khả năng, những thứ
thần kia lại chẳng sánh được với các vật này chút nào. 63 Cho nên
không thể nghĩ hoặc nói được rằng những thứ đó lại là thần, vì chúng không có
khả năng giải quyết một vụ tranh chấp, chẳng làm ơn làm phúc được cho ai. 64
Vậy, đã biết chúng không phải là thần thì còn sợ chúng mà làm chi!
65 Vì chúng chẳng thể giáng hoạ hay
giáng phúc cho vua chúa, 66 cũng chẳng cho chư dân thấy những dấu lạ
trên trời; chúng chẳng chói lọi như mặt trời, không chiếu sáng như mặt trăng. 67
Chúng không bằng dã thú, vì dã thú có thể tìm chỗ kín đáo mà nép mình. 68
Không có cách nào chứng minh được cho ta rằng đó là những vị thần. Vậy
còn sợ chúng mà làm chi!
69 Vì cũng như thằng bù nhìn trong
ruộng dưa chẳng canh giữ được gì, các thần bằng gỗ sơn son thếp vàng của người
ta cũng vậy. 70 Các thần này ví như bụi gai trong vườn, để cho đủ
thứ chim đến đậu, hay như xác chết vất trong xó tối. 71 Cứ nhìn
những miếng vải điều, vải gai mục nát trên mình chúng thôi, anh em cũng sẽ biết
rằng chúng không phải là thần. Sau cùng chúng sẽ bị sâu bọ đục khoét và sẽ nên
mối ô nhục trong cả xứ. 72 Vậy đối với người công chính, tốt hơn cả
là đừng có tượng thần nào hết: có thế mới tránh xa được sự nhuốc nhơ xấu hổ cho
mình.
Ê-dê-ki-en
Chương 01
Nhập Ðề
1 Ngày mồng năm tháng tư năm thứ ba
mươi, lúc tôi đang ở giữa những người lưu đày, bên bờ sông Cơ-va, thì trời mở
ra và tôi nhìn thấy thị kiến Thiên Chúa cho xem. 2 Ngày mồng năm
trong tháng - vào năm thứ năm kể từ khi vua Giô-gia-khin bị đi đày -, 3 có
lời Ðức Chúa phán với tư tế Ê-dê-ki-en, con ông Bu-di, trong xứ Can-đê, bên bờ
sông Cơ-va. Ở đó, tay Ðức Chúa đặt trên ông.
Thị kiến về xa giá của Ðức Chúa
4 Tôi nhìn, thì kìa một cơn gió bão
từ phương Bắc thổi đến; có đám mây lớn, có lửa loé ra và ánh sáng chiếu toả
chung quanh; ở chính giữa như có một kim loại lấp lánh, ở chính giữa lửa. 5
Ở chính giữa, có cái gì tựa như bốn sinh vật. Ðây là dáng vẻ của chúng:
chúng trông giống như người ta. 6 Mỗi sinh vật có bốn mặt và bốn
cánh. 7 Còn chân của chúng thì thẳng; bàn chân tựa bàn chân con bê,
lấp lánh như đồng sáng loáng. 8 Bên dưới cánh, có những bàn tay
giống tay người quay về bốn phía; mặt và cánh của bốn sinh vật cũng đều như thế.
9 Cánh của chúng giáp vào nhau. Lúc đi, chúng không quay mặt vào
nhau, nhưng cứ thẳng phía trước mặt mà tiến. 10 Còn bộ mặt của
chúng, thì chúng đều có mặt người, cả bốn đều có mặt sư tử bên phải, cả bốn đều
có mặt bò rừng bên trái, cả bốn đều có mặt phượng hoàng. 11 Ðó là
mặt của chúng. Còn cánh của chúng thì giương lên cao. Mỗi sinh vật có hai cánh
giáp vào nhau và hai cánh khác phủ thân mình. 12 Chúng cứ thẳng phía
trước mặt mà đi, thần khí đẩy phía nào, chúng đi phía đó; lúc đi chúng không
quay mặt vào nhau.
13 Ở giữa các sinh vật ấy, có cái gì
giống như than hồng rực lửa, giống như ngọn đuốc, đang di chuyển giữa các sinh
vật. Lửa phát ra ánh sáng và từ lửa phóng ra những tia chớp. 14 Các
sinh vật đi đi lại lại nhanh như chớp.
15 Tôi nhìn các sinh vật, thì này
bên cạnh mỗi sinh vật có bốn bộ mặt có một bánh xe ở dưới đất. 16 Hình
thù và cấu trúc của các bánh xe lấp lánh như mã não. Ðó là hình thù của chúng.
Còn cấu trúc của chúng giống như một bánh xe ở giữa một bánh xe. 17 Lúc
di chuyển, bốn bánh xe đi về bốn phía; lúc đi, chúng không quay vào nhau. 18
Các vành bánh xe rất lớn. Tôi nhìn, thì này cả bốn vành bánh xe đầy những
mắt ở chung quanh. 19 Khi các sinh vật đi, các bánh xe bên cạnh
chúng cũng đi; và khi các sinh vật cất mình lên khỏi mặt đất, thì các bánh xe cũng
lên theo. 20 Thần khí đẩy đi đâu, các sinh vật đi tới đó và các bánh
xe cũng cất lên theo, vì thần khí của sinh vật ở trong các bánh xe. 21 Khi
các sinh vật tiến đi, các bánh xe cũng tiến theo; các sinh vật dừng lại, các
bánh xe cũng dừng lại; các sinh vật cất mình lên khỏi mặt đất, các bánh xe cũng
cất lên theo, vì thần khí của sinh vật ở trong các bánh xe. 22 Trên
đầu mỗi sinh vật, có một cái vòm trông lấp lánh như pha lê che trên đầu ngay
trên chúng. 23 Dưới cái vòm ấy, cánh chúng giương thẳng ra, cánh nọ
chạm cánh kia; mỗi sinh vật có hai cánh che phủ thân mình.
24 Khi chúng đi, tôi nghe tiếng cánh
vẫy giống như tiếng nước chảy mạnh; như tiếng của Ðấng Toàn Năng, tiếng ấy ồn
ào như tiếng trong một doanh trại. Khi chúng dừng lại, thì cánh rủ xuống. 25
Có tiếng vọng xuống từ trên cái vòm, ngay trên đầu chúng.
26 Từ trên cái vòm, ngay trên đầu
chúng, có cái gì giống như đá lam ngọc, tựa như cái ngai, và trên cái gì tựa
như cái ngai đó, có cái trông như hình dáng một người ở trên ngai đó, ở trên
cao. 27 Và tôi thấy có cái gì giống như kim loại lấp lánh, giống như
một đám lửa bao quanh, từ khoảng coi như ngang lưng trở lên, còn từ khoảng coi
như ngang lưng trở xuống, tôi thấy có cái gì giống như một đám lửa và ánh sáng
chiếu toả chung quanh. 28 Như hình cầu vồng xuất hiện trên mây một
ngày mưa thế nào, thì ánh sáng chiếu toả chung quanh cũng như vậy. Ðó là một
cái gì trông tựa vinh quang của Ðức Chúa. Vừa thấy thế, tôi liền sấp mặt xuống,
và tôi nghe có tiếng đang nói.
Chương 02
Thị kiến về cuốn sách
1 Tiếng đó bảo tôi: "Hỡi con
người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây.” 2 Một thần khí
đã nhập vào tôi đúng như lời Người phán với tôi và làm cho chân tôi đứng vững;
tôi đã nghe tiếng Người phán với tôi. 3 Người phán với tôi:
"Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Ít-ra-en, đến với dân
phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống
lại Ta mãi cho đến ngày nay. 4 Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng
chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: "Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này.” 5 Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe
hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng. 6
Phần ngươi, hỡi con người, đừng sợ chúng, cũng đừng sợ những lời chúng
nói, dù ngươi có bị chống đối, có gặp chông gai tư bề, hay ngồi trên bò cạp.
Những lời chúng nói, ngươi đừng sợ; có phải giáp mặt chúng, cũng đừng khiếp, vì
chúng là nòi phản loạn. 7 Ngươi cứ nói với chúng những lời của Ta,
dù chúng nghe hay không, vì chúng là quân phản loạn.
8 Còn ngươi, hỡi con người, hãy
nghe điều Ta sắp nói với ngươi, đừng phản loạn như nòi phản loạn ấy! Mở miệng
ra mà ăn cái Ta sắp ban cho ngươi.” 9 Tôi nhìn, thì kìa có bàn tay
đưa về phía tôi, bàn tay đó cầm một cuộn sách 10 rồi mở ra trước mặt tôi; sách
được viết cả mặt trong lẫn mặt ngoài, trong đó có viết những khúc ai ca, những
lời than vãn và những câu nguyền rủa."
Chương 03
1 Ðức Chúa phán với tôi: "Hỡi
con người, thấy gì, cứ việc ăn! Hãy ăn cuộn sách này rồi đi nói với nhà
Ít-ra-en.” 2 Tôi mở miệng ra, và Người cho tôi ăn cuộn sách ấy. 3
Người lại phán với tôi: "Hỡi con người, hãy ăn cho no bụng và nuốt
cho đầy dạ cuộn sách Ta ban cho ngươi đây." Tôi đã ăn cuộn sách, và nó
ngọt như mật trong miệng tôi.
4 Bấy giờ Người phán với tôi:
"Hỡi con người, hãy đi đến với nhà Ít-ra-en và nói với chúng những lời của
Ta. 5 Bởi vì ngươi không được sai đến với một dân có ngôn ngữ tối
tăm và miệng lưỡi khó nói, mà là đến với nhà Ít-ra-en. 6 Không phải
đến với nhiều dân có ngôn ngữ tối tăm, miệng lưỡi khó nói khiến ngươi không
hiểu được lời chúng, - giả như Ta sai ngươi đến với chúng, thì chúng đã nghe
lời ngươi! 7 Nhưng nhà Ít-ra-en không muốn nghe lời ngươi, bởi vì chúng không
muốn nghe lời Ta: quả thật cả nhà Ít-ra-en đều mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá.
8 Này Ta sẽ làm cho mặt ngươi chai cứng giống như mặt chúng, làm cho
trán ngươi chai cứng như trán chúng. 9 Ta sẽ làm cho trán ngươi cứng
như kim cương, cứng hơn đá. Ngươi đừng sợ chúng, có phải giáp mặt chúng cũng
đừng khiếp, bởi vì chúng là nòi phản loạn."
10 Người lại phán với tôi: "Hỡi
con người, tất cả những lời Ta phán với ngươi, hãy ghi lòng tạc dạ và nghe cho
tỏ. 11 Rồi ngươi hãy đi đến với những kẻ lưu đày, đến với con cái
dân ngươi và nói với chúng. Ngươi sẽ nói với chúng: "Ðức Chúa là Chúa
Thượng phán thế này", dù chúng nghe hay không.
12 Một thần khí nâng tôi lên và tôi
nghe thấy đằng sau có tiếng hò la vang dội: "Chúc tụng Ðức Chúa vinh hiển
trong Nơi Thánh của Người!” 13 Tôi lại nghe thấy tiếng cánh các sinh
vật va chạm vào nhau, tiếng các bánh xe khua động cùng tiếng hò la vang dội. 14
Một thần khí nâng tôi lên và nắm lấy tôi; tôi ra đi, lòng tràn ngập cay
đắng và phẫn nộ. Bàn tay Ðức Chúa nắm chặt lấy tôi. 15 Tôi đã đến
Ten A-víp gặp những người lưu đày đang định cư bên bờ sông Cơ-va. Ðây là nơi họ
sinh sống. Tôi lưu lại đó bảy ngày, ở giữa họ, rất đỗi sững sờ.
Ngôn sứ, người canh gác (Ed 33
:1-9)
16 Vậy hết bảy ngày, có lời Ðức Chúa
phán với tôi rằng: 17 "Hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người
canh gác cho nhà Ít-ra-en. Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta
báo cho chúng biết. 18 Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: "Chắc
chắn ngươi sẽ phải chết", và nếu ngươi không báo cho kẻ gian ác đó biết,
không nói để cảnh cáo nó từ bỏ lối sống xấu xa, cho nó được sống, thì chính kẻ
gian ác ấy sẽ phải chết vì tội lỗi của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó.
19 Ngược lại, nếu ngươi đã báo cho kẻ gian ác, mà nó không từ bỏ
hành vi gian ác và lối sống xấu xa của nó, thì nó sẽ phải chết vì tội của nó;
còn ngươi, ngươi sẽ cứu được mạng sống mình. 20 Nếu như kẻ công
chính từ bỏ lẽ công chính của mình mà làm điều bất chính, thì Ta sẽ đặt chướng
ngại trước mắt nó; nó sẽ phải chết, bởi vì ngươi đã không báo cho nó. Nó sẽ
phải chết vì tội lỗi của nó và người ta sẽ không còn nhớ đến việc công chính nó
đã làm; nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó. 21 Ngược lại, nếu ngươi
đã báo cho kẻ công chính để nó không phạm tội và chính nó không phạm tội, thì
chắc chắn nó sẽ được sống, vì nó đã được báo cho biết; còn ngươi, ngươi sẽ cứu
được mạng sống mình."
I. Trước Khi Giê-Ru-Sa-Lem Bị Vây
Hãm
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en được dành
riêng để phục vụ Lời Chúa
22 Tại Ten A-víp, tay Ðức Chúa đặt
trên tôi. Người phán với tôi: "Ngươi hãy trỗi dậy, ra thung lũng và ở đó
Ta sẽ phán với ngươi.” 23 Thế là tôi trỗi dậy và đi ra thung lũng.
Và kìa, vinh quang Ðức Chúa đang ở đó giống như vinh quang tôi đã nhìn thấy bên
bờ sông Cơ-va. Tôi liền sấp mặt xuống đất. 24 Lúc ấy, thần khí nhập
vào tôi, cho chân tôi đứng vững và phán với tôi.
25 Phần ngươi, hỡi con người, này có
kẻ sẽ đặt dây thừng lên mình ngươi, rồi trói lại, để ngươi không xuất hiện
trước mặt chúng. 26 Ta sẽ làm cho lưỡi ngươi dính với hàm và ngươi
sẽ bị câm, để ngươi không còn là người khiển trách chúng nữa, vì chúng là nòi
phản loạn. 27 Nhưng khi nào Ta phán với ngươi, Ta sẽ mở miệng cho
ngươi và ngươi sẽ nói với chúng: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Kẻ nào
muốn nghe thì cứ việc nghe; kẻ nào không muốn nghe thì cứ việc không nghe, vì
chúng là nòi phản loạn."
Chương 04
Báo trước cuộc vây hãm
Giê-ru-sa-lem
1 Còn ngươi, hỡi con người, hãy lấy
một viên gạch rồi đặt trước mặt ngươi và khắc lên đó một thành, thành
Giê-ru-sa-lem. 2 Ngươi sẽ vẽ cuộc vây hãm thành ấy. Ngươi sẽ xây
chiến luỹ, đắp ụ, đóng trại và đặt chiến cụ chung quanh để tấn công thành. 3
Sau đó, hãy lấy một cái chảo sắt và đặt làm tường sắt ngăn cách ngươi và
thành. Rồi ngươi hướng mặt về phía thành: thành sẽ bị bao vây và ngươi sẽ vây
hãm thành. Ðó là dấu chỉ cho nhà Ít-ra-en.
4 Phần ngươi, hãy nằm nghiêng bên
trái và mang lấy tội lỗi nhà Ít-ra-en. Ngươi nằm như vậy bao nhiêu ngày thì
ngươi cũng gánh tội chúng bấy nhiêu ngày. 5 Còn Ta, Ta sẽ tính cho
ngươi số năm tội lỗi của chúng theo số ngày: ba trăm chín mươi ngày ngươi phải
gánh tội nhà Ít-ra-en. 6 Sau khi giữ đủ số ngày ấy, ngươi lại nằm
nghiêng bên phải mà gánh lấy tội lỗi nhà Giu-đa trong bốn mươi ngày. Ta tính
cho ngươi mỗi ngày là một năm. 7 Rồi ngươi hướng mặt và đưa cánh tay
trần về phía Giê-ru-sa-lem đang bị vây hãm mà tuyên sấm để lên án nó. 8 Này
Ta sẽ lấy dây thừng trói ngươi lại, khiến ngươi không trở mình bên này bên kia
được, cho đến khi ngươi giữ đủ số ngày ngươi nằm bất động.
9 Phần ngươi, ngươi hãy lấy lúa mì,
lúa mạch, đậu tằm, đậu nâu, kê và lúa miến, rồi bỏ tất cả vào một cái vò mà làm
bánh. Ngươi nằm nghiêng một bên bao nhiêu ngày - ba trăm chín mươi ngày -, thì
trong bấy nhiêu ngày ngươi sẽ ăn bánh ấy. 10 Lương thực ngươi dùng
phải cân theo số lượng - mỗi ngày hai lạng -, ngươi sẽ ăn như thế trong một
thời gian. 11 Nước ngươi uống cũng phải đúng số lượng - mỗi ngày một
lít -, ngươi sẽ uống như thế trong một thời gian. 12 Ngươi sẽ ăn
bánh giống như bánh tráng lúa mạch, nướng trên phân người trước mắt chúng. 13
Ðức Chúa phán: Con cái Ít-ra-en sẽ ăn bánh ô uế giống như vậy, giữa đám
chư dân Ta sẽ xua chúng đến.” 14 Tôi thưa: "Ôi lạy Ðức Chúa là
Chúa Thượng, này con chưa hề bị ô uế. Từ bé đến giờ, con chưa ăn vật chết hay
bị xé xác, cũng chưa có miếng thịt ôi nào lọt vào miệng con.” 15 Và
Người phán với tôi: "Này Ta cho phép ngươi lấy phân bò thay phân người và
ngươi sẽ nướng bánh trên phân đó.” 16 Người lại phán với tôi:
"Hỡi con người, này Ta sắp làm cạn nguồn lương thực ở Giê-ru-sa-lem, chúng
sẽ phải ăn bánh trong lo âu theo mức định sẵn; chúng sẽ phải uống nước trong sợ
hãi theo số hạn chế 17 khiến chúng vì thiếu bánh, thiếu nước mà đâm ra kinh
hoàng, rồi chết dần chết mòn vì tội lỗi của chúng."
Chương 05
1 Phần ngươi, hỡi con người, hãy
lấy một thanh gươm sắc và dùng làm dao cạo, rồi lướt trên đầu và râu ngươi.
Ngươi hãy lấy cân chia râu tóc ra làm nhiều phần. 2 Ngươi sẽ đốt một
phần ba trong ngọn lửa nhóm lên ở giữa thành, khi mãn hạn số ngày thành bị vây
hãm. Một phần ba nữa, ngươi sẽ dùng gươm mà vằm ra ở chung quanh thành; còn một
phần ba cuối cùng, ngươi sẽ vãi tung trước gió, và Ta sẽ tuốt gươm đuổi theo. 3
Nhưng trong số đó, ngươi sẽ giữ lại một ít mà bỏ vào vạt áo. 4 Và
trong số ít này, ngươi lại lấy mà ném vào lửa mà đốt; từ đó sẽ phát ra một ngọn
lửa. Rồi ngươi nói với toàn thể nhà Ít-ra-en. 5 Ðức Chúa là Chúa
Thượng phán thế này: Ðó là Giê-ru-sa-lem. Ta đã đặt nó ở giữa chư dân và các
nước láng giềng. 6 Nhưng nó đã nổi loạn chống lại các phán quyết của
Ta, làm điều gian ác còn hơn cả chư dân, chống lại các lệnh truyền của Ta hơn
cả các nước láng giềng; quả thật, chúng đã khước từ các phán quyết của Ta và
không tuân cứ các lệnh truyền của Ta.
7 Bởi vậy, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này: vì các ngươi làm loạn hơn cả chư dân ở chung quanh, các lệnh
truyền của Ta, các ngươi đã không tuân cứ, và các phán quyết của Ta, các ngươi
đã không thi hành; các ngươi cũng chẳng thi hành theo như tập tục của chư dân ở
chung quanh. 8 Vì thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Này Ta
sắp giáng phạt ngươi, chính Ta sẽ thi hành án phạt ngươi trước mặt chư dân. 9
Vì mọi điều ghê tởm của ngươi, Ta sẽ làm cho ngươi điều Ta chưa hề làm và
chẳng bao giờ làm như thế nữa. 10 Vì thế, ở giữa ngươi, cha sẽ ăn
thịt con và con sẽ ăn thịt cha. Ta sẽ thi hành án phạt ngươi và tất cả số người
còn sót lại của ngươi, Ta sẽ tung cho gió cuốn đi khắp tứ phương. 11 Bởi
vậy, Ta lấy mạng sống Ta mà thề - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng - vì
ngươi đã làm ô uế thánh điện của Ta bằng mọi đồ gớm ghiếc và mọi thứ ghê tởm,
nên chính Ta sẽ khai trừ chẳng chút xót thương, không còn để mắt đoái hoài. 12
Một phần ba số dân của ngươi sẽ chết vì ôn dịch và bị tiêu diệt vì đói
kém xảy ra nơi ngươi; còn một phần ba nữa, Ta sẽ tung cho gió cuốn đi khắp tứ
phương và tuốt gươm đuổi theo. 13 Ta sẽ trút cơn thịnh nộ cho hả
giận để trừng phạt chúng, Ta sẽ trả thù; lúc ấy chúng sẽ nhận biết rằng Ta là
Ðức Chúa; Ta phán trong lúc Ta nổi cơn ghen và trút cơn lôi đình xuống để trừng
phạt chúng. 14 Ta sẽ làm cho ngươi ra hoang tàn, nên đồ bị sỉ nhục
giữa chư dân ở chung quanh, trước mặt mọi người qua lại. 15 Ðối với
chư dân ở chung quanh, ngươi sẽ nên trò sỉ vả và lăng nhục, nên bài học và điều
kinh tởm, khi Ta thi hành án phạt ngươi, trong lúc Ta thịnh nộ nổi cơn lôi đình
và giận dữ khiển trách. Chính Ta, Ðức Chúa, Ta đã phán. 16 Khi Ta
phóng vào các ngươi những mũi tên ác độc là nạn đói kém có sức tiêu diệt - bởi
vì Ta sẽ phóng tên tiêu diệt các ngươi - Ta sẽ còn gia tăng đói kém để phạt các
ngươi, sẽ làm cạn nguồn lương thực, 17 cho nạn đói và thú dữ hoành
hành giữa các ngươi, khiến các ngươi phải mất con; các ngươi sẽ phải chết vì ôn
dịch, vì máu đổ, Ta sẽ cho gươm đao đến trừng phạt các ngươi. Chính Ta, Ðức
Chúa, Ta đã phán."
Chương 06
Hạch tội núi đồi của Ít-ra-en
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, hãy quay mặt về núi đồi Ít-ra-en và tuyên sấm để
hạch tội chúng. 3 Ngươi sẽ nói: Hỡi núi đồi Ít-ra-en, hãy nghe lời
Ðức Chúa là Chúa Thượng. Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau với núi đồi, hố
sâu và thung lũng: Này Ta sẽ cho gươm đao đến trừng phạt các ngươi; Ta sẽ triệt
hạ nơi cao của các ngươi. 4 Bàn thờ của các ngươi sẽ bị tàn phá;
hương án của các ngươi sẽ bị đập nát; thương vong của các ngươi sẽ ngã gục
trước ngẫu tượng của các ngươi. 5 Ta sẽ chất thây con cái Ít-ra-en
trước các ngẫu tượng chúng thờ và sẽ rải xương các ngươi chung quanh bàn thờ
của các ngươi. 6 Trong mọi nơi các ngươi ở, các thành trì sẽ nên
hoang tàn đổ nát, những nơi cao sẽ bị triệt hạ, để bàn thờ của các ngươi phải
hoang tàn đổ nát và bị triệt hạ, các ngẫu tượng của các ngươi sẽ bị đập nát và
tiêu huỷ, bàn thờ dâng hương của các ngươi bị đập tan tành và công trình của
các ngươi sẽ bị xoá bỏ. 7 Giữa các ngươi, những người bị thương vong
sẽ nằm la liệt. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết rằng chính Ta là Ðức Chúa.
8 Nhưng khi các ngươi phải phân tán
tại các nước, Ta sẽ chừa lại cho các ngươi một số sót. Số này thoát khỏi nạn
gươm đao sẽ sống giữa các dân tộc. 9 Bấy giờ, giữa các dân tộc, nơi
chúng bị lưu đày, những kẻ thoát nạn của các ngươi sẽ nhớ đến Ta. Ta sẽ đập nát
con tim ngoại tình của chúng, con tim đã lìa bỏ Ta; Ta cũng đập nát những con
mắt ngoại tình của chúng, những con mắt đã theo các ngẫu tượng. Chúng sẽ kinh
tởm chính bản thân mình, vì những điều gian ác chúng đã làm để kính mọi thứ đồ
ghê tởm của chúng. 10 Bấy giờ, chúng sẽ nhận biết rằng chính Ta là
Ðức Chúa. Khi Ta nói sẽ giáng tai hoạ này lên đầu chúng thì không phải là
chuyện viển vông đâu!
Tội lỗi của Ít-ra-en
11 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này: Ngươi hãy đập tay, giậm chân và nói "than ôi" với tất cả đồ ghê
tởm xấu xa của nhà Ít-ra-en: dân này sẽ phải ngã gục vì gươm đao, đói kém và ôn
dịch. 12 Ai ở xa sẽ chết vì ôn dịch, ai ở gần sẽ ngã gục vì gươm
đao, người sống sót và người bị bao vây sẽ chết vì đói kém. Ta sẽ trút hết cơn
lôi đình của Ta để trừng phạt chúng. 13 Khi những kẻ thương vong của
chúng nằm la liệt giữa các ngẫu tượng, chung quanh các bàn thờ, trên mọi ngọn
đồi cao, trên mọi đỉnh núi, dưới mọi lùm cây xanh, dưới mọi cây vân hương um
tùm, nơi chúng dâng hương thơm để làm vui lòng mọi ngẫu tượng của chúng, bấy
giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa. 14 Ta sẽ giương
cánh tay chống lại chúng và biến xứ sở chúng từ sa mạc cho đến Ríp-la, khắp mọi
nơi chúng ở, thành nơi hoang tàn đổ nát. Bấy giờ chúng sẽ nhận biết chính Ta là
Ðức Chúa.
Chương 07
Sắp đến giờ tận số
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Còn ngươi, hỡi con người, hãy nói: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán
thế này với đất Ít-ra-en: Giờ tận số đã điểm, giờ tận số trên khắp bốn phương
đất. 3 Bây giờ, giờ tận số của ngươi cũng đã điểm. Ta sẽ trút cơn
thịnh nộ của Ta xuống trên ngươi, Ta sẽ xét xử ngươi tuỳ theo việc ngươi làm.
Mọi thứ ghê tởm của ngươi, Ta sẽ trút xuống trên ngươi. 4 Ta sẽ không
để mắt đoái hoài và cũng chẳng xót thương ngươi, bởi vì Ta sẽ lấy cách xử sự
của ngươi mà trả lại cho ngươi, và ở giữa ngươi, các đồ ghê tởm sẽ mặc sức
hoành hành. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
5 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như
sau: Này đây tai hoạ khủng khiếp đang đến. 6 Giờ tận số đã điểm. Giờ
tận số đã điểm rồi. Giờ tận số đã đến với ngươi; kìa nó đang đến. 7 Hỡi
dân cư trong xứ, ngươi đã tới số rồi. Giờ đã điểm. Ngày đã gần. Nhưng lại là
nỗi kinh hoàng chứ không phải là tiếng reo vui trên núi. 8 Ngay bây
giờ, Ta đổ cơn thịnh nộ của Ta xuống trên ngươi, trút hết cơn lôi đình của Ta
trừng phạt ngươi. Ta sẽ xét xử ngươi tuỳ theo việc ngươi làm. Mọi thứ ghê tởm
của ngươi, Ta sẽ trút xuống trên ngươi. 9 Ta sẽ không để mắt đoái hoài
và cũng chẳng xót thương ngươi, bởi vì Ta sẽ lấy cách xử sự của ngươi mà trả
lại cho ngươi, và ở giữa ngươi, các đồ ghê tởm của ngươi sẽ mặc sức hoành hành.
Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa, là Ðấng trừng phạt.
10 Này ngày ấy đang đến, số của
ngươi tới rồi. Ngạo ngược trổ hoa, kiêu căng đâm chồi. 11 Bạo lực
trỗi dậy trở thành côn trượng của độc ác. Không còn sống sót một mạng nào.
Không còn tiếng gầm tiếng thét. Chúng chẳng còn được nghỉ ngơi yên hàn nữa. 12
Giờ đã điểm, ngày đã tới: người mua đừng hí hửng, kẻ bán chớ buồn rầu, vì
cơn thịnh nộ giáng xuống tất cả mọi người. 13 Quả thật, người bán sẽ
không chuộc lại được món hàng đã bán, cho dù còn sống sót, vì thị kiến đang đe
doạ tất cả mọi người sẽ thành sự thật. Ai cũng sống theo tội lỗi của mình, nên
sẽ không đứng vững. 14 Người ta thổi kèn và chuẩn bị sẵn sàng, nhưng
không có ai đi chiến đấu, bởi vì cơn thịnh nộ của Ta đang đe doạ mọi người.
Tội lỗi của Ít-ra-en
15 Bên ngoài thì gươm đao, bên trong
thì ôn dịch, đói kém. Ai ở ngoài đồng sẽ chết vì gươm đao, ai ở trong thành sẽ
bị đói kém và ôn dịch nuốt chửng. 16 Những ai đi trốn sẽ thoát nạn;
chúng sẽ lên núi như chim bồ câu trong thung lũng. Tất cả mọi người đều sẽ chết
vì tội lỗi của mình. 17 Mọi cánh tay sẽ rã rời, mọi đầu gối run lẩy
bẩy. 18 Mình chúng khoác vải thô, kinh hãi phủ lấp chúng; mặt nào
mặt nấy cũng thẹn thùng; đầu nào đầu nấy đều cạo nhẵn. 19 Bạc chúng
sẽ quẳng ra đường phố; vàng sẽ biến thành đồ uế tạp. Trong ngày Ðức Chúa nổi
cơn thịnh nộ, bạc vàng của chúng sẽ không cứu nổi chúng. Chẳng có gì làm cho
chúng no lòng thoả dạ, vì vàng bạc là cớ làm cho chúng phạm tội. 20 Cậy
vào các đồ trang sức lộng lẫy của mình, chúng kiêu căng tự phụ và làm ra các
hình ảnh ghê tởm, các ngẫu tượng gớm ghiếc. Vì thế, đối với chúng, Ta sẽ biến
những thứ đó thành đồ ô uế, 21 sẽ trao cho ngoại kiều làm chiến lợi
phẩm, để cho kẻ gian ác trong xứ cướp đoạt và xúc phạm. 22 Ta sẽ
ngoảnh mặt không nhìn chúng nữa. Thiên hạ sẽ xúc phạm kho tàng của Ta, bọn cướp
sẽ vào xúc phạm nơi ấy.
23 Hãy làm một cái xiềng, vì xứ sở
đầy những vụ đổ máu, và thành phố đầy bạo lực. 24 Ta sẽ đưa những
dân độc ác nhất đến cướp đoạt nhà cửa của chúng; Ta sẽ bẻ gãy tính kiêu hùng
của những kẻ mạnh, và các nơi thờ tự của chúng sẽ bị xúc phạm. 25 Lo
âu ập đến. Chúng tìm kiếm hoà bình, nhưng chẳng được. 26 Hết tai hoạ
này đến tai hoạ kia, hết tin dữ này đến tin dữ khác. Ngôn sứ không có thị kiến;
tư tế không biết Lề Luật, kỳ mục chẳng còn ý kiến. 27 Nhà vua sẽ
phải thọ tang, hoàng tử đắm chìm trong ngao ngán, dân trong xứ tay run lẩy bẩy.
Ta sẽ xử với chúng tuỳ theo lối sống của chúng; Ta sẽ xét xử chúng tuỳ theo
cách chúng xét xử. Bấy giờ, chúng sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
Chương 08
Thị kiến về tội lỗi của
Giê-ru-sa-lem
1 Ngày mồng năm tháng sáu năm thứ
sáu, khi tôi đang ngồi trong nhà và có những kỳ mục Giu-đa ngồi trước mặt tôi,
thì tay Ðức Chúa là Chúa Thượng đặt trên tôi.
2 Tôi nhìn, thì kìa: có cái gì
trông như hình dáng một người. Từ khoảng coi như ngang lưng trở xuống, đó là
lửa; còn từ khoảng coi như ngang lưng trở lên, đó là cái trông như hào quang,
tựa kim loại lấp lánh. 3 Dáng vẻ con người ấy đưa ra một hình thù
như bàn tay và nắm lấy chòm tóc trên đầu tôi. Một thần khí nâng tôi lên lơ lửng
giữa đất và trời. Trong thị kiến thần linh, thần khí đưa tôi về Giê-ru-sa-lem,
tới lối vào cổng bên trong, cổng quay về hướng bắc; tại đây có dựng ngẫu tượng
ghen tương gây ra sự ghen tương. 4 Và kìa, ở đó vinh quang Thiên
Chúa Ít-ra-en xuất hiện như thị kiến tôi đã nhìn thấy ở thung lũng: 5 Người
phán với tôi: "Hỡi con người, hãy ngước mắt nhìn về phương bắc." Và
tôi đã ngước mắt nhìn về phương bắc: Kìa, tại phía bắc cổng, có một bàn thờ,
ngẫu tượng ghen tương ấy ở ngay lối vào. 6 Người phán với tôi:
"Hỡi con người, ngươi có thấy chúng làm gì không? Ngươi có thấy chăng các
đồ rất ghê tởm nhà Ít-ra-en làm ở đây, khiến Ta rời bỏ Thánh Ðiện của Ta? Nhưng
ngươi sẽ còn nhìn thấy những đồ ghê tởm khủng khiếp khác nữa!"
7 Người dẫn tôi đến cửa tiền đình.
Tôi nhìn: kìa có một lỗ hổng ở tường. 8 Người phán với tôi:
"Hỡi con người, hãy khoét tường ra!" Tôi liền khoét tường, và kìa có
một cái cửa. 9 Người phán với tôi: "Hãy vào mà xem những điều
xấu xa ghê tởm chúng làm ở đây.” 10 Tôi vào và thấy đủ mọi thứ hình
rắn rết, thú vật ô uế và tất cả các ngẫu tượng của nhà Ít-ra-en khắc ở trên
tường, khắp cả bốn phía. 11 Ðứng trước các hình ấy có bảy mươi người
trong số các kỳ mục nhà Ít-ra-en, - ông Gia-a-dan-gia-hu, con ông Sa-phan, cũng
ở trong nhóm đó -, mỗi người tay cầm bình hương, hương thơm bay lên ngào ngạt. 12
Người phán với tôi: "Hỡi con người, ngươi có thấy các kỳ mục nhà
Ít-ra-en, mỗi người nơi căn phòng thờ kính ảnh tượng của mình, đang làm gì
không?" Chúng nói: "Ðức Chúa chẳng nhìn thấy ta đâu! Ðức Chúa đã bỏ
đất này rồi!” 13 Người phán với tôi: "Ngươi sẽ còn thấy chúng
làm những đồ ghê tởm khủng khiếp hơn nữa."
14 Rồi Người dẫn tôi đến lối vào
cổng Nhà Ðức Chúa, ở phía bắc. Tại đó có những phụ nữ đang ngồi khóc thần
Tam-mút. 15 Người phán với tôi: "Hỡi con người, ngươi có thấy
không? Ngươi sẽ còn thấy những đồ ghê tởm khủng khiếp hơn thế này nữa."
16 Người lại dẫn tôi đến tiền đình
phía bên trong Nhà Ðức Chúa. Và này, nơi lối vào Ðền Thờ Ðức Chúa, giữa tiền
đường và bàn thờ, có khoảng hai mươi lăm người, lưng quay về Ðền Thờ Ðức Chúa,
mặt hướng về phía đông. Chúng nhằm hướng đông mà sụp lạy mặt trời. 17 Người
phán với tôi: "Hỡi con người, ngươi có thấy không? Ðối với nhà Giu-đa, làm
những điều ghê tởm như chúng làm ở đây là chưa đủ hay sao mà còn gieo rắc bạo
lực khắp nơi trong xứ sở nhằm chọc giận Ta? Này chúng đưa cành cây lên mũi! 18
Phần Ta, Ta sẽ ra tay trong cơn phẫn nộ, sẽ không để mắt đoái hoài, cũng chẳng
xót thương. Chúng có kêu lớn tiếng vào tai Ta, Ta cũng chẳng nghe chúng!"
Chương 09
Hình phạt
1 Bấy giờ, Ðức Chúa kêu lớn tiếng
vào tai tôi: "Hỡi các ngươi là những kẻ có nhiệm vụ trừng phạt thành, hãy
đến gần, mỗi người cầm trong tay dụng cụ tiêu diệt!” 2 Và kìa từ
phía Cửa Trên hướng về phương bắc, có sáu người đến, mỗi người cầm trong tay
dụng cụ huỷ diệt. Ở giữa họ, có một người mặc áo vải gai đeo tráp ký lục ở
ngang lưng. Họ đến đứng bên cạnh bàn thờ bằng đồng.
3 Vinh quang của Thiên Chúa
Ít-ra-en bay lên khỏi thần hộ giá, nơi vinh quang Thiên Chúa ngự, mà tiến về
phía thềm Ðền Thờ. Ðức Chúa gọi người mặc áo vải gai, đeo tráp ký lục ở ngang
lưng 4 và phán với người ấy: "Hãy rảo khắp thành, khắp Giê-ru-sa-lem. Hãy
ghi dấu chữ thập trên trán những người đang rên siết khóc than về mọi điều ghê
tởm đang xảy ra trong khắp thành.” 5 Tôi lại nghe Ðức Chúa phán với
năm người kia: "Hãy đi theo người ấy vào thành mà chém giết. Ðừng nhìn mà
thương hại, đừng xót thương. 6 Người già, thanh niên, thiếu nữ, cũng
như đàn bà con trẻ, các ngươi hãy giết cho sạch; nhưng tất cả những ai mang dấu
trên mình, các ngươi chớ đụng đến. Các ngươi sẽ bắt đầu từ Nơi Thánh của
Ta." Và họ đã bắt đầu từ đàn ông, từ người già ở trước Ðền Thờ. 7 Người
phán với họ: "Hãy làm cho Ðền Thờ ra ô uế; tại các tiền đình, hãy chất đầy
xác chết, mau đi!" Họ ra đi và chém giết trong thành.
8 Vậy, đang khi họ chém giết, tôi ở
lại một mình; tôi sấp mặt xuống và kêu xin rằng: "Ôi, lạy Ðức Chúa là Chúa
Thượng, khi Ngài trút cơn lôi đình xuống Giê-ru-sa-lem, Ngài tính tiêu diệt tất
cả những người còn sót lại của Ít-ra-en sao?” 9 Người phán với tôi:
"Tội lỗi của nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa đã chồng chất nặng nề; xứ sở đầy những
máu, thành tràn ngập chuyện đồi bại, vì chúng nói: "Ðức Chúa đã bỏ đất này
rồi, Ðức Chúa chẳng nhìn thấy đâu! 10 Như thế, Ta sẽ không để mắt đoái hoài và
cũng chẳng xót thương. Ta sẽ căn cứ vào lối sống của chúng mà hạch tội.” 11
Và kìa, người mặc áo vải gai, đeo tráp ở ngang lưng, thuật lại rằng:
"Con đã thi hành như lệnh Ngài truyền cho con."
Chương 10
1 Tôi nhìn, thì kìa trên cái vòm,
ngay trên đầu các thần hộ giá, có cái gì như đá lam ngọc, trông tựa cái ngai ở
trên các thần hộ giá. 2 Và Ðức Chúa phán với người mặc áo vải gai
rằng: "Ngươi hãy vào giữa các bánh xe, phía bên dưới các thần hộ giá, hãy
lấy tay vốc đầy than rực lửa ở giữa các thần hộ giá, rồi vãi tung xuống
thành." Người ấy đi vào trước mắt tôi.
3 Khi người ấy đi vào, các thần hộ
giá đứng bên phải Ðền Thờ và mây che phủ đầy tiền đình phía bên trong. 4 Bấy
giờ vinh quang Ðức Chúa bay bổng lên khỏi thần hộ giá đến thềm Ðền Thờ. Ðền Thờ
đầy mây phủ và tiền đình tràn ngập ánh vinh quang Ðức Chúa. 5 Tiếng
cánh của các thần hộ giá nghe vang đến tận tiền đình phía bên ngoài, như tiếng
của Ðấng Toàn Năng lúc Người tuyên phán.
6 Khi Ðức Chúa truyền lệnh cho
người mặc áo vải gai: "Ngươi hãy lấy lửa từ giữa các bánh xe, từ giữa các
thần hộ giá", thì người ấy đã đi vào và đứng bên cạnh bánh xe. 7 Từ
giữa các thần hộ giá, một thần hộ giá đưa tay ra về phía lửa ở khoảng giữa các
thần hộ giá, rồi cầm lấy lửa và đặt vào tay người mặc áo vải gai. Người này
nhận lấy lửa và ra đi. 8 Lúc ấy, ở phía các thần hộ giá, bên dưới
cánh, người ta nhìn thấy có một cái gì giống như bàn tay con người. 9 Tôi
nhìn, thì kìa có bốn bánh xe ở bên cạnh các thần hộ giá, mỗi bánh xe ở bên cạnh
một thần hộ giá, các bánh xe ấy trông lấp lánh như ngọc mã não. 10 Còn
hình dáng của bánh xe, bốn bánh trông đều giống nhau, như thể bánh nọ ở giữa
bánh kia. 11 Lúc di chuyển, bốn bánh đi về bốn phía; lúc đi chúng
không quay vào nhau, bởi vì đầu thần hộ giá hướng về phía nào, thì bánh xe cũng
đi theo phía ấy; lúc đi chúng không quay vào nhau. 12 Toàn thân,
lưng, tay và cánh của các thần hộ giá cũng như các bánh xe đầy những mắt ở
chung quanh, cả bốn bánh xe đều như thế. 13 Tai tôi nghe người ta
gọi các bánh xe ấy là "gan gan". 14 Mỗi sinh vật có bốn
mặt: mặt thứ nhất là mặt thần hộ giá, mặt thứ hai là mặt người, mặt thứ ba là
mặt sư tử và mặt thứ bốn là mặt phượng hoàng. 15 Các thần hộ giá cất
mình lên: đó là sinh vật tôi đã thấy bên sông Cơ-va. 16 Khi các thần
hộ giá di chuyển, các bánh xe ở bên cạnh các thần ấy cũng chuyển theo. Khi các
thần hộ giá dang cánh để cất mình lên khỏi mặt đất, các bánh xe không quay nữa,
nhưng vẫn ở bên cạnh các thần hộ giá. 17 Khi các thần hộ giá dừng
lại, các bánh xe cũng dừng lại, khi các thần hộ giá cất mình lên, các bánh xe
cũng cất lên theo, bởi vì thần khí của sinh vật ở trong các bánh xe.
Vinh quang Ðức Chúa rời bỏ Ðền
Thờ
18 Vinh quang Ðức Chúa bay lên khỏi
thềm Ðền Thờ và dừng lại trên các thần hộ giá. 19 Các thần hộ giá
dang cánh và cất mình lên khỏi mặt đất trước mắt tôi khi đi ra; các bánh xe
cũng chuyển theo cùng một lúc. Các thần hộ giá dừng lại ở lối vào cửa đông Nhà
Ðức Chúa, và vinh quang của Thiên Chúa Ít-ra-en ngự bên trên các vị ấy. 20
Ðó là sinh vật tôi đã thấy ở bên dưới Thiên Chúa Ít-ra-en, tại sông
Cơ-va, và tôi nhận ra đó là các thần hộ giá. 21 Mỗi thần hộ giá có
bốn mặt và bốn cánh: có cái gì giống như bàn tay con người ở dưới cánh các vị
ấy. 22 Còn bộ mặt của các vị ấy thì đó là những bộ mặt tôi đã thấy
bên sông Cơ-va. Mỗi thần hộ giá cứ thẳng trước mặt mình mà đi.
Chương 11
Tội lỗi của Giê-ru-sa-lem
1 Thần khí nâng tôi lên và đưa tôi
đến cổng đông Nhà Ðức Chúa, cổng này quay về hướng đông. Và kìa, ở lối vào cổng
có hai mươi lăm người. Ở giữa họ, tôi nhìn thấy ông Gia-a-dan-gia con ông
Át-dua và ông Pơ-lát-gia-hu con ông Bơ-na-gia-hu, là những thủ lãnh của dân. 2
Ðức Chúa phán với tôi: "Hỡi con người, đây là những người bày ra
chước độc và toan tính mưu thâm trong thành này. 3 Chúng nói:
"Chưa xây nhà ngay được đâu, vì thành là nồi, chúng ta là thịt.” 4 Vì
thế, hỡi con người, hãy tuyên sấm hạch tội chúng, hãy tuyên sấm.” 5 Thần
khí Ðức Chúa ập xuống trên tôi; Người phán với tôi: "Ngươi hãy nói: Ðức
Chúa phán thế này: Hỡi nhà Ít-ra-en, các ngươi đã nói như thế, và những gì nảy
sinh từ thần khí các ngươi, Ta biết hết. 6 Các ngươi đã tăng số
thương vong trong thành này và các ngươi chất đầy thương vong ngoài đường phố. 7
Vì vậy, Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: thương vong các ngươi để ở
giữa thành sẽ là thịt, và thành sẽ là nồi; còn chính các ngươi, Ta sẽ bắt các
ngươi phải ra khỏi đó. 8 Các ngươi sợ gươm đao, nhưng Ta sẽ khiến
gươm đao đến trừng phạt các ngươi - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. 9
Ta sẽ bắt các ngươi phải ra khỏi thành và sẽ trao nộp các ngươi vào tay
ngoại bang; Ta sẽ thi hành án phạt các ngươi. 10 Các ngươi sẽ ngã
gục vì gươm đao; Ta sẽ xét xử các ngươi ở biên giới Ít-ra-en và các ngươi sẽ
nhận biết chính Ta là Ðức Chúa. 11 Ðối với các ngươi, thành sẽ không
còn là nồi và các ngươi cũng sẽ không còn là thịt trong nồi nữa; Ta sẽ xét xử
các ngươi ở biên giới Ít-ra-en. 12 Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết
chính Ta là Ðức Chúa, là Ðấng ban lệnh truyền mà các ngươi không tuân theo, đã
ra phán quyết mà các ngươi không thi hành, nhưng lại thi hành phán quyết của
các dân tộc lân bang.
13 Khi tôi đang tuyên sấm, thì ông
Pơ-lát-gia-hu con ông Bơ-na-gia chết. Tôi sấp mặt xuống và lớn tiếng kêu xin
rằng: "Ôi, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, Ngài muốn tiêu diệt số còn sót lại
của Ít-ra-en sao?"
Giao ước mới cho những kẻ lưu đày
14 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
15 "Hỡi con người, dân cư Giê-ru-sa-lem nói với các anh em
ngươi, những người bà con họ hàng của ngươi và tất cả nhà Ít-ra-en như sau:
"Các ngươi phải ở xa Ðức Chúa, còn chúng tôi mới là những người được sở
hữu đất này.” 16 Vì thế, ngươi hãy nói: "Ðức Chúa là Chúa
Thượng phán thế này: Quả thật, Ta đã đưa chúng đi xa, đến ở giữa chư dân; Ta đã
phân tán chúng đi các nước. Ta đã nên một thứ Thánh Ðiện cho chúng trong một
thời gian, tại các nước chúng đến. 17 Vì thế, ngươi hãy nói: Ðức
Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Từ muôn dân, Ta sẽ tập hợp các ngươi lại; từ
muôn nước, nơi các ngươi bị phân tán, Ta sẽ quy tụ các ngươi về và Ta sẽ ban
cho các ngươi đất Ít-ra-en. 18 Chúng sẽ trở về đó và loại đi mọi thứ
gớm ghiếc và ghê tởm. 19 Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và đặt
thần khí mới vào lòng chúng. Ta sẽ lấy khỏi mình chúng trái tim chai đá và ban
cho chúng một trái tim bằng thịt, 20 để chúng đi theo các thánh chỉ
của Ta và tuân giữ cùng thi hành các quyết định của Ta. Lúc ấy, chúng sẽ là dân
của Ta và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng. 21 Còn những ai để lòng dạ
đi theo các đồ gớm ghiếc và ghê tởm của chúng, Ta sẽ căn cứ vào lối sống của
chúng mà hạch tội - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
Vinh quang Ðức Chúa rời bỏ
Giê-ru-sa-lem
22 Bấy giờ các thần hộ giá cất cánh
lên và các bánh xe cũng cất lên theo; vinh quang của Thiên Chúa Ít-ra-en ngự
bên trên các thần hộ giá. 23 Vinh quang Ðức Chúa đi lên khỏi thành
và dừng lại trên núi ở phía đông của thành.
24 Thần khí nâng tôi lên và đưa tôi
đến xứ Can-đê, đến với những người đang bị lưu đày. Ðiều ấy xảy ra trong một
thị kiến, do tác động của thần khí Thiên Chúa. Thị kiến mà tôi thấy đã biến mất.
25 Tôi đã thuật lại cho những người lưu đày tất cả những điều Ðức
Chúa đã cho tôi nhìn thấy.
Chương 12
Giả bộ làm người di cư
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, ngươi đang sống giữa một nòi phản loạn, giữa những
kẻ có mắt để nhìn mà không thấy, những kẻ có tai để nghe mà không nghe, vì
chúng là một nòi phản loạn. 3 Về phần ngươi, hỡi con người, hãy
chuẩn bị hành lý đi đày và hãy đi đày giữa ban ngày trước mắt chúng; ngươi sẽ
đi đày, rời chỗ ngươi đang ở mà tới một chỗ khác, trước mắt chúng. May ra chúng
sẽ nhận thấy mình là một nòi phản loạn. 4 Ngươi hãy đem hành lý của
ngươi ra ngoài như hành lý của kẻ đi đày, giữa ban ngày, trước mắt chúng. Và
chiều đến, ngươi sẽ ra đi trước mắt chúng như một kẻ phải đi đày. 5 Trước
mắt chúng, ngươi hãy khoét tường mà đưa hành lý ra. 6 Trước mắt
chúng, ngươi sẽ vác hành lý lên vai và ra đi lúc trời tối; ngươi sẽ che mặt để
khỏi nhìn thấy xứ sở, vì Ta đã biến ngươi nên điềm báo cho nhà Ít-ra-en.
7 Tôi đã làm y như lệnh Ðức Chúa
truyền cho tôi. Giữa ban ngày, tôi đã đem hành lý của tôi ra ngoài, hành lý của
kẻ đi đày; và chiều đến, tôi lấy tay khoét tường. Tôi ra đi lúc trời tối và vác
hành lý lên vai trước mặt họ.
8 Sáng hôm sau, có lời Ðức Chúa
phán với tôi rằng: 9 "Hỡi con người, chẳng phải nhà Ít-ra-en,
nòi phản loạn, đã nói với ngươi: "Ông làm gì thế" sao? 10 Ngươi hãy
nói với chúng: "Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Sấm ngôn ấy nhằm nói
về ông hoàng ở Giê-ru-sa-lem và toàn thể nhà Ít-ra-en ở trong thành. 11 Ngươi
hãy nói: "Tôi là điềm báo cho các ông. Tôi đã làm thế nào, thì sẽ xảy ra
cho họ như vậy. Họ sẽ phải đi tù, đi đày. 12 Ông hoàng đang ở giữa
họ sẽ vác hành lý lên vai lúc trời tối và sẽ ra đi; họ sẽ khoét một lỗ trên
tường cho ông chui qua. Ông sẽ che mặt để chính mắt khỏi nhìn thấy xứ sở.” 13
Ta sẽ bủa lưới chụp trên nó và nó sẽ mắc vào lưới săn của Ta, Ta sẽ dẫn
đưa nó đến Ba-by-lon, trên đất Can-đê, nhưng nó sẽ không nhìn thấy đất ấy và
phải chết ở đó. 14 Tất cả cận thần, cận vệ và binh lính của nó, Ta
sẽ tung cho gió cuốn đi khắp tứ phương và Ta sẽ tuốt gươm đuổi theo chúng. 15
Chúng sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa, khi Ta phân tán chúng đi các dân
và tung chúng đến các nước. 16 Nhưng Ta sẽ cho một số ít người trong
bọn chúng thoát khỏi gươm đao, đói kém và ôn dịch để chúng thuật lại tất cả
những điều ghê tởm của chúng cho các dân mà chúng sẽ đến. Bấy giờ chúng sẽ nhận
biết chính Ta là Ðức Chúa.
17 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
18 Hỡi con người, ngươi sẽ ăn bánh trong lo âu và uống nước trong
xao xuyến sợ hãi. 19 Ngươi sẽ nói với dân trong xứ: Ðức Chúa là Chúa
Thượng phán thế này với dân cư Giê-ru-sa-lem đang ở đất Ít-ra-en: chúng sẽ ăn
bánh trong lo âu và uống nước trong sợ hãi, vì đất Ít-ra-en sẽ ra hoang tàn và
sẽ thiếu thốn mọi sự do những việc bạo hành của toàn thể dân cư trong xứ. 20
Các thành đông người ở sẽ nên chốn hoang tàn, đất sẽ bị tàn phá. Bấy giờ
các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
Những câu châm ngôn bình dân
21 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
22 Hỡi con người, tại sao trên đất Ít-ra-en các ngươi lại có câu
châm ngôn này: Ngày tháng trôi, mọi thị kiến đều vô hiệu? 23 Vì thế, ngươi hãy
nói với chúng: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Ta sẽ làm cho câu châm
ngôn này ra vô hiệu; ở trên đất Ít-ra-en, người ta sẽ không còn nói câu châm
ngôn ấy nữa. Nhưng ngươi hãy nói với chúng: Sẽ đến ngày mọi thị kiến đều hiệu
nghiệm. 24 Thật vậy, ở giữa nhà Ít-ra-en, sẽ không có thị kiến nào
là vô hiệu và cũng chẳng có lời sấm nào là dối trá đâu! 25 Vì chính Ta là Ðức
Chúa, Ta phán điều Ta muốn và điều ấy chẳng mấy chốc sẽ xảy ra. Quả thật, chính
trong đời các ngươi, hỡi nòi phản loạn, điều Ta sẽ phán, Ta sẽ thi hành - sấm
ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
26 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
27 Hỡi con người, này nhà Ít-ra-en nói: Thị kiến ông ta thấy còn lâu
mới hiệu nghiệm; ông ta tuyên sấm cho một thời xa xăm. 28 Vì thế,
ngươi hãy nói với chúng: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: mọi lời Ta phán
chẳng mấy chốc sẽ xảy ra. Ðiều nào Ta phán, điều ấy sẽ được thi hành - sấm ngôn
của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
Chương 13
Hạch tội các ngôn sứ giả
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, hãy tuyên sấm hạch tội các ngôn sứ của Ít-ra-en,
hãy tuyên sấm; hãy bảo bọn ngôn sứ chỉ nói theo ý mình: Các ngươi hãy nghe lời
Ðức Chúa. 3 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Khốn cho hạng ngôn
sứ ngu si, chỉ theo thần khí riêng và chẳng thấy gì. 4 Hỡi Ít-ra-en,
các ngôn sứ của ngươi giống như bầy sói ở giữa đống hoang tàn đổ nát.
5 Các ngươi không lên lỗ hổng mà
cũng chẳng xây tường bảo vệ nhà Ít-ra-en, để nó có thể cầm cự trong cuộc chiến
đấu vào ngày của Ðức Chúa. 6 Chúng thuật lại những thị kiến hão
huyền và những lời sấm dối trá, lại còn dám nói: "Sấm ngôn của Ðức
Chúa." Nhưng Ðức Chúa đâu có sai chúng đi; chúng mong đợi Người thực hiện
lời chúng nói. 7 Các ngươi đã thấy thị kiến hão huyền và nói lời sấm
dối trá, lại còn bảo: "Sấm ngôn của Ðức Chúa", trong khi chính Ta
chẳng tuyên phán gì cả, có phải thế không?
8 Bởi vậy, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này: Vì các ngươi nói lời hão huyền và thấy thị kiến dối trá, nên Ta
đây sẽ trừng phạt các ngươi - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. 9 Ta
sẽ ra tay trừng phạt hạng ngôn sứ thấy thị kiến hão huyền và nói lời sấm dối
trá. Chúng sẽ không được nhận vào hàng cố vấn cho dân Ta, không được ghi tên
vào sách nhà Ít-ra-en, không được vào đất Ít-ra-en. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận
biết chính Ta là Ðức Chúa, là Chúa Thượng. 10 Bởi vì chúng đã làm
cho dân Ta lạc đường khi nói rằng: "Hoà bình", mà thực ra chẳng có
hoà bình; trong khi dân xây tường thì chúng lại trát vôi lên tường. 11 Hãy
nói với kẻ trát vôi: Sẽ có mưa lũ, mưa đá; gió bão sẽ nổi lên, 12 và
này tường sẽ đổ. Bấy giờ, thiên hạ lại chẳng nói với các ngươi: Nước vôi các
ngươi đã trát lên đâu rồi? 13 Vì thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Khi
Ta trút cơn lôi đình, Ta sẽ cho gió bão nổi lên; lúc thịnh nộ, Ta sẽ cho mưa lũ
trút xuống; trong cơn lôi đình, Ta sẽ cho mưa đá đổ xuống để tiêu diệt. 14
Ta sẽ triệt hạ bức tường mà các ngươi đã trát vôi, sẽ san cho bình địa,
và chân móng sẽ lộ ra. Tường sẽ đổ và các ngươi sẽ bị tiêu diệt dưới bức tường
đổ ấy. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
15 Ta sẽ trút hết cơn thịnh nộ của
Ta xuống bức tường và người trát vôi lên nó. Ta sẽ phán với các ngươi: Không
còn tường, cũng chẳng còn người trát vôi 16 là các ngôn sứ của Ít-ra-en đã
tuyên sấm về Giê-ru-sa-lem và có những thị kiến hoà bình về nó, mà chẳng có hoà
bình - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
Các nữ ngôn sứ giả
17 Còn ngươi, hỡi con người, hãy
quay mặt về phía các phụ nữ của dân ngươi, là những kẻ dám tuyên sấm theo ý
mình; hãy tuyên sấm hạch tội chúng. 18 Ngươi sẽ nói: Ðức Chúa là
Chúa Thượng phán như sau: Khốn cho những kẻ khâu những dải băng trên mọi cổ tay
và làm khăn che đầu đủ cỡ để săn bắt mạng người. Có phải các ngươi định săn bắt
mạng sống của dân Ta và giữ mạng sống của các ngươi không? 19 Các ngươi đã xúc
phạm đến Ta nơi dân Ta chỉ vì những nắm lúa mạch, những mẩu bánh, đến nỗi các
ngươi giết chết người đáng lẽ không phải chết, và cho sống những người không
đáng sống, trong khi các ngươi đánh lừa dân Ta là những kẻ quen nghe lời dối
trá.
20 Vì thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán như sau: Này Ta chống lại các dải băng mà các ngươi dùng để săn bắt mạng
người như săn bắt chim; Ta sẽ giựt chúng khỏi tay các ngươi và thả những mạng
người các ngươi đã săn bắt như săn bắt chim. 21 Ta sẽ xé khăn của
các ngươi và sẽ giải thoát dân Ta khỏi tay các ngươi; chúng sẽ không còn là
miếng mồi trong tay các ngươi nữa. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là
Ðức Chúa.
22 Bởi vì các ngươi đã dùng điều dối
trá mà làm cho tâm hồn người chính trực phải buồn phiền, trong lúc Ta không
muốn làm cho nó phải buồn phiền, bởi vì các ngươi đã tiếp tay cho kẻ gian ác
đến nỗi nó không từ bỏ con đường xấu xa của mình mà được sống, 23 vì
thế, các ngươi sẽ không còn những thị kiến hão huyền và sẽ không còn nói những
lời sấm nữa; Ta sẽ giải thoát dân Ta khỏi tay các ngươi. Bấy giờ các ngươi sẽ
nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
Chương 14
Hạch tội thờ ngẫu tượng
1 Một số người trong hàng kỳ mục
Ít-ra-en đến gặp tôi và ngồi trước mặt tôi. 2 Có lời Ðức Chúa phán
với tôi rằng: 3 Hỡi con người, những kẻ này dựng các ngẫu tượng
trong tâm hồn chúng và đặt chướng ngại trước mặt khiến chúng phạm tội. Ta có
nên để cho chúng thỉnh vấn Ta không? 4 Vì thế, ngươi hãy bảo, hãy nói với
chúng: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Bất cứ kẻ nào thuộc nhà Ít-ra-en
dựng các ngẫu tượng trong tâm hồn và đặt chướng ngại trước mặt khiến mình phạm
tội, rồi đến gặp ngôn sứ, thì chính Ta, Ðức Chúa, Ta sẽ trả lời cho nó vì vô
vàn ngẫu tượng của nó, 5 để lôi kéo nhà Ít-ra-en bằng cách đánh động
lòng dạ của nó, lòng dạ đã lìa xa Ta vì các ngẫu tượng của chúng. 6 Bởi
thế, ngươi hãy nói với nhà Ít-ra-en: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Các
ngươi hãy trở lại, hãy từ bỏ ngẫu tượng của các ngươi, hãy ngoảnh mặt thôi nhìn
mọi đồ ghê tởm của các ngươi. 7 Quả thật, bất cứ kẻ nào thuộc nhà
Ít-ra-en hoặc một người di cư đang trú ngụ tại Ít-ra-en, lìa xa Ta, dựng các
ngẫu tượng trong tâm hồn và đặt chướng ngại trước mặt khiến nó phạm tội, rồi
đến thỉnh ý ngôn sứ, thì này chính Ta, Ðức Chúa, Ta sẽ đích thân trả lời cho nó.
8 Ta sẽ quay mặt lại phạt nó, khiến nó nên dấu hiệu và đề tài đàm
tiếu, Ta sẽ diệt trừ nó khỏi dân Ta. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là
Ðức Chúa. 9 Còn ngôn sứ, nếu nó để cho mình bị mê hoặc mà nói ra lời
nào, thì chính Ta, Ðức Chúa, Ta sẽ để cho ngôn sứ ấy bị mê hoặc. Ta sẽ dang tay
trừng phạt nó và diệt trừ nó khỏi dân Ta là Ít-ra-en. 10 Chúng sẽ
mang lấy tội lỗi của mình: tội lỗi của kẻ thỉnh ý thế nào, thì tội lỗi của ngôn
sứ cũng vậy. 11 Như thế, nhà Ít-ra-en sẽ không còn lìa xa Ta nữa và
sẽ không ra ô uế vì tất cả những tội phản bội của chúng. Chúng sẽ là dân của Ta
và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
Trách nhiệm cá nhân
12 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
13 Hỡi con người, nếu một xứ đắc tội với Ta mà phạm tội bất trung,
nếu Ta dang tay trừng phạt xứ ấy, làm cho nó cạn nguồn lương thực và bị đói
kém, nếu Ta diệt trừ người cũng như súc vật khỏi xứ, 14 và nếu trong
xứ ấy có ba người này là Nô-ê, Ða-ni-ên và Gióp, thì những người ấy sẽ được
thoát mạng nhờ sự công chính của mình - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. 15
Hoặc nếu Ta để cho thú dữ rảo khắp nơi, khiến xứ ấy phải mất con và trở
nên chốn hoang tàn, không một người qua lại, vì nạn thú dữ. 16 Giả
như có ba người ấy ở trong xứ, Ta lấy mạng sống Ta mà thề - sấm ngôn của Ðức
Chúa là Chúa Thượng - chúng cũng chẳng cứu nổi con trai con gái mình, chỉ mình
chúng được cứu thoát và xứ ấy sẽ trở nên chốn hoang tàn. 17 Hoặc là
nếu Ta đem gươm đến phạt xứ ấy và phán: Gươm đao phải rảo qua khắp xứ và Ta sẽ
diệt trừ cả người lẫn súc vật khỏi xứ này. 18 Giả như có ba người ấy
ở trong xứ, Ta lấy mạng sống Ta mà thề - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng
-, chúng cũng chẳng cứu nổi con trai con gái mình, chỉ mình chúng được cứu
thoát thôi. 19 Hay là nếu Ta cho ôn dịch đến giết hại xứ ấy hoặc dìm
nó trong máu cho hả giận, khiến người và vật phải tiêu vong, 20 dù
có Nô-ê, Ða-ni-en và Gióp ở trong xứ, Ta lấy mạng sống Ta mà thề - sấm ngôn của
Ðức Chúa là Chúa Thượng -, chúng cũng chẳng cứu nổi con trai con gái mình, chỉ
mình chúng được cứu thoát vì đã sống công minh chính trực.
21 Quả thật, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này: Dù Ta có cho bốn án phạt khủng khiếp là gươm đao, đói kém, thú dữ
và ôn dịch đến trừng phạt Giê-ru-sa-lem, khiến người và vật phải tiêu vong, 22
thì trong thành vẫn còn một số thoát nạn. Những người này đưa được con
trai con gái mình đi ra; chúng đi đến với các ngươi. Các ngươi sẽ thấy cách
sống cũng như hành vi của chúng. Lúc ấy các ngươi sẽ tự an ủi mình về tai hoạ
Ta đã giáng xuống Giê-ru-sa-lem, về tất cả những gì Ta đã giáng xuống để trừng
phạt nó. 23 Chúng sẽ an ủi các ngươi, vì các ngươi chứng kiến cách
sống cũng như hành vi của chúng. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết rằng: tất cả
những gì Ta đã làm ở Giê-ru-sa-lem không phải là vô cớ - sấm ngôn của Ðức Chúa
là Chúa Thượng.
Chương 15
Dụ ngôn cây nho
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi:
2 Hỡi con người, gỗ cây nho là gì
mà lại tốt hơn mọi thứ gỗ;
cành của nó là chi
mà lại tốt hơn cành những cây
khác trên rừng?
3 Người ta có dùng gỗ của nó vào
công trình gì không,
hay lấy nó làm cọc để treo bất cứ
vật gì?
4 Này nó bị quăng làm mồi cho lửa,
lửa đã liếm hai đầu của nó;
khúc giữa đã cháy, liệu còn dùng
được vào việc gì chăng?
5 Khi còn nguyên vẹn, nó đã không
dùng được vào công trình gì,
phương chi bây giờ nó đã bị lửa
thiêu rụi,
hỏi nó còn dùng được vào công
trình gì nữa?
6 Vì thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán như sau:
Cũng như gỗ cây nho trong đám cây
trên rừng
đã bị Ta quăng làm mồi cho lửa,
thì dân cư Giê-ru-sa-lem cũng bị
Ta thiêu như thế.
7 Ta sẽ quay mặt lại phạt chúng,
chúng đã thoát khỏi lửa, nhưng sẽ
bị lửa thiêu rụi.
Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết
chính Ta là Ðức Chúa
khi Ta quay mặt lại phạt chúng.
8 Ta sẽ biến xứ này thành chốn
hoang tàn đổ nát
bởi vì chúng đã thất tín với Ta,
sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa
Thượng.
Chương 16
Câu chuyện tượng trưng về lịch sử
Ít-ra-en
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, hãy cho Giê-ru-sa-lem biết các điều ghê tởm của nó.
3 Ngươi sẽ nói: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này với
Giê-ru-sa-lem: Gốc gác ngươi, dòng họ ngươi phát xuất từ đất Ca-na-an; cha
ngươi là người E-mô-ri, mẹ ngươi là người Khết. 4 Lúc chào đời, ngày
mới sinh ra, ngươi không được ai cắt rốn cũng không ai lấy nước tắm rửa cho
sạch, chẳng được ai xát muối và lấy tã bọc cho. 5 Không người nào ái
ngại đưa mắt nhìn ngươi mà làm cho ngươi chỉ một trong những điều ấy vì xót
thương ngươi. Ngày mới sinh ra, ngươi bị quẳng ra giữa đồng vì ai cũng ghê tởm
ngươi.
6 Ta đi ngang qua chỗ ngươi và thấy
ngươi giẫy giụa trong máu. Thấy ngươi mình đầy máu me, Ta đã phán với ngươi:
"Cứ việc sống!” 7 Ta làm cho ngươi nẩy nở như hoa ngoài đồng.
Ngươi đã nẩy nở, lớn lên và thành cô thiếu nữ với bộ ngực nở nang, mái tóc mượt
mà, nhưng ngươi vẫn trần truồng, không mảnh vải che thân. 8 Ta đi
ngang qua chỗ ngươi và thấy ngươi. Này ngươi đã đến tuổi, tuổi yêu đương. Ta đã
lấy vạt áo của Ta phủ lên để che thân thể loã lồ của ngươi. Ta đã thề nguyền và
lập giao ước với ngươi - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng - và ngươi thuộc
về Ta. 9 Ta đã lấy nước tắm rửa, gột sạch máu me, rồi xức dầu thơm
cho ngươi. 10 Ta đã cho ngươi mặc đồ gấm vóc, đi giày da mềm, thắt
khăn vải gai mịn và khoác toàn tơ lụa. 11 Ta đã lấy đồ trang sức tô
điểm cho ngươi: đeo xuyến vào tay, đeo kiềng vào cổ. 12 Ta đã lấy
khuyên xỏ vào mũi ngươi, đeo hoa tai cho ngươi và lấy triều thiên rực rỡ đội
lên đầu ngươi. 13 Ðồ trang sức của ngươi đều là vàng bạc, y phục của
ngươi là vải gai mịn, tơ lụa và gấm vóc. Ngươi được nuôi bằng tinh bột lúa
miến, mật ong và dầu. Ngươi đã nên xinh đẹp tuyệt trần và xứng ngôi hoàng hậu. 14
Giữa muôn dân nước, ngươi được nổi tiếng vì nhan sắc của ngươi; nhan sắc
đó tuyệt vời nhờ ánh huy hoàng của Ta chiếu toả trên ngươi, - sấm ngôn của Ðức
Chúa là Chúa Thượng.
15 Thế mà ngươi đã cậy có nhan sắc,
ỷ vào danh tiếng của ngươi để đàng điếm và hoang dâm với mọi khách qua đường:
ngươi thuộc về chúng. 16 Ngươi đã lấy áo của ngươi mà trang hoàng
cho tế đàn nên rực rỡ và ngươi đàng điếm ở trên các tế đàn ấy. 17 Ngươi
đã lấy các đồ trang sức lộng lẫy bằng vàng bằng bạc Ta đã tặng ngươi mà làm các
tượng ảnh đàn ông và ngươi đàng điếm với chúng. 18 Ngươi đã lấy áo
sặc sỡ của ngươi mà mặc cho chúng, lại lấy dầu và hương của Ta mà dâng trước
mặt chúng. 19 Bánh Ta đã ban cho ngươi, tinh bột lúa miến, mật ong
và dầu Ta đã dùng để nuôi ngươi, thế mà ngươi lại lấy dâng trước mặt chúng làm
hương thơm để làm vui lòng chúng - sấm ngôn của Ðức Chúa.
20 Ngươi đem các con trai con gái
ngươi đã sinh cho Ta mà tế lễ làm của ăn cho chúng. Ngươi hoang dâm như thế
chưa đủ sao? 21 Ngươi đã giết và thiêu con cái Ta để tế chúng. 22 Trong
tất cả các điều ghê tởm cũng như việc hoang dâm của ngươi, ngươi đã không nhớ
đến những ngày ngươi còn thơ ấu, lúc ngươi còn trần truồng, không mảnh vải che
thân, khi ngươi giãy giụa trong máu.
23 Sau khi đã làm tất cả những việc
xấu xa đó - thật khốn, khốn cho ngươi, sấm ngôn của Ðức Chúa -, 24 ngươi
lại còn xây gò đắp mô ở khắp phố phường. 25 Ở mọi đầu đường, ngươi
xây gò và làm cho nhan sắc của ngươi ra ghê tởm; ngươi đã hiến thân cho mọi
khách qua đường và gia tăng tội hoang dâm của ngươi. 26 Ngươi đã
hoang dâm với con cái Ai-cập, những kẻ láng giềng của ngươi có thân hình vạm
vỡ; như thế là ngươi gia tăng tội hoang dâm để chọc giận Ta. 27 Này
Ta giương cánh tay đánh phạt ngươi; Ta cắt phần lương thực của ngươi và trao
ngươi cho kẻ thù thoả lòng ham muốn, đó là con gái Phi-li-tinh, ngay cả chúng
cũng phải bẽ bàng về nếp sống ô trọc của ngươi. 28 Dù vậy, ngươi
cũng không mãn nguyện, lại còn hoang dâm với con cái Át-sua; ngươi hoang dâm
với chúng mà vẫn chẳng thoả lòng. 29 Ngươi đã gia tăng tội hoang dâm
trong xứ Can-đê là nơi buôn bán, và ngay cả như thế, ngươi cũng không thoả
lòng.
30 Lòng ngươi mê đắm biết chừng nào
- sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng - khi ngươi hành động như thế, như một
gái điếm cuồng si. 31 Ngươi đắp mô ở mọi đầu đường và xây gò ở khắp
phố phường; nhưng khác với gái điếm chuyên nghề, ngươi chẳng màng đến tiền bạc.
32 Ðàn bà ngoại tình, thay vì ở với chồng, lại tư thông với người
khác. 33 Người ta tặng quà cho gái điếm, còn ngươi, ngươi lại tặng
quà cho tất cả tình nhân của ngươi. Ngươi đem quà tặng chúng để từ khắp mọi
miền chung quanh, chúng đến mà đàng điếm với ngươi. 34 Như thế, khi
hoang dâm, ngươi làm ngược với các người đàn bà khác. Người đàng điếm không
phải là kẻ chạy theo ngươi mà là chính ngươi. Người trả tiền là ngươi, chứ
không phải chúng. Ngươi làm chuyện ngược đời!
35 Vì thế, hỡi con điếm, hãy nghe
lời Ðức Chúa. 36 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Bởi vì ngươi
đã hoàn toàn trần truồng và phô bày hết mọi phần thân thể ngươi ra trước đám
tình nhân, trước tất cả các ngẫu tượng ghê tởm của ngươi, vì ngươi đã đổ máu
con cái ngươi mà dâng cho chúng, 37 nên Ta sắp tập hợp tất cả tình
nhân của ngươi lại, những kẻ ngươi lấy làm vừa lòng, tất cả những kẻ ngươi quý
yêu cũng như tất cả những kẻ ngươi ghen ghét. Ta sẽ tập hợp chúng lại từ khắp
mọi miền chung quanh để trừng phạt ngươi. Ta sẽ lột trần ngươi ra trước mắt
chúng và chúng sẽ thấy tất cả sự trần truồng của ngươi. 38 Ta sẽ xét
xử ngươi như xét xử những phụ nữ ngoại tình và những kẻ mắc tội đổ máu. Ta sẽ
làm cho máu ngươi phải đổ ra vì Ta phẫn nộ và ghen tương. 39 Ta sẽ
trao nộp ngươi vào tay chúng, sẽ phá huỷ mô đất của ngươi, triệt hạ gò nổng của
ngươi; chúng sẽ lột áo ngươi ra, lấy các đồ trang sức của ngươi; chúng sẽ bỏ
ngươi lại trần truồng, không mảnh áo che thân. 40 Chúng sẽ triệu tập
đại hội để trừng phạt ngươi; chúng ném đá ngươi và lấy gươm tàn sát ngươi. 41
Chúng sẽ phóng hoả đốt nhà ngươi và thi hành án phạt ngươi trước mắt đám
đông phụ nữ. Ta sẽ khiến cho ngươi từ bỏ thói hoang dâm và ngươi sẽ không còn
tặng quà cho tình nhân. 42 Rồi Ta sẽ nguôi cơn thịnh nộ và thôi
không còn ghen tương với ngươi nữa. Ta sẽ nguôi ngoai và không còn giận dữ. 43
Bởi vì ngươi không nhớ những ngày thơ ấu và đã gây bực bội cho Ta bằng
tất cả những điều đó, nên Ta sẽ tuỳ theo lối ngươi sống mà đối xử với ngươi -
sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. Nào ngươi đã chẳng làm điều ô trọc cùng
với tất cả những việc ghê tởm đó sao?
44 Này tất cả những kẻ làm châm ngôn
sẽ nói về ngươi rằng: "Mẹ nào con nấy!” 45 Ngươi đúng là đứa
con gái của mẹ ngươi, kẻ chán ghét chồng con; ngươi đúng là chị em cùng một nòi
với chị em ngươi, những kẻ chán ghét chồng con mình. Mẹ các ngươi là người
Khết, cha các ngươi là người E-mô-ri.
46 Chị cả ngươi chính là Sa-ma-ri,
cư ngụ ở bên trái ngươi cùng với các con gái mình; em gái ngươi chính là
Xơ-đôm, cư ngụ ở bên phải ngươi, cùng với các con gái mình. 47 Theo
lối sống của chúng và làm những điều ghê tởm như chúng đã làm, ngươi cho như
thế là còn quá ít, nên lại càng ra hư hỏng hơn chúng trong mọi lối sống của
ngươi. 48 Ta lấy mạng sống Ta mà thề - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa
Thượng - Xơ-đôm, em gái ngươi, chính nó và các con gái nó cũng không làm như
ngươi và các con gái ngươi đã làm. 49 Ðây là tội của Xơ-đôm, em gái
ngươi: kiêu căng, phè phỡn; nó cùng với các con gái sống nhởn nhơ, vô tư lự,
không ra tay giúp đỡ người nghèo khổ bần cùng. 50 Chúng tự cao tự
đại và làm điều ghê tởm trước mắt Ta nên Ta đã xua đuổi chúng đi như ngươi thấy.
51 Còn Sa-ma-ri, tội nó phạm không bằng một nửa số tội ngươi phạm.
Ngươi đã làm nhiều điều ghê tởm
hơn nó. Như thế, qua tất cả những điều ghê tởm ngươi đã làm, ngươi làm cho chị
em ngươi ra vẻ công chính. 52 Còn ngươi, hãy mang lấy cái nhục vào
thân bởi ngươi đã gỡ tội cho chị em ngươi: tội lỗi ngươi phạm làm cho ngươi ra
ghê tởm hơn chúng; chúng còn công chính hơn ngươi. Vậy ngươi hãy xấu hổ và mang
lấy cái nhục vào thân vì ngươi đã làm cho chị em ngươi ra vẻ công chính.
53 Ta sẽ đổi số phận của chúng, số
phận của Xơ-đôm và các con gái nó, số phận của Sa-ma-ri và các con gái nó, Ta
sẽ đổi số phận của chính ngươi ngay giữa chúng, 54 để ngươi mang lấy
cái nhục vào thân và phải xấu hổ vì tất cả những gì ngươi đã làm, để an ủi
chúng. 55 Chị em ngươi là Xơ-đôm và các con gái nó sẽ trở lại tình
trạng cũ; Sa-ma-ri và các con gái nó sẽ trở lại tình trạng cũ; chính ngươi và
các con gái ngươi cũng sẽ trở lại tình trạng cũ. 56 Ngươi đã chẳng
bàn tán về Xơ-đôm, em gái ngươi, vào thời ngươi kiêu ngạo, 57 trước
lúc ngươi bị lột trần đó sao? Y như nó, giờ đây, chính ngươi trở nên đề tài đàm
tiếu cho con gái A-ram và tất cả những kẻ láng giềng cũng như con gái
Phi-li-tinh, những kẻ khinh miệt ngươi ở khắp chung quanh. 58 Sự ô trọc
và những điều ghê tởm của ngươi, ngươi phải mang lấy vào thân - sấm ngôn của
Ðức Chúa.
59 Quả thật, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này: Ta sẽ đối xử với ngươi theo như ngươi đã đối xử: ngươi đã khinh
dể lời thề mà huỷ bỏ giao ước. 60 Còn Ta, Ta sẽ nhớ lại giao ước đã
lập với ngươi thời ngươi còn thanh xuân. Ta sẽ thiết lập với ngươi một giao ước
vĩnh cửu. 61 Ngươi sẽ nhớ lại các lối sống của ngươi mà xấu hổ khi
ngươi đón các chị và các em ngươi; Ta sẽ cho chúng làm con gái ngươi, nhưng
chúng không được dự phần vào giao ước giữa Ta với ngươi. 62 Còn
chính Ta, Ta sẽ thiết lập giao ước giữa Ta với ngươi. Bấy giờ ngươi sẽ nhận
biết chính Ta là Ðức Chúa, 63 để ngươi nhớ lại mà lấy làm xấu hổ và,
trong lúc phải tủi nhục, ngươi sẽ không còn mở miệng nói gì được nữa, khi Ta
tha thứ cho ngươi tất cả những việc ngươi đã làm - sấm ngôn của Ðức Chúa là
Chúa Thượng.
Chương 17
Ngụ ngôn chim phượng hoàng
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, hãy đặt câu đố, hãy lên tiếng huấn dụ nhà Ít-ra-en.
3 Ngươi sẽ nói: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này:
Con phượng hoàng to lớn
có cánh rộng, lông dài, mình đầy
lông sặc sỡ;
nó đến núi Li-băng bẻ ngọn cây
hương bá.
4 Nó ngắt búp ngọn cây
đưa về đất thương nghiệp
đặt vào thành con buôn.
5 Nó lấy giống cây của xứ ấy rồi
đem đặt vào nơi ươm trồng
bên dòng nước mênh mông, chẳng
khác gì cây liễu.
6 Giống cây ấy mọc lên thành cây
nho,
cành lá sum sê, thân cây nhỏ bé.
Nhánh cây hướng về chim phượng
hoàng,
dưới thân cây rễ đâm ngang dọc.
Giống cây ấy trở thành cây nho,
chồi mọc sum sê, cành ra tua tủa.
7 Lại có con phượng hoàng to lớn
khác,
với đôi cánh rộng, với bộ lông
dày,
khiến cây nho quay rễ và vươn
nhánh
về phía chim phượng hoàng
để được tưới đẫm nước hơn tại nơi
ươm trồng.
8 Trong cánh đồng màu mỡ, bên dòng
nước mênh mông,
cây nho ấy được trồng để mọc cành
đơm trái
thành cây nho mỹ lệ.
9 Ngươi hãy nói: Ðức Chúa là Chúa
Thượng phán thế này:
Cây nho ấy có phát triển được
chăng?
Hoặc chim phượng hoàng lại không
nhổ rễ
và lấy hết các quả nó đi khiến
mầm khô chồi héo?
Ðể bứng rễ nó lên
không cần tay lực lưỡng, cũng
chẳng cần đông dân.
10 Này một khi được trồng, cây nho
ấy có phát triển được chăng?
Khi gió đông thổi tới, nó chẳng
héo rụi sao?
Nó sẽ ra khô héo trong mảnh đất
nó đã đâm chồi.
11 Có lời Ðức Chúa phán với tôi:
12 Ngươi hãy nói với nòi phản loạn:
Các ngươi lại không biết điều ấy có nghĩa gì sao? Ngươi hãy nói: Này vua
Ba-by-lon đã đến Giê-ru-sa-lem, bắt vua cũng như các thủ lãnh và điệu về cung
điện của mình tại Ba-by-lon. 13 Vua ấy đã chọn một người thuộc hoàng
tộc, lập giao ước và bắt thề trước mặt mình; vua cũng bắt quan quyền trong xứ, 14
khiến vương quốc càng suy yếu không thể nổi lên mà phải giữ giao ước với
vua để được tồn tại. 15 Nhưng vua Giê-ru-sa-lem đã nổi loạn chống
lại vua Ba-by-lon, sai sứ giả đến Ai-cập xin cấp ngựa và nhiều binh lính. Kẻ
hành động như thế, có thành công chăng? Nó đã huỷ bỏ giao ước, liệu nó có thoát
nạn không? 16 Ta lấy mạng sống Ta mà thề - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng
-, nó sẽ phải chết ngay tại Ba-by-lon, tại chính nơi vua ấy đã phong vương cho
nó và nó đã bội thề cùng huỷ bỏ giao ước với vua ấy. 17 Pha-ra-ô sẽ
không mang đạo quân hùng hậu và lực lượng đông đảo tới yểm trợ nó trong cuộc
giao tranh, lúc quân thù đắp ụ, xây chiến luỹ để tàn sát vô số sinh linh. 18
Nó đã bội thề mà huỷ bỏ giao ước. Nó đã nhúng tay vào làm tất cả những
điều ấy, nó sẽ không thoát mạng.
19 Vì thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán như sau: Ta lấy mạng sống Ta mà thề, lời thề của Ta nó đã bội tín, giao
ước của Ta nó đã huỷ bỏ, Ta sẽ cho giáng tất cả xuống trên đầu nó. 20 Ta
sẽ bủa lưới chụp trên nó và nó sẽ mắc vào lưới săn của Ta; Ta sẽ cho dẫn đưa nó
đến Ba-by-lon. Ở đó Ta sẽ xét xử nó vì tội bất trung nó đã phạm chống lại Ta. 21
Tất cả quân tinh nhuệ trong hàng ngũ của nó sẽ ngã gục vì gươm; còn những
kẻ sót lại sẽ bị gió cuốn đi khắp tứ phương. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết
chính Ta là Ðức Chúa, Ta đã phán.
22 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như
sau:
Từ ngọn cây, từ ngọn hương bá cao
chót vót,
Ta sẽ lấy, sẽ ngắt một chồi non;
chính Ta sẽ trồng nó trên đỉnh
núi cao vòi vọi.
23 Ta sẽ trồng nó trên núi cao của
Ít-ra-en.
Nó sẽ trổ cành và kết trái
thành một cây hương bá huy hoàng.
Muông chim đến nương mình bên nó,
và ẩn thân dưới bóng lá cành.
24 Tất cả cây cối ngoài đồng ruộng
sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
Ta hạ thấp cây cao và nâng cao
cây thấp,
Ta làm cho cây xanh tươi phải khô
héo
và cây khô héo được xanh tươi.
Chính Ta là Ðức Chúa, Ta đã phán
là Ta thực hiện.
Chương 18
Trách nhiệm cá nhân
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Sao các ngươi cứ truyền cho nhau câu ngạn ngữ này trong khắp đất
Ít-ra-en: Ðời cha ăn nho xanh, đời con phải ê răng.
3 Ta lấy mạng sống Ta mà thề - sấm
ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng -, các ngươi sẽ không còn truyền cho nhau câu
ngạn ngữ đó trong Ít-ra-en nữa. 4 Này, mạng sống nào cũng thuộc về
Ta; mạng sống của cha cũng như mạng sống của con đều thuộc về Ta. Ai phạm tội,
kẻ ấy phải chết.
5 Người nào ăn ở công chính, thi
hành điều công minh chính trực, 6 không dự tiệc trên núi, không
ngước mắt nhìn các ngẫu tượng của nhà Ít-ra-en, không làm cho vợ người đồng
loại ra ô uế, không gần gũi phụ nữ đang thời kỳ ô uế, 7 không bóc
lột ai, trả của cầm cho người cầm của, không cướp của ai, cho kẻ đói bánh ăn,
lấy áo che thân kẻ mình trần, 8 không cho vay ăn lời, không lấy lãi
quá nặng, không nhúng tay vào chuyện bất công, xét xử công minh giữa người với
người, 9 sống theo những quy tắc của Ta và tuân giữ các quyết định
của Ta mà thể hiện lòng trung tín của mình, người ấy mới là người công chính.
Chắc chắn nó sẽ được sống - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
10 Nhưng nếu nó sinh ra một đứa con
hung dữ, khát máu, phạm một trong những tội trên, 11 mà chính nó
không phạm bất cứ tội nào trong những tội đó như: dự tiệc trên núi, làm cho vợ
người đồng loại ra ô uế, 12 ngược đãi kẻ bần cùng nghèo khó, cướp
của kẻ khác, không trả của cầm, ngước mắt nhìn các ngẫu tượng, làm điều ghê tởm,
13 cho vay ăn lời và lấy lãi nặng, thì hỏi đứa con ấy có được sống
không. Không! Kẻ nào làm tất cả những điều ấy chắc chắn sẽ phải chết, máu nó sẽ
đổ trên mình nó.
14 Và này có người sinh một đứa con.
Ðứa con ấy thấy tất cả tội lỗi của cha mình; nó đã thấy và không làm như thế: 15
không dự tiệc trên núi, không ngước mắt nhìn các ngẫu tượng của nhà
Ít-ra-en, không làm cho vợ người đồng loại ra ô uế, 16 không bóc lột
ai, không cầm giữ của cầm đồ, không cướp của ai, cho kẻ đói bánh ăn, lấy áo che
thân kẻ mình trần; 17 nó không nhúng tay vào việc bất công, không ăn
lời lấy lãi, tuân giữ các quyết định của Ta và sống theo những quy tắc của Ta,
nó sẽ không chết vì tội của cha nó, chắc chắn nó sẽ sống; 18 còn cha
nó, vì đã bóc lột người khác, lại cướp giật của người anh em và làm điều không
tốt trong dân, nên sẽ phải chết vì tội lỗi của mình. 19 Nhưng các
ngươi nói: "Tại sao con không mang lấy tội của cha?" Ðứa con một khi
đã thi hành điều chính trực công minh, đã tuân giữ cùng thi hành mọi quy tắc
của Ta, chắc chắn nó sẽ sống. 20 Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết; con
không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con. Sự công chính
của người công chính ở với người công chính. Còn điều dữ của kẻ gian ác ở với
kẻ gian ác.
21 Nhưng nếu kẻ gian ác từ bỏ mọi
tội lỗi mình đã phạm mà tuân giữ mọi quy tắc của Ta, cùng thi hành điều chính
trực công minh, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết. 22 Mọi
tội phản nghịch nó phạm, người ta sẽ không còn nhớ đến; nó sẽ được sống vì đã
thi hành lẽ công minh. 23 Chẳng lẽ Ta lại vui thích vì kẻ gian ác
phải chết - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng - Ta lại không muốn cho nó từ
bỏ đường lối của nó mà được sống sao?
24 Nhưng nếu người công chính từ bỏ
lẽ công chính của mình mà theo đòi kẻ gian ác làm mọi điều ghê tởm: nó làm thế
mà được sống sao? Tất cả những việc công chính nó đã làm sẽ không còn được nhắc
đến; vì tội bất trung và tội lỗi nó đã phạm, nó sẽ phải chết. 25 Các
ngươi lại nói: "Ðường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng." Vậy hỡi
nhà Ít-ra-en, hãy nghe đây: Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay
đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng? 26 Khi người công chính từ bỏ lẽ
công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính
nó đã làm mà nó phải chết. 27 Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã
làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình. 28
Nó đã thấy và từ bỏ mọi tội phản nghịch nó phạm, thì chắc chắn nó sẽ
sống, nó không phải chết. 29 Vậy mà nhà Ít-ra-en lại dám nói:
"Ðường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng." Hỡi nhà Ít-ra-en, có
phải đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi lại không
ngay thẳng? 30 Vì thế, hỡi nhà Ít-ra-en, Ta sẽ xét xử các ngươi: ai nấy theo
đường lối của mình - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. Hãy trở lại, hãy từ
bỏ mọi tội phản nghịch của các ngươi, chẳng còn chướng ngại nào làm các ngươi
phạm tội nữa. 31 Hãy quẳng khỏi các ngươi mọi tội phản nghịch các
ngươi đã phạm. Hãy tạo cho mình một trái tim mới và một thần khí mới. Hỡi nhà
Ít-ra-en, tại sao các ngươi lại muốn chết? 32 Quả thật, Ta không vui thích gì
về cái chết của kẻ phải chết - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. Vậy hãy
trở lại và hãy sống.
Chương 19
Bài ca khóc các ông hoàng
Ít-ra-en
1 Phần ngươi, hãy cất lên khúc ai
ca khóc thương các ông hoàng Ít-ra-en. 2 Ngươi sẽ nói:
Mẹ của ngươi là ai?
Nó như sư tử cái cạnh bầy sư tử
đực,
giữa đám sư tử con nuôi nấng đàn
con nhỏ.
3 Trong đàn con ấy, nó huấn luyện
một con thành một sư tử con,
biết xé mồi và ăn thịt thiên hạ.
4 Các dân tộc đã nghe nói về con sư
tử đó;
nó sa vào bẫy của chúng và bị
bắt.
Người ta lấy móc xích nó lại đem
đi, đưa về đất Ai-cập.
5 Thấy hy vọng của mình tiêu tan,
niềm cậy trông của mình tan vỡ,
sư tử mẹ lại huấn luyện một con
nhỏ khác thành một sư tử non.
6 Con này đi giữa bầy sư tử đực,
thành một sư tử non biết xé mồi
và ăn thịt thiên hạ.
7 Nó triệt hạ các lâu đài của chư
dân
và tàn phá các thành trì của
chúng;
xứ sở và dân cư kinh hoàng vì
tiếng gầm của nó.
8 Từ khắp các tỉnh ở chung quanh
các dân tộc nổi lên chống lại nó;
chúng bủa lưới bao vây, nó sa vào
bẫy của chúng và bị bắt.
9 Chúng bắt nó đeo gông, lấy móc
xiềng nó lại,
điệu đến vua Ba-by-lon và tống
giam vào ngục,
để tiếng nó, người ta không còn
nghe thấy nữa
trên núi đồi Ít-ra-en.
10 Mẹ ngươi giống cây nho được trồng
bên dòng nước
quả trĩu nặng, lá sum sê, nhờ
mạch nước dồi dào.
11 Nó trổ ra những cành vững chắc
thành những cây vương trượng;
thân của nó vươn cao lên tới tầng
mây thẳm.
Người ta nhìn thấy nó vì thân nó
cao, cành lá um tùm.
12 Nhưng trong cơn thịnh nộ,
nó đã bị nhổ lên, và bị quăng
xuống đất;
một cơn gió đông thổi làm quả nó
héo khô,
lìa cây rơi rụng xuống;
cành chắc đã héo khô và bị lửa
thiêu rụi.
13 Giờ đây nó bị trồng trong sa mạc
cằn cỗi nơi đất khô thiếu nước.
14 Tự cành, lửa phát ra thiêu rụi
cành và quả.
Không còn cành vững chắc để dùng
làm vương trượng.
Ðó là lời than vãn đã trở thành
khúc ai ca.
Chương 20
Chuyện bất trung của Ít-ra-en
1 Ngày mồng mười tháng thứ năm năm
thứ bảy, một số người trong hàng kỳ mục Ít-ra-en đến thỉnh ý Ðức Chúa. Họ ngồi
trước mặt tôi. 2 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng: 3 Hỡi
con người, hãy nói với các kỳ mục Ít-ra-en; ngươi sẽ nói với chúng: Ðức Chúa là
Chúa Thượng phán như sau: Có phải các ngươi đến để thỉnh ý Ta chăng? Ta lấy
mạng sống Ta mà thề, Ta sẽ không để cho các ngươi thỉnh ý Ta - sấm ngôn của Ðức
Chúa là Chúa Thượng. 4 Hỡi con người, ngươi có xét xử chúng, có xét
xử chúng không? Hãy cho chúng biết các điều ghê tởm cha ông chúng đã làm. 5
Ngươi sẽ nói với chúng: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Vào ngày Ta
tuyển chọn Ít-ra-en, Ta đã giơ tay lên thề với dòng dõi nhà Gia-cóp, và Ta đã
tỏ cho chúng biết tại đất Ai-cập; Ta đã giơ tay lên thề với chúng rằng: Chính Ta
là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi. 6 Ngày ấy, Ta đã giơ tay lên
thề với chúng là sẽ dẫn đưa chúng ra khỏi đất Ai-cập, đến đất Ta đã tìm ra cho
chúng, một vùng đất tràn trề sữa và mật, nơi huy hoàng nhất trong các xứ sở. 7
Ta đã phán với chúng: Ai nấy hãy quăng các thần ghê tởm mà lòng vẫn khăng
khít; đừng để mình ra ô uế vì các ngẫu tượng của Ai-cập. Chính Ta là Ðức Chúa,
Thiên Chúa của các ngươi. 8 Nhưng chúng đã nổi loạn chống lại Ta và
chẳng thèm nghe Ta: chẳng ai chịu quăng các thần ghê tởm mà lòng vẫn khăng
khít, cũng không chịu bỏ các ngẫu tượng của Ai-cập. Bấy giờ, Ta tính trút cơn
thịnh nộ của Ta xuống phạt chúng, trút hết cơn lôi đình của Ta đánh phạt chúng
giữa đất Ai-cập. 9 Tuy nhiên, Ta đã hành động vì danh Ta, để danh Ta
không bị xúc phạm trước mắt các dân tộc, nơi chúng đang chung sống; trước mắt
các dân tộc ấy, Ta đã tỏ cho chúng biết là sẽ dẫn đưa chúng ra khỏi đất Ai-cập.
10 Vậy Ta đã đưa chúng ra khỏi đất Ai-cập và đưa vào sa mạc. 11
Ta đã ban cho chúng các quy tắc và tỏ cho chúng biết các phán quyết của
Ta là những điều con người phải thi hành mới được sống. 12 Ta cũng
ban cho chúng các ngày sa-bát của Ta làm dấu chỉ giữa Ta với chúng, khiến thiên
hạ nhận biết rằng chính Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá chúng. 13 Nhưng
nhà Ít-ra-en đã nổi loạn chống lại Ta trong sa mạc. Chúng đã không tuân theo
các quy tắc, đã khinh thường các phán quyết của Ta là những điều con người phải
thi hành mới được sống. Chúng lại còn vi phạm các ngày sa-bát của Ta nữa. Bấy
giờ Ta tính trút cơn thịnh nộ của Ta xuống phạt chúng trong sa mạc để tiêu diệt
chúng. 14 Tuy nhiên, Ta đã hành động vì danh Ta, để danh Ta không bị
xúc phạm trước mắt các dân tộc; trước mắt các dân ấy, Ta đã dẫn chúng ra đi. 15
Ta cũng còn giơ tay lên thề với chúng trong sa mạc là không cho chúng vào
đất Ta đã ban: một vùng đất tràn trề sữa và mật, nơi huy hoàng nhất trong các
xứ sở, 16 vì chúng đã khinh thường các phán quyết, lại không tuân
theo các quy tắc và vi phạm các ngày sa-bát của Ta, vì lòng chúng chạy theo các
ngẫu tượng của chúng. 17 Nhưng Ta đã ghé mắt nhìn đến chúng, không
nỡ tàn sát cũng không muốn tận diệt chúng trong sa mạc.
18 Ta đã nói với con cái chúng trong
sa mạc: các ngươi đừng tuân theo quy tắc của cha ông các ngươi, cũng đừng tuân
giữ các phán quyết của chúng và đừng để mình ra ô uế vì các ngẫu tượng của
chúng. 19 Chính Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi; các ngươi
hãy tuân theo các quy tắc, hãy tuân giữ và thi hành các phán quyết của Ta. 20
Hãy thánh hiến các ngày sa-bát của Ta; những ngày ấy phải là dấu hiệu
giữa Ta với các ngươi cho thiên hạ nhận biết rằng chính Ta là Ðức Chúa, Thiên
Chúa của các ngươi. 21 Nhưng con cái chúng đã nổi loạn chống lại Ta,
không tuân theo các quy tắc, không giữ và đem ra thực hành các phán quyết của
Ta là những điều con người phải thi hành mới được sống; chúng còn vi phạm các
ngày sa-bát của Ta. Vì thế Ta tính trút cơn thịnh nộ, nổi trận lôi đình xuống
trừng phạt chúng trong sa mạc. 22 Tuy nhiên Ta rút tay lại và hành
động vì danh Ta, để danh Ta không bị xúc phạm trước mắt các dân tộc; trước mắt
các dân ấy, Ta đã dẫn chúng ra đi. 23 Ta lại giơ tay lên thề với
chúng trong sa mạc là sẽ phân tán chúng vào các dân và tung chúng đến các nước,
24 vì chúng đã không thi hành các phán quyết, lại khinh thường các
quy tắc, vi phạm các ngày sa-bát của Ta; chúng mải mê nhìn theo các ngẫu tượng
của cha ông chúng. 25 Hơn nữa, chính Ta cũng ban cho chúng các quy
tắc bất hảo và những phán quyết khiến chúng không thể dựa vào đó mà sống được. 26
Ta làm cho chúng ra ô uế vì các của lễ chúng dâng lúc thiêu các con đầu
lòng, để chúng phải kinh hoàng mà nhận biết rằng chính Ta là Ðức Chúa.
27 Vì thế, hỡi con người, hãy nói
với nhà Ít-ra-en, hãy nói với chúng: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Còn
điều này nữa, cha ông các ngươi xúc phạm đến Ta khi phạm tội bất trung với Ta. 28
Ta đã dẫn chúng vào đất mà Ta đã giơ tay thề là sẽ ban cho chúng. Thế mà
hễ thấy đồi nào cao, cây nào rậm là chúng liền dâng lễ tế, dâng lễ tiến tại đó
để chọc giận Ta, dâng hương thơm tại đó để làm vui lòng các ngẫu tượng và tưới
rượu tế xuống nơi ấy. 29 Ta đã nói với chúng: Nơi cao là gì mà các
ngươi đến đó? Người ta đã gọi nơi ấy là Ba-ma (nơi cao) cho đến ngày nay. 30
Vì thế, ngươi hãy nói với nhà Ít-ra-en: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này: Các ngươi đã ra ô uế khi theo đường lối của cha ông các ngươi và đàng điếm
theo các thần ghê tởm của chúng. 31 Khi dâng của lễ, khi chuyền con
cái các ngươi qua lửa, các ngươi đã ra ô uế vì tất cả các ngẫu tượng của các
ngươi cho tới ngày nay. Như thế mà Ta lại còn để cho các ngươi thỉnh ý sao, hỡi
nhà Ít-ra-en? Ta lấy mạng sống Ta mà thề - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng
- Ta sẽ không để cho các ngươi thỉnh ý Ta. 32 Sẽ chẳng bao giờ xảy
ra như các ngươi vẫn nghĩ và nói: "Chúng tôi cũng sẽ như các dân tộc, các
bộ lạc trong các nước, khi thờ đá, thờ gỗ mà thôi!” 33 Ta lấy mạng
sống Ta mà thề - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng -, Ta sẽ đưa bàn tay mạnh
mẽ, giương cánh tay dài rộng và trút cơn thịnh nộ xuống mà trừng phạt các ngươi.
34 Ta sẽ đưa bàn tay mạnh mẽ, giương cánh tay dài rộng, và nổi cơn
lôi đình mà dẫn các ngươi ra khỏi các dân và tập hợp các ngươi từ các miền đất
nơi Ta đã phân tán các ngươi đến. 35 Ta sẽ đưa các ngươi vào sa mạc
của các dân, và tại đó, Ta sẽ xét xử các ngươi, mặt đối mặt. 36 Như
Ta đã xét xử cha ông các ngươi tại sa mạc đất Ai-cập thế nào, thì Ta cũng xét
xử các ngươi như vậy - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. 37 Ta
sẽ buộc các ngươi phải theo sự hướng dẫn của Ta và tôn trọng giao ước. 38 Ta
sẽ loại khỏi các ngươi những kẻ nổi loạn và phản nghịch chống lại Ta. Ta sẽ đưa
chúng ra khỏi xứ chúng đang trú ngụ, nhưng chúng sẽ không được vào đất
Ít-ra-en. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa. 39 Phần
các ngươi, hỡi nhà Ít-ra-en, Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Nếu không
nghe Ta thì ai nấy cứ việc đi mà thờ ngẫu tượng của mình, nhưng các ngươi không
được xúc phạm đến danh thánh của Ta vì lễ tế và ngẫu tượng của các ngươi nữa. 40
Quả thật, trên núi thánh của Ta, trên núi cao vòi vọi của Ít-ra-en, - sấm
ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng -, ở đó, toàn thể nhà Ít-ra-en, mọi nhà trong
xứ, sẽ phụng thờ Ta. Ở đó Ta sẽ đón tiếp chúng, ở đó Ta sẽ đòi phần trích dâng
và lễ tế tuyệt hảo cùng với tất cả của thánh các ngươi dâng. 41 Ta
sẽ tiếp đón các ngươi như hương thơm làm Ta ưa thích, khi Ta dẫn các ngươi ra
khỏi các dân và tập hợp các ngươi từ các xứ, nơi Ta đã phân tán các ngươi. Qua
các ngươi, Ta sẽ biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt các dân tộc. 42
Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa khi Ta dẫn các ngươi vào đất
Ít-ra-en, vào đất mà Ta đã giơ tay lên thề là sẽ ban cho cha ông các ngươi. 43
Tại đó, các ngươi sẽ nhớ lại lối sống của các ngươi và tất cả các hành vi
khiến các ngươi ra ô uế; các ngươi sẽ kinh tởm chính bản thân mình, vì mọi điều
gian ác các ngươi đã làm. 44 Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức
Chúa, khi Ta đối xử với các ngươi vì danh Ta, chứ không phải vì lối sống xấu xa
và các hành vi đốn mạt của các ngươi, hỡi nhà Ít-ra-en, - sấm ngôn của Ðức Chúa
là Chúa Thượng.
Chương 21
Thanh gươm của Ðức Chúa
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, hãy quay mặt hướng về phía Nam, hãy nói tiên tri
hạch tội phương Nam và tuyên sấm hạch tội khu rừng trong đồng bằng Ne-ghép. 3
Ngươi sẽ nói với rừng Ne-ghép: Hãy nghe lời Ðức Chúa, Ðức Chúa là Chúa
Thượng phán như sau: Này Ta sắp nhóm lên một ngọn lửa ở nơi ngươi; lửa ấy sẽ
thiêu rụi tất cả cây xanh tươi cũng như cây khô héo nơi ngươi. Ngọn lửa cháy
rực sẽ không tắt; mọi khuôn mặt đều bị cháy sém, từ nam chí bắc. 4 Mọi
xác phàm sẽ thấy rằng, chính Ta, Ðức Chúa, Ta đã nhóm ngọn lửa ấy và nó sẽ
không tắt. 5 Và tôi thưa: Ôi, lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, chúng nói
về con: "Ông ấy không phải là người làm ra các câu châm ngôn đó sao?” 6
Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng: 7 Hỡi con người, hãy quay
mặt về phía Giê-ru-sa-lem, hãy nói tiên tri hạch tội các thánh điện, hãy tuyên
sấm hạch tội đất Ít-ra-en. 8 Ngươi sẽ nói với đất Ít-ra-en: Ðức Chúa
phán như sau: Này Ta trừng phạt ngươi. Ta sẽ rút gươm ra khỏi bao và sẽ tiêu
diệt người công chính lẫn kẻ gian tà cho biệt tăm. 9 Bởi vì Ta tiêu
diệt người công chính lẫn kẻ gian tà cho khuất dạng, nên gươm của Ta sẽ rút ra
khỏi bao để trừng phạt mọi xác phàm, từ nam chí bắc. 10 Bấy giờ, mọi
xác phàm sẽ nhận biết rằng chính Ta, Ðức Chúa, Ta đã rút gươm khỏi bao và nó sẽ
không chui vào bao nữa.
11 Còn ngươi, hỡi con người, tâm hồn
tan nát, ngươi hãy rên rỉ, lòng tràn ngập đắng cay, ngươi hãy rên rỉ trước mắt
chúng. 12 Khi chúng nói với ngươi: "Sao ông rên rỉ?" Ngươi
sẽ nói: "Vì chuyện sắp xảy ra khiến cho mọi tâm hồn sẽ tan nát, mọi bàn
tay rã rời, mọi tinh thần suy sụp, mọi đầu gối run lẩy bẩy. Này chuyện đó sắp
xảy ra và đang thành sự thật, - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
13 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
14 Hỡi con người, hãy tuyên sấm và ngươi sẽ nói: Chúa Thượng phán
thế này: Hãy nói:
Gươm đây, gươm đây, gươm đã mài,
đã liếc,
15 mài để sát hại, liếc để phóng ra
những tia chớp.
16 Người ta trao lưỡi gươm ấy để
liếc, để cầm trong tay.
Ðó là lưỡi gươm đã mài, đã liếc,
để trao vào tay kẻ sát hại.
17 Hỡi con người, hãy kêu gào, hãy
rú lên,
vì lưỡi gươm ấy được dành cho dân
Ta,
cho tất cả các ông hoàng
Ít-ra-en;
cùng với dân Ta, chúng đã bị trao
cho gươm giáo.
Vì thế, người hãy đấm ngực.
18... ...
sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa
Thượng.
19 Phần ngươi, hỡi con người, hãy
tuyên sấm, hãy vỗ tay.
Gươm sẽ tàn sát gấp hai, ba lần;
đó là lưỡi gươm gây chết chóc,
lưỡi gươm to lớn giết hại bao
người, đe doạ khắp chung quanh,
20 để cho hồn xiêu phách lạc, để
tăng thêm số người gục ngã.
Nơi các cổng thành của chúng, Ta
để cho lưỡi gươm sát hại.
Lưỡi gươm được đúc để phóng ra
tia chớp, được liếc để sát hại.
21 Hãy chém bên phải, diệt bên trái,
tại khắp nơi ngươi phải đương
đầu.
22 Cả Ta nữa, Ta cũng sẽ vỗ tay, sẽ
trút cơn lôi đình thịnh nộ.
Ta là Ðức Chúa, chính Ta đã phán.
Vua Ba-by-lon ở ngã ba đường
23 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
24 Phần ngươi, hỡi con người, hãy vạch hai con đường cho gươm của
vua Ba-by-lon đến. Hai con đường ấy đều phát xuất từ cùng một xứ. Tại mỗi đầu
đường, ngươi hãy đặt bảng chỉ lối vào thành. 25 Ngươi sẽ vạch một
con đường để cho lưỡi gươm đến đánh Ráp-ba của con cái Am-mon và đánh xứ Giu-đa
có pháo đài tại Giê-ru-sa-lem. 26 Vì vua Ba-by-lon dừng lại ở ngã
ba, tại nơi phát xuất hai con đường để bói quẻ. Vua lắc tên, thỉnh ý các tượng
thần, quan sát lá gan. 27 Trong tay phải vua là quẻ bói về
Giê-ru-sa-lem, bảo phải đặt chiến cụ, ra lệnh tàn sát, cất tiếng hò la xung
trận, đặt chiến cụ trước các cổng thành, đắp ụ và xây chiến luỹ. 28 Trước
mắt dân chúng Giê-ru-sa-lem, đó chỉ là quẻ bói vô hiệu. Người ta đã long trọng
thề là sẽ bảo vệ chúng. Nhưng quẻ bói ấy làm cho chúng nhớ lại các tội đã phạm
khiến chúng sẽ bị bắt. 29 Bởi thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này: Vì các ngươi nhớ lại các tội đã phạm, khi tội phản nghịch của các ngươi bị
lột trần, để các ngươi nhìn rõ tội lỗi mình trong mọi hành động, và vì người ta
nhớ đến tội các ngươi, nên các ngươi sẽ bị bắt. 30 Còn ngươi, hỡi
ông hoàng tội lỗi và gian ác của Ít-ra-en, ngày đời của ngươi sẽ đến, khi tội
lỗi tới mức cuối cùng. 31 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán: mũ tế sẽ bị
lột, vương miện sẽ bị tước. Mọi sự đều thay đổi: cái thấp được nâng cao, cái
cao bị hạ thấp. 32 Ðổ nát, đổ nát, đổ nát, Ta sẽ làm như vậy; điều
ấy chưa bao giờ xảy ra cho đến khi xuất hiện người được Ta trao quyền xét xử.
Trừng phạt dân Am-mon
33 Còn ngươi, hỡi con người, hãy
tuyên sấm. Ngươi sẽ nói: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau về con cái Am-mon
và về những lời nhạo báng của chúng. Ngươi sẽ nói: Gươm đây, gươm tuốt trần để
tàn sát, được liếc để nuốt trửng, để phóng ra những tia chớp. 34 Ðang
lúc người ta cho ngươi thấy những thị kiến vô hiệu và nghe những lời sấm dối
trá, thì gươm sẽ lướt trên cổ những kẻ tội lỗi gian ác, mà ngày đời của chúng
sẽ đến, khi tội lỗi tới mức cuối cùng. 35 Hãy xỏ gươm vào bao. Ta sẽ
xét xử ngươi tại chỗ ngươi được tạo dựng, tại xứ ngươi được sinh ra. 36 Ta
sẽ trút cơn giận của Ta xuống trên ngươi, sẽ thổi cơn thịnh nộ phừng phừng như
lửa trên ngươi, sẽ trao ngươi vào tay những kẻ ngu đần, là những tên đồ tể. 37
Ngươi sẽ làm mồi cho lửa; máu của ngươi sẽ đổ ra giữa xứ sở; không còn ai
nhớ đến ngươi, vì chính Ta là Ðức Chúa, Ta đã phán.
Chương 22
Tội ác của Giê-ru-sa-lem
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, ngươi có xét xử, có xét xử cái thành vấy máu đó
không? Hãy cho nó biết tất cả những việc ghê tởm của nó. 3 Ngươi sẽ
nói: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi cái thành đã làm cho khắp nơi
trong thành vấy máu khiến ngày của mình xảy đến, đã làm các ngẫu tượng khiến
mình ra ô uế. 4 Vì ngươi đã gây đổ máu, nên ngươi thật đắc tội; vì
các ngẫu tượng ngươi đã làm, nên ngươi ra ô uế. Ngươi đã làm cho những ngày của
đời ngươi đến gần và đi tới những năm cuối cùng của đời ngươi. Vì thế, Ta đã
làm cho ngươi thành đồ sỉ nhục giữa chư dân, thành trò chế nhạo cho muôn nước. 5
Những kẻ ở gần cũng như những kẻ ở xa đều chế nhạo ngươi vì ngươi đã bị ô
danh và nơi ngươi có quá nhiều hỗn loạn. 6 Này, các ông hoàng của
Ít-ra-en ở nơi ngươi, ai nấy tha hồ gây đổ máu. 7 Ở giữa ngươi, cha
mẹ bị khinh dể, ngoại kiều bị áp bức, mẹ goá con côi bị ngược đãi. 8 Ngươi
đã khinh thường các đồ thánh và vi phạm các ngày sa-bát của Ta. 9 Nơi
ngươi có những người vu khống nhằm gây đổ máu. Ở giữa ngươi, người ta dự tiệc
trên núi và gây tội ác tày trời. 10 Ở giữa ngươi, người cha bị lột
trần truồng, phụ nữ đang thời kỳ ô uế bị hãm hiếp. 11 Ở giữa ngươi,
kẻ thì làm điều ghê tởm với vợ người đồng loại; kẻ thì làm chuyện ô uế tày trời
với con dâu; kẻ thì hiếp cả em gái, tức là con gái của cha mình. 12 Ở
giữa ngươi, người ta nhận quà hối lộ nhằm gây đổ máu; ngươi cho vay để ăn lời,
để lấy lãi quá nặng, bóc lột người đồng chủng nhằm trục lợi; còn Ta thì ngươi
lại lãng quên - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
13 Nhưng này, Ta đập tay khi thấy
ngươi ham lợi, khi thấy ngươi gây đổ máu giữa nơi ngươi. 14 Tinh
thần ngươi có vững, tay ngươi có chắc vào ngày Ta xét xử ngươi không? Chính Ta
là Ðức Chúa, Ta đã phán là Ta thực hiện. 15 Ta sẽ phân tán ngươi vào
giữa các dân tộc, tung ngươi ra các nước và tẩy ngươi cho sạch mọi ô uế. 16
Ngươi sẽ bị hạ nhục trước mắt chư dân. Bấy giờ ngươi sẽ nhận biết chính
Ta là Ðức Chúa.
17 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
18 Hỡi con người, đối với Ta, nhà Ít-ra-en đã trở thành rỉ sắt; tất
cả bọn chúng là đồng, thiếc, sắt, chì ở giữa lò; chúng là rỉ sắt ở trong lò. 19
Vì thế Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Vì tất cả các ngươi chỉ là
rỉ sắt, nên Ta sẽ gom các ngươi vào giữa Giê-ru-sa-lem. 20 Như người
ta gom đồng, sắt, chì, thiếc vào giữa lò, rồi thổi lửa cho chảy tan ra thế nào,
thì Ta cũng sẽ nổi cơn lôi đình thịnh nộ, gom các ngươi lại, rồi làm cho các
ngươi chảy tan ra ở giữa thành như thế. 21 Ta sẽ quy tụ các ngươi,
rồi thổi lửa phẫn nộ của Ta vào đó. Các ngươi sẽ phải chảy tan ra ở giữa thành.
22 Như bạc chảy ra trong lò thế nào, các ngươi cũng sẽ chảy tan ra ở
giữa thành như vậy; bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa, Ta đã
trút cơn thịnh nộ của Ta xuống phạt các ngươi.
23 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
24 Hỡi con người, hãy nói với nó: Ngươi là đất không được hưởng mưa
thuận gió hoà trong ngày thịnh nộ. 25 Các ngôn sứ trong xứ này âm
mưu phản loạn. Tựa như con sư tử rống lên xé mồi, chúng đã nuốt trửng sinh
mạng, cướp đoạt kho tàng, chiếm hữu đồ quý báu và tăng thêm số các goá phụ
trong thành. 26 Các tư tế đã vi phạm lề luật của Ta, xúc phạm đến
các nơi thánh của Ta, không phân biệt thánh thiêng với phàm tục và không dạy
người ta nhận ra sự khác biệt giữa ô uế với thanh sạch. Chúng đã nhắm mắt lại
để khỏi thấy các ngày sa-bát của Ta. Ta đã bị xúc phạm giữa chúng. 27 Các
thủ lãnh trong xứ này tựa bầy sói xé mồi; chúng gây ra đổ máu, giết người để
trục lợi. 28 Các ngôn sứ trong xứ này tô vôi trát phấn lên chúng,
cho thấy những thị kiến hão huyền và nói các lời sấm dối trá. Chúng dám nói:
"Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này", nhưng thực ra Ðức Chúa đã
không phán. 29 Dân trong xứ đã bóc lột người khác, cướp giật của
người ta, ngược đãi kẻ bần cùng nghèo đói, bóc lột ngoại kiều, không đếm xỉa gì
đến lẽ chính trực. 30 Ta đã tìm kiếm trong bọn chúng một người xây
tường và đứng trước nhan Ta, nơi lỗ hổng, để bảo vệ xứ sở, nhằm ngăn cản Ta phá
thành, nhưng Ta không tìm ra. 31 Ta sẽ trút cơn thịnh nộ của Ta để
trừng phạt và tiêu diệt chúng trong cơn lửa giận của Ta. Ta sẽ theo cách cư xử
của chúng mà xử lại với chúng - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
Chương 23
Câu chuyện tượng trưng cho
Giê-ru-sa-lem và Sa-ma-ri
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, xưa có hai người đàn bà là con cùng một mẹ. 3 Chúng
đã đàng điếm ở Ai-cập; ngay từ thời thơ ấu, chúng đã đàng điếm. Ở đó, chúng đã
bị bóp vú, bị nắn ngực còn trinh. 4 Tên của chúng: chị là O-ho-la,
em là O-ho-li-va. Chúng đã thuộc về Ta và sinh được một bầy con trai con gái.
Ðây là tên của chúng: O-ho-la là Sa-ma-ri và O-ho-li-va là Giê-ru-sa-lem. 5
O-ho-la đã làm điếm thay vì ở với Ta. Nó si mê các tình nhân của nó: với
Át-sua là những binh sĩ6 mặc áo đỏ tía, với các quan thái thú và khâm sai trẻ
trung hấp dẫn, với những kỵ binh cỡi ngựa. 7 Nó đã bằng lòng đàng
điếm với chúng. Tất cả bọn chúng đều là anh tài của con cái Át-sua. Nó đã ra ô
uế vì tất cả những kẻ đã cùng nó thông dâm, vì các ngẫu tượng của chúng. 8
Nhưng nó không bỏ được thói đàng điếm của mình từ Ai-cập, bởi vì chúng đã
tư thông với nó ngay từ thời thơ ấu của nó; chúng đã nắn ngực còn trinh của nó
và đã đổ tính dâm dục của chúng lên người nó. 9 Vì thế Ta đã trao nó
vào tay các tình nhân của nó, vào tay con cái Át-sua, những kẻ nó đã si mê. 10
Chúng đã lột nó trần truồng, bắt các con trai con gái của nó. Chúng đã
dùng gươm giết chết nó. Nó đã thành người nổi danh trong giới phụ nữ và người
ta đã thi hành án phạt nó.
11 O-ho-li-va, em nó, thấy thế,
nhưng còn hư hỏng, phóng đãng hơn nó, và còn đàng điếm tội lỗi hơn chị nó. 12
Nó si mê con cái Át-sua, các quan thái thú, các tổng trấn, các binh sĩ
mặc nhung phục đắt tiền, những kỵ binh cỡi ngựa; tất cả đều trẻ trung hấp dẫn. 13
Và Ta thấy nó đã ra ô uế. Cả hai chị em đều cùng một lối sống như nhau. 14
Nó còn thêm vào chuyện đàng điếm của mình: nó nhìn những hình đàn ông
khắc trên tường, ảnh quân Can-đê vẽ bằng sơn đỏ, 15 đai thắt ngang
lưng, khăn quấn lên đầu buông thõng xuống; tất cả trông như những kỵ sĩ có dáng
dấp con cái Ba-by-lon, nguyên quán tại Can-đê. 16 Vừa nhìn thấy thế,
nó đã si mê nên sai sứ giả đến gặp chúng tại Can-đê. 17 Bấy giờ, con
cái Ba-by-lon đến tình tự với nó; chúng đã làm cho nó ra ô uế vì thói đàng điếm
của chúng. Nhưng khi nó đã ra ô uế vì chúng rồi, nó không còn quyến luyến chúng
nữa. 18 Nó ngang nhiên để lộ thói đàng điếm và phơi bày sự trần
truồng của nó ra; bấy giờ Ta không lưu luyến nó như đã thôi lưu luyến chị nó. 19
Nhưng nó đã gia tăng các việc đàng điếm của nó để nhớ lại thời thơ ấu nó
đã đàng điếm bên đất Ai-cập. 20 Nó đã si mê hạng trác táng. Mình
chúng như mình lừa, chúng cuồng loạn như giống ngựa.
21 Ngươi tìm kiếm tội ác tày trời
thời thơ ấu khi người Ai-cập bóp vú, nắn ngực còn con gái của ngươi. 22 Vì
thế, hỡi O-ho-li-va, Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Này Ta xúi các tình
nhân của ngươi chống lại ngươi; chúng không còn lưu luyến ngươi nữa; Ta sẽ dẫn
chúng tới đánh ngươi từ khắp tứ phía. 23 Con cái Ba-by-lon và tất cả
người Can-đê, Pơ-cốt, Sô-a, Cô-a, tất cả con cái Át-sua cùng với chúng, tất cả
những thanh niên trẻ trung hấp dẫn, các quan thái thú, các khâm sai, tất cả các
sĩ quan và binh lính, tất cả đều là kỵ binh cỡi ngựa. 24 Chúng sẽ từ
phương Bắc đến đánh ngươi đem theo chiến mã, chiến xa cùng với các dân liên
minh với nhau; chúng cho đặt thuẫn, khiên, mũ chiến chung quanh ngươi để đánh
ngươi; Ta sẽ trao quyền xét xử cho chúng và chúng sẽ xét xử ngươi tuỳ theo phán
quyết của chúng. 25 Ta sẽ nổi ghen đánh phạt ngươi; chúng sẽ nổi
giận trừng phạt ngươi. Chúng xẻo mũi, cắt tai ngươi; con cháu ngươi sẽ phải ngã
gục vì gươm. Chúng sẽ bắt con trai con gái ngươi; con cháu ngươi sẽ bị lửa nuốt
chửng. 26 Chúng sẽ lột quần áo và đoạt các đồ trang sức của ngươi. 27
Ta sẽ cho chấm dứt tội ác tày trời và thói đàng điếm của ngươi từ đất
Ai-cập; ngươi sẽ không ngước mắt nhìn lên chúng và sẽ không còn nhớ đến quân
Ai-cập nữa. 28 Quả thật, Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Này
Ta trao nộp ngươi vào tay những kẻ ngươi ghét, vào tay những kẻ ngươi không còn
lưu luyến. 29 Chúng sẽ hành hạ ngươi vì thù ghét; chúng sẽ chiếm lấy
tất cả lợi tức của ngươi. Chúng sẽ bỏ ngươi trần truồng không mảnh vải che
thân, phơi bày sự trần truồng và thói đàng điếm của ngươi ra. Chính tội ác tày
trời, thói đàng điếm của ngươi 30 đã gây nên cho ngươi các điều ấy, bởi ngươi
đàng điếm chạy theo các dân tộc, nên ngươi đã ra ô uế vì các ngẫu tượng của
chúng. 31 Ngươi đi theo đường lối của chị ngươi. Ta cũng sẽ trao
chén của nó vào tay ngươi. 32 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này:
Ngươi sẽ uống chén của chị ngươi;
chén ấy vừa sâu lại vừa rộng.
Ngươi nên trò cười, thành đề tài
nhạo báng,
vì chén ấy chứa được quá nhiều.
33 Ngươi sẽ đầy ứ say sưa và phiền
muộn.
Ðó là chén đựng hoang tàn và đổ
nát,
chén của Sa-ma-ri, chị ngươi.
34 Ngươi sẽ uống, sẽ dốc cạn chén ấy
rồi gặm những mảnh sành,
rạch nát cả đôi vú của ngươi.
Quả thật, chính Ta đã phán - sấm
ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
35 Vì thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này: Vì ngươi đã lãng quên và vứt bỏ Ta ra đàng sau lưng, nên đến lượt
ngươi, hãy mang lấy ô nhục và tính đàng điếm của ngươi. 36 Ðức Chúa
phán với tôi: Hỡi con người, ngươi có muốn xét xử O-ho-la và O-ho-li-va không?
Hãy nói cho chúng biết những điều ghê tởm của chúng. 37 Quả thật,
chúng đã ngoại tình, tay chúng vấy đầy máu. Chúng đã ngoại tình với các ngẫu
tượng của chúng; và ngay cả con cái chúng đã sinh ra cho Ta, chúng cũng thiêu
làm mồi cho các ngẫu tượng đó. 38 Chúng còn xử với Ta như thế này
nữa là làm ô uế thánh điện của Ta trong ngày đó và vi phạm các ngày sa-bát của
Ta. 39 Khi đã tàn sát con cái mình để kính các ngẫu tượng của chúng,
chúng còn dám vào thánh điện của Ta trong ngày đó, khiến cho thánh điện của Ta
bị xúc phạm. Chúng đã làm như thế đó ở giữa Nhà của Ta.
40 Hơn nữa, chúng đã cử người đi tìm
những kẻ từ xa; một sứ giả đã được sai đến với những kẻ đó. Này chúng đến. Vì
chúng mà ngươi tắm rửa, vẽ mắt và đeo các đồ trang sức. 41 Rồi ngươi
ngồi trên một cái giường lộng lẫy, phía trước có kê sẵn một cái bàn, trên đó
ngươi bày ra hương và dầu của Ta. 42 Người ta nghe thấy tiếng một
đám đông ồn ào vô tư lự. Thêm vào đó, còn có nhiều người từ khắp nơi trong sa
mạc đến vây quanh; chúng đeo kiềng vào tay, đội triều thiên rực rỡ lên đầu các
phụ nữ. 43 Bấy giờ tôi nói về người phụ nữ đã rạc đi vì ngoại tình:
bây giờ chính nó vẫn còn miệt mài trong các cuộc truy hoan. 44 Người
ta đến với nó như đến với một con điếm. Chúng đã đến với O-ho-la và O-ho-li-va
là những thứ đàn bà hư hỏng. 45 Nhưng những người công chính sẽ xét
xử chúng theo phán quyết về những kẻ ngoại tình và những kẻ gây đổ máu, vì
chúng ngoại tình và tay chúng vấy đầy máu.
46 Quả thật, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này: Hãy triệu tập đại hội để trừng phạt chúng; hãy để mặc cho chúng
phải kinh hãi và bị cướp bóc. 47 Ðại hội sẽ ném đá trị tội chúng và
dùng gươm vằm nát chúng. Người ta sẽ tàn sát con trai con gái chúng và phóng
hoả đốt nhà chúng. 48 Ta sẽ chấm dứt cảnh ô nhục trong xứ. Tất cả
phụ nữ sẽ được sửa dạy và không còn hành động theo vết ô nhục của các ngươi nữa.
49 Người ta sẽ giáng trả trên các ngươi sự ô nhục của các ngươi; các
ngươi sẽ phải gánh lấy các tội thờ ngẫu tượng của mình. Bấy giờ các ngươi sẽ
nhận biết chính Ta là Ðức Chúa, là Chúa Thượng.
Chương 24
Báo trước cuộc vây hãm
Giê-ru-sa-lem
1 Ngày mồng mười tháng mười năm thứ
chín, có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng: 2 Hỡi con người, hãy ghi
cho kỹ ngày hôm nay, chính ngày hôm nay; vua Ba-by-lon tấn công Giê-ru-sa-lem
vào chính ngày này. 3 Hãy dùng dụ ngôn mà nói với nòi phản loạn.
Ngươi sẽ nói với chúng: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này:
Bắc nồi, bắc nồi lên, đổ nước
vào,
4 rồi bỏ thịt vào đó
bỏ những miếng ngon lành: thịt
đùi, thịt vai;
nhét cho đầy nồi những khúc xương
bổ béo.
5 Hãy bắt con nào mập trong bầy
chiên dê, rồi bên dưới chất củi,
nấu thịt cho thật chín, hầm kỹ
xương trong nồi.
6 Vì thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này:
Khốn cho thành vấy máu là cái nồi
han rỉ;
vết han rỉ không sao chùi sạch.
Hãy lấy từng miếng một ra khỏi
nồi,
không cần phải bốc thăm chọn lựa.
7 Vì máu đổ ra vẫn còn ở giữa
thành.
Nó đổ máu trên tảng đá trọc,
mà không đổ trên đất cho cát bụi
lấp đi.
8 Ðể sục sôi giận dữ và ra tay báo
thù,
Ta đã cho máu nó đổ trên tảng đá
trọc,
không có gì che phủ.
9 Vì thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán như sau:
Khốn cho thành vấy máu,
chính Ta sẽ dựng lên một lò lửa
thật lớn.
10 Hãy chất đầy củi rồi nhóm lửa
lên,
nấu thịt cho thật nhừ, chế thêm
đồ gia vị,
cho xương cốt cháy tan.
11 Rồi đặt nồi không trên than củi
cho nồi nóng lên, cho đồng đỏ
rực,
cho nhơ bẩn tiêu tan và han rỉ
biến sạch.
12 Nhưng vất vả bao nhiêu cũng vô ích!
Khối han rỉ vẫn không bong ra khỏi nồi, dù đã bị lửa thiêu. 13 Vì
tội ô uế của ngươi tày trời; Ta muốn thanh tẩy ngươi, nhưng ngươi lại không để
cho thanh tẩy sạch mọi ô uế. Ngươi sẽ không được thanh tẩy cho đến khi Ta trút
hết cơn thịnh nộ xuống trừng phạt ngươi. 14 Chính Ta là Ðức Chúa. Ta
đã phán thì điều ấy phải xảy ra; Ta sẽ hành động chẳng chút nương tay, không
chút xót thương và chẳng chạnh lòng. Ta sẽ xét xử ngươi tuỳ theo lối sống và
các công việc của ngươi, - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
Ngôn sứ gặp thử thách
15 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
16 Hỡi con người, này Ta sẽ bất thần cất khỏi ngươi niềm vui của mắt
ngươi. Nhưng ngươi không được thương tiếc người chết, không được khóc lóc,
không được để nước mắt trào ra. 17 Hãy rên rỉ âm thầm, đừng làm đám
tang cho người chết; hãy đội khăn, đi dép; không được che râu ria; không được
ăn bánh người ta đưa đến. 18 Tôi nói với dân chúng ban sáng, thì đến
chiều vợ tôi chết. Sáng hôm sau, tôi làm như lệnh Ðức Chúa đã truyền cho tôi. 19
Dân chúng bảo tôi: "Ông không cắt nghĩa cho chúng tôi hiểu những gì
ông đã làm sao?” 20 Tôi nói với họ: "Có lời Ðức Chúa phán với
tôi rằng: 21 Hãy nói với nhà Ít-ra-en: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán
như sau: Này Ta sẽ làm cho Nơi Thánh của Ta ra ô uế; nơi thánh đó là sức mạnh
làm cho các ngươi hãnh diện, là niềm vui của đôi mắt các ngươi, là nơi các
ngươi hằng quan tâm. Con trai con gái các ngươi đã bỏ lại sẽ ngã gục vì gươm. 22
Các ngươi cứ làm như tôi đã làm. Các ngươi đừng che râu ria, đừng ăn bánh
người ta đưa đến. 23 Ðầu đội khăn, chân đi dép; các ngươi sẽ không
được thương tiếc người chết, không được khóc lóc. Các ngươi sẽ chết dần chết
mòn vì lỗi lầm của các ngươi; các ngươi sẽ nhìn nhau mà rên siết. 24 Ê-dê-ki-en
sẽ nên điềm báo cho các ngươi. Các ngươi sẽ làm y như nó đã làm. Khi sự việc
xảy ra, các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa, là Chúa Thượng.
25 Còn ngươi, hỡi con người, vào
ngày Ta cất đi sức mạnh của chúng, cũng như niềm hân hoan vì đồ trang sức, niềm
vui của đôi mắt chúng, niềm hạnh phúc của tâm hồn chúng, con trai con gái của
chúng. 26 Ngày ấy sẽ có một người thoát nạn đến báo tin cho ngươi. 27
Ngày ấy ngươi sẽ mở miệng ra nói với người thoát nạn; ngươi sẽ nói được
và không còn câm nữa. Ngươi sẽ là điềm báo cho chúng. Bấy giờ, chúng sẽ nhận biết
chính Ta là Ðức Chúa.
Chương 25
II. Các Sấm Ngôn Hạch Tội Chư Dân
Hạch tội dân Am-mon
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, hãy quay mặt về phía con cái Am-mon mà tuyên sấm
hạch tội chúng. 3 Ngươi hãy bảo con cái Am-mon: Hãy nghe lời của
Chúa Thượng là Ðức Chúa. Chúa Thượng là Ðức Chúa phán thế này:
Vì ngươi đã nói "A ha!"
về thánh điện của Ta, khi nó bị xúc phạm, về đất Ít-ra-en khi nó bị tàn phá, và
về nhà Giu-đa khi chúng phải đi đày, 4 nên Ta sẽ trao ngươi cho con
cái Phương Ðông làm sở hữu; chúng sẽ lập trại và dựng nhà của chúng ở giữa
ngươi. Chính chúng sẽ hưởng dùng hoa trái, sẽ uống sữa của ngươi. 5 Ta
sẽ biến Ráp-ba thành đồng cỏ nuôi lạc đà và xứ sở của con cái Am-mon thành
chuồng giữ chiên dê; bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
6 Quả vậy, Chúa Thượng là Ðức Chúa
phán thế này:
Vì ngươi đã đập tay, giâm chân,
đã vui mừng, lòng đầy khinh bỉ đối với đất Ít-ra-en, 7 nên Ta sẽ
dang tay trừng phạt ngươi, sẽ để cho các dân tộc cướp phá, sẽ loại bỏ ngươi
khỏi chư dân, sẽ xoá tên ngươi khỏi các nước và huỷ diệt ngươi; bấy giờ, ngươi
sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
Hạch tội Mô-áp
8 Chúa Thượng là Ðức Chúa phán thế
này:
Vì Mô-áp và Xê-ia đã nói:
"Nhà Giu-đa nào có khác gì chư dân", 9 nên Ta sẽ làm cho
mọi thành trên các triền đồi Mô-áp hoàn toàn biến dạng; Bết Ha Giơ-si-mốt,
Ba-an Mơ-ôn và Kia-gia-tha-gim không còn là những thành huy hoàng của xứ sở nữa.
10 Ta sẽ trao các thành ấy cùng với con cái Am-mon cho con cái
Phương Ðông làm sở hữu, khiến chẳng còn ai trong các dân tộc nhớ đến con cái
Am-mon nữa. 11 Ta sẽ thi hành án phạt Mô-áp; bấy giờ chúng sẽ nhận
biết chính Ta là Ðức Chúa.
Hạch tội Ê-đôm
12 Chúa Thượng là Ðức Chúa phán thế
này:
Vì cách xử sự của Ê-đôm khi báo
oán nhà Giu-đa, và vì những sai lỗi nặng nề khi báo oán nhà ấy, 13 nên
Chúa Thượng là Ðức Chúa phán như sau: Ta sẽ dang tay trừng phạt Ê-đôm, sẽ diệt
trừ người cũng như súc vật khỏi xứ, sẽ làm cho Ê-đôm ra hoang tàn; từ Tê-man
tới Ðơ-đan, người ta sẽ phải ngã gục vì gươm. 14 Ta quyết định dùng
tay dân Ta là Ít-ra-en để báo oán Ê-đôm; dân ấy sẽ xử với Ê-đôm theo cơn lôi
đình thịnh nộ của Ta; bấy giờ chúng sẽ nhận biết sự báo oán của Ta, - sấm ngôn
của Chúa Thượng là Ðức Chúa.
Hạch tội Phi-li-tinh
15 Chúa Thượng là Ðức Chúa phán thế
này:
Vì dân Phi-li-tinh đã hành động
do lòng thù oán và vì chúng đã báo oán do mối thù thiên thu, lòng đầy khinh bỉ,
nhằm tận diệt, 16 nên Chúa Thượng là Ðức Chúa phán thế này: Ta sẽ
dang tay trừng phạt dân Phi-li-tinh; Ta sẽ loại trừ những người Cơ-rê-thi và
tiêu diệt số dân cư miền duyên hải còn sót lại. 17 Ta sẽ giáng xuống
trên chúng những hình phạt hết sức nặng nề để báo oán; bấy giờ, khi Ta thi hành
sự báo oán, chúng sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
Chương 26
Hạch tội Tia
1 Năm thứ mười một, ngày đầu tháng,
có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, vì Tia đã nói
chống lại Giê-ru-sa-lem:
"A ha! Cửa của các dân đã
tan nát;
đến lượt ta phú túc, còn nó phải
tan hoang",
3 nên Chúa Thượng là Ðức Chúa phán
thế này:
Ta sẽ trừng phạt ngươi, hỡi Tia,
sẽ làm cho nhiều dân tộc nổi lên
chống lại ngươi
như biển khơi dậy sóng.
4 Chúng sẽ triệt hạ tường luỹ thành
Tia, sẽ phá huỷ các tháp;
còn Ta sẽ quét bụi khỏi thành và
biến nó ra núi đá trọc.
5 Nó sẽ thành chỗ phơi lưới, giữa
biển khơi,
bởi vì chính Ta đã phán,
- sấm ngôn của Chúa Thượng là Ðức
Chúa.
Nó sẽ là mồi ngon cho các dân
tộc.
6 Các con gái của nó đang ở ngoài
đồng sẽ bị gươm tàn sát;
bấy giờ, chúng sẽ nhận biết chính
Ta là Ðức Chúa.
7 Quả vậy, Chúa Thượng là Ðức Chúa
phán thế này:
Ðây, từ phương Bắc, Ta sắp dẫn
đến Tia
Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon,
vua các vua,
cùng với ngựa, chiến xa và kỵ mã,
một đoàn lũ và một đám dân đông
đảo.
8 Các con gái của ngươi đang ở
ngoài đồng,
nó sẽ dùng gươm tàn sát.
Nó sẽ đắp chiến luỹ, đắp ụ, và
dựng thuẫn chống lại ngươi.
9 Nhắm vào các tường luỹ của ngươi,
nó sẽ đặt máy phá
và dùng máy móc triệt hạ các tháp
canh.
10 Ngựa của nó hàng hàng lớp lớp
tung bụi che phủ ngươi;
nghe tiếng vó câu, tiếng xe và xe
trận,
các tường luỹ của ngươi rung
chuyển
khi nó tràn vào các cửa thành
ngươi,
giống như người ta vào thành đã
bị chọc thủng.
11 Nó cho vó ngựa giẫm nát mọi đường
phố của ngươi,
dân của ngươi, nó dùng gươm sát
hại;
các bia đá oai hùng của ngươi, nó
quăng xuống đất.
12 Của cải ngươi sẽ bị cưỡng đoạt,
hàng hoá của ngươi, thiên hạ lấy
đem đi;
tường luỹ của ngươi sẽ bị phá
huỷ,
nhà cửa sang trọng của ngươi,
người ta phá tan hoang,
đá, gỗ, bụi của ngươi đều bị
quăng xuống biển.
13 Ta sẽ làm cho im bặt tiếng ca
vang của ngươi,
tiếng đàn của ngươi cũng không
còn nghe thấy nữa.
14 Ta sẽ biến ngươi thành núi đá
trọc;
ngươi sẽ thành chỗ phơi lưới,
ngươi chẳng còn được tái thiết
nữa,
vì chính Ta, Ðức Chúa, Ta đã
phán,
- sấm ngôn của Chúa Thượng là Ðức
Chúa.
Bài ai ca khóc thành Tia
15 Chúa Thượng là Ðức Chúa phán thế
này với Tia: Nghe tiếng ngươi sụp đổ, cùng với tiếng rên la của đám thương vong
và cảnh tàn sát rợn rùng xảy ra ở giữa ngươi, chẳng lẽ các hải đảo không run
sợ? 16 Bấy giờ, mọi thủ lãnh hải đảo sẽ xuống khỏi ngai, vứt áo choàng, bỏ y
phục sặc sỡ và mặc lấy hãi hùng; chúng sẽ ngồi bệt xuống đất, kinh hãi liên hồi
và sửng sốt về số phận của ngươi.
17 Chúng sẽ cất lên khúc ai ca khóc
thương ngươi và nói với ngươi rằng:
Sao ngươi bị huỷ diệt, biến mất
khỏi biển khơi,
hỡi thành đô danh tiếng,
thành đô hùng cường trên biển cả,
cả thành lẫn dân cư
đã từng gieo kinh hãi cho mọi dân
trong miền.
18 Giờ đây, các hải đảo khiếp kinh
vào ngày ngươi sụp đổ;
các hải đảo hoảng hốt vì thấy
ngươi suy tàn.
19 Vì Chúa Thượng là Ðức Chúa phán
như sau:
20 Ta hạ ngươi xuống với những người
đã xuống vực sâu, về với dân đã thành người thiên cổ. Ta sẽ cho ngươi định cư
trong miền đất thẳm sâu giống như chốn điêu tàn vạn cổ, với những người đã
xuống vực sâu, để ngươi không còn được Ta cho về cư ngụ và hưởng ánh huy hoàng
rực rỡ trong cõi nhân sinh. 21 Ta sẽ biến ngươi thành đồ kinh tởm;
ngươi sẽ không còn tồn tại. Người ta sẽ tìm kiếm ngươi, nhưng chẳng bao giờ còn
thấy ngươi nữa, - sấm ngôn của Chúa Thượng là Ðức Chúa.
Chương 27
Bài ai ca thứ hai khóc thành Tia
sụp đổ
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Phần ngươi, hỡi con người, hãy cất bài ai ca khóc thành Tia. 3
Hãy nói với thành Tia nằm nơi cửa biển, nơi các dân giao thương với nhiều
hải đảo: Chúa Thượng là Ðức Chúa phán thế này:
Hỡi Tia, chính ngươi đã từng nói:
"Ta xinh đẹp tuyệt trần!"
4 Lãnh thổ của ngươi trải rộng khắp
trùng dương.
Nhờ những tay thợ lành nghề,
sắc đẹp của ngươi thêm lộng lẫy.
5 Họ lấy gỗ trắc Xơ-nia đóng cho
ngươi toàn bộ mạn sườn;
lấy gỗ bá hương Li-băng làm cột
buồm,
6 dùng gỗ sồi Ba-san làm mái chèo.
Họ lấy gỗ bá hương từ các đảo
Kít-tim
khảm ngà voi làm mái che ngươi.
7 Buồm của ngươi làm bằng vải gai
sặc sỡ
đưa từ Ai-cập về, trông giống như
cờ hiệu;
bạt che ngươi bằng vải tía vải
điều của các hải đảo Ê-li-sa.
8 Hỡi Tia, những tay chèo thuyền
cho ngươi
là các dân Xi-đôn và Ác-vát;
các thủy thủ của ngươi là những
tay khéo léo lanh lợi;
9 còn những người trét các lỗ rò là
các kỳ mục Gơ-van,
là những bậc khôn ngoan từng
trải.
Mọi tàu biển và thuỷ thủ của
chúng đến với ngươi để giao thương buôn bán. 10 Người Ba-tư, người
Lút và Pút làm chiến binh phục vụ trong quân đội của ngươi. Họ treo khiên mộc
và mũ chiến ở nơi ngươi, làm cho ngươi được vinh hiển. 11 Con cái
Ác-vát cùng với quân đội của chúng đóng trên các tường luỹ của ngươi, khắp
chung quanh; còn quân Gam-mát thì ở trên các ngọn tháp của ngươi. Chúng treo
thuẫn trên các tường luỹ của ngươi, khắp chung quanh, làm cho vẻ đẹp của ngươi
thêm lộng lẫy. 12 Tác-sít giao thương với ngươi vì ngươi có đủ mọi
thứ hàng hoá. Chúng đưa bạc, sắt, kẽm, chì cho ngươi, để đổi lấy hàng hoá. 13
Gia-van, Tu-van và Me-séc cũng giao thương với ngươi. Chúng đem nô lệ và
các vật dụng bằng đồng cho ngươi để đổi lấy thực phẩm. 14 Từ Bết
Tô-gác-ma, người ta trao ngựa tải, ngựa chiến và lừa cho ngươi để đổi lấy hàng
hoá. 15 Con cái Ðơ-đan cũng buôn bán với ngươi; nhiều hải đảo là
khách hàng của ngươi; chúng nộp cho ngươi ngà voi và gỗ mun. 16 A-ram
cũng giao thương với ngươi, vì ngươi có nhiều sản phẩm; họ trả cho ngươi hồng
ngọc, vải điều, nhiễu điều, hàng mịn, san hô, ngọc tía, để đổi lấy hàng hoá. 17
Cả Giu-đa và đất Ít-ra-en cũng là những khách hàng của ngươi, họ trả cho
ngươi lúa mì Min-nít, sáp với mật ong, dầu và nhựa thơm để đổi lấy thực phẩm
của ngươi. 18 Ða-mát giao thương với ngươi vì ngươi có nhiều sản
phẩm và đủ loại hàng hoá: nó cung cấp cho ngươi rượu Khen-bôn và len Xa-kha. 19
Từ U-dan, Ðan và Gia-van đem sắt đã luyện, quế bì, quế thanh để đổi lấy
hàng hoá của ngươi. 20 Ðơ-đan đem thảm làm yên ngựa đến buôn bán với
ngươi. 21 Ả-rập và các ông hoàng Kê-đa cũng giao thương với ngươi;
họ đem chiên, cừu, dê đến buôn bán với ngươi. 22 Khách buôn Sơ-va và
Ra-ơ-ma cũng giao thương với ngươi; họ trao cho ngươi mọi thứ hương thơm hảo
hạng, mọi thứ đá quý cùng với vàng để đổi lấy hàng hoá. 23 Kha-ran,
Căn-nê và E-đen; các khách buôn Sơ-va, Át-sua và Kin-mát giao thương với ngươi;
24 họ buôn bán với ngươi, đem đến các chợ của ngươi nào y phục lộng
lẫy, áo choàng vải điều vải tía, nào hàng dệt nhiều màu, dây thừng bện chắc.
25 Tàu bè Tác-sít chuyển chở hàng
hoá cho ngươi.
Giữa trùng dương,
ngươi đã được chất đầy và chở
nặng.
26 Các tay chèo của ngươi đưa ngươi
ra biển cả.
Cơn gió đông làm ngươi vỡ tan
tành giữa trùng dương.
27 Tài sản, hàng hoá cùng thực phẩm,
thủy thủ, các tay chèo, thợ trét
lỗ rò,
khách buôn và mọi chiến binh phục
vụ ngươi,
cũng như mọi hành khách trên tàu,
tất cả đều chìm xuống biển sâu,
vào ngày ngươi sụp đổ.
28 Nghe tiếng các thủy thủ của ngươi
kêu la,
dân chúng trên bờ đều rúng động.
29 Bấy giờ, mọi kẻ cầm mái chèo đều
xuống khỏi tàu;
các thủy thủ, mọi người đi biển,
tất cả đều lên đất.
30 Họ sẽ kể lể về chuyện của ngươi
mà kêu gào xót xa và rắc bụi lên
đầu, rồi lăn mình trên đống tro;
31 vì ngươi, họ cạo đầu, và mặc áo
vải thô;
họ khóc thương ngươi, lòng đầy
cay đắng.
32 Họ cất lên một khúc ai ca, khóc
thương ngươi, não nùng ai oán:
"Nào ai giống như Tia, lặng
lẽ chìm sâu trong biển cả.
33 Trước kia, khi ngươi dùng đường
biển
đưa hàng đi khắp chốn, bao dân
nước đã được mãn nguyện;
vì lắm của lại nhiều hàng,
ngươi đã làm giàu cho vua chúa
trên mặt đất.
34 Giờ đây, ngươi bị sóng đánh tan
tành, chìm sâu trong biển cả;
hàng hoá cùng với mọi hành khách
đã chìm xuống theo ngươi.
35 Mọi dân cư trên các hải đảo đều
kinh ngạc về chuyện của ngươi.
Vua chúa của họ rụng rời kinh hãi
và thất vọng ra mặt.
36 Khách hàng các nước cười nhạo
ngươi
vì ngươi đã hoá ra đồ kinh tởm;
ngươi sẽ chẳng còn tồn tại đến
mãi mãi muôn đời."
Chương 28
Hạch tội vua Tia
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, hãy nói với thủ lãnh của Tia: Chúa Thượng là ÐỨC
CHÚA phán thế này:
Vì ngươi đem lòng tự cao tự đại
nên ngươi đã nói: "Ta là thần,
ta ngự trên ngai các thần, giữa
trùng dương."
Ngươi chỉ là người, chứ không
phải là thần
mà lại dám cho mình ngang hàng
với thần thánh.
3 Này, ngươi khôn ngoan hơn
Ða-ni-ên!
Không bí mật nào giấu được ngươi.
4 Nhờ khôn ngoan hiểu biết,
ngươi đã làm ra của cải và thu
tích vàng bạc trong kho.
5 Vì ngươi rất khôn ngoan và có tài
buôn bán,
nên của cải ngươi đã tăng lên
và ngươi sinh lòng tự cao vì lắm
của.
6 Bởi vậy, Chúa Thượng là Ðức Chúa
phán thế này:
Vì ngươi dám cho mình ngang hàng
với thần thánh,
7 nên, này Ta sẽ đưa
những người ngoại bang hung dữ
nhất trong các dân tộc
đến đánh phá ngươi.
Chúng sẽ tuốt gươm đối lại sự
khôn ngoan tuyệt vời của ngươi,
làm cho vẻ huy hoàng của ngươi ra
ô trọc.
8 Chúng sẽ xô ngươi xuống hố,
và ngươi sẽ chết thê thảm giữa
trùng dương.
9 Trước mặt những kẻ sắp giết ngươi
đó,
liệu ngươi còn nói được: "Ta
là thần" nữa chăng,
đang khi ở trong tay những kẻ sắp
đâm ngươi
ngươi chỉ là người chứ không phải
là thần thánh?
10 Ngươi sẽ chết như những kẻ không
cắt bì,
bởi tay quân ngoại bang, vì Ta
đây, Ta đã phán,
sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa
Thượng.
Vua Tia bị lật nhào
11 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
12 Hỡi con người, hãy cất lên khúc ai ca thương khóc vua Tia. Ngươi
hãy nói: Chúa Thượng là Ðức Chúa phán thế này:
Ngươi là mẫu người tuyệt hảo
đầy khôn ngoan và xinh đẹp tuyệt
vời.
13 Ngươi cư ngụ tại Ê-đen, thửa vườn
của Thiên Chúa
áo của ngươi đính toàn đá quý:
xích não, hoàng ngọc, kim cương,
kim lục thạch, mã não có vân, vân
thạch
lam ngọc, hồng ngọc, bích ngọc;
còn trống cơm và sáo của ngươi
thì được dát vàng.
Tất cả đều sẵn sàng, ngày ngươi
được sáng tạo.
14 Ta đặt ngươi làm Kê-rúp chở che;
ngươi ở trên núi thánh của Thiên
Chúa,
đi đi lại lại giữa than hồng rực
lửa.
15 Ðường lối của ngươi chẳng có gì
đáng trách
từ ngày ngươi được sáng tạo
cho tới khi tìm thấy sự bất công
ở nơi ngươi.
16 Vì làm ăn buôn bán thịnh đạt
nên ngươi chất đầy mình bạo lực
và tội lỗi.
Bởi thế, Ta làm cho ngươi ra phàm
tục,
không cho ở trên núi của Thiên
Chúa.
Hỡi Kê-rúp chở che,
Ta tiêu diệt ngươi khỏi chốn than
hồng rực lửa.
17 Ngươi đem lòng tự cao vì vẻ đẹp
của mình,
ngươi đã để cho vẻ huy hoàng rực
rỡ
làm hư hỏng sự khôn ngoan của
ngươi.
Ta quẳng ngươi xuống đất,
Ta biến ngươi thành trò diễu cợt
cho các vua.
18 Vì ngươi chồng chất tội, vì ngươi
buôn bán bất lương,
nên các thánh điện của ngươi đã
ra ô uế.
Bởi thế, từ nơi ngươi,
Ta cho phát ra một ngọn lửa thiêu
rụi ngươi;
Ta biến ngươi thành tro bụi trên
mặt đất
trước mắt mọi kẻ đang nhìn ngươi.
19 Bất kỳ ai giữa muôn dân muôn nước
xưa kia từng biết ngươi,
đều lấy làm kinh ngạc về chuyện
đã xảy ra cho ngươi;
ngươi đã hoá ra đồ ghê tởm, mãi
mãi ngươi sẽ không còn tồn tại.
Hạch tội Xi-đôn
20 Có lời Ðức Chúa phán với tôi: 21
Hỡi con người, hãy quay mặt về phía Xi-đôn mà tuyên sấm hạch tội nó. 22
Ngươi hãy nói: Chúa Thượng là Ðức Chúa phán thế này:
Này Ta chống lại ngươi, hỡi
Xi-đôn,
Ta sắp được vẻ vang ở giữa ngươi.
Bấy giờ, thiên hạ sẽ nhận biết
chính Ta là Ðức Chúa,
khi Ta thi hành án xử đối với nó
và biểu dương nơi nó sự thánh
thiện của Ta.
23 Ta sẽ cho ôn dịch giáng xuống
trên nó,
cho máu me ngập khắp phố phường,
đám tử vong nằm la liệt giữa nó,
vì gươm đao đe doạ nó tư bề.
Bấy giờ, thiên hạ sẽ nhận biết
chính Ta là Ðức Chúa.
Ít-ra-en được giải thoát khỏi ách
dân ngoại
24 Nhà Ít-ra-en sẽ không còn bị gai
đâm dằm xước bởi các dân lân bang vẫn từng khinh khi chúng. Bấy giờ chúng sẽ
nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
25 Chúa Thượng là Ðức Chúa phán thế
này: Khi Ta tập hợp nhà Ít-ra-en từ giữa chư dân là nơi chúng bị phân tán; nơi
chúng, Ta sẽ biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt các dân ấy. Chúng sẽ
định cư trên phần đất mà Ta ban cho tôi tớ Ta là Gia-cóp. 26 Ở đó,
chúng sẽ an cư lạc nghiệp, sẽ xây nhà và trồng nho; chúng sẽ an cư lạc nghiệp
khi Ta thi hành án xử đối với những kẻ lân bang đã từng khinh dể chúng. Bấy giờ
chúng sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng.
Chương 29
Hạch tội Ai-cập
1 Ngày mười hai tháng mười năm thứ
mười, có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng: 2 Hỡi con người, hãy quay
mặt về phía Pha-ra-ô, vua Ai-cập, mà tuyên sấm hạch tội nó và toàn cõi Ai-cập. 3
Hãy nói, hãy bảo: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này:
Này Ta chống lại ngươi, hỡi
Pha-ra-ô, vua Ai-cập,
con cá sấu vĩ đại đang nằm giữa
các dòng sông Nin của mình.
Ngươi dám bảo: "Sông Nin là
của ta,
chính ta đã làm ra con sông
ấy."
4 Ta sẽ tra hàm thiếc vào hàm
ngươi,
sẽ làm cho cá mú sông Nin bám
chặt vào vảy ngươi.
5 Ta sẽ ném ngươi vào sa mạc cùng
với hết mọi cá mú sông Nin.
Ngươi sẽ gục ngã trên cánh đồng,
không được gom lại, không được
chôn cất.
Ta sẽ biến ngươi thành mồi
cho cầm thú dưới đất, cho muông
chim trên trời.
6 Bấy giờ, mọi dân cư Ai-cập sẽ
nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
Vì đối với nhà Ít-ra-en, ngươi
chỉ là cây gậy lau.
7 Khi chúng nắm lấy ngươi, ngươi
nát tan trong bàn tay chúng,
và ngươi làm chúng rách cả vai.
Khi chúng tựa vào ngươi, ngươi
gãy nát
ngươi làm chúng sụm lưng.
8 Vì thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này: Ðây Ta cho gươm đao đến trừng phạt ngươi, và Ta sẽ diệt trừ khỏi
ngươi cả người lẫn vật. 9 Ðất Ai-cập sẽ nên chốn hoang tàn đổ nát; bấy
giờ thiên hạ sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa. Vì ngươi dám nói: "Sông
Nin là của ta; chính ta đã làm ra nó", 10 thì này, Ta chống lại
ngươi và dòng sông Nin của ngươi. Ta sẽ biến đất Ai-cập nên chốn hoang tàn đổ
nát, từ Mích-đôn tới Xơ-vê-nê, đến tận biên giới xứ Cút. 11 Không
còn người nào, cũng chẳng còn vật nào đặt chân qua đó nữa; tại đây, sẽ không có
người cư ngụ trong bốn mươi năm. 12 Ta sẽ biến đất Ai-cập nên chốn
hoang tàn giữa các miền đổ nát; trong bốn mươi năm, thành thị của nó sẽ trở nên
chốn hoang tàn giữa các thành bị tàn phá. Ta sẽ phân tán người Ai-cập vào các
dân và tung chúng đi các nước. 13 Vì Ðức Chúa là Chúa Thượng phán
thế này: mãn hạn bốn mươi năm, Ta sẽ tập hợp những người Ai-cập từ các dân, nơi
chúng đã bị phân tán. 14 Ta sẽ đổi số phận dân Ai-cập và sẽ đưa
chúng về đất Pát-rốt, về nơi chôn nhau cắt rốn của chúng. Tại đó, chúng sẽ
thành một vương quốc bé nhỏ. 15 Ai-cập sẽ là một vương quốc nhỏ bé
nhất trong các vương quốc và sẽ không còn trổi vượt hơn các dân tộc. Ta sẽ làm
cho dân số nó sút giảm khiến nó không còn thống trị các dân tộc nữa. 16 Ðối
với nhà Ít-ra-en, nó sẽ không còn là nơi đáng tin cậy nữa, vì nó nhắc cho
Ít-ra-en nhớ đến tội mình là đã quay đầu về với nó. Bấy giờ thiên hạ sẽ nhận
biết Ta là Ðức Chúa.
17 Ngày mồng một tháng thứ nhất, năm
thứ hai mươi bảy, có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
18 Hỡi con người, Na-bu-cô-đô-nô-xo,
vua Ba-by-lon, đã bắt quân mình phải vất vả khổ cực để tấn công thành Tia: đầu
ai cũng tróc, vai ai cũng trầy. Nhưng nó chẳng được lợi lộc gì từ phía Tia, cả
quân đội của nó cũng vậy, dù đã ra công vất vả đánh thành. 19 Vì
thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Này, Ta sẽ trao đất Ai-cập cho
Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, nó sẽ lấy của cải mang đi, sẽ đoạt chiến lợi
phẩm và cướp sạch xứ ấy; đó sẽ là lợi lộc trả cho quân của nó. 20 Bù
lại công khó nó đã bỏ ra để đánh Ai-cập, Ta sẽ trao cho nó đất ấy, vì nó đã
hành động cho Ta - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
21 Ngày ấy, Ta sẽ cho nhà Ít-ra-en
hùng cường; còn phần ngươi, Ta sẽ cho ngươi được mở miệng nói năng giữa chúng.
Bấy giờ, chúng sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
Chương 30
Ngày Ðức Chúa trừng phạt Ai-cập
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, hãy tuyên sấm; ngươi hãy nói: Ðức Chúa là Chúa
Thượng phán thế này: Các ngươi hãy rên siết: "Ôi! Ngày ấy!” 3 Vì
ngày ấy gần kề. Ngày của Ðức Chúa đã gần kề; đó sẽ là ngày u ám, là thời của
các dân tộc.
4 Nạn gươm đao sẽ xảy đến cho
Ai-cập, lo âu tràn vào Cút: đám tử vong nằm la liệt ở Ai-cập, khi của cải nó bị
lấy mang đi, nền móng của nó bị phá huỷ. 5 Cút, Pút và Lút cùng tất
cả đám dân Cút ô hợp cũng như con cái của đất giao ước sẽ gục ngã vì gươm.
6 Ðức Chúa phán thế này:
Các nơi nương tựa của Ai-cập sẽ
sụp đổ; sự kiêu hùng của nó sẽ bị lật nhào: từ Mích-đôn đến Xơ-vê-nê, người ta
sẽ phải gục ngã vì gươm - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
7 Chúng sẽ ra hoang tàn giữa các
miền đổ nát, và thành thị của nó sẽ trở nên chốn hoang tàn giữa các thành bị
tàn phá. 8 Bấy giờ chúng sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa, khi Ta
châm lửa đốt Ai-cập và khi mọi nguồn tiếp viện của nó bị tiêu huỷ.
9 Ngày ấy, các sứ giả sẽ theo lệnh
Ta xuống tàu ra đi, khiến cho xứ Cút đang yên hàn phải lo lắng, và sợ hãi sẽ ập
xuống vào ngày của Ai-cập - vì đây ngày ấy đang đến!
10 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này: Ta sẽ dùng bàn tay của Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon, mà tiêu diệt đám
đông quân Ai-cập. 11 Nó cùng với dân nó, dân hung dữ nhất trong các
dân tộc, sẽ được dẫn tới để tiêu diệt xứ này. Chúng sẽ tuốt gươm đánh Ai-cập,
làm cho xứ ngập đầy xác chết. 12 Ta sẽ làm cho dòng sông Nin khô
cạn, sẽ bán xứ này cho phường gian ác. Ta sẽ dùng tay ngoại bang tàn phá xứ sở
cùng mọi sự trong đó. Chính Ta, Ðức Chúa, Ta đã phán.
13 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này: Ta sẽ huỷ diệt các ngẫu tượng, sẽ loại trừ khỏi Nốp các tà thần. Ðất
Ai-cập sẽ không còn ông hoàng nữa. Ta sẽ làm cho Ai-cập đắm chìm trong sợ hãi. 14
Ta sẽ tàn phá Pát-rốt, sẽ châm lửa đốt Xô-an, sẽ thi hành án phạt dành
cho Nô. 15 Ta sẽ trút cơn thịnh nộ của Ta xuống Xin, đồn luỹ kiên cố
của Ai-cập. Ta sẽ huỷ diệt đám đông quân Nô. 16 Ta sẽ châm lửa đốt
Ai-cập; Xin sẽ quằn quại trong đau đớn; Nô sẽ bị chọc thủng và Nốp bị tấn công
giữa ban ngày. 17 Thanh niên Ôn và Pi Ve-xét sẽ phải ngã gục vì
gươm, còn phụ nữ phải đi đày. 18 Tại Tác-pan-khết, bóng tối bao phủ
giữa ban ngày, khi Ta bẻ gãy cái ách của Ai-cập tại đó, và khi sự kiêu hùng của
nó phải tiêu tan. Một đám mây sẽ bao phủ nó và các con gái của nó phải đi đày. 19
Ta sẽ thi hành án phạt dành cho Ai-cập và thiên hạ sẽ nhận biết chính Ta
là Ðức Chúa.
20 Ngày mồng bảy tháng thứ nhất năm
thứ mười một, có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng: 21 Hỡi con người,
Ta đã bẻ gãy cánh tay của Pha-ra-ô, vua Ai-cập; và này, chẳng có ai băng bó,
tìm phương trị liệu và cuốn băng cho nó để nó có sức cầm gươm. 22 Vì
thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Ðây, Ta chống lại Pha-ra-ô, vua
Ai-cập; Ta sẽ bẻ gãy các cánh tay của nó, cánh tay còn khoẻ cũng như cánh tay
đã gãy và Ta sẽ khiến cho gươm nó đang cầm rơi khỏi tay nó. 23 Ta sẽ
phân tán người Ai-cập vào các dân và tung chúng đi các nước. 24 Ta
sẽ làm cho các cánh tay của vua Ba-by-lon nên mạnh mẽ, và Ta sẽ trao gươm của
Ta vào tay nó. Ta sẽ bẻ gãy các cánh tay của Pha-ra-ô và trước mặt kẻ thù của
nó, nó sẽ thốt ra những tiếng rên la như người bị tử thương. 25 Ta
sẽ làm cho các cánh tay của vua Ba-by-lon nên mạnh mẽ, còn các cánh tay của
Pha-ra-ô sẽ phải buông xuống. Bấy giờ, thiên hạ sẽ nhận biết chính Ta là Ðức
Chúa, khi Ta trao gươm của Ta vào tay vua Ba-by-lon. Nó sẽ quay gươm chống lại
Ai-cập. 26 Ta sẽ phân tán người Ai-cập vào các dân và tung chúng đi
các nước. Bấy giờ, thiên hạ sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
Chương 31
Cây hương bá
1 Ngày mồng một tháng thứ ba, năm
thứ mười một, có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng: 2 Hỡi con người,
hãy nói với Pha-ra-ô, vua Ai-cập, và với đám dân đông đảo của nó:
Ngươi so sánh sự vĩ đại của ngươi
với ai?
3 Với cây trắc bá, cây hương nam
núi Li-băng,
cành to, lá rườm rà, thân cao lớn
ngọn vút lên giữa các tầng mây?
4 Nước đã nuôi cho nó lớn, vực thẳm
làm cho nó cao,
khi cho những dòng sông mình
chảy chung quanh chỗ nó được
trồng;
khi đưa những khe suối len lỏi
vào mọi cây cối trong cánh đồng.
5 Vì thế, nhờ có nhiều nước
thân nó cao lớn hơn mọi cây cối
trong cánh đồng,
chồi lộc ra nhiều, cành lá vươn
rộng.
6 Trên cành cây, mọi giống chim
trời đến làm tổ,
dưới bóng lá cành, mọi dã thú nẩy
nở sinh sôi,
và dưới bóng nó, vô số dân tộc
đến cư ngụ.
7 Ðó là một cây xinh đẹp tuyệt vời,
thân to lớn, cành lá vươn rộng
và đâm rễ xuống tận nguồn nước
dồi dào.
8 Các cây hương bá trong vườn của
Thiên Chúa
không sao bằng nó,
so với cành nó, các cây trắc bá
cũng chẳng sánh bằng.
Các cây tiêu huyền không có lá
cành giống như nó.
Trong vườn của Thiên Chúa, chẳng
thứ cây nào
sánh được với vẻ đẹp của nó.
9 Ta đã làm cho nó nên xinh đẹp,
cành lá um tùm,
đến nỗi mọi thứ cây ở Ê-đen, tức
là trong vườn của Thiên Chúa
đều phải ghen tị với nó.
10 Vì thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này:
Nó tự cao tự đại vì có thân to
lớn, ngọn vươn lên trên các tầng mây, nó cậy mình cao rồi sinh lòng kiêu ngạo, 11
nên Ta sẽ trao nó vào tay kẻ thống lãnh các dân, để xử với nó theo sự
gian ác của nó. Ta sẽ loại trừ nó. 12 Những kẻ ngoại bang, những kẻ
hung dữ nhất trong các dân tộc, sẽ đốn ngã và bỏ mặc nó. Cành của nó ngổn ngang
khắp núi đồi và thung lũng; lá nó bị giập nát phủ đầy mọi khe rãnh trong xứ;
mọi dân trong xứ đi khỏi bóng mát của nó và bỏ mặc nó. 13 Trên đống
đổ nát của nó, mọi thứ chim trời đến ở; nơi lá cành của nó, mọi dã thú đến
nương mình.
14 Như thế, mọi thứ cây mọc bên dòng
nước không còn tự cao vì có thân to lớn, không còn vươn ngọn lên trên các tầng
mây; mọi thứ cây được tưới đẫm nước không còn tự cao vì thân hình cao lớn, bởi
vì tất cả đều bị phó mặc cho sự chết, cho miền đất thẳm sâu, giữa con cái loài
người, bên cạnh những người đã sa xuống hố sâu.
15 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này: Vào ngày nó xuống âm phủ, Ta đã bắt mọi loài phải để tang; vì nó, Ta đã
che kín vực thẳm, đã khiến cho các con sông ngừng chảy và các dòng nước lũ
ngưng lại. Vì nó, Ta đã làm cho Li-băng ra ảm đạm và mọi cây cối trong cánh
đồng phải tàn úa. 16 Ta đã làm cho các dân tộc rúng động, khi nghe
tin nó bị sụp đổ, vì Ta đã xô nó xuống âm phủ, bên cạnh những người đã sa xuống
hố. Bấy giờ, trong miền đất thẳm sâu, mọi cây cối ở Ê-đen, những cây đẹp nhất,
tốt nhất của Li-băng, mọi thứ cây được tưới đẫm nước, tất cả đều lấy làm vui
thích. 17 Cả chúng cũng đi xuống âm phủ cùng với nó, đến với những
kẻ bị gươm đâm, cũng như những người trước kia đã trợ giúp và núp bóng nó giữa
các dân tộc.
18 Cây nào trong số các cây ở Ê-đen
vinh hiển và vĩ đại sánh được như ngươi? Thế mà ngươi đã bị đưa xuống miền đất
thẳm sâu, cùng với các cây cối Ê-đen! Giữa những kẻ không được cắt bì, ngươi
phải nằm phơi thây giữa những kẻ bị gươm đâm. Ðó là số phận dành cho Pha-ra-ô
và tất cả đoàn dân của nó, sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
Chương 32
Con cá sấu
1 Ngày mồng một tháng mười hai, năm
thứ mười hai, có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng: 2 Hỡi con người,
hãy cất lên khúc ai ca khóc thương Pha-ra-ô, vua Ai-cập; ngươi hãy nói:
Hỡi sư tử của các dân, ngươi bị
diệt rồi!
Ngươi có khác gì con cá sấu trên
biển cả,
ngươi làm vọt lên những dòng sông
và dùng chân quậy nước,
làm cho các dòng sông đục ngầu.
3 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như
sau:
Ta bủa lưới bắt ngươi, đang khi
nhiều dân nước họp đại hội;
chúng sẽ khiến ngươi rơi vào bẫy
của Ta.
4 Ta sẽ bỏ mặc ngươi trên đất,
sẽ quăng ngươi lên mặt cánh đồng
cho mọi thứ chim trời đến ở,
và mọi dã thú sẽ nhờ ngươi mà
được no lòng.
5 Ta sẽ để thịt ngươi ở trên núi,
và thây rữa nát của ngươi, Ta sẽ
lấp đầy thung lũng.
6 Máu của ngươi chảy ra trên núi
đồi Ta đem tưới trên mặt đất.
Và xác chết của ngươi, Ta sẽ chất
đầy khe suối.
7 Khi ngươi lịm tắt, Ta sẽ che phủ
bầu trời
và làm cho các vì sao ra tăm tối.
Ta sẽ kéo mây che phủ mặt trời,
mặt trăng sẽ không còn chiếu sáng.
8 Vì ngươi, mọi tinh tú trên trời,
Ta sẽ làm cho ra tăm tối,
và cho bóng tối lan tràn trên
khắp xứ sở ngươi,
- sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa
Thượng.
9 Ta sẽ khiến cho lòng nhiều dân
phải buồn sầu, khi Ta để cho ngươi phải tan nát giữa chư dân, tại các miền đất
ngươi không biết.
10 Ta sẽ làm cho nhiều dân phải sững
sờ trước tình cảnh của ngươi; vua chúa của chúng phải rụng rời kinh hãi về
chuyện của ngươi, khi Ta vung gươm trước mặt chúng. Chúng run khiếp liên hồi,
ai nấy đều lo sợ cho mạng sống mình vào ngày ngươi sụp đổ. 11 Vì Ðức
Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Gươm của vua Ba-by-lon sắp ập xuống ngươi. 12
Ta sẽ quật ngã đoàn dân đông đảo của ngươi nhờ gươm của các dũng sĩ là
những kẻ hung dữ nhất trong các dân tộc. Chúng sẽ triệt hạ thói kiêu căng của
Ai-cập và toàn dân của nó sẽ bị tiêu diệt. 13 Ta sẽ diệt trừ tất cả
súc vật của nó, đưa đi khỏi các nguồn nước dồi dào. Chân người không còn khuấy
nước nữa và móng súc vật cũng vậy. 14 Bấy giờ, Ta sẽ làm cho các
dòng nước của chúng khô cạn và khiến các dòng sông của chúng chảy như dầu, sấm
ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
15 Khi Ta biến đất Ai-cập nên hoang
tàn và làm cho xứ sở ra trống rỗng, không còn gì nữa, khi Ta đánh mọi dân cư ở
đó, bấy giờ chúng sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
16 Ðó là khúc ai ca người ta sẽ cất
lên; con gái các dân tộc sẽ cất lên, chúng sẽ cất lên bài ca đó khóc thương
Ai-cập và toàn dân của nó, sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
Vua Pha-ra-ô xuống âm phủ
17 Ngày mười lăm tháng thứ nhất năm
thứ mười hai, có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng: 18 Hỡi con người,
hãy than khóc cho số phận của toàn dân Ai-cập và hãy xô nó cùng với con gái các
dân tộc xuống vực thẳm. Dù có oai hùng, chúng cũng bị đẩy vào miền đất thẳm sâu
cùng với những kẻ đã sa xuống hố.
19 Phải chăng ngươi đẹp đẽ hơn ai?
Hãy xuống mà nằm chung với những kẻ không cắt bì, 20 giữa những kẻ
đã gục ngã vì gươm. Gươm được trao rồi, hãy lôi Ai-cập đi cùng với toàn dân của
nó. 21 Giữa nơi âm phủ, các thủ lãnh của các dũng sĩ và các thuộc hạ
sẽ bảo nó: "Những kẻ không cắt bì, những kẻ bị gươm đâm đã xuống đây rồi,
chúng đang nằm ở đó!"
22 Ðó là Át-sua cùng với đoàn người
của nó tụ tập chung quanh mồ nó; tất cả đều gục ngã vì gươm. 23 Người
ta đã đặt mồ của nó ở đáy vực sâu và đoàn người của nó ở chung quanh mồ, tất cả
đều gục ngã vì gươm, chúng là những kẻ đã gieo kinh hoàng trên cõi nhân sinh.
24 Ðó là Ê-lam cùng với đoàn người
của nó tụ tập chung quanh mồ nó; tất cả đều gục ngã vì gươm; chúng là những kẻ
không cắt bì, những kẻ đã gieo kinh hoàng trên cõi nhân sinh, đã đi xuống miền
đất thẳm sâu. Chúng mang lấy ô nhục cùng với những người đã sa xuống hố. 25
Người ta đã kê giường cho nó ngủ giữa các tử thi, giữa tất cả đoàn người
của nó tụ tập chung quanh mồ nó. Tất cả bọn chúng đều là những kẻ không cắt bì,
những kẻ bị gươm đâm vì đã gieo kinh hoàng trên cõi nhân sinh. Chúng mang lấy ô
nhục cùng với những người đã sa xuống hố. Người ta đã đặt chúng nằm giữa các tử
thi đó.
26 Ðó là Me-séc, Tu-van cùng với
toàn dân của nó tụ tập chung quanh mồ nó; tất cả đều là những kẻ không cắt bì,
những kẻ bị gươm đâm vì đã gieo kinh hoàng trên cõi nhân sinh. 27 Chúng
không được nằm chung với những dũng sĩ xưa kia đã ngã xuống, những người đi
xuống âm phủ mang theo binh khí: gươm gối đầu, thuẫn để trên xương cốt, vì nỗi
kinh hoàng các dũng sĩ đó đã gây ra trên cõi nhân sinh. 28 Phần
ngươi, ngươi sẽ bị đập tan giữa những kẻ không cắt bì, và sẽ phải nằm chung với
những kẻ bị gươm đâm.
29 Ðó là Ê-đôm, vua chúa và tất cả
các ông hoàng của nó, tuy dũng cảm nhưng vẫn bị đặt vào số những kẻ bị gươm đâm.
Chúng sẽ nằm chung với những kẻ không cắt bì và với những kẻ đã sa xuống hố.
30 Ðó là tất cả các tướng lãnh
phương Bắc và mọi người Xi-đôn đã đi xuống cùng với đám thương vong. Dù đã làm
cho thiên hạ phải kinh khiếp vì sức mạnh của mình, chúng vẫn phải xấu hổ, vẫn
là những kẻ không cắt bì và phải nằm chung với những kẻ bị gươm đâm. Chúng mang
lấy ô nhục cùng với những kẻ đã sa xuống hố.
31 Pha-ra-ô sẽ nhìn thấy chúng và
lấy làm an ủi vì tất cả đoàn người đông đảo đã bị đâm chết do Pha-ra-ô và toàn
thể quân đội của nó, - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. 32 Thật
vậy, Ta đã để Pha-ra-ô gieo kinh hoàng trên cõi nhân sinh, nhưng nó sẽ phải nằm
giữa những kẻ không cắt bì, giữa những kẻ bị gươm đâm, - Pha-ra-ô và toàn thể
đoàn người của nó -, sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
Chương 33
III. Giê-Ru-Sa-Lem Bị Bao Vây
Ngôn sứ, người canh gác (Exe
3:16-21)
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, ngươi hãy nói với con cái dân ngươi; ngươi hãy bảo:
Khi Ta cho gươm đến trừng phạt xứ nào, thì dân xứ ấy sẽ chọn một người trong số
họ và đặt làm kẻ canh gác cho mình. 3 Hễ thấy gươm đến trừng phạt xứ
mình, thì người ấy thổi kèn và báo cho dân biết. 4 Nếu ai nghe tiếng
kèn báo mà không kể chi và để gươm đến làm cho mình phải chết, thì máu nó sẽ đổ
trên chính đầu nó. 5 Nó đã nghe thấy tiếng kèn mà không kể chi, máu
nó sẽ đổ xuống trên mình nó. Còn người lo cảnh giác nó sẽ cứu được mạng sống
mình.
6 Nhưng nếu người canh gác thấy
gươm đến mà không thổi kèn, khiến dân không được báo, và gươm đến làm cho người
nào phải thiệt mạng, thì kẻ ấy chết vì tội của mình, nhưng máu người ấy, Ta sẽ
đòi người canh phải trả.
7 Phần ngươi, hỡi con người, Ta đã
đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Ít-ra-en. Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta
phán ra, rồi thay Ta báo cho chúng biết. 8 Nếu Ta phán với kẻ gian
ác rằng: "Hỡi tên gian ác, chắc chắn ngươi phải chết", mà ngươi không
chịu nói để cảnh cáo nó từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải
chết vì tội của nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó. 9 Ngược
lại, nếu ngươi đã báo cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại,
nhưng nó không trở lại, thì nó sẽ phải chết vì tội của nó; còn ngươi, ngươi sẽ
cứu được mạng sống mình.
Sa đoạ và hối cải
10 Phần ngươi, hỡi con người, hãy
nói với nhà Ít-ra-en: Các ngươi nói rằng: "Các tội phản nghịch và tội lỗi
chúng tôi đã phạm đè nặng trên chúng tôi; chính vì vậy mà chúng tôi phải chết.
Chúng tôi còn sống làm sao được?” 11 Ngươi hãy nói với chúng:
"Ta lấy mạng sống Ta mà thề - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng - Ta
chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để
được sống. Hãy trở lại, hãy từ bỏ đường lối xấu xa của các ngươi mà trở lại.
Sao các ngươi lại muốn chết, hỡi nhà Ít-ra-en?"
12 Phần ngươi, hỡi con người, hãy
nói với con cái dân ngươi: Sự công chính của người công chính sẽ không cứu được
nó vào ngày nó phản nghịch; và sự gian ác của người gian ác sẽ không làm cho nó
nghiêng ngửa vào ngày nó từ bỏ sự gian ác mà trở lại. Người công chính không
thể sống nhờ sự công chính của mình vào ngày nó phạm tội. 13 Giả như
Ta nói với người công chính rằng chắc chắn nó sẽ sống, nhưng nếu nó lại ỷ vào
sự công chính của mình mà làm điều bất công, thì chẳng việc công chính nào của
nó còn được nhớ đến nữa; nhưng chính vì mọi điều bất công nó đã làm nên nó sẽ
phải chết. 14 Hoặc giả Ta nói với kẻ gian ác: "Chắc chắn ngươi
phải chết", nhưng nếu nó từ bỏ tội lỗi mà trở lại và thực hành điều công
minh chính trực, 15 nếu nó trả lại của cầm, đền của lấy cắp, sống
theo những lề luật đưa tới sự sống và không làm điều bất công thì chắc chắn nó
sẽ được sống và không phải chết. 16 Mọi tội lỗi nó đã phạm, người ta
sẽ không còn nhớ đến nữa: nó đã thi hành lẽ công minh, nó sẽ được sống.
17 Con cái dân ngươi nói:
"Ðường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng!" Chính đường lối các
ngươi mới không ngay thẳng! 18 Khi người công chính từ bỏ đường công chính mà
làm điều bất chính, nó sẽ phải chết. 19 Còn khi kẻ gian ác từ bỏ sự
gian ác mà thi hành điều công minh chính trực, nó sẽ được sống. 20 Thế
mà các ngươi lại bảo: "Ðường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng!"
Hỡi nhà Ít-ra-en, Ta sẽ xét xử các ngươi, ai nấy theo đường lối của mình.
Giê-ru-sa-lem thất thủ
21 Ngày mồng năm tháng mười, năm thứ
mười hai kể từ khi chúng tôi bị lưu đày, có một người thoát khỏi Giê-ru-sa-lem
đến báo cho tôi: "Thành mất rồi!” 22 Vào buổi chiều trước hôm
người ấy đến, tay Ðức Chúa đặt trên tôi. Và lúc người ấy đến vào buổi sáng,
Người đã mở miệng cho tôi; miệng tôi đã mở ra, tôi không còn câm nữa.
Xứ sở bị tàn phá
23 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
24 Hỡi con người, những kẻ đang cư ngụ ở chốn hoang tàn ấy, trên đất
Ít-ra-en, dám nói rằng: "Tổ phụ Áp-ra-ham chỉ có một mình mà cũng được sở
hữu đất này; còn chúng ta đông như thế chắc phải được đất này làm sở hữu."
25 Vì thế, ngươi hãy bảo chúng: Ðức
Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Các ngươi ăn cả phần máu, ngước mắt nhìn các
ngẫu tượng, phạm tội đổ máu, thế mà lại đòi quyền sở hữu đất này!
26 Các ngươi cậy vào gươm đao, làm
điều ghê tởm, ai nấy làm cho vợ người đồng loại ra ô uế, thế mà lại đòi quyền sở
hữu đất này! 27 Ngươi hãy bảo chúng như sau: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán rằng:
Ta lấy mạng sống Ta mà thề, những người đang ở chốn hoang tàn ấy sẽ ngã gục vì
gươm; những người đang ở ngoài đồng, Ta sẽ đem làm mồi cho thú dữ; những người
đang ở trong các hốc đá và hang động sẽ phải chết vì ôn dịch. 28 Ta
sẽ biến đất ấy thành chốn hoang tàn đổ nát, sức kiêu hùng của nó sẽ tàn lụi.
Núi non Ít-ra-en sẽ ra hoang tàn, không một bóng người qua lại. 29 Người
ta sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa, khi Ta biến đất ấy thành chốn hoang tàn
đổ nát vì mọi điều ghê tởm chúng đã làm.
Hiệu quả của lời giảng
30 Phần ngươi, hỡi con người, con
cái dân ngươi bàn tán về ngươi dọc theo các bức tường và trước các cửa nhà.
Chúng bảo nhau, người nọ nói với người kia: "Nào chúng ta đến nghe xem Ðức
Chúa phán thế nào!” 31 Chúng đến với ngươi đông như trẩy hội. Dân Ta
ngồi trước mặt ngươi; chúng nghe các lời ngươi nói nhưng lại không đem ra thực
hành, bởi vì miệng chúng phỉnh phờ, lòng chúng hám lợi. 32 Ðối với
chúng, ngươi như là một bài ca êm ái với giọng hát ngọt ngào và nhạc đệm du
dương. Chúng nghe các lời ngươi nói, nhưng không ai trong bọn chúng đem ra thực
hành. 33 Khi nào điều ấy xảy ra - và này nó đang xảy ra -, chúng sẽ
nhận biết là có một ngôn sứ ở giữa chúng.
Chương 34
Các mục tử Ít-ra-en
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, hãy tuyên sấm hạch tội các mục tử chăn dắt
Ít-ra-en, hãy tuyên sấm. Hãy nói với chúng, với các mục tử đó: Ðức Chúa là Chúa
Thượng phán thế này: Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho
mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao? 3 Sữa các ngươi uống, len
các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo
chăn dắt. 4 Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh
tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó;
chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi
tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. 5 Chiên
của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, chúng tán
loạn. 6 Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi.
Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm
tìm.
7 Vì thế, hỡi các mục tử, hãy nghe
lời Ðức Chúa. 8 Ta lấy mạng sống Ta mà thề - sấm ngôn của Ðức Chúa
là Chúa Thượng -, bởi chiên của Ta bị cướp phá và biến thành mồi cho mọi dã thú
vì thiếu mục tử, bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn
chiên của Ta, 9 nên hỡi các mục tử, hãy nghe lời Ðức Chúa: 10 Ðức
Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Ðây Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại
chiên của Ta; Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên, và các mục tử sẽ không còn
lo cho mình. Ta sẽ giải thoát các chiên của Ta khỏi miệng chúng, để chiên của
Ta không còn làm mồi cho chúng nữa.
11 Quả thật, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này: Ðây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. 12
Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản
mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra
khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt. 13 Ta sẽ
đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ các nước và đưa chúng vào đất
của chúng. Ta sẽ chăn dắt chúng trên các núi Ít-ra-en, trong các thung lũng và
tại mọi nơi trong xứ có thể ở được. 14 Ta sẽ chăn dắt chúng trong
đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó
chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi
non Ít-ra-en. 15 Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho
chúng nằm nghỉ - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. 16 Con nào bị
mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng
bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh,
Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.
17 Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta,
Ðức Chúa là Chúa Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu
với dê. 18 Ðược chăn trong đồng cỏ tốt tươi đối với các ngươi phải
chăng còn quá ít, mà các ngươi lại lấy chân giày đạp phần đồng cỏ còn lại của
các ngươi, được uống nước trong mà các ngươi lại lấy chân quậy đục phần còn
lại? 19 Vì thế, đàn chiên của Ta phải gặm phần cỏ chân các ngươi đã giày đạp,
phải uống phần nước chân các ngươi đã quậy đục. 20 Bởi vậy, Ðức Chúa
là Chúa Thượng phán với chúng như sau: Này Ta sẽ xét xử giữa chiên béo với
chiên gầy. 21 Vì các ngươi thúc vào sườn, vào vai và lấy sừng mà húc
vào mọi con chiên đau yếu đến độ các ngươi làm cho chúng phải tản mác ra ngoài,
22 nên Ta sẽ cứu thoát chiên của Ta để chúng không còn bị cướp phá,
Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên.
23 Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để
chăn dắt chúng; nó sẽ chăn dắt chúng, đó là Ða-vít, tôi tớ của Ta: chính nó sẽ
chăn dắt chúng; chính nó sẽ là mục tử của chúng. 24 Chính Ta, Ðức
Chúa, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và Ða-vít, tôi tớ của Ta, sẽ là ông hoàng
ở giữa chúng. Chính Ta, Ðức Chúa, Ta đã phán. 25 Ta sẽ thiết lập với
chúng một giao ước bình an, Ta sẽ đuổi thú dữ ra khỏi xứ. Chúng sẽ cư ngụ trong
sa mạc an toàn, sẽ nằm ngủ trong rừng. 26 Ta sẽ đặt chúng ở các vùng
chung quanh ngọn đồi của Ta; Ta sẽ cho mưa xuống đúng mùa, đó là những trận mưa
phúc lành. 27 Cây cối trên đồng sẽ trổ sinh hoa trái, đất đai sản
sinh hoa lợi. Chúng sẽ sống an toàn trên đất của chúng. Bấy giờ, chúng sẽ nhận
biết chính Ta là Ðức Chúa khi Ta bẻ gãy ách sắt đè lên chúng và khi Ta cứu
thoát chúng khỏi tay những kẻ hà hiếp chúng. 28 Chúng không còn bị
chư dân cướp phá cũng không còn bị thú vật trong xứ cắn xé. Chúng sẽ được an cư
lạc nghiệp, không bị ai quấy phá. 29 Ta sẽ thiết lập cho chúng một
khu vườn danh tiếng; chúng sẽ không còn phải chết vì nạn đói kém trong xứ, cũng
không còn bị chư dân lăng nhục.
30 Bấy giờ, chúng sẽ nhận biết chính
Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng. Ta ở với chúng, còn chúng, nhà Ít-ra-en,
chúng là dân của Ta, - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. 31 Phần
các ngươi, hỡi các chiên của Ta, các ngươi là đàn chiên trong đồng cỏ của Ta.
Các ngươi là phàm nhân, còn Ta là Thiên Chúa các ngươi, - sấm ngôn của Ðức Chúa
là Chúa Thượng.
Chương 35
Hạch tội các núi Ê-đôm
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, hãy quay mặt về phía núi Xê-ia và hãy tuyên sấm
hạch tội nó. 3 Ngươi hãy bảo nó: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như
sau: Này Ta trừng phạt ngươi, hỡi núi Xê-ia. Ta dang tay ra để trừng phạt
ngươi. Ta sẽ biến ngươi thành chốn hoang tàn đổ nát; 4 Ta sẽ làm cho
các thành thị của ngươi ra điêu linh. Ngươi sẽ ra hoang tàn và ngươi sẽ nhận
biết chính Ta là Ðức Chúa. 5 Vì ngươi mang mối thù truyền kiếp và
trao con cái Ít-ra-en cho gươm đao tàn sát, vào ngày chúng lâm nạn, vào lúc tội
ác tới mức cuối cùng. 6 Vì thế, Ta lấy mạng sống Ta mà thề - sấm
ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng - Ta sẽ làm cho ngươi vấy máu và máu sẽ đuổi
theo ngươi. Ta lấy mạng sống Ta mà thề, ngươi đã không ngần ngại đổ máu thì máu
sẽ theo đuổi ngươi. 7 Ta sẽ biến núi Xê-ia thành chốn hoang tàn đổ
nát, Ta sẽ khiến cho nơi đó không còn ai qua lại nữa.8 Ta sẽ cho núi non của nó
đầy những xác chết; trên nương đồi, thung lũng, khe suối của nó sẽ có những
người ngã gục vì bị gươm đâm. 9 Ta sẽ biến ngươi thành chốn điêu tàn
vạn cổ, các thành thị của ngươi không người cư ngụ. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận
biết chính Ta là Ðức Chúa.
10 Vì ngươi đã nói: "Hai dân
tộc đó, hai miền đất đó thuộc về ta, chúng ta hãy chiếm làm sở hữu", đang
khi Ðức Chúa vẫn ngự ở đó, 11 nên Ta lấy mạng sống Ta mà thề - sấm
ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng - Ta sẽ xử sự theo cơn giận và lòng ghen ghét
của ngươi như ngươi đã xử sự khi ngươi ghét chúng. Qua chúng, Ta sẽ cho ngươi
biết Ta là ai, khi Ta xét xử ngươi. 12 Bấy giờ, ngươi sẽ nhận biết
chính Ta là Ðức Chúa; Ta đã nghe thấy hết mọi lời thoá mạ ngươi đã thốt ra để
hạch tội núi non Ít-ra-en, khi nói rằng: "Núi non đó đã ra hoang tàn,
chúng bị trao cho ta cắn xé!” 13 Các ngươi ăn nói thật xấc láo đối
với Ta. Các ngươi đã nói nhiều lời hỗn xược chống lại Ta. Ta đã nghe thấy cả!
14 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Toàn cõi đất này hân hoan vì Ta làm
cho ngươi ra hoang tàn. 15 Cũng như ngươi đã hân hoan khi thấy phần
sản nghiệp nhà Ít-ra-en ra hoang tàn thế nào, thì Ta cũng sẽ xử với ngươi như
vậy. Hỡi núi Xê-ia, ngươi sẽ ra hoang tàn, và toàn thể Ê-đôm cũng vậy. Bấy giờ,
thiên hạ sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
Chương 36
Các lời sấm về núi non Ít-ra-en
1 Phần ngươi, hỡi con người, hãy
tuyên sấm về núi non Ít-ra-en; hãy nói: Hỡi núi non Ít-ra-en, này nghe lời Ðức
Chúa. 2 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Bởi vì kẻ thù đã nói
chống lại các ngươi: "A ha! Những chốn cao vời thuở xưa, nay đã nên phần
sở hữu của chúng ta", 3 ngươi hãy tuyên sấm; hãy nói: Ðức Chúa
là Chúa Thượng phán thế này: Vì người ta đã làm cho ngươi ra hoang tàn và tấn
công các ngươi từ tứ phía, đến nỗi các ngươi đã thành sở hữu của các nước, và
nên đề tài cho các dân bàn tán và chế nhạo. 4 Này hỡi núi non Ít-ra-en,
hãy nghe lời Ðức Chúa là Chúa Thượng. Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này với
núi non, nương đồi và khe suối, với các nơi đổ nát và các thành thị hoang phế
bị cướp phá và nên trò cười cho các nước chung quanh. 5 Này, Ðức
Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Ta thề như thế trong cơn thịnh nộ của Ta, Ta
sẽ hỏi tội các nước chung quanh và toàn thể Ê-đôm vì chúng đã chiếm đất của Ta
làm phần sở hữu của mình. Chúng hân hoan, lòng đầy khinh bỉ vì các đồng cỏ
trong xứ thành nơi cho chúng cướp phá.
6 Vì thế, ngươi hãy tuyên sấm về
đất Ít-ra-en; hãy nói với núi non, nương đồi, thung lũng và khe suối: Ðức Chúa
là Chúa Thượng phán như sau: Này Ta phán trong lúc nổi cơn lôi đình thịnh nộ:
Vì các ngươi đã phải chuốc lấy lời thoá mạ của chư dân, 7 nên Ðức
Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Ta đưa tay Ta lên - Ta lấy mạng sống Ta mà
thề - chư dân ở chung quanh các ngươi, chính chúng phải chuốc lấy các lời thoá
mạ cho mình.
8 Này các ngươi, hỡi núi non
Ít-ra-en, các ngươi sẽ trổ cành, đơm trái cho dân Ta là Ít-ra-en, bởi vì nó sắp
trở lại. 9 Này Ta đến với các ngươi, Ta quay mặt lại với các ngươi;
các ngươi sẽ được trồng cấy và gieo hạt. 10 Ta sẽ tăng số dân cho
các ngươi, hỡi toàn thể Ít-ra-en. Các thành thị sẽ có người cư ngụ và các nơi
điêu tàn sẽ được tái thiết. 11 Ta sẽ tăng số người và súc vật cho
các ngươi. Chúng sẽ nên đông đúc và sinh sôi nẩy nở. Ta sẽ cho các ngươi được
cư ngụ như ngày trước, sẽ ban cho các ngươi nhiều ân huệ hơn thuở xưa. Bấy giờ
các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa. 12 Ta sẽ cho có người, tức
là Ít-ra-en dân Ta, đạp chân trên đất của ngươi; ngươi sẽ là sở hữu, sẽ nên
phần sản nghiệp của nó và sẽ không còn để nó phải thiếu con cái.
13 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này: Vì người ta đã nói về ngươi: "Ngươi là kẻ nuốt trửng người và làm dân
tộc ngươi thiếu con cái", 14 này, ngươi sẽ không còn nuốt trửng
người, không còn làm cho dân tộc ngươi lảo đảo nữa, - sấm ngôn của Ðức Chúa là
Chúa Thượng. 15 Ta sẽ không còn để cho ngươi phải nghe lời thoá mạ
của các dân, phải hứng lấy những lời sỉ nhục của các nước; ngươi sẽ không còn
làm cho dân tộc ngươi lảo đảo nữa, - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
16 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
17 Hỡi con người, con cái nhà Ít-ra-en đang cư ngụ trên đất của
chúng, đã làm cho đất ấy ra ô uế vì lối sống và các hành vi của chúng; lối sống
của chúng trước mặt Ta cũng ô uế như người đàn bà trong thời kinh nguyệt. 18
Ta đã trút xuống trên chúng cơn thịnh nộ của Ta vì máu chúng đã đổ ra
trên đất ấy và làm cho đất ấy ra ô uế vì các việc ô uế của chúng. 19 Ta
đã tung chúng đi các dân và gieo chúng vào các nước. Ta đã căn cứ vào lối sống
và các hành vi của chúng mà xét xử. 20 Chúng đã làm cho danh Ta bị
xúc phạm giữa các dân mà chúng đi đến, khiến người ta nói về chúng rằng:
"Ðó là dân của Ðức Chúa, chúng đã phải ra khỏi xứ của Người.” 21 Nhưng
Ta ái ngại cho thánh danh Ta đã bị nhà Ít-ra-en xúc phạm giữa các dân mà chúng
đi đến. 22 Vì thế, ngươi hãy nói với nhà Ít-ra-en: Ðức Chúa là Chúa
Thượng phán thế này: Hỡi nhà Ít-ra-en, không phải vì các ngươi mà Ta hành động,
mà vì danh thánh của Ta đã bị các ngươi xúc phạm giữa các dân các ngươi đã đi
đến. 23 Ta sẽ biểu dương danh thánh thiện vĩ đại của Ta đã bị xúc
phạm giữa chư dân, danh mà các ngươi đã xúc phạm ở giữa chúng. Bấy giờ chư dân
sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng - khi
Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta nơi các ngươi ngay trước mắt chúng. 24
Bấy giờ, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi các dân tộc, sẽ quy tụ các ngươi lại
từ khắp các nước, và sẽ dẫn các ngươi về đất của các ngươi. 25 Rồi
Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các
ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. 26 Ta sẽ ban tặng các
ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả
tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng các ngươi một quả tim bằng
thịt. 27 Chính thần trí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ
làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra
thi hành. 28 Các ngươi sẽ cư ngụ trong đất Ta đã ban cho tổ tiên các
ngươi. Các ngươi sẽ là dân của Ta. Còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi. 29
Ta sẽ cứu các ngươi khỏi mọi ô uế. Ta sẽ gọi lúa mì tới và cho nó tăng
thêm nhiều. Ta sẽ không để các ngươi phải chịu cảnh đói kém. 30 Ta
sẽ cho trái cây và hoa màu đồng ruộng tăng thêm nhiều, để các ngươi không còn
bị ô nhục trước mặt chư dân về nạn đói kém nữa. 31 Bấy giờ, các
ngươi sẽ nhớ lại lối sống xấu xa và hành vi bất hảo của các ngươi. Các ngươi sẽ
kinh tởm chính bản thân mình, vì các tội lỗi và những điều ghê tởm của các
ngươi. 32 Không phải vì các ngươi mà Ta hành động - sấm ngôn của Ðức
Chúa là Chúa Thượng - hãy biết rõ như thế. Các ngươi phải lấy làm thẹn thùng
xấu hổ về lối sống của các ngươi, hỡi nhà Ít-ra-en.
33 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này: Vào ngày Ta thanh tẩy các ngươi sạch mọi tội lỗi, Ta sẽ cho các thành thị
có người cư ngụ và các chốn điêu tàn sẽ được tái thiết. 34 Xứ sở
hoang tàn sẽ được cày cấy, sau khi đã là chốn hoang tàn trước mắt mọi người qua
lại. 35 Người ta sẽ nói: "Ðất này mới đây bị tan hoang, nay đã
nên như thửa vườn Ê-đen; các thành thị đổ nát, hoang tàn, bị phá huỷ, nay trở
nên những pháo đài có người cư ngụ.” 36 Bấy giờ chư dân còn sống sót
ở chung quanh các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa, Ðấng tái thiết những
gì đã bị tàn phá và dựng lại những gì đã bị phá đổ. Chính Ta, Ðức Chúa, Ta đã
phán là Ta làm.
37 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như
sau: Ta sẽ cho nhà Ít-ra-en ơn này nữa là được tìm kiếm Ta; Ta sẽ cho chúng
thành một đoàn người đông đảo. 38 Như bầy chiên người ta đưa vào
thánh điện, như bầy chiên ở Giê-ru-sa-lem vào các dịp lễ, các thành thị đổ nát
cũng sẽ đầy ắp những đoàn người như vậy. Bấy giờ người ta sẽ nhận biết chính Ta
là Ðức Chúa.
Chương 37
Những bộ xương khô
1 Tay Ðức Chúa đặt trên tôi. Ðức
Chúa dùng thần khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng ấy đầy xương
cốt. 2 Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm
la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. 3 Người bảo tôi:
"Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?" Tôi thưa:
"Lạy Ðức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó.” 4 Bấy
giờ, Người bảo tôi: "Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo
chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Ðức Chúa. 5 Ðức Chúa là
Chúa Thượng phán thế này với các xương ấy: Ðây Ta sắp cho thần khí nhập vào các
ngươi và các ngươi sẽ được sống. 6 Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ
khiến thịt mọc trên các ngươi, sẽ trải da bọc lấy các ngươi. Ta sẽ đặt thần khí
vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết
chính Ta là Ðức Chúa.” 7 Tôi đã tuyên sấm như tôi được lệnh. Vậy có
tiếng động khi tôi đang tuyên sấm; có sự rung chuyển và các xương xích lại gần,
ăn khớp với nhau. 8 Tôi nhìn thì thấy trên chúng đã có gân; thịt đã
mọc lên và da đã trải ra ở bên trên, nhưng thần khí chưa có ở nơi chúng. 9
Người lại bảo tôi: "Ngươi hãy tuyên sấm gọi thần khí; tuyên sấm đi,
hỡi con người! Ngươi hãy nói với thần khí: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này: Từ bốn phương trời, hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này
cho chúng được hồi sinh.” 10 Tôi tuyên sấm như Người đã truyền cho
tôi. Thần khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng
thẳng lên: Ðó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể.
11 Bấy giờ, Người phán với tôi: Hỡi
con người, các xương đó chính là toàn thể nhà Ít-ra-en. Này chúng vẫn nói:
"Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi
đã rồi đời!” 12 Chính vì thế, ngươi hãy tuyên sấm, hãy nói với
chúng: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Hỡi dân Ta, này chính Ta mở huyệt
cho các ngươi, Ta sẽ đưa các ngươi lên khỏi huyệt và đem các ngươi về đất
Ít-ra-en. 13 Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa, khi Ta mở
huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta. 14 Ta
sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ
cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi. Bấy giờ, các ngươi sẽ nhận biết
chính Ta là Ðức Chúa, Ta đã phán là Ta làm. Ðó là sấm ngôn của Ðức Chúa.
Giu-đa và Ít-ra-en thành một
vương quốc thống nhất
15 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
16 "Phần ngươi, hỡi con người, hãy lấy một miếng gỗ và viết lên
đó: "Giu-đa và con cái Ít-ra-en liên minh với nó. Rồi ngươi lại lấy một
miếng gỗ khác và viết lên đó: "Giu-se - cây gỗ của Ép-ra-im - và toàn thể
nhà Ít-ra-en liên minh với nó. 17 Ðoạn ngươi ráp hai miếng lại với
nhau cho thành một miếng duy nhất; chúng chỉ còn là một trong tay ngươi. 18
Khi con cái của dân ngươi hỏi ngươi rằng: "Ông không cho chúng tôi
biết ông muốn ám chỉ cái gì sao?, 19 ngươi hãy bảo chúng: Ðức Chúa
là Chúa Thượng phán như sau: Này chính Ta sẽ lấy miếng gỗ của Giu-se - đang ở
trong tay Ép-ra-im - và các chi tộc Ít-ra-en liên minh với nó, sẽ đặt dựa vào
miếng gỗ của Giu-đa; Ta sẽ làm cho chúng thành một miếng gỗ duy nhất và chúng
sẽ chỉ là một trong tay Ta.
20 Ngươi hãy cầm lên cho chúng thấy
những miếng gỗ mà ngươi đã viết lên đó 21 và bảo chúng: Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán như sau: Này chính Ta sẽ lấy con cái Ít-ra-en từ giữa các dân tộc chúng đã
đi tới. Ta sẽ quy tụ chúng lại từ bốn phương và đưa chúng về đất của chúng. 22
Ta sẽ làm cho chúng thành một dân tộc duy nhất trong xứ, trên các núi
Ít-ra-en; tất cả chúng chỉ có một vua duy nhất; chúng sẽ không còn là hai dân
tộc, không còn chia thành hai vương quốc. 23 Chúng sẽ không còn ra ô
uế vì những ngẫu tượng, những đồ gớm ghiếc và mọi tội ác của chúng nữa. Ta sẽ
cứu chúng thoát khỏi mọi nơi chúng đã ở và đã phạm tội; Ta sẽ thanh tẩy chúng.
Chúng sẽ là dân của Ta; còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng. 24 Ða-vít,
tôi tớ Ta, sẽ làm vua cai trị chúng; sẽ chỉ có một mục tử duy nhất cho chúng
hết thảy. Chúng sẽ sống theo các phán quyết của Ta, sẽ tuân giữ các thánh chỉ
của Ta và đem ra thực hành. 25 Chúng sẽ định cư trên đất Ta đã ban
cho tôi tớ Ta là Gia-cóp, phần đất mà tổ tiên các ngươi đã cư ngụ. Chính chúng
và con cháu chúng sẽ định cư mãi mãi trên đó. Ða-vít, tôi tớ Ta, sẽ là ông
hoàng lãnh đạo chúng cho đến muôn đời. 26 Ta sẽ lập với chúng một
giao ước bình an; đó sẽ là giao ước vĩnh cửu đối với chúng, Ta sẽ định cư
chúng, cho chúng sinh sôi nảy nở ra nhiều và đặt thánh điện của Ta ở giữa chúng
cho đến muôn đời. 27 Nhà của Ta sẽ ở giữa chúng; Ta sẽ là Thiên Chúa
của chúng và chúng sẽ là dân của Ta. 28 Bấy giờ, các dân tộc sẽ nhận
biết chính Ta là Ðức Chúa, Ðấng thánh hoá Ít-ra-en, khi Ta đặt thánh điện của
Ta ở giữa chúng cho đến muôn đời.
Chương 38
Hạch tội Gốc, vua của Ma-gốc
1 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
2 Hỡi con người, hãy quay mặt về phía Gốc, phía đất của Ma-gốc là
thủ lãnh tối cao của Me-séc và Tu-van, và hãy tuyên sấm hạch tội nó. 3 Ngươi
hãy nói: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như sau: Này, Ta hạch tội ngươi, hỡi Gốc,
thủ lãnh tối cao của Me-séc và Tu-van. 4 Ta sẽ bắt ngươi quay trở
lại; Ta sẽ tra hàm thiếc vào hàm ngươi và sẽ cho ngươi xuất trận cùng với toàn
thể quân đội của ngươi, ngựa tải và ngựa chiến, tất cả đều được trang bị đầy đủ
thành một đoàn quân đông đảo, tất cả đều mang khiên thuẫn và sử dụng gươm thành
thạo. 5 Ba-tư, Cút và Pút cùng đi với chúng, ai nấy đều mang khiên
và đội mũ chiến. 6 Gô-me và tất cả các đoàn quân của nó, Bết
Tô-gác-ma ở mạn cực bắc và tất cả các đoàn quân của nó: một đoàn gồm nhiều dân
cùng đi với ngươi. 7 Hãy sẵn sàng, ngươi cùng với tất cả đoàn quân
của ngươi và những người được quy tụ chung quanh ngươi; hãy ở trong tư thế sẵn
sàng, hãy chuẩn bị để phục vụ chúng.
8 Sau nhiều ngày, ngươi sẽ nhận
được lệnh. Sau nhiều năm, ngươi sẽ tiến đến xứ có những dân cư đã thoát nạn sau
cảnh gươm đao và đã từ nhiều nước được quy tụ về núi đồi Ít-ra-en, nơi trước
kia vẫn là chốn điêu tàn. Từ khi được đưa ra khỏi các nước đó, hết thảy chúng
đều sống trong cảnh yên hàn.9 Ngươi sẽ tiến lên, sẽ tràn vào như vũ bão; ngươi
sẽ như đám mây che phủ đất ấy, chính ngươi và toàn thể quân lực của ngươi cùng
nhiều dân nước đi với ngươi.
10 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này: Trong ngày ấy, ngươi sẽ nảy ra những tư tưởng, trong lòng ngươi mưu đồ kế
hoạch độc ác. 11 Ngươi nói: "Ta sẽ tiến đánh một xứ không phòng
bị, sẽ xông đánh những con người hiền hoà, đang sống yên ổn: hết thảy đang cư
ngụ trong những thành không tường luỹ chở che, không cửa đóng then cài.” 12
Ngươi cướp phá, cưỡng đoạt, ngươi đưa tay đánh phá những chốn xưa điêu
tàn nay có người cư ngụ và đánh một dân đã được quy tụ về từ các nước, một dân
đã gây lại đàn vật và tậu được tài sản, đang cư ngụ ở trung tâm cõi đất. 13
Sơ-va, Ðơ-đan, những thương nhân Tác-sít và mọi sư tử con của nó sẽ nói
với ngươi: "Phải chăng ông đến để cướp phá? Phải chăng ông tập hợp đoàn
quân đông đảo của ông để cướp đoạt, để cướp đi bạc vàng, để chiếm lấy đàn vật,
tài sản và cướp phá vô số của cải?"
14 Vì thế, hãy tuyên sấm, hỡi con
người, hãy nói với Gốc: "Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Ngày đó,
lúc Ít-ra-en, dân Ta, đang sống yên ổn, nào không phải ngươi sẽ động binh hay
sao? 15 Ngươi bỏ nơi đang cư ngụ ở mạn cực bắc mà đến, chính ngươi cùng với
nhiều dân nước đi theo ngươi, hết thảy đều cỡi ngựa, một đoàn quân vĩ đại, một
lực lượng đông đảo. 16 Ngươi tiến đánh Ít-ra-en, dân Ta, tựa như đám
mây che phủ đất ấy. Ðiều ấy sẽ xảy ra vào lúc cuối thời: Ta cho ngươi xông đánh
xứ sở của Ta, để làm cho các dân tộc nhận biết Ta, khi Ta dùng ngươi, hỡi Gốc,
mà biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt chúng.
17 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này: Nào không phải chính ngươi là kẻ đã được Ta nói đến, từ những ngày xa xưa,
qua trung gian các tôi tớ của Ta là các ngôn sứ Ít-ra-en, khi họ tuyên sấm, vào
những ngày ấy, năm ấy, là Ta sẽ cho ngươi đến đánh chúng? 18 Trong ngày ấy,
ngày Gốc xâm chiếm đất Ít-ra-en - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng - cơn
lôi đình của Ta bốc lên phừng phực. 19 Trong cơn ghen, trong lúc lửa
giận cháy bừng, Ta đã phán: Ta thề, trong ngày ấy, sẽ có sự rung chuyển dữ dội
trên đất Ít-ra-en. 20 Khi đó, trước mặt Ta, cá biển, chim trời, dã
thú cùng mọi loài bò sát trên đất và hết mọi người đang sống trên mặt đất sẽ run
rẩy; núi non vỡ lở, vách núi sập xuống và mọi tường luỹ đổ nhào xuống đất. 21
Ta sẽ gọi cả rừng gươm đao đến để trừng phạt nó - sấm ngôn của Ðức Chúa
là Chúa Thượng -, mỗi người sẽ quay gươm giết bạn mình. 22 Ta sẽ
phạt nó phải chịu ôn dịch và đổ máu, Ta sẽ khiến mưa như thác đổ, mưa đá, lửa
và diêm sinh ập xuống trên nó, trên cả đoàn quân của nó và trên biết bao dân
nước đi theo nó. 23 Ta sẽ biểu dương sự vĩ đại của Ta. Ta sẽ biểu
dương sự thánh thiện của Ta. Ta sẽ tỏ mình ra trước mắt bao dân tộc và chúng sẽ
nhận biết chính Ta là Ðức Chúa.
Chương 39
1 Phần ngươi, hỡi con người, hãy
tuyên sấm hạch tội Gốc. Ngươi hãy nói: Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này:
Ðây Ta hạch tội ngươi, hỡi Gốc, thủ lãnh tối cao của Me-séc và Tu-van. 2 Ta
sẽ bắt ngươi quay trở lại, Ta sẽ dẫn dắt ngươi, Ta sẽ cho ngươi từ cực bắc tiến
lên và cho ngươi xông đánh núi non Ít-ra-en. 3 Ta sẽ bẻ gãy cây cung
ở tay trái ngươi; còn những mũi tên trên tay mặt ngươi, Ta sẽ cho rơi xuống. 4
Chính ngươi cùng với các đoàn quân của ngươi và các dân nước đi theo
ngươi sẽ phải gục ngã trên núi non Ít-ra-en. Ta sẽ biến ngươi thành mồi ngon
cho mọi giống ác điểu và dã thú: 5 Ngươi sẽ gục ngã trên mặt cánh
đồng, vì chính Ta đã phán, sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. 6 Ta
sẽ phóng hoả đốt Ma-gốc và dân cư trên các hải đảo đang sống yên hàn. Bấy giờ
chúng sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa. 7 Ta sẽ làm cho danh thánh
Ta được nhận biết giữa dân Ta và sẽ không để cho danh thánh của Ta bị xúc phạm
nữa. Bấy giờ các dân tộc sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa, Ðấng Thánh của
Ít-ra-en.
8 Này, chuyện ấy đang đến, chuyện
ấy sắp xảy ra - sấm ngôn của Ðức Chúa - đó chính là ngày Ta đã nói đến.
9 Bấy giờ, dân cư các thành thị
Ít-ra-en sẽ ùa ra đốt và quăng vào lửa các vũ khí, khiên thuẫn, cung tên, giáo
mác; họ đốt những thứ ấy suốt bảy năm trời. 10 Họ chẳng cần kiếm củi
ngoài đồng, cũng không cần chặt cây trong rừng, nhưng chỉ lấy vũ khí mà nhóm
lửa. Họ sẽ cướp phá những người cướp phá họ, họ sẽ cưỡng đoạt những kẻ cưỡng
đoạt họ. Ðó là sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
11 Trong ngày ấy, Ta sẽ cho Gốc một
nơi làm mồ chôn, ở Ít-ra-en, tại thung lũng Ô-vơ-rim, bên phía đông Biển Chết,
thung lũng khiến người qua kẻ lại phải dừng bước. Người ta sẽ chôn Gốc và toàn
thể đoàn lũ của nó tại đó, và sẽ gọi đó là thung lũng Ha-môn Gốc. 12 Nhà
Ít-ra-en sẽ chôn chúng để thanh tẩy xứ sở trong bảy tháng. 13 Toàn
dân trong xứ sẽ làm công việc mai táng và đó sẽ là một vinh dự cho Ít-ra-en vào
ngày Ta biểu lộ vinh quang của Ta, sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. 14
Người ta sẽ dành riêng những người có bổn phận thường xuyên rảo khắp xứ
để lo việc mai táng những kẻ còn nằm lại trên mặt đất, hầu thanh tẩy xứ sở: Họ
làm công việc tìm kiếm suốt bảy tháng. 15 Khi những người ấy rảo
khắp xứ và nếu có ai trong số họ thấy xương người, thì kẻ ấy sẽ dựng một cột
mốc bên cạnh, cho tới khi những người đào huyệt chôn các xương ấy đi trong
thung lũng Ha-môn Gốc - 16 Ha-mô-na cũng sẽ là tên của một thành phố - và họ đã
làm như thế để thanh tẩy xứ sở.
17 Phần ngươi, hỡi con người, Ðức
Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Ngươi hãy bảo mọi loài chim trời và mọi dã
thú: Các ngươi hãy họp nhau lại, hãy đến, từ khắp nơi hãy quy tụ lại để hưởng
hy tế của Ta, vì Ta sắp hiến các ngươi một hy tế trọng thể trên núi non
Ít-ra-en; các ngươi sẽ có thịt để ăn và có máu để uống. 18 Các ngươi
sẽ ăn thịt các dũng sĩ, sẽ uống máu các ông hoàng trong xứ: Cả bọn chúng là
chiên, cừu, dê và bò mộng béo xứ Ba-san. 19 Các ngươi sẽ ăn mỡ đến
phát ngấy và sẽ uống máu đến say sưa trong hy tế Ta sắp hiến các ngươi. 20
Nơi bàn tiệc của Ta, các ngươi sẽ được no nê ngựa chiến, ngựa tải, dũng
sĩ và mọi chiến binh. Ðó là sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
Lời kết
21 Ta sẽ biểu lộ vinh quang của Ta
giữa các dân tộc; mọi dân tộc sẽ thấy bản án Ta sắp thực hiện, và sẽ thấy tay
Ta giáng xuống chúng. 22 Từ ngày đó về sau, nhà Ít-ra-en sẽ nhận
biết chính Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng. 23 Các dân tộc cũng
sẽ nhận biết điều này: chính vì các tội chúng đã phạm đến Ta, mà nhà Ít-ra-en
đã phải đi đày; chính vì chúng không trung thành với Ta, nên Ta đã ẩn mặt đi,
đã trao chúng vào tay quân thù và tất cả đã bị ngã gục dưới lưỡi gươm. 24 Ta
đã xử với chúng tương xứng với những điều ô uế, những tội ác của chúng và Ta đã
ẩn mặt đi. 25 Chính vì thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Giờ
đây, Ta sắp đổi số phận của Gia-cóp và xót thương toàn thể nhà Ít-ra-en. Ta sẽ
nổi ghen cho danh thánh của Ta.
26 Chúng sẽ quên đi những nỗi nhục
nhằn đã phải chịu cũng như mọi tội bất trung đã phạm đến Ta, khi chúng sống yên
hàn trên đất của chúng, mà không còn ai làm cho chúng phải lo sợ nữa. 27 Khi
Ta đem chúng từ các nước trở về và quy tụ chúng lại từ các xứ thù địch với
chúng, khi Ta biểu dương sự thánh thiện của Ta trước mắt nhiều dân tộc, 28
bấy giờ chúng sẽ nhận biết chính Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng,
Ðấng đã bắt chúng phải lưu đày trong các dân tộc, rồi lại quy tụ chúng về đất
của chúng và không để một ai trong chúng phải ở lại đó. 29 Ta sẽ
không còn ẩn mặt đi, vì Ta sẽ đổ tràn thần khí của Ta xuống nhà Ít-ra-en - sấm
ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
Chương 40
IV. "Luật" Của Ngôn Sứ
Ê-Dê-Ki-En
Ðền Thờ tương lai
1 Năm thứ hai mươi lăm kể từ khi
chúng tôi bị lưu đày, đầu năm ấy, ngày mồng mười trong tháng, mười bốn năm sau
khi thành thất thủ, chính ngày ấy, tay Ðức Chúa đặt trên tôi. Người đưa tôi tới
đó: 2 nhờ những thị kiến Người cho xem, Người dẫn tôi về đất
Ít-ra-en và đặt tôi trên một ngọn núi cao chót vót, trên đó dường như có một
thành đã được xây cất, ở phía nam. 3 Người dẫn tôi tới đó, và này có
một người hình dạng trông như đồng đỏ. Người ấy cầm trong tay một sợi dây vải
và một cây trượng đo. Người ấy đứng ở cổng 4 và bảo tôi: "Hỡi con người,
hãy nhìn cho kỹ, hãy nghe cho tỏ và hãy chú tâm vào mọi điều tôi sắp cho ông
thấy; chính vì muốn tỏ cho ông thấy điều đó mà ông đã được đưa tới đây. Ông hãy
cho nhà Ít-ra-en biết mọi điều chính ông sắp được thấy."
Tường bên ngoài
5 Này có một bức tường bên ngoài
bao bọc khắp chung quanh Ðền Thờ. Người ấy cầm trong tay một cây trượng để đo
dài ba thước - tính bằng loại thước mà cứ nửa thước thì thêm một tấc. Người ấy
đo bề dầy của công trình kiến trúc: một trượng, chiều cao: một trượng.
Cổng đông
6 Người ấy đi tới cổng quay về phía
đông, bước lên bậc và đo thềm cổng: bề rộng một trượng. 7 Phòng thị
vệ: dài một trượng, rộng một trượng; trụ giữa các phòng thị vệ: cao hai thước
rưỡi, và thêm cổng mạn tiền đình cổng về phía trong: rộng một trượng. 8 Người
ấy đo tiền đình cổng: 9 rộng bốn thước; các trụ của nó: cao một
thước - tiền đình cổng nằm ở phía trong -. 10 Các phòng thị vệ nơi
cổng quay về hướng đông: mỗi bên có ba; cả ba cùng một kích thước. Các trụ mỗi
bên cùng một kích thước. 11 Người ấy đo chiều rộng lối vào cổng: năm
thước, chiều dài cổng: sáu thước rưỡi. 12 Rào cản trước các phòng
thị vệ, bên này rộng nửa thước, bên kia rộng nửa thước; còn phòng thị vệ: mỗi
chiều ba thước. 13 Người ấy đo cổng, từ mái phòng thị vệ bên này tới
mái phòng thị vệ bên kia: rộng mười hai thước rưỡi; hai lối ra vào đối diện
nhau. 14 Người ấy đo tiền đình: rộng mười thước; bốn phía cổng đều
có sân bao quanh. 15 Từ mặt tiền cổng, ở lối vào, cho đến mặt tiền
của tiền đình bên trong cổng: rộng hai mươi lăm thước. 16 Các phòng
thị vệ và các trụ của nó đều có những cửa sổ chấn song quay về phía bên trong
cổng, khắp chung quanh; các tiền đình cũng thế, có cửa sổ khắp chung quanh;
trên các trụ có hình cây chà là.
Sân ngoài
17 Người ấy dẫn tôi đến sân ngoài;
tại đây người ta đã làm những căn phòng và một cái nền đá bao quanh sân. Có ba
mươi căn phòng trên nền đá ấy. 18 Mỗi bên cổng đều có nền đá, tương
ứng với chiều dài các cổng; đó là nền đá dưới. 19 Người ấy đo chiều
rộng sân, từ mặt tiền cổng dưới cho tới mặt tiền phía ngoài của sân trong: năm
mươi thước về phía đông và về phía bắc.
Cổng bắc
20 Còn cổng quay về phía bắc trên
sân ngoài, thì người ấy đo chiều dài và chiều rộng. 21 Các phòng thị
vệ ở cổng này: mỗi bên có ba cái; các trụ và tiền đình của nó có cùng một kích
thước như các trụ và tiền đình của cổng đông: dài hai mươi lăm thước, rộng mười
hai thước rưỡi. 22 Các cửa sổ, tiền đình và các hình cây chà là có
cùng một kích thước như cửa sổ, tiền đình và hình cây chà là của cổng quay về
phía đông. Người ta phải bước bảy bậc mới lên được tới đó và tiền đình của nó
nằm ngay ở trước mặt. 23 Có một cái cổng phía sân trong, đối diện
với cổng bắc, về phía đông. Người ấy đo khoảng cách từ cổng này đến cổng kia là
năm mươi thước.
Cổng nam
24 Người ấy dẫn tôi xuống phía nam;
tại đây có một cái cổng quay về phía nam. Người ấy đo các phòng thị vệ ở cổng
này và các trụ cũng như tiền đình của cổng: tất cả đều có cùng một kích thước
như tại các cổng khác. 25 Cổng cũng như tiền đình đều có cửa sổ khắp
chung quanh, giống như các cửa sổ khác: cổng dài hai mươi lăm thước, rộng mười
hai thước rưỡi. 26 Cầu thang của nó có bảy bậc; tiền đình của nó ở
phía trong và mỗi bên đều có các hình cây chà là trên các trụ. 27 Có
một cái cổng ở phía sân trong về phía nam; người ấy đo khoảng cách từ cổng này
đến cổng kia, về phía nam, là năm mươi thước.
Sân trong. Cổng nam.
28 Rồi người ấy dẫn tôi đi qua cổng
nam đến sân trong và đo cổng này: cổng có cùng một kích thước như những cổng
khác; 29 các phòng thị vệ, các trụ và tiền đình của cổng có cùng một
kích thước như những cái trước. Cổng cũng như tiền đình đều có cửa sổ khắp
chung quanh; cổng dài hai mươi lăm thước, rộng mười hai thước rưỡi. 30 Các
tiền đình của nó ở chung quanh: dài mười hai thước rưỡi, rộng hai thước rưỡi.31
Tiền đình của nó quay ra sân ngoài. Các trụ đều có các hình cây chà là; cầu
thang của nó có tám bậc.
Cổng đông
32 Người ấy dẫn tôi đến sân trong,
về phía đông, và đo cổng; cổng có cùng một kích thước như các cổng trước; 33
các phòng thị vệ, các trụ và tiền đình của cổng có cùng một kích thước
như những cái trước. Cổng cũng như tiền đình đều có cửa sổ khắp chung quanh;
cổng dài hai mươi lăm thước, rộng mười hai thước rưỡi. 34 Tiền đình
của nó quay ra sân ngoài. Mỗi bên trụ đều có hình cây chà là và cầu thang của
nó có tám bậc.
Cổng bắc
35 Rồi người ấy dẫn tôi về phía cổng
bắc và đo cổng ấy; cổng có cùng một kích thước như các cổng khác. 36 Các
phòng thị vệ, các trụ và tiền đình của cổng có cùng một kích thước như những
cái trước. Cổng cũng như tiền đình đều có cửa sổ khắp chung quanh; cổng dài hai
mươi lăm thước, rộng mười hai thước rưỡi. 37 Tiền đình của cổng quay
ra sân ngoài. Mỗi bên trụ đều có các hình cây chà là và cầu thang của nó có tám
bậc.
Phần phụ của các cổng
38 Có một căn phòng ăn thông với các
trụ, các cổng. Tại đây, người ta rửa các lễ vật toàn thiêu. 39 Còn
trong tiền đình cổng, mỗi bên có hai cái bàn để sát tế lễ vật toàn thiêu, lễ
vật tạ tội và lễ vật đền tội trên đó. 40 Còn phía bên ngoài ở lối
lên cổng, về phía bắc, có hai cái bàn, và phía bên kia, về phía tiền đình, có
hai cái bàn nữa. 41 Mỗi bên cổng có bốn cái bàn, như vậy là cả thảy
có tám cái bàn dùng để sát tế. 42 Ngoài ra, còn có bốn cái bàn để
dâng lễ toàn thiêu, bằng đá đẽo, dài bảy tấc rưỡi, rộng bảy tấc rưỡi và cao nửa
thước, trên đó người ta đặt những dụng cụ dùng để sát tế lễ toàn thiêu và hy lễ.
43 Có hai cái rãnh rộng một tấc, được đào chung quanh, ở bên trong.
Trên các bàn này, người ta đặt thịt để dâng lễ tiến.
44 Rồi người ấy dẫn tôi vào cổng
trong, nơi có hai phòng, một ở bên cạnh cổng bắc và quay về phía nam, một ở bên
cạnh cổng nam và quay về phía bắc. 45 Người ấy bảo tôi: "Phòng
quay về phía nam này dành cho các tư tế chuyên lo phục vụ Ðền Thờ. 46 Còn
phòng quay về phía bắc thì dành cho các tư tế chuyên lo phục vụ bàn thờ. Họ là
con cái ông Xa-đốc thuộc dòng họ ông Lê-vi, những kẻ được đến gần Ðức Chúa để
phục vụ Người.
Sân trong
47 Người ấy đo sân: sân dài năm mươi
thước, rộng năm mươi thước, hình vuông. Còn bàn thờ thì ở trước Ðền Thờ.
Ðền Thờ. Tiền đình.
48 Người ấy dẫn tôi đến tiền đình
của Ðền Thờ và đo các trụ của tiền đình: mỗi bên hai thước rưỡi; còn chiều rộng
của cổng, mỗi bên một thước rưỡi. 49 Tiền đình dài mười thước và
rộng sáu thước. Ði lên đó phải qua mười bậc. Bên cạnh các trụ có cột, mỗi bên
trụ một cột.
Chương 41
Cung thánh
1 Người ấy dẫn tôi về phía cung
thánh và đo các trụ: mỗi bên rộng ba thước. 2 Cửa vào rộng năm thước
và các tường chống đỡ cửa vào, mỗi bên hai thước rưỡi. Người ấy đo cung thánh:
cung thánh dài hai mươi thước và rộng mười thước.
Nơi Cực Thánh
3 Người ấy đi sâu vào bên trong và
đo trụ của cửa vào: trụ rộng một thước; rồi lại đo cửa vào: cửa rộng ba thước,
và các tường chống đỡ cửa vào rộng ba thước rưỡi. 4 Người ấy đo Nơi
Cực Thánh: nơi này dài mười thước và rộng mười thước, giáp với cung thánh. Rồi
người ấy bảo tôi: "Ðây là Nơi Cực Thánh."
Dãy nhà phụ của Ðền Thờ
5 Rồi người ấy đo tường Ðền Thờ:
tường dày ba thước; chiều rộng của nhà phụ ở khắp chung quanh Ðền Thờ là hai
thước. 6 Các nhà phụ chồng lên nhau thành ba tầng, mỗi tầng có ba
mươi nhà phụ. Các nhà phụ ăn sâu vào tường ngoài khắp chung quanh, làm thành
những chỗ thụt vào, nhưng không đụng vào tường trong của Ðền Thờ. 7 Các
nhà phụ càng lên cao càng rộng, vì tường càng lên cao càng hẹp, khắp chung
quanh Ðền Thờ.
8 Và tôi thấy khắp chung quanh Ðền
Thờ có một dải đất cao đúng một trượng tức là ba thước, đó là nền của các nhà
phụ. 9 Bức tường bên ngoài của các nhà phụ dày hai thước rưỡi. Giữa
các nhà phụ của Ðền Thờ 10 và các phòng, có một khoảng trống rộng mười thước,
khắp chung quanh Ðền Thờ. 11 Ðể vào các nhà phụ ở giữa khoảng trống,
thì có một cửa ở phía bắc và một cửa ở phía nam. Bức tường bao quanh khoảng
trống rộng hai thước rưỡi.
Toà nhà phía đông
12 Toà nhà bọc sân phía đông rộng ba
mươi lăm thước, tường nhà khắp chung quanh dày hai thước rưỡi và dài bốn mươi
lăm thước. 13 Người ấy đo Ðền Thờ: đền dài năm mươi thước. Sân cộng
với toà nhà và các bức tường dài năm mươi thước. 14 Chiều rộng của
mặt tiền Ðền Thờ cộng với sân phía đông là năm mươi thước. 15 Người
ấy đo chiều dài của toà nhà, dọc theo sân phía sau, cùng với hành lang, cả hai
bên là năm mươi thước.
Trần thiết bên trong
Bên trong cung thánh và các tiền
đình của sân, 16 các thềm, các cửa sổ chấn song, các hành lang ở ba
mặt đối diện với thềm đều được ghép gỗ khắp chung quanh, từ đất lên tới cửa sổ,
và các cửa sổ đều được đóng chấn song. 17 Từ cửa vào cho đến tận bên
trong cũng như bên ngoài Ðền Thờ, trên mọi bức tường khắp chung quanh, cả trong
lẫn ngoài, 18 đều có chạm trổ những hình Kê-ru-bim và hình cây chà
là, một cây chà là ở giữa hai Kê-ru-bim; mỗi Kê-ru-bim có hai mặt: 19 mặt
người quay về cây chà là phía bên này và mặt sư tử quay về cây chà là phía bên
kia, trên cả Ðền Thờ, khắp chung quanh. 20 Các Kê-ru-bim và các hình
cây chà là được chạm trổ trên tường cung thánh, từ đất lên đến tận bên trên cửa
vào. 21 Các cánh cửa cung thánh đều vuông vức.
Bàn thờ bằng gỗ
Trước thánh điện, có cái gì giống
như 22 một bàn thờ bằng gỗ, cao một thước rưỡi, dài một thước và rộng một
thước. Bàn thờ có các góc, bệ và các cạnh bằng gỗ. Người ấy bảo tôi: "Ðây
là cái bàn ở trước nhan Ðức Chúa."
Các cửa
23 Cung thánh có một cửa kép và Nơi
Cực Thánh cũng có 24 một cửa kép. Ðó là những cửa có cánh xoay: mỗi cửa có hai
cánh. 25 Người ta đã chạm trổ lên trên đó, trên các cửa cung thánh,
các hình Kê-ru-bim và hình cây chà là, như đã chạm trổ trên các tường vậy. Có
một mái hiên bằng gỗ trước tiền đình, phía bên ngoài. 26 Có các cửa
sổ chấn song và các hình cây chà là ở hai bên các tường chống đỡ tiền đình,
trên các nhà phụ của Ðền Thờ và trên các mái hiên.
Chương 42
Các phòng của Ðền Thờ
1 Người ấy đưa tôi ra phía sân
ngoài, về phía bắc, và dẫn tôi tới căn phòng đối diện với sân, tức là đối diện
với toà nhà, về hướng bắc. 2 Phía mặt tiền, nhà dài năm mươi thước,
về phía bắc, và rộng hai mươi lăm thước. 3 Ðối diện với các cửa sân
trong và đối diện với nền đá sân ngoài, có những hành lang chạy dài trên cả ba
tầng. 4 Trước các phòng, có một lối đi rộng năm thước về phía trong,
và dài năm mươi thước; các cửa đều quay về phía bắc. 5 Các phòng bên
trên thì hẹp hơn các phòng dưới và phòng giữa của toà nhà, vì bị hành lang
choán chỗ. 6 Thật vậy, các phòng ấy chiếm ba tầng và không có cột
như cột của sân, vì thế hẹp hơn các phòng dưới và phòng giữa, tính từ đất lên. 7
Tường bên ngoài, song song với các phòng, quay về phía sân ngoài, đối
diện với các phòng, dài hai mươi lăm thước. 8 Chiều dài các phòng
của sân ngoài là hai mươi lăm thước, trong khi các phòng ở phía trước cung
thánh dài những năm mươi thước. 9 Bên dưới các phòng này, có một lối
vào từ hướng đông, dành cho người từ sân ngoài đi vô.
10 Ở đầu bức tường của sân, về phía
nam, đối diện với sân và đối diện với toà nhà, cũng có những căn phòng. 11
Có một lối đi đằng trước những phòng đó, cũng giống như lối đi ở trước
những phòng phía bắc; các phòng ấy dài như nhau, rộng như nhau, lối ra, lối vào
và cách sắp đặt cũng như nhau. 12 Cũng như các cửa phòng quay về
phía nam, ở đầu mỗi lối đi đều có một cửa dành cho người ở ngoài đi vô; cửa này
đối diện với bức tường bao bọc quay về phía đông. 13 Người ấy bảo
tôi: "Các phòng phía bắc và các phòng phía nam đối diện với sân, đó là các
phòng của thánh điện, tại đây, các tư tế đến gần Ðức Chúa sẽ ăn những của rất
thánh. Cũng chính tại đây, người ta đặt các của rất thánh, lễ phẩm, lễ vật tạ
tội và lễ vật đền tội, vì đây là Nơi Thánh. 14 Khi các tư tế đi vào
rồi, các ông không được rời khỏi Nơi Thánh mà ra phía sân ngoài, nhưng phải để
lại y phục tế lễ của mình ở đó, vì các y phục ấy là đồ thánh; sau đó các ông sẽ
mặc y phục khác để tới gần nơi dành cho dân chúng.
Kích thước của sân
15 Sau khi đã đo bên trong Ðền Thờ,
người ấy đưa tôi ra phía cổng quay về hướng đông và đo khắp chung quanh sân. 16
Người ấy lấy cây trượng đo mà đo cạnh phía đông: hai trăm năm mươi thước,
bằng cây trượng đo, khắp chung quanh. 17 Rồi người ấy đo cạnh phía
bắc: hai trăm năm mươi thước, bằng cây trượng đo, khắp chung quanh. 18 Người
ấy lại đo cạnh phía nam: hai trăm năm mươi thước, bằng cây trượng đo, 19 khắp
chung quanh. Còn cạnh phía tây, người ấy đo được hai trăm năm mươi thước, bằng
cây trượng đo. 20 Ở cả bốn cạnh, người ấy đều đo bức tường bao bọc
khắp chung quanh: chiều dài hai trăm năm mươi và chiều rộng hai trăm năm mươi;
bức tường đó dùng để phân cách nơi thánh thiêng với nơi phàm tục.
Chương 43
Ðức Chúa trở lại Ðền Thờ
1 Người ấy đưa tôi đi tới cổng,
cổng quay về phía đông, 2 và này, vinh quang của Thiên Chúa Ít-ra-en
từ phía đông tiến vào. Bấy giờ có tiếng như tiếng nước lũ và đất rạng ngời vinh
quang Ðức Chúa. 3 Thị kiến này giống như thị kiến tôi đã thấy khi
Người đến để huỷ diệt thành, đồng thời cũng giống như thị kiến tôi đã thấy bên
sông Cơ-va. Bấy giờ, tôi sấp mặt xuống đất.
4 Vinh quang Ðức Chúa tiến vào Ðền
Thờ qua cổng quay về phía đông. 5 Thần khí đưa tôi lên và dẫn tôi
vào sân trong, và này vinh quang Ðức Chúa tràn ngập Ðền Thờ. 6 Tôi
nghe có Ðấng phán với tôi từ Ðền Thờ, trong khi người kia vẫn đứng bên tôi. 7
Ðấng ấy phán với tôi: "Hỡi con người, đây là nơi Ta đặt ngai của Ta,
đây là nơi Ta đặt các bàn chân của Ta. Ta sẽ ngự tại đây, giữa con cái
Ít-ra-en, cho đến muôn đời. Nhà Ít-ra-en, cả chúng lẫn các vua của chúng, sẽ
không còn làm ô uế danh thánh của Ta vì những sự đàng điếm và xác chết các vua
của chúng nữa, 8 khi chúng dám đặt thềm của chúng sát thềm của Ta,
cánh cửa của chúng sát cánh cửa của Ta với một bức tường giữa Ta với chúng mà
thôi. Chúng đã làm ô uế danh thánh của Ta bằng những điều ghê tởm của chúng,
nên Ta đã tận diệt chúng trong cơn thịnh nộ của Ta. 9 Giờ đây, chúng
phải đem đi cho khuất mắt Ta những sự đàng điếm của chúng cũng như xác chết các
vua của chúng, rồi Ta sẽ ngự ở giữa chúng cho đến muôn đời.
10 Phần ngươi, hỡi con người, ngươi
hãy mô tả cho nhà Ít-ra-en biết Ðền Thờ này, để chúng phải xấu hổ vì tội lỗi
chúng đã phạm. Chúng phải đo cái mô hình này. 11 Và nếu chúng xấu hổ
vì mọi điều ghê tởm chúng đã làm, thì ngươi hãy mô tả cho chúng đồ án Ðền Thờ,
cách sắp đặt, các lối ra lối vào, mọi đồ án và mọi quy tắc, mọi đồ án và mọi
luật lệ của Ðền Thờ. Hãy viết ra cho chúng thấy, để chúng tuân theo mọi đồ án
và mọi quy tắc của Ðền Thờ mà đem ra thi hành. 12 Ðây là bộ luật về
Ðền Thờ: Ở trên đỉnh núi này, toàn lãnh thổ chung quanh là nơi rất thánh. Ðó là
bộ luật về Ðền Thờ.
Bàn thờ
13 Ðây là kích thước bàn thờ tính
bằng loại thước mà cứ nửa thước thì thêm một tấc: rãnh chung quanh sâu nửa
thước, rộng nửa thước; gờ chung quanh rãnh: một gang. Ðây là chiều cao của bàn
thờ: 14 từ rãnh dưới đất cho đến bệ dưới: một thước, rộng nửa thước;
từ bệ nhỏ tới bệ lớn: hai thước, rộng nửa thước. 15 Lò lửa cao hai
thước; phía trên lò, có bốn góc cong.16 Lò dài sáu thước, rộng sáu thước: bốn
cạnh vuông vức. 17 Bệ dài bảy thước, rộng bảy thước, hình vuông. Gờ
chung quanh bệ: hai tấc rưỡi; còn rãnh chung quanh bệ: nửa thước. Các bậc quay
về phía đông.
Thánh hiến bàn thờ
18 Người ấy bảo tôi: Hỡi con người,
Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Ðây là các quy tắc liên quan đến bàn thờ,
vào ngày bàn thờ được dựng lên để tiến dâng lễ toàn thiêu và rảy máu lên trên
đó. 19 Ngươi hãy trao một con bò tơ làm hy lễ tạ tội cho các tư tế
Lê-vi, thuộc dòng họ Xa-đốc, là những người đến gần Ta để phục vụ Ta, sấm ngôn
của Ðức Chúa là Chúa Thượng. 20 Ngươi hãy lấy máu nó bôi lên bốn góc
cong, bốn góc bệ và gờ chung quanh bệ. Như vậy, ngươi sẽ tạ tội và xá tội cho
bàn thờ. 21 Rồi ngươi hãy lấy con bò dùng để dâng hy lễ tạ tội: nó
sẽ được thiêu ở một chỗ riêng trong Ðền Thờ, bên ngoài thánh điện. 22 Ðến
ngày thứ hai, ngươi sẽ tiến dâng một con dê đực toàn vẹn làm lễ tạ tội và người
ta sẽ tạ tội cho bàn thờ như đã tạ tội cho nó bằng con bò vậy. 23 Khi
đã làm lễ tạ tội xong, ngươi hãy tiến dâng một con bò tơ toàn vẹn và một con
cừu đực toàn vẹn lấy trong đàn chiên dê. 24 Ngươi hãy tiến dâng
chúng trước nhan Ðức Chúa, các tư tế sẽ rắc muối lên trên chúng và dâng chúng
làm lễ toàn thiêu kính Ðức Chúa. 25 Trong bảy ngày, ngày nào ngươi
cũng phải dâng một con dê đực làm lễ tạ tội, và người ta sẽ dâng một con bò tơ
toàn vẹn và một con cừu đực toàn vẹn lấy trong đàn chiên dê. 26 Trong
bảy ngày, người ta sẽ làm lễ xá tội cho bàn thờ, thanh tẩy và thánh hiến bàn
thờ. 27 Khi những ngày ấy mãn hạn, đến ngày thứ tám và những ngày
tiếp theo, các tư tế sẽ dâng hy lễ toàn thiêu và hy lễ kỳ an của các ngươi trên
bàn thờ đó. Như vậy, Ta sẽ ưu ái các ngươi, sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa
Thượng.
Chương 44
Sử dụng cổng đông
1 Người ấy dẫn tôi trở lại cổng
ngoài thánh điện, cổng quay về phía đông. Bấy giờ cổng đóng. 2 Ðức
Chúa phán với tôi: Cổng này sẽ đóng; người ta sẽ không mở và không ai được vào,
qua cổng này, vì Ðức Chúa, Thiên Chúa Ít-ra-en, đã tiến vào qua cổng ấy. Vì thế
cổng này đóng. 3 Nhưng ông hoàng, chính ông hoàng, sẽ được ngồi đó
để dùng bữa trước nhan Ðức Chúa. Ông sẽ vào qua tiền đình của cổng và sẽ ra
bằng lối ấy.
Quy tắc để được vào Ðền Thờ
4 Người ấy dẫn tôi vào phía cổng
bắc, đối diện với Ðền Thờ. Tôi nhìn, và này vinh quang Ðức Chúa tràn ngập Ðền
Thờ Ðức Chúa, và tôi sấp mặt xuống đất. 5 Ðức Chúa phán với tôi: Hỡi
con người, hãy chú tâm, hãy nhìn cho kỹ và hãy nghe cho tỏ mọi điều Ta sắp phán
với ngươi về mọi quy tắc liên quan đến Ðền Thờ Ðức Chúa và về mọi luật lệ của
Ðền Thờ. Hãy chú tâm đến những kẻ vào Ðền Thờ cũng như những người ra khỏi
thánh điện. 6 Ngươi hãy nói với quân phản nghịch, với nhà Ít-ra-en:
Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Hỡi nhà Ít-ra-en, các ngươi đã làm biết
bao điều ghê tởm, 7 khi các ngươi đưa những người ngoại bang, lòng
không cắt bì, xác cũng chẳng cắt bì, vào ở trong thánh điện của Ta mà làm ô uế
Ðền Thờ của Ta, khi các ngươi tiến dâng lương thực cho Ta là mỡ và máu mà lại
huỷ bỏ giao ước của Ta. Thật các ngươi đã làm biết bao điều ghê tởm! 8 Các
ngươi không chịu đảm trách các việc thánh của Ta, mà lại đặt những kẻ đó làm
người đảm trách việc phục vụ Ta trong thánh điện, thay cho các ngươi. 9 Ðức
Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Chẳng một người ngoại bang nào, lòng không
cắt bì, xác không cắt bì, được vào thánh điện của Ta; chẳng một người ngoại
bang nào đang cư ngụ giữa con cái Ít-ra-en được làm như thế.
Các thầy Lê-vi
10 Còn các thầy Lê-vi đã lìa xa Ta,
vào thời Ít-ra-en lạc xa Ta mà chạy theo các ngẫu tượng, thì sẽ phải gánh lấy
tội mình. 11 Trong thánh điện của Ta, chúng sẽ đảm trách việc canh
các cổng Ðền Thờ và phục vụ Ðền Thờ. Chính chúng sẽ sát tế lễ vật toàn thiêu và
hy lễ cho dân; chính chúng sẽ đứng trước mặt dân mà phục vụ dân. 12 Vì
chúng đã giúp dân phục vụ các ngẫu tượng và đã làm cớ cho nhà Ít-ra-en phạm
tội, nên Ta sẽ giơ tay trừng phạt chúng - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
Chúng sẽ phải gánh lấy tội mình. 13 Chúng sẽ không được lại gần Ta
để làm tư tế cho Ta, không được đụng chạm tới bất cứ vật thánh nào, vật rất
thánh nào, nhưng chúng phải mang ô nhục và gánh lấy những điều ghê tởm chúng đã
gây ra. 14 Ta sẽ cho chúng đảm trách việc phục vụ Ðền Thờ và mọi
việc của Ðền Thờ cũng như mọi việc phải làm ở đó.
Các tư tế
15 Còn các thầy tư tế Lê-vi, con cái
Xa-đốc, đảm trách việc phục vụ trong thánh điện của Ta vào thời con cái
Ít-ra-en lạc xa Ta, chính chúng sẽ đứng trước nhan Ta để phục vụ Ta; chúng sẽ
đứng trước nhan Ta để tiến dâng lên Ta mỡ và máu, sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa
Thượng. 16 Chính chúng sẽ vào thánh điện của Ta, sẽ lại gần bàn của
Ta để phục vụ Ta; chúng sẽ đảm trách việc phục vụ Ta. 17 Khi tiến
vào các cổng của sân trong, chúng sẽ mặc y phục bằng vải gai; chúng sẽ không
mặc đồ len khi phục vụ tại các cổng của sân trong và tại Ðền Thờ. 18 Chúng
sẽ đội mũ tế bằng vải gai trên đầu và mặc quần đùi bằng vải gai ngang lưng,
chúng sẽ không thắt gì có thể làm đổ mồ hôi. 19 Khi ra sân ngoài để
tới gần dân, chúng sẽ cởi bỏ y phục đã mặc khi thi hành công việc phục vụ và để
lại trong phòng thánh; chúng sẽ mặc y phục khác, để khỏi chuyển sự thánh thiêng
cho dân qua y phục dùng để tế lễ. 20 Chúng không được cạo đầu, cũng
không được để tóc mọc tự nhiên, nhưng phải cắt tỉa cẩn thận. 21 Không
tư tế nào được uống rượu khi vào sân trong. 22 Chúng không được lấy
bà goá hoặc lấy người bị chồng bỏ làm vợ, mà chỉ được lấy trinh nữ thuộc dòng
dõi Ít-ra-en; nhưng nếu là bà goá, vợ của một tư tế đã chết, thì lấy được. 23
Nó sẽ chỉ cho dân Ta biết phân biệt điều thánh thiêng với điều phàm tục,
và sẽ dạy cho họ biết phân biệt điều ô uế với điều thanh sạch. 24 Trong
các vụ kiện cáo, chính chúng sẽ đứng ra làm thẩm phán. Chúng sẽ xét xử theo
phán quyết của Ta. Chúng sẽ giữ các lề luật và quy tắc của Ta liên quan đến các
ngày lễ; chúng phải coi các ngày sa-bát của Ta là thánh. 25 Chúng
không được đến gần người chết, kẻo ra ô uế, nhưng có thể để cho mình ra ô uế vì
đến gần cha, mẹ, con trai, con gái, anh em hay chị em chưa chồng, khi những
người này chết. 26 Sau khi tư tế đó được thanh tẩy, người ta còn
phải tính cho nó bảy ngày nữa, 27 rồi đến ngày vào thánh điện, vào
sân trong để phục vụ trong thánh điện, nó mới được tiến dâng lễ tạ tội cho mình
- sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. 28 Chúng không có phần gia
nghiệp, chính Ta sẽ là phần gia nghiệp của chúng. Các ngươi không được cho
chúng phần sở hữu ở Ít-ra-en, chính Ta sẽ là phần sở hữu của chúng. 29 Chính
chúng sẽ được ăn lễ phẩm, lễ vật tạ tội và lễ vật xá tội. Tất cả những gì là
của biệt hiến trong Ít-ra-en đều thuộc về chúng. 30 Phần tuyệt hảo
trong mọi thứ của đầu mùa và mọi phần trích dâng lấy từ những phần các ngươi
trích dâng, đều thuộc về các tư tế; bột thượng hạng của các ngươi, các ngươi
phải dâng cho tư tế, hầu phúc lành ở lại trong nhà các ngươi. 31 Các
tư tế không được ăn thịt con vật chết hoặc bị thú dữ cắn xé, bất kể chim chóc
hay súc vật.
Chương 45
Phân chia xứ sở. Phần của Ðức
Chúa.
1 Khi rút thăm để phân chia xứ sở
thành những phần gia nghiệp, các ngươi hãy trích ra một phần để dâng kính Ðức
Chúa; đây là phần đất thánh lấy trong xứ sở: dài mười hai ngàn năm trăm thước,
rộng mười ngàn thước. Tất cả diện tích của phần đất này phải là thánh. 2 Trong
phần đất này, sẽ dành cho thánh điện một chiều hai trăm năm mươi thước và chiều
kia hai trăm năm mươi thước, vuông vức, với một đường biên hai mươi lăm thước,
khắp chung quanh. 3 Trong phần đất đã trích dâng, ngươi hãy đo lấy
một chiều dài mười hai ngàn năm trăm thước, rộng năm ngàn thước. Ðó sẽ là thánh
điện, Nơi Cực Thánh. 4 Ðó là phần đất thánh trong xứ thuộc về các tư
tế phục vụ thánh điện, những người đến gần Ðức Chúa để phục vụ Người. Tại đây,
họ có chỗ để cất nhà và một nơi thánh để làm thánh điện. 5 Một phần
dài mười hai ngàn năm trăm thước, rộng năm ngàn thước, sẽ được dành cho các
thầy Lê-vi phục vụ Ðền Thờ làm sở hữu, cùng với các thành để cư ngụ. 6 Các
ngươi sẽ dành ra một phần đất để xây thành, rộng hai ngàn năm trăm thước, dài
mười hai ngàn năm trăm thước, dọc theo phần trích dâng làm phần đất thánh: đó
là phần thuộc về toàn thể nhà Ít-ra-en.
Phần của ông hoàng
7 Còn ông hoàng, người ta sẽ dành
cho ông phần đất ở hai bên phần được trích dâng làm phần đất thánh và phần đất
để xây thành. Phần đất ấy nằm dọc theo hai bên phần được trích dâng làm phần
đất thánh và dọc theo phần đất để xây thành; cạnh phía tây chạy đến tận phía
tây và cạnh phía đông chạy đến tận phía đông. Chiều dài dải đất từ ranh giới
phía tây tới ranh giới phía đông của xứ cũng bằng chiều dài các phần chia cho
các chi tộc. 8 Ðó là phần của nó ở Ít-ra-en. Như thế, các ông hoàng
của Ta sẽ không còn áp bức dân Ta nữa; chúng sẽ trao xứ sở cho nhà Ít-ra-en,
cho các chi tộc của chúng.
9 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như
sau: Thế là quá lắm rồi, hỡi các ông hoàng Ít-ra-en! Hãy đẩy xa bạo lực và tàn
phá, hãy thi hành chính trực công minh và cất đi khỏi dân Ta những hành vi quấy
nhiễu của các ngươi - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. 10 Các
ngươi phải dùng cán cân đúng, ê-pha đúng, bát đúng: 11 bát bằng một
phần mười kho-me và ê-pha bằng một phần mười kho-me. Cứ theo kho-me mà quy định
việc đo lường. 12 Một sê-ken bằng hai mươi ghê-ra. Hai mươi sê-ken,
hai mươi lăm sê-ken và mười lăm sê-ken sẽ bằng một min.
Các lễ phẩm dùng vào việc phụng
tự
13 Ðây là phần trích dâng các ngươi
phải trích ra: cứ hai mươi thùng lúa mì thì một phần ba thùng, và cứ hai mươi
thùng lúa mạch, thì một phần ba thùng. 14 Ðây là quy định đối với
dầu: cứ mười thùng dầu thì trích ra một thùng; mà hai mươi thùng thì bằng một
co hoặc một kho-me. 15 Từ đồng cỏ tươi tốt của Ít-ra-en, cứ một đàn
vật hai trăm con thì lấy ra một con chiên, để làm lễ phẩm, lễ toàn thiêu và lễ
kỳ an mà xá tội cho dân - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng. 16 Toàn
dân trong xứ phải nộp phần trích dâng đó cho ông hoàng Ít-ra-en. 17 Trách
nhiệm của ông hoàng là liệu cho có các lễ toàn thiêu, lễ phẩm và lễ tưới vào
các ngày lễ, các ngày sóc, các ngày sa-bát và các ngày đại hội của nhà
Ít-ra-en. Chính nó sẽ cung cấp lễ vật tạ tội, lễ phẩm, lễ toàn thiêu và các lễ
kỳ an để xá tội cho nhà Ít-ra-en.
Lễ Vượt Qua (Xh 12:1-20)
18 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như
sau: Ngày mồng một tháng thứ nhất, ngươi hãy bắt một con bò tơ toàn vẹn để làm
lễ tạ tội cho thánh điện. 19 Vị tư tế sẽ lấy máu của lễ vật tạ tội
mà bôi lên cánh cửa Ðền Thờ, lên bốn góc bệ của bàn thờ và các cánh cổng của
sân trong. 20 Vào ngày mồng bảy trong tháng, ngươi cũng hãy làm như
thế cho người nào vì vô ý hay thiếu suy nghĩ mà phạm tội. Như thế, các ngươi sẽ
làm lễ xá tội cho Ðền Thờ. 21 Ngày mười bốn tháng thứ nhất sẽ là
ngày lễ Vượt Qua cho các ngươi; trong bảy ngày, người ta sẽ ăn bánh không men. 22
Vào chính ngày ấy, ông hoàng sẽ dâng một con bò làm lễ tạ tội cho mình và
cho toàn dân trong xứ. 23 Trong bảy ngày cử hành lễ ấy, nó sẽ dâng
bảy con bò, bảy con cừu đực toàn vẹn làm lễ toàn thiêu kính Ðức Chúa, ngày nào
cũng như ngày nào, và dâng mỗi ngày một con dê đực làm lễ tạ tội. 24 Về
lễ phẩm, thì cứ mỗi con bò, nó sẽ dâng hai thùng lúa và cứ mỗi con cừu đực, hai
thùng; còn về dầu, thì cứ hai thùng, nó sẽ dâng bảy lít.
Lễ Lều
25 Ngày mười lăm tháng thứ bảy, vào
ngày Lễ, nó sẽ dâng y như thế trong bảy ngày, nghĩa là cũng ngần ấy lễ tạ tội,
lễ toàn thiêu, lễ phẩm và dầu.
Chương 46
Các quy tắc khác
1 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này: Cổng của tiền đình bên trong, cổng quay về phía đông, sẽ đóng trong sáu
ngày làm việc, nhưng đến ngày sa-bát sẽ được mở ra; và ngày sóc cũng sẽ được mở
ra như vậy. 2 Từ bên ngoài, ông hoàng sẽ đi vào, qua lối tiền đình
của cổng, và đứng quay về các cánh cổng. Bấy giờ, các tư tế sẽ dâng lễ toàn
thiêu và lễ kỳ an của nó. Nó sẽ sụp xuống thềm cổng rồi đi ra. Cổng sẽ không
đóng cho đến tối. 3 Dân trong xứ cũng sụp xuống trước nhan Ðức Chúa
ở lối vào cổng trong các ngày sa-bát và các ngày sóc. 4 Vào ngày
sa-bát, lễ toàn thiêu ông hoàng dâng kính Ðức Chúa, sẽ là sáu con chiên toàn
vẹn và một con cừu đực toàn vẹn; 5 lễ phẩm thì cứ mỗi con cừu dâng
hai thùng; còn đối với chiên, thì tuỳ sức; dầu thì cứ hai thùng dâng bảy lít. 6
Vào ngày sóc, ông hoàng sẽ dâng một con bò tơ toàn vẹn, sáu con chiên và
một con cừu đực toàn vẹn làm lễ toàn thiêu. 7 Nó cũng sẽ dâng lễ
phẩm: cứ mỗi con bò dâng hai thùng, và cứ mỗi con cừu dâng hai thùng; còn đối
với chiên, thì tuỳ theo khả năng; dầu thì cứ hai thùng dâng bảy lít.
8 Khi ông hoàng vào, thì sẽ vào
theo lối tiền đình của cổng và cũng sẽ đi ra theo lối đó.
9 Khi dân trong xứ vào trước nhan
Ðức Chúa trong các dịp đại lễ, thì ai vào lối cổng bắc mà sụp lạy, sẽ ra lối
cổng nam; còn ai đã vào lối cổng nam thì sẽ ra lối cổng bắc, không ai được ra
lối cổng mà mình đã vào; nó sẽ ra lối cổng đối diện. 10 Ông hoàng sẽ
đứng ở giữa chúng: khi chúng vào, nó sẽ vào; khi chúng ra, nó cũng ra.
11 Trong các ngày lễ và đại lễ, lễ
phẩm sẽ là: cứ mỗi con bò, dâng hai thùng lúa và cứ mỗi con cừu, dâng hai
thùng; còn đối với chiên, thì tuỳ sức; dầu thì cứ hai thùng dâng bảy lít. 12
Khi ông hoàng dâng kính Ðức Chúa lễ toàn thiêu tự nguyện hoặc lễ kỳ an tự
nguyện, thì người ta sẽ mở cổng quay về phía đông cho nó, và nó sẽ dâng lễ toàn
thiêu và lễ kỳ an của nó giống như nó đã dâng vào ngày sa-bát, đoạn nó đi ra và
người ta sẽ đóng cổng lại sau khi nó đã đi ra. 13 Mỗi ngày, ngươi sẽ
dâng một con chiên một tuổi và toàn vẹn để làm lễ toàn thiêu kính Ðức Chúa,
ngươi sẽ dâng vào mỗi buổi sáng. 14 Mỗi buổi sáng ngươi cũng sẽ dâng
lễ phẩm là một phần ba thùng bột và hai lít rưỡi dầu để nhào bột làm lễ phẩm
dâng kính Ðức Chúa. Ðó là quy tắc vĩnh viễn, cho đến muôn đời. 15 Mỗi
buổi sáng, người ta sẽ dâng chiên, lễ phẩm và dầu làm lễ toàn thiêu cho đến
muôn đời.
16 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này: Nếu ông hoàng lấy một phần trong gia nghiệp của mình mà tặng cho một trong
các con, thì phần ấy sẽ thuộc về người con; đó sẽ là phần chúng được sở hữu do
thừa tự. 17 Nhưng nếu nó lấy một phần trong gia nghiệp của mình mà
cho một trong các tôi tớ, thì phần ấy sẽ thuộc về người tôi tớ cho tới năm ân
xá; sau đó, phần ấy lại thuộc về ông hoàng. Chỉ con cái nó mới được quyền sở
hữu vĩnh viễn phần gia nghiệp. 18 Ông hoàng sẽ không được lấy gì
trong phần gia nghiệp của dân, không được tước đoạt phần sở hữu của họ. Nó phải
lấy phần sở hữu của mình mà cho con cái, ngõ hầu không người nào trong dân Ta
buộc phải lìa bỏ phần sở hữu của mình.
19 Người ấy đưa tôi vào, qua lối bên
cổng, gần các phòng thánh quay về phía bắc, dành cho các tư tế. Và này, tại đây
có một nơi, ở tận cùng, về phía tây. 20 Người ấy bảo tôi: "Ðây
là nơi các tư tế luộc lễ vật đền tội và lễ vật tạ tội, nơi họ nấu lễ phẩm, để
khỏi phải đem ra sân ngoài kẻo chuyển sự thánh thiêng cho dân.” 21 Rồi
người ấy dẫn tôi ra sân ngoài và đưa tôi tới gần chỗ bốn góc sân ấy. Này: ở mỗi
góc sân đều có một cái sân nhỏ; 22 ở bốn góc, có những cái sân nhỏ
dài hai mươi thước rộng mười lăm thước. Cả bốn sân đều có cùng một kích thước. 23
Có một bức tường bao quanh cả bốn sân và có những cái lò được xây ở khắp
chung quanh chân tường. 24 Người ấy bảo tôi: "Ðây là nhà bếp,
nơi những người phục vụ Ðền Thờ luộc các lễ vật của dân."
Chương 47
Con suối từ Ðền Thờ chảy ra
1 Người ấy dẫn tôi trở lại phía cửa
Ðền Thờ, và này: có nước vọt ra từ dưới ngưỡng cửa Ðền Thờ và chảy về phía
đông, vì mặt tiền Ðền Thờ quay về phía đông. Nước từ phía dưới bên phải Ðền Thờ
chảy xuống phía nam bàn thờ. 2 Người ấy đưa tôi ra theo lối cổng bắc
và dẫn tôi đi vòng quanh theo lối bên ngoài, đến cổng ngoài quay mặt về phía
đông, và này: nước từ phía bên phải chảy ra. 3 Người ấy đi ra phía
đông, tay cầm dây đo, đo năm trăm thước rồi dẫn tôi đi qua nước: nước ngập đến
mắt cá chân. 4 Người ấy đo năm trăm thước nữa rồi dẫn tôi đi qua
nước: nước ngập đến đầu gối. Người ấy lại đo năm trăm thước nữa rồi dẫn tôi đi
qua nước: nước ngập đến ngang lưng. 5 Người ấy còn đo năm trăm thước
nữa: đó là một con sông, tôi không thể đi qua được vì nước đã dâng cao, khiến
không thể đi qua mà chỉ bơi mới được thôi. 6 Người ấy bảo tôi:
"Ngươi có thấy không, hỡi con người? " Rồi người ấy dẫn tôi trở lại
bờ sông. 7 Khi tôi trở lại, thì này: có rất nhiều cây cối ở hai bên
bờ sông. 8 Người ấy bảo tôi: "Nước này chảy về miền đất phía
đông, xuống vùng A-ra-ba, rồi đổ ra biển Chết và làm cho nước biển hoá lành. 9
Sông chảy đến đâu thì mọi sinh vật lúc nhúc ở đó sẽ được sống. Sẽ có rất
nhiều cá, vì nước này chảy tới đâu, thì nó chữa lành; sông này chảy đến đâu,
thì ở đó có sự sống. 10 Sẽ có nhiều ngư phủ sinh sống ở trên bờ. Từ
Ên Ghe-đi cho tới Ên Éc-la-gim sẽ toàn là bãi phơi lưới. Cá ở đây cũng nhiều và
đủ loại như cá ở Biển Lớn. 11 Nhưng đầm lầy của nó sẽ không hoá ra
lành mà chỉ dùng để lấy muối. 12 Trên hai bờ sông sẽ mọc lên mọi
giống cây ăn trái, lá không bao giờ tàn, trái không bao giờ hết: mỗi tháng các
cây đó sẽ sinh trái mới nhờ có nước chảy ra từ thánh điện. Trái dùng làm lương
thực còn lá để làm thuốc."
Ranh giới của xứ
13 Ðức Chúa là Chúa Thượng phán như
sau: Ðây là ranh giới để các ngươi theo đó mà chia nhau xứ sở làm phần gia
nghiệp cho mười hai chi tộc Ít-ra-en; Giu-se được hai phần. 14 Ai
trong các ngươi cũng đều được chia xứ sở làm phần gia nghiệp, vì Ta đã giơ tay
thề là ban đất ấy cho tổ tiên các ngươi. Ðất này phải rơi vào tay các ngươi làm
phần gia nghiệp. 15 Ðây là ranh giới của xứ này. Phía bắc: từ Biển
Lớn, theo hướng Khét-lôn, cho đến Cửa ải Kha-mát, Xơ-đát, 16 Bê-rô-tha,
Xíp-ra-gim nằm giữa lãnh thổ Ða-mát và lãnh thổ Kha-mát, Kha-xa Ha Ti-khôn nằm
về phía ranh giới Khau-ran; 17 ranh giới sẽ chạy dài từ Biển cho tới
Kha-xa Ê-nan, phía bắc là lãnh thổ của Ða-mát và của Kha-mát: đó là ranh giới
phía bắc. 18 Phía đông: từ giữa Khau-ran và Ða-mát, sông Gio-đan
được dùng làm ranh giới giữa Ga-la-át và xứ Ít-ra-en, cho đến tận Biển Ðông, về
phía Ta-ma: đó là ranh giới phía đông. 19 Phía nam: từ Ta-ma cho tới
dòng nước Mơ-ri-va ở Ca-đê, dọc theo con sông đến tận Biển Lớn: đó là ranh giới
phía nam. 20 Còn phía tây: Biển Lớn được dùng làm ranh giới cho tới
trước mặt Cửa Ải Kha-mát: đó là ranh giới phía tây. 21 Các ngươi hãy
chia nhau xứ này, theo số các chi tộc Ít-ra-en. 22 Các ngươi hãy bắt
thăm để chia nhau đất này làm phần gia nghiệp cho các ngươi, cũng như cho các
ngoại kiều đang cư ngụ giữa các ngươi và đã sinh con cái ở giữa các ngươi. Các
ngươi phải coi chúng như người bản xứ. Chúng cũng sẽ bắt thăm như các ngươi để
được phần gia nghiệp ở giữa các chi tộc Ít-ra-en. 23 Người ngoại
kiều cư ngụ trong chi tộc nào, thì các ngươi phải cho nó phần gia nghiệp của nó
trong chi tộc ấy, - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
Chương 48
Phân chia xứ sở
1 Ðây là danh sách các chi tộc.
Phần của Ðan: ở cực bắc, về phía Khét-lôn, phía Cửa ải Kha-mát và Kha-xa Ê-nan,
lãnh thổ của Ða-mát, ở phía bắc, dọc theo Kha-mát, từ ranh giới phía đông sang
ranh giới phía tây. 2 Phần của A-se: dọc theo biên giới của Ðan, từ
ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây. 3 Phần của Náp-ta-li:
dọc theo biên giới của A-se, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây. 4
Phần của Mơ-na-se: dọc theo biên giới của Náp-ta-li, từ ranh giới phía
đông sang ranh giới phía tây. 5 Phần của Ép-ra-im: dọc theo biên
giới của Mơ-na-se, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây. 6 Phần
của Rưu-vên: dọc theo biên giới Ép-ra-im, từ ranh giới phía đông sang ranh giới
phía tây. 7 Phần của Giu-đa: dọc theo biên giới của Rưu-vên, từ ranh
giới phía đông sang ranh giới phía tây. 8 Dọc theo biên giới của
Giu-đa, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây, các ngươi sẽ trích ra
một phần rộng mười hai ngàn năm trăm thước và dài bằng phần của mỗi chi tộc, từ
ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây. Thánh điện sẽ nằm ở giữa.
9 Các ngươi sẽ trích ra một phần để
dâng kính Ðức Chúa: dài mười hai ngàn năm trăm thước và rộng mười ngàn thước. 10
Ðây sẽ là phần trích dâng làm đất thánh dành cho các tư tế: phía bắc dài
mười hai ngàn năm trăm thước; phía tây rộng năm ngàn thước; phía đông rộng năm
ngàn thước; phía nam dài mười hai ngàn năm trăm thước. Thánh điện của Ðức Chúa
sẽ nằm ở giữa. 11 Ðó là phần dành cho các tư tế đã được thánh hiến,
thuộc dòng dõi Xa-đốc, những người đảm trách việc phục vụ Ta; chúng đã không
lầm lạc vào lúc con cái Ít-ra-en lầm lạc cũng như các thầy Lê-vi lầm lạc. 12
Sẽ thuộc về chúng một phần lấy từ phần trích dâng rất thánh trong xứ, gần
lãnh thổ các thầy Lê-vi. 13 Còn thuộc về các thầy Lê-vi một phần
tương ứng với lãnh thổ của các tư tế, dài mười hai ngàn năm trăm thước, rộng
năm ngàn thước. Tất cả dài mười hai ngàn năm trăm thước, rộng mười ngàn thước. 14
Không được đem đất ấy bán hay đổi chác, không được chuyển nhượng phần đất
tuyệt hảo của xứ, vì đó là của thánh dâng kính Ðức Chúa. 15 Phần còn
lại rộng hai ngàn năm trăm thước, dài mười hai ngàn năm trăm thước, đó là đất
phàm tục, dùng để làm thành, làm nhà ở và làm đồng cỏ. Thành sẽ nằm ở giữa. 16
Ðây là kích thước của thành: phía bắc: hai ngàn hai trăm năm mươi thước;
phía nam: hai ngàn hai trăm năm mươi thước; phía đông: hai ngàn hai trăm năm
mươi thước; phía tây: hai ngàn hai trăm năm mươi thước. 17 Ðồng cỏ
dành cho thành: phía bắc: một trăm hai mươi lăm thước; phía nam: một trăm hai
mươi lăm thước; phía đông: một trăm hai mươi lăm thước; phía tây: một trăm hai
mươi lăm thước. 18 Phần còn lại có chiều dài chạy dọc theo phần
trích dâng thánh: năm ngàn thước về phía đông và năm ngàn thước về phía tây;
lợi tức của phần đất này sẽ dùng làm lương thực nuôi những người lao động trong
thành. 19 Những người lao động trong thành, thuộc mọi chi tộc
Ít-ra-en, sẽ canh tác phần đất này. 20 Toàn bộ phần đất ấy là mười
hai ngàn năm trăm thước trên mười hai ngàn năm trăm thước: đó là phần đất
vuông; các ngươi sẽ trích ra một phần làm phần trích dâng thánh và phần sở hữu
của thành. 21 Phần còn lại thuộc về ông hoàng thì ở hai bên phần
trích dâng thánh và phần sở hữu của thành: từ cạnh phía đông của phần trích
dâng - dài mười hai ngàn năm trăm thước - cho đến ranh giới phía đông; từ cạnh
phía tây của phần trích dâng - dài mười hai ngàn năm trăm thước - cho đến ranh
giới phía tây. Ðó là phần của ông hoàng tương ứng với những phần khác. Phần
trích dâng thánh và thánh điện của Ðền Thờ sẽ nằm ở giữa phần đất ấy. 22 Như
thế, phần của ông hoàng sẽ nằm ở giữa lãnh thổ Giu-đa và lãnh thổ Ben-gia-min.
Còn phần sở hữu của các thầy Lê-vi và phần sở hữu của thành thì nằm giữa hai
phần của ông hoàng.
23 Ðây là các chi tộc còn lại: phần
của Ben-gia-min: từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây. 24 Phần
của Si-mê-ôn: dọc theo biên giới của Ben-gia-min, từ ranh giới phía đông sang
ranh giới phía tây. 25 Phần của Ít-xa-kha: dọc theo biên giới của
Si-mê-ôn, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây. 26 Phần
của Dơ-vu-lun: dọc theo biên giới của Ít-xa-kha, từ ranh giới phía đông sang
ranh giới phía tây. 27 Phần của Gát: dọc theo biên giới của
Dơ-vu-lun, từ ranh giới phía đông sang ranh giới phía tây. 28 Còn
biên giới phía nam của Gát, về mạn nam: biên giới này sẽ chạy từ Ta-ma cho tới
dòng nước Mơ-ri-va ở Ca-đê, dọc theo con sông, đến tận Biển Lớn. 29 Ðó
là xứ các ngươi sẽ bắt thăm để chia làm phần gia nghiệp cho các chi tộc
Ít-ra-en; đó sẽ là phần của chúng - sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa Thượng.
Các cổng thành Giê-ru-sa-lem
30 Còn đây là các lối ra của thành.
Cạnh phía bắc: hai ngàn hai trăm năm mươi thước. 31 Các cổng thành
sẽ mang tên các chi tộc Ít-ra-en. Ba cổng ở phía bắc: một cổng mang tên
Rưu-vên; một cổng mang tên Giu-đa; một cổng mang tên Lê-vi. 32 Phía
đông, hai ngàn hai trăm năm mươi thước và ba cổng: một cổng mang tên Giu-se;
một cổng mang tên Ben-gia-min; một cổng mang tên Ðan. 33 Phía nam,
hai ngàn hai trăm năm mươi thước và ba cổng: một cổng mang tên Si-mê-ôn; một
cổng mang tên Ít-xa-kha; một cổng mang tên Dơ-vu-lun. 34 Phía tây,
hai ngàn hai trăm năm mươi thước và ba cổng: một cổng mang tên Gát; một cổng
mang tên A-se; một cổng mang tên Náp-ta-li. 35 Chu vi là chín ngàn
thước.
Và từ nay trở đi, tên của thành
sẽ là: "Ðức Chúa-ngự-ở-đó."
Đa-ni-en
Chương 01
I. Các trình Thuật
1. Trẻ Em Do-Thái
Tại Triều Ðình Vua
Na-Bu-Cô-Ðô-Nô-Xo
1 Năm thứ ba, đời vua
Giơ-hô-gia-kim cai trị xứ Giu-đa, vua xứ Ba-by-lon là Na-bu-cô-đô-nô-xo đến bao
vây thành Giê-ru-sa-lem. 2 Chúa trao vua xứ Giu-đa là Giơ-hô-gia-kim
cùng với tất cả đồ dùng của Nhà Chúa vào tay vua Na-bu-cô-đô-nô-xo. Ông này
mang những thứ ấy về đền thờ các thần của ông ta ở xứ Sin-a và bỏ vào nhà kho
của các thần.
3 Nhà vua truyền cho quan đứng đầu
các thái giám là Át-pơ-nát chọn trong số con cái Ít-ra-en một vài đứa trẻ thuộc
dòng dõi hoàng gia và hàng quý tộc mà dẫn về. 4 Những đứa trẻ này
phải là những đứa không khuyết tật, diện mạo khôi ngô, đã được học mọi lẽ khôn
ngoan, hiểu rộng biết nhiều, trí khôn sắc sảo, có khả năng đứng chầu trong điện
vua. Ông Át-pơ-nát còn phải dạy cho chúng biết chữ viết và tiếng nói của người
Can-đê. 5 Nhà vua dành cho chúng khẩu phần hằng ngày trong thức ăn
rượu uống của nhà vua. Chúng phải được nuôi dạy ba năm, và sau thời hạn đó,
phải ra mắt nhà vua. 6 Trong số các trẻ ấy có Ða-ni-en, Kha-na-ni-a,
Mi-sa-ên và A-da-ri-a là những người Giu-đa. 7 Quan đứng đầu các
thái giám đổi tên cho chúng: Ða-ni-en thành Bên-tơ-sát-xa, Kha-na-ni-a thành
Sát-rác, Mi-sa-ên thành Mê-sác và A-da-ri-a thành A-vết Nơ-gô. 8 Phần
Ða-ni-en, vì quyết tâm không để mình bị ô uế do thức ăn rượu uống của nhà vua,
nên đã xin quan cho mình khỏi bị ô uế. 9 Chúa đã khiến cho Ða-ni-en
được cảm tình của quan đứng đầu các thái giám. 10 Nhưng quan này nói
với Ða-ni-en rằng: "Ta sợ đức vua; vua đã chỉ định đồ ăn thức uống cho các
ngươi. Vua mà thấy mặt mũi các ngươi gầy ốm hơn các bạn cùng tuổi thì chính các
ngươi sẽ khiến ta mang tội trước mặt vua.” 11 Ða-ni-en thưa với
người được quan đứng đầu các thái giám chỉ định để trông coi Ða-ni-en,
Kha-na-ni-a, Mi-sa-ên và A-da-ri-a: 12 "Xin quan cứ thử các tôi
tớ của quan đây trong mười ngày: cứ cho chúng tôi ăn rau uống nước, 13 rồi
quan nhìn sắc mặt chúng tôi và sắc mặt những đứa dùng thức ăn của nhà vua. Lúc
đó quan thấy thế nào thì cứ xử với các tôi tớ của quan như vậy.” 14 Quan
chấp nhận lời các cậu ấy xin và thử trong mười ngày. 15 Hết mười
ngày, quan thấy các cậu sắc mặt hồng hào, da thịt đầy đặn hơn tất cả những đứa
đã dùng thức ăn của nhà vua. 16 Thế là quan giám thị cất phần thức
ăn rượu uống của các cậu đi và cứ cho ăn rau. 17 Bốn cậu bé này đều
được Chúa ban ơn hiểu rộng biết nhiều về tất cả chữ nghĩa và lẽ khôn ngoan.
Riêng Ða-ni-en còn được hiểu biết mọi thị kiến và điềm báo mộng. 18 Khi
đến thời hạn phải đưa bọn trẻ ra như vua đã truyền, thì quan đứng đầu các thái
giám đem chúng ra trước mặt vua Na-bu-cô-đô-nô-xo. 19 Nhà vua nói
chuyện với chúng, và trong số các trẻ ấy không có đứa nào được như Ða-ni-en,
Kha-na-ni-a, Mi-sa-ên và A-da-ri-a. Thế là bốn cậu này được đứng chầu vua, 20
và khi vua hỏi các cậu về bất cứ điều gì cần đến sự khôn ngoan và tài
trí, thì đều thấy các cậu trổi vượt gấp mười lần hơn tất cả các thầy phù thủy
và pháp sư trong toàn vương quốc. 21 Ða-ni-en ở lại đó cho đến năm
thứ nhất triều vua Ky-rô.
Chương 02
2. Vua Na-Bu-Cô-Ðô-Nô-Xo Chiêm
Bao:
Pho Tượng Kỳ Quái
Nhà vua hỏi các thầy pháp sư
1 Năm thứ hai triều vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua đã thấy chiêm bao khiến vua bối rối trong tâm hồn, không
sao ngủ được. 2 Vua cho vời tất cả những thầy phù thuỷ, pháp sư,
đồng bóng và chiêm tinh đến nói cho vua biết vua đã thấy gì trong giấc chiêm
bao. Họ vào chầu vua. 3 Vua nói với họ: "Ta đã thấy chiêm bao,
và tâm hồn ta bối rối vì muốn biết mình đã thấy gì trong giấc chiêm bao.” 4
Và những nhà chiêm tinh ấy tâu vua bằng tiếng A-ram: "Thánh thượng
vạn tuế. Xin thánh thượng kể cho các tôi tớ ngài giấc chiêm bao và bầy tôi sẽ
giải nghĩa.” 5 Nhà vua trả lời họ rằng: "Các ngươi phải hiểu rõ
lệnh ta. Nếu các ngươi không nói được cho ta biết ta đã thấy gì trong giấc
chiêm bao và không giải nghĩa được cho ta, thì các ngươi sẽ bị xử lăng trì và
nhà các ngươi sẽ trở thành đống bùn. 6 Còn nếu các ngươi cho ta biết
ta đã thấy gì trong giấc chiêm bao và giải nghĩa được cho ta, thì các ngươi sẽ
được ta ban quà, ban tặng vật và chức trọng quyền cao. Vậy các ngươi hãy nói
cho ta biết ta đã thấy gì trong giấc chiêm bao và ý nghĩa của nó là thế nào.” 7
Họ lại đáp rằng: "Xin đức vua kể giấc chiêm bao cho các tôi tớ nghe,
rồi chúng thần sẽ trình bày ý nghĩa giấc chiêm bao.” 8 Nhà vua đáp
lại rằng: "Ta biết chắc chắn các ngươi đang tìm cách kéo dài thời gian vì
biết lệnh ta đã ra là 9 nếu các ngươi không cho ta biết được giấc chiêm bao thì
tất cả các ngươi sẽ chịu chung một án lệnh, nên các ngươi đã đem lời dối trá
quanh co mà tâu trước mặt ta cho qua thời giờ. Vậy các ngươi hãy nói cho ta
nghe giấc chiêm bao và như thế ta sẽ biết các ngươi có thể giải nghĩa cho ta
được.” 10 Những nhà chiêm tinh đáp lời vua và tâu rằng: "Không
có người nào trên mặt đất này có thể tỏ bày chuyện của nhà vua, bởi vì không có
vị vua nào, dù cao cả quyền uy mấy đi nữa, lại đem một chuyện như thế ra hỏi
nhà phù thuỷ, pháp sư và nhà chiêm tinh. 11 Chuyện vua hỏi đó là
chuyện khó khăn và không ai có thể trình bày trước mặt vua ngoài các bậc thần
linh, mà các bậc ấy thì không ở chung với người phàm.” 12 Nghe thế,
nhà vua nổi cơn lôi đình và truyền tiêu diệt tất cả các người thông thái ở
Ba-by-lon. 13 Thế là lệnh được ban ra truyền giết các nhà thông
thái. Và người ta tìm Ða-ni-en với các bạn để đem đi giết.
Ông Ða-ni-en can thiệp
14 Bấy giờ ông Ða-ni-en đem lời khôn
khéo nói với quan A-ri-ốc là người chỉ huy đám thị vệ đang trên đường đi giết
các nhà thông thái của Ba-by-lon. 15 Ông Ða-ni-en thưa với viên sĩ
quan của nhà vua là A-ri-ốc rằng: "Tại sao vua lại ra lệnh vội vã
thế?" Bấy giờ quan A-ri-ốc nói cho ông Ða-ni-en biết sự việc. 16 Ông
Ða-ni-en liền vào xin vua cho triển hạn để ông tìm ra lời giải thích cho vua. 17
Rồi ông Ða-ni-en về nhà kể cho các bạn là Kha-na-ni-a, Mi-sa-ên và
A-da-ri-a biết sự việc, 18 và bảo họ kêu xin Ðức Chúa Trời dủ lòng
thương cho biết điều bí nhiệm này, để Ða-ni-en và các bạn khỏi bị tiêu diệt
cùng với các nhà thông thái của Ba-by-lon. 19 Bấy giờ ông Ða-ni-en
được mặc khải điều bí nhiệm ấy trong giấc chiêm bao ban đêm. Ông Ða-ni-en liền
chúc tụng Ðức Chúa Trời 20 bằng những lời sau đây:
"Chúc tụng danh Chúa muôn
muôn đời,
vì Người là Ðấng khôn ngoan và
quyền năng.
21 Người là Ðấng làm cho tứ thời bát
tiết chuyển vần,
Người phế lập các vua,
Người ban sự khôn ngoan cho các
nhà thông thái,
ban tri thức cho người hiểu rộng
biết nhiều.
22 Người mặc khải điều thẳm sâu và
bí ẩn:
Người biết những gì ở trong cõi
tối tăm,
và ánh sáng ở với Người.
23 Lạy Ngài là Chúa của tổ tiên
chúng con,
con cảm tạ và ngợi khen Ngài,
vì Ngài đã cho con sự khôn ngoan
và sức mạnh.
Và giờ đây, Ngài đã cho con biết
điều chúng con xin Ngài:
vì Ngài đã cho con biết chuyện
của nhà vua."
24 Thế rồi ông Ða-ni-en vào gặp quan
A-ri-ốc là người đã nhận lệnh vua để tiêu diệt các nhà thông thái của Ba-by-lon.
Ông Ða-ni-en đến và nói với ông ta thế này: "Ðừng tiêu diệt các nhà thông
thái của Ba-by-lon. Hãy đưa tôi vào bệ kiến nhà vua và tôi sẽ trình bày cho vua
lời giải thích.” 25 Bấy giờ quan A-ri-ốc vội vã đưa ông Ða-ni-en vào
chầu vua và tâu vua thế này: "Trong số con cái Giu-đa bị lưu đày, thần đã
tìm thấy một người để trình bày cho bệ hạ lời giải mộng.” 26 Nhà vua
đáp và nói với ông Ða-ni-en, cũng gọi là Bên-tơ-sát-xa: "Liệu ngươi có thể
cho ta biết giấc chiêm bao ta đã thấy và ý nghĩa giấc chiêm bao ấy không?” 27
Ông Ða-ni-en đáp lời vua và nói: "Ðiều bí nhiệm mà đức vua hỏi thì
các nhà thông thái, các pháp sư, các thầy phù thủy và các thầy bói không thể
nào trình bày cho đức vua được. 28 Nhưng có Ðức Chúa Trời là Ðấng
mặc khải những điều bí nhiệm, chính Người cho đức vua Na-bu-cô-đô-nô-xo biết
điều gì sẽ xảy ra sau này. Ðang khi nằm trên giường, ngài đã chiêm bao và thấy
trong đầu như thế này:
29 Tâu đức vua, khi nằm trên giường,
ngài đã để trí suy nghĩ về những gì sẽ xảy ra sau này; và Ðấng mặc khải các
điều bí nhiệm đã cho ngài biết điều gì sẽ xảy ra. 30 Còn thần đây,
dù chẳng thông thái hơn ai, nhưng điều bí nhiệm này đã được mặc khải cho thần,
để thần trình bày cho đức vua lời giải nghĩa, ngõ hầu đức vua biết những ý nghĩ
trong lòng đức vua.
31 Tâu bệ hạ, ngài đã có một giấc
chiêm bao. Giấc chiêm bao ấy như thế này: một pho tượng, một pho tượng lớn,
sáng chói, đứng sừng sững trước mặt ngài, coi thật dễ sợ. 32 Ðầu pho
tượng ấy bằng vàng ròng, ngực và hai cánh tay bằng bạc, bụng và hai bắp đùi
bằng đồng, 33 hai bắp chân bằng sắt, hai bàn chân nửa sắt nửa sành. 34
Ngài đang mải nhìn thì bỗng có một tảng đá tách ra, dù không có bàn tay
nào đụng tới, nó đập vào pho tượng trúng hai chân nửa sắt nửa sành, khiến hai
bàn chân vỡ tan ra. 35 Bấy giờ tất cả cùng vỡ tan: cả sắt, sành,
đồng, bạc lẫn vàng, giống như rơm rác trên sân phơi lúa mùa hè bị gió cuốn đi
không để lại dấu vết gì. Còn tảng đá làm vỡ pho tượng thì trở thành một hòn núi
lớn choán hết mặt đất. 36 Ðó là giấc chiêm bao, còn ý nghĩa của nó
thì xin tâu trước bệ hạ. 37 Tâu bệ hạ, ngài là vua các vua, Ðức Chúa
Trời đã ban cho ngài vương quốc, quyền hành, thế lực và vinh quang. 38 Con
cái loài người, thú vật ngoài đồng, chim chóc trên trời, dù chúng ở đâu thì Ðức
Chúa Trời cũng giao vào tay ngài và đặt ngài làm chủ tể mọi loài. Cái đầu bằng
vàng chính là ngài vậy. 39 Sau triều đại ngài, sẽ xuất hiện một
vương quốc khác kém hơn ngài. Rồi một vương quốc thứ ba nữa, vương quốc bằng
đồng, sẽ thống trị cả mặt đất. 40 Còn vương quốc thứ tư vững như
sắt. Cũng như sắt nghiền nát và đập tan tất cả vương quốc đó - khác nào sắt phá
vỡ - cũng sẽ nghiền nát và phá vỡ tất cả. 41 Bàn chân và các ngón
chân mà ngài thấy nửa bằng đất sét, nửa bằng sắt là một vương quốc sẽ bị phân
chia, nhưng sẽ có một phần sức mạnh của sắt, vì ngài thấy sắt pha lẫn với đất
sét. 42 Các ngón chân phần bằng sắt, phần bằng đất sét là một vương
quốc nửa mạnh nửa yếu. 43 Việc ngài thấy sắt pha với đất sét nghĩa
là các vương quốc sẽ làm cho các chủng tộc pha lẫn với nhau, nhưng không gắn bó
với nhau được, cũng như sắt không hoà lẫn được với đất sét. 44 Trong
thời đại các vua này, Ðức Chúa Trời sẽ lập một vương quốc không bao giờ bị tiêu
diệt, vương quốc ấy không bị giao cho một dân khác, nhưng nó sẽ đập tan và tiêu
diệt tất cả mọi vương quốc này, đến muôn đời nó sẽ đứng vững; 45 cũng
như ngài đã thấy tảng đá bị tách khỏi núi dù không có bàn tay nào đụng tới,
tảng đá ấy đập tan cả sắt, đồng, đất sét, bạc và vàng. Thiên Chúa cao cả đã cho
đức vua biết chuyện gì sẽ xảy ra sau này. Giấc chiêm bao đúng là như thế và ý
nghĩa chắc chắn là như vậy."
Vua tuyên xưng lòng tin
46 Bấy giờ vua Na-bu-cô-đô-nô-xo sấp
mình phủ phục trước mặt ông Ða-ni-en rồi truyền dâng lễ phẩm và hương thơm cho
ông. 47 Vua đáp lời ông Ða-ni-en và nói: "Thiên Chúa của ngươi
quả là Thần các thần, là Chúa Tể các vua, và là Ðấng mặc khải những điều bí ẩn;
nhờ thế ngươi mới có thể tỏ lộ điều bí ẩn này.” 48 Vua liền đặt ông
Ða-ni-en lên chức cao và ban cho ông nhiều món quà lớn. Vua đặt ông làm người
cai quản toàn tỉnh Ba-by-lon và làm người đứng đầu các nhà thông thái của
Ba-by-lon. 49 Ông Ða-ni-en xin nhà vua đặt các ông Sát-rác, Mê-sác
và A-vết Nơ-gô lên trông coi tỉnh Ba-by-lon. Còn ông Ða-ni-en thì túc trực
trong đền vua.
Chương 03
2. Thờ Lạy Tượng Vàng
Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo dựng tượng vàng
1 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo làm một pho
tượng bằng vàng cao sáu mươi thước, ngang sáu thước, dựng trong cánh đồng Ðu-ra
thuộc tỉnh Ba-by-lon. 2 Rồi vua Na-bu-cô-đô-nô-xo sai người triệu
tập các thống đốc, thủ lãnh, tổng trấn, các cố vấn, các quan coi ngân khố, các
luật sĩ, thẩm phán và tất cả các quan chức hàng tỉnh đến khánh thành pho tượng
vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã dựng. 3 Bấy giờ các thống đốc, thủ lãnh,
tổng trấn, các cố vấn, các quan coi ngân khố, các luật sĩ, thẩm phán và tất cả
các quan chức hàng tỉnh tập họp để khánh thành pho tượng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo
đã dựng, và họ đứng trước pho tượng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã dựng. 4 Người
đọc lệnh hô to: "Lệnh cho các ngươi, hỡi mọi người thuộc mọi dân tộc,
giống nòi và ngôn ngữ: 5 Khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn
giây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, các ngươi phải sấp mình
thờ lạy pho tượng vàng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã dựng. 6 Kẻ nào không
sấp mình thờ lạy thì tức khắc sẽ bị ném vào đống lửa đang cháy phừng phực.” 7
Bởi vậy, khi các dân tộc vừa nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn giây,
đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, thì mọi người thuộc mọi dân tộc,
giống nòi và ngôn ngữ đều sấp mình thờ lạy pho tượng vàng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo
đã dựng.
Người Do-thái bị tố cáo và kết án
8 Bấy giờ có những người Can-đê đến
tố cáo người Do-thái. 9 Họ tâu vua Na-bu-cô-đô-nô-xo: "Ðức vua
vạn tuế! 10 Chính đức vua đã truyền rằng khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng
đàn giây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, mọi người phải sấp
mình thờ lạy pho tượng vàng, 11 và kẻ nào không sấp mình thờ lạy sẽ
bị ném vào đống lửa đang cháy phừng phực. 12 Vậy mà có mấy người
Do-thái đức vua đã đặt lên trông coi tỉnh Ba-by-lon là Sát-rác, Mê-sác và A-vết
Nơ-gô, tâu đức vua, mấy người này đã không để tâm đến ngài, chúng không phụng
sự các thần của ngài, cũng không thờ lạy pho tượng vàng ngài đã dựng.” 13 Bấy
giờ vua Na-bu-cô-đô-nô-xo thịnh nộ truyền điệu Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô
tới. Họ liền điệu những người này ra trước mặt vua. 14 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo
cất tiếng nói với họ: "Này Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, các ngươi không
phụng sự các thần của ta và không thờ lạy pho tượng vàng ta đã dựng nên, có
đúng như vậy không? 15 Bây giờ khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn giây,
đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, các ngươi có sẵn sàng sấp mình
thờ lạy pho tượng ta đã làm không? Nếu các ngươi không thờ lạy thì tức khắc các
ngươi sẽ bị ném vào lò lửa đang cháy phừng phực, liệu có Thiên Chúa nào cứu
được các ngươi khỏi tay ta chăng?” 16 Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô
trả lời vua Na-bu-cô-đô-nô-xo rằng: "Chúng tôi không cần trả lời ngài về
chuyện này. 17 Nếu Thiên Chúa chúng tôi thờ có sức cứu chúng tôi thì
tâu đức vua, Người sẽ cứu chúng tôi khỏi lò lửa đang cháy phừng phực và khỏi tay
ngài. 18 Còn nếu Người không cứu, thì xin đức vua biết cho rằng
chúng tôi cũng không phụng sự các thần của ngài, và cũng không thờ lạy pho
tượng vàng ngài đã dựng đâu!” 19 Bấy giờ vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đổi
sắt mặt, nổi cơn lôi đình với Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô. Vua lên tiếng
truyền đốt lò lửa mạnh hơn mọi khi gấp bảy lần. 20 Rồi vua ra lệnh
cho những người lực lưỡng nhất trong quân đội của vua trói Sát-rác, Mê-sác và
A-vết Nơ-gô và quăng họ vào lò lửa đang cháy phừng phực. 21 Bấy giờ
những người này bị trói lại, vẫn mặc nguyên cả áo ngoài, áo trong, mũ nón, giày
dép và bị quăng vào lò lửa đang cháy phừng phực. 22 Lệnh vua thúc
bách, lửa bốc quá cao nên ngọn lửa giết chết chính những người đem Sát-rác,
Mê-sác và A-vết Nơ-gô lên miệng lò. 23 Còn ba người ấy là Sát-rác,
Mê-sác và A-vết Nơ-gô rơi xuống lò lửa đang cháy phừng phực, mình vẫn bị trói.
Thánh ca của A-da-ri-a trong lò
lửa
24+ Rồi giữa ngọn lửa, họ vừa đi
lại, vừa ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa. 25+ A-da-ri-a đứng giữa đám lửa và cất
tiếng cầu nguyện rằng:
26+ Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ
tiên chúng con,
xin chúc tụng và ca ngợi Chúa,
cùng tôn vinh Danh Thánh mãi muôn
đời,
27+ vì trong hết mọi việc Chúa
làm cho chúng con,
Chúa đã xử công minh chính trực.
Mọi việc Chúa làm đều đáng cậy
tin,
đường lối Chúa quả là ngay thẳng,
mọi phán quyết của Ngài thật công
minh.
28+ Ngài đã tuyên án theo công
lý,
qua mọi điều Ngài bắt chúng con
phải chịu,
chúng con cũng như Giê-ru-sa-lem
là thành thánh của cha ông chúng
con.
Phải, Chúa đã phán quyết thật
công minh
khi bắt chúng con phải chịu mọi
điều ấy,
bởi vì chúng con đã phạm tội.
29+ Quả chúng con đã phạm tội,
đã làm điều gian ác khi dám lìa
xa Ngài.
Trong mọi sự, chúng con đã nặng
nề sai lỗi,
đã chẳng tuân theo mệnh lệnh
Ngài.
30+ Chúng con đã bất tuân,
đã không hành động theo lệnh Ngài
truyền,
nên không được hưởng nhờ ơn phúc.
31+ Phải, mọi sự Ngài đã bắt
chúng con phải chịu,
mọi sự Ngài đã làm cho chúng con,
Ngài đã làm tất cả thật chính
trực công minh.
32+ Ngài đã nộp chúng con vào tay
bọn địch thù gian ác
là những kẻ ngoại giáo ác ôn.
Ngài đã nộp chúng con cho một vua
bất chính
xấu xa nhất trên đời.
33+ Bây giờ, chúng con đâu còn
dám mở miệng,
vì phải cùng chịu nhục nhằn xấu
hổ
với những ai phục vụ và phụng thờ
Ngài.
34+ Ôi! Vì danh thánh Chúa, xin
đừng mãi mãi bỏ rơi chúng con,
đừng huỷ bỏ giao ước của Ngài!
35+ Vì tình nghĩa với bạn thân
Ngài là Áp-ra-ham,
với tôi tớ Ngài là I-xa-ác, và kẻ
Ngài thánh hoá là Ít-ra-en,
xin Ngài đừng rút lại
lòng thương xót đã dành cho chúng
con.
36+ Ngài đã hứa làm cho dòng dõi
họ
đông đảo như sao trên bầu trời,
như cát ngoài bãi biển.
37+ Thế mà hôm nay, lạy Chúa, vì
tội lỗi chúng con,
chúng con đã thành dân nhỏ nhất,
đã nếm mùi ô nhục trên khắp hoàn
cầu.
38+ Ngày nay chẳng còn vị thủ
lãnh,
chẳng còn bậc ngôn sứ, chẳng còn
người chỉ huy.
Lễ toàn thiêu, lễ hy sinh đã hết,
lễ tiến, lễ hương cũng chẳng còn,
chẳng còn nơi dâng của đầu mùa
lên Chúa
để chúng con được Chúa xót
thương.
39+ Nhưng xin nhận tâm hồn thống
hối
và tinh thần khiêm nhượng của
chúng con,
thay của lễ toàn thiêu chiên bò,
và ngàn vạn cừu non béo tốt.
40+ Ước gì hy lễ chúng con thượng
tiến Ngài hôm nay
cũng làm đẹp ý Ngài như vậy.
Ước gì chúng con theo Ngài mãi
đến cùng,
vì những ai tin cậy vào Ngài, đâu
có phải ê chề thất vọng.
41+ Và giờ đây, chúng con hết
lòng đi theo Chúa,
kính sợ Ngài và tìm kiếm Thánh
Nhan.
Xin đừng để chúng con phải thẹn
thùng xấu hổ.
42+ Nhưng xin Ngài tỏ lòng nhân
hậu
và lòng thương xót vô biên của
Ngài
khi Ngài đối xử với chúng con.
43+ Xin làm những việc lạ lùng kỳ
diệu
mà giải thoát chúng con
và tôn vinh danh Ngài, lạy Chúa.
44+ Ước gì những kẻ gây tai hoạ
cho các tôi tớ Ngài
phải bẽ mặt hổ ngươi.
Ước gì chúng phải xấu hổ thẹn
thùng,
mất hết mọi uy thế và quyền thống
trị,
và ước gì sức mạnh của chúng bị
đập tan.
45+ Ước gì chúng nhận biết Ngài
chính là Chúa Tể,
là Thiên Chúa duy nhất quang vinh
trên khắp cõi trần gian.
46+ Sau khi quăng ba thanh niên
vào lò, các thuộc hạ của vua không ngừng đốt lò bằng dầu, nhựa, xơ gai và cành
nho. 47+ Ngọn lửa bốc lên trên lò hai mươi bốn thước rưỡi, 48+ rồi lan ra, đốt
cháy những người Can-đê đứng xung quanh lò. 49+ Nhưng thiên sứ của Ðức Chúa
trước đây đã xuống trong lò cùng lúc với A-da-ri-a và các bạn, nay đẩy ngọn lửa
ra khỏi lò. 50+ Thiên sứ làm cho trung tâm lò thành nơi mát mẻ như có một làn
gió nhẹ rì rào, khiến cho lửa không hề đụng tới họ và chẳng gây phiền hà đau
đớn gì cho họ cả.
Thánh ca của ba thanh niên trong
lò lửa
51+ Bấy giờ trong lò lửa, cả ba
người đều đồng thanh ca ngợi, tôn vinh và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
52+ "Lạy Chúa, chúc tụng Ngài
là Thiên Chúa tổ tiên chúng con,
xin dâng lời khen ngợi suy tôn
muôn đời.
Chúc tụng danh thánh Ngài vinh
hiển,
xin dâng lời khen ngợi suy tôn
muôn đời.
53+ Chúc tụng Chúa trong thánh
điện vinh quang,
xin dâng lời ca tụng tôn vinh
muôn đời.
54+ Chúc tụng Chúa trên ngôi báu
cửu trùng,
xin dâng lời ca tụng suy tôn muôn
đời.
55+ Chúc tụng Chúa, Ðấng ngự trên
các thần hộ giá
mà thấu nhìn vực thẳm,
xin dâng lời khen ngợi suy tôn
muôn đời.
56+ Chúc tụng Chúa trên vòm trời
tận chốn cao xanh,
xin dâng lời ca tụng tôn vinh
muôn đời.
57+ Chúc tụng Chúa đi, mọi công
trình của Chúa,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
58+ Chúc tụng Chúa đi, các thiên
sứ của Người,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
59+ Chúc tụng Chúa đi, chín tầng
trời thăm thẳm,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
60+ Chúc tụng Chúa đi, nguồn nước
tận cao xanh,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
61+ Chúc tụng Chúa đi, mọi cơ
binh thượng giới,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
62+ Chúc tụng Chúa đi, mặt trời
với mặt trăng,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
63+ Chúc tụng Chúa đi, hỡi tinh
tú trên trời,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
64+ Chúc tụng Chúa đi, nào mưa
sương tất cả,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
65+ Chúc tụng Chúa đi, mọi luồng
gió cơn dông,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
66+ Chúc tụng Chúa đi, sức nóng
với lửa hồng,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
67+ Chúc tụng Chúa đi, trời nồng
và khí lạnh,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
68+ Chúc tụng Chúa đi, nào sương
đọng mưa tuôn,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
69+ Chúc tụng Chúa đi, kìa thời
đông tiết giá,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
70+ Chúc tụng Chúa đi, này băng
phủ tuyết rơi,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
71+ Chúc tụng Chúa đi, hỡi đêm
ngày đắp đổi,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
72+ Chúc tụng Chúa đi, ánh sáng
và bóng tối,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
73+ Chúc tụng Chúa đi, chớp giật
với mây trôi,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
74+ Chúc tụng Chúa đi, tất cả
mười phương đất,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
75+ Chúc tụng Chúa đi, này đồi
xanh núi biếc,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
76+ Chúc tụng Chúa đi, kìa hoa lá
cỏ cây,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
77+ Chúc tụng Chúa đi, hỡi suối
nước tràn đầy,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
78+ Chúc tụng Chúa đi, nào sông
sâu biển cả,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
79+ Chúc tụng Chúa đi, kình ngư
cùng thủy tộc,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
80+ Chúc tụng Chúa đi, hết mọi
loài chim chóc,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
81+ Chúc tụng Chúa đi, gia súc
lẫn thú rừng,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
82+ Chúc tụng Chúa đi, hỡi phàm
nhân dương thế,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
83+ Chúc tụng Chúa đi, dòng dõi
Ít-ra-en,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
84+ Chúc tụng Chúa đi, tư tế
phụng thờ Chúa,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
85+ Chúc tụng Chúa đi, tôi tớ
phục vụ Người,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
86+ Chúc tụng Chúa đi, hồn thiêng
hàng công chính,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
87+ Chúc tụng Chúa đi, người
thánh kẻ khiêm nhường,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
88+ Chúc tụng Chúa đi, này
Kha-na-ni-a,
A-da-ri-a và Mi-sa-ên hỡi,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy
tôn.
Vì Người đã kéo ta ra khỏi âm
phủ, đã cứu ta khỏi tay tử thần,
và đã giải thoát ta khỏi lò lửa
nóng bừng,
khỏi lửa hồng đốt cháy.
89+ Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân
từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương.
90+ Hỡi tất cả những ai kính sợ
Chúa,
hãy chúc tụng Chúa là Thần các
thần,
hãy dâng lời tạ ơn và ca tụng,
vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn
tình thương."
Vua nhìn nhận phép lạ
24 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo ngạc nhiên
đứng bật dậy và cất tiếng nói với các quan cố vấn: "Chẳng phải chúng ta đã
quăng ba người bị trói vào lửa sao?" Họ đáp rằng: "Tâu đức vua, đúng
thế!” 25 Vua cất tiếng nói: "Nhưng ta thấy có bốn người đang tự
do đi lại trong lò lửa mà không hề hấn gì, và dáng vẻ người thứ tư giống như
con của thần minh.” 26 Bấy giờ vua Na-bu-cô-đô-nô-xo tới gần cửa lò
đang cháy phừng phực, vua lên tiếng nói: "Hỡi Sát-rác, Mê-sác và A-vết
Nơ-gô là tôi tớ của Thiên Chúa Tối Cao, hãy bước ra và tới đây." Sát-rác,
Mê-sác và A-vết Nơ-gô liền bước ra khỏi lò lửa. 27 Các thống đốc,
thủ lãnh, tổng trấn và các cận thần của nhà vua xúm lại xem những người này,
thấy lửa không làm gì được thân thể họ, sợi tóc trên đầu họ cũng không bị cháy
sém, áo xống không hư hại, thậm chí mùi lửa cũng không bám vào họ. 28 Vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo cất tiếng nói: "Chúc tụng Thiên Chúa của Sát-rác, Mê-sác
và A-vết Nơ-gô, Người đã sai thiên sứ đến giải thoát các tôi tớ của Người là
những kẻ đã tin tưởng vào Người. Họ đã cưỡng lại lời vua, hy sinh tính mạng để
khỏi phụng sự và thờ lạy một thần nào khác ngoài Thiên Chúa của họ. 29 Vậy
ta truyền rằng bất cứ người nào thuộc bất cứ dân tộc, giống nòi, ngôn ngữ nào
dám nói điều gì sai quấy, phạm đến Thiên Chúa của Sát-rác, Mê-sác và A-vết
Nơ-gô, sẽ bị xử lăng trì, và nhà chúng sẽ trở thành đống bùn, bởi vì không có
thần nào khác có thể cứu được như thế.” 30 Rồi vua thăng chức cho
Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô trong tỉnh Ba-by-lon.
4. Ðiềm Báo Mộng Và Cơn Ðiên
Của Vua Na-Bu-Cô-Ðô-Nô-Xo
31 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo gửi cho
những người thuộc mọi dân tộc, mọi giống nòi, mọi ngôn ngữ, đang sống trên khắp
mặt đất: Chúc các ngươi vạn sự bình an! 32 Những điềm thiêng dấu lạ mà Thiên
Chúa Tối Cao đã làm cho ta, thì nay ta thấy nên công bố:
33 Những điềm thiêng dấu lạ của
Người thật lớn lao!
Những dấu lạ của Người thật kỳ
diệu!
Vương quốc của Người là vương
quốc vĩnh cửu!
Quyền thống trị của Người bền
vững muôn đời!
Chương 04
Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo kể lại giấc
chiêm bao
1 Ta là Na-bu-cô-đô-nô-xo, đang lúc
hưởng bình an dưới mái nhà, và thịnh vượng trong cung điện, 2 thì ta
đã có một giấc chiêm bao khiến ta phải kinh hoàng; những nỗi lo âu trên giường
nằm và những thị kiến trong đầu làm ta khiếp sợ. 3 Và ta đã truyền
lệnh phải đưa tất cả các nhà thông thái của Ba-by-lon đến trước mặt ta, để họ
cho ta biết ý nghĩa của giấc chiêm bao. 4 Bấy giờ tất cả các thầy
phù thuỷ, pháp sư, những nhà chiêm tinh và các thầy bói vào chầu. Ta đã kể cho
họ nghe giấc chiêm bao của ta, nhưng họ không thể cho ta biết được ý nghĩa của
giấc chiêm bao ấy. 5 Sau hết có Ða-ni-en vào chầu, người này mang
tên vị thần của ta là Bên-tơ-sát-xa, và cũng là người có thần khí của Thiên
Chúa ở nơi mình. Ta đã kể cho người ấy giấc chiêm bao của ta:
6 "Hỡi Bên-tơ-sát-xa là người
đứng đầu các thầy phù thuỷ, ta biết rằng có thần khí của các bậc thần thánh ở
nơi ngươi, và không có điều bí ẩn nào làm cho ngươi phải lúng túng. Ðây là
những điều ta đã thấy trong chiêm bao. Hãy giải nghĩa cho ta.
7 "Nằm trên giường, ta đã thấy
trong đầu ta như thế này:
"Ta đang nhìn,
bỗng thấy một cây ở giữa mặt đất,
một cây cao lắm.
8 Cây ấy lớn lên và vững mạnh, ngọn
cây chạm tới trời,
và ở tận cùng mặt đất cũng thấy
được.
9 Lá đẹp, trái nhiều, nó cung cấp
thức ăn cho mọi loài.
Thú vật ngoài đồng tìm bóng mát
dưới gốc,
chim trời trú ngụ trên cành.
Mọi loài có xương thịt đều lấy nó
làm thức ăn.
10 Nằm trên giường, ta đang nhìn xem
thị kiến trong đầu,
bỗng có một vị Canh thức, một vị
thánh từ trời xuống.
11 Vị ấy kêu lớn tiếng và nói thế
này:
"Ðốn cây xuống, chặt cành đi,
giũ cho trụi lá, quăng trái nó đi;
thú vật hãy rời xa bóng nó, và
chim trời hãy lìa bỏ cành nó.
12 Nhưng gốc rễ nó, hãy để lại dưới
đất,
lấy đai sắt, đai đồng mà xiềng
giữa cỏ xanh đồng nội.
Nó phải chịu dầm sương và ăn cỏ
chung với thú vật ngoài đồng.
13 Hãy lấy đi quả tim con người của
nó,
và thay vào đó một quả tim thú
vật,
cứ để nó như vậy suốt bảy thời.
14 Án phạt này là do lệnh của các vị
Canh thức,
quyết định này là do lời của các
bậc thánh nhân,
cốt cho mọi sinh linh biết rằng:
Ðấng Tối Cao cai trị vương quốc
loài người
và trao vương quốc ấy cho kẻ nào
Người muốn.
Người đặt kẻ hèn mọn nhất lên cầm
đầu.
15 Ta, Na-bu-cô-đô-nô-xo, ta đã thấy
giấc chiêm bao ấy. Còn ngươi, hỡi Bên-tơ-sát-xa, hãy công bố lời giải mộng, vì
tất cả các nhà thông thái trong nước không giải được cho ta. Nhưng ngươi giải
được, vì thần khí của các bậc thần linh ở nơi ngươi!"
Ông Ða-ni-en giải mộng
16 Bấy giờ ông Ða-ni-en, cũng gọi là
Bên-tơ-sát-xa, lặng người đi một lúc, tâm trí ông bàng hoàng. Nhà vua lên tiếng
nói: "Hỡi Bên-tơ-sát-xa, đừng để giấc chiêm bao và lời giải mộng làm ngươi
bàng hoàng." Bên-tơ-sát-xa đáp: "Tâu chúa thượng, mong cho giấc chiêm
bao ấy là của những kẻ ghét ngài, và lời giải mộng dành cho kẻ thù của ngài. 17
Cây ngài đã thấy lớn lên và vững mạnh, ngọn chạm tới trời, và cả mặt đất
đều thấy được, 18 lá đẹp, trái nhiều, cung cấp thức ăn cho mọi loài,
thú đồng núp dưới bóng, và chim trời đậu trên cành, 19 tâu đức vua,
cây ấy chính là ngài. Ngài đã lớn lên và vững mạnh: sự cao cả của ngài chạm tới
trời và quyền thống trị của ngài trải rộng đến tận cùng cõi đất.
20 "Sau đó ngài đã thấy một vị
Canh thức, cũng là một vị thánh từ trời xuống, nói rằng: "Ðốn cây xuống,
huỷ nó đi, nhưng gốc rễ nó thì để lại dưới đất, lấy đai sắt đai đồng mà xiềng
giữa cỏ xanh đồng nội; nó phải chịu dầm sương và ăn cỏ chung với thú vật ngoài
đồng. Nó phải chịu như vậy bảy thời.” 21 Tâu đức vua, đây là lời
giải mộng và cũng là lệnh Ðấng Tối Cao ban xuống cho ngài, chúa công của thần.
22 "Ngài sẽ bị đuổi, không được
chung sống với người ta,
nhưng phải sống chung với thú vật
ngoài đồng,
phải ăn cỏ như bò, và dầm sương
suốt bảy năm ròng rã,
cho tới lúc ngài chịu nhận ra
rằng Ðấng Tối Cao cai trị vương
quốc loài người,
và Người trao cho kẻ nào Người
muốn.
23 "Còn lệnh phải để gốc rễ lại
có nghĩa như sau: Vương quốc của ngài sẽ vẫn là của ngài, sau khi ngài chịu
công nhận quyền cai trị của Trời. 24 Vì thế, tâu đức vua, xin vui
lòng nghe theo lời thần đề nghị mà đái tội lập công, bằng cách làm việc nghĩa,
là tỏ lòng từ bi đối với người nghèo, may ra thời thịnh vượng của ngài sẽ được
kéo dài thêm chăng."
Giấc mơ thành hiện thực
25 Tất cả những điều trên đây đã xảy
ra cho vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đúng như vậy. 26 Mười hai tháng trôi
qua, nhân lúc đi dạo trên sân thượng hoàng cung ở Ba-by-lon, 27 nhà
vua lên tiếng nói: "Ðây chẳng phải là Ba-by-lon vĩ đại, thành ta đã dùng
quyền lực lớn lao mà xây dựng làm hoàng cung, để ta được vinh quang rạng rỡ đó
sao?” 28 Vua còn đang nói thì có tiếng từ trời vọng xuống:
"Nghe đây, hỡi vua
Na-bu-cô-đô-nô-xo:
Vương quyền ngươi nắm giữ đã vuột
khỏi tay ngươi,
29 ngươi sẽ bị đuổi, không được
chung sống với người ta,
nhưng phải sống chung với thú vật
ngoài đồng,
phải ăn cỏ như bò.
Ngươi phải chịu như thế suốt bảy
thời ròng rã,
cho tới lúc ngươi chịu nhận ra
rằng Ðấng Tối Cao cai trị vương
quốc loài người,
và Người trao cho kẻ nào Người
muốn."
30 Ngay lúc đó, những lời trên đây
liên quan đến vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã nên ứng nghiệm. Ông bị đuổi, không được
chung sống với người ta, phải ăn cỏ như bò, mình mẩy ướt đẫm sương trời, và rồi
tóc tai dài dần ra như lông đại bàng, móng tay móng chân như thể móng chim.
31 "Khi mãn hạn, ta là
Na-bu-cô-đô-nô-xo, ta ngước mắt lên trời; cùng lúc, ta tỉnh trí lại và chúc
tụng Ðấng Tối Cao. Ta ca ngợi, tôn vinh Ðấng Hằng Sống:
Người nắm quyền thống trị muôn
đời,
vương quốc của Người tồn tại
thiên thu.
32 Trước nhan Người, dân cư trên mặt
đất đều bị kể như không.
Theo ý muốn của Người,
Người điều khiển cả đạo binh trên
trời, lẫn cư dân dưới đất.
Chẳng có ai cản được tay Người,
và dám hỏi rằng: Ngài làm gì
thế?"
33 Cùng lúc ấy, ta tỉnh trí lại. Ta
tìm lại được vinh quang huy hoàng thuở trước, nhờ đó, vương quốc của ta cũng sẽ
vẻ vang rạng rỡ. Các cố vấn và đại thần đến thăm viếng ta. Ta phục hồi được
quyền bính trên vương quốc, nhờ vậy, uy thế vốn lớn lao của ta càng gia tăng
gấp bội. 34 Giờ đây, ta, Na-bu-cô-đô-nô-xo,
ta ca ngợi, tán dương và tôn vinh
Vua Trời,
vì mọi việc Người làm đều chân
thật,
đường lối của Người vốn công
minh.
Người có quyền hạ bệ kẻ quen thói
kiêu căng hống hách."
Chương 05
5. Bữa Tiệc Của Vua Bên-Sát-Xa
1 Vua Bên-sát-xa mở tiệc lớn khoản
đãi một ngàn đại thần. Trước mặt những người này, vua uống rượu. 2 Khi
đã thấm hơi men, vua truyền mang ly mang chén bằng vàng bằng bạc mà vua cha là
Na-bu-cô-đô-nô-xo đã lấy ở đền thờ Giê-ru-sa-lem. Vua Bên-sát-xa định dùng
những ly chén này để uống rượu cùng với các đại thần, cung phi và cung nữ. 3
Bấy giờ người ta mang ly chén bằng vàng đã lấy từ cung thánh Ðền Thờ
Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem; vua và các đại thần, cung phi và cung nữ đều dùng
mà uống. 4 Họ vừa uống rượu vừa ca ngợi các thần bằng vàng, bạc,
đồng, sắt, gỗ và đá. 5 Ngay lúc ấy, những ngón tay người xuất hiện,
viết lên vách tường quét vôi của hoàng cung ở phía sau trụ đèn. Vua nhìn thấy
phần bàn tay đang viết. 6 Bấy giờ mặt vua biến sắc, tâm trí bàng
hoàng, ruột gan đòi đoạn, gối run cầm cập. 7 Vua lên tiếng ra lệnh
cho triệu các pháp sư, các nhà chiêm tinh và thầy bói. Rồi vua ngỏ lời với các
nhà thông thái Ba-by-lon rằng: "Phàm ai đọc nổi hàng chữ ấy và giải thích
được cho ta nghe, ta sẽ cho mặc cẩm bào đỏ thẫm, đeo vòng vàng vào cổ; người ấy
sẽ là nhân vật thứ ba trong vương quốc.” 8 Lúc đó, tất cả các nhà
thông thái của vua tiến vào, nhưng họ chẳng đọc được hàng chữ ấy, cũng không
giải thích nổi cho vua hiểu. 9 Bấy giờ vua Bên-sát-xa hết sức bàng
hoàng, mặt vua biến sắc. Các đại thần cũng hốt hoảng. 10 Nghe tiếng
nói của vua và các đại thần, hoàng thái hậu đi vào phòng tiệc. Bà lên tiếng
nói: "Thánh thượng vạn tuế! Xin thánh thượng đừng để cho tâm trí ra bàng
hoàng, đừng để dung nhan ngài phải biến sắc! 11 Trong vương quốc của ngài, có
một nhân vật mang nơi mình thần khí của các bậc thần thánh. Dưới thời phụ vương
của ngài, người ta gặp thấy nơi nhân vật ấy sự sáng suốt, thông hiểu và khôn
ngoan sánh được với sự khôn ngoan của các thần. Phụ vương của ngài là
Na-bu-cô-đô-nô-xo đã đặt ông ấy đứng đầu các thầy phù thuỷ, pháp sư, chiêm tinh
và thầy bói. 12 Bởi vì nơi ông ấy, tức là ông Ða-ni-en mà phụ vương
đã đặt tên là Bên-tơ-sát-xa, người ta gặp thấy thần khí siêu phàm, tri thức,
hiểu biết, tài giải mộng, tài cắt nghĩa điều bí nhiệm, tài tháo gỡ khó khăn,
nên xin cho gọi ông ấy đến; ông ấy sẽ giải thích được."
13 Bấy giờ ông Ða-ni-en được dẫn vào
chầu vua. Vua ngỏ lời với ông rằng: "Ngươi có phải là Ða-ni-en, một người
trong nhóm Giu-đa đi lưu đày mà phụ vương ta đã đưa từ Giu-đa về không? 14 Ta
đã nghe đồn rằng thần khí của các bậc thần minh ở nơi ngươi, nên ngươi mới có
sự sáng suốt, thông hiểu và khôn ngoan xuất chúng. 15 Người ta đã
dẫn các nhà thông thái và pháp sư đến để đọc và giải thích hàng chữ kia cho ta;
nhưng họ đều không giải thích được ý nghĩa. 16 Còn về ngươi, ta nghe
nói rằng ngươi có tài giải thích và tháo gỡ khó khăn. Vậy, nếu ngươi đọc và
giải thích được hàng chữ đó cho ta, thì ngươi sẽ được mặc cẩm bào đỏ thẫm, đeo
vòng vàng vào cổ, và sẽ là nhân vật thứ ba trong vương quốc."
17 Bấy giờ ông Ða-ni-en lên tiếng
nói trước mặt vua: "Tâu đức vua, lộc vua ban, xin giữ lại cho ngài; quà
vua tặng, xin dành cho người khác. Nhưng hàng chữ kia, thần xin đọc và giải
thích hầu đức vua. 18 Thiên Chúa là Ðấng Tối Cao, đã ban cho
Na-bu-cô-đô-nô-xo, phụ vương ngài, vương quốc với chức cao quyền trọng, vinh dự
và oai phong. 19 Chính vì chức cao quyền trọng Thiên Chúa ban cho
phụ vương mà mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều run rẩy kính sợ trước mặt
phụ vương. Người bắt ai phải chết hay cho ai được sống là tuỳ ý, người nâng ai
lên hay hạ ai xuống cũng tuỳ ý. 20 Nhưng khi trở nên tự cao tự đại
và sinh lòng kiêu căng quá mức, người đã bị truất ngôi và mất hết vinh dự. 21
Người đã bị đuổi, không được chung sống với người ta, bị mất trí, trở nên
giống thú vật, phải chung sống với lừa hoang và ăn cỏ như bò, mình mẩy ướt đẫm
sương trời, cho tới khi người nhận ra Thiên Chúa, Ðấng Tối Cao, là Ðấng cai trị
vương quốc loài người, và Thiên Chúa ban quyền cai trị này cho ai là tuỳ ý. 22
Còn ngài, tâu đức vua Bên-sát-xa, ngài là con của phụ vương, dầu đã biết
tất cả những điều trên, ngài vẫn không chịu hạ mình xuống. 23 Trái
lại ngài đã tự cao tự đại, đã chống lại Chúa Tể trời cao: ly chén trong Ðền Thờ
của Chúa, người ta đã mang đến trước mặt ngài; ngài đã dùng các ly chén ấy mà
uống cùng với các đại thần, cung phi và cung nữ. Ngài đã ngợi khen các thần
bằng bạc, vàng, đồng, sắt, gỗ và đá là những vật không thấy, không nghe, không
biết. Còn Thiên Chúa là Ðấng nắm trong tay sinh khí của ngài và điều khiển mọi
đường đi nước bước của ngài, ngài lại chẳng tôn vinh! 24 Vì thế, Thiên Chúa đã
cho phần bàn tay ấy đến viết hàng chữ kia. 25 Ðây là những chữ đã
được viết ra: Mơ-Nê, Mơ-Nê, Tơ-Kên, Pác-Xin; 26 và đây là lời giải
thích: Mơ-Nê - có nghĩa là đếm -: Thiên Chúa đã đếm và chấm dứt những ngày của
triều đại ngài; 27 Tơ-Kên - có nghĩa là cân -: ngài đã bị đặt trên
bàn cân và thấy là không đủ; 28 Pơ-Rết - có nghĩa là phân chia -:
vương quốc của ngài đã bị phân chia và trao cho các dân Mê-đi và Ba-tư."
29 Bấy giờ vua Bên-sát-xa truyền mặc
cẩm bào đỏ thẫm cho ông Ða-ni-en, đeo vòng vàng vào cổ ông và tuyên bố rằng,
trong vương quốc, ông là nhân vật thứ ba.
30 Ngay đêm ấy, Bên-sát-xa, vua dân
Can-đê, bị giết chết.
Chương 06
1 Sau đó, ông Ða-ri-ô, người Mê-đi,
lên ngôi vua năm sáu mươi hai tuổi.
6. Ông Ða-Ni-En Trong Hầm Sư Tử
Lòng ganh tị của các thống đốc
2 Vua Ða-ri-ô quyết định đặt trên
vương quốc của ông một trăm hai mươi thống đốc, để họ cai trị toàn vương quốc 3
dưới quyền ba tể tướng trong đó có ông Ða-ni-en. Họ phải phúc trình mọi việc
cho ba vị này, để nhà vua khỏi bị thiệt hại. 4 Ông Ða-ni-en này vượt
hẳn các tể tướng và thống đốc, nhờ có một thần khí siêu phàm, nên vua có ý định
đặt ông đứng đầu cả vương quốc. 5 Do đó, các tể tướng và thống đốc
cố tìm cách bắt lỗi ông Ða-ni-en về việc triều chính. Nhưng họ đã không thể tìm
được một cớ hay một thiếu sót nào để bắt lỗi, vì ông Ða-ni-en vốn là người
trung tín; họ đã không tìm được điều gì sơ suất hay thiếu sót nơi ông. 6 Vì
thế, những người ấy mới nói với nhau: "Chúng ta sẽ chẳng tìm được một cớ
nào để bắt lỗi tên Ða-ni-en này đâu, trừ phi tìm lý do tôn giáo để hại y.” 7
Bấy giờ các tể tướng và thống đốc ấy kéo nhau đến gặp vua và tâu rằng:
"Ðức vua Ða-ri-ô, vạn vạn tuế! 8 Tất cả các vị tể tướng của vương quốc,
các thủ lãnh, thống đốc, cận thần và tổng trấn đều nhất trí thảo ra sắc chỉ và
xin đức vua phê chuẩn lệnh cấm sau đây: Trong ba mươi ngày sắp tới, bất cứ ai
cầu xin thần nào hay người nào ngoài đức vua thì sẽ bị quăng vào hầm sư tử. 9
Bấy giờ, tâu đức vua, xin ngài hạ lệnh cấm và châu phê văn kiện, để chiếu
theo luật không thể huỷ bỏ của dân Mê-đi và Ba-tư, lệnh cấm này trở nên bất di
bất dịch.” 10 Do đó, vua Ða-ri-ô đã châu phê văn kiện và lệnh cấm.
Ông Ða-ni-en cầu nguyện
11 Khi biết là văn kiện đã được châu
phê, ông Ða-ni-en về nhà. Cửa sổ phòng trên nhà ông quay về hướng
Giê-ru-sa-lem. Mỗi ngày ba lần, ông quỳ gối, cầu nguyện và ngợi khen Thiên Chúa
của ông, y như ông đã làm từ trước đến nay. 12 Bấy giờ những người
ấy đổ xô lại và bắt gặp ông Ða-ni-en đang cầu nguyện và thống thiết nài van
Thiên Chúa của ông. 13 Rồi họ tới yết kiến vua và nhắc đến lệnh cấm
của vua: "Ðức vua đã chẳng châu phê lệnh cấm đó sao? Theo lệnh cấm này,
trong ba mươi ngày sắp tới, bất cứ ai cầu xin thần nào hay người nào ngoài đức
vua thì sẽ bị quăng vào hầm sư tử." Vua đáp lại rằng: "Ðúng vậy,
chiếu theo luật không thể huỷ bỏ của dân Mê-đi và Ba-tư thì đúng như vậy.” 14
Bấy giờ họ thưa với vua rằng: "Tâu đức vua, trong đám dân Giu-đa lưu
đày, có tên Ða-ni-en không đếm xỉa gì tới đức vua cũng như tới giới lệnh đức
vua đã châu phê. Ngày nào y cũng cầu nguyện đến ba lần.” 15 Nghe lời
ấy, vua rất đau lòng và để tâm tìm cách cứu ông Ða-ni-en. Vua cố sức giải cứu
ông Ða-ni-en mãi cho đến lúc mặt trời lặn. 16 Bấy giờ những người
kia lại kéo nhau đến gặp vua và tâu rằng: "Tâu đức vua, xin đức vua biết
cho rằng theo luật của dân Mê-đi và dân Ba-tư, thì mọi giới lệnh và sắc chỉ nhà
vua đã ban đều bất di bất dịch."
Ông Ða-ni-en bị quăng vào hầm sư
tử
17 Bấy giờ vua đành hạ lệnh, và
người ta đưa ông Ða-ni-en đi quăng vào hầm sư tử. Vua lên tiếng nói với ông
Ða-ni-en: "Vị thần mà ngươi bền lòng phụng sự, chính vị ấy sẽ cứu ngươi!” 18
Người ta đem một phiến đá tới đặt trên miệng hầm. Vua lấy ấn của mình và
ấn của các đại thần niêm phiến đá lại để không còn thay đổi gì được nữa về vụ
ông Ða-ni-en. 19 Rồi vua về cung, suốt đêm không ăn không uống, cũng
chẳng cho các cung phi vào hầu. Vua không tài nào chợp mắt được. 20 Sáng
sớm tinh sương, vua đã trỗi dậy, vội vã đi ra hầm sư tử. 21 Vừa tới
gần, vua cất giọng đau đớn gọi vọng xuống ông Ða-ni-en. Vua lên tiếng nói với
ông rằng: "Hỡi Ða-ni-en, người tôi tớ của Thần hằng sống, vị Thần mà ngươi
bền lòng phụng sự, có cứu được ngươi thoát hàm sư tử không?” 22 Bấy
giờ ông Ða-ni-en đáp lại: "Hoàng thượng, vạn vạn tuế! 23 Thiên Chúa của
thần đã sai thiên sứ đến khoá hàm sư tử khiến chúng không hại được thần, bởi vì
trước mặt Người, thần đã được nhìn nhận là vô tội, và, tâu đức vua, ngay trước
nhan ngài, thần cũng chẳng làm điều gì ác.” 24 Lúc ấy, vua rất vui
mừng, truyền kéo ông Ða-ni-en lên khỏi hầm. Và ông được kéo lên, không một vết
thương trên mình, bởi vì ông đã tin cậy vào Thiên Chúa của ông. 25 Vua
liền truyền điệu những người kia đến, họ là những kẻ đã vu khống cho ông
Ða-ni-en; rồi vua ra lệnh quăng họ cùng với vợ con vào hầm sư tử. Những người
này chưa đụng tới nền hầm, thì sư tử đã vồ lấy chúng mà nghiền nát xương.
Lời tuyên xưng đức tin của vua
Ða-ri-ô
26 Bấy giờ vua Ða-ri-ô viết cho tất
cả những người thuộc các dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ trên khắp cõi đất:
"Chúc các ngươi vạn sự bình an! 27 Ðây là lệnh ta truyền: trên toàn lãnh
thổ vương quốc ta, mọi người phải run rẩy kính sợ trước mặt vị Thần của
Ða-ni-en:
bởi vì Người là vị Thần hằng sống
và tồn tại muôn đời;
vương quốc của Người sẽ chẳng hề
suy vong,
quyền thống trị của Người vô cùng
vô tận.
28 Người giải thoát, giữ gìn,
Người làm những dấu lạ điềm
thiêng trên trời cùng dưới đất.
Người đã giải cứu Ða-ni-en khỏi
móng vuốt sư tử."
29 Còn ông Ða-ni-en thì thành công
rực rỡ dưới triều vua Ða-ri-ô cũng như dưới triều vua Ky-rô, người Ba-tư.
Chương 07
II. Các Thị Kiến
1. Giấc Mộng Của Ông Ða-Ni-En:
Bốn Con Thú
Thị kiến về các con thú
1 Năm thứ nhất đời Bên-sát-xa làm
vua xứ Ba-by-lon, trong một giấc chiêm bao, khi đang nằm trên giường, ông
Ða-ni-en thấy trong trí thị kiến sau đây. Ông đã viết lại giấc chiêm bao đó.
Câu chuyện bắt đầu như sau, 2 theo như chính lời ông kể lại: Ban
đêm, trong một thị kiến, tôi đang mải nhìn thì kìa: gió bốn phương trời khuấy
động biển cả; 3 bốn con thú lớn từ biển lên, mỗi con mỗi khác: 4
Con thứ nhất giống như sư tử, lại mang cánh đại bàng. Tôi nhìn theo cho
đến khi đôi cánh của nó bị giựt mất; nó được nhấc lên khỏi mặt đất và đặt đứng
trên hai chân như một người; nó được ban cho một quả tim người. 5 Và
này một con thú khác, con thứ hai, giống như con gấu. Nó được đặt trong tư thế
chỉ đứng một bên, mõm ngậm ba khúc xương sườn giữa hai hàm răng. Người ta bảo
nó như thế này: "Ðứng lên, ăn thịt cho nhiều đi!” 6 Sau đó, tôi
đang nhìn, thì kìa: một con thú khác giống như con beo; hai bên mình nó, có bốn
cánh như cánh chim. Nó có bốn đầu, và được trao quyền thống trị. 7 Rồi
vẫn trong thị kiến ban đêm, tôi đang nhìn thì kìa: con thú thứ tư đáng kinh
đáng sợ và mạnh mẽ vô song; răng của nó bằng sắt và rất to. Nó ăn, nó nghiền,
rồi lấy chân chà đạp những gì còn sót lại. Nó khác hẳn tất cả các con thú
trước. Nó có những mười sừng.
8 Tôi đang chăm chú nhìn các sừng,
thì kìa: giữa các sừng này, một sừng khác, nhỏ hơn, mọc lên; và ba cái trong
các sừng trước bị nhổ đi trước mặt cái nhỏ. Và kìa: có những con mắt như mắt
người trên sừng ấy, và có một cái mồm nói những điều quái gở.
Thị kiến về Ðấng Lão Thành và về
Con Người
9 Tôi đang nhìn thì thấy đặt những
chiếc ngai
và một Ðấng Lão Thành an toạ.
Áo Người trắng như tuyết,
tóc trên đầu Người tựa lông chiên
tinh tuyền.
Ngai của Người toàn là ngọn lửa,
bánh xe của ngai cũng rừng rực lửa hồng.
10 Từ trước nhan Người, một sông lửa
cuồn cuộn chảy ra.
Ngàn ngàn hầu hạ Người,
vạn vạn túc trực trước Thánh
Nhan.
Toà bắt đầu xử, sổ sách được mở
ra.
11 Bấy giờ tôi mải nhìn vì có tiếng
ồn ào của cái sừng thốt ra những lời quái gở; tôi vẫn mải nhìn khi con thú bị
giết, thây nó bị huỷ diệt và làm mồi cho lửa. 12 Những con thú còn
lại bị tước mất quyền thống trị, nhưng đời chúng được kéo dài thêm một thời và
một kỳ hạn.
13 Trong những thị kiến ban đêm, tôi
mải nhìn thì kìa:
có ai như một Con Người đang ngự
giá mây trời mà đến.
Người tiến lại gần bên Ðấng Lão
Thành
và được dẫn đưa tới trình diện.
14 Ðấng Lão Thành trao cho Người
quyền thống trị, vinh quang và
vương vị;
muôn người thuộc mọi dân tộc,
quốc gia và ngôn ngữ
đều phải phụng sự Người.
Quyền thống trị của Người là
quyền vĩnh cửu,
không bao giờ mai một;
vương quốc của Người sẽ chẳng hề
suy vong.
Giải thích thị kiến
15 Tôi là Ða-ni-en, tâm trí tôi
hoang mang vì những điều ấy, và những thị kiến trong đầu làm tôi xao xuyến. 16
Tôi đến gần một trong những vị đứng túc trực và xin vị ấy cho biết sự
thực chắc chắn về tất cả những điều ấy. Người đã nói với tôi và giải thích cho
tôi ý nghĩa các sự việc: 17 "Bốn con thú to lớn ấy tức là bốn
ông vua, từ đất trỗi dậy. 18 Rồi chư thánh của Ðấng Tối Cao sẽ lãnh
nhận vương quyền và nắm giữ vương quyền ấy mãi mãi muôn đời.” 19 Bấy
giờ tôi muốn biết chắc chắn về con thú thứ tư là con thú khác hẳn với tất cả
các con khác, nó rất đáng sợ, có răng bằng sắt và vuốt bằng đồng. Nó ăn, nó
nghiền, rồi lấy chân chà đạp những gì còn sót lại. 20 Tôi cũng muốn
biết chắc về mười cái sừng trên đầu nó và về cái sừng khác đã mọc lên, và ba
cái đã rụng đi trước mặt cái sừng ấy; cái sừng này là cái sừng có mắt, và mồm
nói những lời quái gở; nó có vẻ lớn hơn các sừng khác. 21 Tôi đang
nhìn, thì cái sừng này đã giao chiến với chư thánh và đã thắng được các ngài, 22
cho tới khi Ðấng Lão Thành đến và có cuộc xét xử nhằm bênh vực chư thánh
của Ðấng Tối Cao, cho tới khi thời đến, thời mà chư thánh nắm được vương quyền.
23 Vị đứng túc trực ấy lại nói với tôi thế này:
"Con thú thứ tư
là vương quốc thứ tư sẽ xuất hiện
trên mặt đất,
khác hẳn với mọi vương quốc.
Nó sẽ ăn hết toàn cõi đất, sẽ dẫm
nát và nghiền tan.
24 Còn mười cái sừng kia là mười ông
vua
từ vương quốc ấy trỗi dậy.
Rồi một ông vua khác sẽ trỗi dậy
sau mười ông kia.
Vua này sẽ khác hẳn các vua trước
và sẽ hạ ba vua.
25 Vua này sẽ thốt ra những lời phạm
đến Ðấng Tối Cao
và ngược đãi chư thánh của Người.
Vua định thay đổi lịch và Lề
Luật.
Chư thánh sẽ bị nộp vào tay vua
một thời, hai thời và nửa thời.
26 Rồi sẽ có cuộc xét xử
và người ta sẽ tước quyền thống
trị của vua
nhằm vĩnh viễn huỷ bỏ và tiêu
diệt quyền ấy.
27 Còn vương quốc với quyền thống
trị
cũng như địa vị cao cả của các
vương quốc khắp thiên hạ
sẽ được trao cho dân thánh của
Ðấng Tối Cao.
Vương quyền của dân ấy là vương
quyền vĩnh cửu,
và mọi quyền thống trị sẽ phụng
sự và vâng phục dân ấy."
28 Ðến đây câu truyện kết thúc.
Các tư tưởng của tôi, Ða-ni-en,
làm tôi rất xao xuyến; mặt tôi biến sắc. Nhưng tôi giữ những sự ấy trong lòng.
Chương 08
2. Thị Kiến Của Ông Ða-Ni-En: Cừu
Ðực Và Dê Ðực
Thị kiến
1 Năm thứ ba triều vua Bên-sát-xa,
tôi là Ða-ni-en đã được một thị kiến sau một thị kiến khác trước đây. 2 Tôi
nhìn vào cảnh thị kiến ấy, và đang nhìn thì bỗng thấy mình ở Su-san, một thành
trong tỉnh Ê-lam. Tôi vẫn nhìn vào cảnh thị kiến ấy và thấy mình đang ở gần
cổng U-lai. 3 Tôi ngước mắt lên nhìn thì này: một con cừu đực đứng
trước cổng. Nó có hai sừng, hai sừng đều cao, nhưng sừng nọ cao hơn sừng kia;
sừng cao hơn lại mọc lên sau. 4 Tôi thấy con cừu đực lấy sừng húc về
phía tây, phía bắc và phía nam. Không loài thú nào chống lại nó được, và không
ai cứu được chúng khỏi tay nó; nó tung hoành thoả thích và ngày càng lớn mạnh.
5 Tôi đang mải nhìn, thì này một
con dê đực từ phía mặt trời lặn đi đến; nó rảo khắp mặt đất mà chân không hề
chạm đất. Con dê giương một cái sừng lớn giữa hai mắt. 6 Nó đến tận
chỗ con cừu đực có hai sừng; con cừu này, tôi đã thấy đứng trước cổng. Con dê
hùng hổ xông vào con cừu. 7 Tôi thấy nó đến sát bên con cừu. Nó hầm
hầm nổi giận húc một cái làm con cừu gãy luôn hai sừng. Con cừu không đủ sức
chống cự. Con dê quật con cừu xuống đất, rồi lấy chân đạp lên. Không ai cứu nổi
con cừu khỏi tay nó. 8 Con dê đực trở nên cực kỳ lớn mạnh. Nhưng khi
nó đang sung sức, thì cái sừng lớn lại bị gãy. Thay vào đó liền có bốn sừng
khác mọc lên, theo hướng gió bốn phương trời.
9 Từ một trong các sừng ấy, một cái
sừng rất nhỏ nhú ra, rồi lớn nhanh về phía nam, về phía đông và về phía xứ Huy
Hoàng. 10 Nó vươn cao tới tận các đạo binh trên trời, làm cho một
phần đạo binh đó và một phần các tinh tú phải nhào xuống đất, rồi nó đạp chân
lên. 11 Nó còn vươn lên tận vị Thống Lãnh đạo binh, và của lễ thường
tiến dâng lên Người bị tước đoạt, thánh điện của Người bị phá đổ. 12 Do
tội ác mà đạo binh bị trao nộp cùng với của lễ thường tiến; cái sừng ấy đã
quăng sự thật xuống đất. Nó đã làm và đã thành công.
13 Tôi đã nghe một vị thánh lên
tiếng và một vị thánh khác bảo vị đã lên tiếng kia: "Thị kiến này còn kéo
dài đến bao giờ: của lễ thường tiến bị tước đoạt, tội ác tàn phá hoành hành,
nơi thánh và đạo binh bị chà đạp dưới chân?” 14 Vị ấy nói với tôi:
"Cho đến hai nghìn ba trăm chiều và sáng; khi đó, thánh điện sẽ được phục
hồi."
Thiên sứ Gáp-ri-en giải thích thị
kiến
15 Trong lúc tôi là Ða-ni-en nhìn
thị kiến và tìm hiểu, thì này: có ai đứng trước mặt tôi, trông như một người
đàn ông. 16 Và tôi nghe có tiếng người từ giữa hai cánh cổng U-lai
kêu lên rằng: "Gáp-ri-en, hãy cho người này hiểu thị kiến.” 17 Người
đến sát nơi tôi đứng. Thấy người đến, tôi kinh hãi, ngã sấp mặt xuống. Người
bảo tôi: "Hỡi con người, hãy hiểu là thị kiến này nói về thời cùng tận.” 18
Người còn đang nói thì tôi đã ngất xỉu, mặt chúi xuống đất. Người đụng
vào tôi và dựng tôi đứng thẳng lên; 19 rồi người nói: "Này ta
cho ngươi biết điều sẽ xảy ra vào cuối thời thịnh nộ, vì ngày cùng tận của thời
ấy đã được ấn định rồi. 20 Con cừu đực có hai sừng mà ngươi đã thấy,
đó là các vua Mê-đi và Ba-tư. 21 Con dê đực lông lá là vua xứ
Gia-van; cái sừng lớn giữa hai mắt, đó là vua đầu tiên. 22 Sừng đó
bị gãy, có bốn sừng mọc lên thay thế: đó là bốn vương quốc nổi lên từ dân nước
ấy, nhưng không có sức mạnh của nước ấy.
23 Vào cuối triều đại chúng, khi tội
lỗi chúng lên tới tột đỉnh
sẽ xuất hiện một vua mặt mày cứng
cỏi, thạo nghề nói dối.
24 Mãnh lực của nó gia tăng,
nhưng không bởi sức riêng của
mình.
Nó sẽ gây nên những cuộc tiêu diệt
khủng khiếp,
sẽ thành công trong việc nó làm,
sẽ tiêu diệt những kẻ hùng mạnh,
cùng với đoàn dân thánh.
25 Nhờ khôn khéo, nó đủ khả năng
làm cho xảo kế được thành công.
Nó sinh lòng tự cao tự đại, và
bất ngờ tiêu diệt một số đông.
Nó sẽ vươn lên chống lại vị Thủ
Lãnh tối cao,
nhưng nó sẽ bị bẻ gãy, dầu không
phải do tay người phàm.
26 Thị kiến về buổi chiều và buổi
sáng
đã nói đến ở trên, quả đúng là sự
thật.
Phần ngươi, hãy giữ kín thị kiến,
vì còn phải đợi nhiều ngày.
27 Phần tôi, Ða-ni-en, tôi đuối sức
và ốm đau nhiều ngày. Sau đó, tôi đứng dậy lo việc cho vua. Tôi bỡ ngỡ kinh
hoàng vì thị kiến ấy và vẫn không hiểu.
Chương 09
3. Lời Tiên Tri Về Bảy Mươi Tuần
Lời kinh của ông Ða-ni-en
1 Năm thứ nhất đời vua Ða-ri-ô, con
ông A-suê-rô, thuộc dòng giống Mê-đi, cai trị nước Can-đê, 2 năm thứ
nhất triều vua này, tôi, Ða-ni-en, tôi đọc Sách Thánh để tìm hiểu ý nghĩa con
số những năm phải trôi qua trước khi mãn thời kỳ Giê-ru-sa-lem phải chịu cảnh
điêu tàn, tức là bảy mươi năm, theo lời Ðức Chúa phán với ngôn sứ Giê-rê-mi-a. 3
Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa
Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van. 4 Tôi đã cầu
xin Ðức Chúa là Thiên Chúa của tôi, đã thú nhận và thưa Người rằng:
5 chúng con đã phạm tội, đã lỗi lầm,
đã làm điều gian ác, chúng con đã phản nghịch và lìa xa các mệnh lệnh, phán
quyết của Ngài. 6 Chúng con đã không nghe lời các tôi tớ Chúa là các
ngôn sứ. Các ngài đã nhân danh Chúa mà nói với vua chúa quan quyền, với cha ông
chúng con và toàn dân trong xứ. 7 Lạy Chúa Thượng, Chúa là Ðấng Công
Chính; còn chúng con thì đáng phải hổ mặt hổ mày như ngày hôm nay - chúng con
là những người Giu-đa, cư dân thành Giê-ru-sa-lem và toàn thể Ít-ra-en, những
người ở gần cũng như ở xa, trong mọi xứ Ngài đã đuổi đến vì tội bất trung đã
phạm chống lại Ngài. 8 Lạy Ðức Chúa, chúng con đáng phải hổ mặt hổ
mày, cũng như vua chúa quan quyền và tổ tiên chúng con, vì chúng con đã đắc tội
với Ngài. 9 Chúa Thượng là Thiên Chúa chúng con có lòng xót thương
và hay tha thứ, vì chúng con đã phản nghịch cùng Ngài. 10 Chúng con
đã không nghe tiếng của Ðức Chúa là Thiên Chúa chúng con, để sống theo các luật
lệ Ngài đã ban cho chúng con nhờ các tôi tớ Ngài là các vị ngôn sứ. 11 Toàn
thể Ít-ra-en đã vi phạm Lề Luật của Ngài và đã rời xa không chịu nghe tiếng
Ngài. Bấy giờ lời nguyền rủa và lời thề ghi trong luật Mô-sê, tôi trung của
Thiên Chúa, đã trút xuống chúng con vì chúng con đã đắc tội với Ngài. 12 Ngài
thực hiện những lời Ngài đã răn đe chúng con và những thủ lãnh cai trị chúng
con, khi giáng xuống chúng con tại Giê-ru-sa-lem một đại hoạ chưa hề xảy ra
dưới gầm trời. 13 Tất cả những tai hoạ này đã giáng xuống chúng con
đúng như đã chép trong Luật Mô-sê. Thế mà chúng con vẫn không chịu lìa bỏ lỗi
lầm để trở lại và chú tâm suy niệm về lòng thành tín của Ðức Chúa là Thiên Chúa
chúng con, hầu làm cho nét mặt của Ngài dịu lại. 14 Ðức Chúa đã tỉnh
thức trông chừng, đã giáng tai hoạ xuống trên chúng con, vì Ðức Chúa, Thiên
Chúa chúng con, là Ðấng công minh chính trực trong mọi việc Ngài làm, và chúng
con đã không nghe tiếng Ngài. 15 Giờ đây, lạy Chúa là Thiên Chúa
chúng con, Ðấng đã dùng cánh tay mạnh mẽ đem dân Ngài ra khỏi xứ Ai-cập và đã
làm cho danh Ngài lừng lẫy như ngày nay, chúng con đã phạm tội, chúng con đã
làm điều gian ác. 16 Lạy Chúa, chiếu theo mọi hành động chính trực
của Ngài, xin nguôi cơn giận, xin ngừng cơn thịnh nộ đối với Giê-ru-sa-lem là
thành đô, là núi thánh của Ngài, bởi vì tội của chúng con và lỗi của cha ông
chúng con đã khiến Giê-ru-sa-lem và dân Ngài trở thành mối sỉ nhục đối với hết
mọi kẻ sống chung quanh chúng con. 17 Giờ đây, lạy Thiên Chúa chúng
con, xin nghe lời tôi tớ Ngài khẩn nguyện nài van. Lạy Chúa, vì danh Ngài, xin
toả ánh Tôn Nhan trên thánh điện của Ngài đang phải tan hoang. 18 Lạy
Thiên Chúa của con, xin lắng tai nghe, xin ghé mắt nhìn cảnh hoang tàn của
chúng con và thành đô đã được thánh hiến cho Ngài. Chúng con không dựa vào
những hành động chính trực của chúng con, nhưng dựa vào lượng hải hà của Ngài
mà dâng lời khẩn nguyện lên trước Tôn Nhan. 19 Lạy Chúa, xin khấng
nghe! Lạy Chúa, xin tha thứ! Lạy Chúa, xin đoái thương! Vì danh Ngài, xin ra
tay và đừng trì hoãn, lạy Thiên Chúa của con, bởi vì thành và dân của Ngài đã
được thánh hiến cho Ngài."
Thiên sứ Gáp-ri-en cắt nghĩa lời
tiên tri
20 Bấy giờ tôi đang nói, đang cầu
nguyện và thú nhận tội lỗi của tôi cũng như tội lỗi của Ít-ra-en, dân tôi, đang
giãi bày trước nhan Ðức Chúa là Thiên Chúa của tôi, lời khẩn nguyện cho núi
thánh của Người. 21 Tôi còn đang dâng lời cầu nguyện, thì Gáp-ri-en,
nhân vật tôi đã thấy trong thị kiến ban đầu, bay sà xuống sát bên tôi vào lúc
dâng hiến lễ ban chiều. 22 Ngài đến ngỏ lời với tôi và nói:
"Này Ða-ni-en, nay ta đi ra để giúp ngươi được am tường. 23 Khi
ngươi vừa bắt đầu khẩn nguyện, thì lời đã ban ra và ta đến đây để loan báo, vì
ngươi là người được quý mến. Hãy thấu triệt lời ấy, hãy am hiểu thị kiến:
24 Bảy mươi tuần đã được ấn định
cho dân và thành thánh của ngươi,
để chấm dứt gian tà, xoá sạch tội
ác, đền xong lỗi lầm,
để đem lại sự công chính vĩnh
cửu,
để thị kiến và lời ngôn sứ được
ứng nghiệm,
và để xức dầu Nơi Cực Thánh.
25 Vậy ngươi hãy biết và hiểu: từ
khi lời được ban ra
nhằm xây dựng lại Giê-ru-sa-lem
cho tới khi vị thủ lãnh được xức
dầu xuất hiện, thì có bảy tuần.
Trong sáu mươi hai tuần, phố xá
và thành luỹ sẽ được tái thiết,
nhưng được tái thiết trong thời
buổi cùng quẫn.
26 Sau sáu mươi hai tuần, một vị
được xức dầu sẽ bị thủ tiêu;
vị ấy sẽ không có. ..
Thành đô và thánh điện
sẽ bị dân của một thủ lãnh đến
phá tan.
Nhưng thủ lãnh này sẽ bị cuốn đi
mất.
Cho đến cùng, sẽ diễn ra
chiến tranh và những cảnh tàn phá
đã được quyết định.
27 Nội một tuần, nó sẽ củng cố minh
ước với số người đông đảo.
Trong nửa tuần, nó bắt phải ngưng
hy lễ và hiến lễ,
nó đặt bên cánh Ðền Thờ đồ ghê
tởm khốc hại
cho đến khi lệnh tiêu huỷ đã được
quyết định
giáng xuống kẻ tàn phá."
Chương 10
4. Thị Kiến Lớn
A. Thời Thịnh Nộ
Thị kiến về người mặc áo vải gai
1 Năm thứ ba đời vua Ky-rô nước
Ba-tư, có lời mặc khải cho ông Ða-ni-en cũng gọi là Bên-tơ-sát-xa: đó là lời
chân thật loan báo một cuộc chiến lớn. Ông đã hiểu lời ấy; ông đã được ơn am
hiểu như vậy là nhờ thị kiến.
2 Trong những ngày ấy, tôi là
Ða-ni-en, đã ăn chay đền tội suốt ba tuần như thể chịu tang: 3 tôi
không ăn đồ cao lương mỹ vị; thịt và rượu, tôi không hề nếm chút nào; tôi cũng
chẳng xức dầu thơm trong suốt ba tuần đó. 4 Ngày hai mươi bốn tháng
giêng, đang ở ven sông Cả, tức là sông Tích-ra, 5 tôi ngước mắt nhìn
lên, thì này:
Một người mặc áo vải gai, lưng
thắt đai vàng U-phát,
6 thân mình giống kim lục thạch,
dung mạo ví như ánh chớp,
đôi mắt tựa ngọn đuốc hồng, cánh
tay và đôi chân
trông như đồng đánh bóng,
tiếng người vang dội như tiếng
đám đông.
7 Tôi là Ða-ni-en, người duy nhất
đã thấy thị kiến, còn những người ở bên tôi thì không. Dầu vậy, họ vẫn khiếp
đảm kinh hồn chạy trốn tìm chỗ ẩn. 8 Chỉ còn lại có một mình tôi, và
tôi đã thấy thị kiến lớn ấy. Tôi không còn sức nữa. Thể lực tôi giảm sút thảm
hại. Tôi đã kiệt sức rồi.
Thiên sứ hiện ra
9 Tôi nghe tiếng người vang dội.
Vừa nghe thấy, tôi liền ngất xỉu, chúi mặt xuống đất. 10 Này đây một
bàn tay đụng đến tôi, nâng tôi dậy đang khi đầu gối và tay tôi run rẩy. 11
Người nói với tôi: "Hỡi Ða-ni-en là người được quý mến, hãy hiểu rõ
các lời ta sắp nói với ngươi. Hãy đứng yên tại chỗ ngươi đang đứng, vì giờ đây
ta được sai đến với ngươi." Trong lúc người nói với tôi điều ấy, thì tôi
đứng run cầm cập. 12 Người còn bảo tôi: "Ða-ni-en, đừng sợ, bởi
vì ngay từ hôm đầu, khi ngươi đem hết lòng tìm hiểu và ăn chay hãm mình trước
nhan Thiên Chúa của ngươi, thì Thiên Chúa đã nghe những lời ngươi nói, và chính
vì những lời ấy mà ta đến. 13 Thiên sứ lãnh đạo vương quốc Ba-tư
đứng chống lại ta hai mươi mốt ngày. Và này Mi-ca-en, một trong các thiên sứ
lãnh đạo cao cấp, đã đến trợ lực ta. Ta để người ở đó, bên cạnh các vua Ba-tư, 14
và ta đến cho ngươi hiểu rõ sự việc sẽ xảy ra nơi dân ngươi vào thời sau
hết, bởi vì đây còn là một thị kiến về thời đó."
15 Nghe những lời người nói đó, tôi
cúi mặt xuống đất, không nói nên lời. 16 Và này có cái gì đó giống
như một người trong con cái loài người chạm vào môi tôi. Tôi liền mở miệng và
nói được. Tôi thưa với vị đứng trước mặt tôi: "Thưa ngài, thị kiến đã làm
cho tôi phải quằn quại đớn đau khiến tôi kiệt sức. 17 Tôi tớ của
ngài đây sẽ ăn nói làm sao với ngài, khi mà từ nay tôi chẳng còn hơi còn sức
nào nữa?” 18 Bấy giờ đấng giống như con người lại đụng đến tôi một
lần nữa và làm cho tôi nên can đảm. 19 Người nói: "Hỡi người
được quý mến, đừng sợ. Cứ an tâm. Can đảm lên! Can đảm nữa lên!" Trong khi
người nói với tôi như thế, tôi lấy lại được can đảm và đáp lại rằng: "Xin
ngài cứ nói, vì ngài đã làm cho tôi nên can đảm."
Lời báo trước
20 Bấy giờ người nói: "Ngươi có
biết tại sao ta đến cùng ngươi không? Bây giờ ta phải quay lại nghênh chiến với
thiên sứ lãnh đạo Ba-tư. Ta vừa đi ra thì thiên sứ lãnh đạo Gia-van đến. 21
Nhưng ta sắp báo cho ngươi biết điều đã ghi chép trong sách sự thật.
Không một ai hiệp lực với ta chống lại các vị đó, ngoại trừ thiên sứ Mi-ca-en,
tướng lãnh của các ngươi.
Chương 11
1 Phần ta, năm thứ nhất đời vua
Ða-ri-ô, người Mê-đi, ta đứng để trợ lực và bảo vệ người. 2 Này ta
sắp báo cho ngươi biết sự thật.
Những cuộc chiến đầu tiên giữa
nhà Xê-lêu-cô và nhà La-gô
"Này đây sẽ có ba vua xuất
hiện ở Ba-tư. Vua thứ tư sẽ trở nên giàu có, nhiều của cải hơn mọi người. Và
khi của cải đã làm cho ông nên mạnh thì ông sẽ xúi giục mọi người chống lại
vương quốc Gia-van. 3 Một vị vua hùng mạnh sẽ đứng lên thống trị một
vương quốc rộng lớn, và sẽ mặc sức tung hoành. 4 Nhưng ông vừa đứng
lên thì vương quốc của ông đã bị tan vỡ và phân chia theo hướng gió bốn phương
trời, song không phải cho dòng dõi ông, và cũng không rộng lớn như khi ông cai
trị, vì vương quốc của ông sẽ bị nhổ tận rễ mà trao cho những người khác không
thuộc dòng dõi ông.
5 Vua Phương Nam sẽ nên hùng mạnh.
Nhưng một trong số các tướng lãnh của ông sẽ hùng mạnh hơn ông và thống trị một
vương quốc rộng lớn hơn vương quốc của ông. 6 Ít năm sau, họ kết ước
với nhau. Và để thi hành hiệp ước, công chúa Phương Nam được gả cho vua Phương
Bắc. Nhưng công chúa sẽ không giữ vững được quyền lực, và cả dòng dõi nàng cũng
sẽ không đứng vững. Chính nàng sẽ bị trao nộp cùng với những người đã đưa nàng
tới, cả vua cha và chồng nàng nữa. Khi đến thời đến buổi, 7 một mầm
non cùng gốc với nàng sẽ mọc lên thay thế vua cha. Nó sẽ tiến đánh đạo binh,
vào thành trì kiên cố của vua Phương Bắc. Nó sẽ tấn công họ và chiến thắng. 8
Ngay cả các thần của họ, nó cũng bắt làm tù binh đem về Ai-cập cùng với
các tượng đúc và những đồ vàng, bạc quý giá. Nó sẽ đứng xa vua Phương Bắc, án
binh bất động vài năm. 9 Vua này sẽ đến vương quốc của vua Phương
Nam, rồi trở về xứ mình. 10 Các con ông sẽ chuẩn bị lâm chiến: họ
chiêu mộ nhiều đoàn quân đông đúc. Một trong những người con đó sẽ kéo quân
tràn xuống như nước lũ, dìm ngập hết, rồi quay trở lại. Và họ sẽ tấn công vào tận
thành trì kiên cố của vua Phương Nam. 11 Bấy giờ vua Phương Nam phẫn
nộ, xông ra giao chiến với vua Phương Bắc. Vua Phương Bắc chiêu mộ một đoàn
quân đông đúc. Nhưng đám đông này lại rơi vào tay vua Phương Nam 12 và bị tiêu
diệt. Vua Phương Nam sẽ sinh lòng kiêu ngạo. Ông hạ được hàng ngàn hàng vạn
địch quân, nhưng không chiến thắng. 13 Vua Phương Bắc lại chiêu mộ
một đoàn quân đông đúc hơn trước. Sau đó vài năm, ông đến, kéo theo một đạo
binh lớn cùng với thật nhiều quân trang. 14 Vào thời ấy, nhiều người
đứng lên chống lại vua Phương Nam. Những kẻ bạo động trong dân ngươi sẽ nổi lên
để làm ứng nghiệm thị kiến, nhưng sẽ thất bại. 15 Vua Phương Bắc sẽ
đến; ông sẽ xây tường đắp luỹ và chiếm được một thành kiên cố. Các lực lượng
Phương Nam sẽ không đương đầu nổi, đoàn quân tinh nhuệ cũng chẳng có sức đương
đầu. 16 Vua Phương Bắc đến đánh sẽ mặc sức tung hoành; không có ai
đương đầu nổi với ông. Ông sẽ dừng lại ở Xứ Huy Hoàng và nắm quyền sinh sát
trong tay. 17 Ông có ý định dùng võ lực chiếm toàn vương quốc ấy,
nên mới ký hoà ước với vua Phương Nam và gả công chúa cho vua này nhằm huỷ diệt
vương quốc ấy. Nhưng chuyện đó sẽ không thành, sẽ không xảy ra cho ông. 18
Ông sẽ quay mặt hướng về miền duyên hải và sẽ chiếm được nhiều vùng.
Nhưng một tướng lãnh sẽ chấm dứt hành động xấc xược của ông mà không để cho ông
trả đũa.
19 Ông sẽ quay mặt hướng về các
thành trì kiên cố của xứ ông, nhưng ông sẽ lảo đảo, rồi té nhào, người ta không
còn gặp thấy ông nữa. 20 Sẽ có người đứng lên thay ông. Người ấy sẽ
phái kẻ thu thuế đến nơi vinh quang của vương quốc. Nhưng một vài ngày sau,
người ấy sẽ bị bẻ gãy, không phải vì giận dữ cũng không phải vì chiến trận.
An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê
21 "Kẻ đứng lên thay ông là một
tên bỉ ổi. Người ta sẽ không trao vương quyền cho y, nhưng y sẽ đến bất ngờ và
dùng xảo kế đoạt ngai vua. 22 Quân xâm lăng như nước lũ tràn vào lại
bị cuốn trôi đi trước mặt y và bị tan rã; ngay cả người đứng đầu giao ước cũng
chịu chung một số phận. 23 Nhờ những cuộc liên minh với y, y sẽ dùng
mưu mà hành động, và ngày càng mạnh thêm dù chỉ có ít thuộc hạ. 24 Y
sẽ bất ngờ đi đến những vùng phì nhiêu trong tỉnh và làm những gì mà cha ông và
tổ tiên chẳng hề làm. Chiến lợi phẩm, của đã chiếm đoạt và tài sản, y sẽ đem
phân phát cho các thuộc hạ; y mưu tính đánh các thành trì, nhưng chỉ được một
thời gian thôi.
25 Y dốc toàn tâm toàn lực, đem một
đạo quân lớn chống lại vua Phương Nam. Vua này cũng sẽ dẫn một đạo quân lớn,
hết sức hùng hậu, sẵn sàng lâm chiến, nhưng không đương đầu nổi, vì người ta
mưu tính chống lại ông. 26 Những kẻ hưởng lộc của ông lại hại ông.
Ðạo quân của ông sẽ bị đè bẹp. Những kẻ bị thương vong nằm la liệt ngổn ngang.
27 Cả hai vua đều tính chuyện gian
ác trong lòng, nên tuy đồng bàn, họ cứ nói những lời dối trá với nhau. Nhưng
chuyện đó sẽ không thành, vì còn phải chờ thời cùng tận vào lúc ấn định. 28
Vua Phương Bắc sẽ trở về xứ, mang theo một tài sản lớn, nhưng lòng y thì
chống lại Giao Ước thánh. Y tung hoành, rồi trở về xứ. 29 Ðến thời
đến buổi, y sẽ trở lại Phương Nam. Nhưng thời cuối sẽ không như thời đầu. 30
Tàu bè từ Kít-tim sẽ đến tấn công y. Y sẽ hoảng sợ, quay trở về và giận
dữ chống lại Giao Ước thánh. Y sẽ tung hoành và một lần nữa lại thông đồng với
những kẻ bỏ Giao Ước thánh.
31 Các lực lượng do y gửi đi sẽ xuất
hiện và xúc phạm đến thánh điện vốn là thành trì kiên cố. Ở đó chúng sẽ bãi bỏ
lễ tế thường tiến và đặt đồ ghê tởm khốc hại. 32 Những kẻ lơ là với
Giao Ước thì bị y dùng xảo kế mà làm cho ra ô uế. Còn những con dân nhận biết
Thiên Chúa của mình thì sẽ vững mạnh và ra tay hành động. 33 Những
kẻ hiểu biết trong dân sẽ dạy dỗ nhiều người; nhưng họ sẽ ngã gục vì gươm đâm
lửa đốt, sẽ bị đày ải, bị cướp bóc trong một thời gian. 34 Khi họ
ngã gục, những kẻ đến trợ giúp họ thì ít, còn những kẻ liên kết với họ vì xảo
quyệt thì nhiều. 35 Trong hàng những người hiểu biết, một số sẽ ngã
gục để có những người được thử bằng lửa, được thanh luyện và tẩy trắng, cho đến
thời cùng tận, vì còn phải chờ lúc đã ấn định. 36 Vua này sẽ mặc sức
hoành hành, sẽ tự cao tự đại, tôn mình lên trên hết các thần. Y sẽ nói những
điều kỳ quặc chống lại Thiên Chúa của chư thần. Y sẽ thành công cho đến khi
thời thịnh nộ chấm dứt, vì điều đã quyết ắt sẽ thành. 37 Y sẽ không
coi trọng các thần của tổ tiên, cũng như thần mà nữ giới sùng mộ, cũng không
coi trọng bất cứ thần nào khác, vì y tôn mình lên trên hết tất cả. 38 Thay
vào đó, y tôn kính thần của các thành trì kiên cố; thần mà tổ tiên y không biết
đến, thì y lại dùng vàng bạc, đá quý và báu vật mà tôn kính. 39 Y sẽ
củng cố các thành trì nhờ sự trợ giúp của thần xa lạ. Ai nhìn nhận thần đó thì
y cho hưởng vinh hoa phú quý. Y đặt họ cai trị nhiều người và phân chia đất đai
cho họ để thưởng công.
B. Thời Cùng Tận
Ngày tận số của kẻ bách hại
40 "Ðến thời cùng tận, vua
Phương Nam sẽ chiến đấu chống lại tên bỉ ổi ấy. Vua Phương Bắc sẽ xông vào y
như vũ bão cùng với chiến xa, kỵ binh và đông đảo tàu bè. Nhưng y sẽ kéo quân
đến các nước, tràn ngập tất cả như thác lũ. 41 Y sẽ đến Xứ Huy
Hoàng, và nhiều người sẽ ngã gục. Nhưng sẽ có những người thoát khỏi tay y, đó
là người Ê-đôm, người Mô-áp và các phần tử ưu tú trong số con cái Am-mon. 42
Y sẽ tra tay hại các nước, ngay Ai-cập cũng không thoát khỏi. 43 Y
sẽ chiếm lấy các kho vàng bạc và mọi đồ có giá của Ai-cập. Dân Li-by-a và dân
Cút sẽ đi theo y. 44 Nhưng các tin đồn từ phương Ðông và phương Bắc
sẽ làm y khiếp sợ. Y giận dữ lên đường để tàn sát, huỷ diệt nhiều sinh mạng. 45
Y sẽ dựng lều tại bản doanh trong một vùng nằm giữa biển và núi thánh của
Xứ Huy Hoàng. Nhưng ngày tận số của y đã tới rồi mà chẳng có ai cứu giúp.
Chương 12
1 "Thời đó, Mi-ca-en sẽ đứng
lên. Người là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường che chở dân ngươi. Ðó sẽ
là thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó,
dân ngươi sẽ thoát nạn, nghĩa là tất cả những ai được ghi tên trong cuốn sách
của Thiên Chúa.
Sống lại và thưởng phạt
2 "Trong số những kẻ an nghỉ
trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ
thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời. 3 Các hiền sĩ sẽ chói lọi
như bầu trời rực rỡ, những ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu sáng
muôn đời như những vì sao.
4 Phần ngươi, Ða-ni-en, hãy giấu
những lời này, hãy niêm cuốn sách lại cho đến thời cùng tận. Bấy giờ nhiều
người sẽ đọc, và được hiểu biết thêm."
Lời sấm được niêm phong
5 Tôi là Ða-ni-en, tôi nhìn xem,
thì này: hai người khác đứng hai bên bờ sông, một người bên này, một người bên
kia. 6 Một trong hai người nói với người kia mặc áo vải gai đứng
trên mặt sông: "Cho đến bao giờ những điều kỳ lạ ấy mới chấm dứt?” 7 Tôi
nghe tiếng nói của người mặc áo vải gai đứng trên mặt sông. Người ấy giơ tay
phải, tay trái lên trời mà thề nhân danh Ðấng Hằng Sống: "Cho đến một
thời, hai thời và nửa thời. Khi nào sức mạnh của dân thánh hết bị bẻ gãy, thì
tất cả các điều ấy cũng sẽ hoàn tất.” 8 Tôi nghe mà không hiểu. Tôi
liền nói: "Thưa ngài, cuối cùng những điều ấy sẽ như thế nào?” 9 Người
đáp: "Không sao, Ða-ni-en, những lời ấy được giữ kín và niêm phong cho đến
thời cùng tận. 10 Nhiều kẻ sẽ được thanh luyện, tẩy trắng và thử
bằng lửa. Ác nhân tiếp tục làm điều ác và không ai trong họ sẽ hiểu, còn hiền
sĩ thì sẽ hiểu. 11 Từ thời lễ thường tiến bị bãi và đồ ghê tởm khốc
hại được đặt lên, sẽ có một ngàn hai trăm chín mươi ngày. 12 Phúc
thay ai kiên tâm chờ đợi suốt một ngàn ba trăm ba mươi lăm ngày. 13 Phần
ngươi, hãy đi cho tới cùng. Ngươi sẽ được an nghỉ, rồi sẽ đứng lên lãnh phần
dành cho ngươi khi thời gian chấm dứt."
Chương 13
III. Phụ Trương
1. Bà Su-San-Na Và Phán Quyết Của
Ông Ða-Ni-En
1 Có một người ở tại Ba-by-lon, tên
là Giô-gia-kim. 2 Ông lấy vợ tên là Su-san-na. Bà là con gái ông
Khen-ki-gia; bà rất xinh đẹp và kính sợ Chúa. 3 Cha mẹ bà là người
công chính, đã dạy dỗ con gái theo Luật Mô-sê. 4 Ông Giô-gia-kim là
người rất giàu, ông có một khu vườn bên cạnh nhà. Người Do-thái thường đến nhà
ông, vì ông có thế giá hơn mọi người. 5 Năm ấy, người ta đặt hai kỳ
mục chọn trong dân làm thẩm phán. Ðấng Chí Tôn đã phán về họ rằng: "Từ
Ba-by-lon, đã phát xuất sự gian tà do những kỳ mục, những thẩm phán có vẻ như
cai trị dân.” 6 Những kỳ mục này thường lui tới nhà ông Giô-gia-kim.
Tất cả những ai có việc gì cần xét xử thì đến gặp họ. 7 Giữa trưa,
khi dân đã rút lui, bà Su-san-na vào đi dạo trong vườn của chồng. 8 Hai
kỳ mục thấy bà mỗi ngày vào đi dạo, thì sinh lòng ham muốn. 9 Họ để
tâm trí ra đồi bại, quay mắt đi để khỏi nhìn lên trời cao và chẳng nhớ đến
những phán quyết công minh của Thiên Chúa. 10 Cả hai người đều đắm
đuối say mê bà, nhưng họ không cho nhau biết vết thương lòng của mình, 11 bởi
vì họ xấu hổ không dám tỏ bày lòng ham muốn chiếm được bà. 12 Ngày
ngày, họ nôn nao rình rập, mong nhìn thấy bà. 13 Một hôm, họ nói với
nhau: "Ðến giờ ăn trưa rồi, ta đi về nhà thôi!" Thế rồi họ bước ra và
chia tay. 14 Nhưng sau đó, ông nào cũng trở lui và cả hai lại gặp
nhau ở chỗ cũ. Khi đôi bên gạn hỏi nhau, họ mới thú nhận lòng ham muốn của
mình. Và bấy giờ họ đồng lòng tìm dịp gặp bà lúc bà ở một mình. 15 Họ
đang nóng lòng chờ dịp thuận lợi, thì một hôm, bà Su-san-na đi vào vườn như các
ngày trước, chỉ có hai tớ gái theo hầu. Vì trời nóng, bà muốn tắm trong vườn. 16
Ở đó, chẳng có ai, ngoại trừ hai kỳ mục đang ẩn núp và rình xem. 17 Bà
bảo các tớ gái: "Ðem cho ta dầu và thuốc thơm, rồi đóng cửa vườn lại để ta
tắm.” 18 Các tớ gái làm như bà nói: các cô đóng cửa lại, đi ra phía
cửa hông để lấy những thứ bà yêu cầu. Nhưng các cô không biết là các kỳ mục
đang ẩn núp trong vườn.
19 Các cô vừa ra khỏi đó, thì hai kỳ
lão liền chồm dậy, nhào tới chỗ bà 20 và nói: "Này cửa vườn đã đóng; chẳng
ai thấy chúng ta đâu. Chúng tôi thèm muốn bà, bằng lòng trao thân cho chúng tôi
đi! 21 Nếu không, chúng tôi sẽ làm chứng tố cáo rằng có một thanh niên ở với
bà, và vì thế bà đã cho các tớ gái đi khỏi đây.” 22 Bà Su-san-na thở
dài não nuột và nói: "Tôi bị khốn tứ bề! Quả thật, nếu làm thế, tôi sẽ
phải chết; còn nếu không làm, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. 23 Nhưng
thà không làm gì cả mà sa vào tay các ông, còn hơn là phạm tội trước mặt Chúa!”
24 Bà Su-san-na liền kêu lớn tiếng và hai kỳ lão cũng la lên để hại
bà. 25 Một ông chạy ra mở cửa vườn. 26 Khi nghe tiếng kêu
trong vườn, các gia nhân đổ xô vào cửa bên hông, để xem sự gì đã xảy ra cho bà.
27 Và sau khi các kỳ lão kể lại chuyện đó, các tôi tớ rất lấy làm hổ
thẹn, vì chưa bao giờ nghe nói như thế về bà Su-san-na.
28 Hôm sau, dân chúng tụ họp ở nhà
ông Giô-gia-kim chồng bà. Hai kỳ lão kia cũng đến đó, lòng đầy gian ý hại bà,
để làm cho bà phải chết. 29 Họ nói trước mặt dân chúng: "Hãy
sai người đi tìm Su-san-na, con gái ông Khen-ki-gia, vợ ông Giô-gia-kim."
Rồi người ta cho người đi tìm bà.30 Bà cũng đến đó với cha mẹ, con cái và tất
cả thân nhân. 31 Bà Su-san-na rất là duyên dáng, nhan sắc mặn mà. 32
Vì bà che khăn, nên các tên khốn kiếp đó bắt phải lột khăn ra để ngắm
nhan sắc của bà cho thoả. 33 Mọi người thân cũng như tất cả những ai
thấy bà, đều khóc. 34 Từ giữa đám dân, hai kỳ lão đó đứng dậy đặt
tay lên đầu bà. 35 Còn bà thì vừa khóc vừa ngước mắt lên trời, vì bà
đầy lòng trông cậy vào Chúa. 36 Các kỳ lão nói: "Chúng tôi đang
dạo chơi một mình trong vườn, thì mụ này đã vào với hai tớ gái, đóng cửa vườn
lại, rồi cho các tớ gái đi ra. 37 Một gã thanh niên núp sẵn ở đó,
đến bên mụ và nằm với mụ. 38 Lúc ấy, chúng tôi đang ở một góc vườn,
thấy chuyện đồi bại, liền chạy tới. 39 Chúng tôi thấy chúng ăn nằm
với nhau, nhưng không tóm được gã thanh niên, vì hắn khoẻ hơn chúng tôi, và đã
mở cửa chạy mất. 40 Còn mụ này, chúng tôi bắt được và hỏi mụ ta xem
gã thanh niên kia là ai. 41 Nhưng mụ không chịu nói cho chúng tôi.
Chúng tôi xin làm chứng về những điều ấy."
42 Nhưng bà Su-san-na kêu lớn tiếng
rằng: "Lạy Thiên Chúa hằng hữu, Ðấng am tường những điều bí ẩn và thấy hết
mọi sự trước khi chúng xảy ra, 43 Ngài biết là họ đã làm chứng gian
hại con. Này con phải chết, tuy chẳng làm điều gì trong những điều họ đã vu cho
con."
44 Chúa đã nghe tiếng bà kêu. 45
Trong lúc bà bị điệu đi hành hình, Thiên Chúa đã đánh động tâm trí thánh
thiện của một thiếu niên tên là Ða-ni-en. 46 Thiếu niên đó kêu lớn
tiếng rằng: "Tôi vô can trong vụ đổ máu người phụ nữ này!” 47 Toàn
dân đều quay về phía cậu thiếu niên và hỏi: "Lời cậu vừa nói có nghĩa gì?”
48 Cậu đứng giữa họ và nói: "Các người ngu xuẩn đến thế sao,
hỡi con cái Ít-ra-en? Các người đã lên án một người con gái Ít-ra-en mà không
xét hỏi và cũng không biết rõ sự việc ra sao! 49 Hãy trở lại nơi xét xử, vì
những người kia đã làm chứng gian để hại người phụ nữ này."
50 Toàn dân vội vàng trở lại đó, và
các kỳ mục nói với Ða-ni-en: "Ðến đây, hãy ngồi giữa chúng tôi và cho
chúng tôi biết ý kiến, vì Thiên Chúa đã cho cậu được khôn ngoan như bậc lão
thành.” 51 Ða-ni-en nói: "Hãy tách riêng họ ra, rồi tôi sẽ xét
hỏi.” 52 Sau khi họ đã bị tách ra rồi, Ða-ni-en gọi một trong hai kỳ
mục lại và nói: "Hỡi con người già đời trong đường gian ác, tội lỗi xưa
ông đã phạm, nay lại tái diễn: 53 ông đã xử bất công, kết án người
vô can, tha bổng kẻ đắc tội, bất kể lời Chúa dạy: "Ngươi chớ giết người vô
tội và người công chính. 54 Vậy bây giờ, nếu quả thật ông đã thấy bà
kia, thì hãy nói ông đã thấy họ thông gian với nhau dưới cây nào? " Người
ấy đáp: "Dưới cây trắc.” 55 Ða-ni-en nói: "Ông đã nói dối
trắng trợn khiến ông phải mất mạng, vì thiên sứ của Thiên Chúa đã nhận được án
lệnh của Người là chặt ông làm đôi.” 56 Sau khi cho người này ra,
Ða-ni-en truyền dẫn người kia vào, rồi nói: "Hỡi nòi giống Ca-na-an, chứ
không phải nòi giống Giu-đa, sắc đẹp đã mê hoặc ông, và tình dục đã làm cho ông
ra hư hỏng. 57 Các ông đã hành động như thế với các con gái
Ít-ra-en. Vì sợ, họ đã thông gian với các ông. Nhưng người con gái Giu-đa này
đã không chịu nổi sự gian tà của các ông. 58 Vậy bây giờ, hãy nói
cho tôi biết ông đã bắt quả tang họ thông gian với nhau dưới cây nào?" -
Người ấy đáp: "Dưới cây dẻ.” 59 Ða-ni-en mới bảo: "Cả ông
nữa, ông cũng nói dối trắng trợn khiến ông phải mất mạng, vì thiên sứ của Thiên
Chúa, tay cầm gươm, đang chờ để xẻ ông làm đôi nhằm tiêu diệt các ông."
60 Bấy giờ toàn thể cộng đồng lớn
tiếng reo hò và chúc tụng Thiên Chúa, Ðấng cứu những kẻ trông cậy vào Người. 61
Rồi người ta quay lại chống hai kỳ lão, vì Ða-ni-en đã dựa vào lời chính
miệng các ông nói mà thuyết phục họ là các ông đã làm chứng gian. 62 Theo
luật Mô-sê, người ta giáng cho các ông hình phạt mà các ông định bắt người khác
phải chịu, đó là giết các ông. Ngày ấy, máu người vô tội khỏi bị đổ oan. 63
Vợ chồng ông Khen-ki-gia cùng với con rể là Giô-gia-kim và mọi người thân
thuộc đều ca ngợi Thiên Chúa về bà Su-san-na, con gái của họ, vì người ta đã
không thấy điều gì bất xứng nơi bà.
64 Từ ngày ấy trở đi, cậu Ða-ni-en
nên cao trọng trước mặt dân.
Chương 14
2. Thần Ben Và Con Rắn
Ông Ða-ni-en và các tư tế của
thần Ben
1 Sau khi vua Át-ty-a-ghê về sum
họp với tổ tiên, Ky-rô, vua Ba-tư, lên trị vì vương quốc. 2 Ông
Ða-ni-en là cận thần của vua và được vua nể vì hơn mọi thân hữu khác. 3 Người
Ba-by-lon có một tượng thần tên là Ben. Mỗi ngày, người ta phải tốn mất hơn sáu
tạ bột mì thượng hảo hạng, bốn mươi con chiên và chừng hai trăm năm mươi lít
rượu cho tượng thần đó. 4 Nhà vua sùng bái tượng thần và ngày ngày
vẫn đến thờ lạy. Còn ông Ða-ni-en thì thờ lạy Thiên Chúa của mình. 5 Vua
nói với ông: "Tại sao ngươi không thờ lạy thần Ben?" Ông đáp:
"Bởi vì hạ thần không sùng bái những tượng thần do bàn tay con người làm
ra, mà chỉ sùng bái Thiên Chúa hằng sống, Ðấng đã tạo dựng trời đất và nắm chủ
quyền trên mọi xác phàm.” 6 Vua liền nói: "Ngươi không tin rằng
thần Ben là một vị thần hằng sống sao? Ngươi chẳng thấy tất cả những gì ngài
ăn, ngài uống mỗi ngày sao?” 7 Ông Ða-ni-en vừa cười vừa nói:
"Tâu đức vua, xin ngài chớ lầm! Thần ấy bên trong là đất sét, bên ngoài là
đồng và chẳng bao giờ ăn uống.” 8 Vua giận dữ, triệu các tư tế lại
và bảo: "Nếu các ngươi không nói cho ta biết ai ăn của cúng đó, thì các
ngươi sẽ phải chết; còn nếu các ngươi chứng minh được là thần Ben dùng những
của ấy, thì Ða-ni-en sẽ phải chết, vì y đã nói phạm đến thần Ben.” 9 Ông
Ða-ni-en thưa với vua: "Xin đức vua cứ làm như lời ngài đã nói!" Số
các tư tế của thần Ben là bảy mươi, không kể vợ con họ. 10 Vua cùng
với ông Ða-ni-en tới đền thờ thần Ben. 11 Các tư tế của thần Ben
thưa với vua: "Bây giờ các bề tôi đây xin ra ngoài. Còn ngài, tâu đức vua,
xin ngài cho dọn các thức ăn và cho đem rượu pha tới, rồi xin ngài đóng cửa và
lấy ấn của đức vua mà niêm phong lại. Sáng mai khi ngài đến mà không thấy là
thần Ben đã dùng mọi của cúng rồi, thì các bề tôi đây sẽ phải chết; bằng không,
thì tên Ða-ni-en, kẻ nói dối nhằm hại các bề tôi đây, sẽ phải chết.” 12 Họ
vững tâm khi nghĩ đến con đường bí mật đã được mở ra ở dưới bàn, là con đường
họ vẫn quen vào để mang của cúng đi. 13 Khi những người ấy đã ra
ngoài và vua đã cho dọn thức ăn dâng thần Ben, 14 thì ông Ða-ni-en
truyền cho các tiểu đồng của ông đem tro rải khắp đền thờ, chỉ một mình vua
thấy mà thôi. Sau đó, họ đi ra, đóng cửa lại, lấy ấn của vua mà niêm phong, rồi
ra về. 15 Ðêm ấy, theo thói quen, các tư tế đã cùng với vợ con tới
đó và ăn uống sạch. 16 Sáng hôm sau, vua cùng với ông Ða-ni-en đến
sớm. 17 Vua hỏi: "Này Ða-ni-en, dấu niêm phong có còn nguyên
không? " Ông đáp: "Thưa đức vua, vẫn còn nguyên.” 18 Khi
vừa mở cửa ra và nhìn lên bàn, vua liền kêu lớn tiếng: "Lạy thần Ben, ngài
thật cao cả! Ngài chẳng lừa dối ai bao giờ!” 19 Ông Ða-ni-en cười và
giữ vua lại, không để vua đi vào bên trong. Rồi ông nói: "Xin đức vua coi
nền nhà và xem đây là những vết chân của ai.” 20 Vua nói: "Ta
thấy vết chân đàn ông, đàn bà và con trẻ.” 21 Bấy giờ vua nổi cơn
thịnh nộ, truyền bắt giữ các tư tế và vợ con họ. Họ chỉ cho vua thấy những cửa
bí mật đưa họ vào dùng những thức ăn đặt trên bàn. 22 Vua ra lệnh
giết họ, rồi giao tượng thần Ben cho ông Ða-ni-en. Ông đã phá huỷ tượng và đền
thờ thần Ben.
Ông Ða-ni-en giết con rắn
23 Bấy giờ có một con rắn lớn được
dân Ba-by-lon sùng bái. 24 Vua nói với ông Ða-ni-en: "Ngươi
không thể nói rằng đây không phải là một vị thần hằng sống! Vậy hãy thờ lạy
ngài đi!” 25 Ông Ða-ni-en thưa: "Hạ thần thờ lạy Chúa là Thiên
Chúa của hạ thần, vì Người mới là Thần Hằng Sống. Phần ngài, tâu đức vua, nếu
ngài cho phép, thần sẽ giết con rắn mà chẳng cần gươm đao hay gậy gộc.” 26
Vua nói: "Ta cho phép nhà ngươi.” 27 Ông Ða-ni-en lấy
nhựa dính, mỡ và lông thú, nấu tất cả với nhau, vo thành những viên nhỏ, rồi
ném vào miệng con rắn. Ăn xong, con rắn liền bể bụng. Bấy giờ ông Ða-ni-en nói:
"Hãy coi, đồ các ngươi sùng bái đó!” 28 Nghe thế, dân Ba-by-lon
hết sức giận dữ; họ hợp nhau chống lại nhà vua và nói: "Nhà vua đã trở
thành người Do-thái mất rồi! Ông ta đã phá huỷ tượng thần Ben, giết xà thần và
hạ sát các tư tế.” 29 Họ đến gặp vua và nói: "Yêu cầu vua nộp
Ða-ni-en cho chúng tôi; nếu không, chúng tôi sẽ giết vua và cả hoàng gia nữa.” 30
Vua thấy mình bị dồn ép quá mức, nên buộc lòng phải nộp ông Ða-ni-en cho
họ.
Ông Ða-ni-en trong hầm sư tử
31 Họ đẩy ông Ða-ni-en vào hầm sư tử
và ông đã ở đó sáu ngày. 32 Trong hầm, có bảy con sư tử. Trước kia,
mỗi ngày người ta vất cho chúng hai xác người và hai con cừu. Nhưng nay người
ta không vất gì cho chúng nữa, để chúng ăn thịt ông Ða-ni-en.
33 Bấy giờ ngôn sứ Kha-ba-cúc đang ở
Giu-đê. Ông nấu canh, bẻ nhỏ bánh cho vào giỏ, rồi đem ra đồng cho thợ gặt. 34
Thiên sứ của Ðức Chúa bảo ông Kha-ba-cúc: "Hãy đem bữa ăn của ngươi
đến Ba-by-lon cho Ða-ni-en đang ở trong hầm sư tử.” 35 Ông
Kha-ba-cúc nói: "Thưa ngài, tôi chưa hề thấy Ba-by-lon bao giờ, cũng chẳng
biết hầm sư tử ở đâu?” 36 Thiên sứ của Ðức Chúa nắm đầu, túm lấy tóc
ông, rồi dùng sức mạnh của thần khí, đem ông đến Ba-by-lon, để trên miệng hầm. 37
Ông Kha-ba-cúc gọi to: "Ða-ni-en, Ða-ni-en, hãy nhận lấy bữa ăn
Thiên Chúa gửi đến cho ông đây!” 38 Ông Ða-ni-en nói: "Lạy
Thiên Chúa, Ngài đã nhớ đến con và không bỏ rơi những kẻ yêu mến Ngài.” 39
Ông Ða-ni-en đứng dậy ăn. Còn Thiên sứ của Thiên Chúa thì tức khắc đưa
ông Kha-ba-cúc trở về nơi ông ở.
40 Ngày thứ bảy, vua đến khóc ông
Ða-ni-en. Vua tới miệng hầm và ngó vào, thì thấy ông Ða-ni-en đang ngồi ở đó. 41
Vua liền kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa của Ða-ni-en,
Ngài là Ðấng Cao Cả. Ngoài Ngài ra, chẳng có thần nào khác!” 42 Rồi
vua cho người kéo ông Ða-ni-en ra khỏi hầm. Còn những kẻ toan hại ông, thì vua
cho tống vào đó. Tức thì chúng bị sư tử xé xác trước mặt vua.
Hô-sê
Chương 01
Tựa Ðề
1 Lời Ðức Chúa phán với ông Hô-sê,
con ông Bơ-ê-ri, dưới thời các vua Út-di-gia, Giô-tham, A-khát và Khít-ki-gia
trị vì Giu-đa, và dưới thời vua Gia-róp-am con vua Giô-át trị vì Ít-ra-en.
I. Hôn Nhân Của Ông Hô-Sê: Một
Biểu Tượng
Ông Hô-sê kết hôn và sinh con
2 Khởi đầu, lời Ðức Chúa thể hiện
trong cuộc đời ông Hô-sê. Ðức Chúa phán với ông Hô-sê: "Hãy đi cưới một
người đàn bà làm điếm để sinh những đứa con đàng điếm, vì cả xứ đều bỏ Ðức Chúa
mà đi làm điếm."
3 Ông đã đi cưới bà Gô-me, con gái
ông Ðíp-la-gim. Bà đã có thai và sinh cho ông một người con trai. 4 Ðức
Chúa phán với ông: "Hãy đặt tên cho nó là Gít-rơ-en, vì chẳng bao lâu nữa
Ta sẽ đến trừng phạt nhà Giê-hu vì tội đổ máu tại Gít-rơ-en, và Ta sẽ dẹp bỏ
vương quốc Ít-ra-en. 5 Trong ngày đó, Ta sẽ bẻ gãy cung nỏ của
Ít-ra-en trong thung lũng Gít-rơ-en."
6 Bà lại có thai và sinh một người
con gái. Ðức Chúa phán với ông: "Hãy đặt tên nó là Lô Ru-kha-ma
("không-được-thương") vì Ta không còn chạnh thương nhà Ít-ra-en,
không xử khoan hồng với chúng nữa. 7 Nhưng nhà Giu-đa thì Ta sẽ
chạnh thương và sẽ cứu chúng nhờ Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng; Ta sẽ không
dùng cung nỏ, gươm đao và chinh chiến mà cứu chúng, cũng chẳng dùng chiến mã và
kỵ binh."
8 Bà cai sữa cho Lô Ru-kha-ma, rồi
lại có thai và sinh một con trai. 9 Ðức Chúa phán: "Ðặt tên cho
nó là Lô Am-mi ("không-phải-dân-Ta"), vì các ngươi không phải là dân
của Ta, và đối với các ngươi, Ta kể như không có."
Chương 02
Viễn ảnh tương lai
1 Con cái Ít-ra-en sẽ nhiều như cát
biển, đong không xuể, đếm không hết.
Tại chính nơi chúng đã được gọi:
"Không-phải-dân-Ta",
chúng sẽ được gọi: "Con cái
của Thiên Chúa hằng sống."
2 Con cái Giu-đa và con cái
Ít-ra-en
sẽ cùng nhau đoàn kết lại, và sẽ
vươn lên, tràn ra ngoài xứ sở;
vì ngày đó tại Gít-rơ-en sẽ thật
là trọng đại.
3 Hãy gọi anh em các ngươi là:
"Am-mi" ("Dân-Ta")
và gọi chị em các ngươi là:
"Ru-kha-ma" ("Ðược-thương").
Ðức Chúa và hôn thê thất tín của
Người
4 Hãy đưa mẹ các ngươi ra toà, đưa
nó ra toà đi!
Vì nó không phải là vợ của Ta, và
Ta không phải là chồng của nó.
Những vật đĩ thoã trên mặt nó,
và những dấu ngoại tình trên
ngực, nó đều phải vứt bỏ.
5 Nếu không, Ta sẽ lột trần nó ra,
và để nó như ngày mới lọt lòng
mẹ.
Ta sẽ biến nó thành sa mạc hoang
vu,
cho nó trở nên đất khô khan cằn
cỗi, và làm cho nó chết khát.
6 Con cái nó, Ta sẽ không thương,
vì chúng là những đứa con sinh ra
do đĩ điếm.
7 Mẹ chúng quả thật đã làm điếm,
kẻ mang thai chúng đã thất tiết
rồi,
vì nó đã nói: "Tôi đi theo
các tình nhân của tôi,
chính họ cho tôi bánh và nước,
cho len, cho vải, cho dầu ăn, cho
thức uống."
8 Bởi thế, này Ta sẽ lấy gai góc
chặn đường nó lại,
sẽ dựng một bức tường để nó không
thấy được lối đi.
9 Nó sẽ chạy theo các tình nhân của
nó mà không gặp,
sẽ tìm kiếm chúng mà chẳng thấy.
Bấy giờ nó mới nói: "Tôi
phải trở về
với người chồng đầu tiên cuả tôi,
vì hồi ấy tôi sướng hơn bây
giờ."
10 Nó đâu biết rằng chính Ta đã ban
cho nó
lúa mì, rượu mới với dầu tươi,
cũng chính Ta đã tặng cho nó bạc
vàng nhiều vô kể,
vậy mà chúng lại đem chế tạo đồ
dâng kính Ba-an!
11 Bởi thế, vào mùa gặt, Ta sẽ đòi
lại lúa mì của Ta.
Vào thời cất rượu, Ta sẽ lấy lại
rượu mới của Ta.
Len và vải của Ta, Ta sẽ đòi lại
hết:
nó sẽ chẳng còn gì để che tấm
thân trần truồng của nó nữa.
12 Giờ đây, trước mặt các tình nhân
của nó,
Ta sẽ phơi bày ra cái đáng hổ
thẹn của nó,
và không ai giựt được nó khỏi tay
Ta.
13 Ta sẽ chấm dứt mọi thú vui,
mọi ngày sóc, ngày hưu, ngày lễ,
và mọi cuộc hội hè của nó.
14 Ta sẽ phá tan vườn nho nương vả,
những thứ làm cho nó khoe khoang:
"Công tôi đi khách đó: các
tình nhân đã trả cho tôi! "
Ta sẽ biến chúng thành bụi rậm,
mặc cho dã thú gặm tan hoang.
15 Ta sẽ trừng phạt nó vì những ngày
của Ba-an,
những ngày nó đốt hương thờ kính
chúng,
những ngày nó đeo nhẫn, đeo kiềng
chạy theo đám tình nhân của nó,
còn Ta thì nó nỡ bỏ quên - sấm
ngôn của Ðức Chúa.
16 Bởi thế, này Ta sẽ quyến rũ nó,
đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ
lộ tâm tình.
17 Từ nơi đó, Ta sẽ trả lại vườn nho
của nó,
biến thung lũng A-kho thành cửa
khẩu hy vọng.
Ở đó, nó sẽ đáp lại như buổi
thanh xuân,
như ngày nó đi lên từ Ai-cập.
18 Vào ngày đó - sấm ngôn của Ðức
Chúa
ngươi sẽ gọi Ta: "Mình
ơi", chứ không còn gọi "Ông chủ ơi" nữa.
19 Ta sẽ không cho nó mở miệng gọi
tên thần Ba-an,
chẳng còn ai nhớ đến các thần này
mà gọi tên chúng nữa.
20 Trong ngày đó, vì dân Ta,
Ta sẽ thiết lập một giao ước với
thú vật đồng hoang,
với chim chóc trên trời, với loài
bò sát dưới đất:
Ta sẽ bẻ gãy cung nỏ gươm đao,
chấm dứt chiến tranh trên toàn xứ
sở,
và Ta sẽ cho chúng được sống yên
hàn.
21 Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước
vĩnh cửu,
Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong
công minh và chính trực,
trong ân tình và xót thương;
22 Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong
tín thành,
và ngươi sẽ được biết Ðức Chúa.
23 Vào ngày đó, Ta sẽ đáp lại, - sấm
ngôn của Ðức Chúa
Ta sẽ đáp lại trời, và trời sẽ
đáp lại đất.
24 Ðất sẽ đáp lại lúa mì, rượu mới
và dầu tươi,
và những thứ đó sẽ đáp lại
Gít-rơ-en.
25 Ta sẽ gieo trồng nó làm của riêng
Ta trong xứ sở,
sẽ chạnh thương con bé Lô
Ru-kha-ma
("Không-được-thương"),
sẽ nói với thằng Lô Am-mi
("Không-phải-dân-Ta"):
"Ngươi là Am-mi"
("Dân-Ta").
Còn nó sẽ thưa: "Thiên Chúa
của con!"
Chương 03
Ông Hô-sê nhận lại người vợ thất
tín và sửa trị bà.
Ý nghĩa của biểu tượng.
1 Ðức Chúa phán với tôi: "Một
lần nữa, ngươi cứ đi yêu người đàn bà đang có tình nhân và đang ngoại tình,
cũng như Ðức Chúa yêu thương con cái Ít-ra-en, trong khi chúng lại quay lưng đi
theo các thần khác và thích bánh nho.” 2 Thế là tôi đã bỏ ra mười
lăm đồng bạc, ba mươi thùng lúa mạch, để mua nàng về. 3 Tôi bảo
nàng: "Trong một thời gian dài, mình cứ ở yên cho tôi, không được đi
khách, không được theo người đàn ông nào cả; phần tôi, tôi cũng xử với mình như
thế."
4 Vì quả thật, trong một thời gian
dài, con cái Ít-ra-en sẽ không có vua, không thủ lãnh, không hy lễ cũng chẳng
có trụ thần, chẳng có ê-phốt và tơ-ra-phim. 5 Sau đó, con cái
Ít-ra-en sẽ trở lại tìm kiếm Ðức Chúa, Thiên Chúa của chúng, và tìm Ða-vít, vua
của chúng. Ngày lại ngày chúng sẽ đem lòng kính sợ mà hướng về Ðức Chúa và chờ
mong ân huệ của Người.
Chương 04
II. Ít-Ra-En Phạm Tội Và Bị Trừng
Phạt
Tình trạng đồi bại chung
1 Hỡi con cái Ít-ra-en, hãy nghe
lời Ðức Chúa,
vì Ðức Chúa sẽ kiện dân cư xứ
này: Quả thật trong xứ này,
chẳng có tín thành, chẳng có ân
nghĩa,
cũng chẳng có sự hiểu biết Thiên
Chúa.
2 Chỉ có bội thề, dối trá, sát nhân
và trộm cướp,
áp bức với ngoại tình, các cuộc
đổ máu cứ nối tiếp nhau.
3 Chính vì thế mà xứ sở tang
thương, dân cư tàn tạ,
ngay thú vật ngoài đồng, cũng như
chim trời cá biển,
tất cả đều chết hết.
Lên án hàng tư tế
4 Thế mà chẳng có ai kiện tụng,
chẳng có ai trách mắng!
Nhưng hỡi tư tế, chính Ta sẽ đưa
ngươi ra toà.
5 Giữa ban ngày, chính ngươi sẽ vấp
ngã,
ban đêm, cả ngôn sứ cũng vấp ngã
như ngươi.
Ta sẽ bắt mẹ ngươi phải chết.
6 Vì thiếu hiểu biết mà dân Ta bị
tiêu vong.
Bởi chính ngươi đã gạt bỏ sự hiểu
biết,
nên Ta sẽ gạt bỏ ngươi, không cho
làm tư tế của Ta nữa;
ngươi đã quên luật của Thiên Chúa
ngươi thờ,
thì Ta, Ta cũng sẽ quên con cái
ngươi.
7 Tất cả đám đông chúng nó đều xúc
phạm đến Ta.
Vinh quang của chúng, chúng đổi
lấy ô nhục.
8 Chúng có ăn, nhờ dân Ta phạm tội,
chúng thích thú, khi dân Ta lỗi
lầm.
9 Nên tư tế phải chung số phận của
dân:
Ta sẽ cứ lối sống của nó mà trừng
phạt nó,
sẽ trả cho nó theo việc nó làm.
10 Chúng ăn mà chẳng no, làm điếm mà
chẳng sinh sôi nẩy nở,
vì chúng đã bỏ không thờ Ðức
Chúa.
Phụng tự của Ít-ra-en: thờ ngẫu
tượng và sống sa đoạ
11 Ðĩ điếm, rượu chè làm dân Ta mất
trí.
12 Chúng thỉnh ý khúc gỗ của mình,
và xin cây gậy của mình mặc khải
cho;
vì thói đĩ điếm làm cho chúng lầm
lạc,
chúng bỏ Thiên Chúa của mình mà
đi làm điếm.
13 Chúng sát tế, chúng dâng hương
trên các đỉnh núi, trên các ngọn
đồi,
dưới bóng mát cây sồi, cây hương,
cây sến.
Thảo nào con gái các ngươi chẳng
làm điếm,
con dâu các ngươi chẳng ngoại
tình.
14 Con gái các ngươi làm điếm, con
dâu các ngươi ngoại tình,
Ta sẽ không trừng phạt,
vì chính các tư tế cũng giao du
với kỹ nữ
và cùng tế lễ với điếm thần.
Ðám dân đen chẳng thông, chẳng
hiểu sẽ bị diệt vong.
Cảnh cáo Giu-đa và Ít-ra-en
15 Hỡi Ít-ra-en, nếu ngươi làm điếm,
thì đừng để cho Giu-đa mắc tội!
Ðừng tới Ghin-gan, đừng lên Bết
A-ven,
đừng thề "nhân danh Ðức Chúa
hằng sống."
16 Quả thật, Ít-ra-en cứng đầu như
một con bò cái bất trị,
chẳng lẽ bây giờ Ðức Chúa lại để
cho chúng tha hồ ăn cỏ
khác nào con chiên trong đồng
rộng thênh thang?
17 Ép-ra-im kết thân với ngẫu tượng,
thì cứ để mặc nó!
18 Chè chén say sưa rồi, chúng tha
hồ đàng điếm;
chúng ham thích Ô nhục mà bỏ Ðấng
Tối Cao.
19 Chúng sẽ bị cuốn đi trong cánh
gió,
sẽ hổ thẹn vì hiến lễ của mình.
Chương 05
Tư tế và vua chúa quan quyền đưa
dân tới suy vong
1 Hỡi các tư tế, hãy nghe điều này,
hỡi nhà Ít-ra-en, hãy chú ý,
hỡi triều đình, hãy lắng tai!
Các ngươi có bổn phận bảo vệ luật
pháp,
thế mà tại Mít-pa, các ngươi lại
thành cái bẫy,
thành chiếc lưới giăng trên núi
Ta-bo.
2 Tại Sít-tim, chúng đã đào sâu
thêm cái hố.
Còn Ta, Ta sẽ trừng phạt chúng
hết thảy.
3 Ép-ra-im, Ta biết nó, và Ít-ra-en
đâu khuất mắt Ta!
Chính vì ngươi, hỡi Ép-ra-im,
ngươi đã làm điếm,
mà Ít-ra-en ra nhơ bẩn.
4 Các việc chúng làm không cho
chúng trở lại
với Thiên Chúa của chúng.
Ðã quen thói điếm đàng, chúng
chẳng biết Ðức Chúa là ai.
5 Ít-ra-en kiêu ngạo, tội của nó sẽ
tố cáo nó.
Ít-ra-en và Ép-ra-im chao đảo vì
tội ác của mình.
Cùng với chúng, Giu-đa cũng chao
đảo.
6 Chúng mang chiên mang bò đến tìm
Ðức Chúa,
nhưng chúng sẽ không gặp được
Người, vì Người đã tránh mặt.
7 Chúng phản bội Ðức Chúa, vì đã
sinh những đứa con hoang;
giờ đây ngày sóc sẽ là ngày chúng
bị huỷ diệt
cùng với sản nghiệp chúng.
Cảnh huynh đệ tương tàn
8 Tại Ghíp-a, hãy rúc tù và, hãy
thổi kèn ở Ra-ma,
tại Bết A-ven, hãy lên tiếng báo
động.
Hỡi Ben-gia-min,quân thù đến sau
ngươi rồi đó!
9 Trong ngày bị đánh bị phạt,
Ép-ra-im sẽ nên hoang tàn:
Ðây là tin chắc chắn Ta loan báo
cho các chi tộc Ít-ra-en.
10 Các thủ lãnh Giu-đa khác nào
những kẻ lấn đường ranh giới,
nên cơn thịnh nộ của Ta, Ta sẽ
trút lên chúng như trút nước.
11 Ép-ra-im bị áp bức chà đạp do án
lệnh của Thiên Chúa,
vì nó đã vui thích đi theo điều
dơ bẩn.
12 Phần Ta, Ta sẽ như mối mọt gặm
nhấm Ép-ra-im,
sẽ như bệnh mục xương xâm nhập
nhà Giu-đa.
Giao ước với ngoại bang chỉ là hư
ảo
13 Khi Ép-ra-im thấy mình mắc bệnh
và Giu-đa thấy vết thương của
mình,
thì Ép-ra-im đã đến với Át-sua,
và đã sai sứ đến hầu vua cả.
Nhưng ông ấy sẽ chẳng chữa được
các ngươi,
cũng chẳng làm cho vết thương các
ngươi được lành.
14 Vì với Ép-ra-im, Ta sẽ như sư tử,
Ta cũng sẽ như sư tử với nhà
Giu-đa:
Ta sẽ vồ lấy, Ta sẽ ra đi, mang
mồi theo, không để ai cướp mất.
15 Ta sẽ ra đi, về nơi Ta ngự,
cho đến khi chúng đền tội xong và
tìm kiếm nhan Ta;
chúng sẽ mau mắn tìm Ta trong cơn
khốn quẫn.
Chương 06
Trở về với Ðức Chúa, nhưng không
thật lòng.
1 "Nào chúng ta hãy trở về
cùng Ðức Chúa.
Người đã xé nát thân chúng ta,
nhưng rồi lại chữa lành.
Người đã đánh đập chúng ta, nhưng
rồi lại băng bó vết thương.
2 Sau hai ngày, Người sẽ hoàn lại
cho chúng ta sự sống;
ngày thứ ba, sẽ cho chúng ta trỗi
dậy,
và chúng ta sẽ được sống trước
nhan Người.
3 Chúng ta phải biết Ðức Chúa, phải
ra sức nhận biết Người;
như hừng đông mỗi ngày xuất hiện,
chắc chắn thế nào Người cũng đến.
Người sẽ đến với chúng ta như mưa
rào,
như mưa xuân tưới gội đất
đai."
4 Ta phải làm gì cho ngươi đây,
Ép-ra-im hỡi?
Ta phải làm gì cho ngươi, hỡi
Giu-đa?
Tình yêu của các ngươi khác nào
mây buổi sáng,
mau tan tựa sương mai.
5 Vì vậy, Ta dùng ngôn sứ mà đánh
phạt chúng,
lấy lời miệng Ta mà diệt trừ.
Phán quyết của Ta sẽ bừng lên như
ánh sáng.
6 Vì Ta muốn tình yêu chứ không cần
hy lễ,
thích được các ngươi nhận biết
hơn là được của lễ toàn thiêu.
Tội ác của Ít-ra-en xưa và nay
7 Nhưng ngay tại A-đam, chúng đã vi
phạm giao ước,
tại đó, chúng đã phản bội Ta.
8 Ga-la-át là thành của những kẻ
bất lương, thành đầy vết máu.
9 Trên đường về Si-khem, một đoàn
tư tế gây chết chóc,
khác nào bọn cướp đang rình rập.
Việc chúng làm quả thật xấu xa.
10 Tại nhà Ít-ra-en, Ta đã thấy một
điều ghê tởm,
ở đó, Ép-ra-im đã làm điếm,
Ít-ra-en đã ra dơ bẩn.
11 Cả ngươi nữa, hỡi Giu-đa, Ta ấn
định cho ngươi một mùa gặt,
khi Ta đổi số phận dân Ta.
Chương 07
1 Khi Ta muốn chữa Ít-ra-en cho
lành,
thì tội lỗi của Ép-ra-im và các
sự gian ác của Sa-ma-ri
lại bị phát giác, bởi vì chúng
làm chuyện gian tà:
kẻ trộm lẻn vào trong, bọn cướp
phá bên ngoài.
2 Chúng đâu có tự nhủ: Ta nhớ hết
mọi việc gian ác chúng làm.
Giờ đây hành động của chúng trói
chặt lấy chúng,
tất cả rành rành trước mặt Ta.
3 Ðể mua vui cho vua, chúng làm
điều gian ác,
để vừa lòng thủ lãnh, chúng bày
chuyện dối gian,
4 tất cả bọn chúng là một đám ngoại
tình,
chẳng khác chi hoả lò phừng phực
cháy
khi người nướng bánh đã ngưng
thổi lửa
để nhồi bột cho đến lúc dậy men.
5 Trong ngày mừng đức vua,
các thủ lãnh choáng váng vì hơi
rượu;
bọn chè chén say sưa cũng được
rộng tay đón tiếp.
6 Khi chúng bày những âm mưu xảo
quyệt,
lòng chúng chẳng khác chi hoả lò:
suốt đêm cơn giận của chúng ngủ
yên,
nhưng bừng lên như ngọn hoả hào
khi trời sáng;
7 cả đám phừng phực như hoả lò
đốt tiêu tan các quan toà của
chúng;
hết thảy các vua đều gục ngã
mà không ai trong chúng kêu cầu
Ta.
Ít-ra-en điêu tàn vì cầu cứu
ngoại bang
8 Ép-ra-im chung đụng với chư dân,
Ép-ra-im như chiếc bánh nướng
cháy một bên.
9 Ngoại bang ngốn hết sức lực của
nó
mà nó cũng chẳng hay.
Ngay cả khi tóc nó bạc màu, nó
nào đâu có biết.
10 Ít-ra-en kiêu ngạo, tội nó tố cáo
nó. Chúng đâu chịu trở về
với Ðức Chúa là Thiên Chúa của
chúng.
Sự thể đã rành rành như vậy
mà chúng cũng chẳng kiếm tìm
Người.
11 Ép-ra-im vô tâm vô trí tựa bồ câu
khờ dại.
Chúng cầu cứu Ai-cập, chạy đến
với Át-sua.
12 Chúng lên đường là Ta bủa lưới
bắt chúng.
Ta sẽ làm cho chúng sa lưới tựa
chim trời.
Khi hay tin chúng cùng nhau hội
họp, Ta liền sửa trị chúng.
Ít-ra-en bị trừng phạt vì vô ơn
13 Khốn cho chúng vì chúng đã lìa bỏ
Ta.
Chúng sẽ bị tiêu diệt, vì đã dám
xúc phạm đến Ta.
Ta, Ta muốn giải cứu chúng,
còn chúng lại nói lời gian dối
phạm đến Ta.
14 Chúng kêu lên Ta mà chẳng thật
lòng,
chỉ than vãn trên giường nằm của
chúng.
Chúng tự rạch mình, mong có được
lúa mì, rượu mới,
chúng đã phản bội Ta.
15 Ta vừa uốn nắn, vừa làm cho cánh
tay chúng nên mạnh mẽ,
nhưng chúng lại mưu đồ chống lại
Ta.
16 Chúng quay về với cái hư không.
Chúng chẳng khác nào cánh cung
sai chậy.
Thủ lãnh chúng ngã gục dưới lưỡi
gươm,
vì thốt ra những lời giận dữ;
trong đất Ai-cập, chúng sẽ nên
trò cười.
Chương 08
Báo động
1 Thổi kèn báo động đi!
Như phượng hoàng, tai hoạ chụp
xuống nhà Ðức Chúa,
vì chúng không tuân giữ giao ước
của Ta,
và vi phạm lề luật Ta truyền dạy.
2 Chúng lớn tiếng kêu lên Ta:
"Lạy Thiên Chúa chúng con,
chúng con là Ít-ra-en,
chúng con nhận biết Ngài."
3 Thế nhưng, điều tốt lành,
Ít-ra-en đã gạt bỏ,
nên nó sẽ bị quân thù đuổi bắt.
Xã hội hỗn loạn vì dân Chúa thờ
ngẫu tượng
4 Chúng phong vương người mà Ta
không chọn,
tôn làm lãnh tụ kẻ Ta không biết,
dùng bạc vàng làm ra ngẫu tượng,
để rồi bị đập tan.
5 Hỡi Sa-ma-ri, hãy gạt bỏ con bê
của ngươi
- chúng làm Ta nổi giận.
Chúng không chịu để cho Ta thanh
tẩy mãi cho tới bao giờ?
6 Vì con bê đó là do Ít-ra-en làm
ra,
do một nghệ nhân sản xuất, nó đâu
phải là thần!
Chắc chắn con bê của Sa-ma-ri sẽ
như thể mùn cưa.
7 Chúng gieo gió thì phải gặt bão.
Chúng là cây lúa không làm đòng,
là hạt lúa lép không có bột,
nhưng giả như có bột, thì ngoại
bang cũng sẽ nuốt hết.
Ít-ra-en bị tiêu diệt vì cầu cứu
ngoại bang
8 Ít-ra-en đã bị nuốt trửng.
Giờ đây chúng ở lẫn với chư dân,
như một vật chẳng ai ưa thích.
9 Chính chúng đã lên với Át-sua.
Con lừa hoang còn thích sống độc
lập,
nhưng Ép-ra-im lại tặng quà để có
tình nhân.
10 Dù chúng có đem quà tặng chư dân,
thì giờ đây Ta cũng gom chúng
lại,
và chẳng bao lâu nữa, chúng sẽ
phải khốn khổ lao đao
dưới gánh nặng của vua các thủ
lãnh.
Chống nền phụng tự vụ hình thức
11 Khi Ép-ra-im đua nhau dựng bàn
thờ, thì các bàn thờ ấy
chỉ làm cho chúng phạm tội thêm.
12 Luật lệ của Ta, Ta có viết cho nó
cả ngàn,
thì nó cũng coi là xa lạ.
13 Hy lễ dâng Ta thì chúng cứ dâng,
chúng cứ ăn thịt đã sát tế,
nhưng Ðức Chúa sẽ chẳng đoái
hoài.
Giờ đây Người sẽ nhớ lại sự gian
ác của chúng,
chúng đã phạm tội thì chúng sẽ
phải đền:
chúng sẽ phải trở về Ai-cập.
14 Ít-ra-en đã quên Ðấng tác tạo ra
nó, và lo xây đền đài;
còn Giu-đa thì xây thêm những
thành kiên cố.
Nhưng Ta sẽ phóng lửa xuống các
thành này,
và lửa sẽ ngốn hết các dinh thự.
Chương 09
Sầu khổ chốn lưu đày
1 Hỡi Ít-ra-en, chớ vui cười,
đừng hớn hở như phường dân ngoại.
Ngươi đã bỏ Thiên Chúa ngươi mà
làm điếm
và mong được trả công trên mọi
sân đập lúa.
2 Lúa trong sân, nho trong bồn,
chúng sẽ không được hưởng,
càng mong rượu mới, chúng càng
thất vọng ê chề.
3 Không được ở trên đất của Ðức
Chúa,
Ép-ra-im sẽ phải trở về Ai-cập,
và phải dùng thức ăn ô uế tại
Át-sua.
4 Chúng sẽ không được rót rượu tế
dâng Ðức Chúa,
các hy lễ của chúng cũng chẳng
đẹp lòng Người.
Bánh chúng ăn khác nào bánh tại
nhà có tang,
ai ăn vào cũng trở thành ô uế,
vì bánh của chúng chỉ để chúng
nuôi thân,
chứ không được đưa vào nhà Ðức
Chúa.
5 Các ngươi sẽ làm gì trong ngày
hội, ngày lễ của Ðức Chúa?
6 Vì này chúng sẽ phải ra đi sau
khi đất nước bị tàn phá.
Chúng sẽ bị Ai-cập tập trung, và
sẽ bị Mốp chôn vùi.
Cỏ dại mọc um tùm trên đồ bạc
chúng coi là quý giá,
gai góc nằm ngổn ngang ngay trong
lều chúng ở.
Ngôn sứ bị khủng bố vì loan báo
cuộc trừng phạt
7 Ðã đến rồi những ngày trừng phạt,
đã đến rồi những ngày báo oán:
Ít-ra-en sẽ thấy điều này!
- "Ngôn sứ điên rồi! Người
được linh hứng nói sảng! "
Ngươi nói vậy, vì tội ác của
ngươi tầy trời,
ngươi lại còn bày đủ trò khủng
bố.
8 Ngôn sứ là người canh gác
Ép-ra-im, vẫn ở cùng Thiên Chúa,
thế mà thiên hạ lại giăng bẫy
trên khắp mọi nẻo đường ông đi,
khủng bố ông ngay trong nhà Thiên
Chúa.
9 Chúng chìm sâu trong vũng lầy hư
hỏng như hồi ở Ghíp-a.
Người không quen điều gian ác
chúng làm,
nhưng sẽ trị tội chúng.
Trừng phạt tội ác tại Ba-an Pơ-o
10 Ta đã gặp được Ít-ra-en, khác nào
chùm nho trong sa mạc,
Ta đã xem cha ông các ngươi
như trái đầu mùa trên cây vả mới
bói.
Nhưng phần chúng, khi đến Ba-an
Pơ-o,
chúng lại gắn bó với các thần ô
nhục,
và trở thành ghê tởm như những
thần chúng yêu mến.
11 Vinh quang của Ép-ra-im như cánh
chim vụt bay:
không còn thai nghén, chẳng còn
sinh nở.
12 Giả như chúng có nuôi con cho
khôn lớn,
Ta cũng không để cho thành người.
Thật khốn nạn cho chúng khi bị Ta
từ bỏ.
13 Xưa Ta thấy Ép-ra-im như thành
Tia toạ lạc trong đồng cỏ,
nhưng nay Ép-ra-im
sắp phải nộp con mình cho phường
khát máu.
14 Lạy Ðức Chúa, xin Ngài làm cho
chúng...
Ngài sẽ làm gì cho chúng đây?
Xin cho chúng không còn sinh nở,
hết cho bú mớm.
Trừng phạt tội ác tại Ghin-gan
15 Mọi tội ác của chúng lộ hết ở
Ghin-gan.
Tại nơi này Ta chê ghét chúng.
Những hành vi gian ác của chúng
khiến Ta xua đuổi chúng khỏi nhà
Ta.
Ta không còn yêu thương chúng
nữa.
Hết thảy các thủ lãnh của chúng
đều là quân phản bội.
16 Ép-ra-im đã bị đánh nhừ đòn, gốc
rễ của chúng bị héo khô,
chúng không mang lại hoa trái gì
được.
Và giả như chúng có sinh sản, Ta
cũng sẽ giết chết
những đứa con yêu quý chúng đã
cưu mang.
17 Thiên Chúa của tôi sẽ xua đuổi
chúng,
vì chúng không chịu nghe lời
Người;
giữa chư dân, chúng sẽ phải lang
thang phiêu bạt.
Chương 10
Ngẫu tượng Ít-ra-en thờ sẽ bị phá
huỷ
1 Ít-ra-en vốn là một cây nho sum
sê,
trái trăng thật dồi dào phong
phú.
Nhưng trái trăng càng nhiều,
chúng càng dựng thêm các bàn thờ
ngẫu tượng;
đất nước càng giàu sang,
chúng càng làm thêm những cột
thần lộng lẫy.
2 Chúng là thứ người lòng một dạ
hai,
rồi đây chúng sẽ phải đền tội;
bàn thờ của chúng, chính Người sẽ
đập tan,
cột thờ của chúng, Người cũng sẽ
phá đổ.
3 Bây giờ chúng lại nói:
"Chúng tôi không có vua."
Vì Ðức Chúa, chúng còn không kính
sợ,
thì nếu có vua, liệu ông làm gì
được cho chúng?
4 Chúng ăn nói ba hoa, thề gian thề
dối, thoả hiệp với mọi người,
biến luật pháp nên như cây độc
hại tươi tốt trên nương đồng.
5 Ðứng trước con bò của Bết A-ven,
dân cư Sa-ma-ri run sợ.
Quả thật, dân của nó để tang nó,
bọn tư tế bất hợp pháp cũng vậy.
Chúng cứ vui mừng vì vinh quang
của nó đi,
bởi giờ đây vinh quang ấy đã bị
đẩy xa rồi.
6 Nó cũng bị đưa sang Át-sua làm lễ
vật triều cống cho vua cả.
Ép-ra-im sẽ chuốc lấy nhuốc nhơ,
Ít-ra-en phải hổ thẹn về những điều mình suy tính.
7 Thế là Sa-ma-ri tiêu tùng.
Vua của nó tựa hồ mảnh ván trôi
dạt trên mặt nước.
8 Các nơi cao của A-ven sẽ bị phá huỷ,
đó là tội của Ít-ra-en.
Gai góc sẽ leo lên các bàn thờ
của nó.
Bấy giờ chúng sẽ nói với núi đồi:
"Phủ lấp chúng tôi đi! "
và với gò nổng: "Hãy đổ
xuống trên chúng tôi! "
9 Hỡi Ít-ra-en, từ những ngày ở
Ghíp-a, ngươi đã phạm tội.
Ngày nay vẫn chứng nào tật ấy,
như thể tại Ghíp-a xưa
chiến tranh đã không đụng tới
những kẻ gian ác.
10 Ta sẽ đến và sửa trị chúng.
Các dân sẽ tập hợp chống lại
chúng,
khi chúng bị sửa trị về hai tội
ác chúng đã phạm.
Ít-ra-en đã không đáp ứng điều
Ðức Chúa chờ đợi
11 Ép-ra-im là con bê thuần thục, ưa
đạp lúa,
và Ta, Ta sẽ luồn cái ách vào cổ
xinh đẹp của nó!
Ta sẽ đặt ách cho Ép-ra-im,
Giu-đa sẽ kéo cày, Gia-cóp sẽ kéo
bừa.
12 Hãy gieo công chính, rồi sẽ gặt
được tình thương.
Hãy khai khẩn đất hoang;
đây là thời kiếm tìm Ðức Chúa
cho đến khi Người đến làm mưa
công chính trên các ngươi.
13 Các ngươi đã gieo tội ác, gặt sự
bất công, ăn hoa quả dối trá.
Vì ngươi cậy có chiến xa và nhiều
dũng sĩ,
14 thì náo loạn sẽ nổi lên trong dân
ngươi.
Tất cả các pháo đài của ngươi đều
bị phá huỷ,
như San-man phá huỷ Bết Ác-vên,
trong ngày có giao tranh, khi cả
mẹ lẫn con đều bị đập tan xác.
15 Bết Ên đã gây ra cho các ngươi
như thế đó
vì tội ác nặng nề của các ngươi;
ngay từ rạng đông chắc chắn vua
Ít-ra-en sẽ bị rồi đời!
Chương 11
Ðức Chúa báo oán cho tình yêu bị
khước từ
1 Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta
đã yêu nó,
từ Ai-cập Ta đã gọi con Ta về.
2 Nhưng Ta càng gọi chúng, chúng
càng bỏ đi;
chúng dâng hy lễ cho các Ba-an,
đốt hương kính ngẫu tượng.
3 Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ
cánh tay nó,
nhưng chúng không hiểu là Ta chữa
lành chúng.
4 Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân
tình mà lôi kéo chúng.
Ta xử với chúng như người nựng
trẻ thơ, nâng lên áp vào má;
Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó
ăn.
5 Nó sẽ không trở về Ai-cập nữa,
nhưng Át-sua sẽ lại làm vua nó,
vì nó không chịu về với Ta.
6 Gươm đao sẽ hoành hành trong các
thành của nó,
sẽ làm cỏ và ngốn sạch con cái
nó, vì chúng có những ý đồ xấu xa.
Nhưng Ðức Chúa lại tha thứ
7 Dân Ta cứ miệt mài buông theo bội
tín,
chúng được kêu mời hãy vươn lên,
mà chẳng một ai ngóc đầu dậy!
8 Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi
sao nổi!
Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi
sao đành!
Làm sao Ta xử với ngươi như với
Át-ma,
để ngươi nên giống như Xơ-vô-gim
được?
Trái tim Ta thổn thức, ruột gan
Ta bồi hồi.
9 Ta sẽ không hành động theo cơn
nóng giận,
sẽ không tiêu diệt Ép-ra-im nữa,
vì Ta là Thiên Chúa, chứ không
phải người phàm.
Ở giữa ngươi, Ta là Ðấng Thánh,
và Ta sẽ không đến trong cơn
thịnh nộ.
Trở về từ chốn lưu đày
10 Chúng sẽ bước theo Ðức Chúa.
Người sẽ rống lên như sư tử.
Quả thật, Người sẽ rống lên,
và từ phía tây, con cái sẽ vui
mừng chạy tới.
11 Chúng sẽ chạy tới lẹ như chim từ
Ai-cập,
như bồ câu từ đất Át-sua,
và Ta sẽ cho chúng cư ngụ trong
nhà của chúng,
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
Chương 12
Ít-ra-en lụn bại về tôn giáo và
chính trị
1 Ép-ra-im lấy giả dối,
và nhà Ít-ra-en dùng lừa đảo mà
bao bọc Ta.
Giu-đa vẫn đi với Thiên Chúa,
vẫn trung thành với Ðấng Thánh
của mình.
2 Ép-ra-im bầu bạn với không khí,
ngày nào cũng chạy theo gió đông;
nó cứ gia tăng giả dối, bạo tàn,
nó lập giao ước với Át-sua, và
chở dầu cho Ai-cập.
Lên án Gia-cóp và Ép-ra-im
3 Ðức Chúa hạch tội Giu-đa,
Người sẽ trừng trị Gia-cóp theo
lối sống của nó,
sẽ cứ các việc nó làm mà trả công
cho nó.
4 Còn là thai nhi, nó đã chiếm chỗ
của anh mình;
trong thời sung sức, nó dám cự
lại Thiên Chúa.
5 Nó cự lại thiên sứ và đã lấn át
người,
nhưng nó lại khóc và xin người
thương xót.
Ở Bết Ên nó gặp người, và ở đó,
chính người đã nói với nó:
6 Ðức Chúa là Thiên Chúa các đạo
binh:
danh hiệu Người là Ðức Chúa.
7 Còn ngươi, nhờ Thiên Chúa của
ngươi, ngươi sẽ trở về.
Ngươi hãy giữ đức tín thành, công
chính
và luôn trông cậy vào Thiên Chúa
của ngươi.
8 Ca-na-an nắm trong tay những
chiếc cân bịp bợm:
nó ưa thích đánh lừa.
9 Ép-ra-im từng nói: "Ta đã
nên giàu có với đủ cơ ngơi rồi";
nhưng tất cả những của nó làm ra,
nó chẳng còn giữ lại được gì, vì
sự gian ác nó đã phạm.
Viễn ảnh hoà giải với Thiên Chúa
10 Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi
ngay từ khi ngươi còn bên Ai-cập.
Ta sẽ vẫn cho các ngươi cư ngụ
trong lều,
như trong những ngày hội ngộ.
11 Ta sẽ phán với các ngôn sứ, Ta sẽ
tăng thị kiến thêm nhiều,
và nhờ các ngôn sứ để nói những
dụ ngôn.
Những lời đe doạ mới
12 Ga-la-át chỉ có gian tà.
Quả thật chúng chỉ là quân giả
dối:
tại Ghin-gan chúng sát tế bò bê,
bàn thờ của chúng chẳng khác gì
những đống đá
trên các luống đất ngoài đồng.
13 Gia-cóp đã trốn chạy sang cánh
đồng A-ram,
Ít-ra-en đã phục dịch vì một
người phụ nữ,
vì một người đàn bà mà ông đã
phải giữ chiên.
14 Nhưng nhờ một ngôn sứ,
Ðức Chúa đã đưa Ít-ra-en từ
Ai-cập lên;
cũng nhờ một ngôn sứ, mà Ít-ra-en
được canh giữ.
15 Ép-ra-im đã xúc phạm đến Người
và làm cho Người phải xót xa cay
đắng.
Nó đã đổ máu thì phải chịu tội.
Những nhục mạ nó đã gây nên, Chúa
sẽ bắt nó phải đền bù.
Chương 13
Trừng phạt tội thờ ngẫu tượng
1 Xưa kia hễ Ép-ra-im lên tiếng là
nó gây kinh hoàng,
nó có một địa vị cao trong
Ít-ra-en,
nhưng vì mắc tội thờ Ba-an nên nó
đã chết.
2 Giờ đây chúng phạm thêm tội lỗi:
đúc cho mình những tượng bằng kim
loại,
lấy bạc làm ra những tượng thần
như trí mình sáng chế.
Tất cả những thứ đó đều là sản
phẩm do tay thợ làm ra.
Rồi chúng ngỏ lời với những thần
đó, còn dâng hy lễ nữa.
Chúng là người mà lại hôn kính
những con bê.
3 Bởi vậy, chúng chỉ như đám mây
buổi sáng,
như sương mai chóng tan, như vỏ
trấu bị cuốn khỏi sân lúa,
như làn khói toả từ ống thông
hơi.
Trừng phạt tội vô ơn bạc nghĩa
4 Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi
từ khi ngươi còn ở đất Ai-cập.
Ngoài Ta ra, ngươi không được
biết thần nào khác,
chẳng có vị cứu tinh nào khác
ngoại trừ Ta.
5 Chính Ta đã biết ngươi khi ngươi
còn ở trong sa mạc,
trong vùng đất cằn cỗi khô khan.
6 Vừa khi ra đồng cỏ, chúng liền
được ăn uống thoả thuê.
Nhưng khi thoả thuê rồi, chúng
đâm ra tự cao tự đại.
Chính vì thế mà chúng đã quên Ta.
7 Nên đối với chúng, Ta khác nào sư
tử,
tựa con báo, Ta rình rập bên
đường.
8 Như gấu mất con, Ta chồm lên
chúng,
Ta xé chúng cho nát tan lồng
ngực;
Ta ăn thịt chúng tại chỗ như sư
tử cái,
chúng sẽ bị mãnh thú ngoài đồng
phanh thây.
Vương quyền chấm dứt
9 Ta sắp tiêu diệt ngươi, hỡi Ít-ra-en.
Ai sẽ đến cứu ngươi?
10 Vua ngươi là người phải cứu ngươi
dù ngươi ở thành thị nào đi nữa,
giờ đây vua ngươi ở đâu rồi?
Các thẩm phán của ngươi, những kẻ
xưa ngươi tìm đến ngỏ lời:
"Tôi muốn có vua, muốn có
thủ lãnh, xin ban cho tôi đi! "
Giờ đây các thẩm phán đó đâu rồi?
11 Ta cho ngươi một ông vua trong
cơn thịnh nộ,
rồi lấy đi giữa trận lôi đình.
Sụp đổ không tránh được
12 Sự gian ác của Ép-ra-im được cuốn
lại để dành,
tội lỗi của nó được giữ kỹ.
13 Nó sẽ đau quằn quại như sản phụ
lâm bồn;
nó là đứa con ngu dốt:
vì đã đến giờ mà không chịu rời
lòng mẹ!
14 Ta lại giải thoát nó khỏi quyền
lực âm phủ sao,
lại chuộc nó khỏi thần chết ư?
Tử khí ngươi đâu rồi, hỡi Thần
Chết?
Nọc độc của ngươi đâu, hỡi Âm ty?
Ta nhắm mắt không còn thương xót
nữa.
15 Vì nó có sinh sôi nẩy nở giữa anh
em mình,
thì một cơn gió nóng như thiêu
cũng sẽ đến,
gió của Ðức Chúa thổi lên từ sa
mạc khiến suối cạn, giếng khô.
Cơn gió ấy sẽ cướp đi kho tàng,
cuốn hết mọi bảo vật.
Chương 14
1 Sa-ma-ri sẽ phải đền tội vì đã
phản bội Thiên Chúa của mình.
Chúng sẽ gục ngã vì gươm đao,
con thơ của chúng sẽ bị tan xác,
phụ nữ mang thai bị mổ bụng.
III. Ít-Ra-En Hối Cải Và Ðược
Chúa Thương
Ít-ra-en thành tâm trở về với Ðức
Chúa
2 Hỡi Ít-ra-en, hãy trở về với Ðức
Chúa là Thiên Chúa của ngươi.
Chính vì tội ác của ngươi mà
ngươi đã vấp ngã.
3 Hãy trở về với Ðức Chúa, mang
theo lời cầu nguyện.
Hãy thưa với Người:
"Xin thứ tha mọi gian ác,
xin vui nhận lời ngợi khen
chúng con dâng lên Ngài làm lễ
vật thay thế bò tơ.
4 Chúng con sẽ không cầu cứu với Át-sua,
sẽ không cậy nhờ vào chiến mã,
cũng chẳng gọi là thần những sản
phẩm tay chúng con làm ra,
vì chỉ ở nơi Ngài kẻ mồ côi mới
tìm được lòng thương cảm."
5 Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất
trung,
sẽ yêu thương chúng hết tình,
vì cơn giận của Ta sẽ không còn
đeo đuổi chúng.
6 Với Ít-ra-en Ta sẽ như làn sương
mai
làm nó vươn lên như bông huệ,
cho bén rễ sâu như cây ngàn
Li-băng.
7 Họ sẽ đâm chồi nẩy lộc, sum sê
tựa ô-liu tươi tốt,
toả hương thơm ngát như rừng
Li-băng.
8 Chúng sẽ trở về cư ngụ dưới bóng
Ta,
sẽ làm cho lúa miến hồi sinh nơi
đồng ruộng,
tựa vườn nho, chúng sẽ sinh sôi
nẩy nở,
danh tiếng lẫy lừng như rượu
Li-băng.
9 Ép-ra-im còn liên hệ gì với các
ngẫu tượng?
Còn Ta, Ta đã nhậm lời và đoái
nhìn đến nó.
Ta như một cây trắc bá xanh tươi,
chính nhờ Ta mà ngươi trổ sinh
hoa trái.
Lời căn dặn cuối cùng
10 Ai đủ khôn ngoan để hiểu được
điều này,
đủ thông minh để biết được điều
ấy?
Quả thật đường lối Ðức Chúa rất
mực thẳng ngay.
Trên con đường này, người công
chính sẽ hiên ngang tiến bước,
còn kẻ gian ác sẽ phải té nhào.
Giô-en
Chương 01
Tựa Ðề
1 Lời Ðức Chúa ngỏ với ông Giô-en,
con ông Pơ-thu-ên.
I. Nạn Châu Chấu
1. Toàn Dân Sám Hối Và Cầu Nguyện
Than vãn vì đất nước hoang tàn
2 Hỡi các kỳ mục, hãy nghe những
điều này,
tất cả cư dân trong xứ, hãy lắng
nghe!
Ðã bao giờ xảy ra như thế trong
thời của các ngươi
hay trong thời tổ tiên các ngươi
chưa?
3 Hãy kể lại cho con cái các ngươi
những điều này,
rồi con cái các ngươi kể cho con
cái chúng,
con cái chúng kể cho thế hệ sau.
4 Thứ gì châu chấu bỏ lại thì hoàng
trùng ăn.
Thứ gì hoàng trùng bỏ lại thì cào
cào ăn.
Thứ gì cào cào bỏ lại thì sạt
sành ăn.
5 Hỡi những kẻ say sưa, hãy tỉnh
dậy và than khóc.
Hết mọi tay bợm rượu, rú lên đi
vì chẳng còn nước nho nữa:
nước nho kề miệng đã bị giựt mất
rồi!
6 Quả thật, một dân nước uy hùng
đông đảo
đã xông lên đánh phá đất của Ta.
Răng chúng là răng chúa sơn lâm,
nanh chúng là nanh sư tử cái.
7 Vườn nho của Ta, chúng biến nên
chốn hoang tàn,
cây vả của Ta, chúng làm thành
đống củi vụn.
Chúng tước sạch vỏ, hạ đổ thân
cây, bóc cành trắng hếu.
8 Rên siết đi nào, tựa trinh nữ mặc
áo vải thô
khóc thương chồng sắp cưới thuở
thanh xuân!
9 Nơi Nhà Ðức Chúa, lễ hiến dâng và
lễ tưới rượu
chẳng được cử hành nữa.
Hàng tư tế, bề tôi của Ðức Chúa,
đang u sầu như thể chịu tang.
10 Ðồng ruộng bị tàn phá,
đất đai cũng u sầu như thể chịu
tang,
vì lúa mì bị tàn phá,
rượu mới đã cạn khô, dầu tươi
chẳng còn nữa.
11 Hỡi nhà nông, hãy thẹn thùng xấu
hổ,
kẻ trồng nho, hãy rú lên nào,
tiếc cho lúa miến, lúa mạch,
vì đồng ruộng chẳng còn gì để gặt
hái.
12 Nho cằn cỗi, vả héo tàn, cả lựu,
cả chà là lẫn táo,
mọi cây cối ngoài đồng đã chết
khô.
Thế là đã cạn hết niềm vui của
con cái loài người.
Kêu gọi sám hối và cầu nguyện
13 Hỡi các tư tế, hãy mặc áo vải thô
mà than van kêu khóc!
Rú lên đi, hỡi những người phục
vụ bàn thờ!
Hãy đến, mặc áo vải thô mà thức
suốt đêm,
hỡi những người phục vụ Thiên
Chúa,
vì lễ hiến dâng và lễ tưới rượu
đã bị cấm cử hành nơi Nhà Thiên
Chúa.
14 Hãy ra lệnh giữ chay thánh, công
bố mở cuộc họp long trọng,
triệu tập các cụ già và toàn thể
cư dân trong xứ
tại Nhà Ðức Chúa, Thiên Chúa các
ngươi.
Hãy kêu lên Ðức Chúa.
15 Ôi, ngày đáng sợ thay! Ngày của
Ðức Chúa quả đã gần kề!
Ngày sẽ đến tựa cơn tàn phá do
lệnh Ðấng Toàn Năng.
16 Lương thực đã chẳng bị cất xa tầm
mắt chúng ta,
niềm vui mừng hoan lạc
đã chẳng bị cất khỏi nhà Thiên
Chúa rồi đó sao?
17 Hạt gieo vãi đã chết khô dưới
những tảng đất;
kho lẫm tan hoang, vựa lúa sụp
đổ, bởi lúa mì đã cạn.
18 Ðàn vật rên siết thảm thương, bò
bê tán loạn,
vì không còn cỏ ăn.
Cả đàn cừu cũng bị chung tai hoạ.
19 Lạy Ðức Chúa, con kêu lên Ngài,
vì lửa hồng đã thiêu hết bãi cỏ
trong hoang địa,
và ngọn lửa đã đốt sạch cây cối
ngoài đồng.
20 Ngay cả loài dã thú cũng khát
mong hướng về Ngài,
vì suối nước đã cạn khô
và lửa hồng đã thiêu hết bãi cỏ
trong hoang địa.
Chương 02
Báo động về Ngày của Ðức Chúa
1 Hãy rúc tù và tại Xi-on, hãy kêu
la trên núi thánh của Ta!
Run lên đi, mọi cư dân trong xứ,
vì Ngày của Ðức Chúa đến rồi,
Ngày ấy đã kề bên.
2 Ngày tối tăm u ám, Ngày mây mù
tối đen.
Một dân đông đúc và hùng mạnh
đang tràn ngập núi đồi như thể
ánh bình minh.
Một dân như vậy xưa nay chưa hề
có,
và muôn năm muôn đời cũng sẽ
chẳng bao giờ có nữa.
Nạn châu chấu hoành hành
3 Ði trước dân này là khối lửa
thiêu,
theo sau chúng là hoả hào bốc
cháy.
Trước khi dân ấy đến, xứ sở ví
tựa vườn Ê-đen;
sau khi dân ấy qua, chỉ còn bãi
sa mạc hoang tàn.
Chẳng có chi thoát khỏi sức phá
hoại của chúng.
4 Vẻ bề ngoài, chúng hệt như đàn
ngựa,
chạy xông tới như thể đoàn chiến
mã đang phi.
5 Chúng nhảy trên các ngọn núi đồi
rầm rập như tiếng chiến xa, ào ào
như ngọn lửa đốt rạ;
chúng như một đoàn dân hùng hậu
đang dàn hàng lâm chiến.
6 Trông thấy chúng, chư dân run
rẩy, mặt mày thất sắc.
7 Chúng chạy xông tới như một đoàn
dũng sĩ;
chúng leo tường như những chiến
binh.
Chúng tiến thẳng, ai nấy theo lối
mình,
không lấn đường người khác.
8 Chúng chẳng xô đẩy nhau,
nhưng tiến thẳng, ai theo đường
nấy.
Chúng lao qua làn tên mũi đạn,
không hề chùn bước.
9 Chúng đổ xô vào thành, chạy trên
tường luỹ;
chúng leo lên nhà, vào qua cửa
sổ, chẳng khác chi kẻ trộm.
Thị kiến về Ngày của Ðức Chúa
10 Trước mặt chúng, đất run rẩy,
trời chuyển rung.
Mặt trời mặt trăng tối sầm lại,
tinh tú không còn chiếu sáng nữa.
11 Tiếng Ðức Chúa đã vang lên trước
đạo binh của Người,
vì binh đội của Người rất đông đảo,
kẻ thi hành lời Người thật hùng
mạnh,
và Ngày của Ðức Chúa thật lớn lao
và rất đáng sợ!
Nào ai chịu nổi?
Kêu gọi sám hối
12 Ðây là sấm ngôn của Ðức Chúa:
"Nhưng ngay cả lúc này,
các ngươi hãy hết lòng trở về với
Ta,
hãy ăn chay, khóc lóc, và thống
thiết than van."
13 Ðừng xé áo, nhưng hãy xé lòng.
Hãy trở về cùng ÐỨC CHÚA là Thiên
Chúa của anh em,
bởi vì Người từ bi và nhân hậu,
chậm giận và giàu tình thương,
Người hối tiếc vì đã giáng hoạ.
14 Biết đâu Người chẳng nghĩ lại và
hối tiếc
mà để lại phúc lành, hầu anh em
có lễ phẩm và lễ tưới rượu
dâng lên Ðức Chúa là Thiên Chúa
của anh em.
15 Hãy rúc tù và tại Xi-on, ra lệnh
giữ chay thánh,
công bố mở cuộc họp long trọng;
16 hãy tụ tập chúng dân, mời dự đại
hội thánh,
triệu tập các cụ già, tụ họp đám
thiếu nhi
cũng như trẻ thơ còn đang bú.
Tân lang hãy ra khỏi loan phòng,
tân nương hãy rời bỏ phòng khuê!
17 Giữa tiền đình và tế đàn,
các tư tế phụng sự Ðức Chúa hãy
than khóc và nói rằng:
"Lạy Ðức Chúa, xin dủ lòng
thương xót dân Ngài!
Xin đừng để gia nghiệp của Ngài
phải nhục nhã
và nên trò cười cho dân ngoại!
Chẳng lẽ các dân lại được cớ mà
nói:
Thiên Chúa của chúng ở đâu rồi?
"
2. Ðức Chúa Trả Lời
18 Ðức Chúa đã nồng nhiệt yêu thương
đất của Người,
đã tỏ lòng khoan dung đối với dân
Người.
Tai ương chấm dứt và dân được
giải thoát
19 Ðức Chúa đã trả lời cho dân,
Người phán:
"Này đây Ta gửi đến các
ngươi
lúa mì, rượu mới và dầu tươi,
để các ngươi được no nê thoả
thích.
Ta sẽ không còn để các ngươi
phải nhục nhã ê chề giữa các dân
ngoại.
20 Ðịch thù từ phương Bắc, Ta sẽ đẩy
chúng xa các ngươi,
đuổi chúng vào miền đất khô cằn
hoang vắng:
tiền quân chúng sẽ bị xô xuống
Biển Ðông,
còn hậu quân thì sa vào Biển Tây.
Mùi hôi thối xông lên, mùi tanh
hôi nồng nặc."
(Quả thật, chúng đã từng làm mưa
làm gió).
Thị kiến về thời phồn vinh
21 Hỡi đất đai, đừng sợ, hãy hoan hỷ
vui mừng,
vì Ðức Chúa đã làm những việc lớn
lao.
22 Hỡi thú vật ngoài đồng, chớ sợ,
vì đồng cỏ trong hoang địa lại
xanh tươi,
cây cối đơm hoa kết trái, cây vả,
cây nho cho quả dồi dào.
23 Hỡi con cái Xi-on, hãy vui mừng
hoan hỷ
vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh
em,
chính Người đã ban cho anh em mưa
đầu mùa
bởi vì Người thành tín.
Người cũng cho mưa rào đổ xuống
trên anh em,
mưa đầu mùa và mưa cuối mùa như
thuở trước.
24 Lúa mì đầy ắp sân, rượu mới, dầu
tươi tràn bể chứa.
25 "Ta sẽ bù lại cho các ngươi
những năm mất mùa vì sạt sành và
hoàng trùng,
cào cào và châu chấu: đó là đạo
binh lớn
chính Ta sai đến đánh phạt các
ngươi.
26 Các ngươi sẽ được ăn no nê thoả
thích,
và sẽ ca tụng danh Ðức Chúa là
Thiên Chúa các ngươi,
Ðấng đã làm cho các ngươi bao
việc lạ lùng,
và dân Ta sẽ chẳng bao giờ xấu hổ
nữa.
27 Các ngươi sẽ biết rằng giữa
Ít-ra-en, có Ta hiện diện,
Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa các
ngươi,
không có chúa nào khác.
Và dân Ta sẽ chẳng bao giờ xấu hổ
nữa."
Chương 03
II. Thời Mới Và Ngày Của Ðức Chúa
1. Ban Thần Khí
1 "Sau đó, Ta sẽ đổ thần khí
Ta trên hết thảy người phàm.
Con trai con gái các ngươi sẽ trở
thành ngôn sứ,
người già được báo mộng, thanh
niên thấy thị kiến.
2 Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ
đổ thần khí Ta
trên tôi nam tớ nữ.
3 Ở dưới đất cũng như trên trời,
Ta sẽ cho xuất hiện nhiều điềm lạ
là máu, lửa và cột khói.
4 Mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt
trăng hoá thành máu,
trước khi Ngày của Ðức Chúa xuất
hiện,
Ngày vĩ đại, kinh hoàng.
5 Bấy giờ, hết những ai kêu cầu
danh Ðức Chúa sẽ được ơn cứu độ,
vì trên núi Xi-on và tại
Giê-ru-sa-lem
sẽ có những người được thoát nạn
như lời Ðức Chúa đã phán.
Và sẽ có những người được Ðức
Chúa kêu gọi
trong số những kẻ còn sống
sót."
Chương 04
2. Các Dân Tộc Bị Xét Xử
Những chủ đề chung
1 "Này đây, trong những ngày
ấy, cũng vào thời ấy,
khi Ta phục hồi Giu-đa và
Giê-ru-sa-lem,
2 Ta sẽ tập hợp mọi nước mọi dân,
đưa xuống cánh đồng Giô-sa-phát.
Ở đó, Ta sẽ tranh tụng với chúng
về vấn đề Ít-ra-en là dân Ta và
sản nghiệp của Ta:
chúng đã phân tán dân Ta giữa các
dân các nước,
đã chia cắt đất đai của Ta.
3 Chúng đã đem dân Ta ra bắt thăm,
đổi bé trai lấy kỹ nữ, bán bé gái
mua rượu mà uống."
Buộc tội người Phê-ni-xi và người
Phi-li-tinh
4 "Ngay cả các ngươi nữa, hỡi
dân Tia và Xi-đôn
cũng như dân mọi vùng xứ
Phi-li-tinh,
các ngươi muốn làm gì Ta? Muốn
trả thù Ta sao?
Mà nếu các ngươi trả thù Ta,
lập tức Ta sẽ lấy hành động trả
thù của các ngươi
mà quật lại các ngươi.
5 Các ngươi là những kẻ đã lấy bạc
lấy vàng,
lấy những vật quý giá của Ta mà
đem vào đền thờ của các ngươi,
6 đã bán con cái Giu-đa và con cái
Giê-ru-sa-lem
cho con cái Gia-van,
khiến chúng phải xa rời phần lãnh
thổ của chúng.
7 Từ nơi các ngươi đã bán chúng, Ta
sẽ khiến chúng vùng dậy.
Ta sẽ lấy hành động trả thù của
các ngươi mà quật lại các ngươi.
8 Con trai con gái của các ngươi,
Ta sẽ bán cho con cái Giu-đa.
Con cái Giu-đa sẽ bán lại cho
người Sơ-va, cho một nước ở xa.
Ðức Chúa đã phán như vậy."
Triệu tập các dân tộc
9 Giữa các dân các nước, hãy cao
giọng loan báo điều sau đây:
Hãy thánh hoá mình để sẵn sàng
ứng chiến,
hãy động viên tinh thần các dũng
sĩ.
Hết mọi người lính chiến, cứ tiến
tới, cứ xông lên!
10 Hãy lấy cuốc lấy cày đúc thành
gươm đao,
lấy hái lấy liềm rèn nên giáo
mác.
Kẻ yếu nhược cũng nói: "Ta
đây trang dũng sĩ!"
11 Mọi dân nước chung quanh,
hãy mau mau chạy lại, đến tập hợp
ở đó.
Lạy Ðức Chúa, xin Ngài gửi xuống
các dũng sĩ của Ngài.
12 "Các dân nước hãy bắt đầu di
chuyển,
tiến lên cánh đồng Giô-sa-phát,
vì tại đó Ta sẽ ngự toà xét xử
mọi dân nước chung quanh.
13 Các ngươi hãy tra liềm vào, vì đã
tới mùa lúa chín.
Hãy đến mà đạp nho vì bồn ép đã
đầy, bồn chứa đã trào ra,
vì sự gian ác của chúng quá
nhiều."
14 Ðoàn này nối tiếp đoàn kia trong
cánh đồng Chung Thẩm,
vì Ngày của Ðức Chúa đã gần kề,
trong cánh đồng Chung Thẩm.
Ngày của Ðức Chúa
15 Mặt trời mặt trăng mờ tối đi, các
vì sao chẳng còn chiếu sáng.
16 Từ Xi-on Ðức Chúa gầm lên,
từ Giê-ru-sa-lem tiếng Người vang
dội,
trời và đất chuyển rung.
Nhưng Ðức Chúa là nơi cho dân
Người nương náu,
là nơi trú ẩn cho con cái
Ít-ra-en.
17 "Bấy giờ các ngươi sẽ biết
rằng
Ta là Ðức Chúa, Thiên Chúa các
ngươi,
Ðấng ngự tại Xi-on, núi thánh của
Ta.
Giê-ru-sa-lem sẽ là nơi thánh,
người ngoại quốc sẽ chẳng còn qua
đó nữa."
3. Thời Kỳ Cực Thịnh Của Ít-Ra-En
Phục Hưng
18 Ngày ấy, núi non sẽ tiết ra nước
nho,
đồi nương sẽ chảy sữa tràn trề,
từ mọi khe suối Giu-đa, nước sẽ
tuôn trào cuồn cuộn.
Một mạch nước từ Nhà Ðức Chúa sẽ
vọt ra
tưới thung lũng Sít-tim.
19 Ai-cập sẽ nên chốn hoang tàn,
Ê-đôm sẽ trở thành sa mạc hoang
vu,
vì chúng đã dùng bạo lực sát hại
con cái Giu-đa:
chúng đã đổ máu người vô tội trên
đất của họ.
20 Nhưng Giu-đa sẽ có người ở mãi
mãi,
Giê-ru-sa-lem sẽ có người ở đến
muôn đời.
21 Ta sẽ trả thù cho máu của họ,
Ta sẽ không bỏ qua mà không trừng
phạt chúng."
Ðức Chúa ngự tại Xi-on.
A-mốt
Chương 01
Tựa Ðề
1 Lời của A-mốt. Ông là một trong
những người chăn cừu tại Tơ-cô-a, ông đã thấy thị kiến liên quan đến Ít-ra-en,
dưới thời Út-di-gia làm vua nước Giu-đa, và Gia-róp-am - con vua Giô-át - làm
vua nước Ít-ra-en, hai năm trước trận động đất.
Khai Ðề
2 Ông nói: Từ Xi-on, Ðức Chúa gầm
lên,
và từ Giê-ru-sa-lem, Người lên
tiếng;
đồng cỏ của mục tử nhuốm màu tang
tóc,
đỉnh núi Các-men nay đã héo tàn.
I. Án Phạt Các Nước Láng Giềng
Và Án Phát Chính Ít-Ra-En
Ða-mát
3 Ðức Chúa phán thế này: Vì tội của
Ða-mát đã lên tới cực độ,
Ta sẽ không rút lại bản án.
Vì chúng đã dùng bừa sắt cày nát
Ga-la-át,
4 Ta sẽ phóng hoả vào nhà Kha-da-ên
và lửa sẽ thiêu rụi đền đài của
Ben Ha-đát.
5 Ta sẽ bẻ gãy then cửa thành
Ða-mát,
Ta sẽ bứng nhà lãnh đạo khỏi
Bích-át A-ven
và người cầm phủ việt khỏi Bết
E-đen.
Dân A-ram sẽ bị đày đến xứ Kia -
Ðức Chúa phán như vậy.
Ga-da và Phi-li-tinh
6 Ðức Chúa phán thế này: Vì tội của
Ga-da đã lên tới cực độ,
Ta sẽ không rút lại bản án.
Vì chúng đã đưa cả đoàn người đi
đày để nộp vào tay Ê-đôm,
7 Ta sẽ phóng hoả lên tường thành
Ga-da,
và lửa sẽ thiêu rụi đền đài ở đó.
8 Ta sẽ bứng nhà lãnh đạo khỏi
Át-đốt,
và người cầm phủ việt khỏi
Át-cơ-lôn;
Ta sẽ trở tay đánh Éc-rôn,
và tàn quân Phi-li-tinh sẽ bị tiêu
diệt
- Ðức Chúa là Chúa Thượng phán
như vậy.
Tia và Phê-ni-xi
9 Ðức Chúa phán thế này: Vì tội của
Tia đã lên tới cực độ,
Ta sẽ không rút lại bản án.
Vì chúng đã nộp cho Ê-đôm cả đoàn
người đi đày,
và không nhớ đến lời giao kết với
các nước anh em,
10 nên Ta sẽ phóng hoả lên tường
thành Tia,
và lửa sẽ thiêu rụi đền đài ở đó.
Ê-đôm
11 Ðức Chúa phán thế này: Vì tội của
Ê-đôm đã lên tới cực độ,
Ta sẽ không rút lại bản án.
Vì nó đã cầm gươm truy kích anh
em,
bóp nghẹt lòng thương xót;
vì nó còn nuôi hoài cơn giận, và
giữ mãi mối hận thù,
12 nên Ta sẽ phóng hoả vào Tê-man,
và lửa sẽ thiêu rụi đền đài
Bót-ra.
Am-mon
13 Ðức Chúa phán thế này: Vì tội của
Am-mon đã lên tới cực độ,
Ta sẽ không rút lại bản án.
Vì chúng đã mổ bụng đàn bà có
thai ở Ga-la-át để mở rộng bờ cõi,
14 Ta sẽ phun lửa lên tường thành
Ráp-ba,
và lửa sẽ thiêu rụi các đền đài ở
đó,
giữa tiếng thét gào của một ngày
xung trận,
giữa cơn cuồng phong của một ngày
dông tố.
15 Vua của chúng sẽ phải đi đày,
cả vua lẫn quan cùng một lúc -
Ðức Chúa phán như vậy.
Chương 02
Mô-áp
1 Ðức Chúa phán thế này: Vì tội của
Mô-áp đã lên tới cực độ,
Ta sẽ không rút lại bản án.
Vì nó đã đốt hài cốt vua Ê-đôm
thành than,
2 nên Ta sẽ phóng hoả vào Mô-áp,
và lửa sẽ thiêu rụi đền đài
Cơ-ri-giốt;
Mô-áp sẽ tiêu vong trong cảnh hỗn
loạn,
giữa tiếng gào thét, giữa tiếng
tù và.
3 Ta sẽ bứng vị thẩm phán đi khỏi
nó
và Ta sẽ giết sạch các quan cùng
với vị này
- Ðức Chúa phán như vậy.
Giu-đa
4 Ðức Chúa phán thế này: Vì tội của
Giu-đa đã lên tới cực độ,
Ta sẽ không rút lại bản án.
Vì chúng đã khinh thường luật
pháp của Ðức Chúa
và không tuân giữ các thánh chỉ
của Người.
Vì những thần dối trá xưa cha ông
chúng chạy theo
đã làm cho chúng ra lầm lạc,
5 nên Ta sẽ phóng hoả vào Giu-đa
và lửa sẽ thiêu rụi đền đài
Giê-ru-sa-lem.
Ít-ra-en
6 Ðức Chúa phán thế này: Vì tội của
Ít-ra-en đã lên tới cực độ,
Ta sẽ không rút lại bản án.
Vì chúng bán người công chính để
lấy tiền,
bán kẻ nghèo khổ với giá một đôi
giày.
7 Vì chúng đạp đầu kẻ yếu thế xuống
bùn đen
và xô người khiêm hạ ra khỏi
đường lộ.
Vì cả con lẫn cha đi lại với cùng
một ả,
mà làm ô nhục danh thánh của Ta.
8 Vì y phục người ta cầm cố,
chúng nằm lên trên, ngay bên mọi
bàn thờ,
và rượu của người bị nộp phạt,
chúng đem uống tại đền thờ Thiên
Chúa của chúng.
9 Còn Ta, trước kia
Ta đã từng diệt trừ người E-mô-ri
khỏi mắt họ.
Bọn người này cao lớn như cây
hương nam
và hùng mạnh như cây sồi.
Ta đã diệt hoa trái bên trên
và gốc rễ bên dưới của bọn chúng.
10 Chính Ta đã đem các ngươi lên
khỏi đất Ai-cập,
dẫn các ngươi đi trong sa mạc bốn
mươi năm trường
để các ngươi chiếm hữu đất của
người E-mô-ri.
11 Xưa Ta đã từng cho xuất hiện
những ngôn sứ từ hàng con cái các
ngươi,
những na-dia từ lớp người trai
tráng.
Chẳng phải như vậy sao, hỡi con
cái Ít-ra-en?
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
12 Thế mà các ngươi đã bắt các
na-dia uống rượu
và ra lệnh cho các ngôn sứ:
"Các ông không được nói tiên
tri!"
13 Vậy này đây, ta sắp cán lên các
ngươi
như chiếc xe chất đầy lúa cán lên
mặt đất.
14 Trong ngày ấy, kẻ lanh lẹ hết
đường trốn chạy,
người mạnh mẽ vô phương thi thố sức
lực mình,
trang dũng sĩ cũng không thoát
chết,
15 người cầm cung nào đứng vững nổi,
kẻ nhanh chân chẳng thoát được
đâu,
người cỡi ngựa cũng không thoát
chết,
16 người can đảm nhất trong đám dũng
sĩ
sẽ phải mình trần mà chạy trốn,
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
Chương 03
II. Cảnh Cáo Và Ðe Dọa Ít-Ra-En
Tuyển chọn và trừng phạt
1 Hỡi con cái Ít-ra-en, hãy nghe
lời này,
lời Ðức Chúa phán để tố cáo các
ngươi,
tố cáo toàn thể thị tộc đã được
Ta đưa lên khỏi đất Ai-cập.
Lời ấy nói rằng:
2 Giữa mọi thị tộc trên mặt đất, Ta
đã chỉ biết các ngươi thôi.
Vì thế, Ta sẽ hạch hỏi các ngươi
về mọi tội các ngươi đã phạm.
Không cưỡng lại được ơn gọi ngôn
sứ
3 Hai người có đồng hành được
chăng,
nếu đã không hẹn với nhau từ
trước?
4 Trong rừng, sư tử có gầm lên
chăng, nếu nó không có mồi?
Từ trong hang, sư tử tơ có rống
lên không,
nếu nó không vồ được mồi?
5 Dưới đất, chim sẻ có sa vào bẫy
chăng, nếu không có mồi nhử?
Bẫy có bật lên khỏi mặt đất
chăng, nếu nó không bắt được gì?
6 Giả như tù và rúc lên trong
thành, lẽ nào dân lại không sợ hãi?
Giả như tai hoạ xảy ra trong
thành,
lẽ nào lại không do Ðức Chúa?
7 Vì Ðức Chúa là Chúa Thượng không
làm điều gì
mà không bày tỏ kế hoạch của
Người
cho các ngôn sứ, tôi tớ của Người
được biết.
8 Sư tử đã gầm lên: ai mà không sợ
hãi?
Ðức Chúa là Chúa Thượng đã phán,
ai chẳng nói tiên tri?
Sa-ma-ri đồi truỵ sẽ bị diệt vong
9 Trên các lâu đài tại Át-đốt, hãy
lên tiếng,
và trên các lâu đài tại đất
Ai-cập, hãy nói rằng:
Các ngươi hãy tụ tập trên đồi núi
xứ Sa-ma-ri
và nhìn xem bao cảnh hỗn loạn,
cùng những cảnh bạo tàn ở đó.
10 Những kẻ chất đống trong lâu đài
của mình
của cải do áp bức và cưỡng đoạt,
chúng nào biết sống ngay thẳng là
gì - sấm ngôn của Ðức Chúa.
11 Vì thế, Ðức Chúa là Chúa Thượng
phán thế này:
Quân thù sẽ bao vây lãnh thổ,
sẽ triệt hạ sức mạnh của ngươi,
và đền đài của ngươi sẽ bị cướp
phá.
12 Ðức Chúa phán thế này:
Như người chăn chiên giựt ra khỏi
miệng sư tử
hai cái cẳng hay một mảnh tai của
con chiên,
con cái Ít-ra-en sống tại
Sa-ma-ri,
ở đầu giường hay trên trường kỷ
lộng lẫy,
cũng sẽ được giựt ra như vậy.
Chống Bết Ên và những toà nhà
sang trọng
13 Hãy nghe đây và đứng ra tố cáo
nhà Gia-cóp
- sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa
Thượng,
Thiên Chúa các đạo binh.
14 Vào ngày Ta trị tội Ít-ra-en
Ta sẽ triệt hạ các bàn thờ của
Bết Ên:
các sừng của bàn thờ sẽ bị bẻ gãy
và quăng xuống đất.
15 Biệt thự mùa đông, biệt thự mùa
hè, Ta sẽ triệt phá;
điện ngọc đền ngà sẽ sụp đổ,
lâu đài dinh thự cũng tan hoang -
sấm ngôn của Ðức Chúa.
Chương 04
Tố cáo các mệnh phụ vùng Sa-ma-ri
1 Hãy nghe lời này,
hỡi các mụ bò cái xứ Ba-san trên
vùng núi Sa-ma-ri!
Các ngươi ngược đãi kẻ yếu hèn,
chà đạp người nghèo đói,
và bảo các ông chồng của mình:
"Ðem rượu lại đây cho ta uống! "
2 Với danh nghĩa là Ðấng Thánh,
Ðức Chúa là Chúa Thượng đã thề
rằng:
Ðây sắp đến những ngày người ta
kéo các ngươi đi bằng lao móc
và lấy lưỡi câu lôi những kẻ theo
sau các ngươi.
3 Qua những lỗ hổng của tường thành
bị phá,
các ngươi sẽ phải chui ra, mạnh
ai nấy chạy,
và sẽ bị dồn về phía Hác-môn -
sấm ngôn của Ðức Chúa.
Ít-ra-en vẫn ảo tưởng, không chịu
sám hối nên bị trừng phạt
4 Hỡi con cái Ít-ra-en,
cứ đến Bết Ên mà phản bội,
đến Ghin-gan mà phản bội nữa đi!
Sáng sáng hãy tiến dâng hy lễ
và cứ ba ngày lại dâng cúng lễ
thập phân.
5 Cứ đốt bánh không men làm lễ tạ
ơn,
và những lễ phẩm tự nguyện các
ngươi dâng,
hãy rêu rao cho người ta biết,
bởi các ngươi thích làm như vậy
- sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa
Thượng.
6 Phần Ta, Ta đã làm cho các ngươi
phải đói nhăn răng ở hết mọi
thành phố,
thiếu bánh ăn ở mọi nơi các ngươi
cư ngụ;
thế mà các ngươi vẫn không chịu
trở về với Ta
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
7 Ba tháng trước mùa gặt, chính Ta
đã ngăn mưa lại
không cho đổ xuống trên các
ngươi;
Ta cho mưa xuống trên thành này,
nhưng không cho mưa xuống trên
thành khác;
cánh đồng này được mưa tưới đượm,
còn cánh đồng kia phải khô cháy
vì thiếu mưa;
8 dân hai ba thành lảo đảo đến một
thành
tìm nước uống mà không đã khát;
thế mà các ngươi vẫn không chịu
trở về với Ta
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
9 Ta đã đánh phạt các ngươi
khiến đồng lúa các ngươi bị úa
vàng và sâu đục;
bao vườn cây, vườn nho của các
ngươi,
những cây ô-liu và cây vả, đều bị
châu chấu cào cào ăn sạch;
thế mà các ngươi vẫn không chịu
trở về với Ta
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
10 Ta đã giáng xuống trên các ngươi
một tai ương
cùng loại với tai ương bên Ai-cập;
Ta dùng gươm giết chết trai tráng
của các ngươi
và cướp lấy chiến mã;
Ta cho mùi hôi thối bốc lên mũi
các ngươi
từ doanh trại các ngươi đang ở;
thế mà các ngươi vẫn không chịu
trở về với Ta
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
11 Ta đã làm cho các ngươi phải sụp
đổ
như chính Thiên Chúa đã làm sụp
đổ
thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra;
các ngươi khác nào thanh củi
được rút khỏi đống lửa cháy;
thế mà các ngươi vẫn không chịu
trở về với Ta
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
12 Vậy, hỡi Ít-ra-en, Ta sẽ xử với
ngươi như thế này,
và bởi vì Ta sẽ xử với ngươi như
vậy nên, hỡi Ít-ra-en,
ngươi hãy chuẩn bị đi gặp Thiên
Chúa của ngươi.
Vinh tụng ca
13 Này đây, Ðấng tạo ra núi non,
dựng nên gió bão,
Ðấng tỏ cho con người biết ý định
của mình,
Ðấng làm ra bình minh và bóng
tối,
Ðấng ngự giá trên những đỉnh cao
của địa cầu,
danh hiệu của Người là Ðức Chúa,
Thiên Chúa các đạo binh.
Chương 05
Than khóc Ít-ra-en
1 Hỡi nhà Ít-ra-en, hãy nghe lời
này,
lời ta than vãn khóc thương
ngươi:
2 Trinh nữ Ít-ra-en gục ngã rồi,
không sao trỗi dậy nổi.
Nàng nằm xoài dưới đất, chẳng
được ai nâng lên!
3 Quả thế, về số phận nhà Ít-ra-en,
Ðức Chúa là Chúa Thượng phán thế
này:
Thành nào đem một ngàn quân xuất
trận,
sẽ chỉ còn lại một trăm;
thành nào đem một trăm quân xuất
trận, sẽ chỉ còn lại mười.
Không hoán cải thì không thể được
cứu độ
4 Quả thế, Ðức Chúa phán thế này
với nhà Ít-ra-en:
Hãy tìm Ta thì các ngươi sẽ được
sống!
5 Nhưng đừng tìm đến Bết Ên,
đừng đi vào Ghin-gan, chớ qua
Bơ-e Se-va!
Vì Ghin-gan sẽ bị đày biệt xứ,
và Bết Ên sẽ thành chốn không
người.
6 Hãy tìm Ðức Chúa thì các ngươi sẽ
được sống!
Nếu không, Người sẽ như lửa ập
xuống và thiêu rụi nhà Giu-se,
mà không một ai ở Bết Ên dập tắt
nổi.
7 Khốn cho những ai biến lẽ phải
thành ngải đắng
và vứt bỏ công lý xuống đất đen.
Vinh tụng ca
8 Ðấng dựng nên Nam Tào Bắc Ðẩu,
Ðấng đổi tối ra sáng, biến ngày
thành đêm,
Ðấng gọi nước biển lên rồi tưới
xuống mặt đất,
danh Người là Ðức Chúa.
9 Người làm cho kẻ mạnh thế phải
tiêu vong
và khiến thành trì bị tiêu diệt.
Ðe doạ
10 Chúng ghét người sửa trị nơi cửa
công
và thù oán kẻ ăn ngay nói thật.
11 Vậy, bởi các ngươi chà đạp kẻ yếu
hèn
và đánh thuế lúa mì của họ,
nên những ngôi nhà bằng đá đẽo
các ngươi đã xây,
các ngươi sẽ không được ở;
những gốc nho ngon ngọt các ngươi
đã trồng,
các ngươi sẽ không được uống rượu
của chúng.
12 Bởi Ta biết: tội ác các ngươi
nhiều vô kể,
tội lỗi các ngươi nặng tầy trời:
nào áp bức người công chính, lại
đòi quà hối lộ,
nào ức hiếp kẻ nghèo hèn tại cửa
công.
13 Bởi thế, thời buổi này, ai cẩn
trọng thì làm thinh,
vì đây là một thời khốn quẫn.
Khuyến cáo
14 Hãy tìm điều lành chứ đừng tìm
điều dữ,
rồi các ngươi sẽ được sống,
và như vậy Ðức Chúa, Thiên Chúa
các đạo binh
sẽ ở cùng các ngươi, như lời các
ngươi nói.
15 Hãy ghét điều dữ và chuộng điều
lành,
nơi cửa công, hãy thiết lập công
lý;
biết đâu, Ðức Chúa, Thiên Chúa
các đạo binh,
sẽ dủ lòng thương số còn sót của
Giu-se.
Hình phạt gần kề
16 Vì thế, Ðức Chúa là Thiên Chúa
các đạo binh
và là Chúa Thượng, phán thế này:
Từ mọi quảng trường, sẽ vẳng lên
những tiếng khóc than,
trên mọi phố phường, người ta kêu
trời kêu đất;
người ta mời nông dân đến bày tỏ
lòng thương tiếc,
mời người khóc mướn đến khóc
than;
17 từ mọi vườn nho, sẽ vẳng lên
tiếng than khóc
khi Ta đi qua giữa ngươi, Ðức
Chúa phán như vậy.
Ngày của Ðức Chúa
18 Khốn cho những kẻ khát mong ngày
của Ðức Chúa.
Ngày của Ðức Chúa sẽ là gì cho
các ngươi?
Ngày đó sẽ là tối tăm, chứ không
phải ánh sáng.
19 Cũng giống như người chạy trốn sư
tử lại gặp phải gấu;
người ấy về đến nhà, chống tay
lên tường lại bị rắn cắn!
20 Ngày của Ðức Chúa
chẳng phải là tối tăm thay vì ánh
sáng đó sao?
Ngày âm u, không một tia sáng
nào!
Chống lại kiểu phụng tự hình thức
21 Lễ lạt của các ngươi, Ta chán
ghét khinh thường;
hội hè của các ngươi, Ta chẳng hề
thích thú.
22 Các ngươi có dâng lên Ta của lễ
toàn thiêu. ..
những lễ vật của các ngươi, Ta
không vui nhận,
chiên bò béo tốt các ngươi đem
hiến tế, Ta chẳng đoái hoài.
23 Hãy dẹp bỏ tiếng hát om sòm của
ngươi
Ta không muốn nghe tiếng đàn của
ngươi nữa.
24 Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước
tuôn trào,
cho công lý như dòng suối không
bao giờ cạn.
25 Hỡi nhà Ít-ra-en, bốn mươi năm
trường trong sa mạc,
các ngươi có dâng lên Ta hy lễ
hay lễ phẩm nào không?
26 Các ngươi sẽ kiệu Xích-cút, vua
của các ngươi,
và Ki-giun, ngôi sao của thần
minh các ngươi,
là những ngẫu tượng các ngươi đã
làm ra để thờ.
27 Còn Ta, Ta sẽ đày các ngươi đi xa
hơn Ða-mát
- Ðức Chúa phán như vậy,
danh Người là Thiên Chúa các đạo
binh.
Chương 06
Cuộc sống an toàn giả tạo của
những người cầm quyền
1 Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại
Xi-on,
và sống an nhiên tự tại trên núi
Sa-ma-ri,
họ là những nhà lãnh đạo của dân
đứng đầu các dân
khiến nhà Ít-ra-en phải đến cầu
cạnh.
2 "Anh em hãy qua Can-nê mà
xem,
rồi từ đó đi đến thành phố
Kha-mát vĩ đại,
đoạn xuống Gát của người
Phi-li-tinh:
thử hỏi những nơi đó có phồn
thịnh
hơn các vương quốc này không?
Lãnh thổ chúng có rộng lớn hơn
lãnh thổ của anh em không?"
3 Các ngươi tưởng đẩy lui được ngày
khốn quẫn,
nhưng thật ra lại làm cho chế độ
bạo tàn đến sớm hơn!
4 Chúng nằm dài trên giường ngà,
ngả ngớn trên trường kỷ,
mà ăn những chiên non nhất bầy,
những bê béo nhất chuồng.
5 Chúng đàn hát nghêu ngao;
như Ða-vít, chúng dùng nhạc cụ mà
sáng tác.
6 Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu
thơm hảo hạng,
nhưng chẳng biết đau lòng trước
cảnh nhà Giu-se sụp đổ!
7 Vì thế, giờ đây chúng sẽ bị lưu
đày,
dẫn đầu những kẻ bị lưu đày.
Thế là tan tác bè lũ quân phè
phỡn!
Hình phạt kinh hồn
8 Ðức Chúa là Chúa Thượng
đã lấy mạng sống Người mà thề
rằng
- sấm ngôn của Ðức Chúa, Thiên
Chúa các đạo binh -:
Ta ghê tởm tính kiêu căng của
Gia-cóp,
Ta chán ghét các đền đài của nó,
vậy Ta sẽ đem nộp thành và mọi sự
trong thành.
9 Nếu trong một ngôi nhà, chỉ còn
lại mười người thôi,
họ sẽ đều chết cả.
10 Một người bà con khiêng thi thể
ra khỏi nhà mà hoả thiêu.
Người ấy nói với người ở tuốt
trong nhà:
"Còn ai ở đó với anh
không?"
Người kia trả lời: "Chẳng
còn ai cả."
Rồi người bà con lại nói:
"Im đi! Không được kêu tên
Ðức Chúa!"
11 Vì này đây Ðức Chúa ra lệnh
đánh cho nhà lớn tan hoang, cho
nhà nhỏ nứt rạn.
12 Ngựa có phi được trên đá lởm chởm
không?
Người ta đem trâu bò đi cày ngoài
biển sao?
Thế mà các ngươi đã biến lẽ phải
thành thuốc độc,
đổi công lý nên ngải đắng!
13 Các ngươi vui mừng vì chiếm được
Lô Ðơ-va,
Các ngươi nói: "Há chẳng
phải nhờ sức mạnh của mình
mà chúng ta đã lấy được
Các-na-gim đó sao? "
14 Nhưng này Ta đây, hỡi nhà
Ít-ra-en
- sấm ngôn của Ðức Chúa, Thiên
Chúa các đạo binh -,
Ta cho một dân nổi lên đánh các
ngươi.
Nó sẽ xâm lấn các ngươi
từ Cửa Ải Kha-mát cho đến suối
A-ra-va.
Chương 07
III. Các Thị Kiến
Thị kiến thứ nhất: châu chấu
1 Ðức Chúa là Chúa Thượng đã cho
tôi thấy như sau:
Này Người đang làm ra châu chấu
giữa lúc cỏ bắt đầu mọc lại, sau
mùa cắt cỏ nộp cho vua.
2 Khi châu chấu đã ăn sạch cây cỏ
ngoài đồng,
tôi thưa: "Lạy Ðức Chúa là
Chúa Thượng, xin thứ tha cho!
Gia-cóp làm sao đứng vững được?
Nó nhỏ bé quá!"
3 Ðức Chúa hối hận về việc này,
Người phán: "Sẽ không xảy ra
như vậy đâu."
Thị kiến thứ hai: hạn hán
4 Ðức Chúa là Chúa Thượng đã cho
tôi thấy như sau:
Này đây Ðức Chúa là Chúa Thượng
đang gọi lửa xuống để trừng phạt.
Lửa làm cạn khô vực thẳm mênh
mông và thiêu huỷ cả đất đai.
5 Tôi thưa: "Lạy Ðức Chúa là
Chúa Thượng, xin dừng tay cho!
Gia-cóp làm sao đứng vững được?
Nó nhỏ bé quá!"
6 Ðức Chúa hối hận về việc này,
Người phán: "Cũng sẽ không
xảy ra như vậy đâu."
Thị kiến thứ ba: dây dọi
7 Người đã cho tôi thấy như sau:
Này đây Chúa Thượng tôi
đang đứng trên một bức tường, tay
cầm một dây dọi.
8 Và Ðức Chúa hỏi tôi: "Ngươi
thấy gì, A-mốt?"
Tôi đáp: "Thưa, dây
dọi." Chúa Thượng tôi phán:
"Ðây Ta sẽ căng dây dọi ở
giữa Ít-ra-en dân Ta,
và Ta sẽ không còn tha thứ cho
chúng nữa.
9 Các nơi cao của I-xa-ác sẽ điêu
tàn,
các đền thờ của Ít-ra-en sẽ đổ
nát.
Còn Ta, Ta sẽ đứng dậy
dùng gươm mà chống lại nhà
Gia-róp-am."
Xung đột với A-mát-gia. Ông A-mốt
bị trục xuất khỏi Bết Ên.
10 Bấy giờ ông A-mát-gia, tư tế đền
thờ Bết Ên, sai người đến gặp Gia-róp-am, vua Ít-ra-en, và thưa: "A-mốt âm
mưu chống đức vua ngay trên lãnh thổ Ít-ra-en, và đất nước này không còn chịu
nổi bất cứ lời nào của ông ta nữa. 11 Vì A-mốt nói như thế này:
"Gia-róp-am sẽ chết vì gươm, và Ít-ra-en sẽ bị đày biệt xứ.” 12 Bấy
giờ A-mát-gia nói với ông A-mốt: "Này thầy chiêm ơi, mau chạy về đất
Giu-đa, về đó mà kiếm ăn, về đó mà tuyên sấm! 13 Nhưng ở Bết Ên này, đừng có
hòng nói tiên tri nữa, vì đây là thánh điện của quân vương, đây là đền thờ của
vương triều.” 14 Ông A-mốt trả lời ông A-mát-gia: "Tôi không
phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người
chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. 15 Chính Ðức Chúa đã bắt lấy
tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Ðức Chúa đã truyền cho tôi: "Hãy đi
tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta.” 16 Vậy giờ đây, hãy nghe lời Ðức
Chúa phán: Ngươi nói:
"Ông không được tuyên sấm
chống lại Ít-ra-en,
cũng không được phát ngôn chống
lại nhà I-xa-ác."
17 Vì vậy, Ðức Chúa phán thế này:
"Vợ ngươi sẽ đi làm điếm
trong thành phố,
con trai con gái ngươi sẽ ngã gục
dưới lưỡi gươm,
lãnh thổ ngươi sẽ bị phân chia
từng mảnh,
còn ngươi, ngươi sẽ chết trên một
miền đất ô uế,
và Ít-ra-en sẽ bị đày xa quê cha
đất tổ."
Chương 08
Thị kiến thứ tư: giỏ trái cây mùa
hạ
1 Ðức Chúa là Chúa Thượng đã cho
tôi thấy như sau:
Này đây một giỏ trái cây mùa hạ.
2 Người hỏi: "Ngươi thấy gì,
A-mốt?"
Tôi đáp: "Thưa, một giỏ trái
cây mùa hạ."
Ðức Chúa phán với tôi:
"Ít-ra-en dân Ta đã đến ngày cùng tận,
Ta sẽ không còn tha thứ cho chúng
nữa.
3 Trong ngày đó, - sấm ngôn của Ðức
Chúa là Chúa Thượng -,
trong thánh điện sẽ vang lên
những khúc ca ai oán,
xác chết nằm la liệt khắp nơi,
rồi bị quẳng đi trong thinh lặng."
Chống bọn người gian lận và đầu
cơ
4 Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp
người cùng khổ
và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong
xứ.
5 Các ngươi thầm nghĩ:
"Bao giờ ngày mồng một qua
đi, cho ta còn bán lúa;
bao giờ mới hết ngày sa-bát, để
ta bày thóc ra?
Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại,
cho quả cân nặng thêm;
Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh
lừa thiên hạ.
6 Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ
bần,
đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ;
cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem
ra bán."
7 Ðức Chúa đã lấy thánh danh
là niềm hãnh diện của Gia-cóp mà
thề:
Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành
vi nào của chúng.
8 Há chẳng phải vì vậy mà mặt đất
rung chuyển
và toàn thể dân cư lâm cảnh tang
tóc đó sao?
Cả mặt đất dâng lên như thể sông
Nin,
nó phình lên xẹp xuống tựa Con
Sông bên Ai-cập.
Báo trước hình phạt: tăm tối và
tang thương
9 Trong ngày ấy, - sấm ngôn của Ðức
Chúa là Chúa Thượng -,
Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn
giữa trưa,
và khiến cho mặt đất tối sầm giữa
lúc ngày đang sáng.
10 Ta sẽ biến lễ lạt của các ngươi
thành tang tóc,
mọi bài hát của các ngươi thành
những khúc ai ca;
Ta sẽ bắt mọi người phải quấn vải
thô
và mọi mái đầu đều phải cạo trọc.
Ta sẽ làm cho đất này chịu tang
như người ta chịu tang đứa con
một
và kết cục của nó như một ngày
cay đắng.
Ðói khát lời Chúa
11 Ðây sắp đến những ngày
- sấm ngôn của Ðức Chúa là Chúa
Thượng
Ta sẽ gieo nạn đói trên xứ này,
không phải đói bánh ăn, cũng
không phải khát nước uống,
mà là đói khát được nghe lời Ðức
Chúa.
12 Chúng sẽ thất thểu từ biển này
qua biển nọ,
từ phương bắc đến phương đông,
chúng sẽ lang thang để kiếm tìm
lời Ðức Chúa
mà không gặp được.
Lại báo trước hình phạt
13 Ngày ấy, nam thanh nữ tú sẽ vì
khát mà ngất xỉu.
14 Những ai lấy ngẫu thần của
Sa-ma-ri mà thề
và tung hô: "Hỡi Ðan, vạn
tuế thần của ngươi! ",
hoặc nói: "Vạn tuế đường về
Bơ-e Se-va!",
những kẻ đó sẽ té nhào, không
đứng dậy được nữa.
Chương 09
Thị kiến thứ năm: Ðền Thờ bị sụp
đổ
1 Tôi thấy Chúa Thượng đứng bên
cạnh bàn thờ.
Người phán: "Ðập vào đầu trụ
cho khung cửa lung lay!
Phá khung cửa cho vỡ tan trên đầu
cả bọn!
Những đứa còn sót lại, Ta sẽ giết
bằng gươm.
Trong bọn chúng, không một tên
trốn nổi,
trong bọn chúng, không một đứa
thoát thân.
2 Chúng có chui xuống tận âm ty,
tay Ta cũng kéo chúng lên khỏi
đó.
Chúng có bay lên đến tận trời,
từ đó, Ta cũng lôi chúng xuống.
3 Chúng có núp trên đỉnh Các-men,
tại đó, Ta cũng lùng bắt chúng
cho kỳ được;
chúng có xuống đáy biển hòng lẩn
tránh mắt Ta,
tại đó, Ta cũng truyền cho rắn
cắn chúng.
4 Chúng có bị thù địch giải đi đày
tận đâu,
tại đó, Ta cũng truyền cho gươm
đao giết chúng.
Ta sẽ đưa mắt nhìn chúng để giáng
hoạ
chứ không phải để ban phúc thi
ân.
Vinh tụng ca
5 Ðức Chúa các đạo binh là Chúa
Thượng,
Người chạm đến địa cầu là địa cầu
rung chuyển,
và toàn thể dân cư lâm cảnh tang
tóc;
cả mặt đất dâng lên như thể sông
Nin,
rồi xẹp xuống tựa Con Sông bên
Ai-cập.
6 Ðiện cao vời, Người dựng chốn
trời xanh,
vòm của nó, đặt vững vàng trên
mặt đất.
Người gọi nước biển lên, rồi đổ
trên mặt đất,
danh Người là Ðức Chúa.
Mọi người tội lỗi sẽ phải chết
7 Hỡi con cái Ít-ra-en, đối với Ta
- sấm ngôn của Ðức Chúa -,
chẳng phải các ngươi giống con cái
Cút sao?
Chẳng phải Ta đã đưa Ít-ra-en lên
khỏi đất Ai-cập,
cũng như đưa người Phi-li-tinh
khỏi Cáp-to
và người A-ram khỏi xứ Kia đó
sao?
8 Ðây, Ðức Chúa là Chúa Thượng
để mắt nhìn vương quốc tội lỗi
này:
Ta sẽ quét sạch nó khỏi mặt đất,
thế nhưng - sấm ngôn của Ðức Chúa
Ta sẽ không tiêu diệt nhà Gia-cóp
hoàn toàn.
9 Quả vậy, này đây Ta đã quyết:
giữa tất cả các dân ngoại,
Ta sẽ sàng sảy nhà Ít-ra-en như
người ta dùng nia mà sàng sảy,
và không hạt sạn nào rơi xuống
đất.
10 Mọi kẻ tội lỗi trong dân Ta, những
người cứ nói:
"Tai hoạ sẽ chẳng đến gần,
nó sẽ không ập xuống chúng ta đâu! ",
chúng sẽ chết vì gươm hết thảy.
IV. Viễn Tượng Phục Hưng
Và Phồn Thịnh Thời Thiên Sai
11 Trong ngày ấy, Ta sẽ dựng lại lều
xiêu vẹo của Ða-vít,
bít kín các lỗ hổng của tường
thành,
tái thiết những gì đã tan hoang,
xây dựng nó như những ngày xưa
cũ;
12 để chúng được chiếm hữu số sót
của Ê-đôm
và của tất cả các dân tộc đã được
mang danh Ta
- sấm ngôn của Ðức Chúa, Ðấng
thực hiện điều ấy.
13 Này đây sắp đến những ngày - sấm
ngôn của Ðức Chúa
thợ cày nối gót thợ gặt, kẻ đạp
nho tiếp bước người gieo giống;
núi đồi sẽ ứa ra nước cốt nho, và
mọi gò nổng sẽ tuôn chảy.
14 Ta sẽ đổi vận mạng của Ít-ra-en
dân Ta:
chúng sẽ tái thiết những thành
phố điêu tàn và định cư ở đó;
chúng sẽ uống rượu vườn nho mình
trồng,
ăn thổ sản vườn mình canh tác.
15 Ta sẽ trồng chúng lại trên đất
xưa chúng ở,
và chúng sẽ không còn bị bứng đi
khỏi thửa đất Ta đã ban cho chúng
- Ðức Chúa là Thiên Chúa của
ngươi phán như vậy.
Ô-va-đi-a
Chương 01
Tên sách
1 Thị kiến của ông Ô-va-đi-a.
Lời tựa
1c Chúng tôi đã nghe lời Ðức Chúa
truyền đạt.
Một sứ giả được sai đến giữa chư
dân:
"Ðứng lên, nào chúng ta xông
đánh Ê-đôm!"
Bản án cho Ê-đôm
1b Ðức Chúa là Chúa Thượng phán
về Ê-đôm như sau:
2 Này, Ta khiến ngươi ra nhược tiểu
giữa chư dân,
ngươi bị khinh dể quá đỗi.
3 Lòng kiêu ngạo của ngươi đã đánh
lừa ngươi;
ngươi ở trong khe đá, cư ngụ trên
chỗ cao.
Ngươi tự nhủ trong lòng:
"Nào ai đẩy được ta xuống đất?"
4 Nếu ngươi cất mình lên như chim
phượng
và làm tổ trên các vì sao,
Ta sẽ đẩy ngươi xuống khỏi đó, -
sấm ngôn của Ðức Chúa.
Tận diệt Ê-đôm
5 Nếu lũ trộm và bọn cướp đêm đến
nhà ngươi,
liệu ngươi có được yên ổn chăng?
Nào chúng lại chẳng tha hồ vơ
vét?
Nếu những kẻ hái nho đến nhà
ngươi,
chúng có chừa lại gì, ngoài phần
để cho mót không?
6 Ê-xau bị lục soát gắt gao biết
mấy!
Các kho tàng nó chôn giấu đều bị
khui ra.
7 Chúng xua đuổi ngươi ra biên
giới.
Mọi kẻ liên minh với ngươi đều
đánh lừa ngươi;
những kẻ thân tín với ngươi lấn
lướt ngươi;
những kẻ được ngươi cho ăn bánh
lại gài bẫy hại ngươi và nói:
"Nó đã quẫn trí rồi!"
8 Há chẳng phải trong ngày đó, -
sấm ngôn của Ðức Chúa
Ta sẽ tiêu diệt hạng khôn ngoan
khỏi Ê-đôm,
đuổi người tài trí ra khỏi núi
Ê-xau?
9 Hỡi Tê-man, các dũng sĩ của ngươi
sẽ hoảng sợ,
khiến mọi người bị diệt trừ khỏi
núi Ê-xau.
Tội lỗi của Ê-đôm
10 Vì ngươi đã tàn sát và áp bức anh
em ngươi là Gia-cóp,
nên ngươi sẽ phải ê chề nhục nhã
và bị tiêu diệt đến muôn đời.
11 Vào ngày ngươi án binh bất động,
vào ngày kẻ ngoại bang đem hết
của cải nó đi
và quân man di xâm nhập cổng
thành,
cùng bốc thăm chia phần
Giê-ru-sa-lem,
cả ngươi nữa, ngươi cũng vào hùa
với chúng.
12 Ðừng khoái chí nhìn ngày anh em
ngươi mắc hoạ.
Ðừng hoan hỷ trong ngày con cái
Giu-đa bị diệt trừ;
đừng to mồm vào ngày nó lâm cơn
khốn quẫn.
13 Ðừng xâm nhập cổng thành của dân
Ta vào ngày nó lâm nạn;
ngươi cũng đừng khoái chí nhìn
tai hoạ của nó
vào ngày nó lâm nguy;
đừng vơ vét tài sản của nó vào
ngày nó lâm nạn.
14 Ðừng đứng ở ngã tư đường mà tiêu
diệt những người trốn chạy;
đừng trao nộp những kẻ sống sót
vào ngày chúng gặp cơn khốn quẫn.
15 Quả thật, ngày của Ðức Chúa đã
gần kề,
ngày Người đánh phạt mọi dân tộc.
Ngươi đã làm thế nào,
thì người ta cũng sẽ làm cho
ngươi như vậy:
nợ ân oán sẽ đổ xuống đầu ngươi.
Vào ngày của Ðức Chúa, Ít-ra-en
báo thù Ê-đôm
16 Quả thật, cũng như các ngươi đã
uống trên núi thánh của Ta,
thì mọi dân tộc cũng sẽ không
ngừng uống như vậy.
Chúng sẽ uống, sẽ nốc vào, rồi
hoá ra như chưa bao giờ hiện hữu.
17 Nhưng trên núi Xi-on sẽ có những
kẻ chạy thoát được,
- đó sẽ là một nơi thánh - và nhà
Gia-cóp sẽ tước đoạt
những kẻ đã tước đoạt nó.
18 Nhà Gia-cóp sẽ là lửa, nhà Giu-se
sẽ là ngọn lửa;
còn nhà Ê-xau sẽ là rơm. Chúng sẽ
bén vào và thiêu rụi nó.
Nhà Ê-xau sẽ không còn kẻ sống
sót nào.
Quả thế, Ðức Chúa đã phán như
vậy.
Ít-ra-en mới
19 Chúng sẽ chiếm Ne-ghép là núi của
Ê-xau,
sẽ chiếm miền Sơ-phê-la là đất
của Phi-li-tinh;
chúng sẽ chiếm cánh đồng Ép-ra-im
và cánh đồng Sa-ma-ri;
và Ben-gia-min sẽ chiếm Ga-la-át.
20 Những kẻ bị lưu đày trong đoàn lũ
con cái Ít-ra-en
sẽ chiếm đất Ca-na-an cho đến
Xa-rép-ta.
Dân Giê-ru-sa-lem đang bị lưu đày
ở Xơ-pha-rát
sẽ chiếm hữu các thành của
Ne-ghép.
21 Những người đến cứu thoát sẽ lên
núi Xi-on để xét xử núi Ê-xau.
Và Ðức Chúa sẽ nắm trọn vương
quyền.
Giô-na
Chương 01
Ông Giô-na cưỡng lại sứ mạng Ðức
Chúa giao
1 Có lời Ðức Chúa phán với ông
Giô-na, con ông A-mít-tai, rằng: 2 "Hãy đứng dậy, đi đến
Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã
lên thấu tới Ta.” 3 Ông Giô-na đứng dậy nhưng là để trốn đi Tác-sít,
tránh nhan Ðức Chúa. Ông xuống Gia-phô và tìm được một chiếc tàu sắp đi
Tác-sít. Ông trả tiền, xuống tàu để cùng đi Tác-sít với họ, tránh nhan Ðức Chúa.
4 Nhưng Ðức Chúa tung ra một cơn gió to trên biển và liền có một
trận bão lớn ngoài khơi, khiến tàu tưởng chừng như sắp vỡ tan. 5 Thuỷ
thủ sợ hãi; họ kêu cứu, mỗi người kêu lên thần của mình và ném hàng hoá trên
tàu xuống biển cho nhẹ bớt. Còn ông Giô-na thì đã xuống hầm tàu, nằm đó và ngủ
say. 6 Viên thuyền trưởng lại gần và nói với ông: "Sao lại ngủ
thế này? Dậy! Kêu cầu thần của ông đi! May ra vị thần ấy sẽ nghĩ đến chúng ta
và chúng ta khỏi mất mạng.” 7 Rồi họ bảo nhau: "Nào, chúng ta
hãy bắt thăm cho biết tại ai mà chúng ta gặp tai hoạ này." Họ gieo quẻ và
quẻ rơi trúng ông Giô-na. 8 Họ bảo ông: "Vì ông là người đã đem
tai hoạ này đến cho chúng ta, thì xin ông cho chúng tôi biết: Ông làm nghề gì?
Ông từ đâu đến, quê ở nước nào, và thuộc dân nào?” 9 Ông nói với họ:
"Tôi là người Híp-ri, Ðấng tôi kính sợ là Ðức Chúa, Thiên Chúa các tầng
trời, Ðấng đã làm ra biển khơi và đất liền.” 10 Những người ấy sợ,
sợ lắm; họ nói với ông: "Ông đã làm gì thế?" Thật vậy, do ông kể lại
mà họ được biết là ông đang trốn đi để tránh nhan Ðức Chúa. 11 Họ
hỏi ông: "Chúng tôi phải xử với ông thế nào để cho biển lặng đi, không còn
đe doạ chúng tôi nữa?" Quả thật, biển càng lúc càng động mạnh. 12 Ông
bảo họ: "Hãy đem tôi ném xuống biển thì biển sẽ lặng đi, không còn đe doạ
các ông nữa; vì tôi biết là tại tôi mà các ông gặp cơn bão lớn này.” 13 Những
người ấy cố chèo vào đất liền, nhưng không thể được vì biển mỗi lúc một động
thêm, uy hiếp họ. 14 Họ kêu cầu Ðức Chúa và thưa: "Ôi, lạy Ðức
Chúa, ước gì chúng con không phải chết vì mạng sống người này, và xin đừng đổ
máu vô tội trên đầu chúng con; vì lạy Ðức Chúa, chính Ngài đã hành động tuỳ
theo sở thích.” 15 Rồi họ đem ông Giô-na ném xuống biển. Biển dừng
cơn giận dữ. 16 Những người ấy sợ Ðức Chúa, sợ lắm; họ dâng hy lễ
lên Ðức Chúa và khấn hứa.
Chương 02
Ông Giô-na được cứu thoát
1 Ðức Chúa khiến một con cá lớn
nuốt ông Giô-na. Ông Giô-na ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. 2 Từ
trong bụng cá, ông Giô-na cầu nguyện cùng Ðức Chúa, Thiên Chúa của ông. 3 Ông
nói:
Từ cảnh ngặt nghèo, tôi kêu lên
Ðức Chúa,
Người đã thương đáp lời.
Lạy Chúa, từ lòng âm phủ, con cầu
cứu, Ngài đã nghe tiếng con.
4 Ngài đã ném con vào vực sâu, giữa
lòng biển,
làn nước mênh mông vây bọc con,
sóng cồn theo nước cuốn, Ngài để
cho tràn ngập thân này.
5 Con đã nói: "Con bị đuổi đi
khuất mắt Chúa rồi!
Nhưng con vẫn hướng nhìn về thánh
điện của Chúa."
6 Nước bủa vây con đến cổ, vực thẳm
vây bọc con,
trên đầu con, rong rêu quấn chằng
chịt.
7 Con đã xuống tận nền móng núi
non,
cửa lòng đất đã cài then nhốt con
mãi mãi.
Nhưng Ngài đã đưa sự sống của con
lên khỏi huyệt,
lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa của
con.
8 Khi mạng sống con hầu tàn, con đã
nhớ đến Ðức Chúa
và lời cầu nguyện của con đã tới
Ngài, tới đền thánh của Ngài.
9 Bọn thờ thần hư ảo, chớ gì chúng
bỏ điều chúng vẫn tôn sùng.
10 Phần con, giữa tiếng hát tạ ơn,
con sẽ tiến dâng Ngài hy lễ;
con xin giữ trọn điều đã khấn
nguyền.
Ðức Chúa mới là Ðấng ban ơn cứu
độ.
11 Ðức Chúa bảo con cá, nó liền mửa
ông Giô-na ra trên đất liền.
Chương 03
Thành Ni-ni-vê sám hối và được
tha thứ
1 Có lời Ðức Chúa phán với ông
Giô-na lần thứ hai rằng: 2 "Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành
phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi.” 3
Ông Giô-na đứng dậy và đi Ni-ni-vê, như lời Ðức Chúa phán. Ni-ni-vê là
một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường. 4 Ông
Giô-na bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: "Còn bốn mươi ngày
nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ.” 5 Dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ
công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ. 6 Tin
báo đến cho vua Ni-ni-vê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô,
và ngồi trên tro. 7 Vua cho rao tại Ni-ni-vê: "Do sắc chỉ của
đức vua và các quan đại thần, người và súc vật, bò bê và chiên dê không được
nếm bất cứ cái gì, không được ăn cỏ, không được uống nước. 8 Người
và súc vật phải khoác áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa. Mỗi người phải
trở lại, bỏ đường gian ác và những hành vi bạo lực của mình. 9 Biết
đâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại, chẳng bỏ ý định giáng phạt, và nguôi cơn thịnh
nộ, khiến chúng ta khỏi phải chết.” 10 Thiên Chúa thấy việc họ làm,
thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên
bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa.
Chương 04
Ông Giô-na bực mình. Ðức Chúa trả
lời.
1 Ông Giô-na bực mình, bực lắm, và
ông nổi giận. 2 Ông cầu nguyện với Ðức Chúa và nói: "Ôi, lạy
Ðức Chúa, đó chẳng phải là điều con đã nói khi còn ở quê nhà sao? Chính vì thế
mà con đã vội vàng trốn đi Tác-sít. Thật vậy, con biết rằng Ngài là Thiên Chúa
từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, và hối tiếc vì đã giáng hoạ. 3
Giờ đây, lạy Ðức Chúa, xin Ngài lấy mạng sống con đi, vì thà con chết còn
hơn là sống!” 4 Ðức Chúa hỏi ông: "Ngươi nổi giận như thế có lý
không?” 5 Ông Giô-na ra ngoài thành và ngồi ở phía đông thành. Ở đó,
ông làm một cái lều, rồi ngồi bên dưới, trong bóng mát, để xem cái gì sẽ xảy ra
trong thành. 6 Ðức Chúa là Thiên Chúa khiến một cây thầu dầu mọc lên
ở phía trên ông Giô-na để có bóng mát che đầu ông, hầu làm ông hết buồn bực.
Ông Giô-na vui, vui lắm vì cây thầu dầu. 7 Nhưng hôm sau, khi hừng
đông ló rạng, Thiên Chúa khiến một con sâu cắn cây thầu dầu và cây bị héo. 8
Khi mặt trời mọc, Thiên Chúa cho có một cơn gió đông nóng bỏng, và mặt
trời giội nắng xuống đầu ông Giô-na; ông ngất xỉu và xin cho mình được chết,
ông nói: "Thà tôi chết còn hơn là sống.” 9 Thiên Chúa hỏi ông
Giô-na: "Ngươi nổi giận vì cây thầu dầu, như thế có lý không?" Ông
trả lời: "Con có lý để nổi giận đến chết được!” 10 Ðức Chúa
phán: "Ngươi, ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì
nó, và không làm cho nó lớn lên; trong một đêm nó đã sinh ra, rồi trong một đêm
lại chết đi. 11 Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương hại Ni-ni-vê,
thành phố lớn, trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt
được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật hay sao?"
Mi-kha
Chương 01
1 Có lời Ðức Chúa phán với ông
Mi-kha, người Mô-re-sét, dưới thời các vua Giu-đa là Giô-tham, A-khát và
Khít-ki-gia: đây là điều ông đã thấy liên quan đến Sa-ma-ri và Giê-ru-sa-lem.
I. Ít-Ra-En Bị Kiện, Ðe Dọa Và
Trừng Phạt
Án xử Sa-ma-ri
2 Hãy nghe đây, hỡi chư dân,
hãy lắng tai, này trái đất cùng
muôn loài muôn vật!
Từ thánh điện của Người,
Ðức Chúa là Chúa Thượng sẽ làm
chứng tố cáo các ngươi.
3 Quả thật, này Ðức Chúa ra khỏi
nơi thánh của Người,
Người ngự xuống và chà đạp các
nơi cao trên mặt đất.
4 Dưới chân Người núi non tan chảy,
các thung lũng rạn nứt như sáp
ong gặp lửa,
như nước đổ xuống từ dốc cao.
5 Tất cả những điều ấy đều vì tội
phản nghịch của Gia-cóp,
vì tội lỗi của nhà Ít-ra-en.
Ai đã khiến Gia-cóp phản nghịch,
há chẳng phải Sa-ma-ri sao?
Ai đã xúi Giu-đa thờ ngẫu tượng,
há chẳng phải Giê-ru-sa-lem sao?
6 Ta sẽ làm cho Sa-ma-ri ra hoang
tàn đổ nát giữa cánh đồng
và biến thành đất trồng nho.
Nền đá của nó, Ta cho rớt xuống
thung lũng,
móng của nó, Ta sẽ để trơ ra.
7 Mọi tượng thần nó thờ sẽ bị đập
vỡ tan,
mọi món quà nó nhận sẽ bị lửa đốt
cháy,
mọi ngẫu tượng của nó sẽ bị phá
tan tành.
Bởi vì nó đã thu được nhờ quà của
gái điếm,
nên tất cả sẽ lại trở thành quà
cho gái điếm.
Bài ai ca khóc các thành miền đất
thấp
8 Vì vậy, tôi muốn thương khóc và
rống lên,
tôi sẽ đi chân không và để mình
trần,
tôi sẽ rên rỉ như chó sói, khóc
than như đà điểu.
9 Vết thương của nó thật vô phương
cứu chữa,
vì vết thương ấy lan mãi đến
Giu-đa,
đụng tới cổng thành dân tôi ở,
cho đến tận Giê-ru-sa-lem.
10 Các ngươi đừng loan tin ở Gát
ở... cũng đừng khóc lóc làm gì,
tại Bết Lơ-áp-ra, hãy lăn lộn
trên đất.
11 Hỡi dân cư ở Sa-phia trần truồng,
nhục nhã, hãy đi tới. ..
Dân cư ở Xa-a-nan không dám ra
khỏi thành;
cảnh tang tóc tại Bết Ha Ê-xen
khiến các ngươi không thể ở lại
đó nữa.
12 Dân cư ở Ma-rốt, lo sợ cho của
cải mình,
vì tai hoạ từ Ðức Chúa giáng
xuống
tại cổng thành Giê-ru-sa-lem.
13 Hỡi dân cư ở La-khít, hãy thắng
ngựa vào xe.
Chính ngươi mở đường cho con gái
Xi-on phạm tội,
vì nơi ngươi, người ta đã thấy
các tội phản nghịch của Ít-ra-en.
14 Vì thế, ngươi sẽ đem Mô-re-sét
Gát làm của hồi môn.
Còn Bết Ác-díp sẽ khiến các vua
Ít-ra-en phải thất vọng.
15 Hỡi dân cư ở Ma-rê-sa, Ta sẽ lại
trao ngươi cho quân xâm lược,
vinh quang của Ít-ra-en sẽ phải
rời sang tận A-đu-lam.
16 Hãy cắt tóc cạo đầu thương cho
những người con yêu quý;
hãy để đầu hói như diều hâu,
thương cho chúng đã phải xa ngươi
mà đi đày.
Chương 02
Chống những kẻ trục lợi
1 Khốn thay những kẻ nằm trên
giường
toan tính chuyện xấu xa, lập mưu
làm điều ác!
Vừa tảng sáng đã đem ra thực hiện
vì nắm sẵn quyền bính trong tay.
2 Muốn cánh đồng nào là chúng cướp
lấy,
muốn ngôi nhà nào là chúng chiếm
đoạt.
Chúng bắt giữ cả chủ lẫn nhà, cả
người lẫn gia nghiệp.
3 Vì vậy, Ðức Chúa phán như sau:
Ta toan tính giáng hoạ xuống gia
tộc này
khiến các ngươi không rút cổ ra
được,
cũng không thể ngẩng đầu bước đi,
vì thời đó sẽ là thời tai hoạ.
4 Ngày ấy, người ta sẽ ngâm thơ chế
giễu các ngươi,
sẽ cất lên bài ca than vãn:
"Chúng tôi đã bị huỷ diệt hoàn toàn,
phần đất của dân tôi đã vào tay
kẻ khác.
Than ôi, người ta lại tước đoạt
của tôi,
và chia đồng ruộng của chúng tôi
cho quân phản nghịch!"
5 Vì vậy, trong đại hội của Ðức
Chúa
sẽ chẳng ai chăng dây chia phần
cho ngươi.
Ngôn sứ loan báo điều bất hạnh
6 Có kẻ nói: "Ðừng nói tiên
tri nữa!
Người ta đừng nói tiên tri như
thế này:
nhục nhã sẽ không rời xa chúng
ta!
7 Nhà Gia-cóp hỡi, liệu có thể nói:
Ðức Chúa đã hết kiên nhẫn rồi
sao?
Lẽ nào Người lại hành động như
thế?"
Những điều tôi nói chẳng sinh ích
lợi
cho những kẻ theo đường chính
trực hay sao?
8 Các ngươi đã nổi lên như kẻ thù
chống lại dân Ta,
các ngươi giựt áo choàng ra khỏi
áo dài
của những kẻ trở về từ mặt trận
đang điềm nhiên đi đường.
9 Phụ nữ của dân Ta, các ngươi đuổi
khỏi mái nhà thân yêu của họ.
Còn con cái họ, các ngươi đã vĩnh
viễn lấy đi
niềm vinh dự Ta đã ban cho chúng.
10 Hãy trỗi dậy lên đường!
Ðây không phải là chốn nghỉ ngơi,
vì ngươi ra ô uế, nên sẽ bị tiêu
diệt,
một cuộc tiêu diệt vô cùng thảm
khốc.
11 Nếu người nào cao hứng thốt ra
lời phỉnh gạt:
"Cứ đưa rượu đưa thức có men
cho tôi uống,
tôi sẽ nói tiên tri sao có lợi
cho anh",
thì người ấy chính là tiên tri
của dân này!
Lời hứa tái thiết
12 Ta sẽ quy tụ cả nhà Gia-cóp,
sẽ tập hợp số còn sót của nhà
Ít-ra-en,
sẽ gom chúng lại như đàn chiên
trong chuồng,
như đàn vật giữa đồng cỏ, khiến
chúng không còn sợ ai nữa.
13 Người mở đường đưa chúng tiến
lên,
chúng chọc một lỗ hổng, đi qua
cổng và ra ngoài.
Ðức Chúa, Vua của chúng đi qua
trước, chính Người sẽ dẫn đầu.
Chương 03
Chống các thủ lãnh áp bức dân
1 Và tôi nói: Vậy hãy nghe đây, hỡi
các thủ lãnh nhà Gia-cóp,
hỡi các tướng lãnh nhà Ít-ra-en,
nhiệm vụ của các ông
há chẳng phải là thi hành công
lý?
2 Thế mà các ông lại ghét điều
lành, ưa điều ác,
các ông lột da khỏi thân người ta
và lóc thịt khỏi xương của họ.
3 Chúng ăn thịt dân tôi và lột da
khỏi mình họ;
xương của họ, chúng đập gãy tan.
Chúng chặt ra từng mảnh như thịt
trong chảo, trong nồi.
4 Bấy giờ chúng kêu lên cùng Ðức
Chúa,
nhưng Người chẳng đáp lời.
Thời ấy, Người ngoảnh mặt làm ngơ
vì chúng đã làm điều gian ác.
Chống các ngôn sứ hám lợi
5 Ðức Chúa phán thế này
về các ngôn sứ đã làm cho dân tôi
lầm lạc:
Khi răng chúng cắn được cái gì
thì chúng hô: "Bình an",
còn khi không ai bỏ gì vào miệng
chúng,
thì chúng lại mở cuộc thánh chiến
tấn công họ.
6 Vì thế, các ngươi chỉ có đêm mà
không có thị kiến,
chỉ có tối tăm mà không bói toán
được gì.
Ðối với các ngôn sứ, mặt trời sẽ
lặn, và ngày sẽ ra tối tăm.
7 Các nhà chiêm thị sẽ xấu hổ, bọn
bói toán sẽ bẽ mặt hổ ngươi,
tất cả bọn chúng phải che môi bịt
miệng
vì Thiên Chúa không đáp lời.
8 Phần tôi, trái lại, nhờ thần khí
của Ðức Chúa,
tôi được đầy sức mạnh, công lý và
can trường
để loan báo cho nhà Gia-cóp biết
tội phản nghịch,
cho nhà Ít-ra-en biết tội lỗi của
nó.
Báo cho nhà chức trách về cảnh
điêu tàn của Xi-on
9 Hãy nghe đây, hỡi các thủ lãnh
nhà Gia-cóp,
hỡi các tướng lãnh nhà Ít-ra-en,
là những kẻ ghê tởm công lý
và bẻ cong những gì ngay thẳng.
10 Các ngươi xây Xi-on bằng máu,
dựng Giê-ru-sa-lem bằng bất công.
11 Các thủ lãnh của nó xét xử dựa
theo quà cáp,
các tư tế dạy bảo vì tiền, các
ngôn sứ bói toán vì bạc.
Chúng ỷ vào Ðức Chúa mà nói:
"Ðức Chúa chẳng ở giữa chúng
ta hay sao?
Tai hoạ sẽ chẳng giáng xuống
chúng ta đâu!"
12 Bởi vậy, chính vì các ngươi lầm
lỗi
mà Xi-on sẽ thành ruộng cày,
Giê-ru-sa-lem nên chốn tan hoang,
và núi Ðền Thờ hoá ra nơi cao rậm
rạp.
Chương 04
II. Các Lời Hứa Với Xion
Triều đại tương lai của Ðức Chúa
ở Xi-on
1 Trong tương lai, núi Nhà Ðức Chúa
đứng kiên cường vượt đỉnh các non
cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.
Nước nước dập dìu đưa nhau tới,
2 dân dân lũ lượt kéo nhau đi.
Rằng: "Ðến đây, ta cùng lên
núi Ðức Chúa,
lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp,
để Người dạy ta biết lối của
Người
và bước theo đường Người chỉ
vẽ."
Vì từ Xi-on, thánh luật ban
xuống,
từ Giê-ru-sa-lem, lời Ðức Chúa
phán truyền.
3 Người sẽ đứng làm trọng tài giữa
muôn nước
và phân xử cho các dân hùng mạnh
mãi tận xa.
Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc
thành cày,
rèn giáo mác nên liềm nên hái.
Dân này nước nọ sẽ không còn vung
kiếm đánh nhau
và thiên hạ thôi học nghề chinh
chiến.
4 Mỗi người sẽ ngồi dưới cây vả cây
nho của mình,
không còn ai quấy phá.
Miệng Ðức Chúa các đạo binh đã
phán như vậy.
5 Thật vậy, tất cả các dân đều bước
đi
nhân danh thần của mình; còn
chúng ta, chúng ta tiến bước
nhân danh Ðức Chúa, Thiên Chúa
của chúng ta,
đến muôn thuở muôn đời.
Ðàn chiên tản mác được tập hợp ở
Xi-on
6 Ngày ấy - sấm ngôn của Ðức Chúa
chiên nào què, Ta sẽ quy tụ lại,
chiên nào đi lạc xa hay bị Ta
giáng hoạ, Ta sẽ tập hợp về.
7 Ta sẽ dùng chiên què làm số sót,
biến chiên đi lạc thành dân tộc
hùng cường.
Ðức Chúa sẽ cai trị chúng tại núi
Xi-on
từ nay đến muôn đời muôn thuở.
8 Phần ngươi, hỡi Tháp của Ðàn
Chiên,
hỡi Ðồi của con gái Xi-on,
vương quốc của con gái
Giê-ru-sa-lem
và vương quyền thuở trước, sẽ lại
trở về với ngươi.
Xi-on bị bao vây, lưu đày và được
giải thoát
9 Tại sao bây giờ ngươi lại kêu la
ầm ĩ?
Nơi ngươi nào chẳng có vua sao?
Hay cố vấn của ngươi đã bị tiêu
diệt
khiến ngươi phải quằn quại đau
đớn
như người phụ nữ lúc sinh con?
10 Hỡi con gái Xi-on, hãy đớn đau
quằn quại,
hãy kêu la như phụ nữ lúc sinh
con,
vì giờ đây, ngươi phải đi khỏi
thành và ra đồng ruộng mà ở.
Ngươi phải đi đến tận Ba-by-lon
và tại đó ngươi sẽ được cứu
thoát;
ở đó Ðức Chúa sẽ chuộc ngươi lại
từ tay kẻ thù ngươi.
Các nước bị đập tan ở Xi-on
11 Bây giờ đông đảo các dân hợp nhau
lại đánh ngươi,
chúng nói: "Phải làm cho
Xi-on ra ô uế,
ta sẽ thích chí đưa mắt nhìn
Xi-on."
12 Nhưng chúng nào có biết chương
trình của Ðức Chúa,
cũng chẳng hiểu chi ý định của
Người.
Quả vậy, Người đã tập trung chúng
lại như lúa trên sân phơi.
13 Hỡi con gái Xi-on, hãy đứng lên
đạp lúa,
vì Ta sẽ làm cho sừng ngươi cứng
như sắt,
và cho móng ngươi vững như đồng.
Ngươi sẽ giẫm nát nhiều dân.
Ngươi hãy biệt hiến kính Ðức Chúa
những của chúng cướp được
và dâng tiến Chúa Thượng mọi giàu
sang của chúng.
Nguy khốn và vinh quang của vương
triều Ða-vít
14 Bây giờ, hỡi con gái hiếu chiến,
hãy rạch mình;
chúng vây hãm tấn công ta,
lại dùng gậy đánh vào má vị thẩm
phán Ít-ra-en.
Chương 05
1 Phần ngươi, hỡi Bê-lem Ép-ra-tha,
ngươi nhỏ bé nhất trong các thị
tộc Giu-đa,
từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện
một vị có sứ mạng thống lãnh
Ít-ra-en.
Nguồn gốc của Người có từ thời
trước, từ thuở xa xưa.
2 Vì thế, Ðức Chúa sẽ bỏ mặc
Ít-ra-en
cho đến thời một phụ nữ sinh con.
Bấy giờ những anh em sống sót của
người con đó
sẽ trở về với con cái Ít-ra-en.
3 Người sẽ dựa vào quyền lực Ðức
Chúa,
vào uy danh Ðức Chúa, Thiên Chúa
của Người
mà đứng lên chăn dắt họ. Họ sẽ
được an cư lạc nghiệp,
vì bấy giờ quyền lực Người sẽ
trải rộng ra đến tận cùng cõi đất.
Người sẽ chiến thắng Át-sua
4 Chính Người sẽ đem lại hoà bình.
Khi Át-sua xâm nhập xứ sở
và giày đạp đất nước chúng ta,
chúng ta sẽ đặt bảy mục tử và tám
thủ lãnh chống lại chúng.
5 Họ sẽ dùng gươm mà cai trị đất
Át-sua,
lấy giáo mà cai trị xứ Nim-rốt.
Nhưng Người sẽ giải thoát chúng
ta khỏi Át-sua
khi nó xâm nhập xứ sở, và giày
xéo lãnh thổ chúng ta.
Vai trò tương lai của số còn sót
lại giữa chư dân
6 Bấy giờ giữa chư dân, số còn sót
lại của nhà Gia-cóp
sẽ như sương Ðức Chúa gửi đến,
như sương móc trên đám cỏ xanh.
Nó không cậy trông ở người thế,
chẳng mong chi nơi con cái loài
người.
7 Bấy giờ giữa muôn nước muôn dân,
số còn sót lại của nhà Gia-cóp
sẽ như sư tử giữa thú rừng, như
sư tử con giữa chiên dê.
Ði tới đâu, nó cũng giày đạp, cấu
xé, mà không ai cứu nổi.
Ðức Chúa sẽ loại bỏ mọi sức quyến
rũ
8 Xin Ngài giơ tay đánh phạt quân
thù
và mọi thù địch của Ngài phải
tiêu vong.
9 Trong ngày ấy, sấm ngôn của Ðức
Chúa, điều này sẽ xảy ra:
Ta sẽ cho ngựa của ngươi biến
khỏi xứ,
sẽ huỷ diệt xe trận của ngươi.
10 Ta sẽ phá huỷ các thành trong xứ
và sẽ triệt hạ tất cả các thành
kiên cố của ngươi.
11 Ta sẽ dẹp hết mọi trò pháp thuật
khỏi tay ngươi
và ở nơi ngươi sẽ không còn các
thầy chiêm tinh.
12 Ta sẽ dẹp hết các ngẫu tượng, các
trụ thờ của ngươi ra khỏi xứ.
Ngươi sẽ không còn sụp lạy những
gì tay ngươi làm ra.
13 Ta sẽ nhổ các cột thờ của ngươi
ra khỏi xứ
và triệt hạ các thành của ngươi.
14 Ta sẽ nổi cơn lôi đình thịnh nộ
để báo thù chư dân đã không chịu
nghe lời Ta.
Chương 06
III. Ít-Ra-En Lại Bị Kiện Cáo,
Khiển Trách Và Ðe Dọa
Ðức Chúa kiện cáo dân Người
1 Các ngươi hãy nghe điều Ðức Chúa
phán:
"Ðứng lên! Hãy mở một vụ
kiện trước các núi,
các đồi phải nghe tiếng của
ngươi! "
2 Hãy nghe vụ kiện của Ðức Chúa,
hỡi các núi,
hỡi nền tảng vững bền của cõi
đất, nghe đây!
Vì Ðức Chúa đang kiện cáo dân
Người,
Người tranh luận với Ít-ra-en.
3 "Dân Ta hỡi, Ta đã làm gì
ngươi?
Ta đã làm chi khiến ngươi phiền
lòng? Hãy trả lời cho Ta.
4 Phải chăng vì Ta đã đưa ngươi lên
từ đất Ai-cập,
đã giải thoát ngươi khỏi cảnh tôi
đòi,
đã sai Mô-sê, A-ha-ron và
Mi-ri-am đến hướng dẫn ngươi?"
5 Dân Ta hỡi, hãy nhớ lại những gì
Ba-lác, vua Mô-áp, đã dự định
và những gì Bi-lơ-am, con Bơ-o,
đã trả lời cho nó?
... từ Sít-tim cho đến Ghin-gan,
để ngươi nhận biết hồng ân của
Ðức Chúa.
6 [Dân tự hỏi mình rằng:]
"Tôi sẽ mang gì vào chầu Ðức
Chúa
và cúi mình trước Thiên Chúa tối
cao?
Phải chăng tôi sẽ mang những lễ
toàn thiêu,
những con bê một tuổi vào chầu
Ðức Chúa?
7 Phải chăng Ðức Chúa ưa thích từng
ngàn dê đực,
và hằng vạn suối dầu?
Phải chăng tôi sẽ dâng con trai
đầu lòng để chuộc lỗi cho tôi,
dâng con ruột để đền tội cho
chính mình?"
8 (Ngôn sứ đáp:)
"Hỡi người, bạn đã được nói
cho hay điều nào là tốt,
điều nào Ðức Chúa đòi hỏi bạn:
đó chính là thực thi công bình,
quý yêu nhân nghĩa
và khiêm nhường bước đi với Thiên
Chúa của bạn."
Chống sự gian giảo của dân thành
9 Ðây là tiếng Ðức Chúa kêu gọi
thành,
- kính sợ danh Ngài là điều thật
khôn ngoan.
Hãy nghe, hỡi chi tộc và đại hội
của thành.
10 Hỡi nòi gian ác, làm sao Ta chịu
nổi
những của cải chiếm được bằng dối
gian,
ê-pha thiếu hụt, xấu xa ghê tởm?
11 Ta coi là liêm chính thế nào được
những bàn cân gian trá, những túi
đựng các quả cân gian?
12 Hạng giàu có trong thành thì hung
hãn,
còn dân thành lại quen ăn gian
nói dối,
miệng hay nói lời lẽ gian tà.
13 Bây giờ, đến lượt Ta, Ta bắt đầu
trừng phạt ngươi,
vì tội ngươi, Ta sẽ làm cho ngươi
ra hoang tàn đổ nát.
14 Phần ngươi, ngươi sẽ ăn mà không
được no thoả,
nạn đói kém sẽ hành hạ ngươi.
Ngươi cất giấu, nhưng không thể
đem đi an toàn,
những gì ngươi đem đi an toàn, Ta
sẽ nộp cho gươm.
15 Phần ngươi, ngươi sẽ gieo mà
không được gặt;
chính ngươi sẽ đạp trái ô-liu,
nhưng không được xức dầu;
ngươi ép nho mà không được uống
rượu.
Gương Sa-ma-ri
16 Người ta theo các thói tục của
Om-ri
và mọi hành vi của nhà A-kháp.
Các ngươi đã chạy theo các lời
khuyên của chúng,
khiến Ta để cho ngươi ra đổ nát
hoang tàn,
và dân ngươi thành trò cười cho
thiên hạ;
các ngươi sẽ phải chuốc lấy nỗi
nhục của dân Ta.
Chương 07
Bất công ở khắp nơi
1 Khốn thân tôi! Vì tôi giống như
người hái quả trong mùa hè,
như người đi mót nho trong mùa
thu hoạch:
không tìm được chùm nho nào để
ăn,
chẳng gặp quả đầu mùa tôi hằng ưa
thích.
2 Kẻ hiếu trung đã biệt dạng khỏi
xứ;
không còn người lương thiện chốn
dương gian.
Tất cả đều đợi dịp gây đổ máu,
người này đặt lưới dò hãm hại
người kia.
3 Bàn tay chúng thạo làm điều ác:
thủ lãnh chuyên phiền hà, thẩm
phán quen đòi quà hối lộ,
bậc trưởng thượng buông lời độc
ác
luân thường đạo lý bị ngửa
nghiêng;
4 trong bọn chúng, người tốt hơn cả
cũng như cây ngấy,
người lương thiện nhất chẳng khác
gì bụi gai.
Ðây là ngày những người canh gác
đã báo cho ngươi:
ngươi sẽ bị hình phạt giáng
xuống, bấy giờ sẽ là thời hỗn loạn.
5 Các ngươi đừng tin tưởng bạn bè,
đừng trông cậy vào người thân
cận,
với kẻ chung chăn gối, coi chừng
chớ hé môi.
6 Quả thật, con trai khinh thường
cha,
con gái đứng lên chống lại mẹ,
nàng dâu chống mẹ chồng, người
trong nhà lại hoá ra thù địch.
7 Phần tôi, tôi ngóng đợi Ðức Chúa,
tôi cậy trông Thiên Chúa, Ðấng
cứu độ tôi;
Thiên Chúa của tôi sẽ nghe tiếng
tôi kêu cầu.
IV. Niềm Hy Vọng
Xi-on bị kẻ thù sỉ nhục
8 Hỡi kẻ thù của tôi, đừng đắc chí
nhạo cười!
Nếu có ngã, tôi sẽ đứng dậy;
nếu tôi ở trong bóng tối, Ðức
Chúa sẽ là ánh sáng cho tôi.
9 Vì tôi đắc tội với Ðức Chúa,
tôi sẽ phải gánh chịu cơn giận của
Người,
tới khi Người biện hộ và bảo vệ
tôi.
Người sẽ dẫn tôi ra ánh sáng,
và tôi sẽ được thấy đức công
chính của Người.
10 Nhìn thấy thế, kẻ thù tôi phải
nhuốc nhơ xấu hổ.
Nó nói với tôi: "Ðức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi ở đâu?"
Tôi sẽ đưa mắt nhìn nó cách khinh
bỉ,
khi nó bị chà đạp dưới chân như
bùn đất ngoài đường.
Lời sấm tiên báo ngày hồi phục
11 Ðó là ngày tái thiết tường thành
của ngươi,
ngày ấy, biên giới của ngươi sẽ
mở rộng.
12 Ngày ấy, người ta sẽ tuôn đến với
ngươi,
từ Át-sua đến các thành Ai-cập,
từ Ai-cập đến sông Cả,
từ biển này qua biển nọ, từ núi
này đến tận núi kia.
13 Ðất sẽ trở nên khô cằn vì dân cư
của nó:
đó là hậu quả do các việc chúng
làm.
Cầu xin cho các nước phải hỗn độn
14 (Lạy Ðức Chúa,) xin Ngài dùng gậy
chăn dắt dân
là đàn chiên, là cơ nghiệp của
Ngài,
đang biệt cư trong rừng giữa vườn
cây ăn trái.
Xin đưa họ tới đồng cỏ miền
Ba-san và Ga-la-át
như những ngày thuở xa xưa.
15 Như thời Ngài ra khỏi đất Ai-cập,
xin Ngài cho chúng con thấy những
kỳ công.
16 Chư dân sẽ nhìn và phải nhuốc nhơ
xấu hổ
dù chúng rất hùng cường.
Chúng sẽ lấy tay bịt miệng, tai
chúng sẽ ù đi.
17 Chúng sẽ phải liếm bụi như rắn,
như loài bò sát trên mặt đất.
Từ trong đồn luỹ, chúng sẽ run
rẩy kéo nhau ra
mà đến với Ðức Chúa là Thiên Chúa
chúng ta.
Chúng sẽ kinh hãi khiếp sợ Ngài.
Xin Thiên Chúa thứ tha
18 Thần minh nào sánh được như Ngài,
Ðấng chịu đựng lỗi lầm,
Ðấng bỏ qua tội ác cho phần còn
sót lại của cơ nghiệp Ngài?
Người không giữ mãi cơn giận,
nhưng chuộng lòng nhân nghĩa,
19 Người sẽ lại thương xót chúng ta,
tội lỗi chúng ta, Người chà đạp
dưới chân.
Mọi lỗi lầm chúng ta, Người ném
xuống đáy biển.
20 Ngài sẽ bày tỏ lòng thành tín cho
Gia-cóp,
và tình thương cho Áp-ra-ham,
như đã thề với tổ phụ chúng con
từ thuở trước.
Na-khum
Chương 01
1 Lời sấm về Ni-ni-vê.
Sách thị kiến của ông Na-khum,
người En-cốt.
Lời Mở Ðầu
Thánh vịnh - Cơn thịnh nộ của Ðức
Chúa
2 Ðức Chúa là Thiên Chúa ghen tương
và báo oán,
Ðức Chúa là Ðấng báo oán: Người
nổi cơn lôi đình,
Ðức Chúa báo oán những kẻ thù
địch,
những kẻ thù của Người, Người tỏ
lòng oán hận.
3 Ðức Chúa chậm giận, sức mạnh của
Người thật phi thường.
Ðức Chúa không để kẻ dữ thoát
khỏi hình phạt,
Người bước đi trong cuồng phong
bão táp;
mây là bụi dưới chân Người.
4 Người ngăm đe biển cả khiến nó
phải cạn;
Người làm cho mọi sông ngòi phải
ráo khô.
Ba-san và Các-men phải kiệt sức,
đồng cỏ Li-băng bị héo tàn.
5 Trước nhan Người, núi chuyển rung
và đồi tan chảy;
trước nhan Người, mặt đất chấn
động,
cùng với hoàn cầu và toàn thể dân
cư.
6 Người thịnh nộ, nào ai đứng nổi?
Người nổi lôi đình, ai đứng vững
được chăng?
Cơn giận Người trút xuống như
lửa,
trước nhan Người đá tảng cũng vỡ
tan.
7 Ðức Chúa thật tốt lành, chính
Người là thành luỹ chở che
trong những ngày khốn quẫn.
Người biết những ai ẩn náu bên
Người,
8 ngay cả khi nước lũ tràn ngập.
Người tiêu diệt kẻ nào đứng lên
chống lại Người;
Người đẩy quân thù địch vào bóng
tối.
Lời sấm về Giu-đa và Ni-ni-vê
(Về Giu-đa)
9 Các ngươi mưu đồ gì chống lại Ðức
Chúa?
Chính Người sẽ ra tay tiêu diệt;
cơn khốn quẫn sẽ không xảy ra
nữa.
10 Dù có chằng chịt như bụi gai,
và ngất ngư như những kẻ say
khướt,
chúng cũng bị thiêu rụi như đống
rơm khô.
(Về Át-sua)
11 Chính từ nơi ngươi sẽ xuất hiện
một kẻ mưu toan làm điều dữ chống
lại Ðức Chúa,
một kẻ thi hành ý định của
Xa-tan.
(Lời sấm về Giu-đa)
12 Ðức Chúa phán thế này: Dù chúng
có được trang bị đầy đủ
và đông đảo đến mấy đi nữa,
chúng cũng sẽ bị quật ngã và tiêu
vong.
Ta đã hạ nhục ngươi, nhưng Ta sẽ
không còn hạ nhục ngươi nữa.
13 Giờ đây, Ta sẽ bẻ gãy ách của nó
trên ngươi
và đập tan xiềng xích trói buộc
ngươi.
(Lời sấm về vua Ni-ni-vê)
14 Này Ðức Chúa truyền lệnh phạt
ngươi:
ngươi sẽ chẳng còn kẻ nối dõi
tông đường.
Ta sẽ cho triệt hạ tượng tạc
tượng đúc khỏi đền thần của ngươi.
Ta sẽ khiến phần mộ ngươi nên đồ
ô nhục.
Chương 02
(Về Giu-đa)
1 Kìa, trên các đồi núi
xuất hiện người đi loan báo Tin
Mừng, và công bố bình an.
Này hỡi Giu-đa, hãy mừng lễ, hãy
giữ trọn các lời khấn hứa,
vì kẻ thừa hành của Xa-tan không
còn qua lại nơi ngươi nữa;
nó đã bị tiêu diệt hoàn toàn.
Ni-Ni-Vê Bị Sụp Ðổ
Tấn công
2 Một tên phá hoại đến đánh ngươi.
Hãy bảo vệ pháo đài, và canh
phòng quan lộ.
Hãy nai nịt gọn gàng và củng cố
toàn quân.
3 Phải, Ðức Chúa khiến cho Gia-cóp
và Ít-ra-en lấy lại sức kiêu
hùng.
Bọn cướp đã tàn phá, lại còn phá
huỷ cả các nhành nho.
4 Các dũng sĩ của nó mang khiên đỏ
như đồng,
các chiến binh của nó mặc áo vải
hồng điều.
Xe trận rực sáng như thép nung
trong lửa
khi xếp hàng lâm trận. Rừng gươm
giáo vung lên.
5 Xe trận vùn vụt qua đường phố,
xông vào các quảng trường
trông như đuốc sáng rực, phóng đi
nhanh như chớp.
6 Vua Ni-ni-vê triệu tập các chiến
binh can trường,
nhưng trên đường chúng bước đi
lảo đảo,
vội vã chạy về phía tường luỹ,
tìm chỗ núp an toàn.
7 Các cửa ngăn sông đều bị mở tung
khiến cung điện sụp đổ.
8 Tượng thần sắc đẹp bị lột đem đi.
Những kẻ phục dịch nó nức nở như
chim câu,
chúng đấm ngực âu sầu.
9 Ni-ni-vê giống như hồ nước bị rò.
"Dừng lại! Dừng lại
ngay!"
Nhưng chẳng ai thèm quay mặt lại.
10 "Hãy cướp bạc, cướp
vàng."
Ðó là một kho tàng vô tận, một
đống của gồm toàn đồ quý.
11 Tất cả đều bị huỷ diệt, tàn phá,
tan hoang,
ai nấy lòng nát tan, gối rụng
rời,
toàn thân run rẩy, mặt mũi tái
xanh.
Bản án cho con sư tử Át-sua
12 Hang sư tử ở đâu, ổ sư tử con ở
chỗ nào?
Ðâu rồi nơi sư tử dẫn con mình
đến mà không phải lo ngại gì?
13 Sư tử xé mồi cho sư tử con, và vồ
mồi cho sư tử cái;
nó chất mồi đầy hang, và ổ nó đầy
những con vật bị cắn xé.
14 Ðây, chính Ta đánh phạt ngươi
- sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo
binh.
Ta sẽ đốt xe trận của ngươi thành
mây khói,
gươm sẽ xâu xé các sư tử con của
ngươi.
Ta sẽ tiêu diệt khỏi xứ sở những
con mồi ngươi đã vồ bắt;
chẳng ai thèm nghe tiếng các sứ
giả của ngươi.
Chương 03
Bản án cho Ni-ni-vê đàng điếm
1 Khốn cho thành vấy máu, toàn mưu
chuyện lừa đảo,
đầy những của cướp giật, chẳng
bao giờ thiếu mồi!
2 Kìa tiếng roi vun vút, tiếng bánh
xe ầm ầm,
vó ngựa phi dồn dập, xe trận nhảy
chồm lên.
3 Kỵ binh xông ra đánh,
gươm vung loang loáng, kiếm bay
lập loè,
thương vong nhiều vô kể, nạn nhân
chất thành đống,
tử thi nằm la liệt, người ta đạp
lên trên.
4 Chính vì bao thói đàng điếm của
con điếm:
duyên dáng xinh đẹp, có phù phép
cao,
nó dùng thói đàng điếm mà bán các
dân tộc,
dùng phù phép mà bán chư dân.
5 Này, chính Ta đánh phạt ngươi
- sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo
binh.
Ta sẽ vén áo ngươi lên tới mặt,
sẽ cho các dân tộc thấy ngươi loã
lồ,
cho các vương quốc thấy nỗi ô
nhục của ngươi.
6 Ta sẽ ném lên ngươi những đồ gớm
ghiếc,
làm cho ngươi bị khinh dể,
khiến ngươi thành trò cười cho
thiên hạ.
7 Bấy giờ, hễ ai nhìn thấy ngươi
cũng đều phải tránh xa và nói:
"Ni-ni-vê đã bị phá tan
hoang! " Ai còn cảm thương nó?
Ta tìm đâu cho ngươi những người
an ủi?
Bài học Nô A-môn
8 Ngươi có hơn gì Nô A-môn,
một thành bên sông Nin, chung
quanh đầy nước,
có nước làm tường, có biển làm
luỹ.
9 Sức mạnh của nó là Cút và Ai-cập,
một sức mạnh vô biên.
Ngươi có Pút và Li-by-a là nguồn
tiếp viện.
10 Thế mà nó vẫn bị đày ải, bị đưa
đi cầm tù;
các con thơ của nó bị vật chết
nơi góc phố đầu đường.
Hàng quý tộc bị đem bốc thăm,
bậc quyền cao phải mang xiềng
xích.
11 Ðến lượt ngươi, ngươi sẽ phải say
mèm, ngã quỵ,
đến lượt ngươi, ngươi sẽ phải tìm
chốn ẩn thân
để xa lánh quân thù.
Ni-ni-vê chuẩn bị, nhưng vô ích
12 Mọi thành trì của ngươi là những
cây vả
đầy những trái đầu mùa.
Khi bị rung, trái cây rụng xuống
rơi ngay vào miệng cho người ta
ăn.
13 Kìa dân quân của ngươi: một lũ
đàn bà trong xứ sở,
cửa ải ngươi đã rộng mở đón quân
thù,
lửa đốt các thanh ngang cửa của
ngươi.
14 Hãy trữ nước phòng lúc bị vây
hãm, hãy củng cố thành trì,
nhào xuống bùn, đạp đất sét, nắm
lấy khuôn đúc gạch!
15 Ngươi sẽ bị lửa thiêu đốt tại
đây,
ngươi sẽ bị gươm tiêu diệt, và
như cào cào, nó sẽ ăn ngươi.
Ngươi cứ tăng số như cào cào,
tăng số như châu chấu!
16a Cứ tăng thêm số thương gia
nhiều hơn các vì sao trên trời.
17 Quân thị vệ của ngươi nhiều như
châu chấu,
thủ lãnh của ngươi nhiều như côn
trùng,
đang đóng trại trên thành luỹ
trong ngày giá lạnh.
Khi mặt trời rực sáng,
16b cào cào cất cánh bay đi.
17c Nó trốn đi và chẳng ai biết
nó ở đâu.
Ðiếu văn
18 Hỡi vua Át-sua, các mục tử của
ngươi đều thiếp đi,
các anh hùng của ngươi ngủ hết
rồi,
dân của ngươi tản lạc trên núi
non
mà chẳng ai tập trung chúng lại.
19 Vết đòn của ngươi không thuốc
chữa lành,
vết trọng thương hết đường cứu
chữa.
Ðược tin ngươi mắc hoạ, mọi người
đều vỗ tay.
Quả thật, có ai không bị ngươi
làm khổ?
Kha-ba-cúc
Chương 01
Tên sách
1 Lời sấm ngôn sứ Kha-ba-cúc đã
nhận được qua thị kiến.
I. Cuộc Ðối Thoại Giữa Ngôn Sứ Và
Thiên Chúa
Lời phàn nàn thứ nhất của ngôn
sứ: Sự công chính suy thoái
2 Cho đến bao giờ, lạy Ðức Chúa,
con kêu cứu mà Ngài chẳng đoái
nghe,
con la lên: "Bạo tàn!"
mà Ngài không cứu vớt?
3 Sao Ngài bắt con phải chứng kiến
tội ác hoài,
còn Ngài cứ đứng nhìn cảnh khổ
đau?
Trước mắt con, toàn là cảnh phá
phách, bạo tàn,
chỗ nào cũng thấy tranh chấp và
cãi cọ.
4 Vì thế, Luật không được tuân giữ,
công lý chẳng còn thấy xuất hiện,
vì kẻ gian ác bủa vây người công
chính
nên chỉ còn thứ công lý vạy vọ.
Sấm ngôn đầu tiên: Dân Can-đê,
một tai hoạ Ðức Chúa gửi đến
5 Hãy đưa mắt nhìn xem các dân tộc,
hãy kinh ngạc sững sờ,
vì chính vào thời các ngươi, Ta
sắp làm một việc,
một việc mà các ngươi sẽ chẳng
tin, nếu có ai kể lại.
6 Này Ta khiến cho dân Can-đê nổi
lên,
một dân hung hăng tàn bạo;
nó rảo khắp miền đất rộng mênh
mông
để chiếm đoạt nhà cửa không phải
của mình.
7 Nó thật là đáng kinh đáng sợ
nó dùng sức mạnh mà áp đặt công
lý và oai phong.
8 Ngựa chiến của nó chạy nhanh hơn
loài báo,
chúng nhanh nhẹn hơn sói ban
chiều;
kỵ mã của nó từ xa phóng tới,
bay nhanh như phượng hoàng lao
xuống bắt mồi.
9 Chúng kéo đến cùng nhau cướp phá,
mặt hầm hầm như thể gió đông,
gom tù binh tựa hồ đống cát.
10 Ðám dân ấy chế nhạo các vua, biến
các thủ lãnh nên trò cười.
Nó coi thường mọi thành trì kiên
cố
và đắp ụ đánh chiếm các thành.
11 Bấy giờ tựa như cơn gió, nó ùa
đến và bay đi.
Tội của nó là coi sức mạnh của
mình như thần như thánh.
Lời phàn nàn thứ hai của ngôn sứ:
Kẻ áp bức đòi tiền hối lộ
12 Từ muôn thuở, Ngài chẳng là Ðức
Chúa,
là Thiên Chúa con thờ, là Ðức
Thánh của con,
là Ðấng Bất Tử sao?
Lạy Ðức Chúa, chính vì để xét xử
mà Ngài đã đặt dân ấy lên.
Lạy Ðức Chúa là đá tảng, chính vì
để thi hành án phạt
mà Ngài đã cho nó được mạnh sức.
13 Mắt của Ngài thật quá tinh tuyền
không thể chịu được điều gian ác,
Ngài không thể nhìn xem cảnh khốn
cùng,
tại sao Ngài cứ đứng nhìn quân
phản bội, sao Ngài lặng thinh
khi kẻ gian ác nuốt trửng người
chính trực hơn mình?
14 Ngài xử với con người như với cá
biển,
như côn trùng không người trông
coi.
15 Nó thả câu bắt hết, tung lưới
chụp lấy tất cả,
nó quăng chài gom lại. Vì thế, nó
hân hoan vui mừng.
16 Nó dâng lễ tế cho lưới, nó đốt
hương kính chài.
Chính nhờ những thứ ấy
nó được những phần ăn béo bở và
lương thực dồi dào.
17 Có phải vì thế nó tuốt gươm không
ngừng tàn sát các dân tộc
chẳng một chút xót thương.
Chương 02
Sấm ngôn thứ hai: Người công
chính sẽ được sống nhờ lòng thành tín
1 Tôi sẽ ra đứng ở chòi canh, đứng
gác trên tường luỹ
canh chừng xem Người nói với tôi
điều gì
và đáp lại nỗi bất bình của tôi
ra sao!
2 Ðức Chúa trả lời và nói với tôi:
"Hãy viết lại thị kiến
và khắc vào tấm bia cho ai nấy
đọc được xuôi chảy.
3 Ðó là một thị kiến sẽ xảy ra vào
thời ấn định.
Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn
thành,
chứ không làm cho ai thất vọng.
Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ,
vì thế nào nó cũng đến, chứ không
trì hoãn đâu.
4 Này đây, ai không có tâm hồn ngay
thẳng sẽ ngã gục,
còn người công chính thì sẽ được
sống,
nhờ lòng thành tín của
mình."
II. Những Lời Chúc Dữ Cho Kẻ Áp
Bức
5 Quả thật, thứ rượu ấy đưa tới
phản bội,
kẻ ngạo mạn ấy chẳng đạt thành
công.
Nó toác họng ra như âm phủ,
nó như thần chết chẳng bao giờ
thoả thuê.
Nó quy tụ mọi dân đến bên cạnh,
tập hợp mọi nước tới quanh mình.
6 Nhưng tất cả các dân đó lại chẳng
ví von châm chọc,
chẳng đặt vè chế nhạo nó sao?
Chúng nói:
Những lời chúc dữ
I
Khốn thay kẻ vơ vét những thứ
không phải của mình
- cho mãi tới khi nao?
Khốn thay kẻ giữ đầy mình của
người ta cầm cố!
7 Nào các kẻ cho ngươi vay mượn
lại chẳng bất thình lình đứng
lên,
các kẻ hối lộ ngươi lại không
tỉnh ngộ?
Bấy giờ ngươi sẽ là món mồi ngon
cho chúng.
8 Bởi vì chính ngươi đã cướp bóc
bao dân tộc,
nên những dân còn lại sẽ cướp bóc
ngươi,
vì ngươi đã đổ máu người đồng
loại,
đã tàn phá thành thị đất đai và
mọi dân cư trong thành.
II
9 Khốn thay kẻ gian tham bớt xén,
chiếm của bất công cho nhà mình,
để làm tổ cho mình trên cao hầu
thoát khỏi tai hoạ.
10 Như thế là ngươi đã quyết định
điều ô nhục cho nhà mình,
ngươi tiêu huỷ nhiều dân nên
thành người đắc tội,
11 vì đá chân tường cũng phải kêu
lên
và đòn tay gỗ sẽ trả lời cho nó.
III
12 Khốn thay kẻ lấy xương máu xây
thành,
lấy bất công dựng phố.
13 Các dân vất vả để làm mồi cho lửa
thiêu,
các nước kiệt quệ mà chẳng được
ích gì,
đó chẳng phải là do Ðức Chúa các
đạo binh sao?
14 Quả thật, sự hiểu biết Ðức Chúa
quang vinh
sẽ tràn ngập cõi đất
cũng như nước lấp đầy lòng biển.
IV
15 Khốn thay kẻ chuốc rượu cho anh
em mình,
kẻ pha chất độc làm cho nó say
sưa, để thấy nó trần truồng.
16 Ngươi đã thấm nhục nhã, chứ không
phải vinh quang.
Ðến lượt ngươi, ngươi phải uống
và để lộ của quý ra.
Ðức Chúa sẽ lại giáng xuống ngươi
chén thịnh nộ,
nỗi ô nhục sẽ thay thế vinh quang
của ngươi.
17 Quả thật, bạo lực ở Li-băng sẽ
bao phủ lấy thân ngươi.
Thấy súc vật bị giết, ngươi sợ
hãi bàng hoàng,
vì ngươi đã làm đổ máu người đồng
loại,
đã tàn phá thành thị đất đai và
dân cư trong thành.
V
18 Tượng tạc có ích lợi gì đâu mà
phải tốn công tạc ra nó?
Tượng đúc và những trò gạt gẫm
ích lợi gì mà người thợ phải tin
để làm ra những tượng câm nín?
19 Khốn thay kẻ nói với khúc gỗ:
"Chỗi dậy đi!"
và nói với hòn đá câm lặng:
"Thức dậy nào!"
Nó có thể dạy được chi? Này, nó
tuy được mạ vàng mạ bạc,
nhưng không một chút sinh khí nơi
mình.
20 Còn Ðức Chúa, Người ngự trong
thánh điện,
toàn thể cõi đất, hãy thinh lặng
trước nhan Người!
Chương 03
III. Cầu Xin Ðức Chúa Can Thiệp
1 Lời cầu nguyện của ngôn sứ
Kha-ba-cúc, theo điệu Ai ca.
2 Lạy Ðức Chúa, con đã nghe truyền
tụng về Ngài,
công trình Ngài, lạy Ðức Chúa,
lòng con kính sợ!
Qua mọi thời, xin cho tái diễn
công trình ấy.
Qua mọi thời, xin làm cho thiên
hạ được tường!
Trong cơn thịnh nộ, xin Ngài nhớ
xót thương.
3 Này Thiên Chúa tự miền Tê-man ngự
giá,
tự núi Pa-ran, kìa Ðức Thánh
quang lâm.
Bóng uy phong rợp chín tầng trời,
câu chúc tụng vang mười phương
đất.
4 Chúa rực rỡ khác nào ánh sáng,
mở đôi tay toả chiếu hào quang,
nơi đó ẩn tàng quyền năng Chúa.
5 Ôn dịch đi mở lối cho Người;
sốt rét theo Người sát gót chân.
6 Người dừng bước, cõi đất liền lảo
đảo,
Người đưa mắt, các dân phải té
nhào;
núi non vạn đại cũng rã tan, gò
nổng thiên thu đều tan chảy:
đó là những con đường xưa kia
Ngài vẫn đi.
7 Con đã thấy lều trại của Cu-san
lâm hoạ,
các nhà bạt của xứ Mít-gian
chuyển rung.
8 Phải chăng Ngài nổi giận với các
sông, lạy Ðức Chúa,
phải chăng Ngài thịnh nộ trừng
phạt các sông
và nổi cơn lôi đình trừng phạt
biển,
khi Ngài thắng yên cương cho
ngựa,
và ngự trên xa mã của Ngài?
9 Ngài tuốt trần cung nỏ, lắp tên vào
dây cung,
xẻ đất thành sông ngòi.
10 Thấy Ngài, núi rùng mình khiếp
sợ,
mây tầng đổ mưa, vực thẳm vang
tiếng gào, và giơ tay lên cao.
11 Mặt trời và mặt trăng đứng nguyên
tại chỗ,
trước mũi tên lấp loáng,
trước ngọn giáo chớp loè Ngài
phóng đi.
12 Trong cơn lôi đình, Ngài rảo cùng
cõi đất;
trong cơn thịnh nộ, Ngài chà đạp
chư dân.
13 Ngài xuất chinh cứu độ dân Ngài,
cứu độ đấng Ngài đã xức dầu tấn
phong.
Ngài đánh quỵ thủ lãnh nòi gian
ác, lật nền nhà cho đá trơ ra.
14 Ngài phóng tên bắn vỡ đầu thủ
lãnh của chúng,
đang khi chúng reo hò, kéo đến
như vũ bão
để đánh đuổi tôi đi như thể sắp
ăn tươi nuốt sống
kẻ khốn cùng trong nơi trú ẩn.
15 Ngài mở lối cho chiến mã của Ngài
vào biển cả,
giữa ba đào cuồn cuộn nước mênh
mông.
16 Chuyện vừa lọt tai, ruột đã rối
bời,
mới nghe điều đó, môi miệng con
run rẩy,
bệnh mục xương đã nhập vào mình,
chân lảo đảo không còn vững bước.
Con bình tĩnh đợi ngày khốn quẫn
chụp xuống đầu dân xông đánh
chúng con.
17 Thật thế, cây vả không còn đâm
bông nữa,
cả vườn nho không được trái nào.
Quả ô-liu, đợi hoài không thấy,
ruộng đồng chẳng đem lại gì ăn.
Bầy chiên dê biến mất khỏi ràn,
ngó vào chuồng, bò bê hết sạch.
18 Nhưng phần tôi, tôi nhảy mừng vì
Ðức Chúa,
hỷ hoan vì Thiên Chúa, Ðấng cứu
độ tôi.
19 Ðức Chúa là Chúa Thượng, làm cho
tôi mạnh sức,
cho đôi chân này lanh lẹ tựa chân
nai,
và dẫn tôi đi trên đỉnh núi cao
vời.
Xô-phô-ni-a
Chương 01
1 Dưới thời Giô-si-gia-hu con vua
A-môn làm vua Giu-đa, có lời Ðức Chúa phán với ông Xô-phô-ni-a, con ông Cu-si;
ông Cu-si là con ông Gơ-đan-gia; ông Gơ-đan-gia là con ông A-mác-gia; ông
A-mác-gia là con ông Khít-ki-gia.
I. Ngày Của Ðức Chúa Tại Giu-Ða
Lời mở đầu liên quan đến vũ trụ
2 Phải, Ta sẽ quét sạch tất cả khỏi
mặt đất này
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
3 Ta sẽ quét sạch loài người cũng
như loài vật,
Ta sẽ quét sạch chim trời lẫn cá
biển.
Ta sẽ khiến cho kẻ gian ác phải
lảo đảo té nhào
và sẽ tận diệt loài người khỏi
mặt đất - sấm ngôn của Ðức Chúa.
Hạch tội thờ các thần ngoại bang
4 Ta sẽ dang tay đánh phạt Giu-đa
và toàn thể dân cư Giê-ru-sa-lem.
Ta sẽ tận diệt khỏi nơi này số
còn sót lại của Ba-an,
và xoá bỏ tên của hàng tư tế bất
hợp pháp.
5 Ta sẽ tận diệt những kẻ leo lên
mái nhà
mà sụp lạy các thiên binh,
những kẻ thờ lạy Ðức Chúa, và
nhân danh Ðức Chúa mà thề,
rồi lại thề nhân danh thần Min-côm.
6 Ta sẽ tận diệt những kẻ lìa xa
Ðức Chúa,
những kẻ chẳng kiếm tìm, cũng
không thỉnh vấn Ðức Chúa.
7 Hãy lặng thinh trước nhan Ðức
Chúa là Chúa Thượng,
vì ngày của Ðức Chúa đã đến gần!
Quả thật, Ðức Chúa đã chuẩn bị
một hy lễ,
Người đã tách riêng ra các khách
được mời.
Hạch tội các quan chức triều đình
8 Trong ngày dâng hy lễ của Ðức
Chúa,
Ta sẽ trừng phạt các thủ lãnh,
các hoàng tử
và những kẻ mặc y phục ngoại
bang.
9 Trong ngày đó, Ta sẽ trừng phạt
tất cả những kẻ nghênh ngang bước
lên ngưỡng cửa
và những kẻ chất đầy cung điện
chúa mình
những của chiếm được nhờ bạo tàn
và gian dối.
Hạch tội những kẻ buôn bán ở
Giê-ru-sa-lem
10 Trong ngày ấy - sấm ngôn của Ðức
Chúa
từ phía cửa Cá vọng lên tiếng
than van,
từ thành mới vang ra tiếng rên
siết,
từ các ngọn đồi văng vẳng tiếng
kêu la.
11 Hỡi dân cư Khu Phố Dưới, hãy rên
siết,
vì đám dân buôn bán đã bị huỷ
diệt,
hết những ai lắm bạc nhiều tiền
đã bị tiêu vong.
Hạch tội những kẻ không tin
12 Trong thời ấy, Ta sẽ cầm đèn mà
lục soát Giê-ru-sa-lem,
Ta sẽ trừng phạt bọn đàn ông,
những kẻ cứ điềm nhiên như rượu
trên lớp cặn.
Chúng tự nhủ trong lòng:
"Ðức Chúa không ban phúc,
Người cũng chẳng giáng hoạ."
13 Bấy giờ, tài sản chúng sẽ bị cướp
phá,
nhà cửa chúng sẽ bị tan hoang;
chúng xây nhà, nhưng không được
ở;
chúng trồng nho, nhưng chẳng được
uống rượu.
Ngày của Ðức Chúa
14 Ðã gần rồi, ngày của Ðức Chúa,
ngày vĩ đại,
đã gần rồi, ngày ấy đến thật mau.
Trong ngày của Ðức Chúa
sẽ vọng lên những tiếng kêu thê
thảm,
ngay bậc anh hùng cũng phải kêu
cứu
15 Ngày đó là ngày thịnh nộ, ngày
khốn quẫn và gian truân,
ngày huỷ diệt và tàn phá, ngày
tối tăm và mịt mù,
ngày âm u và ảm đạm,
16 ngày vang tiếng tù và với tiếng
hét xung phong
tấn công vào các thành kiên cố
và các tháp cao ở góc tường
thành.
17 Dân cư sẽ bị Ta vây hãm, chúng sẽ
bước đi như những kẻ mù
vì đã đắc tội với Ðức Chúa.
Máu chúng sẽ đổ ra chan hoà, và
thịt chúng rữa ra như rác rưởi.
18 Dù bạc hay vàng cũng không cứu
nổi chúng:
trong ngày Ðức Chúa nổi lôi đình,
lúc cơn ghen của Người bừng lên
như lửa;
bấy giờ toàn cõi đất sẽ bị thiêu
rụi.
Quả thật, Người sắp thi hành án
diệt vong
để trừng phạt dân cư toàn cõi
đất, điều ấy thật kinh hoàng.
Chương 02
Kết luận: Kêu gọi trở lại
1 Này hỡi đám dân vô liêm sỉ, hãy
tập họp, tập họp lại đi,
2 trước khi các ngươi bị phân tán
như vỏ trấu bị gió thổi bay trong
một ngày,
trước khi Ðức Chúa bừng bừng nổi
giận
đến trừng phạt các ngươi,
trước khi Ðức Chúa nổi trận lôi
đình
đến trừng phạt các ngươi.
3 Hỡi tất cả những ai nghèo hèn
trong xứ sở,
những kẻ thi hành mệnh lệnh của
Ðức Chúa,
anh em hãy tìm kiếm Người;
hãy tìm sự công chính, hãy tìm
đức khiêm nhường
thì may ra anh em sẽ được che chở
trong ngày thịnh nộ của Ðức Chúa.
II. Hạch Tội Chư Quốc
Kẻ thù ở phương Tây: quân
Phi-li-tinh
4 Quả thật, Ga-da sẽ bị bỏ rơi,
Át-cơ-lôn sẽ thành chốn hoang
tàn,
Át-đốt sẽ bị trục xuất vào giữa
trưa, và Éc-rôn sẽ bị bứng rễ.
5 Khốn cho ngươi, hỡi dân cư miền
ven biển,
khốn cho ngươi, hỡi dân tộc
Cơ-rê-thi:
ngươi sẽ bị lời Ðức Chúa hạch
tội:
"Hỡi Ca-na-an, đất của dân
Phi-li-tinh,
Ta sẽ tận diệt ngươi, khiến chẳng
còn ai cư ngụ.
6 Miền ven biển sẽ thành đồng cỏ,
thành cánh đồng cho người chăn
chiên,
thành bãi quây cho chiên cừu.
7 Miền này sẽ thuộc về số còn sót
lại của nhà Giu-đa;
chúng sẽ dẫn chiên dê tới đó.
Chiều đến, chúng sẽ nằm nghỉ tại
nhà Át-cơ-lôn,
vì Ðức Chúa, Thiên Chúa của
chúng, sẽ viếng thăm
và thay đổi vận mạng của chúng.
Kẻ thù ở phương Ðông: Mô-áp và
Am-mon
8 Ta đã nghe lời nhạo báng của dân
Mô-áp
và những lời nhục mạ của con cái
Am-mon,
chúng nhạo báng dân Ta, và đắc
chí vì lãnh thổ của mình.
9 Vì thế, Ta lấy mạng sống Ta mà
thề
- sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo
binh, Thiên Chúa của Ít-ra-en
Mô-áp sẽ trở nên như Xơ-đôm
và con cái Am-mon sẽ nên như
Gô-mô-ra.
Ðó là một mảnh đất hoang cỏ mọc,
một hầm muối,
một hoang địa cho đến muôn đời.
Số dân còn sót lại của Ta sẽ cướp
phá chúng,
số còn sống sót của dân Ta
sẽ chiếm đất đai chúng làm gia
nghiệp.
10 Ðó là giá chúng phải trả cho sự
kiêu ngạo của mình.
Quả thật, chúng đã nhạo báng
và đắc chí nhạo cười dân của Ðức
Chúa các đạo binh.
11 Ðối với chúng, Ðức Chúa thật đáng
kinh đáng sợ,
Người tiêu diệt tất cả các thần
trên cõi đất.
Các dân tộc trên mọi hải đảo
ngay tại nơi mình ở sẽ sụp lạy
Người.
Kẻ thù ở phương Nam: Cút
12 Cả các ngươi nữa, hỡi dân Cút,
các ngươi sẽ là mồi cho gươm của
Ta.
Kẻ thù ở phương Bắc: Át-sua
13 Ðức Chúa sẽ dang tay đánh phạt
phương Bắc
và tiêu diệt Át-sua;
Người biến Ni-ni-vê thành chốn
hoang tàn,
thành nơi khô cằn như sa mạc.
14 Ðó sẽ là nơi cho đàn vật nằm
nghỉ,
là chỗ qua đêm cho sinh vật mọi
loài:
bồ nông cũng như nhím ngủ trên
đầu cột,
bên cửa sổ vang lên tiếng cú,
trên ngưỡng cửa vang tiếng quạ
kêu;
vì nhà bằng gỗ bá hương nay bị
tàn phá.
15 Ðó sẽ là số phận của thành phố
xưa kia nhộn nhịp,
thành đã sống trong cảnh yên hàn,
đã nhủ thầm: "Chẳng thành
nào sánh được với ta."
Cớ sao thành ấy lại trở nên hoang
tàn,
nên hang động cho loài dã thú?
Bất cứ ai qua lại cũng huýt sáo
vẫy tay.
Chương 03
III. Hạch Tội Giê-Ru-Sa-Lem
Hạch tội các nhà lãnh đạo quốc
gia
1 Khốn cho thành phản loạn và ô uế,
khốn cho thành tàn bạo,
2 không nghe tiếng kêu mời, chẳng
tiếp thu lời sửa dạy,
không cậy trông vào Ðức Chúa,
chẳng đến gần Thiên Chúa của
mình.
3 Trong thành, các thủ lãnh như sư
tử rống,
các thẩm phán như sói ăn đêm
sáng ngày ra chẳng còn gì để gặm.
4 Các ngôn sứ của nó là hạng người
khoác lác ba hoa,
là những quân phản bội;
các tư tế của nó làm ô uế đền thờ
và vi phạm Lề Luật.
5 Nhưng Ðức Chúa vẫn hiện diện
trong thành,
Người là Ðấng công chính, chẳng
làm điều dối gian;
sáng sáng Người ban hành phán
quyết,
tựa bình minh chẳng bao giờ sai
hẹn.
Thế mà kẻ bất chính lại không
biết thẹn thùng.
Bài học của các nước
6 Ta đã quét sạch các dân tộc,
khiến các tháp canh ở góc tường
thành ra hoang tàn đổ nát,
làm cho phố phường của chúng tan
hoang,
chẳng còn ai lui tới, các thành
của chúng bị phá huỷ:
không một bóng người qua, chẳng
còn ai cư ngụ.
7 Ta tự nhủ: "Ít ra
Giê-ru-sa-lem sẽ kính sợ Ta,
sẽ tiếp thu lời Ta sửa dạy,
và nó sẽ không bị phá huỷ mỗi lần
Ta đến viếng thăm."
Nhưng dân thành lại càng ra hư
hỏng
vì mọi việc ngang trái chúng làm.
8 Vì thế, các ngươi hãy đợi Ta -
sấm ngôn của Ðức Chúa
đợi ngày Ta đứng lên làm nhân
chứng cáo tội,
vì Ta đã quyết định tập hợp chư
dân, quy tụ các vương quốc
để trút hết xuống đầu chúng cơn
thịnh nộ của Ta;
toàn cõi đất sẽ bị thiêu rụi
khi cơn ghen của Ta bừng lên như
lửa.
IV. Các Lời Hứa
Các dân tộc trở lại
9 Bấy giờ, Ta sẽ làm cho môi miệng
chư dân nên tinh sạch
để tất cả đều kêu cầu danh Ðức
Chúa
và kề vai sát cánh phụng sự
Người.
10 Từ bên kia sông ngòi xứ Cút,
những kẻ tôn thờ Ta, những kẻ đã
bị Ta phân tán,
sẽ mang lễ vật đến kính dâng Ta.
Thiểu số Ít-ra-en còn sót lại
11 Ngày ấy, ngươi sẽ không còn phải
hổ thẹn
vì mọi hành vi ngang trái chống
lại Ta.
Bấy giờ, Ta sẽ đuổi cho khuất mắt
ngươi
những kẻ kiêu căng đắc thắng,
và ngươi sẽ không còn nghênh ngang
trên núi thánh của Ta nữa.
12 Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một
dân nghèo hèn và bé nhỏ;
chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh
Ðức Chúa.
13 Số dân Ít-ra-en còn sót lại
sẽ không làm chuyện tàn ác bất
công,
cũng không ăn gian nói dối
và miệng lưỡi chúng sẽ không còn
phỉnh gạt.
Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và
nghỉ ngơi
mà không còn bị ai làm cho khiếp
sợ.
Thánh vịnh mời gọi Xi-on vui mừng
14 Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on,
hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en
hỡi!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy
nức lòng phấn khởi.
15 Án lệnh phạt ngươi, Ðức Chúa đã
rút lại,
thù địch của ngươi, Người đã đẩy
lùi xa.
Ðức Vua của Ít-ra-en đang ngự
giữa ngươi, chính là Ðức Chúa.
Sẽ chẳng còn tai ương nào khiến
ngươi phải sợ.
16 Ngày ấy, người ta sẽ bảo
Giê-ru-sa-lem:
"Này Xi-on, đừng sợ, chớ
kinh hãi rụng rời."
17 Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi
đang ngự giữa ngươi,
Người là Vị cứu tinh, là Ðấng anh
hùng.
Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan
hỷ,
sẽ lấy tình thương của Người mà
đổi mới ngươi.
Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng
bừng
18 như trong ngày lễ hội.
Những kẻ tản lạc được hồi hương
Ta đã cất khỏi ngươi tai hoạ
khiến ngươi không còn phải ô nhục
nữa.
19 Này Ta sắp hành động để trừng
phạt mọi kẻ hành hạ ngươi;
- thời ấy - Ta sẽ cứu thoát chiên
bị què, sẽ tập hợp chiên đi lạc.
Ta sẽ cho chúng được danh tiếng
và ngợi khen
tại khắp nơi chúng đã nếm mùi ô
nhục.
20 Thời ấy, Ta sẽ dẫn các ngươi về;
đó sẽ là thời Ta tập hợp các
ngươi lại.
Quả thật, Ta sẽ cho các ngươi
được danh tiếng và ngợi khen
giữa tất cả các dân trên cõi đất,
ngày Ta đổi vận mạng cho các
ngươi,
ngay trước mắt các ngươi. Ðức
Chúa đã phán.
Khác-gai
Chương 01
Tái thiết Ðền Thờ
1 Ngày mồng một tháng sáu năm thứ
hai triều vua Ða-ri-ô, có lời Ðức Chúa phán, qua trung gian ngôn sứ Khác-gai,
với tổng đốc xứ Giu-đa là Dơ-rúp-ba-ven, con ông San-ti-ên, và với thượng tế
Giê-su-a con ông Giơ-hô-xa-đắc, như sau: 2 Ðức Chúa các đạo binh
phán thế này: Dân đó dám nói: "Bây giờ chưa phải là lúc tái thiết Ðền Thờ
kính Ðức Chúa.” 3 Nhưng có lời Ðức Chúa phán, qua trung gian ngôn sứ
Khác-gai, rằng: 4 "Bây giờ có phải là lúc để các ngươi ở trong
các nhà có ghép gỗ đóng trần, còn Ðền Thờ thì lại hoang tàn đổ nát không? 5 Vậy
giờ đây, Ðức Chúa các đạo binh phán thế này: Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ về
lối sống của các ngươi. 6 Các ngươi gieo vãi nhiều, nhưng thu hoạch
chẳng bao nhiêu. Các ngươi ăn mà không đủ no, uống không đủ say, mặc không đủ
ấm. Ðồng lương của người làm thuê lọt qua túi thủng. 7 Ðức Chúa các
đạo binh phán thế này: Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ về lối sống của các
ngươi. 8 Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Ðền Thờ cho Ta. Ta sẽ vui
thích và tỏ vinh quang Ta ở đó, Ðức Chúa phán. 9 Các ngươi mong đợi
nhiều, nhưng mùa màng chẳng được bao nhiêu. Các ngươi có đem được những thứ đó
về nhà, Ta cũng sẽ thổi bay đi hết. Vì sao vậy? Sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo
binh - vì Nhà của Ta vẫn còn tan hoang, trong khi đó các ngươi ai nấy bận rộn
lo cho nhà riêng của mình. 10 Bởi thế, trời đã không nhỏ sương xuống
cho các ngươi và đất cũng không sinh hoa màu. 11 Ta đã khiến cho đất
đai, núi non, lúa mì, rượu mới, dầu tươi và tất cả hoa màu ruộng đất cũng như
người, đàn vật và mọi công trình vất vả phải héo khô cằn cỗi."
12 Bấy giờ, ông Dơ-rúp-ba-ven con
ông San-ti-ên, thượng tế Giê-su-a con ông Giơ-hô-xa-đắc và tất cả những người
còn sót lại trong dân đã vâng nghe tiếng Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, và nghe
lời ngôn sứ Khác-gai theo lệnh Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, đã truyền cho ông.
Dân tỏ ra kính sợ Ðức Chúa. 13 Ông Khác-gai, sứ giả của Ðừc Chúa, đã
nói với dân lời nhắn gửi Ðức Chúa đã uỷ cho ông như sau: "Chính Ta, Ta ở
với các ngươi - sấm ngôn của Ðức Chúa.” 14 Ðức Chúa tác động thần
trí tổng đốc xứ Giu-đa là Dơ-rúp-ba-ven con ông San-ti-ên, và thần trí thượng
tế Giê-su-a, con ông Giơ-hô-xa-đắc, cũng như thần trí tất cả những người còn
sót lại trong dân. Họ đã đến và làm việc trong Ðền Thờ Ðức Chúa các đạo binh,
Thiên Chúa của họ. 15 Ngày hai mươi bốn tháng sáu....
Chương 02
Vinh quang của Ðền Thờ.
Năm thứ hai triều Ða-ri-ô,
1 Tháng bảy ngày hai mươi mốt, có
lời Ðức Chúa phán qua trung gian ngôn sứ Khác-gai rằng: 2 "Ngươi
hãy nói với tổng đốc xứ Giu-đa là Dơ-rúp-ba-ven, con ông San-ti-ên, nói với
thượng tế Giê-su-a, con ông Giơ-hô-xa-đắc và nói với những người còn sót lại
trong dân rằng: 3 Ai trong các ngươi trong số người còn sót lại đã
từng được chứng kiến cảnh rực rỡ vinh quang của Ðền Thờ ban sơ? Và bây giờ các
ngươi thấy Ðền Thờ như thế nào? Trước mắt các ngươi, nó chẳng còn là gì nữa đó
sao? 4 Vậy bây giờ, hỡi Dơ-rúp-ba-ven, hãy mạnh bạo lên! Này thượng tế
Giê-su-a, con ông Giơ-hô-xa-đắc, mạnh bạo lên nào! Toàn dân trong xứ hãy mạnh
bạo lên! Sấm ngôn của Ðức Chúa. Hãy bắt tay vào việc, vì chính Ta ở với các
ngươi. Sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo binh. 5 Chiếu theo lời Ta kết
ước với các ngươi lúc các ngươi ra khỏi Ai-cập, thần khí Ta ở giữa các ngươi;
các ngươi đừng sợ. 6 Quả thật, Ðức Chúa các đạo binh phán thế này:
Chỉ còn một thời gian ngắn nữa thôi, Ta sẽ làm rung chuyển trời đất, biển khơi
và đất liền. 7 Ta sẽ làm cho tất cả các dân tộc phải chấn động và
các kho tàng của các dân tộc sẽ đổ về, rồi Ta sẽ làm cho Ðền Thờ này rực rỡ
vinh quang. Ðức Chúa các đạo binh phán. 8 Bạc là của Ta, vàng là của
Ta - sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo binh. 9 Vinh quang của Ðền Thờ
lúc này sẽ rạng ngời hơn khi trước, Ðức Chúa các đạo binh phán; tại nơi này Ta
sẽ ban tặng bình an - sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo binh."
Hạch hỏi các tư tế
10 Ngày hai mươi bốn tháng chín năm
thứ hai triều Ða-ri-ô, có lời Ðức Chúa phán qua trung gian ngôn sứ Khác-gai
rằng: 11 Ðức Chúa các đạo binh phán thế này: "Ngươi hãy thử hỏi
các tư tế về khoản luật: 12 Giả như có một người lấy vạt áo mình
đựng thịt thánh, rồi vạt áo ấy đụng vào bánh, cháo, rượu, dầu hoặc bất cứ đồ ăn
nào, thì tất cả những thứ đó có thành của thánh không? Các tư tế trả lời rằng:
Không. 13 Ông Khác-gai nói: Nếu một người bị nhiễm uế vì đụng phải
người chết, rồi đụng vào tất cả những thứ đó, thì các thứ đó có bị nhiễm uế
không? Các tư tế trả lời rằng: Nó sẽ bị nhiễm uế. 14 Ông Khác-gai
lên tiếng nói: Trước nhan Ta, dân này cũng thế, nước này cũng vậy - sấm ngôn
của Ðức Chúa - và tất cả các việc tay chúng làm cũng vậy: những gì chúng tiến
dâng ở đây đều nhiễm uế.
Lời hứa cho được mùa
15 Và giờ đây, các ngươi hãy để tâm
suy cho kỹ, kể từ nay trở đi. Từ khi chưa đặt viên đá này trên viên đá kia,
trong Ðền Thờ Ðức Chúa, 16 tình trạng các ngươi thế nào? Người ta
đến một đống thóc ước lượng chừng hai mươi ê-pha mà thực ra chỉ có mười; người
ta đến bồn rượu nho để múc năm mươi ê-pha, mà chỉ được hai mươi. 17 Trong
tất cả công việc do tay các ngươi làm, Ta đã để cho lúa mì ra úa vàng, bị sâu
đục và mưa đá đổ xuống, để trừng phạt các ngươi, nhưng không một người nào
trong các ngươi trở lại với Ta - sấm ngôn của Ðức Chúa. 18 Các ngươi
hãy để tâm suy cho kỹ, kể từ nay trở đi, từ ngày hai mươi bốn tháng chín, từ
ngày đặt nền móng Ðền Thờ của Ðức Chúa. Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ. 19
Kho lẫm không còn hạt giống, cây nho, cây vả, cây lựu, cây ô-liu không
sinh hoa trái phải không? Kể từ nay, Ta sẽ ban phúc lành."
Lời hứa cho Dơ-rúp-ba-ven
20 Ngày hai mươi bốn tháng ấy, có
lời Ðức Chúa phán với ông Khác-gai lần thứ hai rằng: 21 "Ngươi
hãy nói với tổng đốc xứ Giu-đa là Dơ-rúp-ba-ven rằng: Chính Ta sẽ làm rung
chuyển trời đất. 22 Ta sẽ lật đổ ngai vàng các vua chúa và sẽ tiêu
diệt sức mạnh các vương quốc trên trần gian. Ta sẽ lật đổ xe trận cùng người
lái xe, kỵ binh cùng chiến mã sẽ ngã quỵ, người này gục trên gươm người kia. 23
Ngày ấy, - sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo binh - hỡi Dơ-rúp-ba-ven con
San-ti-ên, Ta sẽ chọn ngươi làm tôi tớ của Ta - sấm ngôn của Ðức Chúa -, Ta sẽ
đặt ngươi làm ấn tín, vì Ta đã chọn ngươi - sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo
binh."
Da-ca-ri-a
Chương 01
Phần Thứ Nhất
Khuyên nhủ sám hối
1 Tháng tám năm thứ hai triều
Ða-ri-ô, có lời Ðức Chúa phán với ngôn sứ Da-ca-ri-a, con ông Be-réc-gia - ông
này là con ông Ít-đô - rằng: 2 "Ðức Chúa bừng bừng nổi giận với
cha ông các ngươi. 3 Ngươi hãy bảo chúng: Ðức Chúa các đạo binh phán
thế này: Hãy trở lại với Ta - sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo binh - và Ta sẽ trở
lại với các ngươi, Ðức Chúa các đạo binh phán. 4 Ðừng như cha ông
các ngươi, những người đã được các ngôn sứ thời xưa cảnh cáo: "Ðức Chúa
các đạo binh phán thế này: Hãy từ bỏ lối sống xấu xa và những hành vi gian ác
của các ngươi mà trở lại." Nhưng chúng chẳng nghe, chẳng lưu ý đến Ta -
sấm ngôn của Ðức Chúa -. 5 Cha ông các ngươi bây giờ đang ở đâu?
Liệu các ngôn sứ có sống mãi không?6 Thế nhưng các lời và các thánh chỉ Ta đã
truyền cho các tôi tớ của Ta là các ngôn sứ, lại chẳng theo sát cha ông các
ngươi hay sao? Bấy giờ họ đã trở lại và nói: "Ðức Chúa các đạo binh đã quyết
định xử với chúng tôi căn cứ vào lối sống và hành vi của chúng tôi thế nào, thì
Người đã hành động như vậy."
Thị kiến thứ nhất: các kỵ mã
7 Ngày hai mươi bốn tháng mười một,
tức là tháng Sơ-vát, năm thứ hai triều Ða-ri-ô, có lời Ðức Chúa phán với ngôn
sứ Da-ca-ri-a, con ông Be-réc-gia - ông này là con ông Ít-đô - rằng: 8 Ðang
đêm, tôi đã thấy một thị kiến. Ðây, một người đang cỡi con ngựa màu hung, và
đứng ở giữa những cây sim mọc trong vực thẳm. Ðằng sau người ấy, có những con
ngựa màu hung, màu hồng và màu trắng. 9 Tôi mới hỏi: "Thưa
ngài, những cái đó là gì vậy?" Thần sứ đang nói với tôi trả lời: "Ta
sẽ cho ngươi thấy những cái đó là gì.” 10 Người đang đứng giữa các
cây sim lên tiếng nói: "Ðó là những người Ðức Chúa phái đi ngang dọc toàn
cõi đất.” 11 Bấy giờ, những người ấy lên tiếng trả lời vị thần sứ
của Ðức Chúa đang đứng giữa các cây sim: "Chúng tôi đã đi ngang dọc toàn
cõi đất, và thấy khắp nơi đều an cư lạc nghiệp.” 12 Bấy giờ thần sứ
của Ðức Chúa lên tiếng nói: "Lạy Ðức Chúa các đạo binh, Ngài không thương
Giê-ru-sa-lem và các thành Giu-đa cho đến mãi bao giờ? Ngài thịnh nộ với chúng
nay đã bảy mươi năm!” 13 Ðức Chúa dùng những lời lẽ nhân từ, những
lời lẽ đầy an ủi đáp lại vị thần sứ đang nói với tôi. 14 Bấy giờ, vị
thần sứ đang nói với tôi bảo tôi: "Hãy công bố: Ðức Chúa các đạo binh phán
thế này: "Vì yêu Giê-ru-sa-lem và Xi-on, Ta phát ghen lên dữ dội. 15 Ta
đã bừng bừng nổi giận với các dân tộc tự mãn, vì Ta, Ta chỉ nổi giận trong giây
lát; thế mà các dân tộc ấy lại ùa vào để gây tai hoạ. 16 Vì thế, Ðức
Chúa phán thế này: Ta sẽ trở về Giê-ru-sa-lem mà thương xót nó. Ðền Thờ của Ta
sẽ được xây dựng lại ở đó - sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo binh - và dây đo sẽ
lại được giăng trên Giê-ru-sa-lem. 17 Ngươi còn phải công bố rằng:
Ðức Chúa các đạo binh phán thế này: Các thành của Ta sẽ tràn ngập của cải. Ðức
Chúa sẽ lại an ủi Xi-on và Người lại chọn Giê-ru-sa-lem."
Chương 02
Thị kiến thứ hai: sừng và thợ rèn
1 Tôi ngước mắt nhìn và thấy một
thị kiến. Ðây, có bốn cái sừng. 2 Tôi hỏi vị thần sứ đang nói với
tôi: "Thưa ngài, những cái sừng này là gì vậy?" Người trả lời tôi:
"Ðó là những cái sừng đã làm cho Giu-đa, Ít-ra-en và Giê-ru-sa-lem phải
tan tác.” 3 Rồi Ðức Chúa lại cho tôi thấy bốn người thợ rèn. 4 Tôi
mới hỏi: "Lạy Ðức Chúa, họ đến để làm gì vậy?" Và Người đáp lại rằng:
"Những cái sừng đã làm cho Giu-đa phải tan tác, đến độ không ai cất đầu
lên nổi, còn những người này đến để gây hãi hùng và triệt hạ các sừng của chư
dân đang giương lên húc vào xứ Giu-đa, khiến nó phải tan tác."
Thị kiến thứ ba: người đo
5 Rồi tôi lại ngước mắt nhìn và
thấy một thị kiến. Ðây, có một người, tay cầm dây đo. 6 Tôi hỏi
người ấy: "Ông đi đâu?" Người ấy trả lời: "Ði đo Giê-ru-sa-lem
xem thành ấy rộng bao nhiêu, dài bao nhiêu.” 7 Và đây, vị thần sứ
từng nói với tôi tiến ra và một thần sứ khác tiến lại đón vị thần sứ ấy. 8
Vị trước bảo vị sau: "Hãy chạy đi nói với người thanh niên kia rằng:
Giê-ru-sa-lem phải là một thành rộng mở, sẽ có vô số người và súc vật đến cư
ngụ ở đó. 9 Phần Ta, sấm ngôn của Ðức Chúa, Ta sẽ là tường luỹ bằng
lửa bao quanh nó, và Ta sẽ là vinh quang ở giữa nó."
Hai lời kêu gọi dân lưu đày
10 Này! Này! Hãy trốn khỏi đất
phương bắc,
- sấm ngôn của Ðức Chúa
vì Ta đã phân tán các ngươi đi
bốn phương trời,
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
11 Này hỡi Xi-on, hãy lo cứu lấy mạng,
hỡi ngươi là kẻ đang cư ngụ tại
đất Ba-by-lon.
12 Bởi vì, - sau khi tôi được vinh
quang Chúa sai đến
với các dân tộc đã cướp phá các
người, thì
- Ðức Chúa các đạo binh phán thế
này:
"Kẻ nào động đến các ngươi
là động đến con ngươi mắt Ta.
13 Quả thế, này Ta giơ tay chống lại
chúng,
để chúng trở thành chiến lợi phẩm
cho những kẻ đã phải làm tôi
chúng."
Bấy giờ các người sẽ nhận biết
rằng
Ðức Chúa các đạo binh đã sai tôi
đi.
14 "Hỡi con gái Xi-on, hãy vui
sướng reo hò,
vì này Ta đang đến để ở lại giữa
ngươi,
- sấm ngôn của Ðức Chúa.
15 Ngày ấy, nhiều dân tộc sẽ gắn bó
cùng Ðức Chúa:
Chúng sẽ thành dân thánh của Ta,
và Ta sẽ cư ngụ ở giữa
ngươi."
Bấy giờ, (các) người sẽ nhận biết
rằng
Ðức Chúa các đạo binh đã phái tôi
đến với (các) người.
16 Ðức Chúa sẽ lấy Giu-đa làm cơ
nghiệp,
đó là sở hữu của Người trên Ðất
Thánh
và Người sẽ lại tuyển chọn
Giê-ru-sa-lem.
17 Hỡi mọi xác phàm, hãy lặng thinh
trước nhan Ðức Chúa,
bởi vì Người tỉnh giấc và ra khỏi
Nơi Thánh của Người.
Chương 03
Thị kiến thứ bốn: mặc y phục cho
ông Giê-su-a
1 Người lại cho tôi thấy thượng tế
Giê-su-a đang đứng trước mặt thần sứ của Ðức Chúa; còn Xa-tan đứng bên phải ông
để tố cáo ông. 2 Thần sứ của Ðức Chúa nói với Xa-tan: "Ước gì
Ðức Chúa trừng phạt ngươi, hỡi Xa-tan; ước gì Ðức Chúa, Ðấng đã tuyển chọn
Giê-ru-sa-lem, trừng phạt ngươi, hỡi Xa-tan; ước gì Ðức Chúa, Ðấng đã tuyển
chọn Giê-ru-sa-lem, trừng phạt ngươi. Người này lại chẳng phải là thanh củi đã
được kéo ra khỏi lửa sao?” 3 Bấy giờ, ông Giê-su-a, áo xống dơ bẩn,
đứng trước mặt vị thần sứ. 4a Vị này lên tiếng nói với những người đang đứng
trước mặt mình rằng: "Hãy cởi áo dơ bẩn của ông ấy ra, 4c và mặc cho ông
lễ phục huy hoàng. Hãy đội lên đầu ông ấy mũ tế thanh sạch.” 5 Người
ta đã đội lên đầu ông mũ tế thanh sạch và mặc cho ông áo xống thanh sạch, trong
khi đó thần sứ của Ðức Chúa đứng 4b và nói với ông: "Này, ta đã gỡ tội cho
ngươi.” 6 Rồi thần sứ của Ðức Chúa long trọng tuyên bố với ông
Giê-su-a rằng: 7 "Ðức Chúa các đạo binh phán thế này: Nếu ngươi
sống theo đường lối Ta dạy và tuân giữ mệnh lệnh Ta truyền, thì chính ngươi sẽ
xét xử Nhà của Ta, chính ngươi sẽ canh giữ Tiền Ðình của Ta và Ta sẽ cho ngươi
gia nhập hàng ngũ những kẻ đang đứng đây. 9a Vì này là phiến đá Ta đã đặt trước
mặt Giê-su-a; trên phiến đá độc nhất này, có bảy con mắt; này, chính Ta sẽ khắc
chữ lên đó, - sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo binh."
"Chồi non" xuất hiện
8 "Vậy nghe đây, hỡi thượng tế
Giê-su-a, ngươi cũng như các đồng nghiệp của ngươi đang ở trước mặt Ta - chúng
là một điềm báo -: Vì này, Ta đang cho tôi tớ mệnh danh là "chồi non"
xuất hiện. 9b Ta sẽ cất tội của xứ này đi nội trong một ngày. 10 Ngày
ấy - sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo binh - các ngươi sẽ mời mọc nhau dưới bóng
cây nho, cây vả."
Chương 04
Thị kiến thứ năm: chân đèn và
những cây ô-liu
1 Vị thần sứ đã nói với tôi trở lại
và đánh thức tôi như đánh thức một người đang ngủ. 2 Vị ấy nói với
tôi: "Ngươi thấy gì?" Tôi thưa: "Tôi thấy một trụ đèn toàn bằng
vàng, trên đầu có một phao dầu. Trụ ấy có bảy ngọn đèn và trên các ngọn đèn ở
đầu trụ có bảy tim đèn. 3 Bên cạnh trụ đèn, có hai cây ô-liu, một ở
bên phải phao dầu và một ở bên trái.” 4 Tôi cất tiếng thưa với vị
thần sứ đã nói với tôi: "Thưa ngài, những cái đó có nghĩa là gì?” 5 Thần
sứ đã nói với tôi lên tiếng trả lời: "Chẳng lẽ ngươi không biết những thứ
ấy nghĩa là gì sao?" Tôi thưa: "Không, thưa ngài.” 6a Vị ấy lại nói
với tôi: 10b "Bảy ngọn đèn kia là bảy con mắt của Ðức Chúa, đang rảo khắp
cõi đất.” 11 Bấy giờ tôi lên tiếng hỏi vị ấy: "Thưa ngài, hai
cây ô-liu ở bên phải bên trái trụ đèn ấy có nghĩa là gì?” 12 Một lần
nữa tôi lại lên tiếng hỏi vị ấy: "Thưa ngài, hai cành ô-liu ở bên hai ống
thông dầu bằng vàng, tuôn xuống dầu vàng óng ánh có nghĩa là gì?” 13 Vị
ấy trả lời tôi rằng: "Chẳng lẽ ngươi không biết những thứ ấy nghĩa là gì
sao?" Tôi thưa: "Không, thưa ngài.” 14 Vị ấy bảo: "Ðó
là hai người được xức dầu đứng phục vụ bên Chúa Tể toàn cõi đất."
Ba lời nói liên quan đến ông
Dơ-rúp-ba-ven
6b Ðây là lời của Ðức Chúa liên
quan đến ông Dơ-rúp-ba-ven: Không phải nhờ thế lực, cũng chẳng phải nhờ sức
mạnh mà nó hoàn thành công việc Ta giao phó, nhưng là nhờ thần khí của Ta, Ðức
Chúa các đạo binh phán.
7 Ngươi là ai, hỡi núi lớn kia?
Trước mặt Dơ-rúp-ba-ven, ngươi hãy trở nên đồng bằng. Nó sẽ lấy ra viên đá chóp
đỉnh giữa tiếng reo hò: "Ðẹp! Ðẹp quá!"
8 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
9 Chính tay Dơ-rúp-ba-ven đã đặt nền móng cho Ðền Thờ này và cũng
chính tay nó sẽ hoàn tất. Và các người sẽ nhận biết rằng Ðức Chúa các đạo binh
đã phái tôi đến với các người. 10 Vậy ai dám khinh thường bước khởi
đầu khiêm tốn của công việc này? Người ta sẽ hân hoan khi nhìn thấy viên đá
được tuyển lựa trong tay Dơ-rúp-ba-ven.
Chương 05
Thị kiến thứ sáu: cuốn sách bay
1 Tôi lại ngước mắt nhìn và thấy
một thị kiến. Ðây, có một cuốn sách đang bay. 2 Vị thần sứ đã nói
với tôi lại bảo: "Ngươi thấy gì?" Tôi thưa: "Tôi thấy một cuốn
sách đang bay; cuốn sách dài mười thước, rộng năm thước.” 3 Bấy giờ
người bảo tôi: "Ðây là lời nguyền rủa tuyên ra cho khắp mặt đất. Quả vậy,
theo lời đó, bất cứ ai trộm cắp sẽ bị đuổi ra khỏi đây, và cũng theo lời đó,
bất cứ ai thề gian sẽ bị đuổi ra khỏi đây. 4 Ta đã phán ra lời
nguyền rủa đó - sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo binh - để lời đó đi vào nhà kẻ
trộm cắp và vào nhà đứa nhân danh Ta mà thề gian. Lời đó sẽ ở lại giữa nhà
chúng mà huỷ diệt cả gỗ đá nhà chúng."
Thị kiến thứ bảy: người đàn bà
trong cái thùng
5 Thần sứ đã nói với tôi tiến ra
bảo tôi: "Hãy ngước mắt lên mà xem cái gì đang hiện ra kia.” 6 Tôi
hỏi: "Thưa ngài, cái gì vậy?" Người đáp: "Cái thùng hiện ra
đó." Người nói tiếp: "Ðó là tội lỗi của dân cư toàn xứ này.” 7 Và
này: cái nắp chì được nhắc lên; có một mụ đàn bà đang ngồi trong cái thùng. 8
Người bảo: "Tội ác đó." Rồi thần sứ lại ấn mụ ta vào cái thùng
và lấy tảng chì đậy lên trên. 9 Tôi ngước mắt lên và thấy một thị
kiến. Này, có hai phụ nữ tiến ra, cánh họ tung bay trong gió; họ có cánh như
cánh hạc. Họ nhấc bổng cái thùng lên không trung. 10 Bấy giờ tôi hỏi
vị thần sứ đã nói với tôi: "Họ đem cái thùng đi đâu vậy?” 11 Người
đáp: "Ðem sang đất Sin-a để xây cho nó một ngôi đền, và khi xây xong sẽ
đặt nó ở đó, trên một cái bệ."
Chương 06
Thị kiến thứ tám: chiến xa
1 Tôi lại ngước mắt nhìn và thấy
một thị kiến: Ðây, có bốn chiến xa từ giữa hai quả núi tiến ra; những quả núi
ấy là những quả núi đồng. 2 Xe thứ nhất thắng ngựa hung, xe thứ hai
ngựa ô, 3 xe thứ ba ngựa bạch và xe thứ tư ngựa đốm hùng mạnh. 4
Tôi cất tiếng thưa với vị thần sứ đã nói với tôi: "Thưa ngài, những
cái đó là gì vậy?” 5 Thần sứ lên tiếng trả lời: "Ðó là bốn
luồng gió trời tiến đi sau khi đã trình diện Chúa Tể toàn cõi đất. 6 Xe
thắng ngựa ô tiến về đất bắc, ngựa bạch tiến theo sau; ngựa đốm tiến về đất
nam.” 7 Chúng tiến đi hùng mạnh và mong mỏi rảo khắp cõi đất. Bấy
giờ Người phán: "Hãy rảo khắp cõi đất." Và chúng rảo khắp cõi đất. 8
Người gọi tôi và bảo: "Hãy nhìn những con đang tiến về đất bắc!
Chúng sẽ làm cho Thần Khí Ta được nghỉ ngơi ở đất ấy."
Ðội triều thiên cho ông Giê-su-a
9 Có lời Ðức Chúa phán với tôi rằng:
10 Hãy nhận quà tặng của những người lưu đày, của nhà Khen-đai, nhà
Tô-vi-gia và nhà Giơ-đa-gia. Ngay ngày hôm nay, chính ngươi sẽ đi tới nhà
Giô-si-a, con của Xơ-phan-gia, vừa từ Ba-by-lon trở về. 11 Ngươi hãy
lấy vàng bạc làm một vương miện, rồi đội lên đầu Giê-su-a, con của thượng tế
Giơ-hô-xa-đắc. 12 Ngươi hãy nói với nó rằng: Ðức Chúa các đạo binh
phán thế này. Ðây, một người mệnh danh là "chồi non"; từ nơi nó ở, nó
sẽ đâm chồi. Nó sẽ xây Thánh Ðiện của Ðức Chúa. 13 Chính nó sẽ xây
Thánh Ðiện của Ðức Chúa. Chính nó sẽ mặc lấy oai phong. Nó sẽ ngự trị trên ngai
và nắm quyền thống trị. Sẽ có một tư tế ngồi trên một ngai khác. Cả hai sẽ tỏ
ra rất tâm đầu ý hợp. 14 Còn vương miện thì sẽ được dùng làm kỷ vật
để tưởng nhớ Khê-lem, Tô-vi-gia, Giơ-đa-gia và Khen con của Xơ-phan-gia, trong
Thánh Ðiện của Ðức Chúa. 15 Bấy giờ, những người ở xa sẽ đến xây Thánh
Ðiện của Ðức Chúa. Và các người sẽ nhận biết rằng Ðức Chúa các đạo binh đã sai
tôi đến với các người. Sẽ xảy ra như thế nếu các người thực sự vâng nghe tiếng
Ðức Chúa, Thiên Chúa của các người."
Chương 07
Thắc mắc về việc ăn chay
1 Năm thứ tư triều Ða-ri-ô, ngày
mồng bốn tháng chín, tháng Kít-lêu, có lời Ðức Chúa phán với ông Da-ca-ri-a. 2
Ông Bết Ên đã phái ông Xa-re-xe, ông Re-ghem Me-léc và các người của mình
đến làm cho nét mặt Ðức Chúa dịu lại. 3 Họ đến hỏi các tư tế đang
phục vụ trong Nhà Ðức Chúa các đạo binh và hỏi các ngôn sứ rằng: "Tôi có
được than khóc và ăn chay vào tháng năm như tôi đã làm từ nhiều năm nay
không?"
Trở về với quá khứ của dân tộc
4 Bấy giờ có lời Ðức Chúa các đạo
binh phán với tôi rằng: 5 Hãy nói với toàn dân trong xứ và các tư tế
rằng: "Các ngươi ăn chay và than khóc vào tháng năm và tháng bảy, từ bảy
mươi năm nay, có phải vì Ta, vì chính Ta mà các ngươi ăn chay? 6 Và khi các
ngươi ăn, khi các ngươi uống, nào chẳng phải vì chính mình mà các ngươi ăn, các
ngươi uống hay sao? 7 Ðó chẳng phải là những lời Ðức Chúa kêu gọi qua trung
gian các ngôn sứ thời xưa, khi Giê-ru-sa-lem còn được an cư lạc nghiệp, với các
thành thị bao quanh, cũng như khi Ne-ghép và Sơ-phê-la còn có dân cư ngụ hay
sao? 8 Lại có lời Ðức Chúa phán với ông Da-ca-ri-a rằng: 9 Ðức Chúa
các đạo binh phán thế này: Hãy xét xử thật công minh, hãy lấy lòng nhân ái và
thương xót mà xử sự với nhau. 10 Ðừng áp bức người goá bụa và trẻ mồ
côi, người ngoại kiều và kẻ nghèo hèn, chớ để lòng mưu điều ác hại nhau. 11
Thế nhưng chúng chẳng thèm lưu ý; chúng đã quay lưng phản nghịch; chúng
đã làm cho tai chúng ra nặng để khỏi phải nghe; 12 lòng chúng, chúng
để cho chai cứng như kim cương để khỏi vâng giữ Lề Luật và lời dạy bảo mà Ðức
Chúa các đạo binh đã gửi đến nhờ thần khí của Người, qua trung gian các ngôn sứ
thời xưa. Và chuyện xảy ra là Ðức Chúa các đạo binh đã giáng xuống cơn thịnh nộ
lớn lao. 13 Chuyện còn xảy ra là: Ta đã kêu gọi, mà chúng không nghe
thế nào, thì khi chúng kêu cầu, Ta cũng chẳng thèm nghe như thế. Ðức Chúa các
đạo binh phán. 14 Ta đã cuốn phăng chúng đi đến mọi dân tộc chúng
không biết; đằng sau chúng là một xứ sở hoang tàn, không người qua lại. Chúng
đã biến một xứ xanh tươi màu mỡ nên chốn hoang tàn!"
Chương 08
Viễn ảnh ơn cứu độ thời Ðấng
Mê-si-a
1 Có lời Ðức Chúa các đạo binh phán
như sau:
2 Ðức Chúa các đạo binh phán thế
này.
Vì Xi-on, Ta phát ghen dữ dội, Ta
nổi giận đến tột cùng vì nó.
3 Ðức Chúa phán thế này:
Ta đã trở lại Xi-on, Ta sẽ ngự
lại ở Giê-ru-sa-lem.
Giê-ru-sa-lem sẽ được gọi là
Thành-trung-tín
và núi của Ðức Chúa các đạo binh
là Núi Thánh.
4 Ðức Chúa các đạo binh phán thế
này:
Trên những quảng trường
Giê-ru-sa-lem
các cụ ông cụ bà ra ngồi nghỉ.
Ai nấy tay chống gậy vì tuổi thọ
đã cao.
5 Tại các quảng trường trong thành
phố,
đông đảo thiếu nhi nam nữ tới vui
đùa.
6 Ðức Chúa các đạo binh phán như
sau:
Nếu đó là điều không thể được
đối với số dân còn sót lại -
trong những ngày ấy
thì cũng là điều không thể được
với Ta chăng?
Sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo
binh.
7 Ðức Chúa các đạo binh phán thế
này:
Ta sẽ đưa dân Ta ra khỏi miền đất
phía mặt trời mọc
và miền đất phía mặt trời lặn.
8 Ta sẽ dẫn chúng về, cho cư ngụ ở
giữa Giê-ru-sa-lem.
Chúng sẽ là dân của Ta;
còn Ta, Ta sẽ là Thiên Chúa của
chúng,
sẽ cai trị chúng theo lẽ công
minh chính trực.
9 Ðức Chúa các đạo binh phán thế
này: Hỡi các ngươi là những kẻ trong những ngày này đang nghe lời các ngôn sứ
nói vào lúc đặt móng Ðền Thờ của Ðức Chúa các đạo binh để tái thiết Thánh Ðiện,
các ngươi hãy mạnh bạo lên! 10 Vì trước những ngày ấy, người ta thì không có
lương mà súc vật cũng chẳng có gì; người người qua lại chẳng được bình an, vì
vướng kẻ thù; Ta đã làm cho mọi người xung khắc nhau, người này chống lại người
kia. 11 Nhưng bây giờ đối với số dân còn sót lại, Ta không xử như
những ngày trước nữa, sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo binh. 12 Ðây là
hạt giống bình an: cây nho sẽ cho quả, đất sẽ sinh hoa lợi và trời sẽ đổ sương.
Ta sẽ cho số dân còn sót lại tất cả những thứ ấy làm phần sản nghiệp. 13 Hỡi
nhà Giu-đa và nhà Ít-ra-en, các ngươi đã thành lời nguyền rủa giữa chư dân thế
nào, thì Ta sẽ cứu thoát các ngươi và làm cho các ngươi thành lời chúc phúc như
vậy. Ðừng sợ, cứ mạnh bạo lên.
14 Quả thật, Ðức Chúa các đạo binh
phán như sau: Ta đã quyết định giáng hoạ cho các ngươi thế nào, khi cha ông các
ngươi làm cho Ta nổi giận - Ðức Chúa các đạo binh phán - và Ta đã không hối
tiếc, 15 thì trong những ngày này Ta sẽ nghĩ lại mà giáng phúc cho
Giê-ru-sa-lem và cho nhà Giu-đa như thế. Ðừng sợ!
16 Ðây là những điều các ngươi phải
thi hành: Hãy nói thật với nhau; nơi cổng thành của các ngươi, hãy theo lẽ
thật, lẽ công minh và sự ôn hoà mà xét xử. 17 Chớ để lòng mưu điều
ác hại nhau; đừng ưa chuộng thề gian, vì Ta ghét tất cả những điều đó. Sấm ngôn
của Ðức Chúa.
Trả lời về vấn đề ăn chay
18 Có lời Ðức Chúa các đạo binh phán
với tôi rằng:
19 "Ðức Chúa các đạo binh phán
thế này: Chay tháng tư, chay tháng năm, chay tháng bảy và chay tháng mười sẽ
thành niềm phấn khởi, mối hân hoan và những ngày lễ hội cho nhà Giu-đa. Nhưng
trên hết, hãy yêu chuộng chân lý và bình an."
Viễn ảnh ơn cứu độ thời Ðấng
Mê-si-a
20 Ðức Chúa các đạo binh phán thế
này: Các nước và dân cư trong các thành phố lớn vẫn còn tuôn đến. 21 Dân
thành này sẽ đến thành khác mà nói rằng: "Nào ta cùng đi làm cho nét mặt
Ðức Chúa dịu lại và tìm kiếm Ðức Chúa các đạo binh; cả tôi nữa, tôi cũng đi!” 22
Các dân đông đảo và các nước hùng cường sẽ đến tìm kiếm Ðức Chúa các đạo
binh ở Giê-ru-sa-lem và làm cho nét mặt Ðức Chúa dịu lại.
23 Ðức Chúa các đạo binh phán thế
này: Trong những ngày ấy, mười người đàn ông thuộc mọi ngôn ngữ trong các dân
tộc sẽ níu lấy áo của một người Giu-đa mà nói: "Chúng tôi muốn đi với anh
em, vì chúng tôi đã nghe biết rằng Thiên Chúa ở với anh em."
Chương 09
Phần Thứ Hai
1 Lời sấm.
Ðất mới
Lời Ðức Chúa loan truyền tới đất
Khát-rác,
và chọn Ða-mát làm chốn nghỉ
ngơi,
vì dòng dõi A-ram cũng như mọi
chi tộc Ít-ra-en
đều thuộc về Ðức Chúa.
2 Lời ấy cũng loan truyền tới
Kha-mát, giáp ranh với Ít-ra-en,
tới cả Tia và Xi-đôn là những
thành khôn ngoan có tiếng.
3 Tia đã xây cất pháo đài, thu tích
bạc nhiều như bụi cát,
gom góp vàng nhiều như bùn đất
bên đường.
4 Nhưng này, Chúa sẽ chiếm đoạt
hết.
Người đập tan tường luỹ mà xô
xuống biển,
còn chính thành thì bị lửa thiêu.
5 Nhìn thấy thế, Át-cơ-lôn sợ hãi;
và Ga-da quằn quại đớn đau.
Cả Éc-rôn cũng vậy, vì điều nó
chờ mong đã tan thành mây khói.
Ga-da chẳng còn vua, Át-cơ-lôn
không người cư ngụ,
6 Át-đốt thành nơi ở cho đám con
lai.
Ta sẽ tiêu diệt thói kiêu hãnh
của người Phi-li-tinh,
7 sẽ làm cho miệng nó sạch máu
và lấy khỏi răng nó những thức ăn
ghê tởm.
Nó cũng sẽ thành số còn sót lại
thuộc về Thiên Chúa chúng ta,
sẽ được kể như một thị tộc của
Giu-đa,
và Éc-rôn sẽ được đối xử như
người Giơ-vút.
8 Cạnh nhà của Ta, Ta sẽ đóng trại
canh gác,
đề phòng người qua kẻ lại;
kẻ áp bức sẽ không còn sang đánh chúng
nữa,
vì bây giờ chính Ta để mắt trông
coi.
Ðấng Mê-si-a
9 Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng
hoan hỷ!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy
vui sướng reo hò!
Vì kìa Ðức Vua của ngươi đang đến
với ngươi:
Người là Ðấng Chính Trực, Ðấng
Toàn Thắng,
khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,
một con lừa con vẫn còn theo mẹ.
10 Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi
Ép-ra-im
và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem;
cung nỏ chiến tranh sẽ bị Người
bẻ gãy,
và Người sẽ công bố hoà
bình cho muôn dân.
Người thống trị từ biển này qua
biển nọ,
từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Tái thiết Ít-ra-en
11 Về phần ngươi, vì Ta đã thiết lập
giao ước với ngươi trong máu,
nên những con dân của ngươi đang
bị giam cầm,
Ta sẽ đưa lên khỏi hố cạn.
12 Hãy trở về pháo đài kiên cố,
hỡi những kẻ bị giam cầm mà vẫn
tràn trề hy vọng.
Chính ngày hôm nay, Ta tuyên bố:
Ta sẽ hoàn lại cho ngươi gấp đôi.
13 Vì Ta đã trương Giu-đa làm cung
nỏ, lấy Ép-ra-im làm tên bắn;
hỡi Xi-on, Ta sẽ kích động con
cái ngươi
chống lại con cái Gia-van;
Ta sẽ biến ngươi thành lưỡi gươm
tráng sĩ.
14 Ðức Chúa sẽ xuất hiện trên dân
Người,
mũi tên của Người sẽ phóng đi như
tia chớp.
Ðức Chúa là Chúa Thượng sẽ thổi
tù và,
Người sẽ tiến bước trong gió bão
phương nam.
15 Ðức Chúa các đạo binh sẽ che chở
họ,
khiến họ nghiền nát và chà đạp
những viên đá phóng,
họ sẽ uống máu như uống rượu
và đầy ứ như những chiếc bình
rảy, như các góc bàn thờ.
16 Trong ngày đó,
Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ cứu
thoát dân Người,
như mục tử cứu thoát đàn chiên.
Họ sẽ chiếu sáng trên đất của
Người
như những viên ngọc lấp lánh trên
vương miện.
17 Quả thật, họ hạnh phúc biết bao,
họ xinh đẹp dường nào!
Lúa mì làm cho thanh niên được
nẩy nở
và rượu mới làm cho thiếu nữ được
vui tươi.
Chương 10
Trung thành với Ðức Chúa
1 Hãy cầu xin Ðức Chúa ban mưa vào
lúc cuối mùa.
Chính Ðức Chúa làm cho chớp giật,
Người sẽ ban cho họ mưa rào, cho
ai nấy có cỏ trong đồng nội.
2 Quả thật, các tượng thần chỉ nói
điều gian trá,
lũ thầy bói chỉ thị kiến điều
gian;
chúng công bố những giấc chiêm
bao nhảm nhí,
nói những lời an ủi vu vơ.
Chính vì thế, họ phải ra đi, thảm
não ê chề,
như đàn chiên không người chăn
dắt.
Ít-ra-en được giải phóng và được
trở về
3 Ta sẽ bừng bừng nổi giận đánh
phạt các mục tử,
và sẽ hạch tội các con dê.
Khi Ðức Chúa các đạo binh
viếng thăm đàn chiên của Người là
nhà Giu-đa,
thì bấy giờ, Người sẽ làm cho
chúng
nên như con ngựa chiến oai phong
của Người.
4 Từ nhà Giu-đa, sẽ xuất hiện viên
đá góc;
từ đó, sẽ xuất hiện cái cọc lều;
từ đó, sẽ xuất hiện cây cung
trận;
cũng từ đó, sẽ xuất hiện mọi thủ
lãnh.
5 chúng sẽ nên như những anh hùng,
khi giao chiến chúng sẽ chà đạp
địch quân
như bùn đất ngoài đường.
Chúng sẽ giao tranh, vì Ðức Chúa
ở với chúng,
còn đám người cỡi ngựa sẽ phải
thẹn thùng.
6 Ta sẽ làm cho nhà Giu-đa nên hùng
mạnh,
và sẽ cứu thoát nhà Giu-se.
Ta sẽ đưa chúng trở về vì Ta đã
chạnh lòng thương xót,
như thể chưa bao giờ chúng bị Ta
ruồng bỏ,
vì chính Ta là Ðức Chúa, Thiên
Chúa của chúng,
chính Ta sẽ đáp lời.
7 Ép-ra-im sẽ nên như dũng sĩ,
lòng chúng hớn hở như ngây ngất
men say;
nhìn thấy thế, con cái chúng cũng
hớn hở,
lòng chúng sẽ vui mừng vì Ðức
Chúa.
8 Ta sẽ huýt sáo để tập trung chúng
lại, vì Ta đã cứu chuộc chúng.
Chúng sẽ nên đông đúc như xưa.
9 Ta đã tung chúng vào các nước,
nhưng từ những miền xa xăm, chúng
sẽ nhớ đến Ta.
Tại đó, chúng sẽ dưỡng dục con
cái, rồi sẽ trở về.
10 Ta sẽ đưa chúng về từ đất Ai-cập,
sẽ tập trung chúng lại từ Át-sua;
Ta sẽ dẫn chúng vào đất Ga-la-át
và Li-băng,
thế mà vẫn chưa đủ chỗ cho chúng.
11 Ðức Chúa sẽ băng qua biển Ai-cập,
sẽ đập tan ba đào ngoài biển cả,
khiến mọi chỗ nước sâu trong sông
Nin thành khô cạn.
Bấy giờ niềm kiêu hãnh của Át-sua
bị hạ xuống
và vương trượng của Ai-cập sẽ bị
đẩy xa.
12 Ta sẽ làm cho chúng nên hùng dũng
trong Ðức Chúa,
nhân danh Người, chúng sẽ tiến
đi. Sấm ngôn của Ðức Chúa.
Chương 11
1 Hỡi Li-băng, hãy mở tung các cửa,
lửa sẽ thiêu rụi những cây bá
hương của ngươi!
2 Rú lên đi, hỡi cây trắc bá, vì
cây bá hương đã đổ nhào rồi,
vì những cây to lớn đã bị triệt
hạ.
Rú lên đi, hỡi những cây sồi
Ba-san,
vì khu rừng rậm đã bị tàn phá.
3 Hãy nghe tiếng rú của các mục tử,
vì vẻ huy hoàng của chúng đã tiêu
tan;
hãy nghe tiếng gầm của lũ sư tử
con,
vì niềm kiêu hãnh của Gio-đan đã
bị sụp đổ.
Hai người mục tử
4 Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi,
phán thế này: "Ngươi hãy chăn dắt bầy chiên sắp đem làm thịt. 5 Bầy
chiên đó, những kẻ tậu được đem đi giết mà không nghĩ rằng mình phạm tội; còn
những kẻ bán chúng nói: Chúc tụng Ðức Chúa, tôi đã nên giàu có! Thế mà các mục
tử của chúng chẳng chút xót thương. 6 Quả thật, Ta chẳng còn thương
xót dân cư xứ này nữa, sấm ngôn của Ðức Chúa. Và đây, chính Ta sẽ trao mỗi
người vào tay người lân cận và vào tay vua của nó; những người này sẽ tàn phá
xứ sở, nhưng Ta sẽ chẳng cứu một ai khỏi tay chúng. 7 Thế là tôi trở
thành người chăn dắt bầy chiên mà bọn lái buôn chiên dê tính đem làm thịt. Tôi
lấy hai cây gậy, một cây gọi là "Ân huệ", cây kia là "Liên
kết", và tôi đã chăn dắt bầy chiên. 8 Chỉ trong một tháng, tôi
đã làm cho ba mục tử phải biệt tích. Nhưng chẳng mấy chốc tôi mất kiên nhẫn với
bầy chiên, đồng thời chúng cũng chán tôi. 9 Bấy giờ, tôi nói:
"Ta không chăn không dắt nữa đâu, con nào chết thì chết, con nào mất thì
mất. Con nào còn lại thì cứ ăn thịt lẫn nhau.” 10 Thế rồi tôi lấy
cây gậy "Ân huệ" đem bẻ gãy, để huỷ bỏ giao ước tôi đã ký với muôn
nước. 11 Vậy ngày hôm ấy, giao ước bị huỷ bỏ. Bọn lái buôn chiên dê
quan sát tôi thì nhận ra đó chính là hành động của Ðức Chúa. 12 Bấy
giờ tôi bảo họ: "Nếu các ông cho là phải, thì trả công cho tôi; không thì
thôi vậy." Họ tính công cho tôi là ba mươi đồng bạc. 13 Ðức
Chúa liền phán bảo tôi: "Ném số tiền đó vào kho bạc đi! Chúng đánh giá Ta
chỉ có bấy nhiêu thôi!" Vậy tôi đã đem ba mươi đồng bạc mà quẳng vào kho
bạc Nhà Ðức Chúa. 14 Sau đó tôi bẻ gãy cây gậy thứ hai, cây gậy
"Liên kết" để huỷ bỏ tình huynh đệ giữa Giu-đa và Ít-ra-en.
15 Ðức Chúa lại phán với tôi:
"Hãy sắm sẵn hành trang mà đóng vai người mục tử điên khùng, 16 vì
này, chính Ta sẽ cho xuất hiện trong xứ một mục tử khác. Con chiên nào mất, nó
chẳng quan tâm; con thất lạc, nó chẳng đi tìm; con bị thương, nó không chạy
chữa; con mạnh khoẻ, nó chẳng dưỡng nuôi. Nhưng con nào béo thì chúng ăn thịt,
rồi lóc luôn cả móng.
17 Khốn cho mục tử vô tích sự đã bỏ
mặc đàn chiên.
Gươm sẽ chặt đứt tay, sẽ chọc mắt
phải của nó.
Cánh tay của nó sẽ khô đét, và
mắt phải của nó sẽ mù loà.
Chương 12
Giê-ru-sa-lem được giải thoát và
được đổi mới
1 Lời sấm.
Lời Ðức Chúa phán về Ít-ra-en 2b
cũng như về Giu-đa. Sấm ngôn của Ðức Chúa, Ðấng căng các tầng trời và đặt nền
cho cõi đất, Ðấng ban sinh khí cho người phàm.
2a Ðây chính Ta sẽ biến
Giê-ru-sa-lem thành chén nồng choáng váng cho mọi nước chung quanh. Ðiều đó sẽ
xảy ra khi Giê-ru-sa-lem bị vây hãm.
3 Ngày ấy, Ta sẽ biến Giê-ru-sa-lem
thành quả tạ cho muôn dân nước. Bất cứ ai nhấc nó lên sẽ rách da rách thịt.
Muôn dân trên cõi đất sẽ họp nhau chống lại nó. 4 Ngày ấy, sấm ngôn
của Ðức Chúa, Ta sẽ đánh phạt, khiến ngựa hoá cuồng và người cỡi hoá điên;
nhưng nhà Giu-đa, Ta sẽ đưa mắt nhìn; còn ngựa của mọi dân nước, Ta sẽ đánh
phạt, khiến chúng mù loà. 5 Bấy giờ, các thủ lãnh Giu-đa sẽ nhủ
thầm: "Dân cư Giê-ru-sa-lem được mạnh sức là nhờ Ðức Chúa các đạo binh,
Thiên Chúa của chúng.” 6 Ngày ấy, Ta sẽ làm cho các thủ lãnh Giu-đa
nên như cái lò bốc cháy giữa đống củi, như đuốc cháy giữa đống rơm; chúng sẽ
thiêu rụi mọi dân nước chung quanh, cả hai bên tả hữu. Còn Giê-ru-sa-lem vẫn ở
nguyên tại chỗ. 7 Trước hết, Ðức Chúa sẽ cứu các lều trại của Giu-đa
để vinh quang của nhà Ða-vít cũng như vinh quang của dân cư Giê-ru-sa-lem không
trổi vượt hơn vinh quang của Giu-đa. 8 Ngày ấy, Ðức Chúa sẽ che chở
dân cư Giê-ru-sa-lem; và ngày ấy kẻ yếu sức nhất trong đám dân ấy cũng sẽ nên
như Ða-vít, và nhà Ða-vít sẽ nên như Thiên Chúa, như vị thần sứ của Ðức Chúa
trước mặt đám dân ấy.
9 Ngày ấy, Ta sẽ tìm cách tiêu diệt
mọi dân tộc tiến đánh Giê-ru-sa-lem. 10 Ta sẽ đổ ơn xuống cho nhà
Ða-vít và dân cư Giê-ru-sa-lem, giúp chúng biết sống đẹp lòng Ta và tha thiết
cầu nguyện. Chúng sẽ ngước nhìn lên Ta. Chúng sẽ khóc than Ðấng chúng đã đâm
thâu, như người ta khóc than đứa con một. Chúng sẽ thương tiếc, như người ta
thương tiếc đứa con đầu lòng. 11 Ngày ấy, tiếng khóc than sẽ vang
dội khắp Giê-ru-sa-lem, như người ta than khóc thần Ha-đát Rim-môn ở cánh đồng
Mơ-ghít-đô. 12 Xứ sở sẽ khóc than, riêng từng thị tộc.
Thị tộc nhà Ða-vít riêng,
vợ con của họ cũng riêng.
Thị tộc nhà Na-than riêng,
vợ con của họ cũng riêng.
13 Thị tộc nhà Lê-vi riêng,
vợ con của họ cũng riêng.
Thị tộc nhà Sim-y riêng,
vợ con của họ cũng riêng.
14 Và mọi thị tộc còn lại, riêng
từng thị tộc,
vợ con của họ cũng riêng.
Chương 13
1 Ngày ấy, một dòng suối sẽ vọt ra
cho nhà Ða-vít và dân cư Giê-ru-sa-lem để tẩy trừ tội lỗi và ô uế. 2 Ngày
ấy, - sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo binh -, Ta sẽ tiêu diệt khỏi xứ này tên
tuổi các tượng thần: Người ta sẽ không còn nhắc đến chúng nữa. Cả những ngôn sứ
và những thần ô uế, Ta cũng sẽ trục xuất ra khỏi xứ này. 3 Nếu có ai
còn tuyên sấm, thì cha mẹ nó, những người đã sinh ra nó, sẽ bảo rằng: "Mày
sẽ không được sống, vì mày đã nhân danh Ðức Chúa mà nói điều dối trá." Cha
mẹ nó, những người đã sinh ra nó, sẽ đâm nó khi nó đang tuyên sấm. 4 Ngày
ấy, các ngôn sứ sẽ phải xấu hổ vì thị kiến của họ khi họ tuyên sấm. Họ sẽ không
còn mặc áo choàng bằng lông thú để lừa dối, 5 nhưng sẽ nói:
"Tôi không phải là ngôn sứ, mà chỉ là một người cày ruộng. Quả thật, ngay
từ hồi còn niên thiếu, tôi đã có tài sản đất đai.” 6 Nếu người ta
hỏi nó: "Tại sao anh có những vết thương trên ngực?" Nó sẽ trả lời:
"Ðó là vì tôi bị đánh trong nhà những người thân của tôi."
Nhân cách hoá lưỡi gươm: dân mới
7 Này gươm, hãy đứng dậy mà đánh
mục tử của Ta,
đánh đồng bào của Ta.
Sấm ngôn của Ðức Chúa các đạo
binh.
Hãy đánh mục tử, thì đàn chiên sẽ
tan tác.
Cả những con bé nhỏ, Ta cũng trở
tay đánh phạt.
8 Bấy giờ, trên toàn xứ, - sấm ngôn
của Ðức Chúa -,
hai phần ba sẽ bị huỷ diệt, bị
tiêu vong,
còn một phần ba sẽ được để lại.
9 Ta sẽ đưa một phần ba này qua
lửa,
sẽ luyện chúng như người ta luyện
bạc,
và thử chúng như thử vàng.
Chính chúng sẽ kêu cầu danh Ta,
và Ta, Ta sẽ đáp lời chúng;
Ta sẽ nói: "Chúng là dân của
Ta",
chúng thưa lại: "Ðức Chúa là
Thiên Chúa của chúng tôi."
Chương 14
Cuộc chiến thời cánh chung. Vẻ
huy hoàng của Giê-ru-sa-lem.
1 Này đây, hỡi Giê-ru-sa-lem, sẽ
đến ngày của Ðức Chúa, khi người ta đem chia của cải của ngươi ở giữa ngươi. 2
Ta sẽ tập hợp mọi dân tộc về Giê-ru-sa-lem để giao chiến, thành sẽ thất
thủ, nhà cửa bị cướp phá, phụ nữ bị hãm hiếp; một nửa dân thành sẽ phải đi lưu
đày, nhưng số dân sót lại sẽ không bị đuổi ra khỏi thành. 3 Bấy giờ,
Ðức Chúa sẽ tiến ra và chiến đấu đánh lại các dân tộc ấy như ngày Người chiến
đấu trong thời giao tranh. 4 Ngày ấy, Người sẽ dừng chân trên núi
Ô-liu, đối diện với Giê-ru-sa-lem về phía đông. Núi Ô-liu sẽ chẻ ra ở giữa, từ
đông sang tây, làm thành một thung lũng rộng lớn; một nửa quả núi sẽ lui về
phía bắc và một nửa về phía nam. 5 Các ngươi sẽ chạy trốn qua thung
lũng giữa các núi của Ta, vì thung lũng giữa các núi chạy dài tới A-xan. Các
ngươi sẽ trốn thoát như đã trốn thoát cơn động đất thời Út-di-gia làm vua nước
Giu-đa. Rồi Ðức Chúa, Thiên Chúa của tôi, sẽ đến, cùng với toàn thể các thánh
của Người.
6 Ngày ấy, sẽ chẳng có ánh sáng,
nhưng chỉ có lạnh lẽo và giá buốt. 7 Sẽ chỉ còn là một ngày độc nhất
- duy một Ðức Chúa biết - không còn phân biệt ngày với đêm, ngay lúc hoàng hôn
vẫn có ánh sáng. 8 Ngày ấy, nước mạch sẽ chảy ra từ Giê-ru-sa-lem;
một nửa chảy ra Biển Ðông, một nửa chảy ra Biển Tây: sẽ xảy ra như vậy trong cả
mùa đông lẫn mùa hè. 9 Bấy giờ, Ðức Chúa sẽ là vua cai trị toàn cõi
đất; ngày ấy, Ðức Chúa sẽ là Ðức Chúa duy nhất và Danh Người là Danh duy nhất. 10
Tất cả xứ sẽ nên như đồng bằng, từ Ghe-va tới Rim-môn, phía nam
Giê-ru-sa-lem. Giê-ru-sa-lem sẽ được nhắc lên cao và ở nguyên tại chỗ, từ cổng
Ben-gia-min cho đến tận cổng Xưa, đến tận cổng Góc, và từ tháp Kha-nan-ên cho
đến tận bồn ép nho của nhà vua. 11 Người ta sẽ cư ngụ tại đó, sẽ
không còn án tru hiến nữa và Giê-ru-sa-lem sẽ được sống yên hàn.
12 Và đây sẽ là tai ương Ðức Chúa
giáng xuống mọi dân nước đã dấy binh chống lại Giê-ru-sa-lem. Người sẽ làm cho
thịt chúng rữa ra ngay khi chúng còn đang đứng vững; mắt chúng sẽ rữa trong hốc
mắt và lưỡi chúng sẽ rữa trong miệng. 15 Ngựa, la, lạc đà, lừa và
mọi súc vật trong các trại cũng sẽ gặp phải một tai ương giống như tai ương kia.
13 Ngày ấy Ðức Chúa sẽ gây ra giữa chúng một nỗi hoảng sợ lớn lao;
người này sẽ túm lấy tay người kia và giơ tay đe doạ lẫn nhau. 14 Cả
Giu-đa cũng sẽ đến Giê-ru-sa-lem để chiến đấu, và sẽ thu lấy tài sản của mọi
dân tộc chung quanh: vàng, bạc và vô số y phục.
16 Sau đó, mọi người còn sót lại từ
mọi dân tộc đã tiến đánh Giê-ru-sa-lem, hằng năm sẽ lên thờ lạy Ðức Vua, tức là
Ðức Chúa các đạo binh, và mừng lễ Lều. 17 Thị tộc nào trong các thị
tộc trên cõi đất không lên Giê-ru-sa-lem thờ lạy Ðức Vua, tức là Ðức Chúa các
đạo binh, thì sẽ không có mưa cho chúng. 18 Nếu thị tộc Ai-cập không
lên và không đến thì nó sẽ phải chuốc lấy tai ương mà Ðức Chúa đã giáng xuống
các dân tộc không lên mừng lễ Lều. 19 Ðó sẽ là án phạt dành cho
Ai-cập và án phạt dành cho mọi dân tộc không lên mừng lễ Lều.
20 Ngày ấy trên lục lạc ngựa sẽ có
ghi: "Thánh hiến cho Ðức Chúa" và các nồi niêu trong Nhà Ðức Chúa sẽ
được xem như những chiếc bình rảy ở trước bàn thờ. 21 Mọi nồi niêu ở
Giê-ru-sa-lem và ở Giu-đa sẽ được thánh hiến cho Ðức Chúa các đạo binh. Tất cả
những người dâng hy lễ sẽ đến lấy những nồi niêu đó mà nấu nướng. Ngày ấy, sẽ
không còn lái buôn trong Nhà Ðức Chúa các đạo binh nữa.
Ma-la-khi
Chương 01
1 Lời sấm.
Lời Ðức Chúa phán với Ít-ra-en
qua trung gian ông Ma-la-khi.
Tình thương của Thiên Chúa đối
với Ít-ra-en
2 Ta đã yêu thương các ngươi, Ðức
Chúa phán. - Thế mà các ngươi nói: Ngài yêu thương chúng con ở chỗ nào? - Ê-xau
chẳng phải là anh của Gia-cóp sao? - sấm ngôn của Ðức Chúa. Vậy mà Ta lại yêu
thương Gia-cóp. 3 Còn Ê-xau, Ta đã ghét nó. Ta đã biến núi non của
nó thành chốn bỏ hoang, và gia nghiệp của nó thành nơi cư ngụ cho loài lang sói.
4 Nếu Ê-đôm nói: "Chúng ta đã bị phá huỷ, nhưng chúng ta sẽ tái
thiết từ những đống hoang tàn đổ nát." Ðức Chúa các đạo binh phán thế này:
phần chúng, chúng cứ tái thiết; phần Ta, Ta sẽ phá đổ. Người ta sẽ gọi chúng là
"lãnh thổ của gian ác" và "dân bị Ðức Chúa giáng cơn thịnh nộ
đến muôn đời.” 5 Mắt các ngươi sẽ thấy điều đó và các ngươi sẽ nói:
Ðức Chúa vĩ đại, ở cả bên ngoài lãnh thổ Ít-ra-en.
Cáo tội các tư tế
6 Con phải kính trọng cha; tôi tớ
kính trọng chủ. Vậy nếu Ta là cha, thì đâu là lòng kính trọng Ta? Và nếu Ta là
chủ, thì đâu là niềm kính sợ Ta? Ðức Chúa các đạo binh phán với các ngươi là
những tư tế khinh thường danh Ta. - Nhưng các ngươi nói: "Chúng con khinh
thường danh Ngài ở chỗ nào?" - 7 Khi các ngươi tiến dâng thức ăn ô uế trên
bàn thờ của Ta - các ngươi lại nói: "Chúng con đã làm cho Ngài ra ô uế ở
chỗ nào?" - Khi các ngươi nói: "Chính bàn của Ðức Chúa đáng tởm.” 8
Khi các ngươi tiến dâng một con vật mù để làm lễ tế, đó chẳng phải là xấu
sao? Và khi các ngươi dâng một con vật què hay bệnh tật, đó chẳng phải là xấu
sao? Hãy dâng con vật ấy cho tổng đốc của ngươi, liệu nó có bằng lòng với ngươi
chăng? Hay nó có sẵn sàng đón nhận ngươi không? - Ðức Chúa các đạo binh phán. 9
Vậy giờ đây, các ngươi hãy làm cho nét mặt Thiên Chúa dịu lại để Người đoái
thương chúng ta - chính tay các ngươi làm như thế - liệu Người có sẵn sàng đón
nhận không? - Ðức Chúa các đạo binh phán. 10 Ai trong các ngươi sẽ
đóng cửa lại, để các ngươi khỏi uổng công đốt lửa trên bàn thờ của Ta? Ta chẳng
hài lòng chút nào về các ngươi, - Ðức Chúa các đạo binh phán -, và Ta chẳng ưng
nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng. 11 Quả thật, từ đông sang tây,
Danh Ta thật cao cả giữa chư dân; và ở khắp nơi, người ta dâng lễ hy sinh và lễ
vật tinh tuyền kính Danh Ta, bởi vì Danh Ta thật cao cả giữa chư dân, - Ðức
Chúa các đạo binh phán. 12 Thế mà các ngươi lại làm ô uế Danh Ta,
khi nói: Bàn của Chúa Thượng ô uế và thức ăn của Người đáng ghê tởm. 13 Các
ngươi nói: Thật là phiền! Và các ngươi coi thường Ta, - Ðức Chúa các đạo binh
phán. Các ngươi mang tới của ăn cướp, con vật què hay bệnh tật. Các ngươi đem
dâng lễ vật ấy, liệu Ta có ưng nhận lễ vật từ tay các ngươi tiến dâng chăng? -
Ðức Chúa phán. 14 Thật đáng bị nguyền rủa kẻ xảo quyệt, kẻ có con
vật đực trong đàn mà lại khấn dâng con vật mang tì tích làm lễ tế Chúa Thượng.
Quả thật, chính Ta là Ðức Vua cao cả, - Ðức Chúa các đạo binh phán -, và danh
Ta được kính sợ giữa chư dân.
Chương 02
1 Và giờ đây, hỡi các tư tế, đây là
lệnh truyền dành cho các ngươi: 2 Nếu các ngươi không nghe và không
lưu tâm tôn vinh Danh Ta, - Ðức Chúa các đạo binh phán -, Ta sẽ khiến các ngươi
mắc tai hoạ, Ta sẽ biến phúc lành của các ngươi thành tai hoạ. Phải, Ta biến
phúc lành ấy thành tai hoạ, vì các ngươi chẳng lưu tâm gì cả. 3 Này
Ta hăm doạ dòng dõi các ngươi, Ta sẽ ném phân lên mặt các ngươi - phân trong
các ngày mừng lễ của các ngươi -; người ta sẽ mang các ngươi đi cùng với phân
ấy. 4 Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết rằng Ta gửi lệnh truyền này cho
các ngươi, để giao ước của Ta với Lê-vi tồn tại, - Ðức Chúa các đạo binh phán. 5
Giao ước của Ta với nó là sự sống và sự bình an: Ta đã ban những thứ ấy
cũng như sự kính sợ cho nó. Nó sẽ kính sợ Ta và kinh hãi trước Danh Ta. 6 Miệng
nó nói lời lẽ chân thật và môi nó không nói lời gian ác! Nó đi với Ta trên nẻo
đường bình an và ngay thẳng; nó đã làm cho nhiều người cải tà quy chính. 7
Thật vậy, môi của tư tế chất chứa sự hiểu biết và người ta tìm điều Luật
dạy nơi miệng nó; quả thế, nó là thần sứ của Ðức Chúa các đạo binh. 8 Nhưng
các ngươi, các ngươi đã đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên
đường Luật dạy. Các ngươi đã huỷ hoại giao ước với Lê-vi, - Ðức Chúa các đạo
binh phán. 9 Còn Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi đáng khinh và ra hèn
mạt trước mặt toàn dân, vì các ngươi không tuân giữ đường lối Ta, và hay nể vì
khi áp dụng Luật.
Hôn nhân hỗn hợp và ly dị
10 Tất cả chúng ta chẳng có cùng một
cha sao? Chẳng phải cùng một Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta sao? Thế mà sao
chúng ta lại bội phản nhau mà vi phạm giao ước của cha ông chúng ta? 11 Giu-đa
đã bội phản; ở Ít-ra-en và ở Giu-đa, người ta đã làm điều ghê tởm: quả thật,
Giu-đa đã xúc phạm Thánh Ðiện của Ðức Chúa mà Người hằng yêu mến, và nó đã cưới
con gái của thần ngoại bang. 12 Kẻ nào làm như thế, xin Ðức Chúa
bứng nó khỏi lều Gia-cóp, cả người làm chứng, người bảo trợ cũng như người tiến
dâng lễ vật kính Ðức Chúa các đạo binh. 13 Còn đây là điều thứ hai
các ngươi phải làm là đổ đầy nước mắt lên bàn thờ Ðức Chúa, vừa khóc lóc vừa
rên siết, vì Người không còn đoái nhìn lễ vật, cũng không đoái nhận của lễ tay
các ngươi hiến dâng nữa. 14 Các ngươi nói: Tại sao vậy? Bởi vì Ðức
Chúa là chứng nhân giữa ngươi và người đàn bà ngươi đã cưới trong tuổi thanh
xuân. Chính ngươi đã phản bội nó, mặc dầu nó là bạn đường và là người vợ kết
ước với ngươi. 15 Người đã chẳng làm nên một hữu thể duy nhất có xác
thịt và thần khí đó sao? Vậy hữu thể duy nhất này tìm cái gì? Một dòng dõi của
Thiên Chúa. Các ngươi hãy coi chừng và chớ phản bội người đàn bà ngươi đã cưới
trong tuổi thanh xuân. 16 Quả thật, Ta ghét việc rẫy vợ, - Ðức Chúa,
Thiên Chúa Ít-ra-en phán -, và kẻ lấy thói bạo tàn làm áo che thân, - Ðức Chúa
các đạo binh phán. Hãy coi chừng và chớ phản bội.
Ngày của Ðức Chúa
17 Các ngươi đã làm mệt Ðức Chúa vì
những lời nói của các ngươi. Các ngươi nói: "Chúng tôi làm mệt Người ở chỗ
nào?" Chính khi các ngươi nói: Ai làm điều dữ cũng đều tốt trước mặt Ðức
Chúa. Chính Người lấy làm vui thích ở giữa chúng. Các ngươi lại còn nói:
"Thiên Chúa, Ðấng xét xử, Người ở đâu?"
Chương 03
1 Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn
đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào
Thánh Ðiện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang
đến, - Ðức Chúa các đạo binh phán. 2 Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai
đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim, như
thuốc tẩy của thợ giặt. 3 Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người
sẽ thanh tẩy con cái Lê-vi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc. Bấy giờ, đối
với Ðức Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công chính. 4 Lễ
vật của Giu-đa và của Giê-ru-sa-lem sẽ làm đẹp lòng Ðức Chúa như những ngày xa
xưa, như những năm thuở trước. 5 Ta sẽ tới gần các ngươi mà xét xử;
Ta sẽ mau mắn làm chứng chống lại các tên phù thuỷ, các kẻ ngoại tình, bọn thề
gian cũng như quân bóc lột người làm công và cô nhi quả phụ; chống lại kẻ áp
bức ngoại kiều cùng những kẻ chẳng kính sợ Ta, - Ðức Chúa các đạo binh phán.
Nộp thuế thập phân cho Ðền Thờ
6 Quả thật, chính Ta là Ðức Chúa,
Ta không hề thay đổi; còn các ngươi là con cái Gia-cóp, các ngươi vẫn là thế. 7
Từ thời cha ông các ngươi, các ngươi đã trệch xa và không tuân hành các
chỉ thị của Ta. Hãy trở lại với Ta và Ta sẽ quay lại với các ngươi. - Ðức Chúa
các đạo binh phán. Các ngươi nói: "Chúng tôi sẽ trở lại thế nào?" - 8
Người phàm có được phép lường gạt Thiên Chúa không? Vậy mà các ngươi đã lường
gạt Ta. - Các ngươi nói: "Chúng tôi lường gạt Ngài ở chỗ nào?" - Về
thuế thập phân và phần trích dâng. 9 Chính các ngươi đang mắc tai
hoạ, thế mà các ngươi lại lường gạt Ta, các ngươi và toàn dân. 10 Các
ngươi hãy đem tất cả thuế thập phân vào nhà kho, để có lương thực trong Nhà Ta.
Hãy làm thế thử xem Ta có mở cổng trời cho các ngươi, hoặc có tuôn đổ phúc lành
dư dật xuống trên các ngươi không? - Ðức Chúa các đạo binh phán. 11 Vì
các ngươi, Ta đã ngăn cản không cho cào cào phá hoại hoa màu ruộng đất của các
ngươi, không để cho nho ngoài đồng không sinh trái, - Ðức Chúa các đạo binh
phán. 12 Mọi dân tộc sẽ khen các ngươi có phúc, vì các ngươi sẽ là
mảnh đất xinh đẹp, - Ðức Chúa các đạo binh phán.
Người công chính khải hoàn trong
ngày Ðức Chúa
13 Các ngươi ăn nói cứng cỏi chống
lại Ta - Ðức Chúa phán - thế mà các ngươi lại bảo: "Chúng tôi có nói gì
chống lại Ngài đâu?” 14 Các ngươi nói: "Phụng thờ Thiên Chúa
thật là viển vông, tuân giữ các lệnh truyền của Ðức Chúa và bước đi ủ rũ trước
nhan Người, nào ích lợi chi? 15 Giờ đây chúng tôi cho những kẻ kiêu ngạo là có
phúc; phải, những kẻ làm điều ác được thịnh đạt, họ thử thách Thiên Chúa mà
chẳng hề hấn gì.” 16 Bấy giờ những người kính sợ Ðức Chúa sẽ nói với
nhau: Ðức Chúa đã để ý và Người đã nghe: một cuốn sổ được viết trước nhan
Người, ghi tên những kẻ kính sợ Ðức Chúa và tôn kính Danh Người. 17 Vào
ngày Ta hành động, chúng sẽ thuộc về Ta như sở hữu riêng, - Ðức Chúa các đạo
binh phán, Ta sẽ xót thương chúng như người cha xót thương đứa con phụng dưỡng
mình. 18 Bấy giờ, các ngươi sẽ lại phân biệt được người công chính
với kẻ gian ác, kẻ phụng thờ Thiên Chúa với kẻ không phụng thờ Người. 19 Vì
này Ngày ấy đến, đốt cháy như hoả lò. Mọi kẻ kiêu ngạo và mọi kẻ làm điều gian
ác sẽ như rơm rạ. Ngày ấy đến sẽ thiêu rụi chúng - Ðức Chúa các đạo binh phán -
không còn chừa lại cho chúng một rễ hay cành nào. 20 Nhưng đối với
các ngươi là những kẻ kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang
theo các tia sáng chữa lành bệnh. Các ngươi sẽ đi ra và nhảy chồm lên như bê
xổng chuồng. 21 Các ngươi sẽ chà đạp những kẻ gian ác, vì chúng sẽ
như bụi đất dưới bàn chân các ngươi vào ngày Ta hành động, - Ðức Chúa các đạo
binh phán.
Phụ thêm
22 Các ngươi hãy ghi nhớ Luật Mô-sê,
tôi trung của Ta. Trên núi Khô-rếp, Ta đã truyền cho nó các chỉ thị và phán
quyết để toàn thể Ít-ra-en thi hành.
23 Này Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với
các ngươi, trước khi Ngày của ÐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng. 24
Nó sẽ đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu và đưa tâm hồn con cháu
trở lại với cha ông, kẻo khi Ta đến, Ta sẽ đánh phạt xứ sở đã bị án tru diệt.